Xem bài viết đơn
  #197  
Old 21-05-2008, 02:17 PM
Memory
Guest
 
Bài gởi: n/a
Thời gian online:
Dưới Bóng Cây Vạn Tuế
Tác giả: Xuân Thu


Còn hơn chục ngày nữa mới đến Hội Đền Hùng. Thảo, con gái tôi nũng nịu:

- Mẹ ơi! Năm nay nhân tiện mẹ con mình cùng ở Việt Trì, ngày mai chủ nhật, mẹ đưa con đi thăm Đền Hùng nhé! Con chưa biết Đền Hùng thế nào cả.

- ừ! mai mẹ cũng được nghỉ, mẹ sẽ đưa con đi.

- Ôi! Thế thì vui quá! - Nó reo lên và rúc đầu vào nách tôi.Thảo là con gái đầu của tôi. Cháu đang học lớp 10 văn tại trường chuyên Hùng Vương của tỉnh. Đợt này, tôi đang tập huấn nghiệp vụ ở Việt Trì. Hai mẹ con tôi có điều kiện bên nhau. Những ngày đầu xa Thảo, tôi nhớ nó lắm. Nhiều đêm trở mình, tôi thương nó đến phát khóc. Ngần ấy tuổi đầu đã phải xa mẹ, xa nhà, sống tự lập. Tôi lo hoài không biết nó có chịu được không? Thế rồi mãi cũng thành quen. Đợt này đi công tác, gặp cháu, tôi thấy nó chững chạc hẳn ra.

* * *

Nhận lời con gái xong, tôi nằm thao thức mãi. Đền Hùng, nơi ấy là kỷ niệm của mối tình đầu của tôi. Nhắc đến Đền Hùng là tim tôi lại nhói lên những kỷ niệm da diết ngọt ngào. Cứ mỗi lần đi công tác, qua ngã ba Đền Hùng, tôi không thể nào quên được nơi gặp gỡ, hẹn hò với một người con trai có tên là Tuấn. Mặc dù quê tôi mãi ở Đoan Hùng nhưng tình yêu đầu đời của tôi lại ở Thậm Thình dưới chân núi Nghĩa Lĩnh.

Ngày đó, cách đây dễ đến hơn hai mươi năm, tôi là một cô gái trông cũng xinh xắn của khối lớp 10, lớp cuối cấp 3 trường huyện. Tôi cảm nhận được điều này là do thấy khá nhiều chàng trai theo đuổi tôi, trong số đó có Tuấn. Tuấn cao ráo, đẹp trai lại học giỏi. Phải mỗi tội là Tuấn ít nói lắm. trông Tuấn hiền khô. Cặp mắt Tuấn ẩn chứa bao điều muốn nói. Cứ cách ngày, trong hộp bàn học của tôi lại có một lá thư của Tuấn. Những vần thơ tuổi học trò trong trắng, mộng mơ. Hồi ấy, tôi vô tư lự lắm. Vô tư lự đến dửng dưng vậy. Chẳng bao giờ tôi thư lại cho Tuấn cả. Đã thế, Tuấn càng theo sát tôi hơn. Thư Tuấn viết cho tôi càng nồng nàn hơn. Thi tốt nghiệp xong, Tuấn nhập ngũ. Hôm chia tay Tuấn, tôi mới giật mình, thương Tuấn quá. Phải chăng tình cảm con người chính lúc xa nhau mới càng bộc lộ rõ, kể cả lòng mình? Tôi vội vã tìm Tuấn, tặng Tuấn một cuốn sổ tay. Tôi cũng chưa nói lời yêu với Tuấn. Tuấn xiết chặt tay tôi, lặng lẽ lên đường.

Tôi thi trượt đại học. Bố tôi quyết định cho tôi đi học trường nghiệp vụ ngân hàng tỉnh. Trường này đóng ở xã Kim Đức, gần Đền Hùng. Tôi tiếp tục con đường học hành. Những ngày xa quê, tôi mới có dịp nhìn lại mình, nhớ tới bè bạn. Những lá thư của Tuấn tôi còn giữ đủ cả. Bây giờ chính đó lại là nguồn động viên chủ yếu của tôi. Thế rồi chúng tôi gặp nhau. Đơn vị của Tuấn đóng quân ngay dưới chân núi Hùng. Đó là trung đoàn Phong Châu của tỉnh. Chủ nhật nào cũng thế, Tuấn đến trường tìm tôi. Vừa là đồng hương, bạn học cũ, vừa sẵn tình cảm thầm kín từ thuở cấp 3, chúng tôi quấn quít bên nhau. Con đường dưới chân núi Nghĩa Lĩnh, cánh rừng thông, đồi bạch đàn nơi ấy đã chứng kiến bao buổi hẹn hò của chúng tôi. Những ngày chủ nhật, cả tôi và Tuấn đều rảnh rỗi. Tuấn dắt tay tôi leo núi. Càng lên cao, tôi càng choáng ngợp bởi phong cảnh nên thơ của quê hương Đất Tổ. Tôi thả rộng tầm mắt ngắm nhìn sông, núi, trời, mây... Xa tít về phía đông nam kia là dãy Tam Đảo. Chếch về phía tây là đỉnh Ba Vì. Hai dãy núi như hai cánh cửa giữ cho núi Hùng gối sơn đạp thuỷ. Xung quanh chỗ chúng tôi đứng còn có bao nhiêu là ngọn đồi nhấp nhô trùng điệp. Tất cả đều quay hướng về đây. Các cụ bảo rằng có 99 ngọn đồi như thế. Đó là 99 con voi quay chầu mộ Tổ. Và kia, sông Hồng, sông Lô như hai dải lụa bao bọc uốn quanh, gặp nhau ở Việt Trì để làm nên một thành phố công nghiệp ngã ba sông Đầy mơ mộng. Gần hơn nữa dưới nắng thu là những tàu cọ vươn cao lấp loáng. Chúng tôi say sưa nhìn ngắm. Lần nào cũng thế, sau khi dắt nhau đi thăm hết các đền, leo rừng ngắm cảnh, hai đứa tôi lại về nghỉ dưới bóng cây vạn tuế nơi Đền Hạ. Tại đây, chúng tôi đã kể cho nhau nghe bao điều hằng ấp ủ. Chính gốc cây vạn tuế ấy đã chứng kiến những lời yêu thương thắm thiết của tôi và Tuấn. Chiếc nhẫn bằng nhôm khắc hai chữ TX mà Tuấn trao tôi, giờ tôi vẫn còn giữ. Tôi nhớ như in câu Tuấn nói với tôi hôm trao chiếc nhẫn đó: "Anh yêu em, Xuân ơi! Nhất định chúng mình sẽ sống bên nhau trọn đời em nhé!". Tôi hồi hộp sung sướng, lặng nhìn Tuấn, khẽ gật đầu. Và chính cây vạn tuế ấy đã chứng kiến nụ hôn đầu đời của chúng tôi.

Thế rồi Tuấn có lệnh đi chiến đấu. Dạo đó chiến tranh biên giới phía tây nam ác liệt lắm. Tuấn không kịp chia tay với tôi, chỉ để lại cho tôi một lá thư và một bài thơ đau đáu hẹn về. Từ đó tôi bặt tin Tuấn. Gần một năm sau, tôi về quê thì nhận được tin Tuấn đã hy sinh tại chiến trường đất bạn. Tôi như quỵ xuống. Đôi mắt tôi vô hồn gọi mãi tên anh. Mấy ngày ở quê, tôi không rời mẹ Tuấn nửa bước. Lưng mẹ đã còng giờ lại càng còng hơn. Mẹ cũng linh cảm được mối tình của tôi và Tuấn. Mẹ như câm lặng trước bàn thờ đứa con trai yêu quý của mình. Lòng tôi xót xa. Anh Tuấn ơi! Sao anh nỡ vội bỏ mẹ và bỏ em mà đi thế! Tôi như kẻ mất hồn, chẳng thiết gì nữa. Bố mẹ tôi khuyên bảo mãi tôi mới trở lại trường. Trời ơi! Mối tình đầu của tôi! Và rồi thời gian cũng khoả lấp, nguôi ngoai vết thương lòng đau đớn ấy. Tôi đã cố gắng vượt lên. Tốt nghiệp ra trường, tôi được phân về huyện nhà công tác. Đã có bao người mối lái dạm hỏi tôi, tôi đều từ chối. Hình ảnh Tuấn vẫn in đậm mãi trong tôi. Đến năm 25 tuổi, bố mẹ tôi thúc ép quá, hơn nữa gặp được người tâm đầu ý hợp, tôi đã đi lấy chồng. Chồng tôi cũng công tác tại huyện. Một năm sau đó, bé Thảo của tôi ra đời. Chúng tôi chuyển nhà ra phố huyện ở. Cuộc sống gia đình tôi khá hạnh phúc. Không ai hay biết gì về mối tình đầu của tôi và Tuấn.

Một thời gian sau, Tuấn đột ngột trở về. Mặt Tuấn đầy sẹo nhằng nhịt. Một chân Tuấn bị cụt đến tận háng, phải chống nạng để đi. Cả làng tôi xôn xao khi được tin đó. Tôi bàng hoàng không dám nghĩ đó là sự thật. Tôi tức tốc về quê. Nhà Tuấn vui như mở hội. Tôi len qua mọi người để vào gặp Tuấn. Ngực tôi rung lên. Tôi cố giữ bình tĩnh. Đến nơi, tôi không nhận ra Tuấn nữa. Chỉ có đôi mắt của anh, vâng, chỉ có đôi mắt của anh là vẫn nguyên của tôi ngày đó. Tôi sững lại giây lát rồi giữa bao người như thế, tôi lao đến bên anh: Anh Tuấn! Rồi tôi oà khóc. Mẹ Tuấn đỡ tôi dậy. Tôi càng khóc to hơn. Tuấn vỗ về: "Xuân ơi! Chuyện dài lắm! Rồi anh sẽ kể em nghe!". Tôi không chịu được nữa. Hình như nỗi tủi thân, trách cứ và thương Tuấn được dịp trào ra. Tôi gào lên: Anh Tuấn!...

Sau cái hôm Tuấn về, chúng tôi có một buổi dành riêng cho nhau. Tuấn kể cho tôi nghe về việc Tuấn bị "hy sinh" ở mặt trận. Đó là vào năm 1977, đơn vị Tuấn được lệnh đánh vào sào huyệt của bọn Pôn Pốt. Chiến sự ác liệt. Tuấn bị lạc đơn vị và lĩnh trọn một trái pháo. Khi tỉnh lại thì đã thấy mình ở trong một ngôi chùa cổ kính, thấp thoáng bóng các nhà sư đi lại. Họ đang tập trung cứu chữa cho Tuấn. Rồi chẳng biết họ chuyển Tuấn đi đâu nữa cả. Mãi đến năm 1979, giải phóng Phnôm Pênh xong, Tuấn được một đơn vị của ta tiếp nhận và chuyển Tuấn đi an dưỡng. Tuấn ra Bắc về trại điều đưỡng thương binh nặng ở Nam Hà. Được ít ngày thì hay tin Xuân đã lấy chồng và có bé Thảo. Tuấn vừa buồn lại vừa mừng. Đắn đo mãi, Tuấn mới quyết định về quê. Định bụng sẽ ở hẳn trại không về nhà nữa, sau rồi nghĩ tới bố mẹ già nua ngày đêm ở nhà khói hương cho Tuấn, Tuấn không cầm lòng được.

Tôi nghe Tuấn kể mà lệ cứ rưng rưng: Em có lỗi với anh. Tha lỗi cho em anh Tuấn nhé! Cầm tay tôi, thấy ngón tay tôi vẫn đeo chiếc nhẫn mà Tuấn tặng tôi ngày nào, Tuấn khẽ nói: "Em không có lỗi gì cả. Anh mừng cho em và chúc em hạnh phúc". Tuấn ở nhà chơi ít ngày, sau đó lại trở về trại điều dưỡng.

* * *

Ngày mai tôi sẽ đưa Thảo đi thăm Đền Hùng, tôi sẽ tìm lại kỷ niệm xưa với Tuấn ở bên gốc cây vạn tuế đầy thương nhớ ấy.

Sáng dậy, hai mẹ con tôi háo hức lên đường. Tám giờ sáng, chúng tôi đã đến cổng Đền. Cuối tháng hai, chuẩn bị cho Hội đã thấy nhiều hàng quán dựng lên hai ven đường. Mấy đứa trẻ bán hương nhao nhao gặp tôi mời mua hương. Tôi gọi một đứa bé nhất trong bọn mua chục thẻ hương và hỏi nó:

- Từ sáng đến giờ có ai lên đền chưa cháu?

Nó nhanh nhảu đáp:

- Dạ. Có rồi ạ. Một chú thương binh cụt chân chống nạng lên được một lúc lâu rồi ạ. Chú ấy đi có vẻ khó nhọc lắm. Mấy bạn lớp cháu phải dìu chú ấy đấy.

Tôi giật mình thoáng nghĩ: Hay là Tuấn? Có phải anh không đấy? Sao anh lại đi một mình? Đứa bé còn nói thêm là năm ngoái, năm kia năm nào cũng thế, chú ấy đều đi đền sớm nhất. Chú ấy bảo: đi sớm cho khỏi phải chen người, chứ nếu đi chính Hội thì chú có một chân làm sao mà chen nổi.

Tôi đưa Thảo vào thắp hương từng đền một. Con bé ngơ ngẩn trước cảnh vạn nhiên hùng vĩ và uy nghi nơi đây. Do buổi sớm và chưa phải là ngày chính Hội nên khách thăm chỉ rải rác ít người. Chúng tôi có điều kiện thong thả ngắm cảnh. Thắp hương xong, như một thói quen định sẵn, tôi dắt Thảo tìm đến cây vạn tuế. Khi cách gốc cây vạn tuế chừng mươi mét, tôi thấy một đám trẻ bán hương đang xúm xít quanh một người nghe kể chuyện. Tôi ra hiệu cho Thảo im lặng lại gần. Trước mắt tôi đúng là Tuấn. Mắt tôi nhoà đi. Chân tôi như chết cứng tại chỗ. Không ngờ lại gặp anh ở đây. Tôi lặng yên nghe Tuấn đang kể chuyện cho lũ trẻ. Tuấn say sưa kể lại những kỷ niệm của mình dưới gốc cây vạn tuế này và những trận đánh quân xâm lấn, bảo vệ biên cương Tổ quốc. Gương mặt Tuấn rạng rỡ. Có lẽ Tuấn rất vui khi nhớ về những năm tháng oanh liệt đó. Mấy đứa trẻ tròn xoe mắt ngồi nghe quên cả việc bán hương.

Dáng chừng đợi mẹ lâu quá, Thảo lắc mạnh tay tôi:

- Mẹ! Chúng mình xuống thăm Đền Giếng chứ?

Tôi choàng tỉnh. Cả mấy chú cháu phía Tuấn cũng đột ngột quay lại. Tuấn nhận ra tôi. Không kìm được lòng mình nữa, tôi lao về phía Tuấn. Lũ trẻ ngơ ngác. Một cơn gió bất ngờ thổi đến. Tán lá trên ngọn cây vạn tuế rì rào. Mãi sau, Tuấn mới lúng túng gỡ tay tôi. Sau khi chúng tôi giới thiệu nhau cho bọn trẻ, tất cả cùng cười vui. Thì ra năm nào cũng vậy, Tuấn đều trốn trại điều đưỡng để về với Hội. Bọn trẻ ở đây đã quen anh. Với anh, cây vạn tuế này là kỷ niệm vạn liêng của cuộc đời.
Tài sản của Memory

Trả Lời Với Trích Dẫn