Tất cả các sử gia đều nhất trí cho rằng Hoàng đế Harun An Rasit là nhà vua hoàn hảo nhất thời đại ông, tiếc một điều do vua nắm trong tay quyền lực hùng cường đệ nhất thời bấy giờ, cho nên sinh thói quen dễ nổi cơn thịnh nộ và tính tình kiêu căng không ai chịu đựng nổi. Lúc nào ông cũng một mực cho rằng trên đời này chẳng có vị quân vương nào hào phóng bằng mình.
Giapha, tể tướng sủng ái của vua, không chịu được chuyện hoàng đế cứ tự mình khoe khoang như vậy, một hôm bạo gan thưa với người như sau:
- Muôn tâu hoàng thượng, vị chủ nhân của tôi, đấng chủ soái của toàn trần thế, xin cho phép kẻ nô lệ này được mạo muội thưa với ngài rằng ngài không nên quá tự ngợi khen mình như vậy. Hãy nhường những lời ngợi ca ấy cho thần dân của ngài cũng như cho biết bao người nước ngoài đang chầu chực trong triều đình ngài. Ngài hãy hạ cố để cho thần dân cảm tạ Thượng đế đã sinh ra họ trên các quốc giao thuộc quyền ngài, và để người nước ngoài ai cũng hài lòng mình đã khôn ngoan biết rời bỏ tổ quốc để đến đây hầu hạ dưới trướng ngài.
Harun nổi cơn tự ái vì những lời nói ấy. Vua cao ngạo nhìn thẳng vào mặt tể tướng, và đùng đùng hỏi ông có quen biết người nào có thể sánh được vua về đức hào phóng hay không.
- Muôn tâu có,- tể tướng đáp- tại thành phố Basra (Trong bộ Nghìn lẻ một đêm, phiên âm là Banxora, thành phố ở Nam Irắc) có một chàng trai trẻ tên là Abuncaxem. Mặc dù chỉ là một thường dân, anh ta sống xa hoa lộng lẫy hơn tất cả mọi quân vương, và không một nhà vua nào trên đời này, kể cả ngài, muôn tâu hoàng đế, tính tình hào phóng hơn chàng.
Hoàng đế đỏ mặt, đôi mắt vua long lên vì bực bội. Vua nói:
- Ông nhớ rõ rồi chứ, bất cứ thần dân nào dám nói điều sai với vua đều phải tội chết?
- Tôi đâu dám thưa thốt điều gì không chân thực bao giờ- tể tướng đáp. Trong chuyến đi gần đây về Basra, tôi đã gặp chàng Abuncaxem ấy, tôi đã sống ở nhà chàng ta. Đôi mắt tôi, dù đã quen nhìn các kho báu vật của hoàng thượng, vẫn hết sức ngạc nhiên về sự giàu sang của chàng trai, và tôi vô cùng say mê phong thái hào hoa đại lượng của chàng.
Nghe đến đấy, Harun An Rasit không nén nổi cơn thịnh nộ. Vua quát:
- Ông thật đáng tội chết, Giapha à, sao dám đem một kẻ thường dân ra so sánh với ta. Tội khi quân của ông không thể không bị trừng trị.
Vừa nói vua vừa ra hiệu cho viên tướng chỉ huy đội cận vệ đến gần, và ra lệnh bắt giữ ngay tể tướng Giapha. Tiếp đó, vua đi thẳng tới dinh nàng Zôbêit, chính cung hoàng hậu của người. Thoạt trông vẻ mặt giận dữ của nhà vua, hoàng hậu tái người khiếp đảm. Bà hỏi:
- Có việc gì xảy ra, muôn tâu hoàng thượng? Kẻ nào dám gây cho ngài nỗi bất bình?
Hoàng đế thuật lại cho hoàng hậu nghe câu chuyện vừa xảy ra. Vua nói về Giapha với lời lẽ nặng nề khiến hoàng hậu hiểu ngay ông đang giận tể tướng tới mức nào. Nhưng bà hoàng hậu ấy vốn khôn ngoan, bà khuyên vua hãy tạm nén trận lôi đình, hãy nên phái một người nào đó tới thành phố Basra tìm xem hư thực thế nào; nếu điều Giapha nói là sai, hẵng trừng trị ông ta; ngược lại nếu ông ta nói đúng thì cũng nên cân nhắc, xử phạt ông ta tới mức như xử một tên phạm tội sát nhân e chưa được công minh lắm chăng.
Lời hoàng hậu làm dịu một phần cơn thịnh nộ của Harun. Vua nói:
- Hoàng hâu à, ta chấp thuận lời khuyên của nàng. Ta nhận đúng là cần phải đối xử công minh với một bậc đại thần như Giapha. Ta còn làm hơn thế. Để tránh xảy ra trường hợp người ta phái đi vì không ưa tể tướng mà có thể tâu trình không trung thực chăng, ta muốn tự mình đến Basra, tự mình tìm hiểu sự thật. Ta sẽ làm quen với chàng trai mà mọi người khoa trương sự hào phóng ấy. Nếu điều Giapha nói đúng sự thật, ta sẽ không để tâm về lời nói thẳng mà còn ban thưởng trọng hậu cho ông, nhược bằng ông ta dám dối trá với vua thì ta thề sẽ cho chém đầu ngay tức khắc.
Quyết định như vậy rồi, hoàng đế Harun An Rasit tính chuyện thực hiện ngay không chậm trễ. Một đêm vua bí mật rời hoàng cung. Ông lên ngựa và khởi hành, mà nhất thiết không cho phép bất cứ một ai theo hầu, mặc cho hoàng hậu Zôbêit tìm đủ lời lẽ thuyết phục vua chớ nên mạo hiểm đi một mình. Tới Basra, vua gò cương xuống ngựa ghé vào trạm du khách nhìn thấy trước tiên khi vừa vào thành phố. Người gác cổng là một cụ già. Harun nói:
- Bố ơi, tôi hỏi bố nhé, có phải trong thành phố này có một chàng trai trẻ tên là Abuncaxem, anh ta có thể vượt quá mọi đấng quân vương trên đời về sự giàu sang và đức hào phóng?
- Đúng vậy, thưa ngài- người gác cổng đáp- cho dù già này có đến một trăm cái miệng, và mỗi miệng có một trăm cái lưỡi, thì cũng không thể nào kể hết những hành vi hào phóng ông ấy từng làm.
Lúc này vua Harun đang cần nghỉ ngơi, vua chỉ dùng qua mấy món nhẹ rồi đi nằm.
Sáng hôm sau, vua dậy thật sớm, đi bách bộ trong phố cho tới khi mặt trời mọc. Gặp một hiệu may vừa mở cửa, ông vào hỏi nhà Abuncaxem ở về lối nào. Bác thợ may ngạc nhiên:
Ủa, ông từ xứ nào đến vậy? Hẳn ông chưa một lần tới Basra, cho nên mới không biết dinh cơ ngài Abuncaxem toạ lạc ở đâu. Nhà riêng ông ấy còn được dân tình biết đến nhiều hơn cả cung điện của nhà vua.
Kể đến đây bà nhũ mẫu của công chúa Farucna dừng lời bởi một nữ tì vừa vào, cô này có nhiệm vụ đến báo công chúa biết sắp tới giờ đi cầu kinh trưa. Hễ trông thấy tì nữ này xuất hiện là công chúa ra khỏi nhà tắm, vận lại trang phục. Bà nhũ mẫu lúc này cũng ngừng lời, chờ đến hôm sau, khi công chúa bước vào nhà tắm mới kể nốt câu chuyện. Tu sĩ Moclét khi chuyển ngữ từ tiếng Ấn Độ sang tiếng Ba Tư đã sắp xếp theo cung cách trên các truyện kể trong bộ Nghìn lẻ một ngày. Dịch giả vẫn bám sát nguyên tác, tuy nhiên xin phép được lược bớt những câu đưa đẩy trước và sau mỗi buổi tắm, chúng tôi nghĩ như vậy sẽ đỡ làm chán người đọc; độc giả có thể coi một mạch toàn bộ các câu chuyện mà không bị ngưng ngắt dở chừng.
Như vậy là sang ngày hôm sau, bà Xutlumêmê mới tiếp tục câu chuyện kể dở.
NGÀY THỨ HAI và NGÀY THỨ BA
Hoàng đế đáp lời người thợ may:
- Vâng, tôi là người nước ngoài, tôi không quen biết ai trong thành phố này. Tôi vô cùng biết ơn bác nếu bác vui lòng cho người dẫn tôi đến nhà chàng trai ấy.
Bác thợ may sai ngay một chú bé học việc dẫn hoàng đế đến tận dinh cơ của Abuncaxem. Đấy là một dinh thự xây bằng những tảng đá đẽo nguyên khối, cổng làm bằng cẩm thạch có hoa văn từa tựa vân ngọc thạch anh. Nhà vua bước vào sân, ở đấy có vô số gia nhân trẻ tuổi và nô lệ đã được trả lại tự do, họ đang đùa vui với nhau trong khi đợi lệnh chủ nhân. Vua tiến đến gần một người và nói:
- Người anh em ơi, tôi nhờ người anh em vui lòng giúp cho một việc, nhờ anh em vào bẩm với ngài Abuncaxem rằng có một người ngoại quốc mới đến, xin được tiếp kiến ngài.
Nhìn bộ dạng hoàng đế, cậu gia nhân biết ngay đây không phải là một người bình thường, vội chạy đi báo với ông chủ. Chủ nhân thân hành xuống sân đón tiếp vị khách nước ngoài, cầm tay dẫn khách đến một gian phòng rất đẹp. Vào phòng, hoàng đế nói vui từng được nghe danh tiếng tốt đẹp của chủ nhân, do vậy không sao cầm được ước mong được đến đây xin diện kiến ngài. Abuncaxem khiêm nhường từ tạ lời ngợi ca, mời vua ngồi xuống chiếc trường kỷ, rồi hỏi khách từ xứ nào đến, nghề nghiệp là gì, hiện đang nghỉ trọ nơi nao trong thành phố Basra. Nhà vua đáp:
Tôi là một thương nhân thành Batđa, hiện tôi tạm trú tại trạm du khách đầu tiên nhìn thấy khi vừa đặt chân vào thành phố.
Sau đôi ba lời hàn huyên, vua thấy bước vào phòng mười hai gia nhân da trắng, tay bưng những chiếc vò bằng mã não và pha lê khảm hồng ngọc, đựng đầy rượu nhẹ tuyệt vời; theo sau là mười hai nữ nô lệ khá xinh, người thì bê những mâm sứ xếp đầy hoa quả tươi thơm, người thì nâng những chiếc hộp bằng vàng ròng đựng các loại mứt cực ngon.
Các gia nhân đều nếm thử rượu trước khi dâng mời khách. Hoàng đế nhấp mấy thứ, mặc dù quá quen thuộc mọi của ngon vật lạ khắp các nước phương Đông này, vẫn phải thú thật rằng chưa bao giờ mình được uống loại rượu tuyệt vời đến thế. Chẳng mấy chốc đã đến giờ dùng bữa tối, Abuncaxem mời khách sang một căn phòng khác, ở đây đã bày sẵn trên bàn bao nhiêu thứ cao lương mỹ vị đựng trong đĩa bát đúc toàn bằng vàng khối.
Dùng xong bữa, Abuncaxem cầm tay mời khách sang một căn phòng thứ ba, đồ đạc bày biện còn sang trọng hơn hai căn phòng kia. Gia nhân mang đến không biết bao nhiêu là vò rượu bằng vàng khảm ngọc đựng nhiều loại rượu khác nhau, cùng những đĩa sứ cổ bày các loại mứt trái cây khô. Trong khi chủ khách nâng chén thưởng thức các loại rượu ngon hiếm thấy thì nhiều nhạc công và ca sĩ bước vào, cùng cử một khúc hoà tấu hay đến mức làm hoàng đế Harun tựa hồ mê mẩn. Nhà vua tự nhủ: „Trong cung ta có vô số những giọng hát hay, song phải nhận là những người ấy không đáng mang ra so sánh với các ca sĩ này. Ta không hiểu sao một tư nhân lại có điều kiện sinh hoạt lộng lẫy xa hoa dường này“.
Trong khi Harun đang chăm chú nghe một giọng ca êm đềm chưa từng thấy, thì Abuncaxem ra khỏi phòng, lát sau quay trở lại tay cầm một cây nhỏ, thân cây bằng bạc, còn cành lá toàn bằng lam ngọc và các quả là hồng ngọc. Trên ngọn cây đỗ một con công vàng chạm khắc thật tinh xảo, thân chim là một khối hổ phách toát ra hưưong cây lô hội và các mùi thơm khác. Chàng đặt cây bạc xuống chân hoàng đế, rồi cầm chiếc đũa khẽ gõ lên đầu chim. Thế là con công giương đôi cánh, xoè cái đuôi và múa với nhịp điệu khá nhanh, chim múa càng gấp càng làm lan toả ra mọi thứ hương thơm nức cả căn phòng.
Hoàng đế đang mải mê ngắm không biết chán cái cây bạc và con công vàng, chưa kịp ngỏ lời ngợi khen, thì chàng Abuncaxem đã nhấc cả cây lẫn chim bước ra khỏi phòng khá đột ngột. Nhà vua hơi mếch lòng về cử chỉ ấy, ông thầm tự nhủ: „Như thế là thế nào? Chàng trai này hình như chưa biết cách xử sự lịch sự như ta tưởng. Chàng ta cất cái cây và con công đi trong khi ta đang mải ngắm, sợ ta ngỏ lời xin mất vật ấy chăng? Ta e rằng Giapha đã quá lời khi đánh giá con người này hào phóng“.
Vua còn thẫn thờ với ý nghĩ ấy, thì chàng Abuncaxem đã lại bước vào, theo sau có một chú hầu trẻ cực kỳ tuấn tú khôi ngô. Chú bé dễ thương này mặc một chiếc áo gấm dệt bằng kim tuyến có đính nhiều viên ngọc và kim cương, tay dâng một chiếc ly làm bằng một viên hồng ngọc lớn đựng một loại rượu mầu đỏ sẫm. Cậu tiến đến trước nhà vua quỳ lạy rập đầu sát đất và dâng ly rượu. Hoàng đế cúi đỡ chiếc ly, đưa lên miệng uống cạn, và thật diệu kỳ làm sao, uống xong nhà vua trao trả cái ly cho cậu bé thì nhận ra cái ly rượu vẫn đầy tràn. Vua lại đỡ ly rượu, uống tiếp một hơi cạn không còn một giọt. Đưa trả chiếc ly cho cậu bé, vua nhận ra ly rượu đã lại đầy mà không hề nhìn thấy ai rót rượu vào.
Vật kỳ diệu này khiến hoàng đế Harun ngạc nhiên đến mức quên phắt chuyện cây bạc công vàng, và cất lời hỏi do đâu có chuyện lạ lùng đến vậy. Abuncaxem đáp:
Thưa ngài, đấy là công trình sáng tạo của một bậc hiền thời xưa, vị ấy am tường mọi bí quyết trong trời đất.
Vừa đáp xong, chàng đã cầm tay cậu gia nhân, bước ra khỏi phòng cũng vội vã y như lần trước. Hoàng đế cảm thấy bất bình:
- Quái,- vua tự nhủ- xử sự đến thế thì chàng trai này quẫn trí rồi. Chàng ta tự ý mang các vật ấy ra khoe với ta mà chẳng chờ ta nhờ hỏi; chàng phô ra trước mắt ta; và mỗi lần nhận thấy ta lấy làm thú vị về vật ấy thì vội vàng mang đi. Thật chẳng có chi lố bịch và khiếm nhã bằng. Này, hỡi lão Giapha kia, rồi ta sẽ dạy cho lão biết cách đánh giá đúng người đời.
Vua không biết nên nghĩ thế nào về tính khí chủ nhân, hay đúng hơn vua bắt đầu có ý không hay về chàng, thì lần thứ ba chàng trai quay trở lại. Theo sau là một cô nương trang sức đầy ngọc ngà châu báu, mà nhan sắc có một không hai xem ra còn ăn đứt bộ trang phục vô cùng lộng lẫy. Hoàng đế gặp một giai nhân xinh tươi dường ấy, trố mắt nhìn. Nàng cúi đầu rất thấp, xá một xá, rồi bước tới gần vua, bộ điệu duyên dáng khiến khách càng thêm mê mẩn. Vua mời nàng ngồi cạnh mình. Vừa lúc ấy, Abuncaxem gọi mang ra một cây đàn tì bà đã lên dây sẵn. Gia nhân dâng cây đàn làm bằng ngà voi, hổ phách, gỗ mun và trầm hương. Chàng trai chuyển đàn cho cô nương, cô đỡ lấy, so giây và bắt đầu tấu một bản nhạc điêu luyện tới mức vua Harun vốn là người rất sành điệu, cũng không cầm được thốt lên. „Ôi chàng trai trẻ ơi, số phận của chàng thật đáng để người đời ganh tị. Tất cả cá vị vua chúa vĩ đại nhất trên đời này, ngay đến Đấng thống lĩnh các tín đồ đi nữa, cũng chẳng thể nào có được hạnh phúc sánh tày chàng“.
Chàng trai vừa để ý thấy vị khách say mê cô gái trẻ , liền cầm tay dắt vội nàng ra khỏi phòng.
NGÀY THỨ BA.
Đấy lại là một điều nhục nữa cho hoàng đế Harun An Rasit. Suýt nữa thì vua nổi trận lôi đình, nhưng người cố nén giận. Chủ nhà quay trở lại ngay tức khắc, và hai người tiếp tục trò chuyện chén tạc chén thù cho đến lúc mặt trời lặn. Harun nói với chàng trai:
- Hỡi chàng Abuncaxem hào phóng, tôi thật quá cảm kích về sự tiếp đãi của ngài đối với tôi, giờ xin cho phép được cáo từ, để ngài nghỉ ngơi.
Không muốn phiền lòng khách, chàng trai thành phố Basra nhã nhặn nghiêng mình. Tránh không làm trái ý vua, chàng lịch sự tiễn người ra tận cổng; trước khi chia tay ngỏ lời mong khách vui lòng lượng thứ cho về việc chủ nhà đã không có cách đón tiếp người trọng thể hơn nữa, cho thật xứng đáng địa vị của người.
Trên đường trở về trạm nghỉ dành cho du khách, vua Harun An Rasit nghĩ thầm. „Ta thừa nhận về mặt giàu sang Abuncaxem vượt xa các vua chúa; song xét về sự hào phóng, tể tướng của ta đã sai lầm khi dám đặt chàng sánh ngang ta, bởi rốt cuộc anh chàng có tặng ta món quà nào đâu? Thế mà mấy lần ta thốt lên ngạc nhiên trước vẻ đẹp cảu cành cây thân bạc lá ngọc, cũng như khi trong thấy cái ly, về tên hầu trẻ tuổi và cô gái xinh tươi, trông ta tỏ ý ngợi ca như vậy, nhẽ ra anh chàng phải tự hiểu và trao tặng ta một món nào trong số ấy chứ. Không, anh chàng này chỉ là một con người chỉ thích khoa trương thôi; cậu chàng ham phô bày vật báu của mình cho khách nước ngoài ca ngợi; để làm gì? để thoả mãn sự kiêu ngạo và bản tính thích khoe khoang của mình. Thực chất, cậu chàng là một tên keo kiệt. Ta không thể nào tha thức cho Giapha về cái tội đã dối trá ta“.
Đang suy nghĩ những điều chẳng lấy gì tốt lành cho vị tể tướng, vua về tới trạm nghỉ của du khách. Làm sao nói hết sự kinh ngạc của người khi thấy bày ra trước mắt bao nhiêu liều trại huy hoàng vừa dựng lên gồm nhiều gian nhà vải, những tấm thảm lụa trải trên nền cùng một số lớn gia nhân và nô lệ đã được trả tự do; bên cạnh đấy nào ngựa nào lừa nào lạc đà, ngoài ra có đủ thân cây cành bạc và con công vàng, chú gia nhân trẻ tuổi cùng chiếc ly rượu của y, cả cô nô tỳ xinh đẹp cầm đàn tì bà ở tay nữa.
Bọn tôi tớ quỳ mọp sát đất chào ông chủ, trong khi cô gái dâng vua một cuộn lụa bạch. Vua mở ra và đọc những dòng như sau:
„Ôi hỡi ngài đồng thực khách mà tôi chưa hân hạnh quen biết; có thể tôi đã không biết cách đãi đằng ngài thật đúng lễ; cúi xin ngài hãy rộng lòng đại xá cho những lỗi lầm thiếu sót mà tôi có thể mắc phải khi tiếp đón ngài, xin ngài chớ làm tôi thêm hổ thẹn mà khước từ mấy món quà nhỏ mọn gửi đến tặng ngài. Cây bạc, con công, chú tiểu đồng, cái ly và cô gái trẻ, những vật mọn ấy đã thuộc sở hữu của ngài vì hình như chúng vừa ý ngài; từ trước tới nay bất kỳ những vật gì các vị đồng thực khách với kẻ này tỏ ý ưa thích thì chúng không còn là tài sản của tôi, mà trở thành vật sở hữu của quý vị“.
Đọc xong bức thư, hoàng đế vô cùng ngạc nhiên về tính tình rộng rãi của Abuncaxem, và đành thừa nhận mình vội suy xét không đúng về chàng trai. Vua thốt lên:“Triệu triệu phúc lành ban cho Giapha. Chính nhờ lão mà ta được biếu tặng hậu hĩnh thế này. Này, hỡi Harun! từ nay chớ có khoe khoang nữa ông là người giàu sang và hào phóng nhất thế gian; một tên thần dân của ông đã vượt xa ông rồi đó. Nhưng- nhà vua nghĩ tiếp – làm sao một tư nhân bình thưưòng lại có thể biếu tặng người khác những vật phẩm quý hiếm mức ấy nhỉ? Nhẽ ra ta phải hỏi anh chàng kiếm đâu ra nhiều tài sản đến vậy. Ta thú nhận mình đã sơ xuất khi không gạn hỏi anh chàng điều ấy. Ta không muốn quay trở về Batđa mà chưa sáng tỏ câu chuyện này. Cũng quan trọng lắm chứ, việc trong đất nước thuộc quyền ngự trị của ta, lại có một người dân thưòng sống cuộc đời còn nhung lụa hơn cả ta. Nhất định ta phải gặp lại anh chàng, ta sẽ khéo léo tìm cách khơi gợi chàng dốc bầu tâm sự cho ta rõ do đâu chàng có được một gia sản khổng lồ dường ấy“.
Quá sốt ruột để thoả mãn sự hiếu kỳ, vua để mặc bọn gia nhân mới trong trạm lưu trú du khách, một mình quay trở lại ngay dinh cơ chàng trai tre. Khi chỉ có mình vua với chàng, vua cất lời hỏi:
- Hỡi chàng Abuncaxem vô cùng đáng mến, các tặng phẩm của ngài cho tôi quá ư to tát, làm sao tôi dám nhận mà không sợ lạm dụng tấm lòng hào hiệp của ngài. Xin ngài vui lòng cho phép tôi gửi trả lại. Sự tiếp đãi trọng hậu của ngài đã đủ làm cho tôi vô cùng cảm kích; trở về đến Batđa tôi sẽ loan truyền cho mọi người biết về sự giàu sang cũng như tính hoà hoa kháng đạt của ngài.
- Thưa ngài quý mến,- chàng trai đáp vớ vẻ bị xúc phạm- chắc hẳn ngài có điều gì phàn nàn về tên Abuncaxem khốn khổ này. Có thể một hành động nào đó của kẻ hèn mọn đã làm ngài không hài lòng, bởi ngài khước từ các tặng vật của tôi. Giá như ngài vừa lòng, hẳn ngài đã không để cho tôi phải bị nhục mạ vì bị khước từ như vậy.
- Không đâu, thưa ngài, - hoàng đế vội phân trần- nói có trời chứng giám, tôi thật quá cảm kích về thái độ lịch sự của ngài, các tặng phẩm của ngài quý giá quá. Những món quà ấy vượt xa tặng phẩm các đấng quân vương trao cho nhau. Xin phép ngài cho tôi được nói ra điều tôi suy nghĩ, nên chăng ngài chớ quá phung phí tài sản như thế, nên suy nghĩ là rồi đến một ngày nào các kho tàng của ngài sẽ cạn kiệt.
Nghe đến đấy, Abuncaxem mỉn cười và cất lời đáp như sau:
- Trình ngài, quả thật tôi rất vui được biết, không phải ngài muốn trừng phạt tôi về một lỗi lầm nào đó nhỡ với ngài trong khi đón tiếp cho nên khước từ tặng vật. Để mong ngài thoải mái chấp nhận cho, xin phép được thưa tôi có thể ngày nào cũng trao tặng những món quà tương tự thậm chí quý báu hơn nhiều mà chẳng có gì phải bận tâm.
Điều tôi vừa thưa hẳn khiến ngài ngạc nhiên- chàng trai nói tiếp- song ngài sẽ không lấy làm lạ nữa nếu ngài vui lòng cho phép thuật lại những điều từng xảy ra trong đời kẻ này. Xin cho tôi được giãi bày tâm sự với ngài.
Nói xong, Abuncaxem dẫn nhà vua vào một căn phòng trang trí bày biện ngàn lần sang trọng hơn những phòng vua đã thấy. Nhiều lư hương toả mùi thơm dìu dịu. Giữa phòng đặt một chiếc ngai bằng vàng ròng, dưới sàn trải nhiều tấm thảm quý. Hoàng đế Harun An Rasit không thể nào hình dung mình đang ở trong nhà một người dân thường mà cứ ngỡ đây là cung điện một bậc đế vương còn hùng mạnh hơn cả mình. Chàng trai trẻ mời vua ngồi lên ngai, chàng ngồi xuống một chiếc ghé bên cạnh, và bắt đầu thuật chuyện đời mình như sau.
NGÀY THỨ TƯ và NGÀY THỨ NĂM
NGÀY THỨ TƯ.
Tôi là con trai một nhà buôn kim hoàn thành phố Cairo tên là Apđêlazit. Cụ tôi sở hữu quá nhiều tài sản, cụ sợ sự giàu sang của mình có thể làm cho hoàng đế nước Ai Cập, vốn là người keo kiệt sinh lòng đố kỵ nên dời sang lập nghiệp tại thành phố Basra này. Cụ tôi kết hôn cùng người con gái duy nhất của thương nhân giàu có nhất Basra.
Tôi là đứa con một của cuộc hôn phối ấy. Thành ra tôi thừa hưởng tất cả gia sản của cha tôi cũng như của mẹ tôi. Sau khi song thân tôi từ trần, và trở thành một người vô cùng giàu có. Nhưng hồi ấy tôi còn trẻ lắm, tôi ham tiêu pha chơi bời. Tính tôi vốn hào phóng, nói đúng hơn tôi là con người phóng đãng, khi thấy mình có điều kiện rồi, tôi ăn chơi thả giàng, tha hồi ném tiền qua cửa sổ. Do vậy chỉ trong vòng hai, ba năm cả gia tài khổng lồ của tôi tan theo mây khói. Đến lúc này, cũng như mọi người từng hối tiếc về các cuộc truy hoan của mình ngày trứoc, tôi bắt đầu có những suy nghĩ đứng đắn hơn.
Đang có ít nhiều danh tiếng ở thành phố, tôi nghĩ tốt hơn là nên lánh đi khỏi thành phố này, tìm cách kéo lê những ngày tàn đói khổ ở nơi đất khách quê người. Tôi nghĩ sống bần hàn trước con mắt những người chưa hề quen biết dù sao cũng dễ chịu đựng hơn sống nơi mọi người đều rõ mình từng có một thời giàu sang. Tôi bán ngôi nhà, tài sản cuối cùng còn sốt lại. Tôi nhập vào một đoàn nhà buôn, theo họ đến thành phố Muxem, rồi từ đó sang Đamat. Băng qua sa mạc Arabi và dãy núi Pharan, tôi đến thành phố Cairo hùng vĩ.
Phố xá nhà cửa đẹp đẽ, các thánh đường lộng lẫy làm cho tôi rất đỗi ngạc nhiên. Chợt nhớ đây chính là thành phố nơi thân sinh tôi, cụ Apđenlazit ra đời, tôi không thể cầm lòng không rơi nước mắt, thở vắn than dài. „Ôi thân phụ của con ơi- tôi thầm khấn – giá như cha còn sống trên đời, nhìn thấy đứa con trai đáng lẽ giàu sang lại ra nông nỗi này, hẳn cha đau lòng biết bao!“
Bị ám ảnh bởi những suy tư phiền não, tôi đến bên bờ sông Nin và đi dạo một mình. Lúc này tôi đang đứng ở mặt sau của Cung hoàng đế. Bỗng nhiên ở một cửa sổ xuất hiện một phụ nữ mà nhan sắc thoạt trông đã làm tôi ngây ngất. Tôi dừng chân ngắm nàng. Nàng để ý thấy và vội lùi vào trong nhà. Lúc này trời đã tối, mà tôi thì chưa tìm ra nơi nghỉ ổn định, đành vội đi hỏi tìm thuê một nhà trọ quanh vùng.
Đêm hôm ấy tôi chẳng làm sao nghỉ ngơi yên ổn. Bóng dáng người đẹp cứ theo đuổi tâm trí tôi. Tôi nghĩ thầm: „Giá mà trời không xui khiến nhìn thấy và để ý tới nàng, thì ta đã không đến nỗi đắm say một mối tình vô vọng. Mà sao ông trời không cho phép ta được ngắm nhìn nàng lâu hơn ít nữa!“
Ngày hôm sau tôi cố tình đến chỗ hôm qua, nơi có cửa sổ phòng nàng, với hy vọng có thể lại nhìn thấy dung nhan người đẹp. Nhưng chỉ là hy vọng hão huyền mà thôi, nàng không xuất hiện. Điều ấy làm tôi buồn phiền ghê gớm, tuy nhiên tôi không hề nản; hôm sau nữa tôi lại đến, và lần này may mắn hơn. Phu nhân hiện ra bên cửa sổ. Khi thấy tôi chăm chăm nhìn, nàng mắng:
- Này tên vô lễ kia, mày há không biết nghiêm cấm đàn ông dừng chân trước các cửa sổ của dinh thự này? Hãy đi nơi khác ngay tức khắc. Nếu các võ quan của hoàng đế nhìn thấy mày ở đây, họ sẽ giết chết mày.
Không chút lo âu về lời cảnh cáo ấy, tôi phủ phục sát đất rồi ngẩng đầu lên thưa:
- Trình phu nhân, tôi là một người từ nước ngoài mới đến, chưa am tường luật lệ thành phố Cairo ta, nhưng cho dù có biết, cũng không ngăn cản tôi dừng chân chiêm ngưỡng sắc đẹp của bà.
- Tên bạo gan kia, mày không sợ ta sai bọn nô lệ ra trừng trị tội mày hay sao?
Nói xong, nàng biến mất. Tôi lo nàng bất bình về sự táo gan của tôi, chắc đang đi gọi người đến đánh đập.
Tôi chờ đợi lính tráng tay đao tay thước đến bổ nhào vào mình. Tuy nhiên xúc động về cơn giận của người đẹp còn mạnh hơn lo âu vì sự doạ nạt của nàng, tôi chẳng hề cảm thấy hiểm nguy, cứ thản nhiên thả bộ về nhà. Đêm ấy quả là một đêm sóng gió nữa của tôi. Bởi quá chấn động về mối tình, người tôi lên cơn sốt, máu tôi cứ như sôi lên, nhắm mắt chỉ mơ toàn ác mộng.
Tuy nhiên ước mong được nhìn thấy lại người đàn bà, hy vọng được nàng đối xử nương tay hơn một chút, cho dù biết đấy là một niềm hy vọng rất đỗi mong manh, làm cơn sốt của tôi dịu dần. Một sự đam mê điên rồ cuốn hút tôi, ngày hôm sau lôi chân tôi trở lại bên bờ sông Nin, và tôi đứng như trời trồng đúng vào chỗ mấy ngày hôm trước.
Chắc nhác trông thấy tôi, phu nhân ấy tiến đến bên cửa sổ; song vẻ kiêu sa của nàng khiến tôi khiếp đảm. Nàng quát:
- Này, tên khốn khiếp kia, ta đe doạ mày đến thế, mà mày còn dám dẫn xác đến đây nữa sao? Hãy trốn ngay khỏi chốn này, vì thương hại mày mà ta cảnh báo cho một lần nữa; nếu mày không biến ngay tức khắc thì mất mạng là cái chắc.- Thấy tôi chưa chịu đi, lát sau nàng nói tiếp – Cái gì giữ chân mày lại đây, hở tên trẻ tuổi táo gan kia? Hãy sẵn sàng đi, sấm sét sắp giáng xuống đầu mày rồi đó.
Những câu ấy giá như người khác ít đam mê hơn tôi nghe hẳn đã tin ngay, ấy thế mà tôi đáng lẽ bỏ đi lại cứ nhìn nàng một cách âu yếm và đáp:
- Hỡi phu nhân xinh đẹp, nhẽ nào nàng nghĩ một chàng trai bất hạnh đang si mê nàng, đang hết sức ái mộ nàng cho dù vô vọng, lại sợ chết hay sao? Hỡi ôi! Tôi thà chết còn hơn sống trên đời mà không được sống vì nàng.
Người phụ nữ liền đáp:
- Nếu mày đã cứng đầu cứng cổ đến vậy, thì hãy đi vào trong phố chơi cho hết ngày hôm nay đi, tối trở lại dưới của sổ phòng ta.
Vừa nói xong câu, nàng nhanh chóng biến mất, để mình tôi kinh ngạc đứng ngẩn người ra đấy, lòng tràn trề yêu đương và vui sướng.
Nếu cho đến lúc ấy tôi cứ cưỡng lại mọi mệnh lệnh dứt khoát của phu nhân, ngài có thể hiểu lần này tôi lại sẵn sàng tuân thủ; câu chuyện vừa xảy ra làm cho tôi cảm thấy dịu ngọt trong lòng. Trong khi chờ đợi niềm lạc thú mà tôi tưởng tượng nên, tôi thấy tan biến đi mọi điều bất hạnh. Tôi tự nhủ: „Ta chẳng có gì phàn nàn về số mệnh nữa. Thật không ngờ định mệnh hôm nay lại ưu ái ta đến vậy, cũng mãnh liệt như nó từng giày xéo ta thời gian qua“. Thế là tôi trở về nhà, chỉ còn lo mỗi một việc ăn mặc, chải chuốt, ngắm nghía và xức nước hoa thơm phức người.
Đêm hôm ấy, chờ đến lúc thuận tiện để tới nơi tình yêu đang vẫy gọi, tôi mò mẫm đi trong bóng tối. Tôi nhận ra, tại một cửa sổ căn hộ của nàng, có mắc sẵn một sợi dây dòng xuống đất. Tôi bám sợi dây leo lên, vào được trong nhà rồi tôi còn phải qua hai gian nữa mới tới một căn phòng rộng bày biện trang hoàng hết sức lộng lẫy, chính giữa phòng đặt một chiếc ngai bạc.
Tôi chẳng chút quan tâm đến bàn ghế quý giá cũng như mọi thứ khác trong phòng, mắt tôi chỉ dán vào một người phụ nữ. Ôi, thưa ngài, phu nhân ấy mới xinh đẹp làm sao! Không hiểu sao thiên nhiên có thể sẵn đúc một toà tuyệt tác như vậy, hoàn hảo đến vậy và phô ra cho cánh mày râu chúng ta chiêm ngưỡng? Chẳng phải vì tôi đã đam mê nàng, nên sẵn có định kiến nàng là người đẹp cho nên không nhận ra khiếm khuyết nào nơi giai nhân, thành thật tự đáy lòng tôi thấy quả nàng đẹp vô song.
Nàng mời tôi yên vị lên ngai, rồi ngồi xuống bên cạnh, và hỏi tôi là ai. Tôi thuật lại hoàn toàn chân thực câu chuyện đời mình. Tôi để ý thấy nàng chăm chú nghe, và dường như có hơi chút mủi lòng khi thấy định mệnh đưa tôi tới nông nỗi này. Vẻ thương hại từ một trái tim độ lượng hiện lên nét mặt người đẹp càng làm cho tôi thêm say đắm, như chưa từng một người đàn ông đang yêu nào trên đời yêu đắm say đến thế. Tôi nói:
- Thưa phu nhân, cho dù tôi đang trong cảnh bất hạnh đến mức nào, tôi thôi không tự thương thân trách phận nữa, bởi đã được phu nhân hạ cố đem lòng thông cảm.
NGÀY THỨ NĂM.
Bất giác cuộc trò chuyện giữa nàng và tôi dần dần trở nên dịu dàng âu yếm, nàng tỏ ra một con người đầy trí tuệ. Nàng thú thật, nếu tôi đã đắm say nàng ngay khi thoạt trông thấy, thì nàng cũng không thể tự ngăn mình chớ để ý đến tôi. Nàng nói tiếp:
Bởi chàng đã cởi mở cho em biết chàng là ai, em không muốn để chàng không hay biết em là con người như thế nào.
Tên em là Đacđanê. Em sinh ra tại thành phố Đamat. Phụ thân em vốn là một trong những vị đại thần của nhà vua đang trị vì ở đấy, quý danh cụ là Bêtru. Bởi thân sinh em là người xưa nay chỉ biết coi niềm vinh quang của nhà vua và lợi ích quốc gia là nguyên tắc dắt dẫn mọi hành vi của mình, người có không ít kẻ thù, họ là những kẻ suy nghĩ và sống theo những nguyên tắc khác. Ấy thế là họ tìm đủ cách xúc xiểm để rốt cuộc nhà vua ghét bỏ người. Quan đại thần Bêtru không may ấy, sau nhiều năm phục vụ hết mình, một hôm thức dậy chợt thấy bị gạt ra khỏi triều đình. Ngài lui về sống ẩn dật tại một ngôi nhà gần cổng thành, và chỉ còn mỗi việc mang hết tâm trí chăm lo giáo dục con cái. Nhưng than ôi! Phụ thân em đâu có được hưởng thụ kết quả công lao nuôi nấng dạy dỗ của mình: người qua đời khi em vẫn còn là một đứa trẻ vị thành niên.
Cha em vừa qua đời, mẹ em liền bán hết gia cư điền sản lấy tiền mặt. Người đàn bà khốn nạn, sau khi bán con gái cho một người chuyên buôn nô lệ, mang theo tiền của theo người tình trẻ cùng nhau lên đường sang nước Ấn Độ. Trong thời gian ấy, nhà buôn kia đưa em cùng một lúc với nhiều thiếu nữ khác ông vừa mua được, sang thành phố Cairo. Ông may sắm cho chúng em áo quần thật sang trọng, rồi chờ khi có dịp đưa chúng em đến ra mắt hoàng đế Ai Cập. Ông dẫn cả bọn vào hoàng cung, đến một gian phòng rộng, ở đó hoàng đế đang ngự trên ngai vàng.
Chúng em lần lượt diễu qua trước mặt vị quân vương, người tỏ vẻ thích thú khi nhìn thấy em. Người bước xuống ngai, tiến đến gần em và nói:
- Con bé này trông dễ thương quá! Hãy nhìn xem đôi mắt, hãy nhìn xem cái miệng nó kìa! Này anh bạn- vua quay lại nói tiếp với nhà buôn- từ ngày ông đi tìm kiếm nữ nô lệ mang về triều đình cho ta chọn, chưa bao giờ ông kiếm được một đứa đẹp bằng con bé này. Không, quả thật không có người phụ nữ nào có thể sánh tày cô gái hôm nay. Này, cần bao nhiêu, ông hãy ra giá đi, đắt đến đâu ta cũng đồng ý mua cô thiếu nữ xinh như hoa này.
Nhà vua khoái chí quá, sai mang trả cho nhà buôn một khoản tiền khá lớn, rồi cho ông cùng tất cả các cô gái khác lui về. Tiếp đó, người gọi viên trưởng hoạn nô đến bảo:
- Này, Kêcabia, ông hãy dẫn tuyệt thế giai nhân này đi và đưa nàng đến ở một ngôi nhà biệt lập.
Viên trưởng hoạn nô tuân lệnh, đưa em đến ngôi nhà này, đúng là một ngôi nhà đẹp nhất trong hoàng cung. Em vừa tới nơi, thì cơ man là nữ tì trẻ có già có, vội theo chân tới. Người thì mang đến cho em nhiều bộ xiêm y lộng lẫy, người thì dân hoa quả và nước giải khát, một số khác mang đàn ra hoà tấu khá hay. Tất cả đều thưa, chúng được hoàng đế phái tới hầu hạ em, mọi người nguyện cố gắng hết sức mình làm tròn nhiệm vụ hoàng đế giao.
Chẳng bao lâu hoàng đế thân hành tới thăm em. Người bày tỏ với em tình yêu bằng lời lẽ nồng nhiệt nhất; những câu chuyện ấy đối với em mới lạ quá, câu trả lời thơ ngây của em chẳng những không làm hoàng đế không hài lòng, mà ngược lại càng khiến người thêm quý mến. Cuối cùng em trở thành cung phi được sủng ái nhất của nhà vua. Tất cả mọi cung tần mỹ nữ tự cho mình đủ nhan sắc để có thể ngồi vào địa vị của em đều rất ganh tị chuyện đó, chàng không sao tưởng tượng hết mọi thủ đoạn chúng bày ra suốt ba năm qua để hãm hại em đâu. Nhưng em bao giờ cũng tỉnh táo đề phòng, thành ra chúng nó dù ma mãnh đến đâu cũng vô ích mà thôi. Chẳng phải tại em hài lòng với số phận của mình; bởi em không thể nào thật lòng yêu hoàng đế và em cũng chẳng loá mắt trước những vinh danh người dành cho mình. Em chỉ ghét bọn tình địch lúc nào cũng tìm đủ mọi cách hạ bệ em, thế cho nên em cố gắng để cho cả bọn thấy chúng chỉ mất công toi thôi. Mong chàng bỏ quá cho chuyện nhi nữ thường tình ấy.
Nàng nói tiếp:
Nỗi buồn phiền của bọn tình địch thua cuộc làm em sảng khoái hơn tình yêu của hoàng đế dành cho em. Cũng phải thừa nhận vị quân vương ấy rất khả ái; nhưng phần thì có phải đâu tình yêu phụ thuộc vào lý trí của mình, phần thì dường như định mệnh đã dành trái tim em riêng chờ chàng đến, bởi chàng là người đàn ông đầu tiên em để mắt nhìn.
Đáp lại lời tỏ tình hiếm hoi làm tăng tiến vận may của mình, tôi hứa với người đẹp sẽ dành cho nàng một tình yêu bất diệt, và tôi thúc giục nàng chớ nên chần chứ sớm ban cho tôi hạnh phúc. Đúng vào lúc trước khẩn khoảng đòi hỏi yêu thương của tôi, nàng Đacđanê sắp xiêu lòng mà ban cho tôi đỉnh cao lạc thú, thì có tiếng đập cửa khá dập dồn và mạnh mẽ. Cả hai chúng tôi đều rụng rời chân tay. Người đẹp thì thầm: „Trời đất ơi, bọn chúng nó đã phản bội em. Chết chúng ta rồi. Đích thân hoàng đế đến đấy.“
Giá như chiếc thừng đã giúp tôi leo lên ở đúng vào gian phòng này, hẳn tôi đã dễ dàng bám lấy nó tụt xuống đất và thoát thân, nhưng nó lại mắc ở gian hiện nay đang có mặt hoàng đế, thành ra chỉ còn mỗi một lối thoát duy nhất là chui xuống trốn dưới gầm chiếc ngai bạc. Nàng Đacđanê ra mở cửa.
NGÀY THỨ SÁU và NGÀY THỨ BẢY
NGÀY THỨ SÁU.
Nhà vua, theo sau có nhiều hoạn nô cầm đèn soi đường, giận dữ bước vào và quát:
- Con khốn kiếp kia! Có thằng đàn ông nào đang ở đây với mày? Nhiều người thấy nó leo lên qua một cửa sổ căn phòng này, và sợi thừng còn mắc ở cửa sổ ngoài kia!
Nghe vua quát, Đacđanê hoảng hồn, nàng đứng câm như thóc, không thốt nổi một lời. Nàng đã liều lĩnh đến mức ấy, thì bây giờ đến lúc phải trả giá thôi. Hoàng đế phán bảo những người theo hầu:
- Chúng mày hãy lục soát khắp nơi. Không được cho tên khốn kiếp ấy thoát khỏi trừng phạt của ta!
Bọn hoạn nô răm rắp tuân lệnh. Chúng lục lọi khắp nơi. Phát hiện thấy tôi chui dưới gầm ngai, chúng lôi cổ tôi ra, kéo lê đến trước chân nhà vua. Hoàng đế quát:
- Tên khốn nạn kia! Khá khen cho mày to gan lớn mật! Cả thành phố Cairo này hẵn thiếu giống đàn bà cho mày hay sao? Lẽ nào đến hoàng cung của ta, mày cung không kính nễ?
Tôi cũng khiếp đảm chẳng kém nàng cung phi, thiếu chút nữa thì đã lăn ra bất tỉnh nhân sự. Tôi nghĩ giá như câu chuyện ấy diễn ra đối với ngài ở thành phố Batđa, ngài lâm vào cảnh ngộ của tôi khi ngài bị hoàng đế Harun An Rasit vĩ đại bắt chợt (cúi xin ngài lượng thứ cho ý nghĩ vừa rồi), thì tâm trạng ngài hẳn cũng chẳng khác tôi khi ấy. Tôi không đủ sức nói ra lời. Tôi quỳ mọp dưới chân hoàng đế, chỉ còn chờ chết nữa thôi. Nhà vua đã rút gươm sắp sửa chém thì bỗng xuất hiện một bà cụ già lai đen ngăn vua lại. Bà nói:
- Ngài làm gì vậy, muôn tâu hoàng thượng? Sao ngài lại để tay mình vấy dòng máu đê hèn dường ấy? Chúng nó không đáng để mặt đất này vùi thi thể của chúng, một tên dâm phu không biết thế nào là lòng kính trọng hoàng đế, một con dâm phụ đã đang tâm phản bội ngài? Xin ngài hãy ra lệnh ném cả hai đứa xuống dòng sông Nin, để cho tôm cá rứt xác chúng ra.
Hoàng đế nghe theo lời khuyên. Thế là bọn hoạn nô lôi hai chúng tôi đến bên cửa sổ một tháp canh xây nhô ra sông, ném cả hai xuống dòng Nin.
Tuy có bị choáng khi đập thân xuống nước, vốn là một người giỏi bơi lội, tôi bơi sang bờ bên kia, đối diện với hoàng cung. Thoát khỏi một cái chết cầm chắc, tôi nghĩ đến người phụ nữ, mà cơn thất thần trước lưỡi hái thần chết đã khiến tôi quyên lãng. Thế là tình yêu vượt lên nỗi sợ chết, tôi lại lao xuống dòng sông, cũng hăm hở như khi cố sức trèo lên bờ cho thoát nạn. Tôi bơi xuôi theo dòng, và mặc dù đêm tối đen như mực, vẫn cố giương to mắt nhìn khắp chốn mọi nơi, may ra tìm được xác người đàn bà mà tôi đã gây nên cái chết. Hồi lâu thấy sắp đuối sức, tôi lần leo lên bờ để giữ mạng sống, bởi chết lúc này phỏng còn được ích lợi gì.
Tin chắc mười mươi nàng cung phi sủng ái đã mất mạng, tôi đau đớn tự trách mình không sao tả xiết. Thế là mang thêm mối hận gây nên cái chết cho một con người. Tôi khóc như mưa như gió:
- Hỡi ôi! Giá không có ta, không có mối tình sát hại của ta, thì nàng Đacđanê, nàng Đacđanê xinh đẹp lúc này vẫn sống. Tại sao ta lại dẫn xác đến thành phố Cairo này? Tại sao, đã biết là hoạ vô đơn chí, sự bất hạnh này tất kéo theo sự bất hạnh khác, mà ta vẫn cố tìm kiếm tình yêu ở một con người xinh tươi dường ấy?
Quá đau đớn thấy chính mình là nguyên nhân đưa đến cho người mình yêu quý nỗi bất hạnh tuyệt cùng, sau khi đã trót xảy ra chuyện ấy, việc tôi chần chừ nán lại thành phố Cairo chỉ còn là một sự đáng nguyền rủa mà thôi, tôi lên đường đến thành phố Batđa.
Sau nhiều ngày đi đường, một hôm tôi đến chân một ngọn núi, qua bên kia núi sẽ gặp một thành phố lớn. Tôi dừng chân bên một con suối để nghỉ ngơi và quyết định tạm qua đêm ở nơi này. Tôi ngủ thiếp đi cho đến khi mặt trời đã sắp mọc. Chợt vẳng tiếng khóc rên cách chỗ tôi nằm chừng mấy bước, làm tôi tỉnh hẳn giấc. Tôi lắng tai nghe, dường như đấy là tiếng rên la của một người đàn bà đang bị hành hạ. Tôi vội dậy, tiến đến gần chỗ phát ra tiếng khóc rên, và trông thấy một người đàn ông đang đào huyệt bằng một cái cuốc.
Tôi nấp sau bụi cây để quan sát. Thấy anh chàng sau khi đào cái hố, đặt một vật gì xuống đấy, phủ lớp đất mỏng rồi hối hả bỏ đi. Lúc này mặt trời đã mọc, tôi đến gần xem cho rõ sự tình. Tôi moi lớp đất phủ, thấy một cái túi may bằng vải lớn đẫm máu, trong túi đựng xác một người con gái trẻ dường như vừa trút hơi thở cuối cùng. Bộ quần áo cô mặc cho dù dầm dề máu, vẫn cho thấy rõ đây là một con người thuộc giới thượng lưu. Lòng đầy đau xót và kinh tởm, tôi kêu lên:
- Sao có người dã man đến mức đang tâm hãm hại một thiếu phụ lịch sự thế này? Xin trời đất hãy tiêu diệt tên sát nhân!
Người đàn bà tôi tưởng đã chết, nghe tiếng than, liền cất lời:
- Hỡi người anh em tín đồ hồi giáo, xin hãy đem lòng nhân ái cứu giúp tôi. Nếu người biết kính yêu đấng tạo hoá, xin hãy làm phúc cho tôi ngụm nước, cho dịu bớt cơn khát đang dày vò, để cho tôi bớt đau hơn chút ít.
Tôi vội vàng chạy đến giếng, lật chiếc khăn xếp đội trên đầu xuống vục một khăn đầy nước mang đến cho người thiếu phụ. Uống xong, nàng mở mắt nhìn tôi:
- Ôi hỡi chàng trai trẻ vừa kịp thời cứu mạng em, xin hãy tìm cách cầm máu em lại. Em không nghĩ mình bị tử thương. Xin hãy cứu sống em, rồi người anh em chẳng phải hối tiếc đâu.
Tôi xé chiếc khăn đội đầu và rứt một thân tấm áo đang mặc, băng bó tạm vết thương cho nàng. Nàng nói:
- Người đã làm phúc cho em, xin làm đến nơi đến chốn. Hãy tìm cách đưa em về thành phố, để người ta chữa chạy cho em.
- Thưa phu nhân xinh đẹp,- tôi đáp- tôi là một người nước ngoài, không quen biết ai trong thành phố này. Nếu nhỡ có gặp ai và hỏi tại sao tôi mang theo một người con gái vừa bị ai sát hại này, thì tôi biết trả lời ra sao?
- Hãy bảo đây là em gái chàng, còn mọi việc khác chàng không phải lo âu.
Tôi cõng người thiếu phụ trên lưng, đưa vào thành phố, đến một trạm lưu trú dành cho du khách, nhờ sửa soạn cho nàng một chiếc giường. Tôi cho mời một thầy thuốc đến chạy chữa cho nàng. Ông quả quyết các vết thương của nàng chẳng có gì đáng lo ngại. Quả nhiên chỉ một tháng sau nàng bình phục hoàn toàn. Trong thời gian dưỡng bệnh, nàng hỏi lấy giấy bút, ngồi viết một bức thư đặt vào tận tay tôi và nói:
- Anh hãy tìm đến nơi các thương nhân thường tụ họp với nhau, hỏi có vị nào tên là Maya, và trao bức thư này cho ông ấy. Ông ấy đưa thứ gì, anh hãy nhận lấy và mang về đây cho em.
Tôi mang bức thư của nàng đến tìm trao cho Maya. Ông đọc thư rất chăm chú, kính cẩn hôn bức thư rồi đặt lên đầu. Tiếp đó ông lấy ra hai túi lớn đựng đầy những đồng xơcanh (đơn vị tiền cổ) vàng trao cho tôi. Tôi mang về đưa cho thiếu phụ. Nàng nhờ tôi tìm thuê một ngôi nhà. Thuê được nhà rồi, hai chúng tôi dọn về đấy ở. Vừa tới nhà mới, nàng lại viết cho Maya một bức thư thứ hai, lần này ông trao cho tôi những bốn túi đầy xơcanh. Theo lệnh người thiếu phụ tôi đi mua nhiều trang phục cho nàng và cho tôi, cùng mấy tên nô lệ để hầu hạ trong nhà.
NGÀY THỨ BẢY.
Đối với bà con trong khu phố, tôi là anh trai thiếu phụ, mà trên thực tế tôi sống đúng như một người anh trai thật, cho dù nàng là một con người khá hấp dẫn. Người đẹp Đacđanê vẫn choán hết tâm hồn tôi. Chẳng những không muốn kiếm tìm những cuộc tình mới, hơn một lần tôi định từ biệt nàng, song nàng khẩn khoản van tôi chớ bỏ nàng mà đi. Nàng nói:
- Hãy chờ cho ít nữa, hỡi chàng trai trẻ, em cần có anh một thời gian nữa. Rồi đây em sẽ nói cho anh rõ em là ai, và em những muốn sẽ đền đáp xứng đáng công ơn anh đã giúp đỡ em trong cơn hoạn nạn.
Vậy là tôi vẫn phải ở cùng nhà với nàng. Tất cả những việc tôi làm cho nàng đều thuần tuý xuất phát từ lòng hào hiệp. Cho dù rất muốn biết do căn cớ nào nàng bị người ta âm mưu sát hại, tôi không có cách nào làm cho nàng hé lời. Nhiều lần tôi tạo ra cơ hội để nàng giãi bày đầu đuôi câu chuyện xảy ra, nàng vẫn một mực lặng im, không chịu đáp ứng lòng hiếu kỳ của tôi. Một hôm, nàng đưa cho tôi một túi đựng đầy đồng xơcanh và bảo:
- Anh hãy vào phố tìm một nhà buôn có tên là Namahran. Hãy nói anh cần mua nhiều vải đẹp. Ông ta khắc bày ra nhiều loại, anh chọn mua mấy tấm mà anh thấy vừa ý, rồi trả tiền không mặc cả. Anh hãy tỏ ra thật lịch sự với ông ta, rồi mang vải về đây cho em.
Tôi tìm hỏi nhà ông Namahran ở đâu. Biết địa chỉ rồi, tôi tìm đến nơi, thấy ông đang ngồi trong hiệu. Đấy là một chàng trai trẻ vóc dáng khá đẹp, mái tóc xoăn đen nhánh hơn hạt huyền. Ông mang đôi hoa tai rất sang, và hai bàn tay ngón nào cũng đeo nhẫn nạm những viên kim cương rõ to. Tôi ngồi xuống cạnh ông, hỏi mua vải. Ông đưa ra cho tôi xem nhiều thứ. Tôi chọn lấy ba tấm. Ông ra giá, tôi đếm đủ tiền ngay, và sau khi lịch sự xin cáo từ, tôi sai một tên nô lệ vẫn theo hầu mang về nhà.
Hai hôm sau, thiếu phụ lại trao cho tôi một túi tiền vàng khác, nhờ tôi đến hiệu ông Namahran hỏi mua thêm nhiều loại vải vóc nữa. Lần này nàng lại dặn:
- Xin anh nhớ là chớ có mặc cả, ông ta đòi bao nhiêu, trả đủ bấy nhiêu cho em.
Nhà buôn ấy vừa trông thấy tôi bước vào hiệu, và hiểu rõ ý của khách, vội vàng phô ra nhiều loại vải đẹp nhất. Tôi chọn mấy thứ vừa ý. Đến lúc trả tiền, tôi ném túi đồng vàng cho Namahran, bảo giá hết bao nhiêu, xin ông hãy đếm và cầm tiền hộ. Ông ta có vẻ rất thú vị trước cách ăn chơi ấy. Ông nói với tôi:
- Thưa ngài cao quý, ngài có thể cho tôi vinh hạnh được một hôm nào đó mời ngài đến dùng bữa tối ở tệ xá?
Tôi đáp:
- Rất vui lòng. Có thể ngay ngày mai, nếu như ngài muốn.
Ông chủ hiệu vải mừng rỡ, được như vậy thì vô cùng vinh hạnh cho ông.
Khi tôi thuật lại với thiếu phụ ông chủ hiệu buôn muốn mời tôi dùng bữa tối ở nhà ông, nàng tỏ vẻ vui mừng khôn xiết. Nàng nói:
- Xin anh chớ quên đến đấy dùng bữa nhé. Sau đấy nói đến lượt anh muốn thiết đãi ông ta, mời ông ta chiều hôm sau tới nhà mình. Em sẽ sai chuẩn bị bữa tiệc.
Tôi chẳng hiểu sao nàng tỏ vẻ vui mừng đến vậy; chắc có ý đồ chi đây. Tuy nhiên tôi chẳng muốn tìm hiểu sâu làm gì. Vậy là ngày hôm sau tôi tới nhà ông chủ hiệu vải. Ông ta đãi đằng tôi hết sức trọng thị. Trước khi chia tay ra về, tôi nói ông rõ nhà chúng tôi ở đâu, và ngỏ lời muốn đến lượt mình mời ông ngày hôm sau đến nhà dùng cơm chiều.
Ông ta đến đúng hẹn. Chúng tôi ngồi vào bàn, và suốt buổi chiều hôm ấy, cùng nhau thưởng thức những loại rượu ngon nhất. Người thiếu phụ không muốn cùng tham dự bữa tiệc, hơn nữa nàng cố tình giấu mặt trong suốt bữa ăn. Trước đó nàng đã hết sức cẩn thận dặn tôi cố hết sức làm vui lòng ông khách, và gắng làm sao chớ để ông ta ra về tối hôm ấy. Thế là tôi khẩn khoản cầm chân ông lại. Chúng tôi lại cùng nhau uống rượu, chơi bời đến tận nửa đêm. Lúc này tôi dẫn ông vào một căn phòng gia nhân đã sửa soạn tươm tất, mời ông tạm nghỉ rồi lui về phòng riêng của mình.
Tôi lên giường nằm và ngủ luôn. Song chưa nghỉ ngơi được mấy chốc đã thấy thiếu phụ đến đánh thức. Tôi thấy nàng tay cầm bó đuốc, tay kia nắm cây dao găm. Nàng nói:
- Hỡi chàng trai trẻ, xin hãy tỉnh dậy, hãy đến xem vị đồng thực khách của anh đang ngập trong vũng máu kia.
Những lời nói nghe mà kinh hoàng làm tôi choàng tỉnh. Tôi vội vàng mặc áo, theo chân thiếu phụ đến căn phòng ông khách nghỉ, thấy anh chàng khốn khổ nằm chết sóng sượt trên giường. Tôi kêu lên:
- Hỡi con người độc ác kia, nàng làm gì vậy? Tại sao nàng nỡ có hành vi đen tối đến thế. Tại sao nàng biến tôi trở thành công cụ cho nàng thực hiện cơn điên?
Chàng trai trẻ ơi, - nàng đáp- xin chớ bực mình đã giúp em trả thù Namahran, nó là một tên phản trắc. Anh sẽ không còn thương hại hắn ta nữa một khi anh rõ tội ác của nó, hay đúng hơn khi anh biết chính hắn là kẻ đã gây nên cho em bao điều bất hạnh, mà em xin thuật lại để anh tỏ tường sau đây.
Nàng nói tiếp:
- Em là con gái nhà vua đang trị vì ở thành phố này. Một hôm trên đường đến nhà tắm công cộng, em nhìn thấy Namahran trong cửa hiệu của y, tự nhiên em xúc động trong lòng. Mặc dù cố ngăn mình, hình ảnh anh chàng luôn hiện diện trong tâm trí em. Em cảm thấy si mê hắn ta, em đã cố xua đuổi đi ý nghĩ ấy vì cảm thấy như vậy thật chẳng xứng đáng với địa vị của mình, và đôi lần những tưởng có thể vượt qua. Nhưng em đã nhầm lẫn. Tình yêu chiến thắng sự kiêu sa. Em trở nên bồn chồn rầu rĩ, căn bệnh ấy ngày một trầm trọng thêm, khiến em ngã bệnh nặng. Chắc em đến chết mất vì căn bệnh tương tư ấy. Tuy nhiên bà quản mẫu của em, vốn quen thuộc các triệu chứng của cơn bệnh tình giỏi hơn các vị ngự y nhiều, bà hiểu rõ căn nguyên. Bà khéo léo dỗ dành để em thú thật là suy đoán của bà quả không sai. Em kể cho bà nghe em trở nên say đắm mối tình này trong trường hợp nào. Nghe xong, bà hiểu ra ngay, rõ ràng em đang mắc bệnh si mê Namahran như dại như điên.
Bà tỏ ra thương hại em. Bà hứa sẽ tìm cách làm cho em đỡ đau khổ. Quả vậy, một hôm bà tìm được cách đưa anh chàng nhà buôn trẻ cải trang thành con gái vào được ngôi nhà em đang ở. Em vui mừng được nhìn lại anh ta, đồng thời cũng nhận ra anh vô cùng tỏ ra diễm hạnh trước tình yêu của em. Sau khi giấu anh chàng nhiều ngày trong một gian phòng để có dịp đi lại với em, bà quản mẫu lại khéo léo tìm cách đưa anh chàng ra trót lọt khỏi hoàng cung, y như lần vào. Thế là lâu lâu anh chàng lại đến với em dưới dạng cải trang ấy.
NGÀY THỨ TÁM và NGÀY THỨ CHÍN
NGÀY THỨ TÁM.
Chẳng hiểu sao em nảy ra ý định dại dột tự mình tìm đến gặp Namahran. Em muốn đến bất chợt, cho anh chàng thảng thốt vì bất ngờ, nghĩ rằng làm như vậy anh ta sẽ thấy tình yêu của em đối với anh lên đến tuyệt đỉnh. Một đêm, em ra khỏi hoàng cung theo những con đường tắt mà em chẳng lạ gì, đến thẳng nhà anh chàng. Tìm ra ngôi nhà ấy chẳng khó khăn lắm, vì em đã để ý mỗi lần đi ngang qua, trên con đường tới nhà tắm và từ nhà tắm trở về. Em đập cửa, một con nữ tì ra hỏi bà là ai và bà cần gì. Em đáp:
- Ta là một thiếu phụ trong thành phố. Ta có việc muốn gặp ông chủ mày.
- Ông ấy đang bận, - nữ tì nói- lúc này ông đang dở tiếp một bà khác, mời bà tối mai trở lại.
Nghe ba tiếng „một bà khác“, em nổi cơn ghen không sao kiềm chế được. Em như điên lên; đáng lẽ quay trở về, em xộc luôn vào nhà. Thấy một gian phòng có ánh sáng và có vẻ đang có tiệc tùng trong ấy, em bước vào, trông thấy anh chàng thương nhân ngồi dùng bữa với một cô gái trẻ khá xinh. Hai người đang chén anh chén em, và cùng song ca những khúc hát trữ tình say đắm. Cảnh tượng ấy làm em không sao nén được cơn giận, em bổ nhào vào cô gái trẻ rồi cứ thế mà đấm liên hồi kỳ trận; có lẽ em đánh con bé đến chết nếu nó không nhanh chân tìm đường thoát thân. Em không chỉ đánh con tình địch, trong lúc đang hăng tiết, em chẳng chừa mà thẳng tay nện luôn anh chàng Namahran.
Thoạt tiên anh chàng quỳ xuống dưới chân em, xin em vui lòng tha thứ, và hết lời thề thốt từ nay sẽ chẳng bao giờ dám lừa dối em. Cơn giận em dịu dần. Em tin vào những lời thề thốt mặn mà cũng như vẻ an năn khuất phục của anh chàng. Anh chàng còn mời em uống rượu với hắn, và hắn khéo chuốc đến nỗi em say mèm. Khi thấy em đã say khướt, tên phản trắc đâm em nhiều nhát dao. Em ngả xuống bất tỉnh nhân sự. Tưởng em đã chết, hắn cho em vào một cái túi vải lớn, rồi tự mình vác lên vai ra khỏi thành phố, đến cái nơi mà anh bắt gặp em lần trước. Trong khi hắn đào huyệt, em hồi tỉnh và rên lên mấy tiếng; hắn đã không đem lòng thương hại thì chớ, còn nhẫn tâm tới mức không kết liễu cho em chết hẳn mà cứ vậy chôn sống, thậm chí anh chàng như có vẻ thích thú khi hành động dã man đến thế.
Còn về Maya,- nàng kể tiếp- người thương nhân anh từng mang thư tới cho, chính là nhà buôn vẫn đưa vải vóc vào cung cấp cho mọi người trong hoàng cung. Em nói với ông em đang cần tiền, em có kể sơ cho ông biết câu chuyện và yêu cầu ông giữ kín cho tới khi em trả được hoàn toàn mối hận.
Đấy là tất cả câu chuyện của em, hỡi chàng trai trẻ. Trước đây em đã không nói cho anh rõ chuyện ấy, sợ anh ngại ngùng không muốn dẫn tên khốn kiếp ấy về nhà cho em trừng trị chăng. Em tin đến lúc này, anh không còn chê trách hành động của em nữa. Nếu anh là người sẵn có tấm lòng căm ghét những tâm địa phản trắc, hẳn anh phải ngợi khen lòng dũng cảm của em đã dám thọc lưỡi dao vào đúng trái tim phản trắc của tên khốn kiếp Namahran.
Chẳng bao lâu nữa trời sẽ sáng- nàng nói tiếp- anh và em chúng ta cùng nhau đi đến hoàng cung. Phụ vương em lúc nào cũng yêu thương em với tấm lòng trời bể. Em sẽ thú nhận với người tội lỗi của em. Em hy vọng được người tha thứ, và em dám hứa chắc với anh là người sẽ không quên trọng thưởng anh.
Nghe đến đây tôi nói với nàng công chúa:
- Không đâu, thưa bà. Tôi không đòi đền đáp chút gì cái công cứu sống bà. Nói có trời đất chứng dám, tôi chẳng hề hối tiếc chuyện ấy; nhưng xin thú thật với bà tôi thật vô cùng thất vọng sao mình lại phục vụ sự trả thù của bà một cách mẫn cán đến thế. Bà đã lợi dụng lòng nhân ái của tôi để lôi kéo tôi tham gia một vụ lừa dối. Đáng ra bà nên ngỏ lời sớm với tôi và cậy nhờ tôi tìm cách báo thù cho bà. Hẳn tôi đã chẳng ngại ngần đưa mạng sống của mình ra giúp bà trả hận một cách cao thượng hơn.
Tóm lại, thưa ngài, mặc dù nghĩ tên Namahran bị trừng trị là đáng kiếp, tôi vẫn ân hận xiết bao, chính mình đã đưa anh chàng đến cái chết, tôi liền bỏ nàng công chúa mà đi ngay tức khắc, chẳng chút màng những lời hứa hẹn của nàng. Tôi rời ngôi nhà ấy trước khi trời sáng. Mặt trời vừa mọc, tôi nhìn thấy một đoàn lữ hành hạ trại nghỉ đêm trên một cánh đồng cỏ, tôi liền nhập bọn. May mắn sao đoàn đang trên đường về thành phố Batđa, nơi chính tôi cũng đang muốn đến, thành ra tôi khởi hành luôn cùng đoàn.
Tôi tới được Batđa bình yên, tuy nhiên chẳng bao lâu thấy mình lâm vào một tình cảnh đáng buồn. Tôi hết sạch tiền. Tất cả gia sản đồ sộ của tôi ngày trước nay chỉ còn sót lại đúng một đồng xơ canh vàng trong túi. Tôi tính chuyện mang đổi lấy tiền lẻ. Tôi dùng số tiền lẻ ấy mua táo hương, kẹo hạnh nhân, nước thơm và hoa hồng. Ngày ngày tôi mang cái giỏ đựng những thứ vừa mua được ấy đến một quán bán nước fiquaa (Một loại nước giải khát, gần giống bia làm bằng đại mạch, nho và nước), ở đấy nhiều vị quan chức trong thành phố cùng khách khứa đủ hạng hay tới dùng nước giải khát và trò chuyện. Tôi nâng cái giỏ đưa đến từng người. Ai thích thức gì dùng thức ấy, và dĩ nhiên nhiều ít người nào cũng có trả cho tôi một vài đồng lẻ. Thành ra cái việc buôn bán lặt vặt ấy cũng giúp cho tôi sống tạm chẳng đến nỗi nào.
Một hôm, tôi đang mang giỏ hoa quả đến quán giải khát bán thường lệ, mời mọi người mua, chợt có một cụ già đang ngồi trong một góc khuất tôi không nhìn thấy cho nên không mời, gọi tôi lại và hỏi:
- Anh bạn ơi, tại sao bạn không mang giỏ hàng của bạn đến mời lão này mua như mời những người khác? Anh bạn cho già này không thuộc loại người đứng đắn sao? Hay là anh nghĩ trong hầu bao của ông lão chả có đồng xu nào?
- Thưa ngài, tôi đáp- mong ngài bỏ quá cho sự sơ xuất. Tôi xin quả quyết hồi nãy không nhìn thấy ngài. Cả giỏ hàng của tôi đây, xin ngài dùng thoải mái, tôi chẳng dám đòi hỏi gì hơn ở ngài.
Vừa nói, tôi vừa nâng cái giỏ lên trước mắt cụ. Cụ già cầm một quả táo hương, rồi bảo tôi ngồi xuống bên cạnh. Tôi ngồi, cụ già hỏi tôi đủ thứ, nào là tôi là ai, nào họ tên tôi là gì. Tôi thở dài thưa:
- Xin cụ miễn cho cháu phải đáp những điều cụ hỏi. Cháu không thể trả lời những điều cụ muốn biết là không lại làm rớm máu những vết thương đang bắt đầu lành miệng trong tim cháu.
Những lời nói ấy, hay đúng hơn là cái giọng tôi thốt ra, khiến cụ già thôi không thúc ép nữa. Cụ chuyển sang chuyện khác, rồi sau một hồi trò chuyện, lúc đứng dậy ra về cụ lấy ở túi tiền ra mười đồng xơcanh vàng đặt vào tay tôi.
Tôi khá ngạc nhiên về sự hào phóng ấy. Các vị khách sang nhất tôi mời mua hoa quả chưa từng có ai trả cho tôi đến một xơcanh bao giờ, vì vậy không hiểu nỗi cụ già này là người như thế nào. Sáng hôm sau quay trở lại cái quán bán nước đã thấy ông cụ ngồi ở góc ấy. Dĩ nhiên tôi mang giỏ hàng tới mời cụ mua trước tiên. Cụ lấy một ít nước hoa, bảo tôi ngồi xuống cạnh, rồi thúc ép tôi kể chuyện mình, khẩn khoản tới mức tôi không thể không vâng lời.
Tôi thuật lại cho cụ nghe tất cả những gì đã xảy ra trong đời mình. Sau khi nghe tôi giãi bày tâm sự, cụ già nói:
- Ta có quen biết thân sinh anh ngày trước. Ta vốn cũng là một thương nhân ở thành Basra. Ta không có con, mà cũng chẳng còn hy vọng có. Ta có cảm tình với anh, ta nhận anh làm con nuôi. Vậy thì, con trai ta ơi, con hãy quên đi mọi đau buồn trong quá khứ, con sẽ thấy ở già đây một người cha còn giàu có hơn cả phụ thân con, ngài Apđêlazit, khi người còn sống. Cha hứa sẽ hết sức thương yêu con.
Tôi cảm tạ cụ già về vinh hạnh dành cho tôi, và khi cụ đứng dậy ra về, tôi đi theo luôn. Cụ bảo tôi vứt cái giỏ cùng với hoa quả trong ấy đi, rồi dẫn tôi đến một dinh cơ lớn mà cụ đã thuê từ trước. Cụ cho tôi một căn hộ cùng mấy tên nô lệ để hầu hạ. Cụ lại sai người mang đến cho nhiều quần áo sang trọng. Tưởng như phụ thân tôi, Apđêlazit vẫn đang còn sống, và tôi chưa phải lâm vào một cảnh khốn cùng bao giờ.
Khi cụ thương nhân ấy giải quyết xong công việc ở Batđa, nghĩa là bán hết mọi thứ hàng hoá mang từ Basra đến, chúng tôi cùng lên đường trở lại thành phố Basra. Lũ bạn chơi bời ngày trước, những tưởng chẳng bao giờ gặp lại tôi, rất đỗi ngạc nhiên tôi trở thành con nuôi một vị thương nhân được mọi người coi là giàu nhất thành phố. Tôi cố sức làm vui lòng cụ già. Cụ cũng lấy làm cảm kích về chuyện ấy. Thỉnh thoảng cụ lại nói:
- Abuncaxem à, cha rất hài lòng đã gặp con ở thành phố Batđa. Con có vẻ xứng đáng với những gì cha làm cho con.
Tôi rất xúc động về tình cảm cụ dành cho mình, nhưng chẳng bao giờ lạm dụng lòng tốt của cụ, mà tự mình nghĩ ra và làm mọi thứ cho cụ vui lòng. Giờ tôi không chơi bời phóng đãng với bạn bè cùng trang lứa nữa, tôi luôn luôn ở bên cạnh cụ. Hầu như tôi không rời xa cụ một bước.
NGÀY THỨ CHÍN.
Một hôm cụ già phúc hậu ấy đổ bệnh, các thầy thuốc chạy chữa thế nào bệnh cũng không thuyên giảm. Thấy mình e tới lúc khó qua khỏi, ông cho tất cả mọi người lui ra và nói riêng với mình tôi:
Con ơi, đã đến lúc cha nói cho con rõ một điều bí mật quan trọng. Nếu cha chỉ để lại cho con cái dinh cơ này cùng với của cải trong đó như con hằng nghĩ, thì cái gia tài cha để lại cho con chẳng đáng bao nhiêu. Nhưng tất cả gia sản mà cha dành dụm được suốt đời, tuy to lớn thật đấy so với kho tàng bí mật, mà cha sẽ cho con biết đây. Cha sẽ không nói rõ với con, kho tàng có ở đây từ thời nào, do ai tạo lập và bằng cách nào, bởi bản thân cha cũng không hay. Tất cả những gì cha biết được, là ông nội cha khi sắp qua đời đã để lại cho phụ thân cha, và phụ thân cha cho đến khi chuẩn bị về thế giới bên kia, mới nói cho cha rõ.
Nhưng,- cụ già nói tiếp,- cha có một lời khuyên cho con, mong con chớ coi thường. Bản tính con vốn hào phóng. Một khi con thấy có điều kiện sống theo sở thích của mình, chắc thế nào con cũng phung phí tài sản của con. Con sẽ biếu tặng mọi người, con sẽ giúp đỡ cho những ai đến tìm con xin cứu giúp. Tính tình ấy, mà cha đánh giá cao nếu biết giữ mức độ, sẽ là nguyên nhân làm cho con bị hãm hại. Con sẽ sống xa hoa đến nỗi gợi nên lòng ganh tị của quốc vương Basra hoặc là sự ghen ghét của các quan đại thần trong triều. Họ sẽ nghi con có cả một kho tàng cất giấu đâu đấy. Rồi họ sẽ chẳng từ nan phương kế nào để chiếm đoạt cho bằng được. Để ngăn ngừa nỗi bất hạnh ấy, con chỉ có việc noi gương cha đây. Cha, cũng như thân sinh và tổ phụ cha ngày trước, luôn lo làm nghề nghiệp của mình và hưởng thụ kho tàng một cách khiêm nhường. Các cụ cũng như chính cha đây, chưa bao giờ tiêu pha món nào to lớn quá để mọi người phải lấy làm kinh ngạc.
Dĩ nhiên tôi hứa hẹn với cụ rằng tôi sẽ noi tấm gương thận trọng của cụ. Cha nuôi tôi liền chỉ cho tôi biết chỗ cất giấu kho tàng, và còn quả quyết là cho dù tôi hình dung kho tàng ấy đồ sộ đến đâu, trí tưởng tượng của tôi chẳng thấm tháp gì so với thực tế đâu.
Quả vậy, sau khi cụ già hào hiệp ấy qua đời, bởi tôi là người thừa kế duy nhất, cử hành xong tang lễ trọng thể cho cụ, tôi trở thành người sở hữu toàn bộ gia sản của cụ, mà toà dinh cơ này chỉ là một phần. Tôi vội đi tìm xem kho báu. Xin thú thật, thưa ngài, là tôi cực kỳ kinh ngạc khi nhìn thấy. Tuy không thể nói rằng kho tàng chẳng bao giờ cạn, ít nhất cũng có thể khẳng định với ngài là cho dù tôi có sống dai hơn tất cả mọi người trên đời, cũng chẳng làm sao tiêu pha hết. Bởi vậy, đáng ra phải giứ lời hứa với cụ già, tôi lại ban phát khắp nơi của cải giàu có của mình. Không một người nào trong thành phố Basra này không được hưởng ân huệ của tôi. Nhà tôi rộng mở đón tiếp tất cả những ai cần đến mình, và ai đã đến thì ra về cũng mãn nguyện. Sao gọi là nắm trong tay cả một kho tàng mà không dám tiêu pha đến nó, tôi nghĩ. Và có cách nào sử dụng kho báu của mình tốt hơn, nếu không đem dùng vào việc giúp những người bất hạnh đỡ khổ, đón tiếp cho trọng thị người nước ngoài, và để hưởng một cuộc đời đầy lạc thú?
Mọi người đều nghĩ rằng tôi sẽ đi đến khuynh gia bại sản một lần nữa cho mà xem. „Ôi dào, cái anh chàng Abucaxem ấy, ngữ ấy mà có trong tay tất cả các kho báu của Đấng thống lĩnh các tín đồ, thì nó cũng làm tiêu tan thôi!“ Ấy nhưng mọi người rất đỗi ngạc nhiên, thấy công việc làm ăn của tôi đã chẳng lụn bại chút nào, mà hình như có vẻ như ngày càng phát đạt hơn. Chẳng ai hiểu được bằng cách nào tôi có thể làm tăng thêm tài sản của mình trong khi cứ phung phí nó.
Tuy nhiên tôi tiêu xài quá rộng, cuối cùng gợi nên lòng ganh tị đối với sự giàu có của tôi, đúng như lời cụ già tiên đoán. Cả thành phố đồn đại rằng tôi bắt được một kho vàng. Chẳng cần có gì hơn nữa để cuốn hút đến cổng nhà tôi những người hám hôi của. Viên quan lo việc cảnh sát thành phố Basra một hôm tìm đến gặp tôi và nói:
- Ta chính là quan Đaroga (Viên quan lo về trật tự trị an) của thành phố này đây. Ta đến đây hỏi cho biết cái kho báu đã giúp anh sống xa hoa như thế, nằm ở đâu?
Nghe hỏi, tôi bối rối chẳng biết nên trả lời thế nào.
Nhìn thấy thái độ lo lắng của tôi, viên Đaroga cho rằng những lời đồn đại loan truyền trong thành phố không phải vô căn cứ. Nhưng y không thúc ép tôi nói rõ kho báu ở đâu, mà chỉ nói tiếp:
- Ngài Abuncaxem thân mến, xưa nay tôi vẫn xử sự với mọi người như một con người có văn hoá. Ngài hãy biếu cho tôi một món quà xứng đáng để tôi giữ kín giùm điều bí mật, và tôi sẽ để ngài yên ổn.
- Ông cần bao nhiêu?- tôi hỏi lại.
Viên cảnh sát đáp:
- Tôi chỉ cần mười đồng xơcanh vàng mỗi ngày.
Tôi nói:
- Như vậy quá ít. Tôi sẽ cho ông một trăm đồng xơcanh mỗi ngày.
Nghe nói, viên Đaroga mừng rơn:
- Thưa ngài, tôi cầu trời cho ngài bắt được một nghìn kho tàng. Ngài hãy yên tâm tận hưởng tài sản của ngài. Chẳng bao giờ tôi quấy rầy ngài về chuyện sở hữu nữa đâu.
Tôi đưa cho y nhận trước một món tiền lớn, thế là y ra về.
Ít lâu sau, quan tể tướng Apbunfata cho người tìm tôi. Ông mời tôi vào phòng làm việc và bảo:
- Hỡi chàng trai trẻ tuổi kia, ta vừa biết anh phát hiện một kho báu. Anh rõ rồi đó, một phần năm của cải bắt được thuộc về Thượng đế, anh phải chia phần ấy cho nhà vua. Vậy thì anh hãy chia ra một phần năm đi, bốn phần còn lại anh yên tâm làm chủ.
Tôi đáp:
- Trình tể tướng, tôi xin thú thật với ngài là tôi quả có bắt được một kho tàng, đồng thời tôi cũng xin thề độc trước Thượng đế là Đấng đã sáng tạo ra ngài cũng như sáng tạo ra tôi, là cho dù tôi có bị phân thây làm bốn mảnh, tôi cũng chẳng hé răng chỉ chỗ có kho tàng. Tuy nhiên tôi sẵn sàng biếu quan lớn mỗi ngày một nghìn đồng xơcanh vàng, với điều kiện sau đấy ngài để yên cho tôi nhờ.
Hoá ra cụ tể tướng Abunfata cũng dễ biết điều như viên cảnh sát quèn mà thôi. Ông sai một người tín cẩn đến gặp người giữ kho báu của tôi, anh này giao luôn ba mươi ngàn xơcanh cho tháng đầu.
Quan tể tướng sợ rồi đây nhà vua sẽ biết chuyện, nghĩ thà tự mình nói ra trước thì hơn. Quốc vương chăm chú nghe tể tướng trình, nhà vua nghĩ vấn đề này đáng được đi sâu hơn nữa, liền ngỏ ý muốn gặp trực tiếp tôi. Nhìn thấy tôi, nhà vua vừa cười vừa phán:
- Này, anh chàng trẻ tuổi kia, tại sao anh không chỉ cho ta biết kho tàng anh ở đâu? Anh nghĩ ta kém công minh đến mức chiếm đoạt tài sản của anh sao?
Tôi thưa:
- Muôn tâu hoàng thượng, cầu Thượng đế ban phúc cho ngài vạn thọ vô cương. Nhưng xin tâu, cho dù kẻ này có bị người lấy kìm nung đỏ mà rứt thịt da ra, cũng chẳng bao giờ hé răng nói lộ kho tàng ở đâu. Tôi đồng ý mỗi ngày nộp cho hoàng thượng hai nghìn đồng xơcanh vàng. Nếu ngài từ chối không nhận mà cho rằng tôi đáng tội chết, xin ngài cứ truyền lệnh, tôi thà chịu muôn ngàn cực hình chứ chẳng bao giờ thoả mãn sự hiếu kỳ của hoàng thượng.
Nghe vậy, nhà vua quay nhìn tể tướng, tham khảo ý kiến của ông. Tể tướng nói:
- Tâu bệ hạ, số tiền anh chàng này nộp hoàng thượng hàng ngày cũng cầm bằng như ta bắt được một kho tàng. Xin hoàng thượng cho phép y ra về, sống cuộc đời xa hoa thường nhật của y, miễn là y phải răm rắp giữ đúng lời đã hứa với hoàng thượng.
Nhà vua nghe theo lời khuyên của tể tướng. Vua cho tôi lui ra, còn phủ dụ thân thiết nữa là khác. Từ hôm ấy trở đi, theo đúng thoả thuận của chúng tôi với nhau, mỗi năm tôi cống nạp một lần và cùng một lúc cho nhà vua, cho tể tướng và cho quan cảnh sát, tổng cộng hơn một triệu sáu trăm nghìn đồng xơcanh vàng.
- Thưa ngài, - chàng trẻ tuổi nói tiếp với hoàng đế Harun An Rasit- đấy là tất cả điều ngài muốn rõ. Giờ chắc ngài không ngạc nhiên nữa về những tặng vật tôi biếu ngài, cũng như về tất cả những gì ngài nhìn thấy trong nhà tôi.
Khi nghe Abuncaxem kể xong câu chuyện của chàng như vậy, hoàng đế rất nóng lòng muốn nhìn tận mắt kho tàng, liền bảo:
- Có thể nào trên đời này tồn tại một kho tàng mà mặc dù ngài hào phóng đến vậy cũng chẳng bao giờ cạn kiệt? Không, tôi chẳng thể nào tin. Thưa ngài, nếu điều tôi nói ra đây không là sự đòi hỏi quá đáng đối với ngài, thì xin ngài bằng lòng cho tôi xem những của cải ngài sở hữu, tôi xin thề một lời thiêng liêng nhất muôn đời không dám vi phạm, rằng tôi sẽ chẳng lạm dụng lòng tin cậy của ngài.
Người con trai của Apđêlazit tỏ vẻ buồn phiền khi nghe hoàng đế bảo vậy. Chàng nói:
- Thưa ngài, tôi quả thật không vui ngài có lòng hiếu kỳ như vậy. Tôi chỉ có thể thoả mãn ngài với những điều kiện không được lịch sự cho lắm.
- Cho dù các điều kiện ấy khắt khe đến thế nào đi nữa,- hoàng đế thốt lên- tôi sẵn sàng tuân thủ mà không lấy làm phiền lòng.
- Những điều kiện ấy là,- chàng trai nói tiếp- ngài vui lòng cho phép tôi bịt mắt ngài, ngài phải bỏ khăn, để đầu trần và không mang theo vũ khí, còn tôi cầm mã tấu ở tay, sẵn sàng chém sả vào ngài hàng ngàn nhát cho kỳ chết, nếu ngài vi phạm luật hiếu khách thoả thuận giữa chúng ta. Tôi hiểu, xử sự thế này có người sẽ cho tôi sao quá khinh suất,- chàng nói thêm- đáng ra tôi không nên chấp thuận ý muốn của ngài, song tôi tin ngài đã đặt toàn bộ lòng kính tín của mình vào những lời thề thiêng liêng; hơn nữa cũng bởi vì tôi không sao để một vị đồng thực khách ra về không hài lòng khỏi nhà tôi.
Hoàng đế nói:
- Vậy thì xin ngài hãy làm ơn thoả mãn mong muốn hiếu kỳ của tôi ngay lúc này.
- Xin vui lòng chờ cho lát nữa. Đêm nay mời ngài nghỉ lại nhà tôi. Đợi đến lúc tất cả gia nhân đi ngủ hết rồi, đích thân tôi sẽ đến tìm ngài và dẫn ngài đi.
Nói đến đây, chàng lớn tiếng gọi người hầu. Dưới ánh sáng vô vàn ngọn nến cắm trên những đế đèn bằng vàng khối do bọn nô lệ cầm ở tay dẫn đường, chàng đưa hoàng đế đến một gian phòng lộng lẫy, rồi lui về phòng riêng. Bọn nô lệ giúp nhà vua cởi áo ngoài, mời vua nằm nghỉ, sau khi để lại những cây nến lên phía trên và dưới chân giường ngủ, cả bọn lui ra. Nến toả mùi hương dìu dịu.
NGÀY THỨ MƯỜI và NGÀY THỨ MƯỜI MỘT
NGÀY THỨ MƯỜI.
Đáng ra nên cố ngủ một chốc, đằng này hoàng đế Harun An Rasit nóng lòng chờ đợi Abuncaxem. Chàng đến tìm vua vào lúc nửa đêm, và nói:
- Thưa ngài, tất cả bọn gia nhân của tôi đã ngủ say rồi; giờ đây nhà tôi lặng ngắt như tờ, lúc này tôi có thể mời ngài đi xem kho báu, với những điều kiện như tôi từng thưa với ngài.
Hoàng đế ngồi lên:
- Vâng, chúng ta đi, tôi sẵn sàng đi theo ngài, tôi xin thề trước Đấng tạo hoá và trước Mặt đất, là ngài sẽ không phải hối tiếc vì đã thoả mãn tính hiếu kỳ của tôi.
Chàng con trai Apđenlazit giúp hoàng đế mặc áo, rồi lấy một tấm khăn bịt mắt vua:
- Xin ngài hiểu cho, tôi rất tiếc phải xử sự thế này với ngài; bộ dạng và phong thái của ngài có vẻ đáng cho tôi tin cậy hơn…
- Tôi chấp thuận sự thận trọng của ngài- hoàng đế ngắt lời- tôi chẳng trách ngài về chuyện ấy.
Abuncaxem đưa vua theo một cầu thang bí mật xuống một khu vường rộng, sau khi đi quanh co nhiều đoạn, hai người đến nơi cất giấu kho tàng.
Đấy là một gian hầm ngầm rất rộng rất sâu trong lòng đất, lối vào chỉ được che bằng một phiến đá bình thường. Thoạt tiên họ xuống theo một đường dốc hẹp và tối om, cuối đường gặp một gian phòng rộng được chiếu sáng rực bởi những vật lấp la lấp lánh. Vào trong phòng, chàng trai tháo khăn bịt mắt cho hoàng đế. Nhà vua kinh ngạc nhìn mọi thứ bày ra trước mắt. Chính giữa phòng là một cái bể bằng đá cẩm thạch trắng, chu vi chừng năm mươi bộ và sâu khoảng ba mươi bộ. Bể chứa đầy những đồng tiền vàng lớn, chung quanh có mười hai cây cột đồ sộ bằng vàng khối, đỡ chừng ấy bức tượng tạc bằng đá quý chế tác thật tinh vi.
Abuncaxem dẫn hoàng đế đến gần cái bể và nói:
- Cái bể này sâu ba mươi bộ, ngài đã nhìn thấy những đống vàng trong ấy. Cho đến hôm nay, bể mới vơi bớt chừng hai đốt ngón tay, ngài có nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ tiêu xài hết khoản vàng trong đó?
Hoàng đế chăm chú xem xét cái bể rồi đáp:
- Tôi thừa nhận đấy là những của cải vô biên, nhưng rồi ngài vẫn có thể tiêu hết sạch sành sanh.
- Nếu vậy thì,- chàng trai đáp- chừng nào cái bể này cạn hết vàng, tôi sẽ nhờ đến cái bể khác mà tôi sắp chỉ cho ngài xem đây.
Vừa nói chàng vừa dẫn vua Harun sang một căn phòng khác càng lấp lánh càng sáng rực hơn căn phòng vừa rồi. Trong phòng bày nhiều trường kỷ bọc gấm đỏ có đính cơ man là những viên ngọc báu và kim cương. Chính giữa phòng cũng có một cái bể giống hệt như cái bể ở phòng kia. Trên thực tế cái bể này chẳng rộng chẳng sâu hơn cái bể chứa vàng, song bù lại, nó lại đầy những hồng ngọc, bích ngọc, lam ngọc, cùng đủ các loại ngọc quý khác trên đời.
Chưa bao giờ hoàng đế cảm thấy ngạc nhiên dường ấy. Vua không rõ mình đang tỉnh hoặc đang mơ. Cái bể chứa ngọc này thật đúng là một sự diệu kỳ, vua còn mải ngắm nghía thì chàng con trai của Apđêlazit đã trỏ cho vua thấy trên một bức sập bằng vàng có hai bức tượng mà chàng bảo đấy là những chủ nhân đầu tiên của kho báu này. Tượng một ông hoàng và một bà chúa mang trên đầu những chiếc vương miện bằng kim cương, trông có hồn như người đang sống thật. Hai người nằm dài cạnh nhau trên sập, đầu tựa sát đầu, dưới chân họ có một cái bàn bằng gỗ mua có khắc những dòng chữ vàng như sau:
„Ta đã thu thập suốt cả cuộc đời trường thọ để có tất cả của cải chứa nơi đây. Ta đã từng xâm chiếm và cướp phá bao nhiêu thành quách, lâu đài. Ta đã chinh phục biết bao vương quốc và đánh gục biết mấy kẻ thù. Ta từng là đấng quân vương hùng cường nhất thế gian, nhưng mọi quyền lực của ta đành thúc thủ trước cái chết. Bất cứ người nào mai sau nhìn thấy ta trong khung cảnh này, cần phải biết mở mắt ra cho lớn. Người ấy cần suy nghĩ rằng ta đã từng sống như họ và rồi họ sẽ chết giống như ta. Người ấy hãy biết sử dụng kho tàng này để kiếm thêm bạn bè và sống cuộc đời dễ chịu. Người ấy cần phải biết, mọi thứ của cải trên đời này không thể bảo đảm cho mình thoát ra ngoài số phận chung của mọi người trên trần thế“.
Sau khi đọc những dòng chữ ấy, hoàng đế Harun An Rasit nói với chàng trai:
- Giờ đây tôi không còn chê trách cách hành xử của ngài nữa. Ngài đã có lý khi sống cuộc đời như ngài đang sống. Tôi phản bác những lời khuyên mà vị thương nhân già đã khuyên răn ngài. Tuy nhiên,- hoàng đế nói thêm- tôi muốn rõ danh hiệu đấng quân vương này. Có nhà vua nào có thể sở hữu bấy nhiêu tài sản? Thật tôi chẳng hài lòng, sao những dòng chữ kia khôgn cho chúng ta biết thêm điều đó nhỉ.
Chàng trai còn dẫn hoàng đế sang một gian phòng khác chứa nhiều đồ vật rất qúy giá, trong đó có những cây thân làm bằng bạc giống hệt như cây chàng trai đã mang biếu hoàng đế. Nhà vua hẳn còn muốn dành cả thời gian còn lại của đêm nay để ngắm nghía các vật chứa trong căn hầm kỳ diệu này, nhưng Abuncaxem sợ bọn gia nhân bắt gặp, đành mời nhà vua lên khỏi hầm ngầm trước khi trời sáng. Vẫn đi lên theo đúng cách như khi đi xuống, nghĩa là nhà vua bị bịt mắt, để đầu trần, trong khi chàng trai lăm lăm cây mã tấu ở tay, sẵn sàng chặt đầu nếu hoàng đế thoáng có ý định đưa tay tháo gỡ giải khăn che mắt.
Hai người băng qua khu vườn rộng, trở lại gian phòng nhà vua nghỉ qua cái cầu thang bí mật. Trong phòng các cây nên vẫn còn cháy sáng. Hai người trò chuyện cho đến khi trời sáng hẳn. Hoàng đế nói:
- Sau tất cả những gì tôi đã thấy, và qua con nữ tì ngài biếu tôi, tôi chắc rằng trong nhà ngài có những người phụ nữ đẹp nhất phương Đông.
- Thưa ngài, - Abuncaxem đáp- quả là tôi có nhiều nữ nô lệ khá xinh, song tôi không thể yêu một đứa nào. Trong ký ức tôi, luôn luôn hiện diện nàng Đacđanê, nàng Đacđanê vô vàn yêu quý của tôi. Tôi luôn luôn tự nhủ rằng nàng đã qua đời, rằng chớ nên nghĩ tới nàng nữa, nhưng hoài công vô ích, khốn nạn thân tôi không làm sao xoá được khỏi tâm can hình ảnh của nàng. Tôi bị hình ảnh nàng theo đuổi đến nỗi sống giữa bấy nhiêu tài sản, mọi công việc đều ngày càng thịnh đạt, mà tôi chẳng hề cảm thấy hạnh phúc. Ôi, tôi thà sở hữu một gia sản tầm thương mà có được nàng Đacđanê, còn hơn sống vô cùng giàu sang mà không có nàng.
Hoàng đế khâm phục mối tình kiên định của chàng trai con nhà thương nhân Apđelazit, tuy nhiên vua khuyên chàng nên hết sức cố gắng để chiến thắng nỗi đam mê phù du ấy. Tiếp đó vua cất lời cảm tạ một lần nữa sự đón tiếp hết sức trọng thị của chàng trai. Cuối cùng, trở về nhà lưu trú, nhà vua lên đường trở lại thành phố Batđa cùng với bọn gia nhân, tên hầu trẻ trang nhã, cô nữ tì xinh đẹp cùng tất cả mọi thứ tặng phẩm của Abuncaxem.
NGÀY THỨ MƯỜI MỘT.
Hai ngày sau khi hoàng đế Harun An Rasit ra về, tể tướng Abunfata nghe đồn về việc ngày nào chàng Abuncaxem cũng mang biếu những người nước ngoài đến thăm nhiều tặng vật cực kỳ quý giá; mặt khác ông ngạc nhiên sao anh chàng có thể cống nộp cực kỳ đúng hạn cho ông ta cũng như cho quốc vương và viên quan cảnh sát các khoản tiền lớn như đã hứa, liền quyết tâm tìm đủ cách để moi cho biết cái kho tàng không cạn ấy nằm vào chốn nào. Viên hung thần ấy là một trong số những tên nham hiểm không ngại từ nan một tội ác ghê gớm nào không làm, miễn là thực hiện bằng được ý đồ của mình. Ông ta có một cô con gái vừa tròn mười tám tuổi cực kỳ xinh đẹp. Tên nàng là Banki. Nàng là một con người vừa tốt bụng vừa hết mực thông minh. Hoàng thân Aly, cháu ruột của quốc vương thành Basra, say mê tiểu thư như điếu đổ. Chàng đã ngỏ lời cầu hôn và đã được tể tướng chấp thuận; chẳng bao lâu nữa hai cô cậu sẽ thành gia thất.
Abunfata gọi con gái vào phòng làm việc và bảo:
- Con gái ơi, cha có việc cần nhờ đến con đây. Cha muốn con trang điểm cho thật lộng lẫy vào, rồi tối nay đến nhà chàng Abuncaxem. Con cố sao làm hài lòng chàng trai đấy, hãy tìm đủ mọi cách làm mê mẩn anh chàng, rồi hỏi cho rõ cái kho báu của anh chàng ở đâu.
Cô gái rùng mình khi nghe cha bảo vậy. Sự kinh tởm hiện rõ ngay trên nét mặt khi cô thấy cha ép mình phải vâng lời đi thực hiện một việc trái với đạo lý. Nàng thốt lên:
- Thưa phụ thân, cha sai con gái đi làm việc gì vậy? Cha không thấy cha đang đưa con đến chốn hiểm nghèo hay sao? Xin cha hãy suy nghĩ về nỗi nhục mà con gái cha phải chịu, về vết nhơ không bao giờ phai nhạt trên danh vọng gia đình, về sự xúc phạm mà cha sẽ gây nên cho hoàng thân Aly, nếu chàng không còn được tự hào về mối tình cao quý chàng dành cho con nữa.
- Cha đã suy nghĩ về tất cả những điều ấy,- tể tướng đáp- nhưng chẳng có gì có thể làm cha thay đổi ý định. Cha ra lệnh cho con hãy đi chuẩn bị ngay để thực hiện điều cha vừa bảo.
Nàng Banki bật khóc:
- Nhân danh Thượng đế, cha của con ơi,- nàng nói- xin cha chớ ép con gái đi làm hỏng danh vọng cha. Xin cha hãy nén lòng ham muốn tước đoạt của người khác những tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình. Cha hãy để cho người khác bình yên hưởng thụ sự giàu sang của họ, hơn là tìm cách chiếm đoạt của người ta.
Tể tướng nổi nóng:
- Hãy im mồm, con vô lễ kia! Mày không được phép chê trách ý định của cha. Mày không được cãi. Ta muốn mày đi đến nhà Abuncaxem. Ta thề nếu mày trở về mà chưa nhìn thấy tận mắt kho báu, thì tự tay ta sẽ đâm cho mày một nhát dao vào ngực.
Nàng Banki thấy không còn cách nào lãng tránh một công việc tiềm ẩn đầy hiểm nguy, lui về phòng riêng, lòng buồn bã không thể nào tả xiêt. Nàng chọn mặc những bộ quần áo sang trọng nhất, đeo đầy ngọc ngà châu báu, song chẳng buồn trang điểm, mà thật ra cũng chẳng cần. Sắc đẹp tự nhiên của nàng đủ khiến bất cứ ai nhìn thấy cũng say mê. Chẳng có người con gái nào ngại ngần hay nói đúng hơn lo sợ, được người khác nhìn thấy mình đẹp như Banki lúc này. Nàng sợ mình quá đẹp khi sắp đến gặp Abuncaxem, cũng như bao lần nàng e nhan sắc chưa đủ xinh tươi khi chuẩn bị đến với hoàng thân Aly.
Cuối cùng rồi ngày cũng hết. Lúc này, tể tướng Abunfata cho là đã đến lúc sai con gái đến nhà chàng Abuncaxem. Ông đưa con ra khỏi nhà qua một cửa ngách kín đáo, rồi thân hành dẫn con đến tận cổng nhà chàng trai. Ông để nàng một mình ở đấy sau khi nhắc lại, ông sẽ giết chết nếu nàng quay trở về mà không làm trọn vai trò nhơ nhuốc. Nàng gõ cửa, nói mình muốn gặp chàng trai con cụ thương nhân Apđêlazit. Một nữ tì dẫn nàng vào một căn phòng, ở đấy chàng trai nằm dài trên chiếc trường kỷ rộng, đang hồi tưởng về những nỗi bất hạnh đã qua; và lúc nào cũng vậy, nghĩ đến nàng Đacđanê trên tất cả mọi sự.
Trông thấy nàng Banki bước vào, chàng vội ngồi lên nghênh tiếp. Chàng nghiêng mình chào rất thấp, lễ độ đưa tay cho nàng bắt. Sau khi lịch sự mời nàng ngồi xuống ghế, chàng cất lời hỏi có việc gì nàng ban cho chàng vinh hạnh được gặp mặt. Banki đáp, nghe tiếng chàng là con người hào hoa phong nhã, tự nhiên nàng nảy ra ý ngộ nghĩnh muốn đến vui chơi một tối với chàng. Vừa nói nàng vừa đưa tay lật tấm mạng che mặt, chiến chàng trai ngạc nhiên trước đôi mắt sáng long lanh trên khuôn mặt xinh đẹp tuyệt vời. Mặc dù lâu nay vốn dửng dưng trước đàn bà con gái, lần này chàng không thể nhìn giai nhân mà không cảm thấy xúc động tận đáy lòng. Chàng nói với nàng:
- Thưa phu nhân xinh đẹp, hôm nay đúng ngày tôi gặp số hên cho nên mới vinh hạnh có được sự hội ngộ tuyệt vời. Tôi tự cho mình là người vô cùng hạnh phúc.
Vừa trò chuyện một chốc đã đến giờ ăn. Hai người cùng sang một căn phòng khác, ở đó trên bàn ăn đã bày rất nhiều món. Trong phòng lúc ấy có đông đảo gia nhân và nô lệ; Abuncaxem cho mọi người ra ngoài hết, để người đẹp khỏi phải phô khuôn mặt trần ra trước mắt họ. Rồi tự chàng phục vụ nàng, chàng mời nàng những thức ăn ngon nhất, rót mời nàng một loại rượu tuyệt vời đựng trong chiếc ly vàng nạm ngọc hồng ngọc lam. Chàng cũng nâng ly tiếp nàng, và càng ngắm tiểu thư Banki chàng càng thấy nàng thật đẹp. Chàng nói với nàng đôi chuyện hào hoa, cô gái vừa xinh đẹp vừa bản chất thông tuệ cho nên những câu đối đáp thông minh của nàng làm chàng càng thêm ái mộ. Đến cuối bữa ăn, chàng quỳ xuống dưới chân nàng, đưa cả hai tay xiết chặt bàn tay của nàng, và nói:
- Thưa bà, nếu đôi mắt đẹp của bà đã làm tôi choáng váng ngay từ phút đầu, thì cách chuyện trò của bà khiến cho tôi càng thêm say đắm. Bà đã thổi nên trong trái tim kẻ này một ngọn lửa không bao giờ tắt. Từ nay tôi muốn được làm kẻ nô lệ của bà, muốn được hiến dâng cả cuộc đời cho bà.
Nói xong, chàng hôn tay nàng một cách quá cuồng nhiệt, đến nỗi nàng Banki cảm thấy e rồi có thể xảy ra chuyện không hay, liền biến sắc. Mặt nàng tái nhợt như sắp chết tới nơi. Rồi thấy kkhông thể nào còn vờ vịt tiếp nữa, nàng bỗng trở nên buồn bã, một lát sau nước mắt tuôn ròng ròng. Chàng trai rất đỗi ngạc nhiên:
- Có việc gì vậy, hở nàng? Do đâu nàng đột nhiên trở nên buồn bã? Tại sao lại tuôn nước mắt, làm cho kẻ này chấn dộng tận đáy tâm can? Hay là cách xử sự của tôi có điều gì khiến nàng không vừa ý chăng? Xin nàng hãy nói đi, hãy nói cho tôi rõ ngay bởi căn nguyên nào có sự đổi thay đột ngột ở nàng như vậy?
Nàng Banki nói:
- Thưa ngài, em đã vờ vịt đến đây là quá sức em rồi. Lòng em lúc này vừa ngại ngần vừa sợ hãi vừa đớn đau vừa xấu hổ, bằng ấy điều khuấy động tim gan, em không làm sao chịu đựng thêm nữa. Em sẽ nói hết đây. Hỡi chàng Abuncaxem, em đang lừa dối chàng đây. Em là con gái một nhà vọng tộc. Cha em biết chàng sở hữu một kho báu ở một nơi nào đó, muốn lợi dụng nhan sắc em để rõ nơi cất giấu. Cha em lệnh cho em phải đến nhà chàng, phải tìm đủ mọi cách để chàng cho em thấy kho báu ở đâu. Em đã cố cưỡng lại, song cha em thề sẽ giết chết nếu em trở về nhà mà chưa tường điều bí mật. Mệnh lệnh của cha em mới nghiệt ngã làm sao! Cho dù em quen biết một vị hoàng thân mà em rất mực yêu quý và chúng em sắp làm lễ thành hôn đến nơi, thì em vẫn cứ cho việc làm của cha em thật quá kinh khủng. Thưa ngài, hôm nay em đến với chàng là do vậy, xin thú thật chỉ vì không vượt nổi lòng sợ chết cho nên em buộc phải đến đây thôi.
NGÀY THỨ MƯỜI HAI và NGÀY THỨ MƯỜI BA
NGÀY THỨ MƯỜI HAI.
Sau khi nghe cô con gái tể tướng Abunfata giải bày như vậy, chàng Abuncaxem nói:
- Thưa bà, tôi hài lòng bà đã nói thật với tôi. Bà sẽ không phải hối tiếc về sự ngay thẳng ấy. Bà sẽ không phải chết đâu. Tôi sẽ chỉ cho bà nhìn thấy kho báu, và bà sẽ được đối xử lịch sự như bà mong muốn. Cho dù bà xinh đẹp đến đâu, cho dù bà đã gây cho tôi ấn tượng vô cùng mạnh mẽ, giờ đây bà chẳng có gì phải lo sợ nữa, bà sẽ rất an toàn ở nhà tôi. Tôi không còn giữ những tình cảm nảy sinh trong lòng tôi lúc đầu, bởi điều ấy khiến bà không yên tâm. Bà có thể trở về gặp lại vị tình quân diễm hạnh mà chẳng có gì phải hổ thẹn. Vậy xin bà thôi, chớ nên buồn rầu khóc lóc mà chi.
Nghe nói, nàng Banki mừng rỡ thốt lên:
- Ôi, thưa ngài! Chẳng phải không có căn nguyên khi người ta đồn đại ngài là con người hào hiệp nhất thế gian. Em quá tâm phục cách xử sự đẹp của ngài. Em sẽ chẳng bao giờ thôi băn khoăn nếu chưa tìm được cách bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của em đối với chàng.
Chuyện trò đến đấy, Abuncaxem đưa cô gái đến căn phòng chính hoàng đế Harun An Rasit đã nghỉ hôm trước. Chàng ở lại đấy với cô gái cho đến khi mọi gia nhân tôi tớ trong nhà đều đã ngủ im phăng phắc. Lúc bấy giờ chàng mới lấy tấm khăn ra bịt mắt nàng Banki:
- Thưa nàng, mong nàng tha thứ cho tôi phải mạo muội hành động thế này, nhưng tôi chỉ có thể trỏ cho bà thấy kho báu với điều kiện này mà thôi.
Tiểu thư đáp:
- Ngài muốn xử sự thế nào xin tuỳ ý. Em tin cậy tấm lòng độ lượng của ngài, em sẵn sàng đi theo ngài tới bất kỳ đâu như ngài muốn. Giờ em chẳng có nỗi lo nào hơn là không cảm nhận hết sự hào hiệp của ngài.
Abuncaxem cầm tay dắt nàng lần theo cái cầu thang bí mật xuống vườn, đưa nàng vào tận trong hầm ngầm, mới tháo khăn bịt mặt cho nàng. Nếu hoàng đế Harun An Rasit rất ngạc nhiên nhìn thấy bấy nhiêu vàng bạc châu báu, nàng tiểu thư còn kinh ngạc hơn. Nàng thấy bất kỳ vật gì cũng hết sức lạ lùng. Tuy nhiên, cái nàng chú ý nhất, khiến nàng không sao rời khỏi mắt, là hai vị chủ nhân đầu tiên của kho báu. Nàng đọc những câu khắc trên chiếc bàn gỗ mua dưới chân họ. Thấy bà hoàng đeo quanh cổ một chuỗi kim cương mà hạt nào cũng lớn tày trứng chim bồ câu, một lần nữa nàng lại thốt lên kinh ngạc. Thế là chàng Abuncaxem théo chuỗi hạt ra khỏi bức tượng và đeo luôn vào cổ cô gái. Chàng nói rằng như vậy phụ thân nàng sẽ tin chắc nàng quả đã nhìn thấy kho tàng. Để tể tướng chẳng còn gì có thể nghi ngờ nữa, chàng xin tiểu thư hãy lấy thêm nhiều hạt ngọc khác, nàng vâng lời nhận khá nhiều viên ngọc báu mà chàng tự tay chọn cho.
Cô gái cứ ngắm nhìn không biết chán các kỳ vật trong căm hầm, trong khi chàng Abuncaxem sợ trời sáng mất, liền lại lấy khăn bịt mắt nàng, đưa nàng ra khỏi hầm, cùng trở về căn phòng cũ trong dinh cơ của chàng, ở đó hai người đàm đạo cho đến khi trời sáng hẳn. Lúc này, tiểu thư con gái tể tướng Apbunfata sau mấy lần cảm tạ mình chẳng bao giờ quên được thái độ xử sự đúng đắn cũng như tấm lòng vô cùng độ lượng của chàng trai, xin phép cáo từ. Nàng trở về nhà, trình với cha tất cả những điều đã xảy ra đêm hôm qua.
Viên tể tướng, trong lòng lúc nào cũng chỉ tơ tưởng chuyện tiền bạc, rất nôn nóng chờ con gái trở về. Lão chỉ lo con gái mình không đủ nhan sắc và duyên dáng làm say mê chàng trai trẻ. Lòng lão bồn chồn như có lửa đốt. Thoạt trông thấy con gái trở về, cổ đeo chuỗi hạt kim cương, và sau khi nàng phô cho lão thấy thêm những bao nhiêu là châu báu ngọc ngà, lão mừng như điên như dại:
- Thế nào, con gái yêu của cha, đúng là con đã nhìn thấy tận mắt kho báu chứ?
- Đúng thưa cha, - cô đáp- Để cha có ý niệm đầy đủ hơn, con xin thưa là cho dù tất cả mọi đấng quân vương trên trái đất này cùng nhau góp chung tài sản của họ lại, cũng không sao sánh tày gia sản của Abuncaxem. Nhưng mặc cho anh ta giàu có đến vậy, con vẫn tâm phục phong thái đàng hoàng và tấm lòng hào hiệp của chàng hơn mọi thứ của cải chàng sở hữu.
Nàng kể cho phụ thân nghe tất cả những gì đã xảy ra. Lão tể tướng chẳng chút quan tâm thái độ tự kìm chế đứng đắn của chàng trai. Lão muốn giá mà cô gái được chàng ân ái với thì tốt hơn là được nhìn thấy tận mắt mà không biết rõ kho báu chính xác cất giấu ở chốn nào.
Trong thời gian ấy, hoàng đế Harun An Rasit đang trên đường trở về kinh thành Batđa. Vừa về tới hoàng cung, nhà vua ra lệnh trả tự do ngay cho tể tướng Giapha và nói rõ vua vẫn hết lòng tin cậy ông. Sau khi thuật lại cho tể tướng nghe tất cả những chuyện đã xảy ra trong chuyến đi của mình vừa rồi, vua hỏi ông:
- Giapha à, bây giờ ta nên xử sự sao đây? Ông biết rồi đấy, theo đạo lý ở đời, lòng biết ơn của các đấng hoàng đế phải vượt trội lên niềm vui thú người khác mang đến cho mình. Cho dù ta có tặng chàng Abuncaxem hào hoa kia những của vật quý nhất có trong kho báu của ta, những thứ ấy vẫn chẳng là gì đối với chàng, có nghĩa vẫn không có giá trị ngang những thứ chàng đã biếu ta. Ta làm sao đây để tỏ ra mình hào hiệp hơn chàng trai ấy?
Tể tướng đáp:
- Muôn tâu hoàng đế, nếu Đấng thống lĩnh các tín đồ chuẩn y lời trình của tôi, thì xin đề nghị ngài ngay hôm nay viết một bức thư gửi quốc vương thành Basra, truyền cho ông ấy nhường ngôi cho chàng Abuncaxem trẻ tuổi. Chúng ta sẽ cho người khẩn cấp truyền lệnh ấy ngay tức khắc, và trong vài hôm tới đích thân tôi sẽ mang chiếu chỉ hoàng đế sang phong vương cho nhà vua mới.
Hoàng đế chấp thuận lời khuyên:
- Ông có lý đấy, tể tướng à. Đấy là cách ta trả món ân huệ của chàng Abuncaxem, cũng là sự trừng phạt quốc vương Basra và viên quan đầu triều của y, đã giấu giếm không chịu tâu ta rõ những khoản tiền khổng lồ mà chúng bòn rút ở chàng trai. Sẽ công bằng nếu ta trừng trị sự cưỡng bức mà hai kẻ ấy đã gây nên đối với chàng trai; những loại người như chúng nó chẳng đáng nắm quyền trị dân.
Ngay lập tức hoàng đế hạ chiếu phế truất quốc vương Basra, rồi sai người mang đi tức khắc. Tiếp đó, nhà vua sang cung hoàng hậu Zôbêit, thuật lại cho bà nghe đầu đuôi những chuyện xảy ra suốt chuyến vi hành của mình. Vua tặng hoàng hậu tên hầu trẻ, cái cây thân bạc cùng với con công kỳ diệu. Vua còn biếu hoàng hậu luôn cô nữ tì xinh đẹp. Hoàng hậu thấy con bé này đáng yêu quá, mỉm cười nói với hoàng đế rằng bà vui sướng nhận cô gái hơn tất cả mọi tặng phẩm quý giá khác. Hoàng đế chỉ giữ lại riêng cho mình cái ly rượu ngọc. Còn lại bao nhiêu, ban thưởng hết cho tể tướng Giapha. Và như vua đã quyết, vị tể tướng chuẩn bị mọi việc để có thể lên đường ngay vài ngày sau.
NGÀY THỨ MƯỜI BA.
Phái viên của hoàng đế vừa tới thành phố Basra, trình ngay chiếu chỉ cho quốc vương xem. Ông này đọc chiếu mà không nén được vẻ vô cùng đau tiếc. Ông chuyển bức chiếu cho tể tướng cùng đọc, và hỏi:
- Này Abunfata, ông hãy xem đây, Đấng thống lĩnh các tín đồ vừa truyền cho ta một mệnh lệnh tai hại dường này. Ông hãy nghĩ xem, ta có thể không chấp hành chiếu chỉ được không?
Viên đại thần đáp:
- Được chứ, tâu hoàng thượng. Xin ngài chớ vội lo phiền. Chúng ta phải thủ tiêu ngay tên Abuncaxem. Tôi sẽ tìm cách, không cần giết chết anh ta, mà chỉ loan truyền cho mọi người tin là anh ta đã chết. Tôi sẽ giấu hắn kín tới mức chẳng bao giờ có ai nhìn thấy hắn. Bằng cách ấy ngài vẫn ngự trên ngai vàng, mà ngài lại sở hữu tất cả kho báu của hắn ta, bởi khi đã bắt được hắn rồi, ta sẽ dùng đủ mọi nhục hình, hắn không chịu nổi sẽ để khai cho ta rõ kho báu giấu ở nơi nào.
- Ông muốn làm gì thì làm- nhà vua phán- nhưng rồi ta biết tâu trình sao đây với hoàng đế?
- Xin hoàng thượng hãy tin cậy vào tôi. Đấng thống lĩnh các tín đồ rồi cũng sẽ bị mắc lừa như mọi người khác mà thôi. Xin ngài hãy để cho kẻ này thực hiện ý đồ mà tôi đang nghiền ngẫm, xin chớ lo âu gì về các việc khác.
Thế là Abunfata, có mấy triều thần vốn không hiểu rõ mưu đồ của lão cùng đi đến tìm gặp Abuncaxem. Chàng đón tiếp họ vô cùng trọng thị vì đấy là các vị đại thần cao nhất trong triều. Chàng đãi đằng họ thật sang trọng. Chàng mời tể tướng ngồi lên ghế danh dự, hết lời ngợi ca lão, trong lòng không mảy may ngờ vực mưu đồ đen tối của lão cáo già.
Trong khi mọi người đang cùng nhau dùng tiệc, cùng nhau uống những loại rượu tuyệt vời, thì tên Abunfata phản trắc ấy khéo léo bỏ vào ly rượu của chàng Abuncaxem mà không để những người khác trông thấy, một loại bột có độc tính làm người uống lăn ra mê man bất tỉnh. Người bị ngấm chất độc đổ vật xuống ngay, ai nhìn cơ thể người bị nạn lúc này sẽ tưởng nhìn thi hài một người đã qua đời đâu từ mấy hôm về trước.
Quả vậy chàng trai vừa nâng ly rượu lên môi nhấp một ngụm là lảo đảo ngay tức khắc. Gia nhân vội tiến đến đỡ, nhưng chỉ trong nháy mắt chàng đã biểu hiện dấu hiệu như người đã chết hẳn rồi. Bọn gia nhân vội bế chàng đặt nằm trên trường kỷ và hoảng hốt thốt lên những tiếng kinh hoàng. Các vị thực khách cũng thảng thốt không kém. Ai nấy đều cực kỳ kinh ngạc. Còn lão Abunfata thì thật khó hình dung lão vờ vịt tài tình tới mức nào. Không chỉ bằng lòng biểu lộ một nỗi đau sâu đậm, lão còn tự cấu rách áo quần, làm cho mọi người cũng đâm lây nỗi buồn của lão. Lão ra lệnh bọn gia nhân hãy chuẩn bị một cỗ quan tài đẹp bằng ngà voi và gỗ mun. Trong khi mọi người mải lo việc ấy thì lão truyền tịch biên tất cả gia sản của chàng trai, tạm ký gửi vào kho tàng trong cung điện nhà vua.
Trong thời gian ấy, tin đồn về việc chàng trai đột ngột qua đời lan truyền khắp thành phố. Tất cả mọi người dân, nam cũng như nữ đều để tang, rồi lũ lượt để đầu trần đi chân đất đến viếng trước dinh cơ của chàng. Từ các cụ già đến những người trai tráng, từ các bà lão đến các em thiếu nữ, ai cũng lớn tiếng thở than khóc lóc. Người này nói vậy là coi như mình vừa mất đi đứa con trai độc nhất, người thì bảo như thể vừa quá cố một người anh em thậm chí một người chồng yêu quý. Người giàu như người nghèo, ai ai cũng xúc động về cái chết của chàng trai. Những người giàu tiếc thương một người bạn vẫn thường xuyên mời họ đến đãi đằng. Những người nghèo cảm thấy từ nay không còn nữa một vị ân nhân làm phúc chẳng bao giờ biết nản. Thật là một sự đau buồn chung cho toàn thành phố.
Tiến hành xong lễ khâm liệm trọng thể chàng Abuncaxem đáng thương, nhân dân thành phố Basra theo lệnh của chính tể tướng Abunfata, đưa quan tài chàng ra ngoài thành phố đến một nghĩa trang lớn, ở đó có một phần mộ chung cực kỳ sang trọng và rộng rãi trong đấy quàn thi hài thân sinh lão tể tướng cùng một số người khác trong gia đình lão.
Đến tối, mọi người ra về hết, chỉ còn lại tể tướng cùng với hai tên nô lệ của lão. Chúng khoá trái cổng ngăn lối dẫn xuống phần mộ. Rồi chúng đốt đèn lên, cho nước vào một cái chậu bằng bạc đun nóng. Sau khi đưa chàng trai ra khỏi quan tài, chúng dùng nước nóng rửa ráy cho chàng. Chàng trai dần dần tỉnh lại. Mở mắt nhìn, chàng nhận ra Abunfata:
- Ôi, chúng ta đang ở chốn nào vậy, hỡi ngài? Tại sao tôi lâm vào thảm cảnh này?
Tể tướng đáp:
- Tên khốn kiếp kia, hãy biết rằng chính ta gây nên cho mày nỗi bất hạnh này. Ta sai đưa mày đến đây để mày rõ quyền lực của ta. Ta sẽ dùng đủ mọi nhục hình để mày khai ra cho ta rõ mày giấu kho báu ở đâu. Ta sẽ phân thây rứt xác mày ra. Mỗi ngày ta sẽ ch mày nếm nhiều trận đòn mới, cho mày không sao chịu đựng nổi. Ta sẽ chẳng ngừng tay hành hạ mày kỳ cho đến lúc mày chịu cung khai và chuyển cho ta bao nhiêu là của cải từng cho phép mày sống xa hoa lộng lẫy hơn các nhà vua.
- Ông muốn làm gì cứ làm- Abuncaxem nói- tôi sẽ chẳng bao giờ hé răng nói lộ kho báu ở nơi nào.
Chàng trai chưa dứt lời, tên Abunfata đốn mạt đã sai hai tên nô lệ giữ chặt lấy chàng, rồi lão rút từ dưới tấm áo chùng ra một sợi roi da tết bằng da sư tử có gai sắc và bắt đầu đánh chàng, đánh vừa dữ vừa lâu đến nỗi chàng đau đớn ngất xỉu.
Thấy chàng trai trong tình cảnh ấy, lão tể tướng lệnh cho hai tên nô lệ đặt chàng trở lại quan tài, để nguyên như cũ trong gian phần mộ, rồi khoá chặt cửa ra về.
Sáng hôm sau lão vào triều tâu trình nhà vua những việc đã làm:
- Tâu hoàng thượng- lão nói- hôm qua tôi nhận thấy tên Abuncaxem khá cứng đầu, nó vẫn còn ngang bướng, nhưng tôi tin rồi nó không chịu đựng nổi những trận đòn mới tôi dành cho nó đâu.
Nhà vua vốn cũng là người dã man không kém, nói:
- Tể tướng à, ta lấy làm hài lòng về ông. Ta hy vọng rồi đây tên ấy sẽ khai cho chúng ta rõ kho báu ở đâu. Tuy nhiên lúc này ta cần cho sứ giả của hoàng đế trở về, không thể chậm trễ hơn nữa. Ông bảo ta nên viết những gì trình Đấng thống lĩnh các tín đồ?
- Xin ngài hãy tâu với hoàng đế, vừa nghe tin sắp được phong vương, tên Abuncaxem vui mừng quá đỗi, vội mở hội vui chơi trác táng sa đà với bạn bè, rồi vì quá chén hắn ta đã lìa đời.
Nhà vua cho tể tướng nói phải, vội viết thư trả lời, giao sứ giả mang về trình hoàng đế.
Lão tể tướng độc ác chắc nẫm nội trong ngày hôm nay chàng Abuncaxem thế nào cũng phải mở miệng khai ra cho lão biết chỗ giấu kho tàng, vội vã lên đường ra ngoài thành phố, quyết tâm tra khảo chàng ác hung tợn hơn nữa. Đến phần mộ, lão rất ngạc nhiên thấy cổng gian mộ mở toang hoang. Lão xộc vội vào, chẳng nhìn thấy chiếc quan tài đựng chàng trai đâu, lão bối rối tưởng chừng đến mất trí. Lão hấp tấp trở lại hoàng cung, tâu vua rõ. Kinh hoàng, tên vua nói:
- Này, ông tể tướng ơi, rồi thân phận chúng ta sẽ ra sao? Anh chàng ấy trốn thoát, chắc chúng ta mất mạng. Thế nào nó chẳng lên đường về kinh đô Batđa, tìm cách tâu trình hoàng đế.
NGÀY THỨ MƯỜI BỐN và NGÀY THỨ MƯỜI LĂM.
NGÀY THỨ MƯỜI BỐN.
Về phần mình, lão tể tướng cũng thất vọng và lo âu không kém. Tuy nhiên lão vẫn nói cứng với nhà vua:
- Giá mà trời bắt tội tên ấy chết đi, vua tôi ta đã không đến nỗi phải lo âu thế này! Dù sao xin chớ vội tuyệt vọng. Nếu nó chạy trốn, mà có thể tin mười mươi như vậy, chắc nó cũng chưa thể đi đâu xa. Cần huy động tất cả lính tráng trong đội vệ binh của triều đình, cho lùng xục khắp vùng phụ cận thành phố, tôi tin rằng chúng ta sẽ lại tóm được nó thôi.
Nhà vua ra lệnh thực hiện ngay lập tức cuộc lùng xét vô cùng quan trọng cho số phận y. Mọi quân sĩ được tập trung lại, chia làm hai mũi, một mũi giao tể tướng chỉ huy, một đội đích thân vua cầm quân, thế là quân sĩ được rải ra lùng xục khắp nơi mọi chốn trong vùng nông thôn.
Trong khi hai đội binh sĩ này đang lục lọi khắp làng mạc rừng rậm núi cao, thì tể tướng Giapha đã từ kinh đô Batđa khởi hành đi Basra. Trên đường ông gặp sứ giả của hoàng đế trở về. Sứ giả nói:
- Trình ngài, nếu việc của Abuncaxem là nguyên nhân chính khiến ngài phải cất công thực hiện chuyến công du này, thì xin ngài chớ nên mệt sức đến tận Basra làm chi. Chàng trai đã qua đời. Tang lễ chàng vừa diễn ra mấy hôm trước. Chính tôi tận mắt chứng kiến cảnh tượng buồn đau ấy.
Tể tướng Giapha vốn rất náo nức được tự mình gặp vị tân vương và giao chiếu chỉ cho ông, nghe vậy buồn rầu vô hạn. Ông tuôn rơi nước mắt, rồi nghĩ sự tình đã thế thì chẳng cần mất công đi tiếp nữa, liền quay ngựa trở về kinh đô.
Vừa đến nơi, tể tướng vội vã cùng sứ giả vào luôn hoàng cung. Nhìn thấy vẻ mặt sầu não của hai người, hoàng đế nghĩ chắc sắp được tâu trình tin không vui đây:
- Ồ, tể tướng Giapha, sao ông trở về nhanh vậy? Ông có gì tâu với ta đấy?
Muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ,- tể tướng đáp- chắc hẳn ngài chẳng chút chờ đợi tin buồn tôi sắp trình đây. Chàng Abuncaxem không còn nữa. Chàng đã qua đời sau khi hoàng thượng rời khỏi thành Basra.
Hoàng đế Harun An Rasit vừa nghe đến đấy, đã bổ nhào khỏi ngai vàng. Vua ngã vật ra đất, ngất xỉu. Mọi người vội xúm vào cấp cứu. Tỉnh dậy, nhìn thấy viên sứ giả, nhà vua sai đưa ông xem bức thư của quốc vương Basra. Cầm bức thư, vua đọc rất chăm chú. Sau đó nhà vua lui về thư phòng riêng cùng với tể tướng Giapha. Vua trao bức thư phúc đáp của quốc vương Basra cho ông này cùng xem. Sau khi đọc đi đọc lại nhiều lần, hoàng đế phán:
- Ta thấy chuyện này chẳng bình thường chút nào. Vua Basra và viên tể tướng của y thật đáng nghi. Đáng nhẽ thi hành lệnh của ta, chúng nó đã tìm cách hãm hại Abuncaxem.
Đến lượt tể tướng Giapha nói:
- Muôn tâu hoàng đế, bản thân tôi cũng nghi ngờ giống như ngài. Tôi nghĩ ta nên ra lệnh bắt giữ cả hai tên.
Hoàng đế nói:
- Do vậy, ta quyết định đây: ngay lập tức ông lấy mười nghìn người ngựa trong đội vệ binh của ta thẳng Basra. Hãy bắt giữ ngay hai tên thủ phạm và dẫn về đây cho ta. Ta muốn trả thù cho con người hào hiệp nhất thế gian.
Vâng lời, tể tướng Giapha chọn luôn mười nghìn kỵ sĩ rồi hối hả lên đường.
Giờ chúng ta hãy quay trở lại với chàng Abuncaxem của chúng ta. Người thuật chuyện xin được nói rõ tại sao khi quay trở lại nghĩa trang, viên tể tướng Abunfata không nhìn thấy chàng, mà chính lão đã nhốt và khoá trái lại trong ấy. Hoá ra chàng trai trẻ của chúng ta, sau khi ngất xỉu hồi lâu, bắt đầu hồi tỉnh khi cảm thấy có những cánh tay mạnh mẽ nâng mình ra khỏi quan tài, đặt nằm xuống đất. Chàng vẫn tưởng đấy là lão tể tướng cùng hai tên nô lệ trở lại hành hạ mình. Chàng nói:
- Này những tên đao phủ kia, nếu chúng mày còn có chút nào lòng thương xót thì hãy giết chết ta ngay đi; chớ có tra khảo thêm nữa, vô ích mà thôi. Ta thề cho dù có dùng nhục hình đến đâu, chúng mày cũng chẳng cạy được miệng ta.
Một người nào đó đáp:
- Xin chớ lo sợ nữa, hỡi chàng trai, chẳng phải chúng tôi đến tra khảo chàng đâu, mà chính để cứu giúp chàng.
Nghe vậy, Abuncaxem mở mắt, nhìn những người đến giải thoát mình, và nhận ra trong số ấy có cả cô tiểu thư mà chàng đã trỏ cho xem kho báu. Chàng thốt lên:
- Ôi, thưa bà, chính nhờ có bà mà kẻ này được cứu sống chăng?
- Đúng vậy thưa ngài,- nàng Banki đáp- chính em đây, chính em cùng với hoàng thân Aly tình quân của em, người ngài nhìn thấy kia. Biết rõ tấm lòng hào hiệp của ngài, chàng muốn chia sẻ cùng em niềm vui được giải thoát ngài khỏi cái chết.
- Quả đúng như vậy,- hoàng thân Aly tiếp lời- tôi thà nghìn lần xông pha hiểm nguy, còn hơn chịu để cho một con người đại lượng như ngài lâm nạn.
Chàng trai con thương nhân Apđêlazit hoàn toàn hồi sức sau khi được những người đến cứu cho uống một loại thần dược nào đó, vội vàng bày tỏ với tiểu thư Banki và hoàng thân Aly những lời cảm ơn sâu đậm nhất. Chàng hỏi làm sao họ biết chàng còn sống. Nàng Banki đáp:
- Thưa ngài, thì em là con gái tể tướng Abunfata mà. Em làm sao mắc lởm những lời đồn đại về cái chết của ngài. Em ngờ chính cha em đã gây nên những chuyện ấy. Em đã gạn hỏi một tên nô lệ, y thú nhận với em tất cả mọi sự. Tên ấy là một trong hai đứa đã ở lại trong phần mộ hôm ấy với cha em. Nó lại là người được giao giữ chìa khoá, thành ra nó sẵn sàng trao ngay chìa khóa mộ cho em. Em vội báo tin cho hoàng thân Aly biết. Chàng đến ngay lập tức cùng với mấy gia nhân tin cẩn nhất. Chúng em cấp tốc chạy đến đây, ơn trời không đến nỗi quá muộn.
- Ôi, lạy Thượng đế!- Abuncaxem thốt lên- làm sao một tên khốn kiếp dường ấy lại sinh hạ được một người con gái nhân hậu dường này!
Hoàng thân Aly nói:
- Ngài ơi, chúng ta chớ để mất thời gian. Tôi tin chắc sáng mai, khi tể tướng đến đây và không trông thấy ngài trong phần mộ, ông sẽ cho lùng xục tìm kiếm khắp mọi nơi. Vậy tôi sẽ đưa ngài về nhà tôi, ở đó ngài sẽ bình yên vô sự. Chẳng ai nghi tôi là người có thể giúp cho ngài nơi ẩn náu.
Thế là hoàng thân đưa một cái áo nô lệ cho Abuncaxem mặc. Sau đó mọi người cùng ra về, cứ để phần mộ mở toang như vậy. Nàng Banki trở về nhà trao trả chiếc chìa khoá cho người nô lệ, trong khi hoàng thân lui về nhà mình cùng với Abuncaxem. Hoàng thân giấu chàng một nơi kín đáo, khiến các kẻ thù của chàng chẳng sao hay biết.
NGÀY THỨ MƯỜI LĂM.
Abuncaxem sống trong nhà hoàng thân Aly. Chàng được đối xử rất tử tế, cho đến khi nhà vua và viên tể tướng của y thất vọng không sao tìm thấy chàng nữa, cho rút quân ra về. Lúc này hoàng thân Aly cấp cho chàng một con ngựa tốt, lại cho chàng một số lớn đồng xơcanh vàng cùng nhiều viên ngọc quý, và bảo:
- Bây giờ ngài có thể trốn đi. Chẳng có ai ngăn cản ngài trên đường nữa. Kẻ thù của ngài chẳng rõ ngài đã biến mất đâu. Giờ ngài muốn đi đến chốn nào, xin tuỳ ý.
Chàng Abuncaxem cảm tạ hoàng thân về những nghĩa cử của ông, khẳng định với hoàng thân suốt đời chẳng bao giờ chàng quên ơn này. Hoàng thân ôm hôn chàng, còn đứng nhìn chàng trai ra đi và thầm cầu mong Thượng đế dắt dẫn cho chàng. Abuncaxem lên đường đến Batđa, và may mắn sau mấy ngày đường chàng tới được kinh thành.
Việc đầu tiên của chàng khi đến kinh đô là tìm tới nơi các nhà buôn vẫn thường tụ họp với nhau. Chàng hy vọng có thể gặp lại ở đây vị thương nhân mà chàng từng đãi đằng những ngày nào ở Basra để thuật lại bao nhiêu điều bất hạnh xảy đến cho mình sau lần gặp ấy, coi đấy sẽ là niềm an ủi duy nhất. Chàng hết sức buồn phiền chẳng sao tìm được. Chàng đi khắp nơi trong thành phố, gặp ai cũng có nhìn xem có nét gì hao hao giống vị thương nhân hôm nào chăng. Khi đã quá mệt, chàng dừng chân ngồi nghỉ trước cung của hoàng đế. Tên hầu trẻ tuổi mà chàng đã biếu nhà vua, hôm ấy tình cờ đến bên cửa sổ, nhìn xuống đường trông thấy và nhận ra chàng. Nó vội chạy tìm gặp hoàng đế Harun An Rasit và nói:
- Muôn tâu, tôi vừa nhìn thấy ông chủ cũ của tôi hồi ở Basra.
Thoạt tiên hoàng đế không tin:
- Chắc mày nhầm đấy. Abuncaxem không còn nữa. Hẳn mày trông thấy ai đó mà mày ngỡ là chủ cũ của mày.
- Không phải thế đâu, tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ. Tôi xin quả quyết là chính ông chủ, tôi đã nhận ra ông.
Mặc dù không tin, hoàng đế cũng muốn làm rõ. Vua sai một võ quan theo tên hầu trẻ xuống đường ngay, xem thử con người ấy có đúng là chàng con trai của thương nhân Apđêlazit ngày trước hay không. Họ trông thấy chàng vẫn ngồi yên ở chỗ ấy, bởi chính chàng cũng vừa nhìn thấy tên hầu trẻ, chàng chờ may ra nó còn quay trở lại bên cửa sổ lần nữa.
Biết chắc đây là ông chủ Abuncaxem rồi, tên hầu trẻ vội quỳ mọp dưới chân chàng. Abuncaxem đỡ nó dậy, hỏi bây giờ nó được vinh dự hầu hạ hoàng đế hay sao. Tên hầu đáp:
- Vâng, đúng vậy. Bởi người mà hôm nào ngài tiếp đãi ở Basra chính là Đấng thống lĩnh các tín đồ. Chính ngài mang cháu ra làm tặng vật biếu hoàng đế ấy mà. Xin mời ngài hãy đi theo cháu, chắc hoàng đế sẽ vui lòng gặp lại ngài.
Nghe vậy, chàng trai cực kỳ kinh ngạc. Chàng khấp khởi đi theo viên võ quan và tên hầu, chẳng mấy chốc đến tận phòng hoàng đế Harun. Lúc này vua đang ngự trên ngai. Người có vẻ vô cùng xúc động trông thấy Abuncaxem. Hoàng đế vội vàng bước xuống khỏi ngai vàng, tiến lên mấy bước đón chàng trai, rồi hết sức vui mừng ôm chặt lấy chàng hồi lâu. Sau khi đã qua cơn xúc động, hoàng đế ngỏ lời nói với chàng:
- Này, hỡi chàng trai trẻ, hãy mở to mắt ra mà nhìn người đồng thực khách diễm hạnh của anh hôm nào. Ta chính là vị thương nhân đã may mắn được anh đãi đằng nồng hậu. Anh đã biếu ta nhiều tặng vật quý hiếm hơn cả tặng phẩm của các nhà vua.
Nghe nói, Abuncaxem bối rối không thể nào tả xiết. Lúc mới bước vào, chàng không dám nhìn thẳng vào hoàng đế, giờ chàng ngước mắt ngó cho kỹ, và nhận ra ngay người thực khách. Chàng kêu lên:
- Ôi, đấng chúa tể của tôi, vị đế vương của toàn thế giới! Có thật chính ngày đã từng hạ cố đến tận nhà kẻ nô lệ của ngài?
Vừa nói, chàng vừa phủ phục dưới chân hoàng đế, mặt úp sát đất. Hoàng đế đỡ chàng đứng lên, cho phép ngồi xuống một chiếc trường kỷ, bên cạnh mình. Rồi hoàng đế hỏi:
- Có thể nào anh vẫn còn sống trên đời này?
Vậy là Abuncaxem bắt đầu thuật lại hầu hoàng đế đầu đuôi câu chuyện, kể ra mọi tội ác của lão Abunfata, cũng như bằng cách nào chàng may mắn thoát khỏi bàn tay độc ác của lão già. Hoàng đế lắng nghe rất chăm chú, rồi bảo chàng:
- Chính ta là nguyên nhân dẫn đến mọi nỗi bất hạnh của anh. Trở về Bátđa, ta muốn đền đáp cho anh món ân huệ. Ta đã phái sứ giả đến Basra, truyền cho nhà vua bên ấy hãy trao lại ngôi báu cho anh. Đã không chịu thi hành chiếu chỉ của ta, chúng nó còn đang tâm tìm cách hãm hại anh. Anh nên biết rằng, sau khi bị đánh thuốc mê, chẳng bao lâu nữa lão Abunfata sẽ giết anh. Sở dĩ lão còn để cho anh sống, chính vì lão hy vọng có thể dùng nhục hình ép anh khai ra nơi cất giấu kho báu vật. Nhưng rồi đây anh sẽ được báo thù. Ta đã sai tể tướng Giapha mang một đạo quân lớn tới Barsa, đã lệnh cho ông bắt giữ ngay những kẻ đã hành hạ anh và áp giải chúng về đây. Trong thời gian này, anh hãy ở ngay trong cung của ta. Anh sẽ được mọi người trong hoàng cung phục dịch như chúng hầu hạ chính ta vậy.
Nói xong vua đứng lên, cầm tay dẫn chàng trai xuống một khu vườn ở đó có những loài hoa cực hiếm. Xen giữa hoa tươi có nhiều cái bể xây bằng cẩm thạch, hoàng thạch, vân thạch. Trong bể các đàn cá tung tăng bơi lội. Chính giữa vườn là một khu nhà trống, chung quanh dựng mười hai cây cột rất cao bằng cẩm thạch đen tuyền, trên cùng là một mái vòm bằng gỗ trầm hương và gỗ lô hội. Nối liền các cột có hai lớp lưới đan bằng những sợi vàng ròng, tạo thành một cái lồng chim khổng lô trong đó vô vàn các loại sơn ca, hoàng anh, bạch yến… cùng muôn loài chim chóc khác lông cánh sặc sỡ đủ màu thi nhau bay lượn và cất tiếng hát líu lo.
Hóa ra nhà tắm của hoàng đế Harun An Rasit xây ngay dưới mái vòm này. Hai người cùng xuống tắm. Sau đó các kẻ hầu mang đến những chiếc khăn tắm bằng vải mịn nhất, chưa dùng lần nào. Họ mặc cho Anbuncaxem trang phục sang trọng nhất. Tiếp đó, hoàng đế đưa chàng trai tới một căn phòng, cho phép chàng cùng ngồi dùng bữa với mình. Các nô tì mang đến dâng nước ép thịt cừu cùng các loại sản phẩm làm từ sữa. Rồi nào các quả lựu trồng ở xứ Amlat và xứ Ziri, tạo đặc sản vùng Êhan, nho nguyên chủng ở Mêlat và Xêvi, lê thành phố Ispahan. Sau khi dùng nước thịt ép và các loại trái cây, họ được dâng một loại rượu nho tuyệt diệu. Sau bữa, hoàng đế đích thân dẫn chàng trai đến chào hoàng hậu Zôbêit.
Hoàng hậu bấy giờ đang ngữ trên chiếc ngai vàng trong cung riêng dành cho bà, hai bên tả hữu các nô tì xinh đẹp xếp hành ngay ngắn. Những người này đệm trống cơm, những người kia thổi sáo trúc, những người khác nữa chơi đàn dây. Tuy nhiên lúc này họ chưa tấu nhạc. Tất cả đang đứng im lắng nghe một cô gái xinh đẹp nhất trong số nô tì có mặt ở đấy hát một bài ca, mà đại ý là: Trong đời chỉ nên yêu một lần, song đã yêu thì yêu đến trọn đời. Trong khi cô ấy hát, người nữ tì mà Abuncaxem từng dâng tặng hoàng đế hôm gặp nhau ở Basra đệm nhạc bằng cây đàn tì bà làm bằng gỗ lô hội, ngà voi, trầm hương và gỗ mun đen tuyền.
Nhác thấy hoàng đế cùng chàng con trai vị thương nhân Apđêlazit bước vào, hoàng hậu vội xuống ngai nghênh đón. Nhà vua nói:
- Thưa bà, xin được giới thiệu với hoàng hậu ông chủ trẻ từng tiếp đón ta hôm nọ ở thành phố Basra.
Chàng trai vội phủ phục dưới chân hoàng hậu, mặt úp sát đất. Trong khi chàng đang quỳ mọp như vậy thi có sự rối loại trong đám thị tì. Hóa ra cô gái vừa hát dở bài ca lúc nãy, chợt nhìn thấy Abubcaxem, liền ngả xuống đất bất tỉnh nhân sự.
NGÀY THỨ MƯỜI SÁU
NGÀY THỨ MƯỜI SÁU.
Hoàng đế và hoàng hậu cùng quay lại nhìn cô gái. Chàng Abuncaxem sau khi đứng lên cũng quay sang nhìn. Vừa trông thấy nàng, chàng trai cũng ngất xỉu luôn chàng. Mắt nhắm nghiền, mặt chàng tái xanh tái xám, tưởng như sắp chết tới nơi. Hoàng đế vội vã đỡ chàng trai, ôm chặt vào người, nhờ vậy chàng dần dần hồi tỉnh.
Khi tỉnh trí được rồi, chàng thưa với hoàng đế:
- Muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ, ngài đã biết rõ chuyện từng xảy ra với tôi hồi ở thành phố Cairo. Người nữ tì ngày ngài đang nhìn thấy kia chính là cung nhân đã bị ném xuống dòng sông Nin năm nào, đấy chính là nàng Đacđanê.
- Có thể nào như vậy chăng? – Hoàng đế thốt lên – muôn vàn lần tạ ơn trời đất đã xui khiến nên cuộc hạnh ngộ kỳ diệu này.
Trong thời gian ấy, cô nữ tì được các bạn cứu giúp cũng dần hồi tỉnh. Nàng định phủ phục dưới chân hoàng đế. Nhà vua vừa kịp ngăn lại, và hỏi bởi phép thần nào nàng còn sống sau khi đã bị ném xuống giữa dòng sông Nin. Nàng đáp:
- Muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ, may mắn sao hôm ấy em rơi vào chiếc lưới của người ngư phủ, đúng lú người ấy đang kéo lưới lên. Ông ta rất ngạc nhiên sao minh đánh được vật lạ thế này. Nhận thấy em còn thoi thóp, ông vội đưa em về nhà cứu chữa. Em thuật lại cho ông nghe đầu đuôi câu chuyện. Ông tỏ ra kinh hãi lắm, sợ hoàng đế nước Ai Cập nhỡ ra biết rõ ông đã cứu sống em. Lo sợ nếu cưu mang em thì có thể mất mạng sống của chính mình, ông vội vàng bán em cho một nhà buôn nô lệ sắp lên đường tới thành phố Batđa. Nhà buôn ấy mang em đến kinh đô, ít lâu sau dâng trình hoàng hậu Zôbêit, và vinh hạnh em được hoàng hậu nhận mua.
Trong khi cô gái thuật chuyện, hoàng đế chăm chú quan sát cô. Vua thấy cô ta quả có sắc đẹp tuyệt vời. Chờ nàng kể xong, hoàng đế nói với Abuncaxem:
- Chàng trai à, giờ ta không còn lấy làm ngạc nhiên nữa, tại sao anh cứ một lòng thương nhớ không nguôi người đẹp này. Ta cảm tạ trời đất đã dun dủi cho cô ấy đến đây, giúp ta có cơ hội trả cái ơn ta chịu ở anh. Từ giờ phút này, Đacđanê không còn là nô lệ nữa, cô ấy đã trở thành người tự do. Thưa hoàng hậu, - hoàng đế quay sang nói với bà Zôbêit – ta tin bà không phản đối việc ta trả lại tự do cho cô ấy.
- Không những em không phản đối, tâu hoàng đế, - bà nói – em còn rất vui mững được đồng tình với ngài. Em chúc cho đôi tình nhân này được hưởng chọn mọi lạc thú một cuộc hôn nhân lâu dài và hạnh phúc, sau khi bị chia lìa mỗi người một phương bấy nhiều điều bất hạnh.
- Chưa phải chỉ có thế mà thôi,- hoàng đế nói tiếp- ta muốn rằng hôn lễ sẽ được cử hành ngay tại cung điện của ta, và cho phép nhân dân kinh thành Batđa mở hội vui chơi trong ba ngày liền. Bởi ta chẳng biết cách nào đối xử trọng hậu hơn với ông chủ từng hào hiệp đón tiếp ta.
Abuncaxem một lần nữa lại phủ phục dưới chân hoàng đế:
- Ôi, muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ, ngài không chỉ là bậc đế vương cao cả hơn mọi vị vua chúa trên đời, ngài còn là con người hào hiệp nhất trên thế gian. Xin cho phép tôi được trình với ngài nơi cất giấu kho báu, tất cả vàng bạc châu báu trong kho từ nay không thuộc sở hữu của tôi nữa, tôi xin được hiến dâng hoàng đế.
- Không đâu,- hoàng đế đáp- anh hãy yên tâm hưởng thụ mọi tài sản anh có, thậm chí ta còn khước từ quyền tối cao của ta trong vụ nay, ta chúc hai người có cuộc sống thật dài lâu để tiêu pha cho hết của cải trong kho tàng.
Hoàng hậu Zôbêit truyền cho chàng con trai thương nhân Apđêlazit và nàng Đacđanê tường thuật đầy đủ mọi câu chuyện từng xảy ra với hai người. Bà sai sử thần chép lại bằng chữ vàng lưu giữ trong văn khố. Tiếp đó, hoàng đế ra lệnh tiến hành hôn lễ cho hai người. Đám cưới cử hành rất huy hoàng. Nhân dân kinh thành còn đang hội hè vui chơi mừng đôi nam nữ, thì chợt thấy tể tướng Giâph rầm rộ kéo quân trở về, áp giải theo viên quan độc ác Abunfata bị trói gô. Còn quốc vương từng trị vì thành phố Basra, vì quá lo âu không lùng bắt được Abuncaxem, đã khiếp đảm mà bỏ mạng trước rồi.
Sau khi tể tướng Giâph tâu trình xong mọi chuyện với hoàng đế, người ta cho dựng lên một đoạn đầu đài và dẫn tên Abunfata độc ác đến đấy. Dân chúng trong kinh thành, biết rõ mọi tội ác của lão, tuyệt nhiên không ai thương hại mà ai ai cũng nóng lòng chứng kiến cuộc hành hình. Đao phủ đã bước tới, mã tấu lăm lăm cầm tay, sắp sửa thi hành mệnh lệnh, thì chàng Abuncaxem vội vã phủ phục dưới chân hoàng đế Harun van xin:
- Muôn tau Đấng thống lĩnh các tín đồ, cúi xin ngài hãy chấp nhận lời cầu khẩn của tôi cho Abunfata khỏi bị gia hình. Xin ngài hãy cho y được sống, cho y được tận mắt nhìn thấy hạnh phúc của chúng tôi, được tận mắt nhìn thấy mọi ân huệ ngài ban cho tôi, như vậy há chẳng phải là sự trừng phạt nặng nề nhất cho y rồi sao
Hoàng đế thốt lên:
- Ơi anh chàng Abuncaxem quá đỗi rộng lượng, anh thật xứng đáng làm vua. Hạnh phúc thay cho nhân dân thành phố Basra được anh trị vì!
- Muôn tâu, tôi còn muốn được cầu xin hoàng thượng ban cho một ân sủng nữa. Xin ngài hãy ban cho hoàng thân Aly chiếc ngai vàng ngài đã hạ cố dành cho tôi. Để hoàng thân có cơ hội cùng với nàng tiểu thư đã hào hiệp cứu mạng sống của tôi khỏi sự hung ác của cha nàng. Đôi uyên ương ấy quả xứng đáng với ân huệ của ngài. Về phần tôi, được Đấng thống lĩnh các tín đồ quý mến và che chở, như vậy là tôi đã quá hạnh phúc rồi, như vậy còn quý hơn cao sang hơn tất cả mọi quân vương khác trên đời.
Hoàng đế chấp thuận. Để thưởng công hoàng thân Aly về những việc chàng đã làm cho con trai thân thương Apđêlazit, hoàng đế sai mang chiếu chỉ sang phong cho hoàng thân làm vua thành Basra. Tuy nhiên nhận thấy Abunfata phạm nhiều tội ác quá nặng nề không thể vừa tha cho tội chết vừa cho y được tự do, hoàng đế sai giam lão trọn đời trong ngục tối. Khi nhân dân thành phố Batđa hay tin đích thân người bị hại đã đứng ra xin hoàng đế ân xá cho kẻ làm hại mình, mọi người hết lời khen ngợi Abuncaxem.
Chẳng bao lâu sau, chàng lên đường trở về Basra cùng với nàng Đađanê yêu quý của mình, có sự hộ tống của một đội quân trong đạo vệ binh của hoàng đế cùng nhiều võ quan.
Kể đến đấy, bà nhũ mẫu Xutlumêmê ngừng câu chuyện về chàng Abuncaxem người thành phố Basri. Tất cả người hầu của công chúa nước Casơmia đều dồn dập vỗ tay hoan hô. Những người này ca ngợi vẻ hào hoa và lòng hào hiệp của chàng trai người Basri; những người khác quả quyết hoàng đế Harun An Rasit đại lượng chẳng thua kém chàng. Những người khác nữa, quan tâm nhiều hơn đến tình yêu chung thủy, lại cho rằng quý hơn hết thảy trên đời, là chàng Abuncaxem tỏ ra một tình nhân thật sự chung tình. Đến lúc này công chúa Farucna mới ngỏ lời nói lên quan điểm của mình như sau:
- Tôi không đồng ý với ý kiến của các người. Cho dù nàng Danki đã không làm cho Abuncaxem lãng quên được nàng Dacđanê, tôi vẫn muốn rằng một chàng trai đang yêu, nhỡ khi người yêu mình chẳng may qua đời, sẽ chẳng bao giờ còn cảm thấy rung động trước một tình yêu khác mới chớm nở. Nhưng trên đời này, bói đâu ra người đàn ông kiên trì và chung thủy đến vậy.
- Xin công chúa thứ lỗi – bà Xutlumêmê lên tiếng- vẫn có những đấng nam nhi mà vẫn sự chung tình trải qua muôn vàn thử thách. Công chúa sẽ tin chắc điều đó, nếu như nàng vui lòng nghe tôi kể câu chuyện giữa quốc vương Ravansat với công chúa Sêhêristani.
- Ừ thì nghe,- công chúa Farucna đáp- ta cho phép bà kể đấy. Được lời, bà nhũ mẫu bắt đầu kể chuyện mới sau đây.