Ii. Những khái niệm cơ bản
II. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Hỏi: Xin giải thích các quan niệm khí một cách hệ thống
Đáp: Trước tiên chúng ta đề cập đến định nghĩa chung về khí (1)
Khí là một dạng vật chất tinh vi có khả năng dinh dưỡng phong phú, khí lưu động trong cơ thể, cơ sở hoạt động của khí là kinh mạch, mạch lạc và tôn lạc.
Khí phát sinh do tinh hóa khí, khí tàng ở bể thận, cụ thể là tuyến Thượng thận, khi hạ tâm hỏa (bằng cách dùng tâm ý sinh ra do bụng đón từ ngoài vào) thì tinh cháy thành khí. Khí mới phát sinh, đó là chân khí. Chân khí chạy theo mạch Nhâm (trước bụng) và mạch Đốc (sau lưng) lên đỉnh đầu. Trong bụng, chân khí thăng lên theo đường lạc vào Tâm và Phế, tạo Tâm khí và Phế khí. Chân khí hạ xuống tạo Thận khí, tràn sang bên hữu vào Tỳ tạo Tỳ khí, tràn sang bên phải vào Can, tạo Can khí. Ngũ khí cùng chân khí chạy theo các kinh mạch tạo vinh khí, ra các mạch tôn lạc ngoài da thành vệ khí.
Như vậy ta có một hệ thống khí như sau:
Chân khí ð Ngũ khí ð Vinh khí ð Vệ khí
Khí cũng như các dạng vật chất khác luôn thay đổi, chân khí đi vào tạng phủ phát động cơ năng của tạng phủ, vì vậy mà thành ngũ khí. Ngũ khí khi vào kinh mạch cũng thay đổi và cùng chân khí tạo thành khí gọi chung là vinh khí, ra tôn lạc gọi chung là vệ khí. Bởi vậy vinh khí cũng có năm loại, vệ khí cũng có năm loại. Chính vì vậy khí sắc biểu hiện ở đường kinh và ngoài da cho phép đoán được bệnh tật ở vùng nào, kinh nào, và ở thời kỳ nào, khả năng sống chết ra sao, cùng với sự khai khiếu của các tạng, cho phép chúng ta biết nhiều về bệnh tật và khả năng chữa chạy, cũng như có liên hệ với một quan điểm về quan hệ Mệnh – Bệnh – Thời.
Đây là vấn đề rất hay và quan trọng mà ta cần nghiên cứu.
2. Hỏi: Xin cho biết tính chất khí là gì?
Đáp: Khí có những tính chất sau:
- Khí sinh ra ở Thận, mang tính chất thủy âm đó là Thể của khí, nhưng Dụng của khí lại mang tính hỏa dương, tức là khí luôn có xu hướng thăng lên, tản ra.
- Trong quan niệm kinh Dịch thuần âm sinh dương, do đó khi khí sinh ra, các tính dương nảy sinh, và khí từ đó mà thăng lên, biến động cho đến khi hóa dương hoàn toàn, rồi lại chuyển sang âm hạ xuống để sinh khí mới.
- Khí sinh ra vận hành phải luôn luôn đi đôi, giao hòa với huyết. Một tính thủy, một tính hỏa, một âm, một dương giao hòa, thăng giáng, khí không thể thiếu huyết và ngược lại, huyết cũng không thể thiếu khí.
- Khí có một hình cấu trúc như sau:
Khí thăng lên trên gọi là khí Thái dương, khí hạ xuống dưới gọi là khí Thái âm, khí sang bên hữu gọi là khí Thiếu âm, khí sang bên tả gọi là khí Thiếu dương, khí ra đàng sau gọi là khí Dương minh, khí ra đàng trước gọi là khí Quyết âm.
Nhưng đó là tính chất đơn khí. Khi khí vào phủ tạng, ra kinh mạch thì tính chất này lại khác.
- Khí tồn tại dưới hai dạng:
a. Dạng thể khí cho khí hậu thiên và cho khí tiên thiên khi biến đổi để hành công.
b. Dạng bức xạ cho khí tiên thiên: Thiên, Địa, Nhân.
Dạng thể khí là hoạt động của khí tiên thiên và hậu thiên trong con người, nó có thể biến sang các dạng vật chất của quá trình hoạt động của con người, dạng này còn gọi là dạng năng lượng.
Dạng bức xạ có hai đặc trưng, các đặc trưng này được nhận biết dựa trên sự biến động của đối tượng phát và thu bức xạ. Nếu như biến động đó không ảnh hưởng lớn tới cấu trúc và hoạt động của đối tượng thì gọi là là dạng thông tin, vì nó là cơ sở của sự nhận biết của đối tượng này với đối tượng khác. Nếu sự biến động ảnh hưởng tới cấu trúc và hoạt động của đối tượng thì gọi là dạng năng lượng, vì nó là cơ sở tác động của đối tượng này sang đối tượng khác.
3. Hỏi: Xin cho biết cụ thể về ngũ khí
Đáp: Như chúng ta đã biết, ngũ khí là chân khí đi vào tạng, phát động công năng của tạng mà sinh ra ngũ khí.
Các tính chất của ngũ khí được quy định như sau:
a. Tâm khí: tính khí là Hỏa khí, tính ngũ hành là Hỏa, tính âm dương là Dương, màu khí là màu Đỏ, kinh chạy là Tâm kinh và Tiểu trường kinh.
Ngoài ra Tâm khí còn có một mối quan hệ khác là tạo ra khí Tâm bào (khí định danh) mà trong Đông y coi cơ sở của nó là màng bao tim. Khí Tâm bào chạy trong kinh Tâm bào và kinh Tam tiêu. Tâm khí tạo Tâm hỏa mà từ đó sinh ra huyết.
b. Can khí: tính khí là Phong khí, tính ngũ hành là Mộc, tính âm dương là Dương, màu khí là màu Xanh, kinh chạy là Can kinh và Đởm kinh. Can khí hoạt động tại Can và Đởm mà tạo ra Tân, nên gọi Can là chủ Gân là vậy.
c. Tỳ khí: tính khí là Thấp khí, tính ngũ hành là Thổ, tính âm dương là Âm, màu khí là màu Vàng, kinh chạy là Tỳ kinh và Vị kinh.
Tỳ khí hoạt động tại Tỳ và Vị tạo ra Dịch, Dịch là thứ vật chất trong tế bào cho nên gọi Tỳ chủ Nhục (thịt) là vậy.
d. Phế khí: tính khí là Táo khí, tính ngũ hành là Kim, tính âm dương là Dương, màu khí là màu Trắng, kinh chạy là Phế kinh và Đại trường kinh.
Phế khí hoạt động trong Phế và Đại trường tạo thành khí Hậu thiên của cơ thể.
e. Thận khí: tính khí là Hàn khí, tính ngũ hành là Thủy, tính âm dương là Âm, màu khí là màu Đen, kinh chạy là Thận kinh và Bàng quang kinh.
Thận khí hoạt động trong Thận và Bàng quang mà thành tinh Hậu thiên của con người.
Ngũ khí là chân khí vào tạng sinh ra, rồi từ đó sang phủ ra kinh mạch cho nên biến đổi liên tục. Ngũ khí không hoạt động biệt lập mà phải đồng bộ giao hòa, cân bằng với nhau thì cơ thể mới hoạt động tốt, nếu không cân bằng tức là bệnh xuất hiện, thất tình khuấy động, lục dâm tràn vào. Nhưng muốn giữ ngũ khí, phải tồn chân khí. Cho nên vẫn lấy chân khí làm gốc vậy.
4. Hỏi: Huyệt là gì?
Đáp: Nói một cách đơn giản, huyệt là một điểm đặc biệt nằm trên đường kinh. Nhưng bản chất của huyệt là gì thì cho đến ngày nay còn nhiều tranh cãi.
Theo phương pháp dò huyệt hiện đại dựa trên cơ sở điện từ với nguyên lý xác định biến đổi điện trở trên da, mà tại vị trí huyệt cho thông số điện trở rất nhỏ. Nhưng giải phẫu học điện đại vẫn chưa công nhận huyệt và nhiều quan điểm khác của Đông y.
Sau đây trình bày khái quát một số đặc tính của huyệt. Chính các đặc tính quy định loại hình và chức năng của huyệt:
a. Huyệt là giao điểm của kinh mạch với các hệ thống, tổ chức của các cơ quan trong cơ thể.
Ví dụ các du huyệt trên kinh Bàng quang, nằm trên các hạch thần kinh đối giao cảm của hệ thần kinh thực vật (hệ thần kinh điều khiển hoạt động của các cơ quan nội tạng).
b. Huyệt là các điểm trên đường kinh, nơi mà cấu tạo cơ thể hoạt động, ví như các đầu cơ, khớp, cho nên hầu như tất cả các đầu cơ, khớp đều chứa các huyệt quan trọng. Ví dụ ở khuỷu tay có các huyệt Khúc trì, Thiên tỉnh, Tiểu hải, Xích trạch, Khúc trạch, Thiếu hải, đều là các huyệt quan trọng trong đường kinh.
c. Huyệt là các điểm ra, vào của khí từ tạng, phủ và bể thận. Ví dụ huyệt Nhũ trung là huyệt mà từ đó Tâm khí đi vào kinh Tâm vào lạc, sang kinh Tam tiêu vào Tâm bằng đường lạc từ huyệt Ty trúc không. Sự chuyển kinh bằng hai lạc huyệt Nội quan và Ngoại quan nhưng Tâm khí lại chạy đến tận đầu ngón tay giữa ở huyệt Trung xung của Tâm kinh mà ra ngoài và lại từ ngoài vào bởi huyệt Quan xung ngón nhẫn kinh Tam tiêu. Chính hai huyệt cuối cùng này trở thành hai huyệt rất quan trọng cho sự thu, phát khí trong công phu Chỉ công.
d. Huyệt là nơi kích thích hoạt động của kinh mạch, thông qua đó là hoạt động của phủ, tạng nên có tác dụng rất tốt cho chữa bệnh và dưỡng sinh, cũng như có tác dụng rất lớn cho việc luyện khí công công phu.
5. Hỏi: Cấu tạo cơ thể theo quan điểm của Đông y như thế nào?
Đáp: Cấu tạo và hoạt động của cơ thể con người theo quan điểm Đông y, là một hệ thống lý luận rất phức tạp và cao siêu. Không dễ gì thấu hiểu nó được cặn kẽ và càng không thể trình bày nó đầy đủ được. Nhưng để giới thiệu, xin dẫn ra đây hệ thống quan điểm chính của Đông y.
a. Hệ thống tạng, phủ là hệ thống của các cơ quan nội tạng, nơi mà các hoạt động sống của con người được thực hiện.
1) Tạng: có năm tạng là Tâm, Can, Tỳ, Phế và Thận, tức tim, gan, lá lách, phổi và thận. Ngoài ra còn có tạng định danh là Tâm bào, tức là cơ sở màng bao tim. Các tạng này là cơ sở hoạt động của cơ thể, phát sinh ngũ khí và chuyển hóa tinh chất và nuôi dưỡng cơ thể.
2) Phủ: có sáu phủ là Tiểu trường, Đởm, Vị, Đại trường và Bàng quang, tức ruột non, mật, dạ dày, ruột già và bọng đái. Các phủ này là các cơ quan thu nhận, chuyển hóa và đào thải cũng như phụ trợ cho việc tiêu hóa thức ăn. Phủ cuối cùng là phủ Tam tiêu, một phủ phức tạp, liên lạc giữa các tuyến Thượng tiêu, Trung tiêu và Hạ tiêu, làm cho quá trình chuyển hóa lên cao nhất.
b. Hệ thống cốt tủy là hệ thống quan trọng, là cơ sở để tinh hoa con người được sinh ra và hoạt động, với hoạt động cao cấp nhất là thần hồn, hệ thống này có tác động rất lớn đến vận mệnh của con người.
c. Hệ thống gân, cơ, bì, mao là hệ thống thực hiện vận động cùng bảo vệ cơ thể, nó là nội khí huyết hoạt động và quan hệ với môi trường bên ngoài.
d. Hệ thống giác quan bao gồm Ngũ quan, Cửu khiếu:
* Ngũ quan là mắt, mũi, mồm, tai, da.
* Cửu khiếu là hai mắt, hai tai, một mồm, hai lỗ mũi, đường tiểu và sinh dục, đường đại tiện.
Việc chia Ngũ quan, Cửu khiếu cũng phức tạp, xin dẫn ra đây một số vấn đề:
- Sự hoạt động của hệ thần kinh: nhìn, nghe, nói, ngửi, sờ.
- Sự khai khiếu của tạng: mắt khai khiếu của Can, tai khai khiếu của Thận, mồm khai khiếu của Vị, mũi khai khiếu của Tỳ, da khai khiếu của Phế.
- Sự biểu hiện của vận mạng, đó là sự biểu hiện của khí sắc và thần ở Ngũ quan, Cửu khiếu:
+ Khí sắc kém là tạng suy, bệnh mắc.
+ Khí sắc mất là tạng hỏng, bệnh nặng.
+ Khí sắc tuyệt là dẫn đến tuyệt mệnh.
- Thần biểu hiện chủ yếu ở mắt:
+ Thần suy là bệnh nặng.
+ Thần tuyệt là mệnh mất.
- Sự liên quan tới bên ngoài: đó là Cửu khiếu thông thiên, là năng lực cao siêu của Cửu khiếu cùng các năng lực Tiên thiên khác của con người, đảm bảo mối quan hệ đại vũ trụ và tiếp nhận sự thông tin với con người.
Kinh khí và mạch huyết
1) Kinh khí: là đường dẫn khí, bao gồm:
- Mạch chân khí là mạch Nhâm và mạch Đốc.
- Kinh ngũ khí có 12 kinh chính là Phế kinh, Đại trường kinh, Tỳ kinh, Vị kinh, Tâm kinh, Tiểu trường kinh, Thận kinh, Bàng quang kinh, Tâm bào kinh, Tam tiêu kinh, Can kinh và Đởm kinh.
Ngoài ra còn có Bát mạch kỳ kinh, thể hiện mối quan hệ giữa khí với huyết và cốt, tủy, gân, cơ, đó là Nhâm mạch, Đốc mạch, Xung mạch, Đới mạch, Âm kiều mạch, Dương kiều mạch, Âm duy mạch và Dương duy mạch.
- Mạch lạc là mạch liên hệ giữa kinh mạch với nhau và với tạng phủ.
- Mạch tôn lạc là mạch nhỏ dẫn khí ra da.
2) Huyết mạch: đó là mạch máu giống như quan điểm Tây y, bao gồm động mạch, tỉnh mạch và mao mạch đưa huyết đi, dẫn huyết về và giúp cho huyết trao đổi.
Ngoài hệ thống trên còn nhiều hệ thống khác.
6. Hỏi: Vòng đại Chu thiên của khí là gì?
Đáp: Vòng đại Chu thiên của khí là vòng mà khí huyết luân chuyển thứ tự trên các kinh, trong một ngày. Nhưng sự luân chuyển của nó thế nào thì lại là vấn đề phức tạp, trở thành một trong những vấn đề cơ bản của Đông y học cũng như y học hiện đại. Sau đây xin trình bày một số vấn đề có liên quan tới việc luân chuyển khí huyết và vòng đại Chu thiên.
a. Theo vòng đại Chu thiên, khí huyết chạy theo một vòng thứ tự theo thời gian. Nhưng điều đó không có nghĩa là khí huyết không chạy đến, không có ở những nơi khác, mà chỉ là nó vượng nhất mà thôi. Tại sao vậy? Bởi vì khi khí ở tạng nào tức là lúc đó chân khí đi vào tạng đó, phát huy công năng của tạng đó. Tức là tạo ra khí ở tạng đó cao nhất, nhiều nhất và đồng thời cũng vào các tạng khác, phát huy công năng tạng khác nhưng không ao.
b. Theo vòng đại Chu thiên có sự luân chuyển khí từ tạng phủ này qua tạng phủ khác, bình thường các tính chất của tạng khí này khác tính chất của các tạng khí khác, do đó sự lưu chuyển sang nhau sẽ gây ra các trạng thái cơ bản sau:
1) Trạng thái hòa đồng: không gây ảnh hưởng lớn.
2) Trạng thái đối nghịch: gây ảnh hưởng xấu.
3) Trạng thái tổng hợp: gây ảnh hưởng tốt.
Như vậy với trạng thái hòa đồng, thì các tính chất của các tạng được đảm bảo đơn tính.Với trạng thái đối nghịch, tính chất tạng khí suy giảm, đó là nguyên nhân gây bệnh từ tạng phủ này sang tạng phủ kia vậy. Với trạng thái tổng hợp, các tính chất của tạng được tăng cường hoạt động tốt hơn, cao hơn. Như vậy trong vòng đại Chu thiên, do các tính chất của các tạng, khi đến đúng giờ chân khí đi vào tạng đó, được tổng hợp tốt hơn cho nên tạng khí sinh ra nhiều nhất, công năng hoạt động tốt nhất, thông hoạt nhất.
7. Hỏi: Tinh là gì?
Đáp: Theo sự hiểu biết của con người, tinh có hai loại:
a. Tinh hoa của trời, đất và con người, đây là khái niệm trừu tượng.
b. Tinh của sinh thực, tức là sự duy trì nòi giống của con người.
Nhưng tinh của con người là một quan niệm rất phức tạp của Đông y.
Theo quan niệm của Đông y, tinh là một khái niệm hết sức cơ bản. Tinh chia làm hai loại:
Tinh tiên thiên của con người. Tinh này chính là cơ sở của sinh mệnh con người, nó là cái mà con người kế thừa của cha mẹ và hoạt dụng trong trời, đất. Theo cơ sở lý luận, tinh tàng ở tuyến Thượng thận, do đó trong hoạt động hô hấp thăng giáng của phủ tạng tinh hóa thành khí “hạ Tâm hỏa, góp Tốn phong, Tinh vụt cháy thành Khí”, chính vì vậy tinh còn được coi là cơ sở vật chất của khí.
Tinh hậu thiên. Có nhiều quan niệm về tinh hậu thiên. Có quan niệm cho rằng tinh hậu thiên tạo thành do sự chuyển hóa vật chất nhưng quan niệm này không đúng, vì như thế là đã sai lầm về cách đặt vấn đề và khái niệm tinh khí. Tinh hậu thiên chính là tinh của giống nòi mà từ đó tạo nên sinh thực khí.
Mối quan hệ của tinh tiên thiên, hậu thiên của con người với trời đất cũng phức tạp. Chính hậu thiên của trời và đất giao hòa tạo không khí thở và thức ăn cho con người, từ đó tạo cơ sở cho sự sống của con người mà tạo nên tinh tàng ở Thận. Tinh này hạ xuống thì tạo ra tinh sinh thực là tinh hậu thiên, thăng lên thì tạo thành khí, do đó tinh này gọi là tinh tiên thiên. Tiên thiên của trời đất vào con người mà góp phần làm cho tinh tiên thiên con người phát triển và hóa thành khí.
Tinh cũng như khí ở dạng hậu thiên là dạng khí khi hóa, ở dạng tiên thiên là dạng bức xạ vật chất khi hóa. Nhưng đó là dạng hóa của tinh thành khí, còn ở dạng thể, tức là dạng tồn tại, thì lại là sự chuyển hóa không ngừng như Tam bảo, tức là không tồn tại ở dạng đơn nhất mà tinh phải hóa thành khí, khí phải luân chuyển mà hóa thành thần và phát động các ơ năng hoạt động của con người.
Mối quan hệ Tinh – Khí – Thần, là mối quan hệ luôn biến động và chuyển hóa, nếu dừng là bệnh, nếu tuyệt là chết.
8. Hỏi: Xin cho biết Thần là gì?
Đáp: Thần là một quan niệm cũng không đơn giản, nó chia làm hai dạng:
a. Sự hoạt động thần kinh điều khiển toàn bộ hoạt động của con người.
b. Sự biến vi, hoạt dụng của khí, bởi khí chính là cơ sở vật chất của Thần.
Sự phân chia này cũng chỉ là tương đối vì thần có biểu hiện được, phải đảm bảo cả hai điều kiện tồn tại đó.
Quan niệm của y học Đông phương cho rằng hệ thần kinh đó chỉ là cơ sở thừa hành chức năng hoạt động của khí, khi khí đi vào cột tủy. Sự hoạt động này là do khí sinh ra ở bể thận theo mạh Đốc, tức là đường cột sống, đi lên não mà sinh ra hoạt động thần kinh.
Do đó Đông y quan niệm về bản chất bệnh lý học thần kinh là sự rối loạn của dương khí đi lên theo mạch Đốc.
Trong lĩnh vực Đông y và khí công, chúng ta phải chấp nhận những quan điểm cơ sở đó, có như vậy mới không vấp phải những mâu thuẫn ở các quan niệm khác.
Thực chất dù quan niệm như thế nào đi nửa thì Thần cũng không thể tách rời cá hoạt động cơ bản khác của sự sống.
9. Hỏi: Xin cho biết mối quan hệ giữa khí và huyết?
Đáp: Khí và huyết là hai dạng vật chất tồn tại song hành. Điều đó có nghĩa là ở đâu có khí thì ở đó có huyết và ngược lại. Khí làm cho nhuận huyết, và huyết làm cho thuần khí. Huyết tính dương hỏa, khí tính âm thủy, bởi vậy nếu tồn tại và hoạt động huyết và khí phải giao hòa. Có nghĩa là huyết sinh ra phải hạ xuống, khí sinh ra phải thăng lên, có như vậy âm dương mới giao hòa, thủyhỏa mới cấu kết mà bảo tồn sự sống.
Lại nói khí không có huyết thì dễ tán, huyết không có khí thì dễ đọng là bởi sự không giao hòa của khí – huyết.
Khí bệnh thì huyết bệnh, khí nhập phong tà thì huyết làm độc, huyết chảy không thuận thời khí nghịch, loạn, mà từ đó trăm bệnh phát sinh, cái chết cận kề.
Huyết là vật chất thực tại, tức là có đủ các đặc tính của vật chất của tế bào. Khí là vật chất tinh hóa, tức là có đặc tính của khí. Bởi vậy có thể nói huyết là nhà của khí, khí là đường của huyết cũng được vậy.
Huyết hoạt động do sự co bóp của của tim, tạo ra áp huyết, làm cho huyết chuyển động trong mạch. Nhưng cấu tạo của huyết là thể bất định của hồng huyết cầu (và một số loại khác như bạch cầu) nhưng hồng huyết cầu huyển động ở dạng vô định nếu như khí hoạt hóa huyết, thời huyết ở dạng thuận lợi cho hoạt động nhất, tức là không ở dạng cầu nữa mà ở dạng bầu dụ, nhân ủa nó nằm ở phía trước làm cho chuyển động của nó tốt hơn và do đó huyết áp có thể giảm mà huyết vẫn đủ là vậy. Đây chính là một điểm khó nhất của quan niệm khí – huyết và từ đó giải thích một phần nào về bản chất khí. Như một ion chuyển động thành dòng tạo từ trường. Phải chăng huyết nếu như hoạt động ở dạng tối ưu trên sẽ tạo ra hoạt động của khí với các đường kinh là sự tạo thành từ sự giao thoa từ trường khí đó. Đây là một vấn đề cần nghiên cứu thêm về bản chất của khí – huyết cũng như sự sống.
10. Hỏi: Mối quan hệ giữa bể thận, với chân khí và ngũ khí như thế nào?
Đáp: Bể thận là một tập hợp lấy tâm là tuyến Thượng thận. Trên liên hệ với Tâm và Phế, dưới liên hệ với Thận và Bàng quang, trước liên hệ với Đại trường và Tiểu trường, sau liên hệ với cốt tủy, bên phải liên hệ với Can và Đởm, bên trái liên hệ với Tỳ và Vị. Bởi vậy bể thận chính là cái nôi sinh ra chân khí từ tinh vậy.
Nhưng tinh có tạo ra được phải nhờ sự chuyển hóa của vật chất từ Đại trường, Tiểu trường và hoạt động của Thận, và nguồn gốc lấy tinh ra là từ tủy. Tinh có hoạt hóa được là do Can, Đởm, Tỳ, Vị hỗ trợ. Tinh có thành khí được cũng là do Tâm hỏa hạ xuống, nhờ cùng Phế khí mà thành.
Khi tinh hóa thành khí rồi thì thành chân khí. Chân khí theo cốt tủy đi lên mà thành thần khi vào hệ thần kinh. Chân khí thăng lên tạo Tâm khí và Phế khí, hạ xuống tạo Thận khí, sang tả tạo Tỳ khí, sang hữu tạo Vị khí, ngấm ra trước bụng tạo Tâm bà khí (khí định danh) mà vào Tam tiêu hệ hung trung (trong bụng).
Bởi vậy bể thận là cái nôi của chân khí, chân khí vào tạng mà tạo thành ngũ khí, chân khí chạy trong mạch Nhâm Đốc, ngũ khí chạy trong 12 kinh cùng chân khí mà tạo vinh khí, ra tôn lạc tạo vệ khí là vậy.
Chân khí sinh ra thần và ngũ khí, ngũ khí sinh ra ở tạng mà phát động cơ năng của tạng phủ, duy trì hoạt động của các cơ quan trong cơ thể, dựa trên cơ sở tạo ra Tam bảo Tinh – Khí – Thần.
Gọi là bể thận vì tâm của nó ở tuyến Thượng thận, đồng thời hoạt động của Thận liên quan tới khí rất lớn vì chính hoạt động đó tạo ra tinh.
Gọi là chân khí vì đó là khí tạo ra thần và ngũ khí.
Gọi là ngũ khí vì đó là khí do chân khí vào ngũ tạng (Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận) mà thành.
Mối quan hệ của Bể thận – Chân khí – Ngũ khí là mối quan hệ mật thiết, đồng bộ và hoạt hóa nhau. Trong mối quan hệ này, hư đâu là bệnh đó và làm bệnh cho phần khác ngay. Hư mãi đến thời kỳ tuyệt, thì dù tuyệt một cái cũng chết.
Mục đích của luyện khí công chính là quá trình luyện để đẩy mối quan hệ này lên đến mức độ cao nhất mà giải trừ bệnh tật và nâng cao khả năng tiềm ẩn vậy.
11. Hỏi: Mối quan hệ giữa con người với trời đất trong lĩnh vực khí thế nào?
Đáp: Mối quan hệ giữa con người với thế giới bên ngoài bao gồm:
a. Con người với con người, xã hội và sinh vật.
b. Con người và tự nhiên (trời đất).
Trong lĩnh vực khí thì ơ sở của mối quan hệ này là khí, là sự thu phát khí một cách tự nhiên hay phải vận hành.
Trạng thái của khí cũng có hai thể là thể khí và thể bức xạ.
Tác động của khí cũng có hai dạng cùng bản chất.
- Dạng thông tin. Gọi là dạng thông tin vì sự liên hệ không gây ra biến động lớn ảnh hưởng tới cấu trúc và sự hoạt động của các đối tượng.
- Dạng năng lượng ảnh hưởng tới cấu trúc và sự hoạt động của đối tượng.
Sự phân phối này chính là dựa vào cường độ tác động vậy.
Mối quan hệ con người và con người, sinh vật trong lĩnh vực khí là mối quan hệ đồng bộ khí.
Mối quan hệ con người với tự nhiên phức tạp hơn, bao gồm:
- Hậu thiên đất, trời thăng giáng tạo thành khí cho Phế.
- Tiên thiên trời đất giao hòa hỗ trợ mà tạo ra và vận hành tiên thiên người.
Khi các võ sư khí công phát khí, nhất là trong lúc sử dụng Thần công, mối quan hệ này trở nên rất rõ ràng mà các nhà nghiên cứu hiện đại coi đó là sự hợp nhất Thiên – Nhân.
|