Thần Đồng Đất Việt
NGUYỄN HIỀN
(1235-…?)
1. Trạng nguyên 12 tuổi
Khoa thi năm Đinh Mùi (1247), dưới triều Trần, đời vua Trần Thái Tông có sự kiện lạ, làm cả triều đình và bàn dân thiên hạ kinh ngạc. Đó là người chiếm bảng vàng nhất nước, đoạt học vị Trạng nguyên là cậu bé 12 tuổi, tên là Nguyễn Hiền, người làng Dương A, huyện Nguyễn Hiền, phủ Thiên Trường (nay là xã Nam Thắng, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định).
Truyện kể rằng, năm mới lên 6, 7 tuổi. Nguyễn Hiền theo học một nhà sư trong làng, sách chỉ đọc qua là nhớ, mỗi ngày học hết 20 trang. Sư viết được trang sách nào là Hiền thuộc ngay, như thể đã học trước rồi. Nguyễn Hiền có tính hay đùa nghịch, sao lưng các pho tượng trong chùa đều có dòng chũ “Phạt 30 roi”, “phạt 60 roi” do Hiền viết. Một hôm sư ông phát hiện thấy, nhận ra nét chữ của Hiền. đến giờ giảng bài trên lớp, sư bèn chọn câu văn trong sách Nho: “Kính quỷ thần nhi viễn chi” (Kính quỹ thần phải tránh xa), cho học trò chép học và răn rằng: “Phật cũng là thần, không được nhạo báng”.
Nguyễn Hiền nhận thấy lỗi của mình, cậu đã tự lấy giẻ lau sạch chữ viết sau các pho tượng.
Hiền học một biết mười, năm 11 tuổi đã nổi tiến là thần đồng. Bấy giờ có một người tên Đặng Tính, ở phủ Bắc Giang tự cho mình là thông thái, chữ nghĩa hơn người tìm đến gặp Hiền để thử tài. Ông Đặng lấy đầu đề bài phú “phượng hoàng sào vu A Các, Kì Lân vu du Uyển Hựu ” (Chim Phượng hoàng làm tổ trên núi A Các, con Kì Lân ra chơi vườn Uyển Hựu) và yêu cầu thần đồng Nguyễn Hiền làm bài phú không được dùng hai chữ “Phượng Hoàng và Kì Lân”, nhưng mỗi câu phải có tên một giống thú.
Nguyễn Hiền ứng khẩu đọc: “Quy phi Lục Thuỷ (con Rùa không đợi ở sông Lục Thuỷ)
Long bất Mạnh Hà (con Rồng không xuất hiện nơi sông Mạnh Hà)
Y hi! Hữu Hùng chi quốc (tốt thay nước Hữu Hùng , chữ hán “Hùng” là gấu)
Ấp vu Trác Lộc chi a (đóng đô ở gò Trác Lộc, chữ “lộc” còn có nghĩa là con hươu)”.
Nghe xong, Đặng Tính báy phục khen “Thiên tài, Thiên tài!”.
Năm Bình Ngọ (1246), Hiền dự thi và đỗ thủ khoa, tiếp đến khoa thi Đinh, năm Đinh Mùi (1247) liền đỗ trạng. Bài thi do nhà vua ra đề là: “Ấp tử từ kê mẫu du hồ phú” (Bài phú nói về vịt con từ giã mẹ gà đi chơi hồ). Nội dung đề bài rõ ràng là khá rộng và trừu tượng, hiểu được ý không phải dễ mà còn yêu cầu diễn đạt bằng thể phú nữa kia! Nguyễn Hiền không chỉ hiểu sâu sắc đề ra mà còn viết một bài phú có tính chất nghị luận rất xuất sắc, vừa thể hiện được nhận thức về cuộc sống vừa tỏ rỏ khả năng uyên bác, văn chương mạnh mẽ của một cậu bé mới ở tuổi 12!
Khi Nguyễn Hiền vào cung yết kiến, nhà vua thấy trạng còn quá nhỏ, mà thông thái hơn người bèn hỏi:
Trạng nguyên học ở đâu?
Nguyễn Hiền cú thực tình tâu:
Thần tự học lấy, nhưng có một đôi chữ không hiểu thì hgỏi sư ông ở chùa làng.
Nhà vua thấy trạng nói năng tự nhiên, chưa hiểu phép tắc lễ nghĩa, lại có ý tỏ ra kiêu căng, nên cho là chưa thể bổ nhận chức quan trong triều được, bèn cho trạng về nhà học hành thêm, chờ 03 năm sau khôn lớn mới bổ dụng.
Trạng về nhà ngoài chuyện đọc sách, giúp đỡ công việc gia đình, còn thời giờ thì kết bạn với trẻ con trong làng đành khăng, thả diều vui chơi thoả thích.
2. Gỡ bí cho cả triều đình
Ít lâu, sau khi trạng về nhà, thì sứ nhà Nguyên sang nước ta. Muốn thử nước Nam có người tài hay không, họ bèn chuyển tới các quan lễ tân một chiếc vỏ ôc xoắn và một sợi chỉ mảnh thách tìm được cách xâu qua, kèm theo bài thơ có nội dung nư sau:
“Hai mặt trời, mặt trời bằng đầu
Bốn trái núi, trái núi điên đảo
Hai ông vu tranh nhau một nước
Bốn cái miệng trong khoảng dọc ngang”.
Vua giao cho các quan đình thần nghiên cứu trả lời, nhưng không một ai giải đáp được cả. Trong khi cà triều đang bí, bỗng có người nhờ tới trạng nguyên Nguyễn Hiền, bèn tâu vua cho mời trạng đến hỏi, may ra mới hiểu được. Nhà vua y lời ngay và lập tức sai quan đến tận nhà đón trạng. Khi quan sứ của nhà vua đến đầu làng Dương A thì găp5 một cậu bé. Quan dừng lại hỏi thăm nhà trạng Hiền. Cậu bé cứ làm thinh trố mắt nhìn ra vẻ xem thường. Quan bực lắm và nghĩ bụng ta hỏi hắn một câu thật hóc búa, cho bớc cái tính ngông nghênh. Quan bèn đọc: “Tự là chữ, cắt giằng đầu, tử là con, con ai con ấy?”
Viên quan dùng lối chiết tự. Nguyên chữ “tự” nghĩa là “chữ”, phí trên có nét viết giống như cái giằng xay. Bỏ nét đó đi thì thành chử “tử” nghĩa là “con”.
Cậu bé nãy giờ mới miểm cười, mở miệng nhưng không phải trả lời mà hỏi lại quan như sau:
“Vu là chưng, bổ ngang lưng, đỉnh là đứa, đứa nào đứa này?”
Câu hỏi cùng dùng lối chiết tự. Chữ “vu” nguyên có hai nét ngang và một nét mốc, bỏ đi nét nganh thì thành chữ “đinh” nghĩa là đứa.
Hỏi xong cậu bé ù té chạy vào làng. Nghe câu hỏi ý xấc xược, nhưng chữ nghĩa dùng rất tài tình , quan đoán ngay đứa bé chẳng phải ai ngoài trạng Hiền, liền mừng rở hết giận và theo chân tìm đến nhà Trạng.
Quan vào đến sân thì thấy trạng đứng trong bếp nhìn ra, miệng tủm tiểm cười quan bèn trêu:
“Ngô văn quân tử, viễn bào trù, hà tu mị táo”. Nghĩa là: ta nghe người quân tử thường lánh xa nơi bếp núc, sao lại nịnh ông bếp?
Nghe vậy trạng trả lới ngay:
“Ngã bản hữu quan tư đỉnh nại, khả đạm điều canh”. Nghĩa là: Ta vốn chức quan hàng tể tướng, nhưng hãy tỵam nêm canh.
Trong câu của quan có chữ “bảo tru” (bếp núc) và “mị táo” có nghĩa là nịnh bếp núc. Còn trạng Hiền đã dùng chữ “đĩnh nại” (tể tướng) và “điều canh” cũng là làm tể tướng để chọi lại.
Quan rất thán phục tài ứng đối của trạng, rồi thuật lại cho trạng nghe những điều sứ Nguyên thách đố và truyền chỉ dụ của nhà vua dời trạng về kinh để giúp triều đình. Trạng nghe quan nói cừ im lặng chẳng trả lời. Quan van vỉ mãi, trạng mới nói: “Trước kia vua bảo ta không biết lễ phép, nay chính vua cũng không hiểu lễ là gì!”. Thì ra, vì quan sứ đi vội và cũng có thể xem trạng là trẻ con nên đã quên mất cả nghi thức đón trạng, như phải có chiếu chỉ của nhà vua, có xe ngựa chu tất…
Quan sứ chào trạng, lên ngựa trở lại kinh, bỗng nghe mấy trẻ trong làng hát to:
“Tích tịch tang, tích tịch tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thì lấy giấy mà bưng
Bên thì bôi mật kiến mừng kiến sang
Tích tình tang, tích tịch tang”
Viên quan biết trạng đã gián tiếp bài cho giải câu đố theo cách xâu chỉ, bèn nhẩm thuộc bài ca để vế tâu vua.
Quan sứ chuẩn bị đầy đủ nghi thức đón trạng về triều. Nhà vua đưa bài thơ của sứ Nguyên cho trạng và hỏi người Mông- Nguyên định nói gì. Trạng chỉ đọc luớc qua bèn phát hiện toàn bộ nội dung của bài thơ chỉ mô tả có một chử- đó là chữ “Điền”. Vì chữ “Điền” có hình dáng giống như hai chữ nhật (là mặt trời) bằng đầu để sóng hàng. Hai chữ sơn (là núi) xáo trộn đầu đuôi. Hai chữ vương (là vua) nghiêng ngửa tranh một nước và bốn chữ khẩu (chỉ cái miệng) liền nhau ghép dọc ngang. Bấy giờ vua và triều đình mới hiểu ra, thở dài khoan khoái. Sứ Nguyên khi xem lời giải đáp cũng cả kinh, biết nước Nam có những người tài, không dám khinh thường, kiêu căng hách dịch quá quắt!
Có tài liệu chép rằng: Sau lần đó vua Trần mời trạng ra giao giữ chức Thượng thư bộ công.
Khi trạng mất (có lẽ trạng mất sớm), nhân dân lập đền thờ tại quê, được vua ra chỉ dụ cấp cho dân xã 5 mẫu ruộng để lo việc thờ cúng và đổi tên huyện Thượng Hiền thành Thượng Nguyên, không nhắc đến tên huý của trạng, để tỏ lòng tôn kính./.
Last edited by Adamsmith; 26-07-2008 at 11:03 PM.
|