Nguyễn Khải
Thuợng đế thì cười (kỳ 7)
18.
Lại nói tới dòng họ. Từ năm còn nhỏ tới năm 45 tuổi hắn không hề biết gốc gác bên nội của mình, con vợ lẽ, đứa con không mong đợi chả có trách nhiệm gì tới hương khói một dòng họ mà phải cho hắn biết. Năm 1945, trong một lần hầu chuyện với một vị quan thầy ở tỉnh Nam, ông quan lớn đã về hưu hỏi ông quan vừa bị mất việc do thời thế: "Quan lớn được mấy người con?" - "Bẩm cụ lớn, vợ chồng con được bảy cháu, hai trai năm gái". Hắn đứng sau tấm bình phong bất giác nghe lỏm được cũng bàng hoàng, thì ra bố hắn đã loại anh em hắn ra khỏi đám con chính thức của ông rồi. Không ngờ sau năm 1975 hắn lại được gặp bố và mẹ già ngay tại Sài Gòn vừa được giải phóng, mới có dịp nhận anh chị, nhận họ hàng ở trong Nam và cả ở ngoài Bắc. Bây giờ hắn cũng là người sang, nhận hắn làm thành viên của gia tộc chả mất mặt một chút nào, nên chính ông bố và bà mẹ già vốn ghét hắn lại thay nhau đứa hắn đi nhận họ với lời giới thiệu rất tế nhị: "Ðây là anh con lớn của bà ngoài Hà Nội". Bà ngoài Hà Nội chứ không phải là bà Hai, bà Ba gì cả. Nói thế là mọi người đều hiểu, vì đã từng nghe nói ông bố hắn còn một bà nữa, đã có hai con đang sống ở Hà Nội. Vả lại trong mấy người con trai của ông, hắn có gương mặt và dáng dấp giống ông nhất, càng già càng giống như nhận xét của nhiều người. Nhưng ông không nói gì thêm với hắn về gốc gác, quê gốc ở đâu, ông nội là ai, ông cố là ai, tuyệt đối không nói. Vì sao thế, cho đến bây giờ hắn cũng không thể hiểu. Có một lần ông có nói với hắn: "Tôi vẫn giữ bằng khoán ngôi nhà thờ họ ở phố Hàng Nâu, Nam Ðịnh. Tôi sẽ đưa anh cầm để anh xin lại với nhà nước xem sao". Chỉ nói có một lần đó rồi ông quên đi, hắn cũng không nhắc lại. Nên về gốc gác hắn phải hỏi chị Ðại, gọi bố hắn là cậu ruột, hơn hắn 16 tuổi, là cháu gái đầu của ông nội hắn (ông nội có bốn vợ và bốn nàng hầu, bố đẻ hắn là con bà Ba. Cũng là con bà lấy thêm, đứa con thêm mà sao lại ghét bỏ con thêm thế). Rồi hắn gặp ông trưởng họ, là cháu đích tôn của ông nội, sống nghèo nhưng bụng dạ tốt, cho hắn xem tộc phả được lập từ đời cụ Nguyễn Lữ, là Hộ bộ thượng thư Trưởng sự Quỳnh sơn hầu, thời Lê Tương Dực. Cụ Lữ là con út của cụ Nguyễn Văn Lỗ, cụ Lỗ là con thứ năm của cụ Nguyễn Công Chuẩn. Cụ tổ của chi hắn là Châu quận công Nguyễn Như Hiếu là con thứ ba của cụ Chuẩn. Cụ Lữ là cháu ruột cụ Hiếu, là tổ chi Nguyễn Gia ở Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh, con cháu có một thi hào là Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung oán ngâm khúc. Viễn tổ của hắn là Thái tể Ðịnh quốc công Nguyễn Bặc, cùng quê với Ðinh Bộ Lĩnh ở làng Ðại Hữu, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Thành thử hỏi quê hắn ở đâu, hắn có thể nói ở Ninh Bình, ở Thanh Hoá hay Nam Ðịnh, cả dải đất vùng Sơn Nam Hạ ấy đều có mối quan hệ máu thịt với hắn cả. Hơn nữa trong suốt tám năm kháng chiến chống Pháp hắn cũng không xa rời ba tỉnh đó. Quân khu 3 thì đóng ở huyện Nho Quan thuộc đất Ninh Bình, thời hắn là lính thì ở Thọ Xuân, Yên Ðịnh của tỉnh Thanh Hoá và lần đầu hắn được gặp các tài danh văn chương của cả nước Nguyễn Tuân, Xuân Diệu là ở Ðông Môn, huyện Vĩnh Lộc của Thanh Hoá. Thời Nam Ðịnh bị Pháp chiếm đóng hắn cũng hay đi về từ huyện Nghĩa Hưng, Hải Hậu, sau này hắn vào hẳn nghề văn là từ tiểu thuyết Xung đột, nhân vật, sự kiện trong tiểu thuyết là ở vùng hạ Nghĩa Hưng của tỉnh Nam Ðịnh. Cũng như ở Hà Nội, mẹ hắn sinh hắn ở nhà hộ sinh bà đốc Tiến ở phố Hàng Cót, nhà bố mẹ ở phố Quan Thánh, lớn lên một chút thì ở phố Hàng Bún, đi về qua vườn hoa Hàng Ðậu khoảng mười năm. Rồi tạp chí Văn nghệ quân đội nơi làm việc của hắn suốt ba chục năm lại kề sát vườn hoa Hàng đậu. Nhà riêng của hắn ở bãi Phúc Xá cách vườn hoa Hàng Ðậu khoảng một cây số. Tức là có tới hai phần ba đời người hắn cứ như dính chặt vào mấy cái phố bao quanh vườn hoa Hàng Ðậu. Tuổi hắn cầm tinh con ngựa, nhưng chắc là ngựa què nên chỉ bước quanh quẩn một rẻo đất quen thuộc, về già lại càng ít đi hơn, cho đến bây giờ hắn vẫn chưa được đặt chân đến thánh địa Thái Nguyên và vùng du lịch nổi tiếng Ðà Lạt. Nghĩ rằng nó gần, lại giao thông thuận tiện, đi lúc nào chả được, rút cuộc đã ngoài bảy chục tuổi vẫn chưa tới. Chả biết có còn đủ thời gian để tự hứa với mình về một chuyến đi sẽ có không? Nhưng viết thì hắn lại chăm lắm, có ý tưởng hay, cách kết cấu lạ và đẹp là hắn viết liền, vừa viết vừa nghĩ tiếp, hắn chưa bao giờ để lại một cái gì và tự hứa rồi sẽ viết.
Lại nói tiếp về cái dòng dõi của gia tộc hắn. Tiên tổ của hắn rất ham mê tham chính, và để trả giá cho cái nghề nguy hiểm ấy họ đã phải chết rất nhiều. Cụ viễn tổ Nguyễn Bặc là tể tướng đầu tiên của nước ta. Sự nghiệp của nhà Ðinh cũng là sự nghiệp của cụ, nghĩ rằng sẽ trường tồn cùng nước Ðại Cồ Việt. Nào ngờ hai cha con vua Ðinh bị hành thích, cái án Ðỗ Thích còn treo đấy, theo hắn là chưa thể kết luận được. Lê Hoàn tuổi trẻ tài cao, trong con mắt ông ta chỉ có Ðinh Liễn mới là đối thủ đáng gờm, vì Liễn cũng còn rất trẻ, có tài cầm quân khiển tướng và cũng là một tay có lắm thủ đoạn. Liễn chết cùng với cha, con đường tới ngai vàng hầu như bỏ trống. Lại thêm có sự tính toán của bà Dương Vân Nga. Hắn chả tin mấy về lòng yêu nước của bà, hắn chỉ tin vào sự tính toán rất trần tục của chính mình. Với bà làm tôi Lê Hoàn tất nhiên là an toàn hơn làm tôi Ðinh Liễn. Liễn đã từng giết thái tử nay phải giết thêm một thằng em khác mẹ là Ðinh Toàn có gì phải phân vân. Và giết cả Lê Hoàn cũng vẫn được với cái tội thông dâm với vợ của cha mình. Nên ông Thập đạo Tướng quân phải ra tay trước. Cụ tổ của hắn dấy quân chống lại ông tướng muốn cướp ngôi. Nhưng ông tướng trẻ vừa có quân quyền, lại có cả thái hậu đứng phía sau nên ông tể tướng già đành phải rút về Gia Miêu rồi tổ chức một trận quyết chiến trên sông Lèn. Lê Hoàn dùng hoả công đánh bại, Ðinh Ðiền chết tại trận, Nguyễn Bặc bị bắt đóng cũi, giải về Hoa Lư, chém đầu ở cửa đông Thành. Ba đời sau cụ Nguyễn Dương, làm quan dưới ba triều vua nhà Lý chống lại quyền thần Ðỗ Anh Vũ cùng với các tướng. Các tướng vây thành, cụ xách giáo đâm Ðỗ Anh Vũ cho khỏi hậu hoạ thì bị Ðàm Dĩ Mông ôm chặt lấy cụ. Ðỗ Anh Vũ là phụ chính đại thần của Lý Anh Tông, lại là người tình của thái hậu, vây cánh trong triều rất đông chết thế nào được. Cụ nhiếc mắng các tướng vì tham của đút đã làm lỡ việc lớn rồi nhảy xuống giếng tự vẫn. Nhưng cụ đã để lại cho đời một người con là nhà thơ Nôm đầu tiên của nước ta, cụ Nguyễn Thuyên tức Hàn Thuyên. Năm 1923, dân làng Lai Hạ (Gia Lương, Bắc Ninh) trùng tu nhà thờ cụ Hàn Thuyên có làm đôi câu đối ca tụng sự nghiệp của cụ:
Hàn luật xướng tân thanh, Lý hậu, Lê tiền, văn phái biệt khai Hoa Việt giới.
Ngạc ngư tiêu ác lãng, Lô Giang Triều Hải sùng từ đối tự Bắc Nam thiên. [1]
Năm 1388, vua Trần Ðế Hiển mưu bắt Hồ Quý Ly bị bại lộ, bị thượng hoàng Nghệ Tông bắt giam, lại một ông quan võ họ Nguyễn là cụ Nguyễn Công Sách, thái uý quản quân thiết sang cùng anh em là Nguyễn Minh Du quản quân thiết hổ đem quân bản bộ định phá ngục cứu Trần Phế Ðế nhưng việc không thành, bị Hồ Quý Ly giết cả hai anh em cùng với nhiều người trong họ. Sau vụ tàn sát này nhiều người họ Nguyễn phải đổi sang họ Hoàng, rồi họ Quách, họ Ðỗ để ẩn thân.
Sang thời cận đại cụ nội hắn là Nguyễn Tu, tổng đốc Ninh Thái, trong họ gọi là cụ thượng Tu, năm 1885, khi Pháp đánh Bắc Kỳ cụ chạy về quê nhưng lại nằm bên nhà vợ ở Hoằng Nghĩa, em vợ là tri huyện Bình Lục thua bạc chạy về xin tiền chị, chị lại nghiệt không cho sinh thù vu của anh rể chống phong trào Văn Thân, tổ chức vây bắt đem ra bờ sông Mã cắt cổ. Từ đó con cháu làm thịt gà chỉ được bóp cổ chứ không được cắt tiết. Ngày giỗ của cụ, ông nội hắn làm lễ tế bố cũng đúng 5 giờ sáng là giờ bố bị hành quyết, tế xong ông đóng cửa ngồi một mình, chỉ ăn cháo với muối trong ngày. Từ ngày nhỏ hắn chỉ biết có mối dây liên hệ duy nhất với dòng họ là không được gọi cái lược mà phải gọi chệch là cái chải, người nghe không hiểu thì nói thêm, cái chải đầu. Vì ông nội hắn tên huý là Nguyễn Hoằng Lược. Nhưng phải tới tuổi 60 lần đầu được về quê gốc của họ Nguyễn Bồng Trung ở huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá hắn mới nhận ra hắn đã là người của Hà Nội chứ không còn thuộc về một vùng quê nào cả. Vì hắn có tính hay tự giễu, ngay cả khi bạn bè vạch vòi cái xấu của hắn trước đông người hắn chỉ hơi cứng mặt một tí, hơi ngượng một tí rồi lại cười nói hùa theo ngay, chứ không giận, cũng chả thanh minh gì cả. Theo hắn, đó là một đức tính đáng yêu của người ở kinh đô. Năm hắn về Thanh, trong mấy ngày làm việc ở tỉnh chưa về Bòng, hắn hay đến chơi nhà một hoạ sĩ rất đa tài, viết cả tuồng, giỏi Hán Nôm, lại ham mê lịch sử, trước hết là lịch sử Thanh Hoá. Nghe ông ta nói về lịch sử của Việt Nam thì quá nửa nhân tài của nước nam đều có gốc là người Thanh Hoá. Bà Triệu Thị Trinh khởi binh đánh Lục Dận nhà Ðông Ngô là người của quận Cửu Chân, tức Thanh Hoá. Ông Dương Diên Nghệ ra xây thành Ðại La từ thế kỷ thứ 9, là tướng của Khúc Hạo, sau làm Tiết độ sứ được sáu năm là người của ái Châu, tức Thanh Hoá. Ngô Quyền quê gốc ở Sơn Tây nhưng từ nhỏ tới lớn đều ở Thanh Hoá, là con rể Dương Diên Nghệ rồi lại được bố vợ cho giữ đất Ái Châu cho đến nay vẫn còn một dòng con cháu ở tỉnh Thanh. Lê Hoàn sống với mẹ ở làng Xuân Lập, huyện Thọ Xuân cũng vẫn là người Thanh Hoá. Ðinh Bộ Lĩnh quê ở Gia Viễn, thời đó hai huyện Gia Viễn và Gia Khánh được gọi là Thanh Hoá ngoại. Lê Lợi thì đúng là dân Thanh Hoá rồi. Nguyễn Kim thuộc dòng Nguyễn Bắc, quê ở Gia Miêu, huyện Hà Trung, là đất tắm gội của triều Nguyễn, Trịnh Kiểm quê ở Biện Thượng, huyện Vĩnh Lộc. Lê Văn Hưu, ông tổ sử ở cùng một làng với ông tổ nghề đúc đồng thuộc huyện Ðông Sơn... Hắn nghe rất chăm chú rồi hỏi móc: "Vậy còn thời bây giờ?" Ông hoạ sĩ cũng cười: "Xưa thì cung kiếm nay thì bị gậy, đều lấy thiên hạ làm nhà cả".
Rồi ông bạn hoạ sĩ lại kể về quê nội của ông ở làng Phú Khê, thuộc huyện Hoằng Hoá, đất tổ của nghề tuồng. Một làng họ Lê, xưa kia có đến bảy cái đồng triện, bảy ông lý trưởng, vì làng quá lớn. Cả làng hát tuồng, có nhà mấy đời làm nghề tuồng, có gia đình năm anh em trai lập một gánh tuồng đi hát khắp mọi nơi. Và phong độ những con người ở Phú Khê cũng rất tuồng, hào hùng như các nhân vật tuồng. Thời cải cách ruộng đất có một ông bị quy là địa chủ, sẽ bị đưa ra đấu toàn xã, sau đó sẽ lập toà án xử bắn luôn. Ông này chỉ có vài mẫu ruộng, ăn ở với dân làng rất phải chăng. Khi ông bị giam đợi ngày đưa ra xử bất thần một đêm ông trốn được về nhà. Ông tắm rửa sạch sẽ, mặc một bộ quần áo dài trắng, đi giày Chi Long, dao giắt trong người rồi ngồi im lặng một mình, không ngủ, cũng không trò chuyện với ai, đợi trời sáng hẳn mới lững thững đến trụ sở của uỷ ban xin gặp cán bộ của đội cải cách. Không ai được biết ông đã xổng ngục từ đêm thấy ông xuất hiện đột ngột với bộ quần áo trắng mới, giày mới, vẻ mặt bình thản đều rất ngạc nhiên. Chưa kịp tra hỏi gì ông đã nói trước, từ tốn, đàng hoàng:
- Các anh làm sai rồi, có biết không? Tôi là người kháng chiến, các con đều đi kháng chiến, cho rằng tôi có là gian thần nhưng công kia bù với tội nọ cũng được miễn tội chết kia mà. Tôi không sợ chết nhưng tôi không thích các anh nhân danh cách mạng nã súng vào người tôi. Hãy để tôi tự xử.
Nói đoạn ông giật banh vạt áo, rút dao đâm vào bụng mình, lại rạch xuống một đường dài cho ruột xổ ra mới chịu nằm vật xuống.
Rồi một ông trung nông bị quy lầm là địa chủ, khi sửa sai ông được hạ thành phần, xã trả lại nhà nhưng ruộng thì về tay chủ khác. Ông pha một ấm trà ngon mời bạn bè đến chia vui rồi làm một đôi câu đối dán cửa, ý tứ thâm trầm:
Hữu phúc khán tương lai, đống lương y cựu
Vô tâm đàm dĩ vãng, điền địa canh tân.
(Hãy nhìn về tương lai vì rường cột còn nguyên. Nghĩ lại chuyện vừa rồi ruộng đất quả thật đã có đổi mới). Không giận cũng chả buồn chỉ cười khà một tiếng.
Một anh vốn là nhân viên của công ty cấp nước, sống độc thân ở thị xã, nghe tin vợ ở nhà ngoại tình anh liền xin về ở hẳn nhà. Vợ thì sợ nhưng anh chồng vẫn dửng dưng như không hề biết chuyện gì. Có điều đêm đêm anh ngủ riêng, lấy cớ trong người đang có bệnh. Sau khi dã thu thập mọi chứng cớ anh bảo vợ: "Cô là vợ tôi nhưng cô ăn ở không chung thuỷ thì tôi đành chịu vậy. Tôi sẽ không làm gì cả nhưng nội trong ngày cô phải ra khỏi cái nhà này". Cô vợ không dám cãi, vào lạy mẹ chồng rồi lạy chồng, xách khăn gói về nhà mẹ đẻ. Anh chồng cõng mẹ sang nhà hàng xóm vì bà cụ bị liệt rồi châm lửa đốt nhà. Cái nhà đó đã bị con vợ thất tiết làm cho ô uế chỉ có lấy lửa mới rửa sạch. Công an tới lập biên bản, anh nói: "Tôi đốt nhà tôi chứ có đốt nhà hàng xóm đâu mà phải làm biên bản". Ngày hôm sau anh cõng mẹ lên xe đò đi lập nghiệp ở Tây Nguyên.
Một ông già trong làng cũng là người hay làm thơ làm vè, có hai con trai là liệt sĩ, vợ chồng đều đã ngoài bảy mươi tuổi, bạn bè cũng đã chết gần hết, làm bốn câu thơ vịnh cái cảnh cô đơn của mình. Buồn lắm chứ mà vẫn đùa được:
Thân bằng cố hữu còn ai
Còn con vợ đó còn chai rượu này
Mơ màng nửa tỉnh nửa say
Rượu dăm ba chén thơ vài bốn câu.
Ngay ngày đầu tiên về tỉnh Thanh, hắn đã được nghe một bài thơ nhại bài thơ: Nam quốc sơn hà Nam đế cư... của Lý Thường Kiệt, tất nhiên của người Thanh Hoá làm để giễu chơi cái địa phương tính của xứ Thanh:
Thanh Hoá sơn hà nam dốc xây
Tiệt nhiên định phận tại nơi đây
Như hà báo chí lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan sẽ có ngày
Và có một dị bản:
Tại sao báo chí lại xâm phạm
Chúng bay sẽ bị thất bại ngay.
Cái tính cách hào hùng, phóng khoáng và thích tự đùa của người Thanh Hoá đã làm hắn vui lắm, tự hào lắm. Nói thế, chứ hắn vẫn có gốc rễ là người Thanh Hoá. Nhưng còn chuyện các danh nhân làng hắn thì sao? Thôi thì cứ viết ra đây để bạn đọc cùng xét. Làng của hắn cũng có một hảo hán từ thời Tự Ðức là ông Mai Bá Nghiễm, trương tuần, thấy dân tình cơ cực quá bèn mộ quân chống lại triều đình. Triều đình có ngu cũng còn cả trăm vị đại quan làm tham mưu, còn một anh trương tuần lấy đâu ra người có tài kinh bang tế thế để phò trợ nên mới bàn nhau cử người ra Sơn Tây theo ông Lê Duy cự, dòng dõi nhà Lê, tôn ông làm minh chủ, ông Cao Bá Quát làm quốc sư dựng cờ phù Lê diệt Nguyễn. Ðã là một chuyện vớ vẩn. Lại bàn nhau quân ông Nghiễm từ Thanh Hoá đánh ra, quân ông Cự từ Sơn Tây kéo xuống cùng chiếm lấy thành Hà Nội. Lại càng vớ vẩn hơn. Ông Nghiễm đưa quân về Vĩnh Lộc, đóng ở Eo Lon thuộc làng Báo. Quân chưa lập xong trại, các tướng đã về thăm làng, mổ bò giết lợn, đãi đằng bà con tộc họ, nói thánh nói tướng như đã là các bậc khai quốc công thần. Rồi ùn ùn kéo nhau lên huyện giết viên tri huyện làm lễ tế cờ khởi nghĩa. Nhưng chỉ đánh nhau với quân của triều đình có vài trận thì đám quân ô hợp của ông Nghiễm tan vỡ cả, tướng chạy đằng tướng, quân chạy đằng quân, rồi kéo nhau lên tuốt mãi Cẩm Thuỷ, Quan Hoá để trốn sự truy nã. Sau đó triều đình cử tổng đốc Hà Duy Phiên, người Hoằng Nghĩa, làm khâm sai đại thần về tận huyện xét xử. Làng Bồng Trung sẽ phải chia làm đôi, một nửa nhập vào Bồng Thương, tức Biện Thượng, một nửa nhập vào Bồng Hạ tức xã Vĩnh Minh bây giờ, xoá tên làng. Ở làng có cụ Nguyễn Bá Thân, là cụ tổ năm đời của hắn, án sát Khánh Hoà, đang ở nhà cư tang mẹ, nguyên là bạn học cũ của ông Phiên, liền viết một lá thư trần tình, lời lẽ thống thiết, gửi lên quan khâm sai. Các bô lão và chức dịch trong làng mặc áo thụng xanh, quì ở dốc đò Ba Bông, miệng ngậm cỏ, tay dâng thư lên quan đại thần khi kiệu quan vừa từ dưới thuyền lên. Chưa đánh được người mặt đỏ như vang, đánh được người rồi mặt vàng như nghệ là thế. Làng Bồng Trung chỉ bị thượng quan răn đe chứ không bị xoá sổ, thật là phúc đức mười đời. Cả làng vui như ngày hội chứ không ai thấy là nhục. Một đám giặc cỏ làm sao dám chống lại với quân của triều đình, họ nói với nhau thế.
Trong làng còn một ông quan to nữa, là cụ Nguyễn Huy Tế, làm phó Ðô ngự sử ở Huế. Cụ Tế được vua Tự Ðức rất yêu, sai ra Thanh Hoá để thanh tra vụ động mồ mả của dòng họ nhà Nguyễn ở đất Gia Miêu thuộc huyện Hà Trung. Mồ mả ông tiên chỉ làng bị động dân làng còn khốn khổ huống hồ mồ mả của nhà vua bản triều. Cụ Tế từ Huế ra về thẳng làng thăm gia tộc. Cụ về ngày trước thì ngày sau các quan đầu tỉnh tổng đốc, án sát, bố chánh cũng về theo luôn và quỳ một dãy ở sân nhà cụ ngự sử để chịu tội. Ông quan được vua yêu lại nhận trọng trách của hoàng tộc giao phó lấy làm mãn nguyện lắm, nằm dài trên bộ ngựa kê giữa nhà, buông mành không thèm tiếp. Cụ bắt họ quỳ đúng nửa buổi mới sai gia nhân vén mành gọi họ vào tra hỏi. Rồi cụ Tế tha nhưng khi nằm cáng về tỉnh mỗi ông quan phải đặt một cái cùm lên bụng để tỏ hình phạt đã không chăm sóc đất tắm gội của nhà vua chu đáo. Ông giáo là trưởng họ của chi hắn, là một trí thức xã hội chủ nghĩa, khi kể lại chính tích của một ông quan thời phong kiến mặt cứ đỏ lên vì hãnh diện. Hãnh diện vì được là người trong họ, người cùng làng với một ông quan to được vua yêu, đã từng bắt các quan đầu tỉnh phải quỳ gối trên nền đất của làng Bòng. Nhưng mặt hắn vẫn bất động, vì hắn là người của văn chương, lại có tật hay giễu, nên nghĩ thầm: "Xem ra cái mộng làm quan, được là họ hàng nhà quan, là đầy tớ hoặc người làng của quan đã thành một thuộc tính của người mình mất rồi".
Ðó là chuyện về hai ông nông dân cũng khá nổi tiếng của làng hắn, một hảo hán nông dân dám làm giặc nhưng chỉ là giặc cỏ thôi chứ chưa đủ tài trí để thổi lên thành một cuộc khởi nghĩa. Và một ông nông dân được số phận nuông chiều vừa làm quan vừa làm gia nô cho nhà vua, õng ẹo, phách lối một cách khó chịu. Còn một ông nông dân nữa, là con rể ông tổ năm đời của hắn, một lãnh tụ nông dân chống Pháp tiếng tăm vang dội của tỉnh Thanh là ông Tống Duy Tân. Chiến tích của ông nghè Tống ra sao đã được viết nhiều trong sách sử chống Pháp thời cận đại. Ông sống rất anh hùng, chết cũng anh hùng nhưng vẫn không thoát khỏi cái tính cách một ông nông dân ở làng, chưa phải là một thủ lĩnh có tầm nhìn xa rộng làm đổi thay thời thế. Thời nghè Tống và giáo Thọ cùng học một thầy là cụ đốc Lê bên Báo thì giáo Thọ học giỏi hơn, văn chương tài hoa, sâu sắc hơn được thầy yêu bạn nể nên ông nghè có ý ghét. Khi cả hai ra Nam Ðịnh theo học hoàng giáp Phạm Văn Nghị một bữa trở về quê cùng lại thăm thầy cũ bên Báo. Trời mưa đường lầy, hai ông học trò xéo đất vào nhà thầy, thầy lấy dép đưa cho giáo Thọ rửa chân rồi bảo con đưa cho nghè Tống đôi guốc mộc. Lúc ngồi uống trà thì trò Thọ được ngồi ngang với thầy, còn trò Tống thì phải ngồi dưới. Ghen cũ cộng với ghét mới sinh thù. Khi ông nghè vâng chiếu Cần Vương đánh Pháp thì việc đầu tiên là cho hương binh bắt giáo Thọ trói ở sân đình Bòng vu cho ông ta chống Cần Vương, đợi giờ chém. Ông chú ruột của ông nghè biết tin liền chạy ra bảo cởi trói cho giáo Thọ rồi về mắng cháu: "Giặc chưa đánh được trận nào cho dân vui đã tính chuyện trả thù nhau. Còn ai muốn theo các anh nữa". Trong làng còn một ông tướng võ là cụ Ðề Ðiếm, thuở hàn vi làm nghề chống đò đồng, tên huý là Ðóm, nằm ngoài sổ đinh để khỏi đóng thuế. Khi lấy lính cụ đi thế cho con một nhà giàu trong làng, vào Huế gặp kỳ thi võ, cụ xin ứng thí trúng phó bảng, đi đánh trận mười năm được thăng đến đề đốc, lãnh chức tổng binh giữ thành Nam Định. Cụ là người có sức khoẻ chứ không có học vấn, khi một ông quan hầu nhóm dòng chữ lạc khoản của một bức đại tự không rõ, cụ liền giơ hai bàn tay cho người kia đứng lên mà nhìn. Vì cụ Ðiếm vô học nên ông nghè có ý khinh, gặp dịp ra chơi với bạn đồng môn là tổng đốc Nam Ðịnh, tuy có mời cụ Ðiếm sang dự tiệc nhưng hai ông quan văn toàn quay mặt vào nhau nói chuyện văn thơ, bỏ mặc ông quan võ ngồi uống rượu một mình. Làm thủ lĩnh mà không có chính sách chiêu hiền, toàn dùng con cháu vừa dốt nát vừa hách dịch nên người thiên hạ mới có thơ:
Khoa mục chi mày hỡi Tống Tân
Rõ phường nát nước với hư dân
Cứ tưởng dài đuôi là kín đít
Toan đem khố rách để trùm chân.
Các ông bà nông dân, dẫu là hào kiệt, nếu chỉ với vốn liếng sẵn có, nhiều lắm cũng chỉ làm loạn được ở một địa phương trong vòng vài năm, dăm bảy năm. Nếu làm một cuộc khởi nghĩa thay đổi vương triều hay chống xâm lược thì phải có minh chủ, có quân sư giỏi và tướng tài, để có cách nhìn, cách nghĩ vượt ra khỏi cái hạn hẹp của người làm ruộng. Nhưng chỉ như thế thôi họ cũng không thay đổi được thời thế. Vì người tiểu nông hay nói cho rõ hơn chế độ phong kiến đã không còn đủ tư cách thay đổi thời thế. Trường hợp của vua Gia Long là một ví dụ. Nhà vua là người lãnh đạo tài ba nhất của triều Nguyễn, nhưng sau khi đã thống nhất được giang sơn, ông cũng không biết phải làm gì để vượt khỏi những thiết chế về chính trị, kinh tế và xã hội đã quá cũ kỹ của các vương triều trước. Lẽ ra ông ấy phải nhanh chóng thay đổi lại tất cả theo mô hình những quốc gia tiên tiến để bước vào thế kỷ 19, phải có một quân đội, một đường lối ngoại giao và trên tất cả là một cách quản lý xã hội của thế kỷ mới thì mới tồn tại và phát triển được, mới giải quyết nổi những vấn đề sẽ nảy sinh trong đối nội cũng như trong đối ngoại mà con cháu ông sẽ phải đối đầu. Quá nửa thế kỷ 19 cả triều đình nhà Nguyễn cứ lúi húi vào những chuyện không đâu vì họ chỉ có một quốc sách hết sức hủ lậu, đóng chặt cửa để người trong nhà dạy nhau. Nhưng trên thế giới đã xuất hiện chủ nghĩa đế quốc và các cường quốc công nghiệp đang tranh chấp nhau các vùng đất còn vắng chủ để sinh tồn thì chả có quốc gia nào đóng cửa được. Nhà Thanh cũng chủ trương đóng cửa để dạy nhau thì họ nã đại bác vào cho các cánh cửa phải mở tung rồi ùa vào cả lũ vồ xé con mồi vừa say thuốc phiện, vừa quá mỏi mệt vì những cuộc chém giết lẫn nhau trong nước, thành hàng trăm mảnh nhỏ cho dễ nuốt. Mình mà thoát được ư? Chả phải chỉ tại vua quan nhà Nguyễn quá hèn yếu mà bị mất nước, cho dẫu là anh hùng, hào kiệt lãnh đạo quốc gia ngày ấy cũng phải thua vì chúng ta đã là người của thế kỷ 16, 17, có khi còn xa xưa hơn nữa, bỗng chốc phải đối mặt với một đội quân xâm lược của thế kỷ 19, là người cổ xưa đánh nhau với những tên ăn cướp hiện đại, là sự tù đọng váng mốc chống lại với dòng chảy của sự phát triển, dẫu cả triệu người dám banh ngực xả thân thì vẫn cứ là thua. Theo sự đọc của bạn hắn là nhà văn Nguyên Ngọc thì cụ Phan Chu Trinh đã từng nói: "Ta với Pháp còn cách nhau cả một thời đại", đó là cái khó của mọi cái khó. Vậy tại sao Việt Nam lại thắng Pháp, sau này lại thắng cả Mỹ với những hành trang cũ kỹ đến vậy? Hắn cũng tự hỏi nhiều năm cái câu hỏi ấy, về già mới vỡ lẽ vì ngay từ những năm 30 của thế kỷ trước những nhà cách mạng Việt Nam đã phải chuẩn bị một chính đảng, một quân đội, một nền ngoại giao, một hình thức quản lý xã hội của thế kỷ 20, là những người yêu nước của hôm nay chống lại bọn xâm lược của hôm nay. Là cái chính nghĩa, cái mưu kế, cái anh hùng của một nước nhỏ thời hiện đại chống lại sức mạnh và những âm mưu gian trá, xảo quyệt của những nước lớn thời hiện đại. Còn về cái cơ sở vật chất của hai cuộc chiến tranh yêu nước thì đã có Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác hiệp lực chi viện rất khẳng khái rồi. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, viện trợ các nước thành hàng đổi hàng hoặc tính bằng tiền thì chúng ta rơi ngay vào những cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội. Nói cho rành rọt hơn là cái cơ sở kinh tế của một xã hội tiểu nông không thể nuôi sống những thiết chế chính trị, xã hội được tổ chức theo mô hình một xã hội công nghiệp hiện đại. Cái cơ thể lớn mạnh ấy đòi hỏi một loại dưỡng chất khác. Ðó là một nền kinh tế nhiều thành phần mà người tổng quản lý là cơ chế thị trường, nhân dân không còn là một hình tượng mơ hồ, có tính tượng trưng mà đã trở thành người tiêu dùng, là khách hàng, là thượng đế, quyết định sự thành bại của mọi nền kinh tế.
Làng Bòng của hắn là làng của nhiều danh nhân và anh hùng. Ông Mai Bá Nghiễm là một anh hùng, ông Ðề Ðiếm là một anh hùng. Ông giữ thành Nam Ðịnh đánh nhau với quân Pháp suốt mấy ngày, rồi quan chạy đằng quan, quân chạy đằng quân nhưng ông vẫn chống cự cho tới lúc bị trúng đạn xổ ruột mới quấn bụng nhảy lên ngựa chạy về ý Yên và chết ở dọc đường. Dân làng Hào Kiệt tháo cánh cửa chùa đóng hòm chôn ông dưới chân ruộng rồi cấy lúa lên trên. Ba năm sau bà vợ từ Thanh ra, xin hài cốt chồng gói vào tấm vải bố đặt lên lưng con ngựa chiến đã già vẫn quanh quẩn bên mộ chủ suốt ba năm. Rồi một bà lão và một con ngựa già đi bước một trở về Bòng. Một cảnh tượng hào hùng làm nôn nao nhiều thế hệ, đẹp như một bản tráng ca. Lúc ông nghè Tống bị Pháp bắt, đưa ra cầu Hạc chém đầu, ông còn tung vòng khăn nhiễu bịt tóc cho đao phủ, lấy vành tre vạch xuống đất hai câu thơ:
Nhi kim thuỷ liễu tiền sinh trái
Tự cổ lưu truyền bất tử danh. [2]
Một cái chết cũng thật anh hùng. Những anh hùng hào kiệt sinh vào một xã hội đã lạc thời, đã thành cổ hủ thì cũng chỉ dâng hiến cho tổ quốc được đến thế. Họ không thể làm hơn được, chí họ thì lớn nhưng tài họ rất có hạn vì đầu óc chân tay bị trói buộc bởi những học thuyết lẩm cẩm từ đời cha đời ông nên không nghĩ xa được, không nghĩ rộng được, lại bị nhiễm từ nhiều đời những thói xấu cố hữu của người nông dân, nên trở thành những anh hùng bất đắc chí, chỉ nên ngưỡng mộ họ từ xa, chứ nhìn quá gần cũng dễ nản lòng lắm, tội nghiệp lắm. Hắn ở lại Bòng cả tuần, nghe đủ mọi chuyện của làng, chuyện anh hùng của thời xưa và nhiều chuyện rất kinh dị của thời nay, lắm lúc buồn quá lại ra bờ sông Mã ngồi ngắm những con thuyền chở hàng lớn chạy buồm từ Hàm Rồng ngược Cẩm Thuỷ cho kịp phiên chợ, chạy ngược dòng vừa chèo vừa chống. Cách đây mới có vài chục năm khi thuyền chạy buồm xuôi theo dòng nước vẫn có ba đoạn phải kéo nếu không có gió, chứ không được chèo sợ chạm long mạch. Ðã có câu ca "Tràng Lang, Xóm Lổ, Báo Bòng - Qua ba khúc ấy mặc lòng ngược xuôi". Báo Lòng là đất của vua chúa. Làng Bòng là đất của con cháu Nguyễn Bặc, thuỷ tổ của triều Nguyễn. Làng Báo là đất đã sinh ra Trịnh Kiểm, ông tổ của dòng chúa Trịnh thời Lê Trung Hưng. Ngồi nghe những câu hò: Ê... ê... ê... ngân dài của đám "hốp đò" chống những cây sào tre dài bảy, tám mét đầu bịt khâu sắt để khỏi trượt khi cắm vào ghềnh đá bước ngược thuyền lại càng buồn như tiếng rên sầu thảm của những anh hùng không thoả chí từ dưới đáy sông vang vọng ngược lên.
19.
Có lần nói chuyện với thằng con lớn, hắn có phàn nàn mẹ nó dạo này thay đổi tính nết lạ lùng quá, là một người đàn bà hoàn toàn khác chứ không còn là người vợ đã từng chung sống non nửa thế kỷ. Hắn nói: "Tại sao mẹ mày lại làm khổ bố thế nhỉ, lại có thể ngờ vực bố có ngoại tình? Lúc trẻ thì tin về già lại không thể tin, chả lẽ bố còn trẻ lắm hả? Là một ông già bảy chục tuổi đầu rồi, sắp ra nghĩa trang nằm rồi! Thở còn không được nói gì chuyện trai gái!" Thằng con cười một cách dễ ghét, như là một chuyện rất vớ vẩn, rất nhỏ nhoi, không đáng để ý mà những người già cứ thích làm cho to chuyện. Nó nói: "Nếu bố hoàn toàn trong trắng việc gì bố phải giận dữ đến thế, nói một điều không có chả lẽ nói mãi nó thành có à?" Hắn nói gần như rít trong kẽ răng: "Cái số tao cũng là cái số không ra gì, thuở nhỏ thì bị ông nội mày vu tao là thằng ăn cắp, về già lại bị mẹ mày vu là tao có ngoại tình!" Thằng con nhìn hắn cười nhỏ: "Lại còn không ra gì, như thế nào mới là ra gì?" Hắn ngồi nghĩ ngợi một lát rồi bảo con: "Có thể cũng là một dạng bệnh tâm thần, bệnh tâm thần phân liệt chả hạn, lấy chuyện ảo làm chuyện thật..." Thằng con nói: "Chả có tâm thần gì đâu, một cách trả thù đấy thôi" - "Cái gì trả thù?" - "Bố là người thắng mẹ là người thua, bố được cả, mẹ gần như mất hết" - "Cái gì mất hết...?" - "Xưa kia mẹ là người đẹp, lại rất khoẻ mạnh, lại có cơ quan, có bè bạn, có việc làm hàng ngày. Sau mấy chục năm đẻ con nuôi con, bây giờ đã thành một bà già bệnh tật, xấu xí, không có việc để làm, không có bè bạn để trò chuyện, không có gì hết ngoài chồng và con". Hắn nói vội: "Ðấy, đấy, chồng con là tài sản của mẹ mày, chồng con thành đạt tức là mẹ mày đã được nhiều, đâu có thua kém ai..." Thằng con vẫn còn đều đều: "Vẫn thua chứ bố, trong gia đình mình mẹ là người chịu thiệt nhiều nhất, thua đậm nhất". Hắn nói đã hơi gắt: "Thời xưa các bà vợ, bà mẹ chả đòi hỏi gì hơn là được hy sinh cho chồng con. Chồng con không làm gì nên vẫn chả phàn nàn một tí nào, vẫn rất thoả mãn vì đã làm tròn mọi bổn phận". Thằng con cười nhỏ: "Sao bố lại ví thời nay với thời xưa, mỗi thời mỗi khác chứ?" Hắn nói ương bướng: "Có nhiều cái khác nhưng cũng có nhiều cái không khác, như cách ăn ở, cách cư xử trong gia đình của các bà vợ, bà mẹ của Việt Nam". Thằng con vẫn cười: "Người dân hồi xưa chỉ cần cơm no áo ấm là đã rất bằng lòng. Nhưng bây giờ họ còn cần cả tự do và dân chủ nữa. Mấy vụ lộn xộn ở mấy xã của Thanh Hoá ngày nọ của Thái Bình mới đây đâu phải vì dân đói cơm, họ chỉ đói có cái quyền dân chủ của mình mà thôi. Các bà vợ cũng thế, xưa kia có chồng con là người sang trong nước là đủ mãn nguyện, nhưng nay thì không thể đủ, còn tôi nữa chứ, tôi có phải là con đầy tớ đâu mà không được tính đến?" Hắn lắng nghe mặt mũi cau có, nghe thì phải nhưng vẫn có cái gì chưa hẳn là phải, nó ngược lại với thói quen, với cách nghĩ vốn có của hắn. Hắn nói lầm bầm: "Người đàn bà là trụ cột của gia đình, là nội tướng, làm gì có chuyện chia ra là tôi, là anh, là chúng nó. Mày cứ bày đặt..." Thằng con lại hỏi, trong câu hỏi đã có ý giễu: "Một thành viên của cộng đồng phải có nghĩa vụ với cộng đồng, nhưng không bao giờ được xem là một với cộng đồng. Cộng đồng có quyền lợi của cộng đồng, cá nhân có quyền lợi của cá nhân. Nếu những người lãnh đạo quốc gia và những ông chủ gia đình lại cố tình quên đi những cái quyền của cá nhân là họ sẽ gặp rắc rối đấy. Như bố chẳng hạn?" Hắn lại gắt: "Tao là người viết văn, không viết về các số phận cá nhân thì viết cái gì?" - "Bố viết về người khác thì thế. Nhưng thử viết về chính mình xem sao? Chỉ có một ông chủ rất sáng chói và những thành viên loè nhoè của một gia đình. Và cái gia đình ấy phải có nghĩa vụ phục vụ ông chủ, hoà làm một với ông chủ, vì ông chủ thành danh thì cả mọi người đều có danh. Nhưng con cũng muốn có cái danh riêng của con chứ, mờ nhạt hơn bố cũng được nhưng là của riêng con" - "Chúng mày vẫn nghĩ như thế à?" - "Có một ví dụ rất cụ thể, cái bữa mấy anh quay phim tới đây, họ muốn bọn con phải có mặt cùng với bố, nhưng có đứa nào chịu ngồi cạnh bố đâu, nó trốn hết. Chỉ có con buộc phải có mặt thôi, vì con không thể trốn, và một thằng cháu ngoại nó thích chụp hình quay phim nên nó cũng không trốn... Ðừng có nghĩ một nước đã vẻ vang thì muốn đối xử với người dân thế nào cũng được. Cũng như ông bố đã vẻ vang thì có thể bắt vợ con làm tôi làm tớ cho mình cũng vẫn được. Nghĩ thế là nhầm!" Hắn hỏi thăm dò: "Vậy không phải là mẹ mày ngờ tao có ngoại tình thật, mà là..." Thằng con lại cười: "Mẹ tự xem đã là người bỏ đi rồi, không còn giúp gì được cho chồng cho con nữa, là người ăn bám hoàn toàn nên một cái nhăn mặt, một câu nói gắt, một cử chỉ tỏ ra lạnh nhạt của bố thì mẹ không thể bỏ qua như hồi còn trẻ đâu. Ðó là sự hắt hủi, sự ghê sợ của bố đối với một người vợ đã hoá ra xấu xí, đã hoá ra gai mắt chỉ muốn bỏ đi, muốn vứt đi. Nhưng bỏ thế nào được, vứt thế nào được vì mẹ vẫn là vợ của bố, là mẹ của chúng con, vẫn có quyền khuấy đảo cuộc sống của bố cả ngày lẫn đêm khiến bố phải nổi điên nếu mẹ muốn".
Tạp chí Nhà Văn, Hà nội 2003
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Dịch nghĩa :
Luật Hàn cất tiếng mới, sau đời Lý, trước đời Lê, văn phái mở riêng cõi Hoa Việt
Cá sấu (lặn) im sóng dữ, sông Lô, biển Triều, đền thiêng thờ phụng trời Bắc Nam
Ý câu này nói về công của Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) người nghĩ ra chữ Nôm, thơ Nôm và làm văn tế đuổi cá sấu.
[2]Tạm dịch :
Món nợ tiền sinh nay mới trả
Cái danh bất tử trước còn truyền
Nguyễn Khải
Thuợng đế thì cười (kỳ 8)
20.
Xưa nay hắn vẫn chủ trương những năm tháng ngắn ngủi của một đời người không nên tiêu phí nó vào những chuyện vô ích, không đâu để có thể dành tất cả cho sáng tác. Hắn ngắm nhìn nhiều bậc đàn anh trong nghề, tài năng lớn hơn hắn nhiều, học vấn cũng sâu rộng hơn hắn nhiều nhưng làm nghề cứ như nhà văn nghiệp dư. Họ sinh ra để làm văn làm thơ nhưng được nửa chừng lại chuyển sang làm anh viên chức nhà nước, ngày ngày xách cặp ngồi xe, tham dự đủ mọi cuộc họp, không họp lớn thì họp nhỏ, không có một lúc nào được ngồi một mình, không có lúc nào được nhàn rỗi để đọc sách, để đi chơi với bạn bè tán lếu tán láo, lúc nào cũng công việc, cũng nghị quyết, cũng báo cáo, một đời người chỉ được tiếp xúc với cuộc sống gián tiếp, cuộc sống đã được nguyên tắc hoá, công thức hoá theo một quan điểm, một cách nhìn nên các nhà văn công chức chỉ có thể viết rất giống nhau, sự khác nhau chỉ còn ở sự già tay hay non tay trong nghề mà thôi. Các nhà văn viên chức ấy thường nói với bạn bè và với chính mình, khi nào rời bỏ được các chức vụ mà vì anh em họ phải gánh vác, họ sẽ bắt tay vào công việc chính của đời mình: ngồi viết. Nhưng cái thói quen làm công chức suốt mấy chục năm đã không buông tha họ, họ không thể không được trịnh trọng mời phát biểu tại các cuộc họp. Ðược đi họp, được mời ngồi hàng ghế đầu tại các cuộc họp đã là lẽ sống của họ mất rồi. Họ bấu víu vào cái hôm nay mà quên mất cái họ có thể để lại cho mai sao.
Nói thế chứ hắn cũng đã mất vài năm ra Bắc vào Nam để giữ một chức vụ hữu danh vô thực ở Hội Nhà văn. Rút cuộc là hắn thua, vừa mất thì giờ vừa thân bại danh liệt. Là vì ở xứ ta trong nhiều chục năm (và trong nhiều thế kỷ) chỉ có làm quan mới là người danh giá, được xã hội tôn trọng, bạn bè nể nả, vợ con cũng được vênh vang. Một xã hội mà cả mọi người nếu không là công nhân, viên chức nhà nước thì cũng là xã viên, hội viên của một tổ chức sản xuất hoặc kinh doanh nào đó, không có nghề tự do, không một ai được làm một việc gì hoàn toàn tư nhân cả. Những người buôn bán nhỏ ở các thành thị là những người sống khốn khổ nhất, kiếm sống đã vất vả lại không được khuyến khích, không được tôn trọng, lại bị các ông thuế, ông quản lý thị trường hành hạ vặt. Ngay như những người xưa nay vốn được xem là làm nghề tự do như các nghệ sĩ chẳng hạn cũng phải sinh hoạt trong các hội nghề nghiệp, các đoàn nghệ thuật của các nhà hát, và vẫn phải đi họp, vẫn phải có người lãnh đạo và nhiều người bị lãnh đạo. Và các đại hội của các hội nghệ thuật ấy vẫn mất rất nhiều thì giờ để bàn cãi, cân nhắc sẽ cử những ai vào cơ quan lãnh đạo. Nên làm quan là con đường duy nhất để tiến thân, là tiêu chuẩn quan trọng nhất để xem xét giá trị một con người, là những lo âu đến cháy ruột, là sự sung sướng đến phát cuồng của nhiều người vốn đã có danh trước khi có quyền. Vì cái danh trong nghề xem ra chả được ai trọng cả. Nhà văn Trần Công Tấn có nói với hắn một chuyện: Năm ông Chế Lan Viên còn sống có lần ông về thành phố họp (vì nhà ông ở mãi đuôi quận Tân Bình) nên Tấn rất muốn mời ông anh về cơ quan mình ăn bữa cơm trưa thật đàng hoàng liền nghĩ ra một mẹo, nói với ông Tổng cục trưởng, rằng có nhà thơ Chế Lan Viên, là đại biểu Quốc hội nhiều khoá, hiện đang có mặt... Lập tức ông kia liền ra lệnh cơ quan phải tổ chức tiếp ông đại biểu quốc hội ngay, tiếp thật đàng hoàng. Chứ nếu chỉ nói là nhà thơ thì có khi ông kia sẽ hỏi lại: "Là nhà thơ à, là nhà thơ tại sao ta lại phải tiếp?" Cũng như có một ông cán bộ cũng vào cấp lãnh đạo kha khá bảo một trợ lý nhân nghe nói về Nguyễn Du: "Nếu có gặp ông ấy nhớ mời lại cơ quan mình chơi, nói là mình mời". Chả cứ nhiều nhà lãnh đạo coi thường những văn nghệ sĩ chả có chức tước gì, chỉ là nghệ sĩ thôi, mà ngay cả đám doanh nhân trẻ mới đây cũng cậy có tiền coi các nghệ sĩ như một món nhắm của họ lúc tiệc tùng. Một bữa có một doanh nhân trẻ và đám bạn của y mời ông Chế và hắn tới dùng cơm tối tại một nhà hàng sang trọng ở quận 5, có xe đưa rước hẳn hoi. Hai anh em đã nửa năm mới được gặp nhau, mừng quá, cứ dính vào nhau nói đủ thứ chuyện, nói cả nửa giờ, cuối cùng cái đứa bỏ tiền phải nói một cách chả lịch sự chút nào: "Chúng em mời cơm hai bác để các bác nói chuyện với chúng em, chứ đâu phải để các bác nói chuyện với nhau". Cả hai đều ngượng, ông Chế nhìn hắn cười cười: "Ờ nhỉ, bọn mình vô ý quá, các anh muốn nghe chuyện gì nào?" Năm hắn còn ở quân đội, quân hàm đại tá nhưng chả có chức vụ gì, chỉ là anh phóng viên viết báo thôi, lại được giới thiệu trong danh sách các ứng cử viên đại biểu quốc hội của thành phố, khiến cả mọi người ở số 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm (cơ quan đại diện của Tổng cục Chính trị ở phía Nam) rất ngạc nhiên. Họ nhìn hắn một cách giễu cợt, một anh chân trắng lại được bầu là đại biểu quốc hội, có nhầm không đấy? Hẳn là một cái tên trong vài tên trong một danh sách bầu để người đi bầu gạch ấy mà, chứ nước non gì! Mà hoá ra hắn lại trúng cử với số phiếu rất cao! Hắn cũng ngạc nhiên, bà con Củ Chi, Hóc Môn thì biết gì về hắn mà dám bỏ phiếu cho hắn. Về sau mới vỡ lẽ, họ nhầm hắn với phó thủ tướng Phan Văn Khải, người ra ứng cử ở đất Củ Chi (quê hương của ông) chỉ có thể là ông Sáu Khải, chứ làm gì có một anh chàng Nguyễn Khải, chả có chức tước gì kèm theo, nào khác. Lần đầu tiên hắn được mời đi họp Ðoàn đại biểu Quốc hội của thành phố tại ngôi nhà tiếp dân của các nghị sĩ lại đi xe đạp nên ông thường trực vội ngăn hắn và bảo: "Bữa nay các vị đại biểu quốc hội đang họp, xin mời bác lại khi khác". Thì ra hắn có một bản mặt rất là dân, không trộn lẫn với quan được. Do đó hắn vẫn thèm được làm quan, dẫu là một chức quan nhỏ hắn cũng không muốn bỏ lỡ, nên khi cấp trên gọi hắn ra Hà Nội để chuẩn bị sau Ðại hội Nhà văn sẽ làm người lãnh đạo Hội là hắn lao ra liền, dẫu hắn chưa làm cái nghề quản lý bao giờ, lại có tính lười và thiếu quyết đoán. Nhưng cấp trên tính không bằng hội viên tính, đại hội phải bầu lần thứ hai cho đủ số uỷ viên Ban chấp hành hắn mới trúng cử, mà cũng chỉ trúng với số phiếu thấp, quá bán một tí thì phải. Thế là hắn đành phải chấp nhận cái ghế ngồi ghé, nói leo, tất nhiên cũng có bẽ bàng một chút, nghĩ rằng "hạ sơn" để làm vương làm tướng gì, hoá ra... Như một đền bù, về hoạn lộ thì hắn thất bại nhưng về nghề nghiệp hắn lại viết được một cuốn sách rất khá, theo dư luận. Ðó là cuốn tiểu thuyết: Một cõi nhân gian bé tí, chỉ viết về những người thất bại. Thất bại ở chính trường, thất bại ở tuổi già, thất bại vì sự cô đơn lúc cuối đời, thất bại không do mình gây ra mà do những ràng buộc vớ vẩn từ một quá khứ. Nỗi buồn của họ, tiếng kêu ai oán của họ như từ thẳm sâu của những kiếp người vọng lên nên nó có một vẻ đẹp riêng, nó gần gũi với con người, nó thuộc về những thăng trầm của một đời người, là những rủi ro một khi đã va phải nó rất khó rũ bỏ. Nó trở thành những hình tượng nghệ thuật để cái cõi nhân gian bé tí nhìn vào đó mà ngẫm nghĩ và được an ủi. Trong mọi thất bại của con người ta chỉ có cái thất bại về hoạn lộ là không nên biết và cũng không nên viết vì nó nhơ bẩn và buồn cười. Khi ông Khơrútsốp, một nhân vật lừng lẫy tiếng tăm một thời, bị tước mọi quyền lực, bị buộc phải nghỉ hưu, có một phóng viên nước ngoài hỏi đứa cháu ngoại: "Lúc này ông cháu ở nhà làm gì?" Ðứa bé trả lời rất hồn nhiên: "Ông cháu chỉ ngồi khóc thôi".Ở nước ta cũng có vị phải ra khỏi trung ương sau nhiều khoá ở trung ương cũng đã bật khóc, nghe nói nước mắt ngắn dài suốt mấy năm, nhà như có tang suốt mấy năm. Con người đã nhỏ lại rất nhiều bởi tiếng khóc ai oán của họ và của vợ con họ.
21.
Nhà thơ lớn của dân tộc Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng là một ông tổ của hắn nhưng khác chi. Chi cụ Thiều thuộc ông tổ Sảng quốc công Nguyễn Văn Lỗ, là con thứ năm của Hoằng quốc công Nguyễn Công Chuẩn được xếp vào hàng công thần Bình ngô khai quốc, được ban quốc tính Lê. Còn chi của hắn thuộc ông tổ Châu quận công Nguyễn Như Hiếu là con thứ ba của cụ Chuẩn. Trong số con cháu của cụ Lỗ có Thọ Dương Hầu Nguyễn Hựu là tướng của Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm, đi đánh quân nhà Mạc ở vùng Gia Lương rồi lấy vợ ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thuộc trấn Kinh Bắc. Qua mấy đời nữa mới đến đời cụ Nguyễn Gia Ngô (có sách viết Nguyễn Gia Cư) tước Ðạt Vũ Hầu lấy con gái Trịnh Cương, sinh ra cụ Nguyễn Gia Thiều. Cụ Thiều là cháu ngoại của Chúa, được ở trung phủ Chúa từ nhỏ, thuộc dòng dõi cành vàng lá ngọc, có tài cả văn lẫn võ, lại am hiểu cả nhạc và hoạ mà không được Chúa trọng như các cháu bên nội. Ông là người vừa hám công danh lại cũng ham chơi, có máu văn nghệ mà. Nhưng nhà cầm quyền cần người trung thành, tận tuỵ, sai đâu làm đấy, không cần bằng cấp gì, văn chương gì như đám kiêu binh lấy từ trong Thanh ra chả hạn. Nên Trịnh Sâm xem ông như một vật trang trí trong phủ Chúa, chỉ dùng vào những việc vui, văn thơ, đàn hát và trông nom việc trang trí trong nội phủ. Ông là cháu gọi Trịnh Doanh là cậu, là anh em con cô con cậu với Trịnh Sâm mà không có vai vế gì ở lục phiên cả, lại là người có tài ăn nói, chắc cũng hay ngứa miệng nói năng ngông nghênh gì đó, thiếu gì chuyện để nói ở cái thời Trịnh Sâm, Ðặng Thị Huệ và ông em đa dâm, hiếu sát của bà ta. Nên nhà Chúa mất lòng, tỏ ra lạnh nhạt với ông, và không mời ông tham dự những buổi yến tiệc trong cung vua phủ Chúa, về sau cũng không được tự do ra vào nơi cung cấm nữa. Tới năm 1782, sau nhiều năm lặn lội trong bể hoạn ông mới được thăng chức Tổng binh Ðồng tri, Ðồng tri là cùng xem xét, tức chỉ là ông phó tổng binh thôi, rồi đưa đi dẹp loạn ở miền thượng du thuộc Hưng Hoá, giáp mặt với quân biên viễn nhà Thanh. Cái chức Lưu thủ Hưng Hoá không phải là thăng mà là giáng, là bị biếm, là đi đầy, vì đã có câu, quan ngoài nhất phẩm không bằng quan trong nhị tam phẩm. Còn cái tước hầu của ông ngày ấy cũng chả phải sang trọng gì. Ðến một anh Tầu bốc thuốc cho Trịnh Cán còn được phong hầu nữa là. Nhưng ông đâu có chịu ở liền trên đó mà hay bỏ nhiệm sở về chơi bời ở Tây Hồ sớm tối cùng nhóm bạn rượu, bạn thơ lúc bàn về thời thế, lúc bàn về nhân tình thành nhóm "tứ linh tửu hữu" được người kinh kỳ tặng hai câu thơ:
Quần cư Nam Việt ốc Tây Hồ
Thi tửi ngang tàng hảo trượng phu.
Ðã là hảo trượng phu thì không thể làm hảo gia nhận được. Ân sủng của nhà Chúa với ông chấm dứt từ đây, đã làm nhà thơ thì không thể làm đầy tớ, muốn làm đầy tớ thì không nên mơ mộng đến văn thơ. Xưa nay người của phú quý không thể là người của đạo lý, vừa muốn làm quan to lại muốn làm cả thi hào, tham thế! Nên ông mới mượn lời của cung nữ đã từng được vua yêu chúa dấu bỗng chốc bị bỏ quên mà than thở nhớ tiếc cái thời vàng son ấy:
Ngày sáu khắc tin mong, nhạn vắng
Ðêm năm canh tiếng lắng, chuông rền
Lạnh lùng thay giấc cô miên
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u!
Tiếng kêu bi thương của cô cung nữ - Nguyễn Gia Thiều rền rĩ suốt 356 câu thơ, chả có câu nào muốn dứt hẳn cái quá khứ nhơ nhớp của kẻ tôi đòi, kẻ giúp vui để trở về với cuộc đời tự do như bản tính của một nhà thơ đòi hỏi. Nên vẫn còn: Ðè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi - Nghiêng bình phấn mốc mà dồi má deo. Trong phả viết ông là người không thích vinh hoa phú quý, tự xưng là Hi Tôn Tử và Như ý Thiền, lấy thi tửu cầm kỳ, nghiên cứu Phật học, Lão học làm vui. Nhưng đọc thơ của ông hắn chẳng tin một tí nào về sự đánh giá ấy. Một người đã vào cõi ung dung tự tại, không nhuốm chút bụi trần nào thì làm sao viết nổi những câu thơ da diết những nhớ thương, những luyến tiếc những ngày vui đã qua:
Ðêm hồng thuý thơm tho mùi xạ
Bóng bội hoàn nhấp nhá trăng thanh
Mây mưa mấy giọt chung tình
Ðình trầm hương khoá một cành mẫu đơn.
Trong thơ có mùi của quyền quý, có cả mùi của da thịt, một người lòng đã dửng dưng trước mọi cám dỗ thì cảm thế nào được những tình ấy, dùng thế nào được những chữ ấy. Và cả những câu oán hờn như nghiến răng mà viết, như đã chất chứa bao nhiêu thống khổ, bao nhiêu căm tức mà viết:
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Tiếng thở dài của cô cung nữ - nhà thơ mới tội nghiệp làm sao, mới tầm thường làm sao!
Mồi phú quý nhử làng xa mã
Bả vinh hoa lừa gã công khanh
Giấc Nam kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
Ðọc thơ của Ôn Như Hầu hắn cứ lấy làm lạ tại sao ông có thể nhập vào da thịt, vào tận chỗ sâu thẳm trong tâm hồn cô cung nữ bị đấng quân vương ruồng bỏ tài tình đến vậy, như ông viết về thân phận của chính ông, nói thế cũng chưa đủ, như chính ông đã từng là đàn bà, đã từng là cung nữ. Ngay cả lối cấu trúc câu thơ cũng khác nhiều với Kiều, với Chinh phụ ngâm trật tự các từ ngữ cứ xáo trộn cả lên khiến người đọc phải ngạt thở, phải quặn gan quặn ruột: "Mùi tục luỵ lưỡi tê tân khổ - Ðường thế đồ gót rỗ kỳ khu" - "Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc - Lớp cùng thông như đúc buồng gan". Ðã từng là đàn bà ư? Ðã từng là cung nữ ư? Lại có thể thế được sao? Lạ nhỉ! Khó hiểu nhỉ! Phải tới năm hắn đã ngoài bốn mươi tuổi tình cờ được nghe một chuyện cũng hơi bất ngờ đối với hắn, dần dần hắn mới vỡ lẽ...
Cách đây đã ba chục năm, một lần về công tác tại tỉnh N. hắn vừa bước vào văn phòng tỉnh uỷ thì gặp ngay anh M. là thường vụ tỉnh uỷ phụ trách tuyên huấn, anh liền kéo hắn ra ngoài hành lang, nói nhỏ: "Này, mình dặn cậu, nếu ông Ð. (bí thư tỉnh uỷ) có hỏi cậu về cái vườn hoa mới làm lại của tỉnh uỷ thì cứ khen là rất đẹp nhá, đừng có sáng kiến này nọ mà khổ bọn văn phòng". Thì ra có một ông nhà báo khi được bí thư tỉnh uỷ hỏi đã nói: "Nếu có thêm vài khối đá đặt rải rác chỗ này chỗ kia thì sinh động hơn". Thế là ngày hôm sau văn phòng phải lấy một cái xe tải lên tận một huyện giáp núi khuân đá về đặt vào vườn hoa theo lệnh của người lãnh đạo cao nhất tỉnh. Anh M. lại kể có lần Ban thường vụ tỉnh uỷ ra một quyết định, cũng đã bàn bạc với ông già, ông già cũng đã đồng ý rồi, đột nhiên lại bảo nên hoãn, chưa nên làm. Thường vụ hỏi lại nếu không làm thì sẽ trả lời với Ban chấp hành ra sao thì ông nín thinh rồi bỏ họp vùng vằng xách cặp về.
Thường vụ liền cử anh M. đến tận nhà bí thư lấy tình chú cháu mà thuyết phục (ông Ð. là bạn tù với ông già của anh M.). Ông bí thư buông màn nằm quay mặt vào tường, M. phải gọi mấy lần ông vẫn không lên tiếng. Ông già lão thành cách mạng về già trở lại tính trẻ, hay hờn hay dỗi như đàn bà. M. phải tụt dép vén màn, ngồi vào trong giường lay vai bí thư nói như nói với một giá đồng cô: "Cháu đây mà, chú quay lại nói chuyện với cháu đi nào..." Ông nói gắt: "Chúng mày đã quyết định thì cứ thế mà làm, hỏi han gì, tao cũng sắp được nghỉ ngơi rồi". Dỗ dành cả giờ mà cũng phải biết cách dỗ, giọng ông già mới dịu lại nhưng vẫn còn một chút hờn: "Ðược rồi, cứ thế mà làm, làm không xong đừng có đem tôi ra làm cái bung xung nhá!".
Thì ra một người được quyền lực nuông chiều quá lâu dễ biến tính thành đàn bà, thành thái hậu để được tận hưởng những cái ve vuốt làm mê muội con người của quyền lực, lúc vui lúc giận, lúc ban ơn, lúc trách phạt theo cái yêu cái ghét tức thời, lúc bảo nên làm, lúc lại bảo không nên làm, chỉ phút trước phút sau ngay những người cộng tác kề cận cũng không thể nhận ra những dấu hiệu khác thường để biết trước. Nguyễn Gia Thiều cũng thế, ông đã được đấng quân vương - quyền lực chọn làm cung nữ, làm ái phi từ thuở mới lọt lòng, thuộc dòng máu tôn quý nhà Chúa, lớn lên là chàng thanh niên văn võ song toàn, bước đường công danh như đã mở sẵn từ mọi hướng, bước đến là tới, với tay là có. Ấy là lúc cô cung nữ - Nguyễn Gia Thiều, người đàn bà trong Nguyễn Gia Thiều được phô bày mọi vẻ yêu kiều trước cái nhìn tán thưởng của nhà Chúa, như ông đã viết: "Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu - Ghẹo hoa kia lại díu gót sen - Thân này uốn éo vì duyên - Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời..." Nhưng đấng quân vương - quyền lực cũng là người hay chóng chán: Chơi hoa cho rữa nhị tàn lại thôi. Ông ta rất thích thay người, thay là thay, rất tàn nhẫn rất lạnh lùng: "Giết nhau chẳng cái lưu cầu - Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa" - "Tiếng thuý điện cười già hoá gắt - Mùi quyền môn thắm rất nên phai". Ðó là cái giá phải trả của những người trót được đấng tối cao quyền lực yêu và để lọt vào mắt xanh.
Ðã căm đến thế, đã oán đến thế, nghĩ rằng người bị đuổi phải tởm lợm cái mùi phú quý cho đến chết, nào ngờ vẫn thèm lắm, vẫn tiếc lắm, đã phấn mốc má deo mà không hết hy vọng:
Phòng khi động đến Cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa
Hai câu thơ kết thúc của khúc ngâm rằng hay thì hay thật là hay... về phương diện văn chương là cái nghề của hắn, hắn phải nhận là tuyệt hay vì nó quá thật. Nhưng nhìn lại con người thì hắn hơi xấu hổ vì hai câu thơ ấy như được buột viết ra trong lúc thảng thốt, không kịp che giấu những cái tầm thường, yếu đuối của một kiếp người. Bao nhiêu lời dậy hàm súc của các triết nhân, bao nhiêu chiêm nghiệm đau đớn của một đời người vẫn không ngăn được sức sống mãnh liệt của thói quen: Lắng nghe tiếng lăn bánh của cỗ xe phú quý, tiếng gọi của đấng quân vương - quyền lực đêm đêm mỗi lần chợt tỉnh giấc...
22.
Cuối cùng thì hắn cũng nhận ra hắn là ai rồi. Hắn đã trở thành đàn bà, thành thái hậu từ lâu rồi, tuy hắn chả có một tí quyền hành nào ngoài xã hội nhưng vẫn là một quyền uy tối thượng trong gia đình. Hắn đã trở thành cung nữ của đấng quân vương quyền lực với những vui buồn thất thường, những thưởng phạt tuỳ thích, cả những lời nói thiếu cân nhắc, gặp gì nói nấy với vợ với con và càng ngày hắn càng thích xét nét những việc nhỏ nhặt, cay nghiệt trong cách xử sự, và muốn mỗi lời nói của mình phải là một mệnh lệnh không cho phép ai cãi lại hoặc dám làm ngược lại. Thoạt đầu hắn nghĩ những biến tính đó là một biểu hiện của tuổi già. Nhưng khi tiếp xúc với bạn bè, với Hội nghề nghiệp, với quân đội là quê cũ của hắn thì càng già hắn càng biết cách nhường nhịn, biết ngưỡng mộ những ý định đẹp, những hành động đẹp, biết làm lành với những người vốn ghét mình, biết nhận lỗi và sửa lỗi, biết nghe một cách thản nhiên mọi lời chế giễu hoặc đúng hoặc sai, không giận đã đành mà cũng không thấy cần thiết phải nói lại, cứ như một tu sĩ sắp bước vào cõi "ngộ". Là vì ở ngoài đời hắn vốn lạ với quyền lực, cũng thích nhưng là thích gọi là, không mê, dễ thì nhảy vào chơi, rắc rối quá là nhảy ra liền, cũng có nhớ, có tiếc nhưng cái tính lười cố hữu đã lấp kín ngay lập tức cái khoảng nhớ theo thói quen ấy. Cũng có một lần hắn đã được quyền lực để mắt và cho gọi hầu nhưng hắn đã già mất rồi. Già rồi còn được gọi ra nhận chức phó tổng thư ký Hội Nhà văn, do có chân lãnh đạo một đoàn thể mà được mời ứng cử đại biểu Quốc hội và lại trúng cử Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nước nhưng hắn không có ý định làm một đại biểu nhân dân chân chính mà chỉ muốn được tiếp tục làm nghề, lấy Quốc hội là một thực tế mới lạ để hắn tìm hiểu và quan sát. Ði họp vài lần hắn mới nhận ra các đại biểu ôm cặp đi họp gánh trên vai họ nhiều trách nhiệm lắm, vì dân hai phần ba, còn một phần ba là vì họ. Vì Quốc hội còn là nơi giao dịch, thương lượng, quyết định nhiều việc mà theo hệ thống các tổ chức nó buộc phải thông qua có khi phải kéo dài cả năm, cả mấy năm. Ở Quốc hội mỗi đại biểu có quyền gặp các Bộ trưởng, các Tổng Cục trưởng, thậm chí gặp cả Thủ tướng tương đối dễ dàng, dễ dàng làm quen, dễ dàng nói chuyện, dễ dàng thỉnh cầu vì họ đều là những đại biểu của nhân dân cả. Có một nữ đại biểu giám đốc một xí nghiệp lớn, khoe với hắn trong một buổi sáng cô đã xin được năm chữ ký tắt của các nhân vật hết sức khó gặp. Hàng ghế của thành phố Hồ Chí Minh là hàng ghế thứ hai và thứ ba sau hàng ghế đầu của các vị lãnh đạo Ðảng và Nhà nước, hắn lại được ngồi ở hàng ghế thứ hai vì hắn là người làm công tác quản lý một đoàn thể. Ngồi ở vị trí đó hắn được tự do quan sát các vị lãnh đạo khi ngồi họp, chả để làm gì cả, chỉ để quan sát thôi. Hắn vốn thích quan sát các nhân vật nổi tiếng trong mọi sinh hoạt bình thường của họ mà. Còn việc thứ hai thì hoàn toàn bất ngờ, hắn trở thành nhân viên chuyển thư của các hàng ghế sau tới tận tay từng vị lãnh đạo ngồi ở hàng ghế trên cùng. Thư của ai hắn không thể biết, chỉ biết người ngồi ở hàng ghế sau bấu vào vai hắn, một lá thư đưa qua vai và một lời dặn nhỏ: "Họ bảo nhờ ông đưa tận tay cụ X.", rồi cụ Y, rồi cụ Z, đưa nhiều lần quá đến nỗi đã có vị quay lại hỏi đùa: "Này, cậu nhận thêm cái việc này hồi nào vậy?" Nếu các vị ấy lại sinh ngờ hắn đã nhận tiền những người nhờ vả thì hắn biết nói sao? Kỳ họp thứ hai của khóa 8, họp cuối năm, hắn có làm quen với một bí thư huyện uỷ tên là K, do sự giới thiệu của một người bạn khác. Ông bí thư này cũng đã từng là quân nhân thời đánh Mỹ, về nhà đi buôn mấy năm rồi mới ra làm việc lại, tuổi ngoài bốn chục, là người nhìn xa trông rộng, cách nghĩ, cách nói rành mạch, quyết liệt, không từ nan bất cứ một việc gì có lợi cho địa phương mình. Ngay trong lần gặp làm quen, anh ta đã hỏi hắn về ông chủ tịch thành phố cũng là trưởng đoàn đại biểu Quốc hội và có ý muốn mời ông chủ tịch một thành phố lớn nhất nước, đông dân nhất nước tới thăm huyện của anh ta vừa để thắt chặt tình đoàn kết Bắc Nam vừa tìm đối tác làm ăn cho huyện nhà. Rồi anh ta cười: "Huyện của tôi cũng là một huyện biết hoà nhập nhanh vào nền kinh tế thị trường bằng các hàng hoá nông nghiệp của mình". Trước khi chia tay ông bí thư huyện còn nhắc lại lời mời, thành tâm lắm, tha thiết lắm. Hắn cũng tình thực nói lại với trưởng đoàn, trưởng đoàn xem lại lịch làm việc những ngày nghỉ họp, nói: "Có lẽ phải đợi kỳ họp sau vậy, những ngày nghỉ tới không có buổi nào rảnh". Hắn nói lại với ông bí thư huyện uỷ quá nhiệt tình với miền Nam, và nhắc lại lời cảm ơn cùng lời hẹn sẽ tới thăm huyện của anh vào kỳ họp sau của ông chủ tịch thành phố. Anh ta liền nhìn hắn bằng cặp mắt trống rỗng rồi hạ một câu khiến hắn phải sững sờ: "Tôi muốn mời ông ấy đến huyện vào dịp này là muốn nhờ ông giúp tôi đưa mấy vạn mét pháo vào thành phố nhân dịp Tết. Chứ sang năm mới đến chơi thì còn chuyện gì để nói!" Hắn đứng chết sững một lúc vì hãi quá, sau đó lại mừng quá. Vì nếu ông chủ tịch lại tin lời hắn tới thăm huyện của K., rồi tiệc tùng, rồi quà cáp, rồi diễn văn và đáp từ về tình anh em ruột thịt giữa hai miền, người lớn hỗ trợ cho kẻ bé, anh lớn hỗ trợ cho em nhỏ, cuối cùng xin ông anh giúp thằng em đưa vài vạn mét pháo phi pháp vào thành phố nhân dịp Tết thì ông anh biết nói sao? Dứt khoát là ông anh sẽ từ chối thẳng thừng, chả nể nang gì một thằng bí thư huyện uỷ mới quen biết đã giở trò láu cá. Sau đó ông sẽ tự hỏi cái thằng nhà văn có vẻ ngốc nghếch kia đã nhận của thằng bí thư huyện uỷ bao nhiêu tiền nếu vụ làm ăn này trót lọt? Nhà văn kiêm cò pháo, hay nhỉ, đẹp mặt nhỉ, có thanh minh cả một khoá quốc hội cũng chả ai chịu hiểu cho! Thế là hắn liền có ngay một phương châm sống sau hai kỳ họp Quốc hội: "Sống là phải cảnh giác, chớ vội tin vào những lời nói quá đẹp mà chết có ngày". Làm đại biểu Quốc hội thì nên đề phòng, chớ có vội tin nhưng là nhà văn thì cứ phải tin, phải yêu, phải hy vọng vào tất cả những ai mà hắn có dịp tiếp xúc, dẫu vẫn biết rành rành những thói xấu của họ, những cái tầm thường của họ. Ðã là con người, lại là người đang sống ở một thời mọi cơ chế bao cấp dần dần bị dỡ bỏ để chuyển đổi tất cả thành hàng hoá, tất cả đều có thể mua và bán một cách tự do dẫu có nhiễm phải thói xấu của nền kinh tế thị trường cũng là chuyện tất nhiên, chuyện bình thường. Nên hắn vẫn viết về cuộc đời của K, trong một truyện vừa Người làng pháo lý thú. Vì K là một mẫu người rất tiêu biểu cho cái thời bây giờ, sỗ sàng, lì lợm, quyết liệt, tháo vát, biết cách tổ chức mọi thứ đang có trong tay thành hàng, thành tiền hết sức thần diệu. Có nghĩa là những người tốt của thời nay, những người có thể làm giầu cho huyện mình, cho tỉnh mình, nhìn cho kỹ cũng có lắm trò ma quỷ, có tính Tuy Kiền lắm. Muốn giữ cho họ khỏi sa vào tội lỗi thì pháp luật phải chặt chẽ, thi hành pháp luật phải nghiêm minh, cơ chế quản lý xã hội phải khoa học, hiện đại, báo chí phải được tự do phát hiện và tố cáo mọi hành vi lừa đảo, tham nhũng, phải dùng những công cụ của thời bây giờ để quản lý những người của thời bây giờ.
Trong suốt một nhiệm kỳ Quốc hội khoá 8 hắn chỉ phát biểu có một lần về những điều bổ sung cho Luật Báo chí. Hắn đề nghị Quốc hội xem xét cho ra báo tư nhân và nhà xuất bản tư nhân để đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của một xã hội văn minh. Hắn vừa ngồi xuống thì bà T. cũng là đại biểu của thành phố Hồ Chí Minh, nguyên là một nữ luật sư danh tiếng của Sài Gòn trước đây, một thượng nghị sĩ trong phe đối lập với chính quyền Thiệu, đứng lên phản đối liền. Bà nói, đại ý, rằng hắn chưa từng sống trong xã hội tư bản nên mới ngộ nhận là ở đó có tự do báo chí! Không có đâu! Danh nghĩa là báo của tư nhân nhưng nguồn tài trợ thường xuyên để nuôi sống nó luôn luôn là của các tổ chức chính trị, tôn giáo, nghề nghiệp đầy quyền lực. Họ mới là những ông chủ đích thực của tờ báo, quyết định xu hướng chính trị của nó, còn các nhà báo chỉ là những người làm công ăn lương mà thôi. Theo bà, hãy tổ chức những tờ báo hiện có của các đoàn thể thành những cơ quan ngôn luận thật sự có uy tín, có đông đảo bạn đọc cũng đã tốt lắm rồi. Bà vừa dứt lời tiếng vỗ tay đã vỡ ra vang dội và kéo dài khắp hội trường. Bà là một trí thức yêu nước, đi học và hành nghề ở nhiều nước tư bản từ nhỏ tới già nhưng lại có lập trường của một người cộng sản. Còn hắn là đảng viên cộng sản chính gốc lại hùa theo những đòi hỏi của nhiều người được xem là rất đáng ngờ về quyền được ra báo và mở nhà xuất bản tư nhân. Ông chủ quyền lực bắt đầu ghét hắn từ ngày ấy, đã muốn đuổi hắn ra khỏi cơ quan quyền lực từ ngày ấy. Rồi hắn lại ngủ gật nữa. Trong những phiên họp tranh cãi sôi nổi về một từ, một câu trong những điều luật bổ sung của Bộ luật Hình sự, thì hắn ngủ gục, đầu vẫn ngay, lưng vẫn thẳng nhưng đầu óc đã trống rỗng, mờ mịt, người ngồi cạnh phải hích nhẹ hắn mới bừng tỉnh. Một ông nghị gật như các báo vẫn chế giễu các ông nghị bản xứ thời Pháp thuộc. Té ra hắn được vào Quốc hội là do sự hiểu nhầm từ cả hai phía. Phía lãnh đạo thì nghĩ rằng hắn đi nhiều, biết nhiều và cũng đọc nhiều ắt hẳn sẽ có nhiều ý kiến mới lạ để đóng góp với nhà nước. Còn hắn cũng nghĩ do có cơ hội quen biết thêm nhiều nhân vật nổi tiếng của nhiều ngành nghề, lại được tham gia bàn bạc những việc trọng đại của cả nước ắt hẳn sẽ viết được nhiều bài báo rất lý thú như những bài báo đã viết trong năm 1974 chả hạn. Suốt một nhiệm kỳ năm năm, đi về bằng máy bay mỗi năm bốn lượt, lại hai tháng họp Quốc hội, nuôi ăn, nuôi ở, lại chiếm một chỗ ngồi ở cơ quan quyền lực tối cao, rút cuộc hắn chả làm được tích sự gì, nói có một lần lại nói sai, đến một bài báo về đất thép Củ Chi thời đánh Mỹ như hắn đã hứa với bà con ở đó cũng không có nốt. Hắn đã ngượng lắm, lại càng ngượng khi một bạn đồng nghiệp làm tạp chí Người đại biểu nhân dân của Quốc hội hỏi hắn: "Tại sao anh lại ít nói thế nhỉ? Gần hết một khoá Quốc hội mà anh không nói được một câu nào để bọn em nhớ?" Biết nói thế nào nhỉ? Hắn đã ngồi nhầm chỗ, có thế thôi! Chỗ của hắn là quán trọ, bến phà, bến xe, sân phơi hợp tác xã, lán ở của công nhân nông trường, những khu nhà tập thể của gia đình quân nhân, ở bờ ở bụi, nghe đủ chuyện vui chuyện buồn, chuyện hay chuyện dở của thiên hạ, ngứa miệng thì góp vào một đôi câu, sáng gặp bạn trẻ tối gặp bạn già, lúc thì bàn luận nhân tình thế thái, lúc thì nói láo nói lếu về mọi sự ở đời. Một ngày sống thoả mãn, tràn đầy, càng nói càng thông minh, càng nghĩ càng nẩy sinh, lắm điều sâu sắc, chữ nghĩa gọi chữ nghĩa, hình ảnh gọi hình ảnh, dưỡng chất nuôi sống ngòi bút của hắn trong bấy nhiêu năm chủ yếu là ở môi trường đó, chứ có bao giờ ở trong các cuộc họp! Ở các cuộc họp hắn chỉ ngáp thôi, vây vẩy bạc phếch, đứng xa cũng ngửi thấy mùi tanh, còn thả hắn vào nước, nước ao, nước rạch, cống rãnh được tuốt, hắn lại vùng vẫy nhào lộn, vây vẩy sáng loé, môi mép toe toét, tung bọt giỡn sóng, là cá sắp hoá rồng chứ đâu phải là con cá ươn như khi ngồi họp.
Nguyễn Khải
Thuợng đế thì cười (kỳ 9)
23.
Năm 1957, sau khi đăng rải trên tạp chí Văn nghệ Quân đội nhiều tập ghi chép có cái tựa đề chung là Xung đột, tên của hắn bắt đầu được các tiền bối trong nghề lưu ý. Ông thầy của hắn là cụ Nguyễn Tuân nhìn hắn một cách ưu ái rồi bảo: " Xem ra cậu cũng biết nhiều nhỉ?", cũng có thể hiểu có nhiều chuyện ở một vùng nông thôn theo đạo Thiên Chúa cụ chưa được biết, nhờ đọc hắn mà biết. Lời khen của giáo chủ văn xuôi đâu phải lời nói đãi bôi, nói cho có nói. Hắn bắt đầu nhen nhóm lại lòng tin, là rồi ra hắn cũng có thể viết được. Lại một tin vui khác nhưng buộc hắn phải cân nhắc, tính toán, vì trước mắt là được, về lâu dài có khi lại không được. Ấy là cấp trên muốn hắn được theo học khoa lý luận văn học của trường dạy viết văn nổi tiếng Gorki, thời gian cũng dài, khoảng bảy, tám năm gì đó. Cùng đi với hắn có anh Nguyễn Minh Tấn, là cán bộ của Ban Tuyên giáo Trung ương. Hắn muốn đi học xa trong một thời gian dài để tiện nói lời hoãn hôn hoặc thoái hôn với cô gái mà hắn đã để ý, đã thương yêu, đã hứa hẹn. Người yêu của hắn sẽ là một người vợ rất lý tưởng nếu hắn gặp cô sớm hơn dăm năm, đất nước vẫn còn chiến tranh, người vợ ở nhà nuôi mẹ, nuôi con, trong trường hợp của hắn còn làm chỗ dựa cho em trai nữa để hắn yên tâm đi kháng chiến. Vả lại ở làng quê trong thời kháng chiến thì vợ hắn thuộc loại xinh đẹp, lại thông minh, nói năng cũng duyên dáng, cái duyên dáng thơ ngây, mộc mạc của đồng quê, của cách mạng, của đời sống mới. Còn bây giờ người yêu của hắn lại sống giữa một Hà thành hoa lệ, giữa cả mấy chục người đẹp được tuyển chọn từ nhiều địa phương của cả nước về để múa, để hát, để diễn kịch và làm người giới thiệu. Từ sáng đến tối ở các đoàn nghệ thuật ấy người ta chỉ bàn về các vai diễn, các giọng ca, các điệu múa; về quần áo và phấn son, về cái đẹp và cái duyên của người này người nọ; và cả về những người đàn ông và các mối tình khi vui khi buồn giữa họ. Hết nói chuyện nghệ thuật trong nước lại nói chuyện nghệ thuật từ nhiều nước anh em sang Hà Nội biểu diễn trong mấy năm đầu hoà bình. Trong cái thế giới son phấn, nghệ thuật, trí thức, dầu tất cả mới chỉ là học đòi, làm ra vẻ của đám lính tráng mới tạm buông tay súng để sống trong các thành phố của hoà bình, người yêu của hắn đứng tách riêng hẳn một mình, ngây ngô, ngơ ngác như của lạ. Bao nhiêu cái duyên khi còn ở quân khu liền bị tước sạch lúc bước vào Hà Nội, thành người thừa, nói cười thừa, đứng đâu cũng thừa, làm gì cũng thừa, vừa thương tâm vừa khó chịu. Thế là hắn bắt đầu chán, bắt đầu ghét, tránh gặp mặt và rất khổ tâm khi phải đi với nhau ngoài phố, cùng ngồi với nhau ở một quán hàng hoặc cùng đi xem một phim nghe nói là hay hoặc một vở kịch mới công diễn. Bạn gái hắn nghe hắn báo tin sẽ sang Liên Xô học bảy, tám năm cũng sững sờ nhưng không phản đối, vì đi học là một vinh dự, là đã được cấp trên tin cậy tuyển vào đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo chính quy để mai này đảm nhiệm những trách nhiệm lớn hơn. Một lần khác hắn lại nói chưa nên tổ chức cưới xin vội, lúc về cả hai mới trong ngoài ba mươi, còn trẻ chán, vả lại thời nay đâu cần nhiều con, chỉ một hai đứa là đủ. Bạn gái hắn vẫn không nói gì. Ðến lần thứ ba lại bàn về việc hoãn tổ chức đám cưới, bạn gái hắn mới nói, cưới nhau trước khi đi học lại hoá hay, lúc trở về con đã lên bảy lên tám mà người chồng không phải bận bịu gì, không phải mó tay vào tã lót *** đái mà vẫn được con, con lại đã lớn, đi trẻ đi học cả ngày, nhà ở có chật chội cũng chả ảnh hưởng gì đến công việc nếu phải làm việc ở nhà. Ơ hay, cái cô này ngây ngô vậy mà tính toán cũng hay nhỉ! Hắn vốn là thằng lười, muốn có cả vợ đẹp lẫn con khôn mà không phải tốn công sức nên nghe thấy phải quá. Vả lại bảy, tám năm ở nước ngoài, sống độc thân thì thiếu gì người đẹp ở trong nước sang học đủ các ngành nghề, có mèo mỡ chim chuột nhau cũng chẳng ai để ý, nước người ta văn minh, chuyện trai gái yêu đương là chuyện thường tình, miễn là không để lại dấu vết. Ở nước ngoài trong tuổi thanh xuân lúc về nước đã ngót nghét bốn chục, lao đầu vào sự nghiệp là vừa đẹp, lại đã có một gia đình yên ấm, cùng một lúc được cả việc công lẫn việc tư, còn mong gì hơn, nhưng chả lẽ mọi chuyện khó khăn ở nhà lại dồn hết lên vai vợ? Nhưng cái người tình nguyện sẽ là vợ hắn, dầu hắn phải đi học xa và dài ngày, nghe những băn khoăn của hắn đã cười rất dễ dãi: "Một mình sinh con nuôi con rồi nuôi cả mẹ chả có gì là vất vả với em cả. Như chị em ấy, cũng nuôi con một mình trong suốt tám năm anh ấy đi kháng chiến, lại còn chạy giặc, giặc đốt nhà mấy lần còn làm lại nhà, vay ăn từng bữa mà lúc chồng về vẫn có nhà, có thóc, có cả con, có sao đâu!" Ờ nhỉ, bạn gái hắn là một cô gái nông thôn quen sống trong vất vả, thiếu thốn, lại có tính hy sinh cho chồng cho con như mẹ, như chị, như những người đàn bà khác trong làng, chứ có như các cô gái ở thành phố đâu, ở nhà cha mẹ nuôi, lấy chồng chồng nuôi, chồng hầu, biến mình thành mèo cảnh, chó cảnh, nũng nịu hờn dỗi, lúc gù lúc gừ, vớ phải thằng chồng vừa lười vừa có máu nghệ sĩ thì tan cửa nát nhà ngay. Thế là hắn quyết định sẽ lấy vợ, và vợ sẽ có mang trước ngày hắn lên đường ra nước ngoài. Nhưng cũng còn một chút tính toán nữa, hắn đang viết được, các tập ghi chép có tên là Xung đột đang được bạn trong nghề khen và bạn đọc yêu văn chương đón đợi từng số tạp chí, sau nhiều năm gò gẫm chữ nghĩa ý tứ mà vẫn chẳng đâu vào đâu. Thêm nữa hắn lại sống trong cái không khí náo nức sáng tác của ngôi nhà số 4 Lý Nam Ðế. Hắn ở một phòng với Ngô Thông, nguyên thư ký báo Quân đội Nhân dân khu 5, cạnh phòng của Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện, rồi đến phòng của Minh Giang và Phác Văn, phòng ngoài cũng là của Hữu Mai và Nguyễn Ngọc Tấn. Tấn là người Nam Ðịnh nhưng vào Sài Gòn kiếm sống từ năm 13, 14 tuổi. Sau cách mạng tháng Tám, Tấn tòng quân tham gia kháng chiến ở trong đó suốt 9 năm, viết báo, làm thơ. Nào dè anh lại trở thành một cây bút viết truyện ngắn hết sức đặc sắc, vừa có chất thơ nhưng vẫn trĩu nặng những ý tứ thâm trầm. Vào những năm ấy Hữu Mai có truyện ngắn Mất hết đang gây bàn luận sôi nổi cùng với truyện Ðẹp của Xuân Cang. Phùng Quán sau Vượt Côn Ðảo có trường ca Võ Thị Sáu. Nguyên Ngọc vẫn cái mạch sống của Ðất nước đứng lên, viết tiếp nhiều truyện ngắn, truyện nào cũng đẹp như một bài thơ bằng văn xuôi. Hồ Phương có Cỏ non, Phù Thăng ở dưới đơn vị gửi lên truyện ngắn Con những người du kích... Có tối đã khuya lắm, dọc đường Phan Ðình Phùng chỉ còn nghe có tiếng rao buồn nản kéo dài của hàng phở gánh: "Phở...ở...ở....", thì Tấn đến gõ của từng phòng kéo mọi người lại phòng anh để nghe anh đọc một truyện ngắn vừa mới đặt dấu chấm hết cách đó dăm phút. Ðó là truyện ngắn Im lặng. Học lý luận có thể dành cả đời, nhưng khoảng thời gian để viết ra văn có khi chỉ dăm năm. Bỏ quên hoặc đánh mất hoặc tiêu phí năm năm trời cho, nghề cho coi như thành người khác, làm nghề khác chứ không thể trở lại tìm kiếm đoạn đường đã lạc. Nó đã là cái hư ảo, cái thoáng chốc mất hút mãi mãi rồi... Thế là lại có một quyết định mới, ở lại, lấy vợ, sinh con và làm nghề theo kinh nghiệm, theo bạn bè, theo cái nghiệp ông trời đã buộc, bỏ ngoài các thứ lý luận, các thứ vinh dự, vui thú khác.
Cái sự tính toán tầm thường, ích kỷ lúc mới vào nghề nào ngờ sẽ là lối sống một đời văn của hắn. Trước hết hắn là một tên ích kỷ không thể cứu chữa, bất kể cái gì không liên quan đến sáng tạo nghệ thuật hắn đều gạt bỏ sang một bên, không nuối tiếc gì cả. Nhưng để lỡ một cơ hội hiểu thêm một nhân vật, một cảnh ngộ, một tình huống là hắn khắc khoải mãi, vì biết đâu từ những thứ vớ vẩn đó lại chả vật lên một cái gì đó rất lạ, rất đẹp thì sao? Hắn đã để lỡ nhiều dịp may lắm, cái cơ hội lớn nhất đã để mất đi mãi mãi là tám năm kháng chiến chống Pháp. Những năm ấy hắn đã trong ngoài hai mươi tuổi rồi, đâu còn trẻ con nữa. Ông Chế Lan Viên năm 16, 17 tuổi đã có tập thơ Ðiêu tàn gây chấn động trong làng thơ thuở ấy. Ông Nguyên Hồng cũng khoảng tuổi ấy đã có Bỉ Vỏ được giải thưởng của nhóm Tự lực Văn đoàn. Ông Vũ Trọng Phụng năm ngoài hai mươi tuổi đã viết được cuốn tiểu thuyết hoạt kê Số Ðỏ, các nhân vật của ông còn gây cười cho tới tận bây giờ. Nguyên Ngọc năm 23 tuổi viết tiểu thuyết Ðất nước đứng lên, là vốn sống chắt lọc của một nghệ sĩ trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp ở Tây Nguyên. Hắn vào nghề báo từ năm 19 tuổi, làm báo tỉnh, làm báo mặt trận, rồi báo quân khu, sáu năm làm báo trong kháng chiến mà hồn nhiên, thơ ngây như đứa trẻ. Cái sự thơ ngây đáng trách ấy, cái thứ nước lã trong veo ấy đã gột nên hai cuốn sách nhạt như nước ốc, là truyện Xây dựng (cũng được giải khuyến khích của Hội Văn nghệ Việt Nam vì đề tài) và truyện Người con gái quang vinh, viết về nữ liệt sĩ anh hùng Mạc Thị Bưởi. Chả có một tí từng trải nào, chiêm nghiệm nào trong kháng chiến ẩn hiện trên các trang sách, chữ nghĩa cứ bạc phếch, trống hoác như văn của thằng học trò sống trong Thành, nghe chuyện của kháng chiến ngồi viết lại. Giả thử khôn ngoan như bây giờ, ngày ấy cứ ghi chép lại những chuyện tai nghe mắt thấy ở Hà Nội năm 1945, 1946, ở Hưng Yên năm 1947, ở Thái Bình năm 1950, rồi ở các cơ quan lãnh đạo kháng chiến cấp khu những năm 1951, đến 1954, vùng địch hậu nam Nam Ðịnh vừa được giải phóng năm 1952, vùng du kích Thanh Liêm và các cơ quan huyện xã của Hà Nam chạy sang Bồng Lạng để chỉ đạo cuộc chiến tranh du kích các xã bên kia sông Ðáy. Những năm ấy ngôn ngữ thường dùng ra sao, chuyện vui, chuyện tếu kháng chiến ra sao, những dãy phố bất thần mọc lên, bất thần mất đi ở mọi nẻo đường kháng chiến, những thị trấn nổi tiếng một thời Quỳnh Côi, Ðống Năm, Cống Thần, Sêu Tiết, Hậu Hiền, Rừng Thông... Có hàng trăm chuyện, hàng ngàn chuyện ghi đậm những dấu vết không bao giờ phai nhoà của một thời. Cái pho sách biết sao chép ấy chắc phải dầy cả ngàn trang, chỉ như thế thôi rồi chết hoặc gác bút cũng đủ làm nên một sự nghiệp và những trang sách ấy chắc chắn phải hay hơn những tập ký sự nói chuyện dông dài của các cụ ở những thế kỷ trước. Từ ngày hắn biết làm nghề, tức là từ năm 30 tuổi (cùng trạc tuổi trong ngoài ba mươi, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam đã hoàn thành một sự nghiệp bất hủ và đã chết rồi, Nguyễn Tuân đang thời rực rỡ nhất của một đời văn, Nam Cao đã có Chí Phèo và Lão Hạc. Thì họ là những thiên tài, hắn bì thế nào được!) cho tới bốn chục năm sau hắn không để phí một giờ nào không dỏng tai, không giương mắt, sống gấp hai gấp ba lần so với những người cùng thời làm các nghề khác để nghe cho rõ, nhìn cho tinh và ngẫm nghĩ về mọi sự mọi việc đang diễn ra quanh hắn. Nghĩ được điều gì hay là viết liền, được là văn thì tốt, không được là văn thì cũng là tài liệu lưu giữ cho đời sau. Truyện dài mở đầu thời kỳ này hắn gọi là ghi chép cũng từ cái ý không để mất đi bất cứ cái gì hắn đã ngẫm nghĩ và ghi nhận được. Có truyện được khen, có truyện bị chê, chê thì chê hắn đã bắt tay vào viết truyện khác rồi. Năm 1962 hắn in cuốn tiểu thuyết Một chặng đường, sách ra bị bạn đọc chê dữ quá. Họ đang đón đợi ở tác giả Xung đột và Mùa lạc một cái gì hơn thế, nào ngờ phải đọc những trang văn quá nhạt nhẽo. Hắn chỉ buồn một chút vì nhân vật Nam của nông trường Ðiện Biên đã lờ mờ xuất hiện, nghĩ là nó sẽ nhanh chóng qua đi vì thời gian này hắn đang phải theo học một khoá chính trị cho cán bộ trung cao cấp kéo dài một năm tại Quần Ngựa. Nào ngờ cái anh chàng thợ mộc ấy càng ngày càng hoá ra lắm lời, thì thào với hắn mỗi đêm và cả mỗi ngày, ngay cả giờ lên lớp hắn ta vẫn tiếp tục trò chuyện. Thế là hắn viết liền, ngay tại giảng đường, giáo viên thì giảng giải về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, còn hắn thì bắt đầu cuộc trò chuyện dài ngày với nhân vật chính có tên là Nam, trong cái truyện vừa Hãy đi xa hơn nữa, truyện in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội được bạn đọc khen ngay. Người khen đầu tiên là ông Phạm Lê Văn tức Thợ Rèn, là người bạn vong niên của hắn từ thời kháng chiến chống Pháp ở khu 3. Ông Thợ Rèn nói: "Mấy ông viết văn trẻ chỉ được một, hai cuốn sách đầu là đáng đọc, còn về sau, đã có nghề hẳn hoi thì ngay đến một câu văn viết cũng không thành, sao thế nhỉ?" Rồi ông nắm tay hắn, nhìn hắn rất ưu ái: "Nhưng Hãy đi xa hơn nữa thì được lắm đấy, chính mình cũng mê cái thằng Nam của cậu". Sau khoá học hắn lại ba lô lên đường về Phú Thọ, theo lời mời của người bạn cùng cơ quan, phục viên về xã đã mấy năm, nay là chủ nhiệm một hợp tác xã nông nghiệp tiếng tăm lừng lẫy khắp miền Bắc. Cuối năm 1963, truyện vừa Tầm nhìn xa in liền hai số tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhân vật nửa chánh nửa tà Tuy Kiền xuất hiện với bộ mặt ngây ngô ăn người và cái nháy mắt tinh quái của ông ta có sức quyến rũ bạn đọc ngay lập tức hơn nhân vật chính phải có tên là Nam nhiều.
Những năm 60 là những năm mãn nguyện của đời văn nhưng vất vả về đời người. Năm 1961 vợ hắn sinh đứa con trai thứ hai sau thằng anh sinh năm 1958 và một con chị sinh năm 1960. Nhưng con bé nhẹ nghiệp, không phải làm con một thằng văn nghệ sĩ, nên mất ngay sau khi sinh do bị dây nhau quấn quanh cổ. Mặt con bé ra sao hắn không biết, chôn con bé ở đâu cũng không biết vì bệnh viện nhận lo lắng cho tất cả. Hắn có tính lười nên bằng lòng ngay chỉ hơi buồn một tí, vợ chồng hắn còn trẻ muốn đẻ lúc nào chẳng được. Ngay đêm hôm đó vợ vẫn nằm khóc ở khoa sản, hắn đã thản nhiên ngồi viết đoạn kết của truyện Người tổ trưởng máy kéo! Thế là hắn đã phạm tội bất từ, ở đời này có gan dám phạm luật trời thì ông trời sẽ bắt một đời phải chuộc cái lỗi đã phạm. Ðứa con trai sau nặng có 2 ký 8, bị hen suyễn từ ba tháng tuổi, hắn phải hầu hạ đứa con bệnh tật đó trên ba mươi năm, theo nó vào bệnh viện khi hắn đã sáu chục tuổi, phải giúp đỡ nó cho tới tận bây giờ khi nó đã bốn mươi tuổi còn hắn đã là ông già ngoài bảy chục. Chưa hết, mười hai năm sau vợ chồng hắn còn phải chôn đứa con trai đầu khoẻ mạnh, tháo vát, học giỏi khi nó vừa tròn 15 tuổi. Hắn giẫy giụa than khóc mất mười năm, vợ hắn ứa sữa non, đái ra máu, thành người ngớ ngẩn mất vài năm. Năm đó hắn đã 43 tuổi, so với cái khổ bị hắt hủi lúc còn niên thiếu thì cái khổ mất con vào tuổi trung niên còn đau đớn hơn cả trăm lần. Từ đó hắn bắt đầu biết sợ luật quả báo, luật bù trừ của ông trời, rất hãi cái ngông nghênh của sự được thời, cái lấn sân lấn phần của kẻ hãnh tiến, chỉ xin nhận phần thiếu chứ không dám tranh phần dôi, thích đứng phía sau hơn chen ngồi phía trước, thích nhường nhịn, thích rút lui, vì tin rằng cái hụt cái thiếu của mình sẽ được bù lại cho con cho cháu.
Trong những năm 60 hắn có hai chuyến đi rất thú vị. Một chuyến ra biển vào giữa năm 1965 sống với một đơn vị đang chiến đấu trên đảo Cồn Cỏ trong những tháng đầu của cuộc chiến tranh phá hoại. Và một chuyến đi vào cuối năm 1967 đến một đại đội công binh phụ trách một tuyến đường chiến lược trên nước bạn Lào. Chuyến ra đảo Cồn Cỏ lúc ở Hà Nội thì nghĩ sẽ được đi bằng tầu ngầm từ quân cảng Vinh, nghe đồn thế chứ chẳng ai nói rõ với hắn là đi bằng phương tiện nào. Tới bờ biển xã Vĩnh Kim hắn mới được biết là bọn hắn sẽ đi bằng thuyền theo những chuyến tiếp tế hàng tuần ra đảo. Người không biết bơi lại ra đảo bằng thuyền, chuyến đi nào cũng có thuyền đắm, hàng chìm và thuỷ thủ bơi như cá trên biển, nghe kể lại cũng đủ sợ. Sợ thì sợ nhưng vẫn cứ phải đi, chả ai ép cả nhưng cái nghề viết nó ép, cả nước vào cuộc chiến, người viết văn không có mặt ở nơi đầu sóng ngọn gió thì biết viết gì về đồng đội, về nhân dân đang dốc toàn lực cho cuộc chiến đó. Chuyến đi sang Lào cũng mất đúng bảy đêm, ngồi trên xe tải của anh em hậu cần công binh, đêm xe chạy, ngày lại lùi xe vào các cánh rừng nấu ăn và ngủ. Chiều khoảng 4, 5 giờ lại đưa xe ra đường 7 nhắm những dãy núi phía Tây lao tới. Xe chạy qua những đồng cỏ rồi lại leo dần lên các mép núi, leo cao mãi, một bên là vực, một bên dốc núi thẳng đứng, xe chạy bằng đèn gầm, nhiều đoạn xe chạy như leo dây, người hàng nếu không chằng buộc kỹ là tuột hết xuống vực. Trước mặt là sương mù, vén một mảnh bạt ở thùng xe nhìn ra phía mép vực mây đùn lên từng mảng nhạt nhoà, nhễ nhại ánh trăng, mây phủ kín thân xe, trườn vào lòng xe, nhìn người đối diện bên kia các thùng hàng cũng không rõ mặt. Mấy đêm đầu còn sợ, mấy đêm sau quen dần rồi hết cả sợ. Ðã đi chiến trường, dầu là một chiến trường ít bom đạn, hiền lành cũng có thể hy sinh lắm, có lắm thứ tai nạn chết người chứ chả phải cứ giáp mặt với kẻ thù hoặc bom vương đạn lạc. Nên mỗi lần khoác ba lô lên đường coi như một chuyến đi vĩnh biệt, về được thì tốt, không về được cũng chẳng có gì bất ngờ, mình biết thế, vợ con cũng biết thế. Cái năm ra Cồn Cỏ ở ngoài đó một tháng rồi trở về đất liền, đêm đầu tiên nằm lại ở xã Vĩnh Kim, bao quanh lại vẫn là những tiếng động quen thuộc của một vùng dân cư ở đất liền mới cảm thấy hết cái sung sướng, cái khoan khoái của sự được trở về với cuộc sống bình thường, dầu vẫn là cuộc sống trong chiến tranh nhưng xung quanh đã là dân, là những nẻo đường, đi bộ, đi xe, đi mãi mãi cũng chưa thể tới chỗ tận cùng, cuộc sống là mông mênh, những cơ hội để sống cũng mông mênh, nghĩ lan man một lúc rồi ngủ thiếp tới gần trưa, tiếng máy bay đã vang động từng tốp trên bầu trời, rồi lại nghe những tiếng nổ nhưng xa lắm, mờ nhạt lắm, như đã không còn chiến tranh nữa. Nằm lại một ngày rồi nằm lại đến gần một tuần cho giãn xương cốt mới lên xe đủng đỉnh chạy về Hà Nội. Năm ngày sau khi qua thị xã Ninh Bình, qua Gián Khuất, qua Phủ Lý, cứ bồi hồi như đã xa cách các địa danh này từ lâu lắm. Trời lại mưa to, từ Thường Tín về Hà Nội trời đã ngớt mưa nhưng mặt đường vẫn ngập nước lấp loáng ánh điện. Xe đỗ ở nhà số 4 Lý Nam Ðế vào khoảng nửa đêm. Phòng làm việc của anh Thanh Tịnh vẫn còn sáng đèn, hắn đứng ở ngoài cổng sắt gọi với lên: "Anh Thanh Tịnh, em đã về đây!" Tiếng gọi sung sướng trong đêm vắng vang lên suốt một đoạn đường. Anh Thanh Tịnh mở cửa chớp ngó đầu nhìn xuống: "K. phải không? K. về rồi đấy à?" Giọng anh lạ lắm, như chưa tin hẳn hắn đã về, đã lên tiếng gọi ở dưới đường kia! Rồi anh nói ngay: "Hai mẹ con cô ấy mới từ chỗ sơ tán về lúc chiều". Thế là hắn xốc lại ba lô đi bộ về nhà hắn ở mép sông Hồng, cách tạp chí chưa đầy một cây số. Trời lại mưa nhỏ, từ mặt đê vào khu tập thể K.95 phải qua một quãng đường đất lầy lội, hắn tụt đôi dép lốp cầm tay, bấm ngón chân lên mặt đường trơn, bước rất nhanh gần như chạy, một bên là hồ, một bên là bãi trồng mía, gió thổi hun hút, lá mía đập vào nhau rào rào, trong lòng hắn chưa bao giờ rạo rực như thế, nhiệm vụ với tạp chí đã hoàn thành, tài liệu để viết trong một chuyến đi vào những ngày đầu của chiến tranh xem ra phải viết được vài trăm trang, lại vẫn còn sống, lại vẫn được về với vợ với con. Cả hãy nhà tối đen, im lặng trong giấc ngủ, hắn ra vòi nước rửa chân, vặn nước rất nhỏ, cọ chân rất khẽ, rồi bước lên hè nhà, kéo rộng cánh cửa sổ hé mở, vợ con hắn đang ngủ trong nhà, hắn khẽ gọi, gọi tới lần thứ hai hơi lớn tiếng, thế là vợ hắn vùng dậy nói từ trong màn: "Anh vẫn còn sống về với vợ con đấy à?" Vợ hắn bật đèn nhìn hắn chằm chằm, có vẻ như còn ngờ con người thật của chồng đang đứng trước mặt, có thể là một giấc mơ, cũng có thể là hồn ma, chết trẻ là thiêng lắm. Thằng con trai thứ hai cũng từ trong giường nhảy ra ôm chặt lấy một bên chân: "Bố về rồi à?" Thì ra theo lời vợ hắn kể, từ một tháng nay cả cơ quan đều biết tin chuyến thuyền ra đảo tám chiếc đã bị bão và tàu địch đánh bật ra biển Ðông, thuỷ thủ và khách ra đảo chết trên tám chục người, chỉ còn có dăm người sống sót (thật ra là chuyến trở lại đất liền vào đêm sau của tám cái thuyền đã đưa bọn hắn ra đảo). Tin nói nhỏ nhưng chắc chắn lắm, chỉ còn đợi thông báo chính thức sẽ làm lễ truy điệu. Vợ hắn nói mẹ và thằng con lớn đang ở trại trẻ chưa được biết nhưng bà cụ đã ngờ rồi vì những cái nhìn không thẳng thắn của các bà cụ khác cũng theo cháu đi sơ tán và những lời hỏi thăm nhiều ý tứ của bố mẹ những đứa trẻ tới trại thăm nuôi con mỗi tuần. Và bà đã khóc với con dâu. Nếu hắn chết thật thì vợ hắn nuôi nổi làm sao hai đứa con, rồi nó cũng còn trẻ chả lẽ ở vậy nuôi con tới già, thời xưa là thế, nhưng thời bây giờ đàn bà goá sống với đàn ông con trai trong một cơ quan, nói đùa nói tục từ sáng tới tối, giữ được thân còn khó hơn đi trên chông nhọn. Trong một gia đình mất một người đàn ông là mất tất cả. Con dâu đi lấy chồng, con cái về với bà nội, một nồi cơm trộn với mì sợi, một đĩa rau muống luộc và bát nước chấm là nước rau đánh cà chua pha muối, mắt hắn đã từng được chứng kiến, nên sự trở về của hắn gần như một phép lạ, trong một thoáng tất cả lại trở về cái trật tự bình yên như trước đây. Ðêm ấy hắn lại nghĩ những người bạn trong cơ quan lên đường vào chiến trường B2 từ năm 1962, thấm thoắt đã ba năm. Trường hợp của Nguyễn Ngọc Tấn gần như là một biểu tượng của sự chia ly thời chiến. Năm 1955, Tấn tập kết ra Bắc vẫn để lại một người vợ ở Sài Gòn hoạt động nội thành và một đứa con gái do ông bà ngoại nuôi. Bảy năm sau Tấn lại trở vào Nam, để lại một người vợ ở Hà Nội (vì Tấn đã ly hôn với vợ cũ do thiếu những tin tức chính xác về một trường hợp nếu Tấn còn sống chắc anh sẽ rất ân hận) và anh cũng phải một lần nữa nghiến răng dứt áo lên đường, không dám nhìn lâu đứa con trai mới được vài tháng tuổi. Và con nhiều bạn hữu khác nữa, cả ông Nguyễn Văn Bổng, anh ấy vào chiến trường tuổi cũng đã lớn, anh hơn bọn hắn cả chục tuổi, để lại ở Hà nội một gia đình cũng đông đảo. Cho nên cái vui đã thoát chết một lần, lại được về với vợ với con thêm một thời gian nữa, gần như là một tội lỗi khi nghĩ tới những người đang ở xa và chưa biết đến bao giờ mới trở về.
Năm 1967, hắn tới một đại đội công binh anh hùng chốt giữ một đoạn đường chiến lược trên đất bạn, khi xe dừng lại ở một đoạn đường heo hút, không còn nhìn thấy gì ngoài một biển mây và sương sáng trắng ánh trăng, tham mưu phó trung đoàn ở trong buồng lái mở cửa xe nhảy xuống, nhìn vào thùng xe có hắn ngồi trong đó, hét to: "Anh K., đến rồi đấy!" Hắn choàng tỉnh dụi mắt xách ba lô nhảy xuống, cặp chân cứng đơ như chân giả, hỏi lại: "Ðã đến rồi hả?" Người kia rút một điếu thuốc Ðiện Biên châm lửa cho hắn hút, nói thì thào: "Chúc mừng chuyến đi an toàn, tất cả chúng ta đều khoẻ mạnh, an toàn". Hắn rít một hơi thuốc quá ngon, đáp hững hờ: "Ðã vào chiến trường bất cứ lúc nào mà chả gặp nguy hiểm". Tham mưu phó cười mỉm, vẻ bí mật: "Chuyến đi này cái nguy hiểm dính chặt vào mỗi chúng ta từng giây kia". Hắn hỏi, giọng đã tỉnh hẳn: "Có gì đặc biệt hả anh?" Tham mưu phó nhe răng cười, chỉ thấy hàm răng mờ trắng trong đám râu: "Cái thùng xe của ta chở toàn kíp mìn. Anh ngồi trên những thùng kíp mìn cả tuần nay đấy chứ!" Người hắn như đột ngột hạ nhiệt độ, lạnh toát và bắt đầu run, nhưng mọi sự đã thuộc về những đêm trước rồi. Sau này mỗi lần nhớ tới chuyến đi hắn lại nghĩ ngay đến cuốn phim nghẹt thở của Pháp được xem vào cuối những năm 50, Salaire de la peur (Ðồng lương khủng khiếp), một cái xe tải chở những thùng chứa đầy một chất lỏng chỉ cần va mạnh là nổ, lại thấy đầu ngón chân, đầu ngón tay buốt lạnh. Hắn về đến Hà Nội khoảng 6 giờ chiều ngày chủ nhật, xe dừng ở cuối phố Lò Ðúc có căn hộ của thằng em ruột, vì các gia đình ở chân cầu Long Biên phải sơ tán cả phố. Ðứa con trai sau bị suyễn nên không gửi trại trẻ được, ngày ngày theo mẹ lên cơ quan sơ tán ở nhà Ngân hàng trung ương, là một khối nhà xây bằng đá đồ sộ, có một tầng hầm dài rộng như một dãy phố. Hắn chỉ buồn con hắn đã lên bẩy mà chưa nhận được mặt chữ. Ðường phố buổi tối đông người dần, đèn đường đã bật sáng nhưng vàng tối như đèn dầu. Con hắn đứng ở cửa, cổ đeo dây chìa khoá, nó chờ mẹ từ chỗ sơ tán thăm bà nội và anh về chứ không nghĩ là bố sẽ về. Nó bước lại nắm chặt lấy tay bố nó, mặt rạng rỡ: "Bố về! Bố có mua gì không?" Hắn cười: "Ở chỗ các chú bộ đội chỉ có mìn với bộc phá chứ có gì mà mua. À, có rất nhiều kíp mìn nữa, nhưng trẻ con không được chơi kíp mìn".
24.
Cuối năm 1968, Mỹ ngừng ném bom miền Bắc. Ðầu tháng 11 hắn lên trại trẻ đón đứa con trai sau về Hà Nội. Nó vẫn lên cơn hen mỗi dêm, vì trời đã bắt đầu lạnh. Ở với bà nội không chừng bà sẽ ốm theo cháu. Cuộc chiến tranh phá hoại kéo dài bốn năm chỉ mới tạm dừng vì cuộc chiến tranh lớn vẫn chưa kết thúc, nhưng dứt tiếng bom đạn một ngày là vui được một ngày, ngày sau lại bom lại đạn cũng chả sao. Từ năm 15 tuổi cho tới năm 38 tuổi chưa có ngày nào hắn được sống trong cái cảm giác hoàn toàn yên ổn, có thể hình dung một cách chắc chắn những năm tháng thuộc về tương lai. Tương lai một cá nhân, một gia đình phụ thuộc vào tương lai của đất nước. Một đất nước trên hai chục năm luôn chao đảo trong sóng to gió lớn. Ðánh thắng Pháp mới chỉ thắng có một nửa, còn một nửa nước Mỹ sẽ thay Pháp giữ chặt lấy, sẽ trở thành thuộc địa mới của Mỹ với tay sai mới, quân quyền mới, thế trận mới. Mỹ không phải là Pháp nhá, nên trận chiến mới này sẽ có nhiều gian nan, trở ngại không thể ngờ, không chỉ ở trong nước mà cả ở ngoài nước vì Mỹ vẫn là bá chủ hai phần ba thế giới. Nước mình sẽ là cái gì trong sự tính toán vị kỷ giữa các cường quốc trên bàn cờ chiến lược. Sống ở Hà Nội ngay từ năm 1962 đã có nhiều người trong cơ quan đeo ba lô lên đường vào các chiến trường phía nam rồi. Cuộc chiến tranh mới đã bắt đầu nhen nhóm. Những người ở lại tuy ngày ngày vẫn về nhà ăn cơm với vợ con, đêm đêm ngủ cạnh vợ nhưng trong lòng đã mất hết mọi yên tĩnh, đã hoá ra bất an vì chả ai có thể ngồi yên khi bạn bè lần lượt đi vào các chiến trường. Vả lại một thế hệ lớn lên trong chiến tranh, lập nghiệp, lấy vợ sinh con trong chiến tranh lại không được sống dài ngày ở những nơi cuộc chiến đang diễn ra ác liệt thì cũng không thể hiểu hết được cái khả năng chịu đựng và thích ứng của chính mình và những người đương thời.
Cho nên Mỹ vừa ngưng ném bom miền Bắc được một tuần là hắn lao vào Quảng Bình, Vĩnh Linh ngay. Hắn muốn được sống ở Vĩnh Linh ít ngày, tuy không còn bom đạn nhưng đám cháy chỉ vừa mới tắt ngọn, tàn đỏ vẫn chưa lụi hẳn, khói bom vẫn chưa tan hẳn, những mất mát còn nguyên vẹn, những nỗi đau cũng còn nguyên vẹn, không chừng cái đau lúc này còn day dứt hơn vì đã có một khoảng thời gian yên tĩnh để ngấm nghía về những cái đã mất đi mãi mãi của một gia đình. Hai bên bờ sông Gianh đã có những túp lều mới dựng bán nước, xôi, thuốc lá. Ngồi ở quán chờ phà đã được nghe bao nhiêu chuyện, chuyện còn mới cả, nói rằng trẻ con ở các xã Hương Thuỷ, Hương Dũng chăn bò chăn trâu ở vùng đồi nghe tiếng máy bay tới gần vẫn bình thản như không, tới lúc một đứa hô: "Hướng 34, tăng độ cao, chui vô hầm ngay!" lúc đó chúng mới tản ra nhảy xuống hầm. Một ông nói, chúng tôi làm giao thông hào từ giáp Quảng Bình đến tận sông Bến Hải khoảng hai chục cây số từ Vĩnh Tú, Vĩnh Nam, Vĩnh Hoa đến Vĩnh Tân, Vĩnh Giang, Vĩnh Quang. Lại có giao thông hào liên thôn, liên xã. Trong năm 1968, toàn dân Vĩnh Linh không ai đi trên đường cả. Một người khác nói, dân chúng tôi chỉ có một nghề đi bể, nó đánh bể thì làm lộng, trong lộng cũng bị đánh thì làm cá trên sông nhưng gặp khó khăn về thuyền, về lưới, về cách làm. Sông có bom từ trường thì đi câu ở ruộng, làm lưới nhỏ trên ruộng, làm vẫn đủ ăn. Buổi chiều qua Ðồng Hới, cổng thành Ðồng Hới như bị chẻ đôi. Nhà máy gỗ sát cầu Dài mất hẳn. Thanh Hoá, Vinh, Ðồng Hới trở nên giống nhau vì tất cả chỉ còn là những đống gạch vụn. Chiều hôm sau qua phà Quán Hàu, rất nhiều thuyền chở gạo trên sông Nhật Lệ, mỗi thuyền chở khoảng 5 tấn. Bộ đội trùm vải dù vác các bao gạo 50 cân chuyển lên xe. Mấy cô nhà thuyền ngồi ở mũi thuyền xé cua bể nấu cơm chiều, nói chọc nói ghẹo gì đó mấy anh bộ đội rồi họ cười lanh lảnh, tiếng cười trong trẻo vô tư vang vọng cả một khúc sông. Những cánh buồm trắng và nâu chạy lờ lững ngoài sáng một đoạn dài rồi như bị hút vào vùng tối huyền bí của chân núi. Khung cảnh sông nước vào lúc chiều đã có cái buồn hiu hiu của một ngày thanh bình, một ngày sống bình thường như những ngày chưa có chiến tranh. Ðêm đó hắn ngủ tại nhà hầm của khu đội Vĩnh Linh, được chủ nhà đãi một bữa cơm thịnh soạn, tuy chỉ có một con gà luộc chấm muối và hạt tiêu xanh và một bát nước dùng lơ thơ vài cọng hành, không có rau, đến cỏ và lá tre cho trâu bò ăn cũng hiếm nói gì rau. Còn thiếu rau xanh hơn cả đảo Cồn Cỏ năm nào. Ngồi trò chuyện một lúc thì có hai o dân quân tới thăm. Một o tên là Lương, một o tên là Phú, đều ở tuổi 19, họ đã dùng đại liên 12 ly 7 bắn rớt một máy bay F4H vào tháng 11 năm 1967. O Lương kể : " Khoảng 5 giờ chiều, trời hơi mù, có hai chiếc F4H bay rất cao rồi một chiếc lao thẳng xuống trận địa, bọn em đã lấy sẵn góc độ, tầm hướng rồi, nổ súng luôn. Ðạn bay từ dưới lên một cột thẳng rồi toả ra như bông sen chụp lấy thân máy bay. Máy bay xịt lửa, kéo vệt lửa bay đi, bản đồ và ghế phi công rơi vào nhà hầm của khu hội phụ nữ, còn thằng phi công nhảy dù xuống Gia Ninh cách trận địa khoảng ba cây số". Khu đội trưởng Vĩnh Linh nói tiếp: "Tôi đứng ở cửa hầm ngó xuôi cũng đã biết có một F4 trúng đạn nhưng không rõ là bộ đội bắn hay dân quân miềng bắn, một lúc thì thấy hai con nhỏ Lương và Phú chạy lại, người trắng toát như không còn máu kêu thét từ xa: "Tụi em bắn rớt máy bay rồi đó!" Tôi phải nói ngược lại để tụi nó khỏi mừng quá mà đứng tim: "Tụi bay nói trạng, tao có thấy chi mô?" O Lương phải báo cáo thêm, tụi nó bắn có 36 viên đạn, báo luôn cả góc độ tầm hướng, và nhắc cả con heo bốn chục ký mà uỷ ban đã hứa thưởng cho đội nào bắn rớt mày bay". Hắn hỏi: "Lần đầu bước vào cuộc chiến đấu các o có thấy sợ không?" O Phú nói rất sợ, năm hoà bình Vĩnh Linh thuộc miền Bắc, là vùng đất tự do, bọn họ mới có 6 tuổi, có nghe tiếng nổ, có nghe nói người chết vì bom đạn nhưng ở xã khác, mắt chưa thấy người chết bao giờ, mãi tới năm 1965 mới nghe tiếng máy bay gào rú trên đầu, bom nổ chỗ này chỗ kia, gà bay, lợn kêu, chó chạy, người cũng chạy quáng chạy quàng cả, lần đầu giáp mặt với chiến tranh mà. O Lương đã suýt chết một lần vào năm 1966, bom nổ cạnh hầm, đất phủ lên hầm còn thiếu ba tấc đầy bẩy mét (?) Ðào đến 12 giờ đêm vẫn chưa tới, lúc kéo người lên phải cạy máu đông ở miệng, nằm đúng mười chín ngày mới lò dò đi lại được. O Phú lại kể chuyện bắt phi công Mỹ cuối năm 1965, vào giờ giữa trưa, nhìn thấy cái cẳng thằng phi công đu đưa đu đưa dưới cái dù, bu xung quanh có hàng chục cái trực thăng, phản lực bay rầm trời rầm đất. Nhưng cái dù lại rơi vào trong rú, Phú lao theo cứ nhìn dấu giầy mà vọt đi, tới một bờ sông trong rú thì nhìn thấy cái lưng nó, trong súng có năm viên đạn, bắn theo một viên cảnh cáo, nó ngồi thụp xuống co người lại, bắn luôn hai phát nữa rồi chạy tới lấy cái đài con đeo bên người nó, lấy dây dù lúc nào cũng sẵn trong người để trói biệt kích, trói hai khuỷu tay quặt ra sau nhưng không bắt cởi giày, cũng không bịt mắt, nó đi chậm thì nó cực mà mình cũng nhọc. Nó trẻ lắm, chỉ hơn em khoảng một hai tuổi nhưng rất to con, cũng phải nặng hơn tạ, nó ăn bơ uống sữa dư đủ chứ đâu có ăn rau ăn khoai mà vẫn không được no như mình. Hắn nghe chuyện chả ghi chép gì cả, cứ nhìn chằm chằm hai cô gái xạ thủ của đất lửa, trạc tuổi vợ hắn lúc mới làm quen nhau, hắn 24, vợ hắn 19, dáng người cũng gọn gàng như thế nhưng vợ hắn trắng hơn, hai o này da ngăm ngăm nâu nhưng cái cười thì giống hệt, tươi tắn, dễ gần. Và cả hai đều có những bàn tay, bàn chân rất to như chân tay của nam giới. Hai cô gái ở một vùng đất đã thành bùn thành bụi vì bốn năm bom đạn, không còn nhà, không còn cây, không còn những vạt rau xanh, nhưng ruộng cấy lúa vẫn còn, trước mắt hắn là những cánh đồng lúa đang vào gặt vụ mùa, thì sự có mặt của các o dân quân đã làm dịu hẳn, tươi hẳn cả một khung cảnh chết chóc, khô cằn. Họ đẹp từ khuôn mặt, dáng đi, giọng nói, tiếng cười và cả những bàn chân, bàn tay hơi thô cũng vẫn rất ưa nhìn, như là tặng vật của ông trời vẫn dành lại cho một vùng đất không bao giờ chết, không bao giờ bị huỷ diệt. Nếu chỉ nhìn cảnh tượng trên mặt đất của các xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Thuỷ, Vĩnh Chấp thì quả là cuộc sống đã bị huỷ diệt như mình đã bị ném lên mặt trăng vậy. Nghe anh em kể có những tháng của năm 1968 cả khu vực Vĩnh Linh chỉ thấy khói và bụi bom bao bọc cả bốn phía như cả hành tinh đã bốc thành khói, khói quẩn suốt ngày, bụi khói như bụi đất dính vào người có mùi khét. Bom rải thảm của B.52, bom sát thương, bom đào khoan, bom bi, có đêm nó nã pháo tử Cồn Tiên, Dốc Miếu sang tới 5000 quả, bắn suốt đêm, có ngày có 95 lần chiếc B.52 rải bom từng đợt, giờ nào cũng có từng tốp B52 bay ì ì trên trời, rồi chớp xanh chớp trắng nhấp nhoáng trong khói khắp mặt đất. Nhưng không nghe thấy tiếng nổ vì hai tai đã ù đặc, rồi mắt cũng như bị loà bị mù vì khói, không thở được, không nói được vì khói, cũng không chạy được vì chân tay như đã bị những vòng khói siết chặt. Có một chuyện nghe như đùa mà là chuyện có thật. Một bà mẹ đã ngoài bảy chục tuổi chui vào hầm chữ A đào ngay trong nhà. Bom nổ, nhà bị sập, hầm bị lấp, đang cho người vào kéo bà lão lên thì bà nói vọng ra: "Ðể mẹ ăn xong miếng trầu rồi ra". Dân Vĩnh Linh vốn nổi tiếng là dân nói trạng mà! Có một điều làm hắn rất kinh ngạc là Vĩnh Linh lấy đâu ra người mà gánh vác quá nhiều việc. Vì nhiệm vụ chính của lực lượng dân quân không chỉ là bắn máy bay mà còn sản xuất và chuyển hàng từ Bắc vào Nam qua sông Bến Hải. Chỉ trong chín tháng của năm 1968 đã phải huy động 136 ngàn công chuyển hàng từ Bắc vào Nam. Lại còn công làm giao thông hào liên thôn, liên xã, công làm trận địa pháo cho bộ đội, công lấp các đoạn đường bị bom đánh cho xe qua, bao nhiêu là việc mà nhìn quanh quẩn đâu có thấy người. Trong một đêm ngày 3 tháng 2 năm 1967, dân quân xã Vĩnh Thuỷ nhận lệnh làm 8 cây số đường, 3 cầu và 3000 gánh bổi lót đường cho xe pháo ra gần mép biển đánh tầu chiến. Rồi còn phải tiếp tục đào địa đạo nữa, mỗi chiếc cuốc chim ngắn cán, một cái xẻng lưỡi sắc như dao cạo cũng ngắn cán, một cái rổ, mấy chục mét dây chão và một cái trục quay, đêm nào cũng phải đào, có đoạn đào sâu 20 mét, có đoạn sâu 30 mét, đào ở mọi hướng mà đều có điểm để gặp nhau thành các ngã ba ngã tư như một thị trấn dưới lòng đất. Trên mặt đất như vùng đất chết, dưới lòng đất vẫn là một Vĩnh Linh đang sống, đang chiến đấu, có những trạm y tế kiêm nhà hộ sinh, có vườn trẻ, có cả câu lạc bộ biểu diễn văn nghệ, chả học kinh nghiệm nơi nào cả, thấy cần là làm, vừa làm vừa học cách làm và học cả cách sống dưới lòng đất. Tới đâu cũng gặp các cô gái, một thế giới toàn phụ nữ đảm đang đủ mọi việc của thời chiến, vẫn cười đùa, vẫn làm duyên làm dáng và đôi lúc vẫn nghĩ tới chuyện chồng con. Trong chiến tranh vẫn lấy chồng được, vẫn sinh con được, chứ đâu phải đợi tới ngày thống nhất đất nước! Mười năm nữa chiến tranh mới kết thúc thì thành bà già cả bọn sao? Một cảnh tượng dọc đường đến xã Vĩnh Chấp làm hắn nhớ mãi. Một hố bom lọt vào giữa bốn cây mít, rễ sát đất đều bị tiện cụt mà cây vẫn sống, một đàn lợn teo tóp như một lũ chuột leo lên tụt xuống quanh miệng hố bom. Một bãi bùn với những thân cây cháy đen bị tiện ngang, trơ trụi, lầy lội. Một cái nhà sát miệng hầm bị cháy từ lâu, mái tranh lợp trên như mới cắt nửa xanh nửa vàng, có một cây cột điện vẫn còn nguyên các bình sứ cách điện đưa vào làm cột chống mái nhà. Bếp đun ở cửa hầm, có một cái chạn, mấy cái rá, có cả một cái liễn bằng đất nung. Một điểm sống đã nhú lên trên vùng đất mặt trăng sau ngày ngừng bắn phá mới khoảng mươi ngày chứ mấy. Một anh bộ đội ở đường 9 vào xã mua chè, đội mũ tai bèo cũng là khăn lau mồ hôi, đeo đủ thứ quanh người, cái nào cũng có vỏ bọc vằng vải bạt, đang kể chuyện cho mấy o dân quân nghe về dốc Bà Ðịnh, dốc Anh Trỗi, dốc Anh Bé. Anh ta nói năm 1965 mới vào chiến trường đã bị sốt rét ngay, cặp nhiệt độ lên tới 42 độ người đã mê đi tưởng chết, mà rồi qua khỏi, từ đó chẳng còn ốm đau gì nữa, bệnh chê mà bom đạn cũng chê, chắc là sẽ sống được tới già. Một o hỏi: "Anh bị sốt rét có báng không?", anh kia cười, hàm răng trăng bóng: "Leo dốc thót bụng lại, thở lên đến ức lấy đâu ra báng!" Hắn đến xã Vĩnh Linh chỉ để nghe công tác đảm bảo giao thông trên các trục đường qua địa phận của xã. Một hố bom trên mặt đường phải bỏ vào đó 550 gánh bổi, hai mươi mét khối đá và gạch, chặt cả cây cối, hòm tủ ném xuống hố bom. Vẫn không đủ, sau phải dỡ cả nhà đưa ra mặt đường, nhà bí thư, chủ tịch đập trước, sau đó là nhà của dân, phải đăng ký để đập nhà từng đêm, chứ đập sạch bữa sau lấy gì mà lấp. Có nhà chị Mẹt, chồng cụt chân, năm con dại, nhà ba gian mới làm cũng xin cho dân quân vào đập. Xã phải ngăn: Từ từ, chiến tranh còn dài, mần một lần, làn sau lấy chi mà mần. Bà con có quyền đăng ký nhưng không có quyền tự đập nhà". Hắn ngồi với một nhóm dân quân bất ngờ được gặp cả giờ, hỏi đủ mọi chuyện. Một o mặt hơi rỗ mà vẫn xinh lắm, giọng nói như hát hỏi hắn: "Eng là phóng viên mặt trận à, da eng trắng rứa chắc là mới đến Vĩnh Linh lần đầu?" Hắn nói, cũng là ngượng quá nên phải khoe: "Năm 65 tôi có đến Vĩnh Kim đợi thuyền ra Cồn Cỏ nên không đi được nhiều trong đất liền". Ánh mát cô bé dịu lại, thân thiện: "Bọn em cũng ao ước được ra Cồn Cỏ để phục vụ các anh trên đảo nhưng chưa có dịp nào". Hắn lại nói: "Ở trên đảo chỉ toàn là đàn ông thôi, các o mà ra đó lên ngôi nữ chúa hết!" Cô bé lại cười: "Chu cha! Sướng hí, ở trong ni chỉ có ông già mụ lão với bọn con gái chúng em thôi, đàn ông con trai đi sạch nên mọi việc ở nhà bọn em phải làm hết". Cô bé nói tiếp, mỗi lần nghe xã giao việc người cứ chết lặng vì lo, người còn một nhúm mà trăm thứ việc, lấy người đâu làm, làm lúc nào, không ăn không ngủ cũng không có thời gian để làm; ví như có lệnh trong ba ngày phải mở 10 cây số đường cát, đào 250 hố cá nhân, làm ba trận địa để bộ đội đưa pháo ra mép biển. Người giao việc cứ nói như không, bọn em phải mọc thêm mấy chân mấy tay để làm cho tròn mọi việc. Mà vẫn còn mấy chục mẫu ruộng chưa cấy, vẫn còn mấy trăm tấn gạo để gần bến phà nội trong một đêm phải bốc hết lên xe, lại còn người đi tải đạn, người đi cáng thương binh... Rồi cô gái kết luận: "Việc của bọn em các anh bộ đội đóng quân ở đây chỉ nhìn cũng đủ ngán. Chỉ có nữ mới làm được thôi, làm không tính tới ăn, không tính tới ngủ, làm hết ngày này qua tháng khác suốt bốn năm nay, không nghỉ ngày nào, không đau bệnh ngày nào, mấy anh có làm được như bọn em không?"
Nguyễn Khải
Thuợng đế thì cười (kỳ 10)
25.
Sau chuyến đi vào Vĩnh Linh hắn thương vợ hơn, tôn trọng vợ hơn, và tự nhận vợ hắn quả đã có công lao rất lớn trong cái sự nghiệp văn chương của hắn, là một nửa sự nghiệp của hắn. Hắn vốn lười, lại kém tháo vát ở những việc không tên, lại sống trong cái thời nửa chiến tranh nửa hoà bình mọi thứ đều thiếu thốn. Trong gần hai chục năm gia đình hắn chỉ có mỗi cái quạt tai voi dùng trong mùa hè, cái quạt về sau lại hỏng một bộ phận nào đó không quay được, cứ chĩa thẳng về một phía mà thổi gió nên trẻ con nằm vài ngày là ho sốt ngay, nên vợ hắn phải dùng quạt nan quạt suốt đêm. Nghĩ lại cái cảnh tượng ngủ trưa mùa hè ở Hà Nội vừa thương vừa nhớ, ba con nằm ba góc chiếu, chồng nằm trên nền đất, còn vợ nằm ghé nửa chiếu nửa đất, cái quạt nan trên tay phe phẩy không lúc nào ngưng, lắm lúc buồn ngủ quá vợ hắn vật cánh tay cầm quạt lên người chồng, là hắn đã cằn nhằn: "Em ngủ rồi à, không quạt nữa à?" thế là cánh tay cầm quạt lại nhấc lên, hơi gió lại thoang thoảng bay qua người và hắn lại tiếp tục ngủ. Nói cho cùng vợ hắn lấy hắn, rồi về sống ở Hà Nội, lại làm cái nghề liên quan đến nghệ thuật là sự lựa chọn nông nổi. Lầm lẫn tai hại. Ðất Hà Nội và đất nghệ thuật cần cái giả dối hơn là cái chân thật, vui buồn giả dối, nhan sắc giả dối, học vấn cũng giả dối, mọi sự giả dối ấy đều rực rỡ, loé sáng dưới các lớp đèn mầu của thành phố và cái thật thà, cái hồn nhiên, cái mộc mạc của những vừng quê hoá ra thô lỗ, hoá ra vênh váo, không thể ăn khớp trong cái guồng máy nịnh người, lừa người của cuộc sống thành phố. Vợ chồng hắn sống với nhau đã 45 năm, vợ hắn cũng đã là người của thành phố từng ấy năm mà vẫn không bỏ được thói quen mời khách ăn cơm là cầm cả bát cơm lẫn đôi đũa ấn vào tận tay khách, cứ như vẫn bày cơm trên nia trên mẹt đặt dưới đất của cái thuở xa xưa nào. Mới lấy nhau chồng đã dặn vợ ăn cơm ở thành phố khi nhai không nên há to miệng, không nên nhai cơm, húp canh, cắn cà thành tiếng vừa khó nghe vừa khó nhìn. Lại cãi người ăn chứ có phải ma ăn đâu mà không có tiếng động, với lại có đi ăn cơm khách bao giờ mà phải quá giữ ý, còn khách đã mời đến nhà là khách thân cả, chồng thành phố vợ gái quê ai chả biết. Người già lục phủ ngũ tạng tanh bành hết duy hàm răng vẫn trắng đều, vẫn khoẻ, cắn miếng cà nghe cứ giòn tan, các con nhìn nhau cười, còn chồng thì nhăn mặt, gần năm mươi năm ngồi ăn cơm với nhau mỗi lần nghe vợ cắn quả cà anh chồng vẫn cứ phải nhăn mặt. Ðã bảo vợ sống ở thành phố phải biết che đậy, biết giả dối, chả hại ai cả chỉ để giữ mình khỏi thành trò cười thôi. Dạ vâng một hồi lúc tối, sáng hôm sau vẫn sống nguyên như cũ, bảo không thể sống khác được, ăn khác đi ăn không ngon, nói khác đi nói không xuôi, vậy biết làm sao hở trời! Ði lĩnh gạo ở bếp ăn của chồng, thấy bạn chồng đứng chơi ở cổng Tạp chí Văn nghệ Quân đội là xuống xe ngay để vào chào. Một người hỏi: "Cái thằng ấy không lấy gạo giúp vợ lại bắt vợ tới lấy à?" Thế là nói một thôi một hồi, nào anh ấy bận viết, nào anh ấy lười, mọi việc nhà đều đùn cho vợ, vợ đẻ cũng trốn, con đau cũng trốn, trốn đi tỉnh, trốn vào ngủ ở cơ quan, nhà em là sướng nhất đấy! Bạn của hắn đều là lính cả, lính đã đùa thì gái thành phố còn phải hãi nói gì gái quê. Nên họ mới nói rằng họ không bao giờ bắt vợ phải làm việc nhà, không bao giờ bắt vợ xếp hàng đi chợ hoặc tệ hơn bắt vợ đi lấy gạo ở bếp cơ quan. Vợ họ là những bà hoàng, chỉ có sinh con, nuôi con vì đàn ông không thể thay được nên đành chịu để vợ phải chịu cái đau, cái vất vả một mình. Ðể bù lại họ đã... Họ nói đùa nói giỡn nhưng vợ hắn lại nghĩ là thật cũng giận chồng mất mấy ngày vì chồng đã coi mình như con ở, không tôn trọng vợ, giúp đỡ vợ như các bạn của chồng. Nhưng khi hắn hỏi: "Vậy mấy bà ở quê em, là các bà chị của em, chồng đi đánh Pháp suốt tám, chín năm, ở nhà nuôi con một mình, vừa chạy giặc càn, vừa chạy bữa ăn thì trách ai?" Thế là cúi mặt, tủm tỉm cười: "Chuyện! Thời xưa khác thời nay khác". Hắn được thể lại nói: "Thế thời nay không phải là thời chiến tranh à? Một dãy nhà này đã có ba bà vợ nuôi con một mình để chồng đi B, các bà ấy than thở với ai?" Thế là im luôn, thì đã bảo vợ hắn vốn nhẹ dạ cả tin mà. Ở thành phố, lại sống trong giới nghệ thuật, đôi lúc cũng nên nói dối một tí cho bạn vui, mình cũng vui, như một thứ tra dầu, bôi mỡ cho cỗ máy sinh hoạt chạy êm hơn, nhẹ hơn. Chả hạn, bạn cho sách, gặp lại nhau nên nói dối một tí: "Mình mới đọc một lượt, có ấn tượng tốt lắm, để đọc thêm một lần nữa mới có ý kiến được" hoặc " Ðọc rồi, cuốn này viết được lắm; thích hơn cuốn trước". Nghe bạn bè nói thế mình nói theo một câu; chả mất gì mà bạn lại vui. Hoặc gặp một cô bạn làm nghề ngâm thơ, đọc truyện đêm khuya, cũng nên khen dối một câu là giọng vẫn truyền cảm lắm, giọng vẫn đẹp lắm, hoặc cô bằng tuổi vợ tôi, mỗi lần gặp cô về nhìn lại vợ thấy bà ấy già hẳn. Dẫu cô em có thét lên: "Ðừng có nịnh! Cái miệng ông nói ai mà tin!" Nói thế nhưng mà thích lắm đấy, vui lắm đấy. Ðó là nghệ thuật sống của những người ở thành phố. Hắn cũng đã bảo vợ chớ nên thật thà quá, thật quá là lạc điệu, thi thoảng cũng nên nói dối một tí cho giống với mọi người. Và vợ hắn đã tập nói dối, với ai, với ông Hữu Mai là một ông đùa không cười, một người hay nói dối như hắn cũng không dám nói dối với Hữu Mai. Ông Hữu Mai hỏi: "Anh ấy vừa có cuốn sách dầy lắm, chị tiêu làm sao cho hết tiền nhuận bút?" Nghĩ là bạn chồng nói thế để hỏi vay tiền, vợ hắn vội nói: "Chả được bao nhiêu đâu anh ạ, cầm về có ít lắm". Lại hỏi: " Ít lắm à, có được một ngàn không?" Chối ngay: "Làm gì được nhiều thế hả anh? Chỉ có mấy trăm thôi". Ông đùa không cười nhăn mặt đầy vẻ thông cảm: "Họ tính toán thế nào mà lạ thế nhỉ? Như chúng tôi một cuốn sách gần hai trăm trang phải được lĩnh chín trăm mấy chục đồng tiền nhuận bút. Anh ấy tính hiền quá nên họ dễ bắt nạt, chứ nhầm lẫn gì mà lại tính hụt tới quá nửa số tiền có thật. Anh ấy không dám nói thì để tôi nói cho, chiều nay tôi sẽ sang hỏi đám tài vụ của nhà xuất bản giúp chị". Cái số tiền ông Hữu Mai nói đúng cả số chẵn lẫn số lẻ nên mặt vợ hắn vừa đỏ vừa tái, vội thanh minh cho chồng: "Chắc là nhà em mới đưa cho em một ít, chưa đưa cả". Ông bạn chồng lại ra vẻ giận dữ: "Hắn giữ lại một nửa để làm gì, để cho gái hả, cái thằng ấy thế mà hỏng, ông Vũ Cao biết chuyện là kỷ luật nặng đấy!" Lại cuống quýt thanh minh một lần nữa: "Chắc không phải đâu, có khi nhà em đưa cho mẹ em giữ cũng nên". Vẫn chưa buông tha: "Chị cũng phải hỏi bà cụ cho biết chứ, hơn sáu trăm bạc đâu phải ít tiền. Chị không dám hỏi cứ để tôi hỏi". Hỏi mẹ chồng một số tiền mà cả vợ lẫn chồng đều chưa nói tức là muốn giấu, còn chết nữa! Chả lẽ vợ hắn phải oà khóc và thú nhận là đã nói dối. Thấy cô gái quê đến nói dối cũng không biết cách nên ông hay đùa nghĩ cũng thương tình: "Trong mấy ngày tới chị phải hỏi anh ấy xem đầu đuôi thế nào. Bọn tôi đã lĩnh tiền nhuận bút là phải đưa hết cho vợ, có cần tiêu gì lại xin vợ chi cho. Vợ là nội tướng mà lại!" Tối về nghe vợ kể lại câu chuyện đối đáp với ông Hữu Mai, hắn vừa giận vừa buồn cười. Khốn nạn ai bảo lấy vợ nhà quê đem lên thành phố làm gì, lại sống chung với những người làm văn làm báo làm nghệ thuật mới thành trò cười cho chúng bạn. Vợ hắn cũng là diễn viên đoàn kịch nói của quân đội được mấy năm, diễn vai nào cũng hỏng, giọng thì mượt mà nhưng không biết cách diễn, ra sân khấu đi lại cười nói cứ cứng đơ, đành phải vào vai ma, trùm một cái khăn xô trắng từ đầu tới gót, bước qua bước lại trong cái tranh tối tranh sáng, hoặc vào vai quần chúng hò hét, nói qua nói lại dăm ba câu trong đám người lố nhố ở một góc sân khấu. Thì vẫn cứ là người làm nghệ thuật, vẫn phải học nghề làm nghệ thuật, tối về lại hỏi chồng ông đạo diễn Nga này là người như thế nào, ông viết kịch Ðức kia là người như thế nào, và rất nhiều thuật ngữ của nghề diễn mà hắn cũng chỉ mới được nghe lần đầu. Hắn tuy là người viết văn nhưng lại rất sợ bàn chuyện văn chương và những lý luận này khác của văn chương. Hắn chủ trương chấp nhận mọi phong cách nghệ thuật, mọi cách nhìn, mọi quan điểm rồi tuỳ cái tạng của mình mà thâu nạp, biến hoá. Vợ hắn thấy chồng trả lời thờ ơ mọi câu hỏi cho rằng hắn là thằng ích kỷ, chỉ muốn tiến bộ một mình, không muốn dắt kéo vợ cùng tiến theo. "Anh sợ vợ anh đầu óc mở mang thì không dễ bắt nạt như trước chứ gì?", vợ hắn đã có lần đay nghiến hắn thế. Hắn liền hỏi lại, chị Sửu ở đoàn chèo có học hành gì đâu, đàn bà đã lớn tuổi mà say sưa tối ngày thì là cái giống loài gì? Vợ hắn nín thinh, hắn lại nói tiếp: "Chị ấy thuộc cái giống loài các nghệ sĩ rất có tài, tài bẩm sinh, em đã xem chị ấy diễn trích đoạn Suý Vân giả dại rồi đấy! Học thế nào được, bắt chước thế nào được mà cũng chả có phương pháp nào, lý luận nào giải nghĩa nổi. Nó là cái huyền bí muôn đời của nghệ thuật". Nhưng vợ hắn không thể nghe ra, không thể hiểu nổi và về già đã nói thẳng: "Anh đã coi khinh tôi, ruồng rẫy tôi từ ngày ấy".
Cũng trong những năm ở đoàn kịch, vợ hắn chả có vai diễn nào khiến người xem phải nhớ, nhưng sau mỗi chuyến đi của đoàn vợ hắn vẫn có thêm rất nhiều bạn bè thuộc nhiều quân chủng mà đoàn kịch tới phục vụ. Có ông cán bộ cấp trung đoàn viết cho vợ hắn: "Trong những ngày được gần gũi đoàn anh chỉ để ý có mình em thôi, mọi lời nói của em đều đẹp, mọi cử chỉ của em đều đẹp, em là đại diện cho mọi vẻ đẹp của các cô gái quê vùng đồng bằng Bắc Bộ..." Cũng như các cô gái vùng đất lửa Vĩnh Linh, họ đều rất trẻ, rất đẹp nhưng là cái đẹp trong hy sinh, trong vô vàn những vất vả của mỗi ngày, cái đẹp trong khói lửa chiến tranh. Nếu kéo các cô ấy ra khỏi môi trường họ đã sống, theo chồng ra Hà Nội để làm một nhân viên cửa hàng mậu dịch hay một cơ quan nào đó thì họ lại trở thành các cô gái nửa quê nửa tỉnh rất khó chịu, rất vô duyên vì họ đã phải chối bỏ những cái vốn là phép mầu của mình để học đòi những cái vốn là khắc tính của mình.
Trong những năm 60 hắn viết rất khỏe, cái nào hắn viết cũng đọc được cả, các nhà phê bình đã nói về hắn khi kết bài là "một cây bút trẻ có triển vọng". Năm 1960 hắn được giải nhất truyện ngắn Một cặp vợ chồng của tuần báo Văn Nghệ. Rồi hắn viết truyện vừa Chuyện người tổ trưởng máy kéo đăng trên Tạp chí Văn nghệ. Năm 1961 hắn đưa in tập truyện ngắn đầu tiên Mùa lạc. Năm 1962 in tiếp tiểu thuyết Xung đột quyển 2. Năm 1963 ra tiếp tiểu thuyết Một chặng đường và các truyện Hãy đi xa hơn nữa, Tầm nhìn xa, Người trở về, Gia đình lớn. Năm 1968 in tiểu thuyết Ðường trong mây.
Nửa năm sau những năm 60 chiến tranh đã lan ra cả nước. Miền Bắc sau mười năm được sống trong hoà bình lại phải đối mặt với bom đạn của chiến tranh, không phải chỉ một vài năm mà sẽ kéo dài tới ngày cả nước đã giành được độc lập và thống nhất. Mình thì quyết tâm thế nhưng Mỹ cũng không thể chịu thua, một cuộc chiến tranh của Mỹ, không chỉ có tiền bạc, sinh mạng lính Mỹ mà có cả danh dự một siêu cường ký cược vào đó. Nên hắn lo lắm. Một đời người phải tham gia những hai cuộc chiến tranh lớn, là cuộc đọ sức dài ngày giữa một nước nghèo và yếu với những nước giầu và rất giầu, mạnh và rất mạnh, quả là ê ẩm. Chả có việc gì được hoàn thành trọn vẹn trong vòng mười năm hoà bình cả, gia đình dang dở, nghề nghiệp dang dở, thậm chí đến chỗ ở, chỗ làm cũng tạm bợ, cũng có thể đổi thay. Và không thể hình dung trong mười năm nữa mình sẽ như thế nào, vợ hắn đã tỏ rõ cái gan lì, cái tháo vát, cái tự lập và coi những vất vả của cuộc sống thời chiến chả đáng là cái gì. Vẫn cười đùa, vẫn làm đẹp theo sự chỉ dẫn của chúng bạn, tính toán mọi việc thản nhiên, bình tĩnh như có thể sống với những cái không bình thường, những cái tạm bợ đến hết đời. Một gia đình bỗng chốc phải chi tiêu những mấy nơi, mẹ và con trai lớn đi sơ tán ở trại trẻ quân đội, hắn có lúc làm việc ở Hà Nội có lúc làm việc ở nơi sơ tán, còn vợ và con nhỏ lại ở một nơi sơ tán khác cùng với cơ quan. Một tuần vợ hắn vẫn phải về Hà Nội một lần, ngủ lại một đêm để sáng sớm hôm sau đến của hàng nhà thờ mua hàng ở các ô phiếu, phiếu thịt, phiếu cá, phiếu nước chấm, cả phiếu đậu phụ cũng phải mua. Thịt lọc nạc làm ruốc hay kho mặn, mỡ rán lấy mỡ đổ vào các lon gigô, cá kho mặn hoặc rán, đậu phụ cũng rán, làm hì hụi cả buổi trong một khu nhà rộng mênh mông chỉ còn lưa thưa vài bóng người, lại là khu dân cư ngay dưới chân cầu Long Biên, cầu lại chưa bị sập nên máy bay quần đảo cả ngày, còi báo động cũng hú suốt ngày, và những tiếng loan báo trên đài máy bay tới gần, máy bay đã bay xa ra rả từ sáng đến tối như đã là một phần của cuộc sống thành phố. Khoảng 3 giờ chiều, vợ hắn buộc các làn túi vào xe đạp lên chỗ trại trẻ đưa thức ăn cho mẹ và thăm con, đi vào những giờ máy bay hoạt động mạnh nhất, cứ đạp xe lững thững, vừa đạp vừa tính toán những việc phải làm, số tiền phải chi tiêu và chương trình sẽ phải đến nơi này nơi kia trong tuần, tuyệt nhiên không để ý đến còi báo động, đến tiếng loa báo xa gần của máy bay, và cả tiếng bom nổ nếu không phải ngay trên đường mình đi, vợ hắn nói với hắn thế. Vợ hắn đến chỗ mẹ và con trời đã xâm xẩm tối, lại lăn vào nấu nướng một bữa ăn tươi, giặt giũ khâu vá quần áo, trò chuyện với gia đình cho bà cháu ở trọ, biếu quà, gửi tiền trọ mỗi tháng, sáng hôm sau lại đạp xe sang cơ quan của chồng, ra chợ mua thức ăn làm một bữa cơm thành phố để chồng và các bạn chồng được ăn ngon một bữa, khoảng gần tối mới trở về cơ quan của mình, tắm rửa và cho con nhỏ ăn, hỏi han công việc phải làm trong ngày mai và những ngày tới. Những công việc của vợ hắn trong năm năm sơ tán cũng là những công việc của chị Vách vợ ông thiếu tá hàng xóm, cũng là gái quê lên tỉnh, học vấn chỉ viết được một chữ ký, suốt những năm ở cùng một dãy nhà hắn chưa bao giờ nhìn thấy vợ chồng họ đi sóng đôi với nhau, cũng không thấy họ đi xem phim xem kịch cùng với con cái (giống hệt vợ chồng hắn). Ông chồng suốt ngày đọc sách, nghiên cứu, viết lách những gì gì, ăn cơm riêng, ngủ phòng riêng như ông chủ. Rồi ông ta phải nằm bệnh viện cả năm vì bị tai biến mạch máu não và chết ở bệnh viện. Hai con trai học hành dang dở, chả có nghề ngỗng gì, sau ngày bố chết thằng anh tự dưng mắc bệnh tâm thần, lúc đi trại, lúc ở nhà, hai đứa con gái xấu xí, lòng khòng, đã hăm mấy tuổi vẫn chưa có thằng con trai nào tới thăm hỏi, chọc ghẹo. Bà mẹ ngày một già đi, sáng sáng đội thúng xôi ra đầu đường ngồi bán cho những người đi làm sớm ăn vội. Bà vẫn cười nói suốt ngày, như đã lấy cái vui thay cho cái buồn, lấy cái cười để át đi tiếng khóc. Truyện ngắn Ðời khổ viết về bà Vách hai chục năm sau chính là chuyện của vợ chồng hắn, là sự tự nhận lỗi và bày tỏ lòng biết ơn đối với vợ theo cái cách của hắn, dẫu sao vợ hắn vẫn may mắn hơn bà Vách vì công sức một đời đã được chồng con đền bù. Nhưng vợ hắn lại không cần được đền bù bằng cái danh của chồng hay sự trưởng thành của con cái, vợ hắn vẫn nói: "Tôi không cần cái danh của anh, cũng không cần tiền bạc của chúng nó, tôi cần cái tình cảm kia, sống được một năm như vợ chồng bác Ðiềm rồi chết tôi cũng hả!" Bác Ðiềm là bà chị ruột của vợ hắn, hơn em gái gần hai chục tuổi, chị sinh con đầu thì mẹ sinh con út, em bú chị, cháu bú bà, mẹ chết sớm thì chị buôn bán nuôi em, coi em như con. Năm hắn lấy vợ thì ông anh rể của vợ đạp xe xích lô, còn bà chị thì buôn bán vặt vãnh ở cửa ga Hà Nội, con cái làm các nghề vất vả nhưng lương thiện và họ không hề hỏi vay tiền vợ chồng hắn bao giờ. Chính hắn cũng thích đến chơi nhà bà chị vợ và ông anh rể, nhà của họ ở trong ngõ sâu của phố Khâm Thiên, hơi lầy lội khi trời mưa và rất chật với một gia đình có những năm người. Mà lại hay bày cỗ bàn mỗi lần giỗ tết, khách mời ngồi chen nhau trên cái phản mộc, còn con cháu trải chiếu ngồi chen chúc dưới đất. Mâm mời khách có mọi đồ xào nấu của một bữa cỗ, còn mâm dưới chỉ có một đĩa thịt ba chỉ luộc, miến xào lòng và một nồi to canh bánh đa nấu với cua. Mà vui lắm, cười đùa rầm rầm, mặt ông lão đã đỏ ửng sau vài chén rượu, bắt đầu nói năng huyên thuyên, bà vợ cũng uống rượu rồi bước ra giữa nhà vừa hát vừa múa vì bà có máu đồng bóng. Con cháu ngồi xung quanh nhìn mẹ nhìn bà hò hét cổ vũ. Ðó là cảnh tượng một gia đình hạnh phúc, một cặp vợ chồng hạnh phúc như ước ao từ thời còn trẻ của vợ hắn. Những lúc giận dữ với chồng với con, vợ hắn lại gầm gào: "Thà tôi lấy một thằng phu hồ, một thằng đạp xe xích lô nhưng là vợ chồng thật, còn lấy một ông nhà văn vừa có danh vừa có tiền nhưng sống với nhau như khách trọ tôi cũng chả thiết đâu!" Vợ là của hắn, là tài sản của hắn, là một nửa của chính hắn lại có thể nghĩ về hắn lầm lẫn đến thế sao!
26.
Những năm 70 cũng là những năm hết sức quan trọng đối với một đời văn cũng như một đời người của hắn. Ông Trời đã chiều hắn một nửa, ít người được chiều đến thế. Nhưng ông cũng trừng phạt hắn một nửa, cái sự trừng phạt vừa bất thần vừa tàn nhẫn. Từ những năm này hắn mới hiểu ra lời khuyên của các cụ từ những ngày xửa ngày xưa: "Mất nhiều cũng chớ vội buồn, được nhiều cũng chớ vội vui". Trong mất có được, trong được có mất, nhất là được nhiều là tai hoạ sẽ tới liền nếu không biết giữ cái ngấn chừng mực. Khi vợ hắn sinh đứa con gái út vào năm 1970 liền được bạn bè bình luận: "Cái số thằng ấy đến là may mắn, muốn sao được vậy". Lại có người nói: "Nó có biết buồn là gì, một đời người không có buồn, không có thất bại làm sao viết được văn!" Thế là hắn bắt đầu sợ, vì đã linh cảm được một tai hoạ rất lớn đang tìm đường đến hắn, đến vào lúc nào, bằng cách nào thì hắn không thể biết, nhưng chắc chắn sẽ xuất hiện vào lúc hắn bất ngờ nhất. Cũng trong năm 1970 hắn đưa in một lúc hai cuốn tiểu thuyết: Ra đảo và Chủ tịch huyện. Cuốn Ra đảo viết rất công phu nhưng bị chê vì tác giả đã lạm dụng tiếng địa phương quá nhiều. Quả thật cái giọng Quảng Trị, ngôn ngữ Quảng Trị là hết sức thích hợp với một vùng đất sóng gió, cát đá, bão tố. Con người cũng như được tạc bằng đá, cây cối của vùng đất này cũng gân guốc, nhọn sắc, đất và người đều đã quen với biến động, với chinh chiến từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, đất không hiền, người cũng không hiền và tiếng nói càng không hiền. Hắn là người hiền lành, thích nhân nhượng, thích rút lui nên rất ngưỡng mộ những tính cách đối nghịch: cái dũng mãnh, cái không khoan nhượng, cái quyết liệt. Và hắn đã tìm thấy những cái hắn thiếu ở những con người dọc ven biển Quảng Trị. Nhưng sự sùng mộ thiếu tỉnh táo ấy đã làm hỏng cuốn sách về phương diện nghệ thuật. Còn ở Chủ tịch huyện hắn và các nguyên mẫu bao giờ cũng có một khoảng cách, cái khoảng cách về tầm nhìn, tầm nghĩ, cái khoảng cách về tư tưởng. Tức là các nhân vật văn học đều cao hơn, đẹp hơn, lý tưởng hơn những mẫu người có thật, kể cả nguyên mẫu là một ông bí thư tỉnh uỷ nào đó. Vì cảm nhận của nghệ sĩ do đọc nhiều, biết nhiều, lại làm nghề nghệ thuật nên bao giờ cũng tinh tế, nhạy bén hơn các nguyên mẫu mà họ chọn lựa. Với hắn chỉ cần nghe một tiếng cười, nhìn một ánh mắt, nắm một bàn tay là đã biết được phần nào người nói chuyện với mình là đáng tin hay không đáng tin, là người có thể cộng tác được hay chỉ nên quen biết qua loa rồi quên đi. Và hắn đã truyền những kinh nghiệm của hắn cho các nhân vật của mình. Nói cho đúng các nhân vật văn học của hắn chỉ mượn các nguyên mẫu có cái vỏ ngoài, cài phần xác, còn cái phần hồn, cái phần tư tưởng của nhân vật thì vẫn là hắn, bất kể họ là bí thư tỉnh uỷ hay chỉ là chủ tịch một xã, là một nhà báo hay một lãng tử, một ông già đã gần kề cái chết hay một chàng trẻ tuổi đng háo hức bước những bước đầu tiên trên đường đời. Chủ tịch huyện được bạn bè khen, bạn đọc khen, còn ông Nguyên Hồng gặp hắn ở quán bia đường Trần Hưng Ðạo liền giơ một bàn tay lên và bảo: "Này, Chủ tịch huyện viết tốt đấy!"
Khoảng cuối năm 1970, hắn được đi dự Hội nghị các nhà văn Á Phi cùng với nhà văn lão thành Tô Hoài, họp ở New Delhi - Ấn Ðộ cùng với đoàn nhà văn miền Nam là Phan Tứ và Thu Bồn. Cả hai đoàn đều phải qua Mátxcơva, ở lại mấy hôm rồi cùng lên đường với các nhà văn Liên Xô trên một chuyến máy bay. Hắn đến Mátxcơva lần này là lần thứ hai cách lần thứ nhất mười ba năm. Lần trước hắn đi cùng đoàn Thanh niên Việt Nam tham dự Festival Thanh niên 1957, đi bằng xe lửa, qua Trung Quốc ở lại ít ngày rồi đi xe lửa tiếp qua vùng đất Viễn Ðông của Liên Xô rồi tới Mátxcơva. Chuyến đi cuối năm 1970 đi bằng máy bay IL.62, lần đầu tiên trong đời hắn được đi máy bay mỗi lần lên xuống muốn nôn thốc, rồi hắn lại nghĩ lẩn thẩn như một anh nhà quê, cái ống thép bọc kín chứa mấy trăm con người bay lơ lửng từ Á sang Âu lỡ nó rơi một cái thì sao nhỉ ? Cho đến bây giờ mỗi lần đi máy bay hắn đều nghĩ nếu bất thần nó rơi xuống thì sao nhỉ? Thì chết cả nút chứ còn sao! Nên hắn sợ lắm, cứ bước chân lên máy bay là sợ. Hắn rong chơi nước ngoài khoảng nửa tháng rồi về, ở nhà được khoảng một tháng thì được lệnh đi chiến dịch Ðường 9 Nam Lào. Hắn đến nơi thì chiến dịch cũng đang hồi kết thúc. Bộ Tư lệnh chiến dịch giới thiệu hắn xuống một đơn vị xe tăng, rồi hắn đi la cà các đơn vị bộ binh khác, giữa các đợt đi ngắn ngày hắn lại về nằm khu lán của các phái viên thuộc nhiều Tổng cục của Bộ Tổng tư lệnh. Họ đã thay nhau đi xuống các binh chủng trong suốt chiến dịch để kiểm tra, đôn dốc những công việc của chuyên ngành nên mỗi người có cả một kho chuyện còn chưa nhạt mùi máu và mùi khói đạn của chiến trường, tối tối lại ngồi quây quần trên những tấm giát nứa thay giường, căng thêm một tấm vải dù lớn chắn gió, pha một bình nước trà đặc, hút thuốc cuốn, thuốc điếu, thuốc lào; bình luận, tranh cãi, tán róc đủ thứ chuyện, từ chuyện lính đến chuyện quan cho mãi tới nửa đêm. Chắc hẳn cái ông Vũ Trọng Phụng cũng đã được nghe vô khối chuyện buồn cười của cái thời ông ở những căn phòng chật chội, bẩn thỉu mà khách trọ mỗi đêm đều là dâng làng bẹp, dân nghiện lúc đã no thuốc thì thiếu gì chuyện để nói, toàn là những chuyện đã được chắt lọc, được ép nén thành biểu tượng, những điển hình cùng với những câu nói cửa miệng trong dân gian thời ấy, Xuân Tóc Ðỏ, bà Phó Ðoan, cụ Cố Hồng và cả một lũ lĩ người ngợm của một thời nhố nhăng chắc đã lần lượt xuất hiện trong những câu chuyện phiếm quanh những ngọn đèn dầu lạc của dân nghiện cả. Chính là các bạn hút có danh và vô danh đã cung cấp cho Vũ Trọng Phụng những mẩu chuyện quý giá, những điển hình quý giá để ông có thể xây dựng được cuốn tiểu thuyết hoạt kê bất hủ Số Ðỏ. Tất nhiên phải có cái thiên tài của Vũ Trọng Phụng nữa. Chính trong những ngày đi lang thang với nhiều đơn vị tham gia chiến dịch, gặp đủ mọi người cần gặp, nghe đủ mọi chuyện, toàn là những chuyện có thể vào thẳng văn chương được cả mà hắn đã nghĩ rất nhiều đến một tài năng tiểu thuyết rất mạnh mẽ mà hắn vô cùng ngưỡng mộ: Vũ Trọng Phụng.
Giữa năm 1971, không quân Mỹ lại bắn phá trở lại những tỉnh thuộc khu 4, thưa thớt hơn nhưng cuộc sống trong đó lập tức trở lại thời chiến như những năm 1965 đến 1968. Trong đợt bắn phá này, bên báo bạn mất hai người: anh Tô Ân và Tuấn. Hắn không thể nào quên được cái cảnh tượng đau đớn của gia đình Tuấn buổi chiều làm lễ truy điệu anh tại trụ sở báo Quân đội Nhân dân. Anh là con trai duy nhất của một dòng họ rất hiếm con trai. Bố mẹ sinh anh khi họ đã lớn tuổi, anh đã có vợ con nhưng đứa con đầu lại là con gái, nghe nói vợ anh đã mang thai, hy vọng đứa con sau là con trai thì cái mất của hôm nay chưa phải đã mất hoàn toàn. Cả hai cụ đều đã gần tám chục tuổi, tóc bạc phơ, bà dựa vào ông cứ run bần bật, ông cũng run, cả hai dúm xương da cứ dính vào nhau, đến một giọt nước mắt khóc con cũng không thể có, chỉ thấy hai tròng con mắt ngầu đỏ như đã bị đốt cháy. Hắn cùng bạn bè đến trước mặt hai cụ, đầu cúi xuống như kẻ có tội, là cái tội hắn đã có hai con trai nối dõi mà hắn vẫn còn sống, còn bạn hắn đến một giọt máu lưu lại cho bố mẹ dựa vào đó mà sống tiếp cũng không có. Ông trời cũng bất công, có gia đình ở Hà Nội, hắn đi lại từ năm còn học tiểu học, có năm con trai vừa là đàn anh của hắn vừa là bạn hắn đi đánh Pháp suốt tám năm, đến ngày hoà bình lần lượt trở về đủ năm người, không phải năm mà là tám người vì có thêm ba cô con dâu nữa, thêm hai đứa cháu nội là mười người, đi năm về mười là chuyện có thật. Còn một chuyện thương tâm nữa, là cái hồi sau của buổi lễ truy điệu, cũng là nghe nói chứ chưa hẳn đã là chuyện thật, cũng mong thế. Ấy là người vợ của Tuấn, y tá một bệnh viện, đã ngầm phá cái thai đã ba tháng. Vì chồng chết thì ai nuôi các con của cô, nuôi một đứa thì được chứ nuôi hai đứa chịu sao thấu. Bố mẹ chồng thì quá già, các bà chị chồng đều nghèo, xưa nay em trai vẫn giúp các chị chứ các chị giúp thế nào được em dâu. Cô ấy lại còn trẻ, mới ba mươi tuổi, gái goá hai con thằng đàn ông nào dám rước. Thương chồng và bố mẹ chồng thì vẫn thương, nhưng vì nhà chồng mà phải sống khốn khổ nhiều năm tháng còn lại thì không nên mà cũng không thể. Cái việc phá thai bảo là tàn nhẫn cũng được, mà bảo là nhân đạo cũng được, vì một người đã chết mà hành hạ những ba người còn sống, theo hắn mới thật là tàn nhẫn. Trong thâm tâm hắn ủng hộ việc làm của vợ bạn, hãy cứu lấy những người còn sống là việc quan trọng nhất, nên làm nhất. Hắn là nhà văn có tư tưởng tự do và cấp tiến mà lại. Nhưng vợ hắn về già lại nói với hắn trong nước mắt: "Anh đi rồi anh viết, hết cuốn này đến cuốn khác, người đưa kẻ đón, chả có lúc nào anh phải buồn cả, nhưng vợ anh một đời hầu hạ bố con anh mà không được một lời động viên, một câu nói âu yếm, chỉ có cau có với gắt gỏng thôi, sống như thế là khổ lắm nhưng tôi còn biết đi đâu bây giờ, ở với ai bây giờ. Chả lẽ lại về quê sống một mình chờ chết!" Lời nói ấy là lời nói từ đáy sâu địa ngục vọng lên, và cái người đã tạo ra cảnh địa ngục trần gian cho vợ mình lại chính là nhà văn tự do có tư tưởng cấp tiến. Trong một con người chả lẽ lại cùng tồn tại hai cách nghĩ hai cách sống trái ngược nhau đến thế sao!
Năm 1972 Mỹ ném bom trở lại thành phố Hải Phòng và rải mìn ở cảng, dữ dội hơn những năm trước. Các cơ quan của quân đội và dân sự lại rục rịch sơ tán lần thứ hai. Lần này mẹ hắn đi sơ tán với em trai hắn vì đã yếu nhiều. Còn hắn cho thằng lớn đi cùng với cơ quan của hắn vì nó đã lớn. Thằng bé mới 15 tuổi nhưng lực lưỡng, tháo vát như trai 18. Nó tự nguyện nhận làm những việc nặng phụ giúp chị nấu cơm người địa phương được cơ quan thuê đến nấu cơm cho bộ phận sơ tán. Lại nhận giúp các bạn đào hầm tại các gia đình đến trọ, tổ chức sinh hoạt văn nghệ mỗi tối để các bạn khỏi buồn, rồi viết cả đơn xin được tòng quân đánh Mỹ dẫu chưa đến tuổi. Những ngày nghỉ nó không đi chơi đâu cả, gánh phân ra ruộng giúp gia đình bố con hắn ở nhờ, giúp chị chủ nhà nấu cơm mỗi sáng sớm để chị có thì giờ chăm lo cho mấy đứa nhỏ trước khi đi làm. Và rất say mê nghe chuyện chiến trường của chú Ngô Thảo, vì chú là người của chiến trường mới được điều về tạp chí phụ trách phần phê bình, lý luận. Nó là đứa con có đầy đủ phẩm chất một công dân xã hội chủ nghĩa, là nhân vật tích cực trong các sáng tác văn học của bố nó. Nhưng thằng em nó, một đứa làm nghề kinh doanh gặp may mắn mấy năm gần đây đã bình luận về người anh cả nhân ngày giỗ của anh với bố: "Nếu ông H. còn sống thì cũng chỉ làm được một anh viên chức gương mẫu nhưng nghèo kiết là cùng, người tốt thế thì còn làm gì hơn được. Không chừng con lại phải cấp lương tháng như với ông K." Bố nó bảo: "Nếu còn anh H. thì làm gì có mày, tao đã có hai thằng con trai là quá đủ đâu cần đến một thằng thứ ba". Thằng con út cười toe toét: "Thế là số bố may mắn đấy, bố luôn luôn gặp may mà, thời này mà bố mẹ có trong nhà những hai thằng viên chức ăn lương tháng thì có muốn ăn bát phở mỗi sáng cũng phải tính toán". Nó nói một cách trắng trợn, một cách đáng ghét nhưng chả lẽ lại bảo không đúng? Trong thời gian phải rời Hà Nội đi đến những nơi sơ tán, mỗi gia đình phải làm thêm bao nhiêu việc mà chỉ có hai vợ chồng, các con đều còn nhỏ cả. Trong khu tập thể tai hoạ đã giáng xuống hai nhà trong những ngày này, một bà bị bom trên cầu phao sông Hồng trên đường đi thăm con, một bà bị xe quân sự cán chết ở Phùng trên đường về Hà Nội. Hai người đàn ông với một lũ con dại, với một đống công việc, không có người chia sẻ, mắt trõm sâu, môi nhợt trắng, mặt mũi lem nhem những râu ria không kịp cạo, nhìn vào mặt bạn hắn muốn ứa nước mắt. Còn hắn, hắn vẫn là người sung sướng. Lúc con còn nhỏ thì mẹ chồng chia sẻ mọi khó nhọc với con dâu để hắn yên tâm đi viết. Lúc con đã lớn thì con thay mẹ hầu bố để bố ngồi viết. Ngồi viết mà được con hầu cơm, hầu đào hầm nơi ở, hầu đun nước nóng để bố tắm một tuần hai lần khi trời vào rét và cũng một tuần hai lần giặt quân áo cho bố. Ðợt sơ tán thứ nhất hắn còn phải đạp xe đến cơ quan của vợ đưa tiền hàng tháng và nhiều thứ lặt vặt, đợt sơ tán thứ hai mọi sự đi lại hắn đều nhờ con cả. Hắn chỉ có một việc ban ngày ngồi viết, tối đến thì ngồi tán chuyện nhân tình thế thái với ông giáo chủ nhà, nguyên chủ tịch xã những năm đánh Pháp, mới trở lại nghề gõ đầu trẻ khoảng mươi năm nay. Cả hai ông bà đều ăn nói nhỏ nhẹ, cử chỉ khoan thai, đều thưa dạ với nhau, kính nhau như khách, thoạt nhìn hắn cũng ngượng, hơi khó chịu, với những người ruột thịt mà còn gò bó thế thì cái phần tự do của mình được dùng vào lúc nào. Nhưng ở lâu lại thấy chỉ có sự kính trọng lẫn nhau mới tạo được sự gắn bó và ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên với truyền thống của gia đình, bất chấp mọi thay đổi của thời cuộc. Người ở nông thôn mà xem ra cách sống lại văn minh hơn nhiều gia đình ở Hà Nội. Như gia đình của hắn chẳng hạn, gia đình trí thức mà sống buông tuồng, tuỳ tiện, bắt đầu từ chính người chủ gia đình, rồi đến vợ con cũng quen theo cách sống đó, cười nói rất to, gắt gỏng nhau cũng rất to, ăn cơm trải chiếu dưới đất, nồi nhỏ đặt giữa, nồi lớn đặt cạnh mâm, vừa ăn vừa dặn bảo công việc, nhồm nhoàm, hể hả, mồ hôi chảy nhễ nhại trên mặt bố mặt con như gia đình của mọi người lao động. Hắn thích thế, hắn tự hào được sống như thế vì hắn là nhà văn của giai cấp vô sản, thù ghét mọi biểu hiện của tầng lớp quí tộc và tư sản. Về già hắn mới biết, ở các xã hội trước, giai cấp vô sản là tầng lớp nghèo khổ nhất nên không làm chủ được vận mệnh của mình, tất cả đều tuỳ thuộc vào sự may rủi. Công ăn việc làm, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, nuôi dạy con cái ăn học gặp cơ may thì mọi sự trót lọt, không gặp may thì gia đình chia ly, con cái mỗi đứa đi một phương kiếm sống hoặc phải đi ăn đi ở cho những người giầu có trong họ, có chí và có điều kiện theo học thì học cũng giỏi, nhiều người rất giỏi, còn tự buông thả thì suốt đời vô học. Do nghèo đói nên gia đình thiếu kỷ cương, gặp đâu hay đó vì không thể tính trước, không có điều kiện để tính trước bất cứ việc gì sinh ra thói quen tuỳ tiện, rồi do quá túng thiếu, do buồn chán không tìm được lối thoát lại sinh ra cờ bạc, nghiện hút. Một gia đình như thế rất hiếm hoi sinh được nhân tài, vì nhân tài cũng như thiên tài đều phải được nuôi dưỡng, được chăm bón trong những môi trường thuận lợi. Chả nói đâu xa cứ lấy ngay chính hắn làm một ví dụ, người như hắn nếu không gặp được thời thế đổi thay thì suốt đời chỉ là anh làm công, lại nhút nhát, lại kém tháo vát thì chỉ làm thằng gác đêm tại các biệt thự hay các công sở ở Hà Nội. Cách mạng đã đưa hắn lên thành một người có danh vọng, nhưng cách mạng không thể thay đổi được nếp sống buông tuồng, tuỳ tiện từ nhỏ của một gia đình không có người đàn ông làm chủ, không có nguồn thu lợi nào bền vững đủ để tính toán được những việc của tương lai, cũng không có truyền thống học hành, giao tiếp và một nếp sống căn cơ như những gia đình đã nhiều đời ở Hà Nội. Hắn là người gặp thời mà nên. Thời thế có thể thay đổi vị trí xã hội của hắn nhưng không thể thay đổi được nếp nhà của hắn. Bây giờ hắn đã là người có danh, ngấp nghé tầng lớp thượng lưu của xã hội nhưng nhìn vào những ngày giỗ tết của nhà hắn thì vẫn là một gia đình bình dân thuộc tầng lớp nghèo của xã hội, cỗ bàn bát nháo, cúng kiếng bát nháo, cha con vợ chồng trò chuyện với nhau cũng bát nháo. Muốn thành một gia đình có nền nếp kỷ cương thì phải bắt đầu từ đời hắn ngay từ những năm hắn mới lập gia đình. Cũng vẫn còn chưa quen, hắn chưa quen, vợ hắn càng không quen nên phải có ý thức nhắc nhau cho trở thành thói quen. Sang đời con hắn may ra mới bắt đầu thuần thục, đến đời các cháu hắn mới trở thành thói quen, sống khác đi, xử sự khác đi là không thể làm đượ, không thể chịu nổi. Hắn có một người bạn lớn tuổi, biết nhau từ thời đầu chống Pháp, là đồng hương, đồng đội, về sau còn là người cùng một cơ quan, đó là nhà thơ XuânThiêm. Chồng là con ông ấm, vợ là con ông tuần, một đời khổ sở vì cái lý lịch quan lại nên cả vợ lẫn chồng đều cố gắng tự cải tạo thành người bình dân để khỏi bị chú ý. Nhưng tới ở đâu dầu chỉ là một căn phòng rất chật hẹp bà vợ vẫn phải mua mấy thước vải xô may rèm che các cửa sổ. Dẫu đã là người của giới lao động họ vẫn không thể quen sống trống trải, sống toang hoác không có một tí gì riêng tư để giữ kín. Con cái những gia đình sống không có kỷ cương chúng chỉ sợ có pháp luật, nếu lừa được pháp luật, hối lộ được pháp luật thì mọi cái đều có thể đối với chúng, kể cả hiếp người, giết người. Lại trở lại gia đình ông giáo. Lần sơ tán thứ nhất thì người con trai thứ hai của ông (con bà cả đã mất) vừa lên đường đi bộ đội, ở một đơn vị cao xạ đóng tận mãi Quảng Bình. Lần sơ tán thứ hai hắn vẫn ở nhà ông nhưng ông già đi, buồn hơn vì đứa con ở pháo cao xạ đã hy sinh vào giữa năm 1968 ở Ninh Bình. Anh trai nó cũng chuẩn bị lên đường theo đoàn cán bộ giáo dục của tỉnh vào miền đông Nam Bộ. Bữa cơm chia tay bố con, hắn cũng được mời tham dự. Anh con trai lớn của ông giáo kém hắn mươi tuổi, đã có vợ và hai con nhưng đều là con gái cả. Anh vừa ăn vừa nói chuyện với bố mẹ và mẹ kế, toàn những chuyện đâu đâu không đả động gì tới chuyện đi ở. Người vợ chỉ ngồi xới cơm cho chồng, gắp thức ăn cho bố và hai con, mắt toàn nhìn xuống. Bà mẹ kế cười nói gượng gạo, có lúc bà chống đũa nhìn chằm chằm cô con dâu, vè mắt của bà cứ đỏ dần lên. Lúc tiễn nhau, hắn đứng trong hè nhìn theo hai bố con ông giáo cùng đi ra cổng rồi bất chợt người con trai quay lại ôm chầm lấy bố, dụi đầu vào vai bố và cứ đứng nguyên như thế rất lâu. Người con dâu đi theo cũng quàng tay ôm lấy lưng bố chồng, hai đứa con gái, một đứa ôm chân bố, một đứa ôm chân ông nội. Một gia đình cắn răng chịu đựng mọi đau đớn để những đứa con được làm tròn nghĩa vụ với tổ quốc trong thời chiến.
Từ tháng 3 đến đầu tháng 8, hắn không đi đâu cả, miệt mài ngồi viết cuốn tiểu thuyết Chiến sĩ tại nhà ông giáo. Tháng 9 hắn ôm một cặp bản thảo về Hà Nội đưa cho nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hai tháng sau nhà xuất bản trả lời nhận in, sẽ đưa vào kế hoạch in quí I năm 1973, khoảng tháng 5 sách sẽ được phát hành. Tết năm Quý Sửu là một cái Tết rất vui, tiền tiêu không thiếu vì hắn đã nhận của nhà xuất bản một khoản tiền ứng trước, đất nước hoà bình, lần này chắc là lâu dài, con cái đã lớn, trước mắt sẽ là những năm an nhàn hơn, hắn sẽ trượt dần vào tuổi 50 một cách êm ái, mãn nguyện vì hắn vốn cũng chả có ước mơ gì quá cao xa ngoài tầm tay với. Nhưng tới giữa tháng 5 thì thằng con khoẻ mạnh nhất, tháo vát nhất và rất yêu bố bị chết đuối ở sông Hồng. Chỉ trong vòng có một tiếng vắng mặt nó mà hoá ra mất nó mãi mãi. Hắn không tin được, không có cách gì khiến hắn tin được hắn đã mất một đứa con, lại là đứa trẻ hắn gửi gắm mọi hy vọng, mọi niềm vui của một đời người. Bỗng chốc mất trắng cả, tất cả trong một sớm một chiều hoá ra vô nghĩa. Hắn vật vã khóc than như đàn bà, ruột quặn đau, cái đau có thật, cái đau sinh lý, dẫn đến nghẹt thở. Mất con đau đớn đến thế ư? Vợ hắn đau đớn đết bật ra sữa non, đái ra máu tươi, nằm lăn lộn ở một góc đường để chờ con từ bờ sông trở về như mọi chiều nó vẫn đi bơi và trở về theo lối ấy. Những lúc tỉnh táo hắn lại chợt nghĩ đến gia đình ông giáo. Ông cũng đã mất một đứa con trai khi nó ở tuổi hăm hai, là lao động nông nghiệp chính của gia đình khi bố mẹ đã già. Nhiều năm sau hắn còn biết người con vào Nam dạy học đã trở về nhà sau ngày đất nước thống nhất, sống với bố mẹ, vợ con được một năm thì bị cảm đột ngột và mất trên đường cáng đến bệnh viện. Chết đột ngột trong dân nay nói là bị cảm mạo phong hàn mà chết, chứ cái chết ấy cũng là bệnh của chiến trường. Một người chết chưa vợ con gì, một người chết mới có hai đứa con gái, ông giáo sẽ không bao giờ có cháu đích tôn nối dõi, một dòng họ bị mất hương khói từ đây. Nghe nói ông gắng gượng sống thêm được vài năm rồi bị liệt, nằm thêm mấy năm nữa mới mất. Một người già hầu một người già nằm bất động trong năm gian nhà vắng lặng, lạnh lẽo, cái buồn ấy là cái buồn thiên cổ, cái buồn của thân phận làm người.
Nguyễn Khải
Thuợng đế thì cười (kỳ 11)
27.
Năm 1974, hắn trở lại cái nghề làm báo, viết một lúc cho mấy tờ báo: Nhân dân - Văn nghệ - Tạp chí Tác phẩm mới. Vẫn là làm báo nhưng văn chương dồn nén hơn, câu chữ lợi hại hơn, được bạn đọc bình luận sôi nổi, cả khen và chê, nhất là các bài báo nối tiếp nhau mỗi sáng chủ nhật trên báo Nhân Dân. Rồi vở kịch ngắn để đọc Ðối mặt, bài báo Chúng tôi chăm sóc tài năng trẻ, truyện ngắn Người mơ mộng, tạp văn Nghĩ về anh L.M ít nhiều đều có tiếng vang trong giới yêu văn chương của thủ đô. Thoạt đầu thì vui về sau hoá ra không vui và hắn không viết nữa, nói cho đúng là không viết được nữa, ý tưởng, câu chữ đã mất tự do, mất tự tin thì làm sao quyến rũ được bạn đọc. Và đã có ý kiến của lãnh đạo: "Nó viết lách linh tinh chẳng qua là cứ quẩn quanh ở Hà Nội nghe chuyện hay có ít, chuyện dở thì nhiều, cho nó vào chiến trường một thời gian để rèn luyện là tốt đấy". Thế là hắn chuẩn bị vào miền Nam đang ở trong tình thế nửa hoà bình nửa chiến tranh và quân ta cũng đang chuẩn bị một chuyện gì đó rất lớn và từ rất lâu rồi, phải ít ngày sau hắn mới được biết đầy đủ. Người cùng đi với hắn một chuyến đi nghĩ là thường như mọi chuyến đi mà hoá ra một chuyến đi lịch sử, một đời chỉ được một lần là đủ mãn nguyện. Người đó là Lê Lựu, bạn thân thiết của hắn từ đầu những năm 60. Năm đó Lê Lựu rủ hắn về quê anh ở Khoái Châu, hắn đã ở lại nhiều ngày, rồi đi đi về về trong khoảng nửa năm, trở thành người trong gia đình của Lựu. Chú ruột của Lựu là chủ tịch huyện Khoái Châu, anh ruột của Lựu là chánh văn phòng Uỷ ban huyện và một dây những anh em con cháu vừa ở làng, vừa ở huyện ở tỉnh, là một kho tư liệu về người về việc của một dải đất bãi ven sông Hồng trong vòng nửa thế kỷ. Cũng như hắn đã về viết ở Phú Thọ theo lời rủ rê của anh Tuế, nguyên trưởng ban hành chính của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Có bạn bè ở những nơi mình sẽ ở lại và sẽ viết là hết sức thuận lợi. Người của địa phương dễ thân dễ tin cậy một người viết báo là bạn bè của người nhà mình, còn hắn cũng cảm thấy thân thuộc ngay cả cảnh cả người cái nơi vừa đặt chân đến. Chuyến về Phú Thọ hắn viết được Tầm nhìn xa, chuyến về Khoái Châu hắn viết được tiểu thuyết Chủ tịch huyện, là những sáng tác về cuộc sống nông thôn những năm hợp tác hoá nông nghiệp thành công nhất của hắn, có nhiều bạn đọc nhất.
Chiếc xe con quân sự đi vào chiến trường tới quãng trên Thường Tín thì dừng lại, bà cụ sinh ra Lựu cùng ông anh ruột của Lựu từ vùng đất bãi của Khoái Châu đi đò qua sông Hồng từ sáng sớm đã đón đợi sẵn, mang theo rất nhiều thức ăn để anh em ăn dọc đường. Ai ngờ buổi sáng lên đường bữa ấy cũng là ngày bắt đầu của một loạt những ngày tháng rất vui, vui đến nghẹt thở. Với hắn chuyện nước đã vui mà chuyện nhà cũng vui, như người được cởi trói và được đẩy ra khỏi cái ngục tù u ám những chuyện buồn. Ấy là vợ hắn vừa sinh đứa con trai út thay thế cho đứa đã mất. Chuyện như một ao ước hão huyền mà lại là thật. Ngay từ tháng vợ mang thai hắn đã lo. Vợ hắn lại cả quyết sẽ sinh con trai hắn lại càng lo. Vợ có mang được hai tháng đi thử nước tiểu, khoa phụ sản của bệnh viện 108 căn cứ trên xét nghiệm bảo là chửa ngoài dạ con. Hắn bảo phải huỷ thai nhưng vợ hắn kiên quyết giữ vì đã nằm mơ thấy một thằng bé rất bụ bẫm níu chặt lấy chân mình. Tức là đầu óc vợ hắn đã không bình thường rồi, đau đớn quá buồn bã quá rồi lại đòi có mang, rồi lại nói một cách chắc chắn sẽ là con trai, không là điên còn là gì! Vợ chồng tranh cãi ầm ĩ suốt cả tuần, người bảo bỏ, người nói giữ, nếu không cho giữ thì cả hai mẹ con sẽ đâm đầu xuống sông Hồng, ai mà giữ nổi người muốn được chết, đòi được chết. Hắn sợ quá, tin chắc những ngày tới sẽ là những ngày rất u ám đối với gia đình hắn. Cái thai lớn một cách bình thường, rồi nó đạp đau nhói, đạp loạn lên như nó đang đá bóng trong bụng mẹ nó, đạp mạnh thế, nghịch ngợm thế hẳn là thằng cu rồi. Vợ hắn nói một cách chắc chắn, một cách tin tưởng nhưng hắn vẫn chưa thể tin. Vì hắn đã được nhiều nay trời bắt đi một đứa con hắn thương yêu nhất cũng là lẽ công bằng, có được có mất, được lúc trẻ mất lúc già hoặc ngược lại, không một ai ở đời này lại được hết. Ðược hết là sẽ có lúc mất ráo. Có hai gia đình được trời cho một lúc được hết, rồi lại lấy đi sạch sẽ cũng trong một lúc, ở Mỹ là gia đình John Kennedy, ở Việt Nam là gia đình Ngô Ðình Diệm. Mẹ hắn cũng phải nói: "Vợ anh dạo này tính nết thế nào ấy, ai hỏi cũng nói nhất định sinh con trai, lỡ sinh con gái thì nó vứt con đi à?" Một tối ăn cơm xong vợ kêu ngâm ngẩm đau bụng, hắn đưa vợ vào cơ quan ngủ nhờ rồi lại nhờ anh lái xe của cơ quan giúp đỡ nếu trong đêm vợ chuyển dạ đẻ. Dặn dò xong hắn về nhà đọc sách, rồi cho các con đi ngủ, hắn cũng ngủ rất say, chỉ cầu trời cho mẹ tròn con vuông, còn trai hay gái hắn đều thương hết. Sáng hôm sau, hắn cho các con ăn sáng, đưa con nhỏ ra nhà trẻ rồi mới thủng thẳng đạp xe vào bệnh viện. Người trực khoa sản nghe tên vợ hắn nói ngay: "Chị ấy sinh rồi, con trai, nặng 3 ký 8, sức khoẻ của hai mẹ con đều tốt". Hắn ngây người vì quá mừng, lại hỏi lần nữa: "Nhà tôi sinh con gái hay con trai?" Chị kia cười: "Anh mong con trai lắm hả, cả ba ca đẻ trong đêm đều sinh con trai hết, con anh nặng nhất, gần bốn ký". Hắn hối hả đạp xe về nhà mẹ, bà cụ hỏi: "Nó sinh rồi hả? Con gái phải không?" Hắn làm ra vẻ thất vọng: "Vâng, con gái". Mẹ hắn an ủi: "Con nào cũng là con, con gái hiếu thuận còn bằng mấy con trai ấy chứ". Hắn nhìn mẹ rồi cười hết cỡ: "Sinh con trai, mợ ạ, thế mới tài, cầu sao được vậy nhá!" Bà mẹ cũng cười nhưng còn ngờ: "Nó bảo nhất định sẽ sinh con trai, mà là con trai thật à?" Về nhà hắn vẫn chưa hết bàng hoàng, ông trời đã tha hắn thật ư? Ông lại rộng lượng với hắn đến thế sao? Vừa lấy đi thấy hắn buồn quá lại lập tức cho lại! Hắn sẽ đặt tên đứa con mới sinh là Hoàn, có nghĩa là trả lại. Nguyễn Thế Hoàn. Thằng anh vừa mất là Nguyễn Thế Huỳnh. Mấy đứa trẻ con nhà hàng xóm đứng thập thò ngoài cửa nhìn vào, một đứa hỏi: "Cô sinh rồi hả chú?" - "Sinh rồi" Lại hỏi: "Là trai hay gái?" - "Trai!" - "Chú đặt tên em là gì?" - "Hoàn, Nguyến Thế Hoàn". Một đứa nói: "Nguyễn Thế Hoàn, không hay, sao chú không đặt Nguyễn Khải Hoàn, nghe hay hơn?" Hắn ngồi sững, hỏi lại: "Cháu nói cái gì?". "Khải Hoàn, Nguyễn Khải Hoàn!" Hắn nói ngay: "Ừ, Khải Hoàn, Nguyễn Khải Hoàn, có lý đấy. Cảm ơn cháu". Nhân bảo như thần bảo, con hắn sinh ngày 3 tháng 1 năm 1975. Năm 1975 là năm đại khải hoàn của Việt Nam, cả dân tộc khải hoàn sau ba chục năm chinh chiến. Nhưng lúc này hắn chưa thể biết những gì hắn được chứng kiến sau hai tháng nữa. Theo chương trình ở nhà, hắn với Lê Lựu sẽ vào Tây Nguyên nhưng mới vào đường Trường Sơn lại nhận được lệnh trở lại đi theo hướng chủ yếu, đường 1, ở bộ phận của trung tướng Lê Quang Hoà, phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị. Ngày 26 tháng 3 bọn hắn vượt qua sông Thạch Hãn thì quân ta đã giải phóng Huế. Thế là quân tướng vào thẳng Huế vào một buổi chiều. Ngồi trên xe nhìn qua lớp rào hai bên đường thuộc ngoại vi thành phố thấy các cô gái Huế mặc bộ đồ trong nhà nhiều mầu và in rất nhiều hoa hoặc các đường kẻ sặc sỡ nom rất vui mắt, hắn đã lạ lắm. Các đường phố rất vắng, nhiều nhà cửa sắt mở toang nhưng không có người, giày dép, quần áo, túi xách, hòm làn vứt ngổn ngang dọc đường như vừa qua một cơn hoảng loạn, chắc đã có nhiều người rời nhà chạy ra đường nghe ngóng rồi nhập theo dòng người đi luôn. Không có đánh nhau trên đường phố mà lại có nhiều lỗ đạn trên tường và trên nhiều cánh cửa sắt, bắn lẫn nhau sao? Những người Huế còn ở lại nhìn xe bọn hắn chạy qua vẻ mặt bình thản, có nhiều người giơ tay vẫy. Mấy ngày sau hắn và Lê Lựu, Xuân Sách cùng với Hữu Mai, Hồ Phương vừa mới tới Huế đến thăm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Suốt mấy ngày ở Huế hắn chỉ nghe có một dòng nhạc của Trịnh Công Sơn ở mọi nhà, mọi nơi, một âm điệu buồn buồn, không thay đổi, như lời tâm sự, như lời cầu nguyện của cả một thế hệ trẻ ở các đô thị miền Nam. Hắn sẽ không thể quên một tối ở uỷ ban quân quản, những người Huế mới ở rừng xuống ngồi quây tròn nghe một người Huế nổi tiếng là Trịnh Công Sơn ôm đàn hát. Lời ca của Sơn đẹp và mênh mông như thơ, là những bài thơ rất đẹp và cũng rất lạ nhưng tác giả lại không thuộc hoàn toàn và những người ở rừng về lại nhắc lời cho người đang hát từng đoạn, rồi họ cùng hát theo vang vọng cả gian phòng lớn. Lê Lựu, Xuân Sách, nhạc sĩ Huy Du và hắn còn được làm quen với một nhà tư sản thương nghiệp tên là Kim ở đường Phan Bội Châu, gần như tối nào bọn hắn cũng có mặt ở nhà ông ta để nghe nhạc qua dàn máy Akai và nghe mọi chuyện về Huế dưới các chính quyền cũ. Mùa xuân năm 1968 ông Kim cũng ở lại Huế một mình để đón quân giải phóng; lần này ông cũng ở lại Huế cùng với người con trai lớn để đón những người kháng chiến trở về, lần này chắc là các anh sẽ ở lại đây mãi mãi, Mỹ đã bỏ thì miền Nam phải thuộc về cách mạng rồi, ông ta nói chắc chắn thế. Rồi bọn hắn cũng gặp các nhà sư ở Huế, là các nhân vật nổi tiếng một thời, góp phần làm sụp đổ chính quyền Ngô Ðình Diệm trong vụ án Phật giáo cuối năm 1963. Những ông sư trí thức rất ham làm chính trị, rất muốn có phần quyền lực của nhà chùa trong chính quyền mới. Và các em sinh viên của nhiều trường đại học, rất trẻ trung, rất nồng nhiệt tham gia các công việc xã hội trong những ngày đầu của một thành phố vừa được giải phóng. Họ ăn mặc đẹp, gương mặt cũng đẹp, cử chỉ thanh lịch, cười nói thơ ngây như một biểu tượng của hy vọng về một nước Việt Nam thống nhất trong vận hội mới. Ngắm nhìn họ trong mấy ngày cùng lao động để làm sạch đẹp thành phố và cùng gìn giữ trật tự với lực lượng cảnh vệ của quân đội, hắn đã thoáng linh cảm hình như thế hệ của bọn hắn đã hoàn thành tốt đẹp sứ mạng của mình, từ nay về sau sẽ là công việc của một lớp người khác, có cách sống và cách nghĩ khác, vẫn tiếp nối những tinh hoa của cha anh nhưng họ sẽ khẳng định mình bằng những tiêu chuẩn giá trị không hoàn toàn giống với bây giờ. Rồi hắn lại nghĩ tiếp, vậy sắp tới hắn sẽ phải viết như thế nào, bạn đọc chủ yếu của hắn sẽ là những ai, chuyện nông thôn và chuyện bộ đội, các đề tài ruột của hắn sẽ có ý nghĩa gì trong cơ cấu xã hội những chục năm tới. Hắn tự đánh giá hắn chỉ là một tài năng do thời thế tạo nên chứ không phải do trời đất tạo nên, nên không thể tiên đoán những gì chưa xảy đến. Những ý tưởng hay, độc đáo của hắn đều từ những từng trải, những chiêm nghiệm của chính cuộc đời hắn mà có chứ không từ những lời phán truyền huyền bí nào mà có. Vậy thì hãy để sự từng trải mới của hắn sẽ chỉ vẽ cho hắn phải viết cái gì, viết như thế nào để những người trẻ tuổi của hôm nay vẫn là bạn đọc của hắn, vẫn mong chờ hắn, và vẫn tìm được cái họ cần trong những trang văn của hắn. Trước ngày lên đường vào mặt trận Quảng Ðà trong cuộc hành quân dài mà mục tiêu cuối cùng là Sài Gòn, bọn hắn đã được một vị trong hoàng tộc nhưng có quan hệ với kháng chiến từ nhiều năm trước tổ chức cho các văn nghệ sĩ trong quân đội được đến chào bà Từ cung. Bọn hắn xin được gặp Ngài buổi sáng, nhưng các buổi sáng là giờ niệm Phật của Ngài, nên bọn họ sẽ được tiếp vào giờ gần trưa. Năm ấy bà Từ cung đã ở khoảng tuổi trong ngoài chín mươi, người thấp nhỏ, tóc búi rất thưa nhưng mới lốm đốm bạc, mặc cái áo dài hàng tơ nhuộm đen như các bà già ở Huế, đi hài, buớc đi rất nhẹ như lướt trên nền gạch. Ngài chỉ tay cho bọn hắn ngồi hai hàng ghế dựa, sơn son thếp vàng, còn Ngài ngồi vào ghế giữa cạnh cái bàn nhỏ. Hắn ngồi bên tay trái Ngài, nhìn thành kính một nhân vật đã chứng kiến bao nhiêu biến động của lịch sử trong gần một thế kỷ ở những cơ quan quyền lực cao nhất, mà vẫn còn sống, một người đàn bà quyền uy còn sót lại của vương triều Nguyễn, người đại diện cuối cùng cho một lối sống, cho những quan niệm và vô vàn các mối quan hệ thức tạp của các vương triều phong kiến đã vĩnh viễn thuộc về lịch sử. Hắn nhìn bà lão đầy vẻ ngưỡng mộ, bà lão cũng nhìn lại hắn một lúc lâu, ánh mắt rất trẻ, rất vui, giống hệt cái cảnh bà cháu gặp nhau sau nhiều năm xa cách. Bà cụ nói: Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp rất quý tôi, năm 1945 con tôi ( [1] ) có được mời ra Hà Nội làm việc với Ông. Ông có gửi thư thăm hỏi tôi và những người trong hoàng tộc". Thoạt nghe một bà cụ gọi lãnh tụ của mình là Hồ Chí Minh, hắn cũng phật ý vì chưa từng nghe ai gọi trống không thế, ngoại trừ các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Nhưng đây là các nhân vật lịch sử nói về nhau, họ có cùng một đẳng cấp, lại sinh cùng thời, một người đại diện chính quyền phong kiến đã kết thúc về mặt lịch sử, một người là đại diện cho chính quyền dân chủ vừa mới bắt đầu. Rồi Ngài lại nắm một bàn tay hắn, dẫn hắn tới trước một khung hình mạ vàng, có hình một người đàn bà rất đẹp, mặc triều phục ngồi trên ngai vàng: "Con có biết ai đây không?" Hắn định buột nói: "Nam Phương hoàng hậu!", thì bà cụ đã nói ngay: "Là ta đấy, cũng là một người đàn bà, lúc trẻ thì đẹp rứa về già lại xấu rứa!". Ôi, bà ngoại! Chín chục tuổi đầu mà vẫn biết nói những câu rất hóm của người còn trẻ. Ngài lại nói: "Khi chiến sự lan rộng, Nguyễn Văn Thiệu đã cho máy bay riêng đón tôi vô Sài Gòn. Nhưng tôi không đi, tôi là người con dâu cuối cùng của triều Nguyễn, sớm tối phải chầu hầu liệt Thánh, còn đi mô!" Rồi Ngài nhìn hắn cười rất hồn nhiên. Những ngày tháng còn lại bà cụ chỉ sống với những người đã chết, một vương triều đã chết. Bà vẫn ngồi trước mặt hắn nhưng chỉ một câu nói bà đã lùi dần khỏi tầm nhìn của hắn, lùi mãi vào cái quá khứ đã xa thăm thẳm.
28.
Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, hắn và các bạn đồng nghiệp của nhiều cơ quan báo chí của Hà Nội và Ðà Nẵng theo đường số 1 vào thẳng thành phố Sài Gòn vừa được giải phóng trưa ngày 30 tháng 4. Trong khoảng hai chục năm hắn đã được bước vào hai thành phố lớn sau ngày được giải phóng. Một lần vào Hà Nội sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, và lần sau vào Sài Gòn sau chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Ngày vào Hà Nội hắn tìm mẹ và em theo địa chỉ cũ hắn được biết nhưng không gặp, chủ nhà mới dọn đến cũng không biết họ đã đi đâu. Hắn đến thị xã Hà Ðông lấy một số tài liệu rồi trở lại quân khu đóng ở thị xã Phủ Lý lòng tràn ngập buồn bã, thất vọng. Phải một tháng sau hắn mới nhận được tin chính thức qua người bạn cùng toà báo là hoạ sĩ Phan Bá Thọ, lúc này đã về Tổng cục Chính trị để chuẩn bị cho cuộc triển lãm lớn nhân ngày thành lập quân đội vào tháng 12 năm 1954. Lần này vào Sài Gòn hắn vẫn chưa biết rõ bố hắn và bà mẹ già còn sống hay đã mất, còn ở Sài Gòn hay đã theo con cháu chạy ra nước ngoài trong những ngày hỗn loạn vào giữa tháng Tư. Nhưng hắn vẫn tìm vì vẫn có một chút hy vọng mơ hồ rằng họ vẫn còn sống, còn ở lại Sài Gòn và bố con hắn sẽ được gặp lại nhau.
Trong một buổi tối gặp gỡ tình cờ giữa mấy anh em viết văn ngoài Hà Nội với mấy anh viết văn của Sài Gòn, theo hắn nhớ có vợ chồng nhà văn Vũ Hạnh, nhà văn Mai Thảo tới tìm gặp nhà thơ Xuân Thiêm, hình như họ có thời cùng học ở trường Ðỗ Hữu Vị, nhà văn Lưu Nghi tới tìm gặp nhà văn Nguyễn Văn Bổng... hắn có hỏi dò địa chỉ những người thuộc giới quan lại miền Bắc di tản vào miền Nam cuối năm 1964. Nhà văn thời bây giờ có thể có quan hệ xa gần với những người làm nghề tự do, hoặc giới doanh nhân, giới sĩ quan chứ ít ai biết tới giới quan lại. Các ông quan của chính phủ Nam triều do Pháp bảo hộ đã thuộc về một thời xa xưa lắm rồi. Hắn đã thất vọng, bỗng dưng một hôm nhạc sĩ Huy Du rủ hắn cùng đi thăm một ông bác họ cũng thuộc giới quan lại ngoài Bắc thời trước gọi là cụ phủ Trước. Thế là hắn đi ngay, hắn rất tin là ông cụ Trước có biết bố hắn nhưng lại sợ ông ấy thốt ra: "À, tôi biết, nhưng ông ấy mất rồi, mới mất..." Hắn mong mỏi được gặp lại bố và mẹ già còn khoẻ mạnh, còn tỉnh táo chỉ để thoả mãn một khao khát rất tầm thường, rất xoàng xĩnh là "được mặc áo gấm về làng". Áo mặc cũng chưa phải gấm võ gì, chỉ là áo lính thôi nhưng là người tử tế, có vợ con, có nghề nghiệp đàng hoàng, không đến nỗi mẹ đã là phường "mèo mả gà đồng" (như mẹ già đã mắng thẳng mặt mẹ hắn như thế) thì con cái không là quân lưu manh cũng phường trộm cướp chứ làm sao có số phận khác được! Không ngờ ông cụ Trước vừa nghe hắn nói xong liền cười ngay: "Còn sống, cả hai ông bà đều còn sống, chắc là chưa đi đâu đâu, đã già rồi còn đi đâu nữa. Nhưng tôi không nhớ phố, cũng không biết số nhà, để xem nào, anh nên đến nhả bà Ðại, bà này là cháu gọi ông cụ nhà anh là cậu. Nhà bà này ở..." Hắn ngồi nhờ xe hơi của nhà văn Nguyễn Chí Trung đến ngay nhà cái bà Ðại nào đó. Nhưng bà ấy không có nhà, chỉ có một ông chồng đã ngoài bảy chục tuổi với hai cô gái giúp việc, nhìn thấy hai ông lính Việt Cộng sầm sầm bước vào căn hộ thì sợ lắm, sợ đến không nói được. Mãi một lúc sau ông già mới bảo: "Bà nhà tôi không có nhà, có chuyện gì cần xin mời hai ông khoảng gần trưa quay lại". Hắn phải nói ngay hắn là ai, tới nhờ bà nhà giúp việc gì, toàn việc vui cả, việc trong nhà cả, không có gì khiến ông bà phải lo lắng. Nét mặt ông lão như giãn ra, ông đã hơi cười: "Ông cụ bên nhà mấy bữa nay người gày rộc hẳn vì có bao nhiêu tin đồn, nghe hãi lắm. Vậy ông là... sao không nghe ông cụ nói bao giờ...". Rồi ông nói nhà bố hắn chỉ cách chung cư này có một dãy phố, đường Quý Cáp, số nhà xanh căng xanh (55). Xuống các bậc thang của toà nhà chung cư đầu gối hắn như nhũn ra, hắn xúc động thật sự, giận thì vẫn giận nhưng vẫn thương, vẫn là cha con xa cách nhau còn kém một năm là vừa tròn ba chục năm mới được gặp lại. Lần gặp sau cùng vào tháng 6 năm 1946, ngày ấy mẹ con hắn đang ở nhờ nhà ông chú họ bên bố, trong cái ngõ cụt gọi là ngõ Yên Bái bây giờ, qua dãy tường chắn ngang trước nhà là khu nghĩa địa Tây, nay là khu nhà tập thể Nguyễn Công Trứ. Hắn nằm quay mặt vào tường, đắp cái vỏ chăn mỏng, tiếng người bố thầm thì những gì dài dòng lắm, có vẻ khó nói lắm, còn mẹ hắn không nói gì cả, chỉ khóc thôi, khóc cũng rất nhỏ. Rồi nghe bố hắn nói: "Tôi bây giờ cũng gặp nhiều khó khăn lắm. Chả giúp gì được mấy mẹ con đâu. Người ta sống được thì mình cũng sống được". Rồi nghe tiếng giày của ông bước ra cửa, hắn quay người lại còn thoáng nhìn thấy bố đã bước ra đến giữa vuông sân, lưng rất thẳng, tóc rất đen, mảng gáy rất trắng, vẫn là một người đàn ông còn trẻ, mới 46 tuổi chứ mấy. Hắn nhìn mẹ hắn, bà vẫn ngồi lặng lẽ một chỗ, cũng không ngoái đầu nhìn theo người đàn ông đã từng làm bà vui, bà buồn, đã cùng bà chống đỡ những cơn ghen tuông của người vợ cả gần hai chục năm, nay đã biến đổi tâm tính, vứt bỏ ba mẹ con bà một cách lạnh lùng vì thời cuộc đổi thay, từ nay họ sống hay họ chết ông không cần quan tâm tới nữa. Cái gia đình thêm này chỉ là kết quả của những năm tháng dại dột, dư thừa của thời trai trẻ, bỏ đi cũng chả có gì phải ân hận, phải hối tiếc. Và bây giờ, sau ba chục năm cách mạng, chiến tranh, đất nước chia dôi, gia đình phân ly nay tiếng súng đã tắt, khói lửa chiến tranh cũng đã tắt, tất cả lại hợp dần lại làm một, Nam Bắc, cha con, anh em, cả vợ chồng nữa, như một chuyện thần tiên, một chuyện trong mơ mộng, một chuyện không thể có thật mà hoá ra lại là thật, thật đến từng ngày, thật ngay lúc này, hắn vẫn còn sống và sắp gặp lại những người đã đuổi hắn đi. Hắn trở lại không phải là một kẻ khố rách áo ôm dẫn một lũ người rách rưới là vợ con hắn đến gõ cửa một gia đình quyền quý xin tiền, xin ăn, xin ân huệ mà là một nhà báo, một nhà văn của phe cách mạng, phe chiến thắng, của đội quân chiến thắng tới gặp một gia đình hắn đã từng là một thành viên bất đắc dĩ. Nhà của bố hắn là nhà trệt, mặt nhà hẹp, có một vuông sân nhỏ làm vườn, nhà của giới viên chức nhỏ được nhà nước cho thuê, hẳn thế. Hắn kéo chuông, cửa nhà trong mở và bà mẹ già của hắn mang kính râm như người đang đau mắt bước ra. Vẫn là gương mặt quen thuộc rất hiền của những người đàn bà xưa, tóc vấn khăn vẫn đen chỉ hơi lốm đốm bạc phía trước trán, dáng di chậm chạp, đứng trong cánh cửa phần trên có chấn song sắt, hỏi ra: "Ai hỏi gì thế?" Hắn nói nhỏ: "Thưa mợ con là K. đây!" Bà cụ như sững sờ khoảng vài giây rồi tươi ngay nét mặt: "K. hả? Cả nhà mong con mãi". Thế là bao nhiêu oán thù ti tiện của kẻ mới làm nên với bố mình, với mẹ già mình trong phút chốc mất sạch, chỉ còn thương thôi, còn mừng thôi, mừng bố mẹ vẫn còn sống, mình vẫn còn sống để có ngày được gặp lại nhau. Nhưng ông cụ đi vắng, bà cụ nói: "Cậu đi cắt tóc, tự dưng ông lão chống gậy bảo đi cắt tóc, đầu ngứa quá". Hàm răng đen của bà vẫn đều, chưa rụng cái nào, năm nay bà vừa tròn bảy mươi, mẹ hắn bảy mươi mốt, bà thứ nhất hơn bà chính thất một tuổi, lại xấu hơn, lại đã có một đời chồng mà sao ông già lại mê được nhỉ? Cũng là duyên số thế nào! Hắn ngồi chờ một lúc thấy mặt bà cụ tuy tươi tuy mừng nhưng vẫn thoáng có cái ngượng, cái lo, nó tuy là con cái trong nhà nhưng lại là một thằng Việt Cộng, tức là một thằng cộng sản, là cái quân thâm hiểm, đã nghĩ không bao giờ phải gặp lại mặt nó như âm dương đôi ngả, bỗng chốc nó lại lù lù hiện ra ngay ở cổng nhà! Hai mẹ con ngồi đối mặt nhau nhưng không phải là mẹ ruột với con ruột, ngoài vài lời thăm hỏi cũng chả biết nên nói với nhau những gì thêm nữa, vì một người muốn giấu và một người cũng chưa dám nói. Ví như phải hỏi các anh chị hiện giờ ở đâu, đã có gia đình riêng chưa, họ làm những nghề gì, còn ở Sài Gòn hay đã đi di tản. Cũng còn phải hỏi hiện nay bố mẹ ở với ai, các cụ sống bằng nguồn tiền nào. Thời thế thay đổi thì sẽ sống ra sao. Mẹ con không nói những chuyện cần nói ấy thì còn biết nói gì. Cái năm hắn về Hà Nội để tìm mẹ và em sau ngày giải phóng thủ đô, phải tìm đến lần thứ hai hắn mới biết mẹ đang sống với gia đình người cháu gọi bà là cô ruột. Anh ấy là y sĩ của chế độ cũ. Bà cũng không có nhà, cũng phải ngồi chờ vì bà hàng ngày phải đi bán trầu vỏ ở cùng một dãy phố. Ðã cho người đi gọi bà về nhưng hắn sốt ruột quá lại chạy ra ngoài ngóng, cũng lo lắng, hồi hộp không biết sau năm năm xa cách mẹ hắn có thay đổi gì nhiều không. Một lát sau hắn nhìn thấy bà cụ gánh đôi xảo từ xa đi lại, nhìn dáng người bước lểu đểu hắn nhận ngay ra mẹ, liền chạy ào lại, kêu to: "Mợ!" Bà cụ đứng sững lại, hất nón nhìn người gọi, nhận ra con, thế là nước mắt tràn ra chan chứa. Chả nói được câu nào cả. Hắn bước đi bên cạnh mẹ cũng chỉ hỏi được một câu: "Mợ vẫn khoẻ chứ? " - "Vẫn khoẻ, năm ngoái bị bệnh thương hàn đã tưởng chết". Mẹ con chỉ nói với nhau được có thế nhưng vẫn là nói rất nhiều bằng cái im lặng và những bước đi im lặng bên nhau. Về đến nhà mẹ hắn lại một câu thứ hai: "Thằng Toàn năm nay 19 rồi, nó cao cũng gần bằng anh mà gày lắm. làm sư bác ở chùa Hoè Nhai". Hắn nói: "Bán hàng thế này có đủ ăn không?" - "Ăn thì đủ nhưng lúc ốm đau thì lo lắm, cháu chứ có phải con đâu mà nhờ vả mãi được". Chả có câu nào mẹ nhớ con, mẹ mong đợi con, con về mẹ mừng lắm. Hắn cũng thế, chả nói được câu nào tình cảm như hắn vẫn nghĩ về mẹ trong năm năm xa mẹ.
Hắn ngồi chờ bố nghĩ ngợi mung lung một lúc lâu rồi xin phép về hẹn chiều sẽ quay lại. Bà mẹ già đứng lên tiễn, cũng không bảo ở lại ăn bữa cơm trưa đoàn tụ, không nói gì cả cứ như người cùng ở một thành phố lâu lâu lại thăm nhau để biết tin tức. Cũng có nhiều chuyện để nói nhưng không thể nói, đã biết hắn là người thế nào mà nói. Khoảng ba giờ chiều hắn quay lại, người ra mở cửa chính là bố hắn, vẫn nhận ra ngay nhưng đã lạ lắm, người gày tóp, tóc bạc trắng, bước di lom khom. Hai cha con cùng bước vào nhà lặng lẽ. Ông cụ nhìn hắn nói đi nói lại một câu như chả có chuyện gì quan trọng hơn để nói: "Không thể nào nhận ra anh, anh khác quá". Hắn cười mỉm: "Con năm nay bằng tuổi cậu lúc con về Nam Ðịnh". Bố hắn sinh năm Canh Tý, 1990, hắn sinh năm Canh Ngọ, 1930, năm 1945 bố hắn 45 tuổi, năm 1975 hắn cũng đã 45 tuỏi. Hai cha con, hai thời thế, hai số phận. Bố hắn lại nói: "Cái năm ấy chẳng qua là do hoàn cảnh...". Lời nói cứ nhẹ như không. Hắn nói liền: "Cậu mợ chả nên nhắc lại chuyện cũ làm gì. Ðược gặp lại cậu mợ là con rất mừng". Hắn đã nói rất thật lòng, cha con được gặp lại nhau sau mấy chục năm sóng gió đổi thay mới là chuyện lớn, chuyện quan trọng còn những oán giận một thời chỉ là chuyện nhỏ nhoi, vô nghĩa. Lúc chia tay bố hắn cũng không giữ lại ăn cơm, cũng không hẹn một bữa nào đó quay lại cùng ăn với gia đình một bữa cơm. Ðúng là họ đang có một chuyện gì đó rất khó nói, có thể nói với mọi người cùng cảnh ngộ nhưng không thể nói với đứa con đang ở phía bên kia. Và rất nhiều chuyện nửa vui nửa buồn sau đó mà hắn là nhân vật chính. Hắn đã rất chủ dộng và cũng biết điều trong mọi mối quan hệ, có nghĩa là người chiến thắng vẫn khiêm tốn, vẫn là đứa con của gia đình, đứa em của dòng họ, thưa gửi với mọi người kể cả với người làm ở các gia đình anh chị vì họ đều đã lớn tuổi. Hắn vừa trò chuyện vừa quan sát, và trong khi trò chuyện hắn luôn đặt mình là người đối thoại để không làm họ phật lòng, không làm họ buồn thêm và không giở giọng tuyên truyền chính trị bao giờ. Hắn quan niệm những việc đang diễn ra mỗi ngày, mọi người đều nhìn thấy, đều nghe thấy, là một thực tế có sức lay chuyển nhiều tín điều trước đây của họ. Một ông anh là thượng sĩ của chính quyền Sài Gòn, một người có những hai bằng tiến sĩ, hỏi hắn: "Tại sao lại có thể thế?", hắn trả lời rát nhũn nhặn: " Anh biết nhiều hơn em, nhưng nó đã là thế tất phải có những nguyên do rất xác đáng để nó trở thành như thế, phải tìm hiểu nó chứ không thể không chấp nhận nó". Chuyện nhà của hắn lại lồng trong chuyện nước ở vào một thời điểm lịch sử của dân tộc, mọi sự việc diễn ra trong tháng 5 năm 1975 đối với riêng hắn cứ như trong một kịch bản sân khấu theo cách viết cổ điển, lại thấm đẫm tính lãng mạn, hơi suớt mướt một chút, hơi "cải lương" một chút, cha con gặp nhau, Nam Bắc gặp nhau, quân xâm lược phải ra đi, dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập hoàn toàn, thống nhất được quốc gia sau hơn một thế kỷ nằm gai nếm mật. Quá đẹp như trong sự tưởng tượng của một tài năng văn chương hơi tầm thường, hơi đơn giản.
Hắn viết kịch Cách mạng như chép lại vở kịch của chính đời hắn. Chỉ khác là hắn loại hết mọi cảnh sướt mướt gặp gỡ, thăm hỏi, kể lể mà đưa ngay ông bố vào một tình huống hết sức khó chịu: trong những thành đạt của đứa con ông đã có phần công lao nào trong đó; ông có dám viết thư xin lỗi mẹ hắn hiện vẫn còn sống và đang ở Hà Nội? Hắn đã buộc ông phải đối mặt với chính mình, tự vấn mình và thú lỗi với khán giả. Hắn đã buộc các chính khách khôn ngoan của Sài Gòn phải trả lời những câu hỏi của một đại uý đội quân thất trận về thời thế, về thắng bại và cả về nhân cách của những người cầm đầu một quốc gia khi phải lựa chọn giữa quyền lợi của cá nhân và tính cách mạng, tài sản của dân chúng mà họ có trách nhiệm phải bảo vệ. Các nhân vật trong vở kịch buộc phải tranh cãi nhau, tố cáo nhau và nói hết những điều đã lâu họ rất muốn nói nhưng chưa có dịp để nói. Những lời nó tự bào chữa mà lại hoá ra tự buộc tội, đã từ lâu chỉ là lời nói thầm, nói với chính mình chứ chưa dám nói với ai này buộc phải nói công khai, nói không úp mở mà không có mặt một thằng Việt Cộng nào đứng đó gây áp lực cả. Việt, nhân vật gây sóng gió trong một gia đình, một dòng họ không xuất hiện một lần nào trên sân khấu, hắn chỉ hiện diện qua lời đối thoại của những người khác, màn kéo lên lại nghe nói hắn mới ở đây và chỉ vừa đi khỏi. Và các cuộc tranh luận vắng mặt hắn mới thực sự bắt đầu. Tất nhiên sự thắng bại trong cuộc sống không dễ dàng, rành rọt như trên sân khấu. Sau những ngày lãng mạn (cũng chỉ có một chút thôi) của cuộc trùng phùng cha con (hoàn toàn không mong đợi), ấy là diễn giải một cách văn chương, chỉ còn là sự tính toán tầm thường, thì vào cái lúc hỗn loạn có được một đứa con ở phe chiến thắng cũng là điều hay. Nhưng khi thời thế đã phân định rõ ràng, những tin đồn nhảm thưa dần đi, những cái lo sợ vô lý cũng nhạt dần đi thì sự có mặt của hắn chẳng những không cần thiết mà còn gây phiền phức vì cứ buộc phải nghĩ lại nhiều chuyện không muốn nhớ. Hắn càng ăn ở tử tế lại càng khó chịu, hắn được họ hàng tiếp đón như một thành viên chính thức của họ tộc, một thành viên sang trọng, hắn có mặt ở đâu là họ chỉ ngồi quây quanh hắn, trò chuyện với hắn và quên luôn các người con của bà chính thất, thì có thể nói tức đến ứa máu, đến ngạt thở. Năm 1976 hắn ra vào Sài Gòn đến vài lượt, lần nào vào hắn cũng đều có quà biếu bố mẹ, nhưng cái nhìn của ông bố cứ gườm gườm, ông có thể ngồi trước mặt hắn cả giờ mà không hề mở miệng, còn bà mẹ già thì cười rất nhạt, cái cười ớn rợn như của thuở nào. Thì ra họ chẳng thay đổi tí gì, vẫn còn nguyên vẹn cái ghét cái căm của ngày xưa, còn hơn cả ngày xưa. Tại sao thế nhỉ? Về sau hắn mới hiểu, người ta có thể tha thứ cho kẻ đã làm nhục mình chứ không thể tha thứ cho kẻ đã làm mình phải xấu hổ. Tha thứ cho những người đã từng làm nhục mình cũng là một khoái cảm của người thành đạt. Còn với kẻ đã làm mình phải xấu hổ thì tự giải thoát bằng cách nào? Phải bỏ hẳn cái mặc cảm là mình đã bị thua! Người ta có thể nhận là đã thua với người ngoài (cũng khó đấy!) nhưng không bao giờ dám nhận là thua với người trong gia đình. Thua ngay ở chỗ trốn nấp cuối cùng là thua hoàn toàn, thua triệt để, dẫu là thua với một đứa con!
Vợ hắn cũng thế. Cô ta có thể nhẫn nhịn chồng lúc còn trẻ vì họ vẫn bình đẳng trong trách nhiệm, trong kiến tạo một gia đình, anh kiếm ra tiền, anh có danh vọng nhưng tôi lại sinh cho anh những đứa con và chăm sóc nuôi dạy chúng khôn lớn. Anh có công tôi cũng có công, chả ai sống bám vào ai cả. Lúc trẻ hắn cũng đã nói với vợ nhiều câu rất tệ nhưng vợ hắn không để ý, không có mặc cảm thua kém chồng nên không chấp những câu nói thiếu cân nhắc của chồng. Hắn là người đọc sách, lại làm nghề của chữ nghĩa nhưng sống với vợ con giống hệt một người lao động làm nghề nặng nhọc, ăn to nói lớn, cười đùa rổn rảng, cáu gắt om xòm, sống quá hồn nhiên gần như tự nhiên đã để lại nhiều di chứng xấu cho con cái. Và vợ chồng hắn cãi nhau cũng giống hệt những gia đình bình dân, cãi nhau lúc sáng đến chiều đã làm lành, cãi nhau lúc tối đêm đến lại lăn vào nhau như chẳng có chuyện gì đã xảy ra. Nhưng về già thì phải sống khác, phải sống bằng những lề luật dã thành nếp nhà mới giữ được sự tôn nghiêm trước con cháu. Phải có nghệ thuật sống già. Ví như người già không nên nói to, cười to, không nên cáu gắt, la lối, khuyên bảo nhẹ nhàng thì được nhưng ra lệnh một cách nghiêm khắc là rất không nên, giới thiệu kinh nghiệm thì tốt nhưng khẳng định kinh nghiệm thì nên tránh. Có nhiều việc nên im lặng, nên lờ đi thì tốt hơn là biết, còn đã biết thì phải chọn người, chọn lúc để nói, có việc nói với con trai nhưng có việc chỉ nên nói với con dâu, có việc nên để vợ nói, lại có việc phải chính mình nói. Có khi nhờ đứa cháu nói lại tốt hơn chính ông bà nói. Ðều có luật cả. Luật vẫn thay đổi theo thời nhưng sự tôn nghiêm của những người già trong một gia đình thì xưa là thế nay vẫn là thế. Tóm lại về già phải sống bằng văn hoá chứ không thể sống bằng bản năng. Hắn rất sợ lời tán tụng: "người già mà tính trẻ". Thế là ra quái rồi, là nên lo chứ còn mừng nỗi gì!
Vợ chồng hắn về già không phải lo tiền bạc, không phải lo con cái, thế là sướng lắm, mà lại hoá ra có nhiều phiền muộn, vì giữa họ chưa tìm ra được một cách sống hợp lý của tuổi già. Cả hai đều lớn lên trong thời cách mạng và chiến tranh, của các cuộc cải cách xã hội, của sự đối nghịch giữa cách sống phong kiến, tư sản và cách sống xã hội chủ nghĩa, nói cho thật, cũng chả ai biết cái xấu, xấu như thế nào, cái tốt, tốt như thế nào, và gia đình mình phải sống như thế nào. Ðại khái sống có quá nhiều phép tắc, nhiều lễ nghi là cách sống của phong kiến, tư sản, sống hồn nhiên, giản dị, dễ dãi, có phần tuỳ tiện là cách sống của người vô sản. Những tiêu chuẩn giá trị mới chưa thành phong cách sống của một quốc gia, là nếp sống của mỗi gia đình, ở nơi công cộng thì sống và nói một cách khác, ở nhà sống với vợ con lại sống và nói một cách khác. Trong lề lối làm việc ở các cơ quan nhà nước lúc họp bàn, ra nghị quyết thì rất đàng hoàng, rất dân chủ nhưng trong quan hệ với dân, với nhau thì lại thiếu dân chủ và rất phong kiến. Người sống ngay thẳng, thật thà ngày một hiếm, người sống mưu mẹo, dối trá ngày một nhiều, con dối cha, vợ dối chồng, trò dối thầy, cấp dưới dối cấp trên, dân chúng dối nhà nước và ngược lại. Trong chiến tranh mọi người đều sống vì nghĩa lớn, đức hy sinh trở thành tính cách bao trùm của một dân tộc, mọi tham vọng cá nhân nhất thời bị loại bỏ, sống nay chết mai thì lúc sống phải cho đàng hoàng, lúc chết phải cho oanh liệt. Vào những năm ấy đã có một vị lão thành cách mạng trong một lúc cảm khái đã phải thốt lên: "Con người thời cộng sản chủ nghĩa cũng chỉ mong được như thế này". Và một vị khác cũng nói: "Ra ngõ gặp anh hùng!" Thời sau người ta hay đem những câu nói rất chân thật của một thời thành chuyện khôi hài lúc trà dư tửu hậu là rất nhầm. Cũng như lấy cái thật của một thời khái quát thành cái thật của mọi thời lại càng nhầm.
Nhiều năm trước hắn đã nghĩ, thời trẻ vất vả, thiếu thốn vẫn chịu được chỉ mong về già đời sống dư dật, con cái trưởng thành, được an nhàn tí chút là đã có phúc lắm. Về già hắn được sống đầy đủ hơn thời trẻ nhiều, hầu như không có gì phải lo mà hoá ra cuộc sống gia đình lại ngột ngạt hơn cả những năm còn trẻ. Có lúc hắn đã nghĩ đến cái chết để thoát khỏi cảnh ngộ nửa khóc nửa cười này. Với hắn là một tai hoạ bất thần ập xuống, không thể tính trước, không thể ngờ tới nhưng nghĩ cho kỹ, một gia đình sống tuỳ tiện, sống không có kỷ cương làm sao tránh được bi kịch lúc đã về già. Lấy ngay cái gia tộc của hắn làm một ví dụ: Ông nội hắn có những bốn bà vợ, bốn dòng con mà những đứa con của các dòng thứ vẫn rất hiếu kính với mẹ già, anh em một đời chăm sóc lẫn nhau và cả con cháu của nhau. Ðó là cách sống của các danh gia vọng tộc nên sự hoà thuận của anh em con cháu còn giữ mãi cho đến tận bây giờ, sau gần một trăm năm. Bà mẹ già của hắn xuất thân tầm thường, gặp may mà vào được nhà quan, lấy được chồng quan nên không biết cách ứng xử cho đúng với sự tôn nghiêm của một dòng họ, sinh ra ghen tuông, sinh ra hận thù, không chỉ hại đời mình mà còn hại cả đời con đời cháu. Cũng là một gia đình không tạo được gia pháp gia phong, nên chưa được một đời mà cả phúc lẫn lộc đều cạn kiệt, con cháu ly tán không kết tụ thành một tộc hệ, vinh dự cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia.
29.
Từ năm 1980 tới 1988 hắn viết được năm cuốn tiểu thuyết, mỗi cuốn chỉ khoảng dưới 200 trang: Gặp gỡ cuối năm - Thời gian của người - Ðiều tra về một cái chết - Vòng sóng đến vô cùng - Một cõi nhân gian bé tí. Và cả năm cuốn đều đọc được cả, đều được hắn chọn đưa vào Tuyển tập tiểu thuyết in năm 2001. Có thể nói cả năm cuốn sách đó đều do phần đất phía Nam của tổ quốc ban tặng cho hắn. Cho hắn đề tài, cho hắn ý tưởng, cho hắn nhân vật và bao trùm là tư tưởng dân chủ của một miền đất đã thoát khỏi tư tưởng phong kiến từ lâu. Mỗi nhân vật là một phát hiện, một kinh ngạc đối với hắn, vì hắn chưa từng biết, chưa từng gặp. Ngay đến những người thân thuộc trong gia đình cũng mỗi người mỗi vẻ và người nào đối với hắn cũng đều quan trọng, đều hấp dẫn trong sự tìm hiểu mãi mãi của hắn về lai lịch của con người. Hắn gặp Quân vào những ngày đầu tiên của Sài Gòn vừa giải phóng tại gia đình, rồi gặp anh ở quán cà phê với bạn bè, gặp anh lang thang ở khu chợ bán chó, bán cây kiểng, rồi gặp anh ở Hà Nội tại một cơ quan hết sức quan trọng như là một chuyện không thể có thật, mà hoá ra có thật. Nhận được ra một nhân vật có thể chuyển tải được ý tưởng của mình là đã tìm đuợc việc làm cho những ngày sắp tới. Còn nhận được ra nhân vật của mình trong môi trường hoạt động quen thuộc của họ tức là cuốn sách đã được viết non nửa. Hắn đã gặp ông Hai Riềng tại khu vườn ươm của nông trường cao su Dầu Tiếng, gặp chị Ba Huệ tại văn phòng huyện uỷ huyện Thống Nhất tỉnh Ðồng Nai, gặp linh mục Vĩnh tại nhà thờ chánh toà của Sài Gòn, gặp anh Mười tại xã Ðốc Binh Kiều của tỉnh Ðồng Tháp, và gặp các nhân vật "phản loạn" muốn cải tạo giáo hội Cao Ðài cho phù hợp với vận hội mới ngay tại vùng đất của toà thánh Tây Ninh. Mỗi người trong bọn họ lại kéo theo hàng loạt bạn bè, người thân, kẻ thù chìm nổi trong sóng gió của chiến tranh trong suốt ba chục năm, người đã lạ, chuyện đời của họ lại càng lạ, hắn nghe họ kể ngày này qua tháng khác, đi về cả năm cái nơi hắn sẽ viết mới dần dần nhập vào hồn cốt những mẫu người rồi ra sẽ là các nhân vật văn học trong cái thế giới tiểu thuyết của hắn. Cũng rất may các nhân vật ấy đều là người cùng thời với hắn, dẫu nghề nghiệp khác nhau, cảnh ngộ khác nhau, số phận khác nhau nhưng vẫn hiểu nhau hoàn toàn, lấy chính mình mà hiểu họ, lấy sự từng trải của mình hoà lẫn với sự từng trải của họ, nhưng hồn cốt là của hắn, lắm lúc chính hắn cũng không phân biệt được trong một nhân vật phần nào là của người, phần nào là của hắn. Thông thường câu chuyện là của đời, giọng kể là của hắn, hắn đến với bạn đọc chủ yếu là nhờ vào cái giọng kể, nó là từng trải, là nỗi niềm, là tâm sự, là cái vui và cả nhiều cái buồn suốt một đời của hắn. Giọng kể chính là cái hồn của hắn đã nhập vào chữ nghĩa, nhịp điệu để được đi sóng đôi với bạn đọc cho đến trang cuối cùng của cuốn sách. Tất nhiên chỉ ở những cuốn sách hay mới có giọng kể, còn ở những cuốn sách dở thì giọng kể quen thuộc đã biến mất chỉ còn lại một kẻ thuật chuyện vô danh và vô duyên thôi. Theo hắn năm cuốn sách viết trong những năm 80 đều có giọng kể riêng cả.
Trong tám năm hắn viết năm cuốn sách, lại đã ở vào quãng tuổi ngoài 50 xấp xỉ 60, viết như thế là khoẻ, sức viết có thể sánh ngang với vài vị nhà văn tiền bối, nhưng lại là những năm hắn và vợ con phải sống túng thiếu nhất, vất vả nhất. Tiền nhuận bút không thay đổi nhưng cuộc sống của người cầm bút đã thay đổi trong sự di chuyển từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài Bắc lương chồng đại tá, lương vợ thiếu tá đã là một gia đình vào bậc trung lưu trở lên, chưa kể còn có tiền nhuận bút thêm vào. Ở thành phố Hồ Chí Minh ăn vẫn theo chế độ bao cấp nhưng tiêu thì chả ai bao cho, mà cái tiêu ở một thành phố lớn thì vô chừng, vài lần đóng góp giỗ tết, ma chay, cưới xin là coi như hết nhẵn. Năm ấy viên chức nhà nước, sĩ quan quân đội không phải trả tiền nhà, tiền điện, tiền nước nên mới có "phong trào" ăn cắp điện làm nước đá bán cho các quán giải khát. Một tủ làm đá giá tiền khoảng hai chỉ vàng, có nhà hàng xóm có ba tủ, hai lớn một nhỏ. Năm vào Sài Gòn vợ chồng hắn không có một phân vàng nào, có vài chỉ vàng đã gửi lại cho các em bán dần nuôi mẹ ốm. Thế là vợ hắn phải đi làm thuê, tức là nhận cho người ta đặt tủ đá ở nhà mình, tiền bán đá chia đôi. Một ngày một đêm lấy được ba mẻ đá cục, bỏ vào các lon nhỏ. Nhưng chỉ khoảng 3, 4 giờ đã có thể gỡ ra vài chục lon nước đặt trong cùng đã thành đá, nếu chịu khó một ngày cũng có thể được thêm một trăm viên của riêng mình, không phải chia với ai cả. Nhưng mà cực. Nửa đêm đang ngủ say với chồng con chợt nghĩ tới mòn "đá ăn cắp" đó là vợ hắn liền vùng ngay dậy chạy sồng sộc vào mở tủ đá, dùng chính bàn tay mình xỉa thẳng vào và lấy ra những cục đá trắng toát. Tiểu thư thành phố không thể làm được, chỉ có các cô nông dân với bàn tay to và khoẻ mới dám làm, làm như không, chả thấy mệt nhọc gì. Vợ hắn đã được bạn bè của Ðoàn văn công sau này là Ðoàn Kịch tặng danh hiệu "B. xe tăng" vì sức khoẻ và sự tháo vát trong những công việc nặng nhọc còn hơn các công tử thành phố nhiều. Vệ sinh doanh trại, dọn kho phim và chuyển kho phim những năm sơ tán vợ hắn bao giờ cũng là tướng tiên phong. Năm chửa đứa con thứ ba đã được năm sáu tháng, cơ quan cho xe lên vùng đất sản xuất dỡ khoai, dỡ sắn gì đó, vợ hắn xung phong xin đi, cản thế nào cũng không được, còn nói: "Các anh không cần em đi luộc sắn cho các anh ăn à? Nấu xôi sắn tươi rưới thêm tí mỡ hành còn ngon hơn nem công chả phượng". Thế là cô ấy được đi. Tới nơi cô ta tổ chức dỡ sắn, bóc sắn, làm món xôi sắn như đã hứa, giờ nghỉ cầm dao phát chặt đám cây nhỏ mọc lúp xúp quanh đồi, chặt chơi bời thôi mà cũng được mấy gánh củi vứt lên xe phải đun được cả tháng. Ðêm đi đẻ buổi chiều còn đèo bằng xe đạp các thứ quần áo chăn màn và đồ dùng lặt vặt về nhà mẹ chồng vì vợ hắn sẽ nằm cữ ở đấy, bãi Phúc Xá sắp vào mùa lụt rồi.
Vợ hắn đẻ thằng út, nhà không có ai giúp, nhờ chồng nấu cơm, nấu cháo, nấu nước tắm cho con nhỏ và giặt tã lót mấy ngày đầu mặt chồng nhăn như mặt khỉ, động nói động gắt mà nào có phải việc của hàng xóm. Gái đẻ bị chồng xử tệ là dễ uất lắm nhưng vợ hắn vẫn cười, nói năng với chồng vẫn dịu dàng vì cô ấy biết tính chồng, người lười phải làm việc vặt là khổ tâm lắm, chứ không phải lòng dạ đã thay đổi, nên không chấp. Có một chị lớn tuổi đã nói với vợ hắn: "Thằng chồng có lúc nó là bố mình, có lúc là con mình, cứ nghĩ thế là bỏ qua được hết".
Trong những năm ở Hà Nội, gia đình hắn chưa bao giờ phải thiếu tiền, hắn chưa bao giờ phải nghĩ đến tiền, phải tính toán, cân nhắc việc tiêu tiền. Tiền lương tiêu đã không hết lại còn tiền nhuận bút. Hàng xóm hỏi vay năm hào một đồng, mỗi lần gặp người cho vay lại xin khất, giọng nói nét mặt nom rất thảm. Nhà văn không phải lo sinh kế, không phải chạy tiền là chả hiểu bao nhiêu về những người đang sông quanh mình, văn chương hoá ra cao xa, hoá ra trong veo vì thiếu hẳn cái đục của trần gian, mùi bùn của trần gian. Nên trong rất nhiều năm hắn chả viết được gì về cái khu tập thể bám theo ven sông của hắn. Phải vào sống ở thành phố Hồ Chí Minh hắn mới trở lại làm nhà văn của mọi thời, nghĩa là luôn luôn thiếu tiền. Và những người có tiền, có quyền coi thường hắn, khinh rẻ hắn, dẫu hắn là một đại tá, lại là một nhà văn. Bà Ðại là bà chị con cô con cậu, con trai và hai người con gái sang Mỹ ở từ trước năm 1975, còn lại ở thành phố chỉ có cô con gái út, con rể và hai đứa con của họ. Mấy năm đầu mỗi lần hắn đến chơi với chị, cháu gái, cháu rể đều chào: "Cậu đến chơi ạ", những đứa trẻ khoanh tay cúi đầu: "Ông đến chơi". Hắn cũng chưa hỏi xin hỏi vay tiền các bà chị bao giờ, nhưng các chị cho gì đều nhận, mà của cho cũng nhếch nhác lắm, là cho người nghèo, người không được trọng. Lâu dần mỗi lần hắn đến chơi cũng chả ai buồn chào hắn, đến chơi tay nhẹ lúc về tay nặng, toàn thứ tập tàng nhưng không nhận lại phải mua, nhà có tiền không dùng nhưng nhà nghèo vẫn phải dùng. Chị và các cháu sẽ khinh nhưng vợ con lại mừng, thôi, lấy cái vợ con mừng làm nước rửa đi cái nhục, chả sao cả. Con trai lớn nhờ bạn xin mãi mới được chân chạy bàn của một khách sạn nhà nước. Nhưng lúc con được về chơi cả nhà xúm xít nghe nó kể nó đã được ăn những món gì, đến tên gọi cũng lạ nói gì đã được nếm, toàn thức ăn thừa, nhưng làm bồi được ăn thừa là sướng hơn các em ở nhà rồi, con chị xuýt xoa, thằng em gầm gào: "Ngon thế mà chỉ biết ăn một mình". Còn bố mẹ thì sung sướng lắm vì con được ăn những miếng ngon. Rồi nó bị đuổi việc cùng với mấy đứa bạn do bị nghi đã lấy cắp khăn trải giường. Rồi lại được nhận làm tiếp vì kẻ cắp từ ngoài trèo vào chứ không phải người ở trong khách sạn nhưng con hắn phải đổi đi làm nhà hàng khác, nhỏ hơn, lương ít hơn. Thế là hắn phải chạy đến xin với giám đốc cho con được ở lại vì nó đã quen việc. Hắn ngồi chờ ở hành lang, hai tay thu vào lòng, điệu bộ lo lắng, khúm núm. Giám đốc bước vào cùng với các trợ lý, hắn đứng bật lên, giám đốc hất hàm hỏi: "Bác là ai, đến có việc gì?" Hắn phải nói thật nhanh lời xin của mình rồi nín lặng chờ đợi. Giám đốc nhìn quanh quéo một lát, hình như ông ta đang đợi ai đó chứ chả để lọt tai những lời nói đã được tính toán đến từng chữ của hắn rồi bảo: "Bác cứ về đi, nếu nó phải làm nơi khác bác có bằng lòng không hay xin thôi việc hẳn." Hắn cười mếu: "Dạ, thưa anh, tuỳ anh quyết định" Nhà thơ Trần Nhật Thu có sáng kiến tổ chức một quán ăn mà đội quân chạy bàn là các văn nghệ sĩ vừa hấp dẫn khách ăn vừa có tiền nhét túi cho các nghệ sĩ. Nhưng quán ăn không thành nên hắn vẫn thất nghiệp. Lại có lời mời hắn tới ngủ đêm tại một nhà hàng, là ông bảo vệ nhưng được ngủ ở phòng giám đốc có máy lạnh, có điện thoại, được ăn bữa cơm chiều, bữa điểm tâm sáng, lương tháng khoảng vài trăm, vừa nhàn vừa đỡ túng. Hắn cũng nhận nhưng chờ mãi không thấy ai nhắc lại, rồi cũng thôi. Bạn bè có gợi ý hắn viết hồi ký thuê cho một số vị giám đốc các ngành công nghiệp có thành tích nổi trội, tên tác giả là của người bỏ tiền, mình chỉ là thợ sắp xếp câu chuyện, đẽo gọt chữ nghĩa, nếu sách viết hay có nhiều bạn đọc, có dư luận tốt thì còn được thưởng thêm tiền. Nhưng hắn từ chối phắt. Xưa nay hắn chỉ viết những gì hắn thích, xác của người hồn của hắn, chứ chưa viết thuê bao giờ. Ðói chết thôi chứ hắn kiên quyết không đi làm cái nghề hầu bút. Hắn cũng có tài viết truyện trinh thám, gián điệp nhưng hắn nhất định không dính vào, chuyện săn người, bắt người chỉ là cái vỏ, còn cái ruột phải là những vấn đề khác cần nói hơn, đáng nói hơn. Ðói thế, túng thế mà vẫn viết được năm cuốn sách tiếp tục một phong cách, tiếp tục một dòng tư tưởng, chính hắn cũng phải tự khen sống thế là được, viết thế cũng là được, có thể chưa hay nhưng không làm tổn hại đến nhân cách của một cây bút.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]( ) Ông Vĩnh Thị (Bảo Ðại)
Nguyễn Khải
Thuợng đế thì cười (kỳ 12)
30.
Năm 1990, hắn vừa tròn sáu mươi tuổi, là cái tuổi đã hoàn thành mọi việc lớn để chuẩn bị cho cái chết. Nhưng nhìn vào đâu hắn cũng thấy buồn. Buồn nhất và lạ nhất là sự tan vỡ của Liên bang Xô Viết và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu. Các thiết chế về chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội của một quốc gia hùng mạnh vào bậc nhất của hành tinh chỉ một sớm một chiều sụm hẳn xuống, nằm thẳng đơ và rã ra như đã mỏi mệt đến cùng cực. Các chính khách nổi tiếng một thời khi ánh hào quang của một siêu cường vừa tắt, lập tức hiện ra như một đám viên chức già nua cũ kỹ, hoàn toàn bất lực trước tình thế mới. Thế giới mất thế quân bình trở nên hỗn loạn với các cuộc chiến tranh vô lý và kéo dài về sắc tộc về tôn giáo. Bao nhiêu niềm tin cao đẹp của những năm đầu thế kỷ bỗng chốc hoá ra vô nghĩa. Văn chương, học thuyết, kinh sách chỉ là những trò chơi trí tuệ phù phiếm vì đã chả làm gì được để ngăn chặn hai cuộc thế chiến, và cũng chả làm gì được trước những la hét, hành động rồ dại của một nhân loại đã mất hết những kinh nghiệm lịch sử trở nên nông nổi, hung bạo. Hắn rất buồn nhưng không hoang mang vì chất viết của hắn luôn lấy xung đột, lấy sự phát triển biện chứng làm nền của mọi câu chuyện. Xưa nay hắn vốn đã không tin câu chuyện thần tiên về một thiên đường dưới hạ giới. Con người vốn có nhiều khiếm khuyết lại muốn tạo dựng một xã hội thật hoàn hảo, không có khiếm khuyết là chuyện không thể có, là chuyện không thật. Xã hội Nga và con người Nga hiện giờ là rất chân thật, thật hơn thời còn là Liên Xô nhiều, vì họ đã phơi bày cái mạnh cái yếu của một dân tộc, một thể chế hết sức tự nhiên, không che giấu. Hắn rất ngưỡng mộ ông Putin, tổng thống Liên bang Nga hiện giờ, ở ông hắn nhận ra một chính khách kiểu mới, có phong cách một nhà lãnh đạo quốc gia ở thế kỷ 21. Hắn thường so sánh hai nhân vật kiệt xuất của nền chính trị Nga trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, đó là Lê nin và Putin. Cả hai ông đều lên cầm quyền trong một bối cảnh xã hội hết sức rối ren, Lê nin phải nói rất nhiều và viết cũng rất nhiều. Còn Putin không nói gì cả, cũng không viết gì cả cứ lặng lẽ làm, cắm cúi làm, cũng không hứa hẹn gì nhiều, lại còn nói với cử tri xin đừng trông đợi quá nhiều ở ông, ông làm gì có phép lạ để trong một thời gian ngắn có thể thay đổi được tất cả. Nói thế là một nhà chính trị rất chân thực, rất có lương tâm.
Những năm 90 cũng là những năm cuối của đời hắn, hắn hay nghĩ lại những năm tháng đã qua, những việc đã làm, những người đã gặp, rồi bằng sự từng trải của tuổi tác hắn đã nhận ra vẻ đẹp của đời thường và sự bất biến của những tính cách mới được xác lập trong nửa thế kỷ qua sẽ thành máu huyết của dân tộc, thành tính cách Việt Nam. Nói thì dễ nhưng hiểu được vẻ đẹp của đời thường với riêng hắn cũng phải mất nửa thế kỷ. Nhận ra vẻ đẹp một cách nên thơ, trong ánh sáng của bình minh thì hắn đã nhận ra từ Mùa lạc, Hãy đi xa hơn nữa từ những năm hắn mới 30 tuổi. Nhưng nhận ra vẻ đẹp của thất bại, của vất vả, trầm luân trong cái quầng sáng vàng úa của hoàng hôn thì phải từ năm hắn đã 50 tuổi khi hắn viết Hai ông già ở Ðồng Tháp Mười. Mãi mãi hắn không quên được ông già thư ký của một trạm máy kéo ở Ðồng Tháp Mười, người gày nhỏ, tóc bạc trắng, đứng đơn độc dưới tán cây gáo cổ thụ nhìn theo cái xuồng máy của bọn hắn rẽ nước rời xa một rẻo đất mà hắn nghĩ sẽ không bao giờ có dịp quay lại. Cũng năm 1990 hắn trở lại làng Tả Thanh Oai, tục gọi là làng Tó, nằm bên tả ngạn sông Nhuệ. Ðó là quê của nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao Ngô Thì Nhậm, đất phát tích của dòng họ Ngô Thì và được gặp hậu duệ của dòng đích tên là Trác, chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp. Năm 1944, hắn mới 14 tuổi cùng mẹ và em tản cư về làng Tó, quê của một bà bạn của mẹ, tránh máy bay Mỹ. Mẹ hắn phải đến trình báo với lý trưởng làng và biếu quà, ông này cũng thuộc dòng Ngô Thì. Mấy mẹ con tới xin ở nhờ ngôi chùa làng gọi là chùa Thắm, cách mộ ông bà Ngô Thì Nhậm có một quãng đường ngắn. Một năm ở chùa, hắn thuộc lòng mọi cung cách trong sinh hoạt của các sư, mối quan hệ giữa sư cụ trụ trì với các sư đệ tử trông nom các chùa khác, rồi ngôn ngữ nhà chùa, ngôn ngữ của đám con nhang đệ tử, của các vãi. Trong kháng chiến chống Pháp mấy năm đầu mẹ và em hắn cũng ở nhờ chùa Phương Cái kề sát thị xã Hưng Yên. Hai mẹ con bán hàng xén ở chợ Bảo Châu, không đủ ăn lại làm nghề bóc vỏ hạt sen, chủ đầm sen không trả tiền mà trả công bằng các đấu hạt sen ăn thay cơm, vừa đói vừa thèm cơm lại ăn mày cơm nhà chùa. Rồi sư cụ cho em hắn làm tiểu chùa, mẹ làm vãi chùa quét dọn, hầu hạ sư cụ, chùa nuôi luôn cả hai mẹ con cho tới ngày cụ mất. Thời đi kháng chiến hắn đã làm y tá một trạm xá của tỉnh đội Hưng Yên cũng là một ngôi chùa làng, chùa Cốc thuộc huyện Kim Ðộng. Mãi mãi hắn không thể quên sư bác chùa Cốc hơn hắn vài bốn tuổi, đẹp và thanh mảnh như bông huệ, là chị cứu thương, chị nấu cơm, rồi giặt giũ, khâu vá quần áo cho các thương bệnh binh và bằng cái vẻ đẹp thoát tục chị đã làm ngôi chùa trạm xá thành nơi an ủi, tĩnh dưỡng về cả tinh thần. Những ngôi chùa làng với những nhà sư làm quần quật từ sáng sớm đến nửa đêm, làm ruộng làm vườn, gánh rau ra chợ bán, ủ tương, đóng oản mà mặt vẫn tươi, không than khổ bao giờ, không kêu khó bao giờ, từ bi hỉ xả là những kỷ niệm đầy yêu thương và rất đẹp của hắn những năm còn trẻ. Những tình cảm ấy, những nhớ nhung ấy hắn đều đưa vào truyện vừa Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu. Một nhà sư đã rời bỏ một môi trường vốn rất u tĩnh của kẻ xuất gia bỗng chốc nhốn nháo bởi những thói hư của thế tục, lại trở về ngôi chùa vô danh từ đó ông đã ra đi, để tìm lại chính mình. Một đại tá quân đội sau nhiều chục năm nam chinh bắc chiến nay trở về làm ông già bình thường sống với con gái và cháu ngoại. Mọi tham vọng đã thuộc về quá khứ, cái nghĩa vụ làm trai thời chiến đã hoàn thành, đôi bạn tưởng là rất xa nhau về lý tưởng về cách sống lại cảm thấy rất gần gũi nhau khi cùng ngắm cảnh hoàng hôn.
Hắn ở lại Tó vài ngày và ở với gia đình Trác, vì Trác là chủ nhiệm hợp tác xã mà cũng vì muốn được quan sát kỹ hơn một giọt máu của cái dòng họ đã sinh ra nhiều nhân vật nổi tiếng về cả chính trị lẫn văn chương trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, xem thử có còn dấu tích gì lưu giữ được cho đến hôm nay. Càng trò chuyện với Trác hắn càng buồn cười vì ông cháu hôm nay chả giống chút nào vói các cụ tổ nổi tiếng thời xưa. Trác không đọc sách và cũng không thích đọc sách, chả biết một tí gì về công tích và văn chương của các cụ tổ nhà mình. Trác đã đi lính chiến đấu ở mặt trận Thừa Thiên, hết chiến tranh lại sống sót thì về nhà đi cày, gặp thời buôn bán dễ dãi thì đi buôn làm giầu như mọi người. Sáng chưa rõ mặt người vợ Trác đã đội thúng bánh cuốn tráng trong đêm ra đầu làng chờ xe buýt lên Hà Nội, khoảng trưa đã về lại ra đồng làm mầu hoặc bắc nồi rượu nấu. Chồng buổi sáng ra nhà để máy xay xát mới mua nhận thóc xay, chiều ra trụ sở hợp tác xã, sau bữa rượu tối hai vợ chồng lại chụm đầu tính toán tiền thu chi trong ngày. Mà vui lắm, ai cũng có việc làm, việc nào cũng kiếm ra tiền, tháng này vài triệu, tháng sau vài triệu, một năm là bao nhiêu triệu, hy vọng gần, tham vọng cũng nhỏ nhoi, còn việc thì làm hết việc đặt lưng xuống là ngáy bằng sấm, Trác nói thế. Còn nói: "Em bốn mươi tuổi rồi đấy nhưng ai cũng bảo chỉ ngoài ba chục là cùng, chả lo gì hết, việc nước có cấp trên lo, việc xã có xã lo, em chỉ lo mỗi việc của hợp tác xã, từ ngày khoán hộ làm chủ nhiệm cũng nhàn lắm". Nói rồi cười, lại tớp một ngụm rượu, nhai một miếng thịt, sướng thế mà bảo chưa sướng thì thế nào mới là sướng. Ờ, nghĩ thế cũng phải, làm người nổi tiếng mà làm gì, toàn chết bất đắc kỳ tử với chết yểu thôi. Ngô Thì Sĩ giận con là Ngô Thì Nhậm phải uống thuốc độc tự sát năm 54 tuổi. Ngô Thì Nhậm thì bị kẻ thù đánh gần chết ở Văn Miếu, thọ 57 tuổi; Ngô Thì Chí, em Ngô Thì Nhậm, tác giả Hoàng Lê nhất thống chí, hưởng dương có 35 năm. Làm anh chủ nhiệm hợp tác xã mãn nguyện, mặt phẳng lì như trẻ thơ, sáng làm đĩa bánh cuốn ăn với giò với chả, tối làm cút rượu nhắm với dồi lợn, với thịt chó. Mọi người đều sống như thế cả, suốt chiều dài của lịch sử người dân chỉ có mấy việc phải làm, đi lính khi nước có chiến tranh, rồi đi cày, lúc rảnh rỗi thì đi buôn, truyền từ đời này sang đời nọ, chả tiếng tăm gì cả, chả lưu danh gì cả nhưng bãi hoang, rừng rậm đã thành làng, thành ruộng, thành đường, thành các dòng họ, thành dân tộc, thành quốc gia, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em, bè bạn, hàng xóm láng giềng của các danh nhân, danh tướng. Họ là những vật liệu nguyên sơ, luôn luôn có sẵn, chỉ đợi một nháng lửa, một trận gió là lập tức bùng cháy thành ánh sáng, thành hào quang làm rạng rỡ cả một thời. Viết về những số phận nhạt nhẽo, tầm thường với những vui buồn bé nhỏ là rất có lý. Vì không có cái nhạt nhẽo của một ngày, một đời, của nhiều đời thì lấy gì mà nuôi dưỡng những nhân vật xuất chúng, kỳ tài. Và... tất cả bỗng nhiên thay đổi trong con mắt của hắn. Nói một cách ngoa ngôn hắn có thể viết được tất cả những gì nằm trong tầm nhìn tầm nghĩ của hắn. Hắn đã bước vào một thời kỳ viết mới ở tuổi sáu mươi, bắt đầu từ cái truyện ngắn miêu tả cái thân phận buồn cười của chính hắn trong cái buổi giao thời, từ cái thời kinh tế được chỉ huy bằng các biện pháp hành chính, xã hội xếp hàng dọc đợi đến lượt mình mua hàng, in sách, đề bạt và cả đợi lượt được thi thố tài năng sang cái thời kỳ kinh tế theo cơ chế thị trường, theo luật cung cầu, đồng tiền chỉ huy tất cả, nó là bản vị mới của mọi giá trị, "là tiên là phật" như lời ca của một bài đồng dao thời hiện đại. Nhưng hắn sinh ra là để sống trong trật tự, trong xếp hàng chờ đến lượt mình, ngoan ngoãn, khiêm nhường, làm sao có đủ bản lãnh để nhảy vào một thế giới cạnh tranh. Có người khuyên, hãy viết truyện tình báo, gián điệp, truyện ái tình tay ba tay tư, truyện giám đốc ăn cắp tiền công và ngủ với các cô thư ký, và tên sách phải đặt cho kêu, gợi được sự tò mò, bìa sách phải có đàn bà đẹp, con gái đẹp, có súng và xác chết, hãy làm thử đi, làm được đấy, mấy cô thợ may ở Ðồng Nai còn viết được tiểu thuyết mỗi năm vài cuốn, huống hồ là một nhà văn chuyên nghiệp. Hắn đành cười xoà và nhận thua, cái thời này đâu còn là của hắn mà lại mong xuất đầu lộ diện. Hắn chỉ viết được những gì hắn muốn viết, hắn viết về cái nhạt nhẽo, cái tầm thường của mỗi ngày, của một đời vậy. Trước hết viết ngay chính hắn trong cái truyện Anh hùng bĩ vận. Bạn đọc tìm đọc và mủm mỉm cười, thế là thắng rồi. Rồi hắn viết ngay chính bà chị hàng xóm sống với nhau gần hai chục năm ở xóm lũ. Một người vợ tự nguyện làm nô lệ cho một ông chồng rất vô tích sự mà vẫn sợ người ta giận rồi người ta bỏ thì khổ. Với chị ông chồng đã là thần linh rồi, phải chiều chuộng, sớm tối nhang đèn chứ không nên trách, không nên oán và cũng không nên buộc ông chồng phải chú ý, phải nhúng tay vào những việc nhơ nhớp của cõi phàm, như lương đưa không đủ nên nợ chưa trả được, con không được bố dạy dỗ nên học kém, ham chơi thành đứa trẻ, như... Trong truyện vợ chồng chị Vách có nhiều chi tiết của chính vợ chồng hắn, vợ hắn là chị Vách, còn hắn cũng không đến nỗi tệ như ông chồng của chị, cũng là người có tiền và có danh nhưng cách đối xử với vợ thì chẳng sai chút nào. Viết về người lại được dịp tự cười với mình nên câu văn vừa hoạt vừa vui, viết rất nhanh, rất thoải mái, truyện Ðời khổ được bạn đọc hoan nghênh ngay. Khi tới thăm động Từ Thức ở Nga Sơn hắn chỉ chú ý có gia đình anh thương binh mù, còn bỏ ngoài tai cặp vợ chồng thần tiên Giáng Hương - Từ Thức. Chuyện thần tiên là chuyện để giải trí còn chuyện cặp vợ chồng anh thương binh là một biểu tượng của tính cách Việt Nam. Người chồng vì lòng kiêu hãnh dám chấp nhận thử thách, người vợ vì lòng kính trọng người đàn ông mà chị ngưỡng mộ tự nguyện bù đắp cho anh bằng một gia đình yên ấm mà chỉ riêng có một mình chị phải gánh chịu mọi nỗi nhọc nhằn. Ðó là truyện Cặp vợ chồng duới chân động Từ Thức. Rồi lại chuyện một bà hàng xóm, là người làm tương ngon nổi tiếng còn sót lại của đất Cự Ðà, đòi lên Hà Nội để ẵm cháu đích tôn, thành một bà vú già nửa quê nửa tỉnh, sống gượng gạo, giả dối, con dâu thì lườm, con trai thì gắt vì bà không được sống đúng với nghề nghiệp của mình, với môi trường của mình. Cũng như một người viết văn thì rất tồi nhưng làm công việc quản lý, quản trị thì tuyệt giỏi, trong nửa năm cầm quyền đã thay đổi hẳn bộ mặt cơ quan. Hãy múa võ trên mảnh đất của mình, chả ai dám tranh tài với anh cả (Người của nghề). Lại có một chuyện nếu không phải là hắn cũng khó có nhà văn nào nhận ra và viết được. Ấy là một người sống vì quá tôn trọng đồng loại lại bị chính đồng loại khinh lờn. Cũng là chuyện của chính hắn khi thằng con lớn bảo hắn sống bình dân quá, nói năng khiêm nhường quá, nói với ai, kể cả với đám trẻ con cũng vâng cũng dạ nên hàng xóm đâm coi thường. Hắn nói: "Sống tử tế, sống khiêm tốn người ta không thích à?" Nó cãi: "Ở đời người ta thích được làm bạn với người giầu người sang chứ ai thích đánh bạn với người hèn, người nghèo". Hắn cười: "Ai dám bảo tao hèn?" Nó cũng cười: "Không hèn nhưng dáng điệu của bố lắm lúc cứ khúm núm thế nào." Khoảng những năm 80 khi viết tiểu thuyết Ðiều tra về một cái chết, đoạn viết về đội Trấn, một người theo đạo Cao Ðài đăng lính sang Pháp tham dự thế chiến 2, được tặng huân chương, được thăng cấp đội, có lần qua Mã Ðảo liền vào thăm hộ pháp Phạm Công Tắc đang bị quản thúc ở đấy. Năm ở nhà ông Hộ pháp ngồi trên ngai rắn, giáo đồ quỳ dưới đại điện, cái khoảng cách ấy đã gây uy, gây nghiêm cho người cầm đầu mối đạo, tạo nên những ấn tượng thiêng liêng với giáo đồ. Ở nơi bị quản thúc ông hộ pháp cũng giống như mọi can phạm chính trị khác, còn đội Trấn lại là người có công với nước Pháp, được đặc cách tới thăm bạn tù thành thử ông giáo chủ hoá ra ông già bé nhỏ, tầm thường trong cách nói, cách cười, cách hỏi han. Vầng hào quang bao quanh vị giáo chủ đã biến mất thì lòng tin mê muội của giáo đồ cũng lập tức tàn lụi theo. Ðó là nguyên nhân sâu xa cái chết bí ẩn của đội Trấn khi anh trở về toà thánh và được đức hộ pháp cho trông nom cơ Thánh vệ. Ðội Trấn chỉ là một nhân vật hắn được nghe thoáng qua khi trò chuyện với mấy người trong đạo. Còn lại là hắn bịa hết, bạn đọc Cao Ðài viết thư hỏi hắn: "Ông viết rất đúng về Hai Trấn, ai kể cho ông biết được những chuyện đó thế?" Chính hắn cũng không tự biết tại sao hắn viết được thế, chẳng qua là đoạn trước mở lối cho đoạn sau, câu trước kéo theo câu sau, hình ảnh gọi hình ảnh, câu chữ gọi câu chữ mà thành chứ còn biết tại sao! Ðột nhiên lại nghe thằng con trách móc cách sống quá nhũn nhặn của hắn, liền nhớ ngay tới ông Bột và câu chuyện buồn cười về cách đánh giá của đám đông hình thành trong nháy mắt. Truyện ngắn Sống giữa đám đông đã được viết như thế. Rồi chuyện về một bà cô tài sắc vẹn toàn mà một đời vất vả, lúc trẻ thì vì chồng, về già thì vì con (Má hồng); chuyện về các bà chị tiểu thư, sống đài các và cô độc trở thành các cô cấp dưỡng cho Sở Liêm phóng năm cách mạng vừa thành công, và cái kết cuộc tầm thường chả nên thơ chút nào của mấy bà (Ðã từng có những ngày vui); chuyện một ông anh đẹp trai, một tiểu đoàn trưởng có tiếng thời Hưng Yên bị Pháp chiếm đóng vớ phải một bà vợ lắm mưu, hám quyền thành một ông già tàn tạ lúc cuối đời... Nhiều chuyện lắm, thì ra cái "thực tế" của đời hắn cũng đến là lắm chuyện và chuyện nào cũng có thể viết được cả. Nếu so vốn sống thì hắn sống nhiều hơn, biết nhiều hơn, từng trải cũng nhiều hơn và sống cũng lâu hơn, tuổi hắn gần gấp đôi tuổi các ông Nam Cao, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, hắn chỉ thua các ông ấy về văn thôi, vì đã không sinh được một nhân vật văn học nào có sức quyến rũ lâu dài như Xuân Tóc Ðỏ và Chí Phéo. Thua xa! Mà thua là phải vì chúng là những đứa con tinh thần của các thiên tài. Ðã nói tới cái tài trời cho là hết nói, hết lý lẽ, nó mãi mãi là một bí mật mà không có nhà lý luận văn học nào phân tích được cái cơ cấu huyền diệu của nó. Nó không có mẫu số chung, nó là muôn vàn cách, mỗi thiên tài một cách riêng, cái tài ấy chỉ nảy sinh ở riêng con người ấy, có một tiểu sử riêng như thế ấy. Ngưỡng mộ thì được, tò mò tìm hiểu thì vô vọng. Ðã bảo nó là một bí mật của tạo hoá mà. Khi viết truyện ngắn Nghệ nhân ở làng, người thì có thật, nghề phải học khoảng một buổi, chi tiết là của nhiều người ghép lại, nhưng cái hồn của truyện là của riêng hắn, là một mơ mộng táo bạo và vô vọng của chính hắn, ấy là lần tìm những bí mật trong sáng tạo của các thiên tài. Nhà văn Stéfan Zweig, một tác giả viết nhiều tiểu sử các danh nhân mà hắn rất mê đọc từ những năm hắn mới 30 tuổi, cũng có tham vọng y như hắn, tìm hiểu những cơ cấu sáng tạo của các thiên tài. Ông này rất giầu, lại có cái thú sưu tầm những bản thảo nổi tiếng của các nhạc sĩ, thi sĩ, văn sĩ, giá đắt bao nhiêu cũng mua. Từ những trang bản nháp với những sửa chữa, những gạch xoá, những lấy lại, những thêm vào, ông lần mò những dấu vết dẫn đến những hình tượng nghệ thuật bất hủ của các thiên tài. Chính ông cũng là một tài năng văn chương lỗi lạc của châu Âu, có bạn bè là những tên tuổi sáng chói khắp các châu lục, lại có lòng ái tài, hắn đọc của ông cũng được biết thêm nhiều lắm, hoàn cảnh lịch sử, môi trường xã hội, tiểu sử cá nhân, những tình huống kỳ lạ mà các thiên tài ấy phải đối mặt, những bức xúc bất thần, những nỗi đau, những đối nghịch, những mơ mộng, những tuyệt vọng... tất cả đều được nghiên cứu tỉ mỉ, có văn bản rõ ràng. Chàng sĩ quan công binh của binh đoàn sông Rhin, Rouget de Lisle trong một đêm xuất thần của năm 1792 đã làm lời và nhạc bản quốc ca của nước Pháp Marseillaise trong hoàn cảnh nào, sau đó ông ta lại sống vô danh và nghèo khổ cho tới lúc mất. Ông là thiên tài của một đêm. Nhạc sĩ thiên tài Ðức Haendel đã sáng tác bản thánh ca Le Messie trong tâm trạng ra sao vào lúc cuối đời. Và Dickens với cuốn tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên báo Những cuộc phiêu lưu của ông Pickwick. Rồi cái thế giới đen tối đầy những đối nghịch của Fédor Dostoiewski. Một nhà quý tộc muốn được làm người bình dân, một đời khắc khoải vì sự tự hoàn thiện, Léon Tolstoi. Ông Zweig không chỉ tìm hiểu những giây phút ngây ngất của hân hoan, của tự do, làm bùng cháy ngọn lửa sáng tạo mà còn cả những giây phút đen tối nhất, ảm đạm nhất của tấn bi kịch tới hồi kết thúc của Marie Stuart, của Marie Antoinette, của Napoléon, của Fouché. Ðại để là những giây phút có sức nặng của một nhân loại, mãi mãi gây hứng thú tìm hiểu, ngõ hầu có thể nhận ra trong thoáng chốc cái huyền cơ của tạo hoá. Ðọc thì vui chứ cũng chả hiểu gì thêm cái mà mình muốn hiểu. Bởi vì từ ngày mới cầm bút cho tới tận hôm nay hắn vẫn thắc mắc những công việc có tính chuyên môn, tính kỹ thuật để tạo dựng các nhân vật bất tử Xuân Tóc Ðỏ, Chí Phèo. Hình như không có kỹ thuật gì, không có bí mật gì, vẫn là chuyện đời, chuyện tai nghe hàng ngày, mắt thấy hàng ngày, quen cả, rất quen của vô vàn tính cách Chí Phèo, Xuân Tóc Ðỏ khi các biểu tượng điển hình của nó chưa xuất hiện. Có điều trong đời thường thì nó nhạt nhoà, thô lậu, tản mát, có chất liệu nhưng chưa có hình thù, chưa có tên gọi, sống lẫn với mọi người hoặc ngay trong một người, khi nhận ra thì người ta chỉ buông một câu chửi: đồ lưu manh, quân mất dạy, thằng ăn vạ! Thế là xong. Nhưng bây giờ thì những tính cách ấy đã có tên gọi hẳn hoi, có hình thù hẳn hoi để thiên hạ có thể chỉ tay day mặt, có thể chế giễu, lên án và cũng nhận ra cả sự bất lực để loại bỏ cái nòi giống ấy ra khỏi cộng đồng. Hắn tin rằng ngay các cha đẻ của chúng cũng không thể ngờ mình đã sinh ra những đứa con quỉ quái bất tử, chỉ là viết trong một lúc hết sức sảng khoái, viết để đùa giỡn, viết để trả thù mọi sự bất công ở đời. Viết để chửi đời qua miệng một thằng lưu manh mới sướng, mới hả. Nó càng nói những câu ngây ngô, ấm ớ càng khoái. Dùng Xuân Tóc Ðỏ để chửi cái xã hội nhố nhăng là tuyệt nhất. Cũng như dùng Chí Phèo để chửi cái đám hương lý kỳ hào bẩn thỉu mà hống hách, chửi thẳng mặt, không cần che giấu cũng thật hết ý. Viết cho hả giận, cho bõ uất. Chính là cái giận cái uất lâu ngày lại nhân gặp một chuyện thương tâm, hoặc một chuyện vô lý rót thêm vào lập tức bùng cháy thành lửa xanh và cả một thế giới tưởng tượng với hình thù, câu chữ loé sáng, lung linh như hiện ra cho mà viết, như đọc lên cho mà viết, viết như mê đi, như nương theo một chỉ dẫn nào đó, người viết thành công cụ được điều khiển từ rất xa, từ rất sâu, viết mà cũng không biết mình đang viết những cái gì. Người ta thường gọi trạng thái khác thường ấy là xuất thần, vừa là mình vừa không phải là mình. Hắn chỉ tiếc Vũ Trọng Phụng mất năm còn quá trẻ, môi trường sống quá hẹp, cái biết về các tầng lớp phía trên còn quá ít nên không dám để Xuân Tóc Ðỏ dấn bước tiếp những cuộc phiêu lưu mới, mà cái thằng lưu manh ấy cũng đã đủ lông cánh để lao vào những trò chơi có tầm vóc lớn hơn rồi. Tức là hắn muốn Xuân Tóc Ðỏ phải được trúng cử vào nghị viện thành nghị sĩ, từ đó mà được giao tiếp với những "týp" người còn vô lý hơn nhiều, buồn cười hơn nhiều, là cái thế giới quan lại của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Chắc chắn sẽ lại là một cuốn sách rất hay (Số đỏ quyển 2 chẳng hạn), viết về cuộc phiêu lưu của một tên bất lương vào cái thế giới bất lương của các chính khách ở xứ này trước năm 1945 để bạn đọc có dịp được cười thật thoả thuê, cười đến nghẹn thở. Nếu viết được thế thì Số đỏ sẽ trở thành một kiệt tác của thế giới mất.
Hình như hắn đang dò tìm những lối đi đã bị xoá sạch của một tác phẩm nổi tiếng của văn chương Việt Nam thì phải. Cũng là bàn suông thôi, chứ tài cán như hắn làm sao dám mon men tới cái lãnh vực siêu nhiên ấy. Nhưng có một sự thật là hắn muốn có được cái công thức làm nên sự bất tử, cái công thức huyền bí của những người gọt tượng xưa có thể khiến các pho tượng gốc sống lại và trò chuyện rì rầm mỗi đêm, những pho tượng đã trở thành linh vật tại các đền, phủ, chùa, miếu của một thời. Ðó là cái ước ao kiêu ngạo của một anh thợ đục đẽo tượng gỗ ở làng, và cũng là một ao ước vô vọng của chính hắn. Truyện viết thì giản dị, khiêm tốn nhưng ý tưởng chứa đựng bên trong là sự day dứt khôn nguôi. Chả hiểu bạn đọc có cảm nhận được những điều không thể nói của hắn không?
31.
Những năm 90 hắn đã có bạn đọc ở thành phố Hồ Chí Minh, nhiều tờ báo lớn yêu cầu hắn gửi truyện ngắn, bút ký, tạp văn cho trang văn hoá văn nghệ của báo. Cứ mỗi tờ nuôi hắn một dạo, thoạt đầu là báo Tuổi trẻ, rồi báo Lao động, rồi báo Công an thành phố, khi Tạp chí Văn hoá Văn nghệ của Bộ Công an ra mắt bạn đọc hắn lại được mời viết bài thường xuyên. Ðó là những tờ báo có nhiều bạn đọc, ban biên tập biết lấy con mắt xanh đối đãi với người cầm bút nên trả tiền nhuận bút rất hậu. Hắn đến với các tờ báo ấy như một thành viên của toà soạn, ấm áp, tin cậy, cười nói thoả thích như thời đang sống ở tạp chí Văn nghệ Quân đội của những năm 60 và nửa đầu những năm 70. Cái không khí bạn bè trong nghề trọng nhau, tin nhau đã giúp hắn giữ được ngọn lửa của tuổi trẻ, của người trong cuộc, tham gia vào cuộc tranh luận âm thầm về sự lựa chọn những cách sống về những giá trị mãi mãi còn nguyên vẹn đã làm nên tính cách Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh và các báo của thành phố đã nuôi hắn cả phần xác phần hồn để hắn có thể bước vào một thời kỳ sáng tác mới hào hứng, sôi nổi như những năm hắn mới có ba mươi tuổi. Có Tết hắn có truyện ngắn đăng trên bốn tờ báo của Hà Nội và của thành phố, còn trong kia thì hầu như tháng nào hắn cũng có bài không của báo này thì báo kia. Mãi mãi hắn biết ơn những người bạn mới quen biết của thành phố, bạn trong nghề và bạn khác nghề bằng những chăm sóc rất thiết thực, rất chân tình đã giúp hắn giữ được niềm tin, niềm vui và rất nhiều hy vọng để hắn có được những năm tháng đầy ắp những ý tưởng mới mẻ, chủ đề mới mẻ, cách viết mới mẻ, để có thể ngày nào cũng được viết những trang văn mới, đã sang tuổi 60 lại được tái sinh thành một cây bút trẻ, càng viết càng tự khám phá những vỉa mạch còn nguyên sơ chưa có thì giờ đụng chạm đến. Về già hắn vẫn được sống trong hồi hộp, trong hy vọng của người đang tiếp tục cuộc chiến với chữ nghĩa khi thắng khi thua, khi vui khi buồn, không ngồi không ngày nào, không để đầu óc rảnh rỗi ngày nào, sống vội hơn, viết cũng vội hơn vì hắn có thể sai khiến cái đầu nhưng không thể sai khiến trái tim của hắn, xem chừng mỗi ngày một mệt mỏi hơn, uể oải hơn và hình như đã muốn xin được nghỉ ngơi hoàn toàn. Nếu như hắn có trái tim của người ba mươi tuổi nhỉ, không chừng hắn sẽ tìm ra nhiều bí mật của cái nghề cầm bút cũng nên.
Sau ngày về Tó, được trò chuyện với Ngô Thì Trác thuộc con cháu dòng đích của Ngô Thì Nhậm, hắn thay đổi hẳn lãnh vực quan tâm, không phải là trái cây, thân cây mà là bộ rễ cây, vùng đất ươm trồng của cây, là cái đống nhờ nhờ, hỗn mang, chưa có hình thù mầu sắc gì cả. Là một Ngô Thì Trác, đã bốn chục tuổi đầu mà chả có một ham mê gì, một khuynh hướng gì về chính trị, văn chương ngoài việc mưu sinh, việc kiếm tiền, sáng lo việc sáng, tối lo việc tối, với những mong ước gần, những hy vọng gần, môt người bình thường với những công việc bình thường, là cái cõi nhân gian bé tí, nhờ nhờ mà hắn đang sống, vợ con hắn đang sống, lại không đáng để hắn viết sao, lại không có một nghĩa lý gì sao?
Ở thành phố Hồ Chí Minh lắm lúc hắn rất nhớ Hà Nội, nhớ các mùa của Hà Nội, các đường phố của Hà Nội, nhớ bãi Phúc Xá và những mùa lụt lên ở nhờ cơ quan, nhớ lúc lấy vợ, lúc sinh con, nhớ cái năm con đã lớn mở khoá dây lưng kêu lách cách và dựng xe đạp ở một góc sân cùng với bạn bè. Mỗi ngày nhớ một tí, lúc rảnh rỗi lại nhớ, đêm nằm khó ngủ cũng nhớ. Nhớ cả những tiếng rao quà lúc hắn còn nhỏ ở Hà Nội, tiếng rao xôi lúa lúc tờ mờ sáng ở phố Hàng Bún, tiếng rao phở đêm ở ngõ Hăm Bốn Gian, tiếng rao cháo đỗ xanh chè đỗ đen các trưa hè dọc phố Huế. Hắn còn nhớ cả cái xe thùng có vòm mui sơn vàng, ngựa kéo, bán bánh mì nóng với miếng chả trâu rắc muối tiêu kẹp giữa mỗi sáng mùa đông ở phố Sinh Từ năm hắn mới sáu, bảy tuổi. Bạn bè, người thân, những kỷ niệm của một thời ấu thơ, một thời thanh niên, của mọi sự bắt đầu của một đời người, trong xa cách, trong nhớ nhung bỗng hiển hiện hết sức rõ ràng trong một vùng sáng nhạt hơi mờ ảo của hoàng hôn, gần như đã tãi hết lên trang giấy, chân dung, ngôn ngữ, hình ảnh còn đọng lại, chi tiết đã được năm tháng lưu giữ, tất cả đã sẵn sàng chỉ còn đợi hắn cầm bút tô lại, viết lại... Hắn mở đầu các truyện viết về Hà Nội bằng Một người Hà Nội rồi Tiền, rồi Danh phận, rồi đến Ðã từng có những ngày vui, Chị Mai... đội ngũ những gương mặt thân quen đồi được viết, đòi được nói cứ dài dần mãi ra nhốn nháo, chen chúc. Một nữ luật sư kiêm nghệ sĩ dương cầm, một cặp vợ chồng tài tử giai nhân chồng đạo diễn vợ diễn viên là kỷ niệm về một Hà Nội vừa được giải phóng. Viết về ông Kim Lân đã thấy thấp thoáng bóng ông Trọng Hứa đứng phía sau, hai ông có gương mặt và vóc dáng nhìn xa rất giống nhau, và cũng vì sự nhầm lẫn tai hại ấy mà ông Trọng Hứa giận hắn cho tới ngày mất. Viết về người Hà Nội hôm nay lại nhớ đến người Hà Nội của ngày xưa, tất nhiên người của hôm nay quyến rũ hắn hơn nhưng khi họ trò chuyện với hắn, thậm chí còn chửi hắn một cách oan uổng thì hắn lại sợ cái hôm nay quá, cái hôm nay trơ tráo, trắng trợn, có thể nói bất cứ câu gì, làm bất cứ chuyện gì nếu không có những ràng buộc của một Hà Nội kinh kỳ ngày xưa ngăn giữ lại. Hắn đã trải lòng ra gần hai năm trời, lúc nghỉ lúc viết, ngoài những chuyến ra Hà Nội để "nạp thêm năng lượng" mới, hắn không đi đâu cả, không nghĩ gì khác để khỏi làm loãng những mơ mộng của hắn đang dồn về một vùng kỷ niệm, về những con người đang lùi dần vào quá khứ mỗi năm mỗi xa hơn, một mờ dần. Chính hắn cũng đang lùi dần vào quá khứ bằng cái thái độ dửng dưng như đã tách ra, đã thoát ra những tin tức, những trao đổi của bạn bè, của con cái về những thay đổi này khác trong giới quan chức nhà nước, về nền kinh tế thị trường với vô vàn chuyện hay và chuyện không hay của nó, về đầu tư và hội nhập, về những triệu phú đô la mới của Hà Nội và những cuộc phá sản hết sức thương tâm ở các thành phố lớn... Tất cả những chuyện lớn chuyện nhỏ cứ rì rầm như mỗi lúc một xa dần đi, nhỏ dần đi, chả còn một chút quan trọng nào nữa. Tức là hắn sắp trở về với hư vô rồi, để hoà nhập vào cái khối hỗn mang không hình, không sắc của trời đất. Nếu tính từ truyện ngắn đầu tay Ra ngoài được in trên tạp chí Lúa mới của Chi hội Văn nghệ liên khu 3 năm 1950 thì hắn đã có trên năm chục năm trong nghề gấp gần năm lần tuổi nghề của Vũ Trọng Phụng, gấp hai lần tuổi nghề của Nam Cao, cái gì cũng hơn hai ông anh cả, thời thế tiểu thuyết hơn, bạn bè đông đảo hơn, đi nhiều hơn, biết nhiều hơn, thời gian để viết cũng nhiều hơn, lại được nhà nước cho nhà, chữa bệnh và nuôi ăn cả đời mà những đứa con tinh thần lại yếu đuối còi cọc, đi mới được nửa cuốn sách đã chân nọ đá chân kia, mặt mũi méo mó, ăn nói chẳng đâu vào đâu, không còn ra cái giống người, cái ngữ ấy có chết non chết yểu cũng là đáng. Là làm sao thế nhỉ? Còn sao giăng gì nữa! Là do hắn kém tài so với các bậc đàn anh, chứ nếu có được cái tài như hắn mong muốn thì thiếu gì cách để tạo ra những hình tượng nghệ thuật có thể chuyển tải toàn bộ tư tưởng của hắn tới bạn đọc. Kém tài là cái chính nhưng cũng còn có những quan niệm chưa chuẩn xác về các chức năng của nghệ thuật một thời; về sự thiếu niềm tin của bạn đọc vào lòng yêu nước và khuynh hướng cách mạng bẩm sinh của các nghệ sĩ nên hay nghi ngờ, hay bắt bẻ; về tính ganh ghét giữa các tài năng nhỏ với các tài năng lớn nên hay bày ra những chuyện ngoài nghệ thuật để hãm hại nhau; có cả sự thiếu bao dung, thiếu thông cảm của những người làm công tác quản lý nghệ thuật với những cá tính bất tuân, ngang tàng của một vài tên tuổi lớn, mà theo hắn, họ làm thế chẳng qua để trêu chọc cho vui, để làm giai thoại trong giới, chứ bản chất các nghệ sĩ có tài lớn là hết sức hiền lành, hết sức chất phác, họ là một với tiến bộ, phát triển chứ chưa bao giờ là vật cản. Và còn một điều này nữa, mỗi lần nghĩ đến hắn lại bật cười với chính mình, vì cái lỗi này phải chia đôi, nhà nước chịu một nửa, các nghệ sĩ chịu một nửa. Ấy là, chế độ mới với tấm lòng ưu ái hơi quá mức đã biến các nghệ sĩ của mình thành một tầng lớp viên chức với tham vọng viên chức, ganh ghét viên chức, tính toán viên chức, là các viên chức nhà nước lúc thâm nhập thực tế, lúc sáng tác, lúc quan hệ với nhau, chả giống tí nào với cách sống cách viết của các bậc tiền bối trong nghề những chục năm đầu của thế kỷ. Và những vui buồn, lo lắng của giới viên chức càng không giống với các nhân vật văn học của họ. Các nhân vật đều phải tự nuôi mình còn các nghệ sĩ đều được nhà nước nuôi. Giữa những người tự nuôi và những người được nuôi có một khoảng cách xa lắm, chả lẽ thương vay khóc mướn mà làm được tác phẩm nghệ thuật lớn sao? Chuyện văn chương của hắn tới đây cũng nên chấm dứt. Hắn phải trở lại câu chuyện gia đình của hắn, chuyện vợ chồng hắn, vì những oan ức đó mà hắn có nhu cầu tự nhìn lại mình và viết nên cuốn sách này. Từ năm hắn được một lúc hai giải thưởng văn học lớn đã nghĩ vợ con sẽ rất vui vì được làm vợ làm con một người nổi tiếng, nào ngờ lại là điểm bắt đầu của một tấn bi kịch gia đình hết sức vô lý và buồn cười. Trong sự nghiệp của hắn có tới một nửa là của vợ, vậy mà trong lời phát biểu với báo chí hắn chỉ nói tới thời thế và bạn bè, chả đả động một tí gì tới người bạn đường, người cộng tác, người chịu phần vất vả nhất của một gia đình để hắn có một nơi trú ngụ ấm áp, êm ái, yên tâm ngồi viết. Xưa nay nhiều nhà văn chả được bất kỳ giải thưởng nào vẫn nghĩ được ra vô vàn cách để tưởng thưởng công lao cho vợ mình. Lẽ ra khi đi nước ngoài nhận giải thưởng hắn phải dành hẳn một số tiền, cũng chả nhiều lắm, mua một món quà có giá trị tặng vợ. Ðằng này hắn chả mua gì cả, đưa phong bì tiền cho vợ, nói một câu: "Bà xem có đứa nào cần tiền thì cho nó một ít". Vợ hắn nín thinh, mặt lạnh ngắt, lúc nào cũng nghĩ đến con, không có vợ mà có được con sao? Có lần đi họp ở nước ngoài với ông anh Tô Hoài thấy ông chọn lựa mua sắm rất nhiều thứ cho vợ hắn đã cười thầm: "Ông này sống cũng Tây nhỉ?" Tây là thế, còn Ta thì sao? Người đàn bà sống với mình là vật sở hữu của mình việc gì phải chiều chuộng nịnh bợ. Ngẫm cho cùng bố hắn bỏ mẹ hắn như vứt cái áo cũ cũng có cái lý của nó, dòng họ hắn chưa bao giờ tôn trọng thật sự người đàn bà trong gia đình cả. Xưa nay đi họp ở nuớc ngoài về hắn chưa hề mua một món quà nào đáng giá để tặng vợ, thuở trẻ có thể bỏ qua, về già đối xử với nhau thế ắt hẳn muốn ruỗi nhau ra chứ gì. Nên vợ hắn phải tỏ cho hắn biết hắn muốn bỏ vợ cũng không dễ đâu. Tất nhiên ở thời buổi này người đàn ông bỏ vợ cũng nhiều mà chả có điều tiếng gì, là quyền tự do cá nhân, luật pháp nào can thiệp được. Miễn là được các con bằng lòng, miễn là người bố không được đụng chạm đến tài sản đang có của gia đình. Từ nay ông có ốm đau, đi nằm bệnh viện, rồi chết, rồi ma chay đã có bà vợ mới lo, các con bà vợ mới lo, còn bọn chúng sẽ đứng ngoài, vừa bớt được một người già phải chăm sóc, lại vừa được tiếng sống rất tân tiến, rất hiện đại. Cho nên vợ hắn phải ngăn chặn hắn từ lúc chỉ mới có ý định, mới bắt đầu chán gia đình, chán vợ con. Những tháng đầu hắn phản ứng rất quyết liệt những lời buộc tội vô lý đó, hắn không thế tại sao lại dám nói thế. Tiếng gầm thét của hắn bộc lộ sự tức giận của một ông chủ, ông chủ đã hy sinh một đời cho gia đình thì vợ con (một thứ tôi tớ tự nguyện) phải biết ơn ông chủ, không được phép nghĩ sai, hiểu lầm. Hiểu lầm là có tội. Ðã thế vợ hắn cũng chứng tỏ cô ta ngờ vực chồng là có chứng cớ. Chứng cớ nào, tôi không làm những chuyện vớ vẩn đó làm sao có chứng cớ! Vợ hắn nói thủng thẳng là có, có nhiều. Ví như mỗi lần có chuông điện thoại, vợ chưa kịp cầm thì chồng đã nhao lại cầm vội lấy không có ý gian làm sao phải vội vã thế? Nói điện thoại thì nói thầm thì, rồi cười khùng khục đầy khoan khoái, trai gái nói với nhau mới có vẻ mặt ấy, giọng cười ấy, đừng có chối, tôi sống với anh gần năm chục năm tôi lại không biết! Ðứng ở cửa nhà mà nhìn ra ngoài đường vợ hắn cũng cằn nhằn, rồi nói rất thiểu não: "Anh đừng nhìn đàn bà con gái đi ngoài đường đắm đuối như thế, tôi khổ tâm lắm". Hắn có tật nhìn hiếng, xem tivi mắt cứ như nhìn ra đường, vợ hắn cũng nói buồn bã: "Anh đợi ai mà nhìn ra ngoài nhiều thế?" Mỗi lần có bạn đọc, bạn viết là đàn bà con gái tới nhà là hắn chết khiếp, nếu lại vớ phải một bà bạn có tính hay đùa thì địa ngục nứt ngay dưới chân liền. Thậm chí hắn đi ăn sáng, uống cà phê sáng, vợ hắn cũng đứng ở cửa chờ, lại hỏi: "Anh đi những đâu mà lâu thế?" Có lúc lại căn dặn: "Bây giờ bệnh Siđa đầy rẫy, anh phải cẩn thận". Rồi lục tìm ví tiền: "Tiền bữa nọ còn nhiều thế tiêu những gì mà đã hết rồi, tôi bảo, có ra ngoài cũng chỉ nên cầm năm chục, một trăm, chứ cầm nhiều là bọn gái điếm có lột hết". Cứ như hắn đã biến thành một kẻ cuồng dâm, thấy đàn bà là lao lại, bất kể sáng tối, vắng người hay đông người, cứ như mọi ngõ ngách đều có nhà chứa, có thể chui vào đó làm mọi chuyện bậy bạ trong vòng dăm mười phút ai biết đấy là đâu. Hắn quát: "Sao lại không ai biết, hàng xóm láng giềng biết, các con biết, tôi biết. Tôi sống đốn mạt thế còn dám nhìn mặt con cái à?" Trong hai năm trời gần như ngày nào hắn cũng phải nổi điên vài lần, da mặt lúc đỏ lúc tím, huyết áp lên một cách khủng khiếp, sáng tối đều uống thuốc hạ huyết áp mà mặt vẫn nóng phừng phừng, đầu nhức như búa gõ. Hắn đã nghĩ đến chuyện bị tai biến mạch máu não, sẽ là một đống thịt nằm vài năm rồi mới được chết, chả lẽ đến lúc đó vợ hắn mới chịu buông tha hắn sao? Chả lẽ hắn phải uống một liều thuốc ngủ rồi tợp thêm một ly rượu mạnh để kết thúc cho nhanh những ngày khốn khổ cuối đời này. Hắn tâm sự với các con về cái cảnh ngộ không thể lường trước và cả ý định sẽ tự kết thúc sự sống của mình, thì đứa lớn cười, đứa nhỏ cũng cười như chúng vừa được nghe một chuyện hết sức kỳ quái, hết sức buồn cười. Thằng lớn nói: "Bố nghĩ là đã chuẩn bị mọi chuyện chu đáo để được sống mấy năm yên ổn lúc cuối đời nhưng lại quên mất mẹ, đúng không nào? Một người như mẹ làm sao có thể gây phiền cho bố đuợc, phải không?" Nó đã bốn mươi tuổi, cũng là đứa chịu đọc, chịu nghĩ, chắc nhận xét của nó cũng không đến nỗi vô cớ. Thằng nhỏ ăn nói bỗ bã hơn: "Trường hợp của bố cũng là hiếm đấy, ra ngoài bố được đẩy lên tận mây xanh, về nhà lại bị bà vợ kéo xuống tận đáy vực". Con gái cũng cười: "Chả ai ở đời được hoàn toàn mãn nguyện cả, được cái này thì mất cái nọ, cũng là lẽ công bằng". Thằng lớn lại nói tiếp: "Thà để mẹ kéo bố xuống bùn còn hơn để người khác kéo. Mẹ kéo thì còn gỡ được, chứ người khác kéo thì hết gỡ". Thằng nhỏ nói: "Ðã lên cao thì phải chuẩn bị có ngày xuống thấp, xuống thấp trong nhà chả hơn à? Câu trên là bố vẫn nói, còn câu sau là của con". Ðúng, chính hắn đã từng nói như thế, chuẩn bị như thế, chỉ không ngờ cái người kéo hắn xuống lại chính là "kẻ nô lệ một đời" của mình. Cũng là sự trừng phạt xứng đáng thôi, ở đời chả có sự ngông cuồng nào lại không bị trừng phạt, chả có sự mãn nguyện nào lại không phải trả giá, chỉ có điều cách trả giá và cái lúc phải trả giá thì luôn luôn bất ngờ, một người luôn canh chừng bản thân như hắn cũng phải bàng hoàng mất gần hai năm vì những sự việc không thể tính trước.
Và hắn bắt đầu viết, do một như cầu tự giải thoát mà hắn viết.Viết lại một truyện dài cũng là một bất ngờ nữa, vì đã mười năm nay hắn không nghĩ là hắn còn viết được truyện dài. Nay hắn cần viết một truyện dài là để có thì giờ ngẫm nghĩ về tất cả, có công việc phải bận bịu, phải lo lắng sẽ bớt đi những bực bội của một tuổi già thiếu may mắn. Và càng ngẫm nghĩ về mình hắn càng nhận ra những lầm lỗi trong cách ăn ở với bạn bè, với vợ con. Thì đã có lúc nào hắn thật quan tâm tới cái phần máu thịt đã cùng lo lắng, buồn vui suốt mấy chục năm. Không để ý tới họ thì họ chỉ như những thực tế đơn giản, vô tri, chỉ biết làm theo sự chỉ huy của một người chồng, một ông bố rất có trách nhiệm với vợ con nhưng lại buộc họ phải hoàn toàn phụ thuộc vào những quyết định lớn nhỏ của mình. Họ không có cuộc sống riêng sao, không có những yêu ghét tính toán và những hy vọng của riêng họ sao? Trách nhiệm của chính nhà văn là phục vụ con người, là bằng tài năng của mình tháo bỏ mọi tín điều, mọi trói buộc để con người được nghĩ ngợi tự do hơn, hành động tự do hơn, để họ có thể huy động toàn bộ ý chí và năng lực của họ vào cái sự nghiệp mà họ đang ấp ủ. Cái đó gọi là nghệ thuật phục vụ nhân sinh. Cho nên người cầm bút do chức trách của nó bao giờ cũng là một chiến binh tình nguyện của cuộc đấu tranh cho quyền tự do và dân chủ của con người, từ gia đình mình trở đi. Chứ ai có thể ngờ người chiến sĩ của dân chủ lại là tên độc tài trong gia đình. Và hắn đã bị những tên "nô lệ về tinh thần" trừng phạt lại một cách đích đáng cũng là điều dễ hiểu. Càng viết hắn càng thấy nhẹ nhõm, càng thấy buồn cười vì cái cảnh ngộ trớ trêu của mình. Hắn đã biết tội và vui vẻ nhận sự trừng phạt, dầu rằng sự trừng phạt ở ngay nơi trú nấp cuối cùng là hết sức khó chịu, là rất khó chấp nhận. Có thể nhận tội với xã hội rồi chạy về trú nấp ở gia đình. Xã hội nhiều người lắm việc, không ai có thì giờ nhìn chăm chú mãi một người, chỉ quan tâm có lầm lỗi của một người, cộng đồng vốn mau quên cả công lẫn tội. Nhưng trong một gia đình mọi người nhìn nhau chằm chằm từ sáng đến tối, chả quên cái gì, và có thể nhớ từ đời này qua đời nọ nên rất khó chịu. Khó chịu ở gia đình lại không thể tìm ra nơi trú nấp nào khác ngoài nhà nhân tình, tiệm hút, sòng bạc, đó là chuyện ngày xưa. Còn bây giờ có một số ông chồng trong giới viết văn từng chạy trốn gia đình bằng các cuộc phiêu lưu vặt, gọi là đi thực tế và các trại viết dài ngắn, đi mãi cũng phải về, chả giải quyết được gì. Còn hắn, hắn chạy trốn vào trang giấy, hắn đã trốn vào đó nhiều lần, mỗi dòng viết phảng phất như một lời thú tội, vừa viết vừa điều chỉnh lại cách sống của bản thân bằng những cách sống dũng mãnh hơn, phóng khoáng hơn, nhiều nghị lực hơn của các nhân vật hắn ngưỡng mộ. Hắn sống tốt hơn, thông minh hơn, có thêm nhiều người thương, bớt đi những người ghét hoàn toàn là nhờ vào những trang viết từ trẻ đến già. Một đời người đi rồi viết, năm này qua tháng khác, chả chơi bời gì, chả có lúc nào thử quên đi cái nghề của mình, cái nghiệp của mình, làm người hoàn toàn tự do với những nhu cầu bẩm sinh của con người, hồn nhiên, ngu muội, mắc lầm lỗi giống như mọi người, nhiều lần thất bại như mọi người, có nghĩa là được chìm nổi cùng với thiên hạ chứ không chỉ biết vui buồn trên trang giấy, phiêu lưu, thành bại trên trang giấy. Sống thông qua số phận các nhân vật của mình đâu phải là đã sống, không sống đến triệt để, đến tận cùng làm sao viết được những câu văn đời người, mãi mãi còn gây thắc mắc cho nhiều thế hệ bạn đọc. Một nhà văn thành công một đời chưa hẳn đã là thành công, chỉ là một viên chức nhà nước với những thành công vặt vãnh trong cái nghề của anh ta, trong phòng giấy của anh ta, một thứ văn chương giống như đời người mà chưa hẳn là đời người, một đời người chỉ cần một trăm trang sách, là máu, là nước mắt một đời trút vào đó, chứ máu đã bôi lên vài ngàn trang sách lại là máu loãng rồi, máu pha nước lã rồi, máu nhân tạo rồi. Thành công của hắn có thể chỉ là thành công giả, còn những khốn khó của vợ để gìn giữ sự yên ấm của một mái nhà lại là những khốn khó có thật, khốn khó sinh con, nuôi con với bao nhiêu vất vả lo lắng, chạy vạy của nhiều năm trong chiến tranh, lại nhiều năm tháng trong một thứ hoà bình phấp phỏng, trong vô vàn thiếu thốn, thiếu gạo, thiếu thịt, thiếu sữa, thiết bột ngọt, thiếu vải, vải đen may quần cho vợ, vải đẹp và mềm cho các con, thiếu cả kim chỉ, mỗi lần mua được một thứ thiếu sau bao nhiêu mưu mẹo, nhờ vả, giành giựt, vợ hắn đạp xe về, ôm hàng về, mặt tươi rói từ ngoài cửa: "Mua được rồi, vừa vặn đến mình là hết!" Ðó cũng là thành công, thành công trong cuộc sống khó khăn của mỗi ngày, thành công đó chả có bằng khen, phần thưởng, huân chương, huy chương nào ngoài vẻ mặt rạng rỡ của chồng, cái cười rất tươi của chồng, và một câu nói dịu dàng, hàm ơn: "Vất vả cho em quá thôi, thế là anh đỡ lo hẳn rồi... các con đang thiếu, nhà mình đang thiếu..."
Hắn hãy nhìn kỹ lại vợ đi, nhìn chăm chút một lần thử coi, sau hơn bốn chục năm phục vụ cho sự nghiệp của chồng được xem là thành công vào lúc này nhưng ai mà biết được những bạn đọc chục năm tới sẽ đánh giá như thế nào! Còn vợ hắn từ một cô gái nông thôn hơi ngây ngô nhưng mà đẹp, cái đẹp khoẻ mạnh của đồng ruộng đã sinh cho hắn những đứa con thông minh, tháo vát và ngoan, thích ứng được với cuộc sống hôm nay, đã là một bà già đi lại lom khom, tóc bạc quá nửa, cái nhìn bạc phếch ngơ ngác trên một gương mặt đã nhỏ đi rất nhiều, đã héo lại, đã khô lại với màu da vàng nhạt, với nhiều vệt xám ở má ở thái dương, chỉ có hàm răng là vẫn đều như xưa, vẫn trắng như xưa, vẫn nhận ăn phần xương của gà của cá, nói thì thào với chồng: "Ðể tôi ăn xương cho, ông ăn phí lắm!" Vậy còn muốn dành lại cho ai nữa mà vẫn sợ ăn tiêu phí phạm, con cái đã có nơi có chốn cả rồi. Nghĩ tới đó nước mắt hắn tự nhiên ứa ra. Vợ hắn nói: "Mấy tháng nay ông thay tâm đổi tính làm tôi cũng lo". Hắn cười: "Làm người chồng tốt hơn cũng lo à?" - "Lo chứ, lúc sắp xuôi tay là hay đổi tính lắm" - "Năm nay tôi đã bảy mươi ba rồi, có chết cũng là tận số, không còn chết non chết yểu gì đâu!" - "Cả đời mãi đến lúc này mới được an nhàn một chút, ai muốn chết sớm!" Hắn đùa: "Bà giam tôi như giam tù cả mấy năm tôi còn muốn sống thêm làm gì". Vợ hắn nhìn hắn bằng cặp mắt nhăn nhúm, mờ đục: "Ông cứ sống như ý ông thích, ông đừng có bỏ tôi là được".
Hắn lắm lấy bàn tay chỉ còn da với xương của vợ, ngồi nhìn lặng một lúc lâu, rồi bảo: "Những thứ bà giúp tôi đều là những thứ giá trị thật, mãi mãi không thay đổi, còn những gì tôi cống hiến cho đời như tôi thường nghĩ, đến lúc này tôi lại phân vân không rõ nó có là giá trị thật như những gì bà đã cho bố con tôi không?"
Hết
Last edited by Memory; 04-09-2008 at 11:42 AM.
|