Xem bài viết đơn
  #3  
Old 30-04-2008, 03:17 PM
dunghoitaisao127's Avatar
dunghoitaisao127 dunghoitaisao127 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 39
Thời gian online: 404010
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Arrow tiếp !

Hồi 5 : Quỷ kỳ khai Huyết Hải
Cầu Nhiêm chấn võ lâm




Gần canh giờ sau, bọn Tử Khuê có mặt trước Kỹ gia trang và cục diện nơi đây đã đến hồi gây cấn.

Vòng ngoài, hàng ngàn cao thủ độc hành, hắc đạo đứng quanh quẩn đó đây, mũ rộng vành sùm sụp. Vòng trong, bốn lực lượng hùng mạnh nhất đứng theo hình nan quạt đối diện với phe chủ nhà.

Có lẽ Âu Dương Mẫn đã dùng thân phận võ lâm minh chủ để ép buộc Kỹ Tòng Thư phải xuất trang đối thoại. Kỹ trang chủ cùng trăm cung thủ áo xanh, đầu chít khăn đen đứng trấn giữa cổng trang, khí thế kiên cường. Số tráng đinh còn lại rải đều phòng thủ trên đỉnh tường quanh trang, cung tiễn sẵn sàng.

Nhưng đội ngũ đó xem ra quá nhỏ bé so với lực lượng Hắc-Bạch đông đến mấy ngàn người đang lăm le uy hiếp.

Phe Bạch đạo gồm cao thủ của năm phái trong Hội đồng võ lâm, chỉ thiếu Thiên Sư Giáo. Vì “Diêm Vương Quỷ Kỳ” uy lực vô song, quan hệ đến vận mệnh của võ lâm, nên các phái chẳng thể làm ngơ… Họ đến đây để cản trở việc tái xuất của một Quỷ Chân Nhân thứ hai, tai hoạ khủng khiếp nhất trong lịch sử võ lâm Trung Thổ.

Phái Võ Đương ở gần hơn cả nên đã mang đến Bảo Bình hơn trăm đệ tử giỏi nhất, do chính chưởng môn nhân Vân Thiên Tử thống lĩnh… Bốn phái Hoa Sơn, Thiếu Lâm, Toàn Chân, Cái bang vì ở xa nên mỗi phái chỉ hiện diện độ ba mươi người, song toàn là cao thủ hàng đầu.
Hơn hai trăm con người sẵn sàng hi sinh vì thanh bình của võ lâm giang hồ ấy tập trung thành mũi dùi mé hữu Kỹ gia trang. Ba mũi dùi còn lại lần lượt là Tổng Đàn võ lâm, Chiết Mai bang và Bích Huyết bang. Chẳng khó để nhận ra họ vì mỗi đội quân đều có một lá đại kỳ oai phong, sặc sỡ, lớn cỡ mảng chiếu, ghi rõ chiêu bài.

Giờ đây, những thủ lĩnh của bốn lực lượng đang tranh luận với Kỹ trang chủ về phương thức giải quyết “Diêm Vương Quỷ Kỳ”. Kỹ Tòng Thư hoàn toàn cô thế vì không còn được sự hỗ trợ của tổng binh thành Nam Dương là Từ Hậu.

Chẳng thấy bóng dáng quan quân đâu, tây nhạc kiếm khách Lư Công Đán vô cùng lo lắng liền hỏi thăm một hán tử mang đao, gã này cười đáp:

- Lão chết tiệt Âu Dương mẫn quả là thần thông quản đại, mang đến công văn của tri phủ Nam Dương, lệnh choTừ tổng binh phải rút lui đứng ngoài cuộc tranh chấp.

Lư Công Đán thờ dài, quay sang nói với bọn Tử Khuê:

- Tại hạ cho rằng chúng ta nên đứng chung phía với các phái bạch đạo, rồi tuỳ cơ ứng biến. Nay Âu Dương Mẫn và hai bang hội mới kia đều muốn chiếm đoạt “Diêm Vương Quỷ Kỳ” không đồng ý để Kỹ Tòng Thư huỷ đi, thì chắc chắn sẽ có giao tranh.

- Quả đúng như vậy, lúc này Kỹ trang chủ đang tức giận cao giọng:

- Lão phu một đời chính trực, tuy lấy đựơc quỷ kỳ đã muời năm, nhưng chưa một lần tìm hỉêu bí mật của nó đã trở thành thiên hạ vô địch. Nay lão phu đồng ý huỷ đi sao chư vị nghi ngờ là của giả.

Âu Dương Mẫn lạnh lùng đáp trả:

- “Nhân tâm nan trắc” nên lão phu chẳng thể sơ xuất được. Tôn giá cứ giao cho lão phu thẩm định rồi sau đó tự tay huỷ hoại.

- Nhưng bang chủ Chiết Mai bang, một nữ nhân áo vàng, mặt che bằng xa đen đã cười khanh khách bác bỏ:

- Cả giang hồ đều nói các hạ là tên ác ma Huyết Mai hội chủ năm xưa, nên bổn bang chủ rất e ngại không thể đồng ý được.

Âu Dương Mẫn giận điên lên chỉ mặt đối phương mà quát:

- Dương Tố Vy! Nàng đừng nghĩ có thể dựa thế lão Bắc Thiên Tôn mà ngạo mạn. Nàng có gan thì hãy cùng lão phu tỉ thí. Sau ba trăm chiêu mà lão phu chẳng giết được ngươi thì lão phu quyết chẳng làm người.

Té ra bang chủ Chiết Mai bang họ Dương tên Tố Vy, nàng ta thản nhiên đáp:

- Bổn cô nương chẳng hề sợ hãi một lão già sắp xuống lỗ, nhưng phải chờ tới khi giải quyết xong “Diêm Vương Quỷ Kỳ” cái đã.

Âu Dương Mẫn cũng không muốn rơi vào cảnh “Trai cò cắn nhau, ngư ông hưởng lợi”, nên im tiếng, lão quay lại hỏi Kỹ Tòng Thư:

- Này Kỹ trang chủ! Nếu ông có cách chứng minh cây cờ trong tay mình là của thực thì lão phu sẽ để cho ông phá huỷ.

Gương mặt cương nghị cũa Kỹ Tòng Thư tái nhợt đi đầy vẻ tuyệt vọng, làm bớt son đỏ giữa trán cao càng nổi bật. Ông ngẩn ngơ đưa cây cờ quỷ quái lên ngắm nghía, chẳng biết làm sao.

“Diên Vương Quỷ Kỳ” có cáng bằng thép ròng, dài độ hơn ba xích, đầu có mũi nhọn hoắt hình mũi giáo. Lá cờ hình tam giác, nền vàng viền xanh, thêu nhằng nhịt những nét chữ kỳ quái bằng chỉ đen, không rõ văn tự của nước nào. Chẳng hiểu nó được dệt bằng loại tơ gì mà sau ba trăm năm vẫn chưa hề mục nát, chỉ hơi phai màu.

Nếu nhìn thật kỹ người ta sẽ nhận ra cán cờ gồm bốn ống thép, luồn vào nhau có thể thu ngắn lại được. Và trên thân ống, chi chít những chữ Phạn nhỏ li ti, có lẽ là kinh văn hay thần chú.

Nhắc lại Kỹ Tòng Thư đứng lặng một hồi rồi nghiêm trang kể:

- “Mười năm trước lão phu mới định cư chốn này được hai Thu, một đêm nằm mộng thấy vị đạo sĩ râu ba chòm, tuổi độ gần lục tuần, người này tự xưng là Vương Tùng Dương, chưởng môn phái Toàn Chân. Vương Tổ sư đã chỉ cho lão phu biết nơi Quỷ chân nhân Đơn Ngạn Hoà vùi thây năm xưa. Họ Đơn trúng kiếm của Vương tổ sư, nhảy xuống sông đào tẩu, tìm đến núi Bách Khổng, cách bờ tây Bạch Hà mười tám dặm để dưỡng thương. Nhưng lão không qua được và chết âm thầm trong một động đá kín đáo”.

Vương chân nhân dạy rằng:

- Vạn vật vốn vô tính do người sử dụng mà thành thiện hay ác. Thí chủ hãy giữ gìn “Diêm Vương lệnh kỳ” này, chờ khi gặp được tướng tinh giáng phàm thì giao cho người ấy, để bình định võ lâm, bảo vệ giang sơn xã tắc. Bằng như không có duyên ấy thì hãy huỷ bỏ bảo vật này đi.
Lão phu không hiểu nên hỏi lại:

- Bẩm lão thần tiên, làm sao đệ tử nhận ra người ấy?

Vương tồ sư liền cười đáp:

Chàng trai đó có thể khắc chế được linh kỳ.

Kể xong, Kỹ Tòng Thư ứa lệ cao giọng:

Nay chư vị chẳng thể là chàng trai mà lão phu chờ đợi, nên linh kỳ phải được huỷ đi. Sau đó, Kỹ mỗ sẽ tự sát để tỏ lòng thanh bạch.

Đến lúc này thì chưởng môn các phái bạch đạo đã tin tưởng tấm lòng chân thật cũa Kỹ Tòng Thư. Vân Thiên Tử vội gọi lớn:

- Kỹ thí chủ chớ vọng động! lão phu sẽ đứng ra giải quyết vụ này.

Đúng lúc ấy, Âu Dương Mẫm bất ngờ lao vút về phía Kỹ Tòng Thư với tốc độ sao băng. Dẫu biết rằng sau khi đoạt được “Diêm vương quỷ kỳ”, thì sẽ bị toàn trường vây hãm, lão vẫn không hề sợ hãi. Có cờ báu trong tay, lão sẽ trở thành bất khả xâm phạm. Âu Dương Mẫn là một trong những người hiếm hoi biết được câu thần chú cổ xưa.

Nhưng đồng thời, từ hàng ngũ bạch đạo cũng có một bóng người bay vút ra. Người ấy đứng ở vị trí hơi xa Kỹ Tòng Thư nên chậm chân hơn Âu Dương Mẫn một bước. Song hắn ta nhờ thân pháp nhanh như điện mà bắt kịp và bủa lưới kiếm vào thân tả đối phương.

Đấy là hán tử áo lam, râu rậm, thân hình to lớn tên gọi Hàn Thiếu Lăng. Chỉ mình Thiết Đảm Hồng Nhan biết họ Hàn là quách Tử khuê, hay Vu Diệp chân nhân.

Chẳng hiểu vì lý do gì mà Tử khuê lại liều lĩnh xuất chiêu “Thương Thiên Vô Tâm” (trời xanh không có tim), chiêu thứ ba trong pho “Oán Thiên Kiếm Pháp”.

Chàng đã dồn toàn lực nên kiếm phong vút lên veo véo, kiếm kình cuồn cuộn, khiến Âu Dương Mẫn chột dạ, phải phế bỏ ý định hạ sát Kỹ Tòng Thư, quay sang đối phó.

Kỹ trang chủ đang bị đường gươm mãnh liệt và quỷ dị tuyệt luân của Âu Dương Mẫn uy hiếp tính mạng, bổng thoát chết thì mừng vô hạn. Nhưng ông chưa kịp hoàn hồn thì phát hiện bang chủ Chiết Mai bang và bang chủ Bích Huyết bang đang lao đến.

Bọn cung thủ Kỹ gia trang đã buôn tên xạ thẳng vào đội hình của phe địch, trừ các phái bạch đạo.Kỹ Tòng Thư đã sớm dặn dò thủ hạ như thế. Những xạ thủ trên đỉnh tường trước Kỹ gia trang cũng đã ra tay, khiến lực lượng địch tổn thương vài chục.

Nhưng toán cung thủ đứng sau lưng Kỹ Tòng Thư chưa kịp tra tên bắn lượt thứ hai thì đã phải buông cung, rút kiếm vì quân thù đến ào ào như thác lũ. Chỉ còn hai trăm tay thiện xạ trên đầu tường là hoạt động hiệu quả. Họ bắn như mưa vào hàng ngũ địch giúp đồng bọn giữ vững cổng trang.

Nhắc lại Âu Dương Mẫn, hụt mất con mồi là kỹ Tòng Thư và “Diêm vương Quỷ kỳ”, thì vô cùng giận dữ, lão nghiến răng đánh chiêu “Nhu Vân Tiềm Lợi” (mây mềm ẩn chưá sự sắc bén).

Chiêu này ảo diệu và ác độc phi thường, kiếm ảnh trùng điệp tựa mây mù, che kín chân thân song lại hàm chứa những thế đâm như chớp giật, tuỳ nghi thọc vào tử huyệt đối phương, từ song nhãn đến đầu gối. Đây là chiêu kiếm hữu hiệu nhất dùng trong trường hợp bị tập kích.

Âu Dương Mẫn chính thực Điền Sĩ Lệ, hội chủ Huyết Mai Hội năm xưa. Lúc bị đánh rơi xuống vực thẳm , lão thoát chết nhờ đám dây leo và còn may mắn gặp được nơi toạ hoá của Tam tuyệt Thần Quân Đồng Nhật Tú, cao thủ thời nhà Nguyên. Ngoài pho bí kíp gồm ba phần tuyệt học là “Thuyết Sa Thần Công”, “Nhu Vân Kiếm Pháp”, “Kỳ Môn Độn Giáp”, thần quân còn để lại một nhánh “Thiên Niên Hà Thủ Ô”. Nhờ vậy mà hiện nay Âu Dương Mẫn sở hữu đến hơn hoa giáp công lực dù tuổi chỉ mới quá sáu mươi.

Với tu vi thâm hậu từng ấy, với chiêu “Nhu Vân Tiềm Lợi” do lão thi triễn có oai lực kinh hồn, trong võ lâm chẳng mấy ai chống nổi. Nhất là đối thủ của lão lúc này chỉ là một kẻ hậu sinh.

Quả đúng như thế, đường kiếm của gã râu rậm kia bị Âu Dương Mẫn chặn đứng. Và sau hơn trăm tiếng thép va chạm chói tai, lão phát hiện ra ngay hai chổ sơ hở, là huyệt Đại Hoành trên bụng trái và huyệt Phúc Ai bên sườn phải đối phương. Hai huyệt này thuộc Kinh túc thái âm tỳ, thông với nội tạng.

Trong tâm lý kích động và nóng vội, Âu Dương Mẫn chẳng hề ngần ngại, thọc kiếm vào huyệt Đại Hoàng bên trái… Vị trí ấy không được xương sườn che chở nên dạ dày và lá lách có thể bị xuyên thủng dễ dàng.

Nào ngờ dường như hán tử áo lam râu ria kia đoán trước được, khẽ nghiên người về mé hữu để né tránh và vươn tay điểm liền một kiếm thần sầu quỷ khóc, nhắm vào huyệt Nhũ Trung trên ngực trái Âu Dương Mẫn. Phía sau huyệt này chính là quả tim.

Nhát kiếm nhanh và biến hoá đến mức dù Âu Dương Mẫn đã đưa bàn tay tả che chắn mà vẫn thọ thương. Mũi kiếm như có mắt lập tức hạ thấp xuống một chút, đâm gãy xương lồng ngực lão ta.

Nếu là người khác thì đã lủng tim, nhưng Âu Dương mẫn luyện “Thiết Sa Thần Công” đã hơn hai chục năm, thân thể xương cốt cực kỳ rắn chắc nên đã bảo toàn được phủ tạng. Tuy nhiên đoạn xương bị gãy đã làm rách màng phổi, khiến Âu Dương Mẫn đau thấu trời và hô hấp rất khó khăn.

Lão thất kinh hồn vía, mượn lực phản chấn mà tung mình ra thật xa để tránh chiêu kiếm thứ hai của kẻ địch. Xui xẻo thay, lão vừa hạ thân xuống đã bị bang chủ Chiết Mai bang tấn công. Âu Dương Mẫn cắn răng chống đỡ, vừa đánh vừa vận khí trị thương.

Dương Tố Vy phát hiện máu hồng loan ướt đẫm ngực áo đối phương thì rất phấn khởi, ra đòn như thác lũ mưa rào. Kiếm pháp của nàng ta ảo diệu tuyệt luân nhưng xem ra khí lực không đủ. Nhờ vậy mà Âu Dương Mẫn dễ dàng cầm cự được.

Bang chủ Chiết Mai bang thấy lão bị thương mà còn kiêu dũng như vậy thì rất bực bội, nàng ta bèn đánh đòn tâm lý bằng cách thét vang:

- Âu Dương Mẫn bị đâm thủng ngực rồi.

Giọng nàng cao vút áp cả âm thanh náo động của cuộc loạn chiến khốc liệt giữa ba trăm thủ hạ tổng đàn võ lâm và hai bang Chiết Mai, Bích Huyết. Gọi là loạn chiến vì chúng đánh lẫn nhau và đánh cả bọn gia đinh của Kỹ gia trang.

Lực lượng năm phái bạch đạo vẫn án binh bất động, chưa tham chiến. hầu hết họ là hoà thượng, đạo sĩ, chẳng quen với cảnh máu chảy đầu rơi. Hơn nữa, dù sao Âu Dương Mẫn vẫn còn là minh chủ võ lâm, họ chẳng thể công khai đối địch với lão được. Trừ khi Âu Dương Mẫn đoạt được “Diêm Vương Quỷ Kỳ” thì họ sẽ liều mạng để tiêu diệt.

Năm vị chưởng môn nhân trong hội đồng võ lâm đứng hàng đầu, nên đã mục kích cảnh hán tử áo xanh, râu rậm đả thương Âu Dương Mẫn một cách dễ dàng. Họ vô cùng kinh ngạc, hỏi Lư Công Đán về lai lịch của chàng trai kỳ tài, vì chàng ta đã cùng đi với họ Lư.

Tây Nhạc Kiếm khách là đệ tử của Trúc Lâm Tử, chưởng môn nhân phái Hoa Sơn. Nay nghe sư phụ hỏi gã kính cẩn đáp:

- Phải bẩm ân sư và chư vị chưởng môn. Vị đại ca ấy họ Hàn tên Thiếu Lăng là sư huynh của Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy.

Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường buột miệng nói ngay:

- Lạ thật theo lão ăn mày ta được biết, thì con bé liều mạng kia học võ của cha chú làm gì có sư phụ?

Bang chủ Cái bang là người thông thạo tin tức nhất võ lâm, nắm rõ lai lịch từng cao thủ, nên đã nói ra thì phải chính xác.

Lư Công Đán ngượng ngùng gật đầu:

- Bẩm Thạch trang chủ, vãn bối cũng nghi ngờ điều ấy, nhưng không tiện hỏi. Tống cô nương đột nhiên biệt tích cả năm trời, có lẽ trong thời giang đó đã bái một vị kỳ nhân làm sư phụ.

Đại Giác Thiền Sư, phương trượng chùa thiếu lâm bổng lên tiếng:

- A di đà phật. Xin chư vị để ý quan sát sẽ thấy lộ số võ công của Hàn thí chủ và Tống thí chủ chẳng hề giống nhau.

Mọi người kiểng chân nhìn về phía mà thiến sư đã chỉ thì thấy Thiết Đảm Hồng Nhan đang sát cánh cùng với Hàn Thiếu Lăng mà chiến đấu. Họ đang cố mở đường máu, đưa Kỹ trang chủ trở vào trong. Lúc này cổng chính Kỹ gia trang đã bị các đầu lĩnh Bích Huyết bang chấn giữ, chặn đứng sinh lộ của Tòng Thư.

Tám cao thủ nọ gồm chín người, kể cả bang chủ Bích Huyết bang Trịnh Bá Nghiêm. Họ Trịnh tuổi độ hơn ba mươi, mắt diều, mũi ưng, miệng rộng, mày kiếm xếch ngược, tướng mạo oai võ tuấn tú, phong thái hiên ngang đáng mặt anh hùng.

Vũ khí của gã là một cây thương bằng thép mạ vàng, rực rỡ dưới ánh chiều tà. Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến là võ lâm đệ nhất thần thương nên đệ tử của lão cũng dùng thương.

Trịnh Bá Nghiêm còn đội ngân quan có gắn hai cọng lông đuôi chim công dài nên càng giống Thường Sơn Triệu Tử Long trong tuồng cổ. Gã thống lĩnh bốn lão nhân dùng đao, tuổi quá lục tuần, vây đánh Kỹ Tòng Thư, quyết đoạt cho được “Diêm Vương Quỷ Kỳ”. Bốn lão còn lại trấn giữ cổng trang không cho bọn gia đinh bên trong ra tiếp viện. Không chỉ bấy nhiêu, gần trăm bang chúng Bích Huyết bang cũng tham gia, so tài với bọn kiếm thủ, học trò của Tòng Thư. “Minh sư tất hữu cao đồ’. Do đó tuy tuổi mới chỉ ba mươi bốn mươi , mà bản lãnh của Trịnh Bá Nghiêm lại cao siêu hơn Kỹ trang chủ, gã may mắn được Nam Thiên Tôn cho ăn kỳ trân của đất Miêu Cương là con “Bích Niên Xuyên Sơn Giáp”. Xem ra món thịt trúc già hầm thuốc bắc ấy, quả là rất bổ béo nên Bá Nghiêm có thêm mười năm chân khí, với số tu vi tròn trèm nữa hoa giáp, gã có thể vũ lộng cây thương nặng ba chục cân một cách nhẹ nhàng, phát huy hết uy lực của pho “Hoàng Long Thương Pháp”.

Thương dài gần gấp đôi trường kiếm, lại nặng hơn nên Kỹ Tòng Thư càng bất lợi. Ông thủ nhiều hơn công chủ yếu là để bảo toàn tính mạng. Và may thay, Tòng Thư đã thức ngộ ra rằng đối phương không dám huỷ hoại “Diêm Vương Quỷ Kỳ”, nên ông đã khôn ngoan đưa cả mảnh lụa cũ ấy ra mà chống đỡ những đường thương dũng mãnh của Bá Nghiêm. Thế là họ Trịnh hoảng vía phải thu kim thương về, sợ làm rách bảo vật. Nhờ vậy mà Kỹ Tòng Thư có thể ung dung cầm cự, che chắn mặt sau cho đôi trai gái lạ mặt kia mở đường máu rút lui.

Kỹ trang chủ thầm đoán ra lai lịch của Thiết Đảm Hồng Nhan, khi chứng kiến lối đánh nhau hung hăng và bạt mạng của nàng. Trong võ lâm, chỉ mình nữ nhân Tống Thuỵ là có đấu pháp này, còn hán tử áo xanh lực lưỡng kia là ai thì lão chẳng rõ, chỉ nghe Tống Thuỵ gọi là sư huynh.

Nhưng chàng ta lại chính là kẻ đã đả thương Âu Dương Mẫn để cứu mạng lão. Kỹ Tòng Thư tri ân họ nhưng vẫn canh cánh đề phòng, sợ hai người ấy giả vờ thân thiện rồi thừa cơ chiếm linh kỳ.

Tử Khuê và Tống Thụy chẳng hề để ý tới tâm tư của Tòng Thư, cứ ra sức chiến đấu vì lão. Tuy không hiểu lý do vì sao Tử Khuê ra tay cứu giúp họ Kỹ, song Thiết Đảm Hồng Nhan vẫn hăng hái sánh vai chàng. Nàng chỉ chậm hơn vị sư huynh hờ kia vài bước.

Giờ đây đối thủ của hai người là bốn lão nhân cầm đao, có lẽ là hộ pháp của Bích Huyết bang. Dẫu biết rằng “Lưỡng quyền nan địch tứ quyền”, nhưng Thiết Đảm Hồng Nhan chẳng hề run sợ, thản nhiên mà đối phó bằng dũng khí của một con cọp cái.

Trong thời gian qua, tuy không học được yếu quyết cao nhất của kiếm đạo là phép biến hoá, song nàng cũng tiếp thu khá nhiều chiêu thức tuyệt diệu của Trung Thiên Tôn. Việc này đã làm cho bản lĩnh của nàng tăng tiếng thêm vài bậc. Trước kia võ công Tống Thụy còn kém Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán một chút, nhưng giờ đây gã chỉ đáng xếp hàng sư đệ. Nhờ vậy mà hôm nay nàng có thể chống chọi với hai cao thủ lão làng của phương nam.

Tống Thụy giữ được thế quân bình thì Tử Khuê phải khá hơn, sau khi thụ giáo Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh về kiếm đạo, nghề đánh gươm của Tử Khuê đã đạt tới mức thượng thừa, không còn lệ thuộc vào hình thức của kiếm chiêu nữa. Bằng chứng là khi xuất chiêu “Thượng Thiên Vô Tâm”, trong pho “Oán Thiên Kiếm Pháp”, chàng đã đắc thủ mà không hề bị thương. Biến hoá là đạo lý vận hành của vũ trụ, võ học cũng chẳng nằm ngoài lý ấy. Cho nên, kẻ nắm được biến hoá chính là người thượng trí, thành tựu vượt xa người thường. Tuy nhiên, võ nghệ còn tuỳ thuộc vào bản thân sức lực, tu vi nên bản lĩnh Tử khuê vẫn còn kém so với các cao thủ lão thành, như Âu Dương Mẫn chẳng hạn.

Lúc nãy, Tử khuê đả thương được lão ta là nhờ yếu tố bất ngờ cũng như đặc tính quái dị của “Oán Thiên Kiếm Pháp”. Lần sau gặp gỡ, Âu Dương Mẫn sẽ không còn khinh địch nữa và chàng sẽ thua thiệt..

Nhưng giờ đây đối thủ của chàng chẳng phải là Âu Dương Mẫn nên chỉ sau vài chục chiêu là Tử Khuê đã phá được thế giáp công của hai lão hộ pháp Bích Huyết bang. Chàng xuất chiêu “Mộ Cổ Thần Cung” (Trống chiều chuông sáng) trong pho “Thanh Long Kiếm Pháp”, bủa lưới kiếm chụp lấy lão già cao gầy ở mé hữu.

Nạn nhân lập tức nghe hơi thép lạnh làm rờn rợn thân trên và trước mặt là hàng trăm bóng kiếm chập chờn. Lão chột dạ múa tít cương đao giải phá chiêu kiếm đáng sợ kia. Song chỉ sau vài tiếng thép chạm nhau tinh tang, lão chợt nghe bụng nhói đau khủng khiếp. Chẳng hiểu bằng cách nào mà mũi kiếm của đối phương đã đi xuyên qua huyệt Thần khuyết nơi rốn lão và cắt đứt ruột non. Lão hộ pháp cao gầy rú lên thảm hại, ôm vết thương ngã quỵ.

Trước đó Tử khuê đã kịp thu kiếm, đảo thân trên kịp tránh chiêu của kẻ địch thứ hai, rồi quay người nghênh chiến. Nếu đường gươm và thân pháp của chàng không nhanh như điện thì đã chẳng toàn mạng.

Hôm nay, vì một lý do bí ẩn nào đó mà Tử Khuê ra tay rất tàng nhẫn, chẳng còn chút nhân từ nào nữa. Tuy nhiên, tử trạng và tiếng thét thê lương của nạng nhân đã khiến kẻ giết người lần đầu phải xốn xang bất nhẫn.

Nhưng đúng lúc ấy, Kỹ trang chủ cũng khẽ kêu rên lên vì trúng một thương của Trịnh Bá Nghiêm vào vai trái, tiếng rên kia làm cho Tử khuê nghe lòng thắt lại bởi lo âu thương xót. Kỹ Tòng Thư chính là cậu ruột của chàng. Đấy là nguyên nhân vì sao Tử khuê sẵn sàng đổ máu để bảo vệ ông.

Nhà họ Kỹ có sáu anh em, nhưng bốn người đã chết lúc mới vài tuổi, nên chỉ còn lại Kỹ Tòng Thư và thân mẫu Tử Khuê là Kỹ Thanh Lam. Khi Kỹ nương lên bốn thì xuân huyên lần lượt qua đời, Tòng Thư liền thay cha mẹ mà nuôi em gái. Ông hơn Kỹ Thanh Lam gần hai mươi tuổi nên lúc ấy đã trưởng thành. Ơn nghĩa đó nặng hơn núi Thái Sơn.

Lớn lên, Kỹ nương thành danh Băng Tâm Ma Nữ, giết người như ngoé, nên bị đại ca quở trách nặng lời. Bà tức giận cắt vạt áo rồi dứt tình huynh muội rồi bỏ đi.

Vài năm sau, khi tỉnh ngộ nhờ sự điểm hoá của Vô danh Thiền Sư, Kỹ nương vô cùng hối hận hành động nông nổi, bất nghĩa với huynh trưởng lúc trước, nhưng vì xấu hổ mà không dám quay về tạ lỗi.

Hơn hai mươi năm qua, tuy yên ấm với chồng con ở đất Hứa Xương song lúc nào lònh bà cũng canh cánh nhớ thương người anh ruột ở Tứ Xuyên. Mười năm trước khi bà đủ dũng khí gửi thư về cố quận thì lại chẳng nhận được hồi âm. Bà cho rằng Tòng Thư chưa tha thứ cho mình nên không dám liên lạc nữa. Nào ngờ Kỹ Tòng Thư đã rời quê đến đất Bào Bình này lập nghiệp.

Tử Khuê nghe mẹ mình nhắc đến đại cửu phụ hàng trăm lần, nên biết rõ tính danh, tuổi tác và đặc điểm là bới son đỏ hình đám mây ở giữa trán. Nay tình cờ gặp ông , Tử Khuê vui mừng khôn xiết, quyết cứu cửu phụ bằng mọi giá.

Nhắc lại Tử Khuê, thấy cậu mình bị thương thì chẳng còn dám thương xót với kẻ thù nữa. Chàng nghiến răng xuất chiêu “ Vũ Đả Lê Hoa” (Mưa vùi dập hoa lê) tung ra hàng trăm thức kiếm dồn dập tựa mưa rào khống chế đường đao của lão hộ pháp béo lùn rồi đâm thủng ngực.

Lão tử đã dạy rằng “Thử lưỡng giả đồng” (Hai cái cùng là một) và “Hữu vô tương sinh” (Có và không cùng sinh). Cho nên trong kiếm đạo, bậc kiếm sĩ vô chiêu cũng phải vận chiêu thức. Nhưng khi xuất chiêu họ tuỳ nghi biến hoá chẳng hề bị ràng buộc, nên gọi là vô chiêu.

Tử Khuê cũng vậy, chàng vẫn thi triển những chiêu thức trong sở học của mình, song kiếm ý thênh thang tự tại, tuỳ cơ nhi tác không chút trở ngại. Kết liễu xong địch thủ thứ hai, Tử khuê chợt phát hiện Thiết Đảm Hồng Nhan đang nguy ngập tính mạng, bởi một chiêu đao hợp bích cực kỳ ảo diệu của hai lão hộ pháp Bích Huyết bang. Chàng liếc nhanh, thấy Tòng Thư chưa đến nỗi nào, an tâm tiếp viện Tống Thụy trước.

Tử Khuê đề khí lao vút đi, chỉ một bước nhảy đã vượt khoảng cách gần hai trượng tiếp cận mục tiêu. Tuy tăng trọng đến hơn hai chục cân nhưng Tử Khuê vẫn nhanh nhẹn như xưa. Chàng hiểu rằng tốc độ của thân pháp là yếu tố sống còn trong giao đấu cũng như khi đào tẩu, nên đã không ngừng khổ luyện. Rốt cục, nhìn bề ngoài thân thể chàng to béo nhưng thực ra cơ thể chàng gồn toàn những bắp thịt rắn rỏi và chẳng chút mở thừa. Cơ đùi nở nang mạnh mẻ hơn giúp chàng không nặng nề vì trọng lượng đã tăng thêm.

Nhờ vậy, giờ đây Tử khuê kịp thời cứu mạng ả sư muội không biết sợ chết. Nàng ta sắp toi mạng bởi lưỡi đao oan nghiệt của lão già không râu mé tả. Tống Thụy đang phải đối phó với lão mặt ngựa mé hữu nên chẳng thể nào thoát chết.

Tử Khuê biến sắc đánh liền mười tám thức gươm thần tốc, kiếm kình rít lên lanh lảnh, tấn công vào mé trái lão không râu, lão ta rợn da gà vì đánh hơi được tử thần, đành bỏ Tống Thụy, quay lại tiếp chiêu của kẻ mới đến. Với kinh nghiệm giang hồ mấy chục năm, lão hiểu rằng tay non chẳng thể nào có được đường gươm xé không gian như vậy.

Nhưng kinh nghiệm dày dạn lại không giúp lão toàn mạng vì Tử Khuê đã nhờ thế bất ngờ mà chiếm được tiên cơ, kiếm của chàng nhanh gấp bội đao của đối phương, trong sát na đã xuyên thủng ngực kẻ xấu số. Tiếng rên la thảm nảo của lão không râu, khiến cho lão mặt ngựa chấn động tâm cang, đường đao hơi rối loạn và lộ sơ hở.

Thiết Đảm Hồng Nhan chẳng bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, thọc kiếm vào vùng bụng trống trải của kẻ thù. Là kẻ giàu kinh nghiệm, sau khi đâm thủng gan ruột của địch nhân, Tống Thụy lập tức thu kiếm và lùi lại vì lão mặt ngựa có thể dồn toàn lực vào đao cuối cùng, do đó nàng tình cờ xô phải Tử Khuê ở phía sau, chàng sợ nàng thất thế nên đã chực hờ, sẵn sàng tiếp cứu.

Cú va chạm khá mạnh nên Tử Khuê phải trụ tấn và ôm chặt giai nhân, bàn tay tả của chàng vô tình áp lên ngực phải Thiết Đảm Hồng nhan khiến cho ả thẹn chín người.

Tống Thụy chưa kịp cảm nhận hết vị ôn nhu của sự tiếp xúc ngọt ngào ấy thì Tử Khuê đã buông ra, lao vút về phía bang chủ bích huyết bang Trịnh Bá Nghiên, vừa đâm thêm một thương vào đùi Kỹ Tòng Thư.

Họ Trịnh đã mục kích cảnh chàng đả thương Âu Dương Mẫn và sát hại ba hộ pháp của mình nên rất tức giận. Nhưng đồng thời gã lại chẳng dám coi thường, đành bỏ Kỹ lão quay sang đón tiếp Tử Khuê bằng một đường thương vũ bão.

Thương, giáo , kích, trường đao, trường côn, đinh ba... là loại binh khí dài, rộng, tần sát thương rộng, đòn đánh rất mãnh liệt. Nhưng cũng chính vì chiều dài và trọng lượng mà chúng luôn chậm hơn đoản binh như đao kiếm. Dẫu cho Trịnh Bá Nghiêm là học trò của thương thánh thì khuyết điểm ấy vẫn tồn tại. Và “Thao Quan Thần Thất” chính là khắc tinh của mọi loại trường binh.

Tử Khuê không dám thò tay chụp đao kiếm nhưng hoàn toàn có thể khoá cứng một đường thương. Năm xưa, sư phụ chàng, Vu Mộc Chân Nhân đã từng đến Hồ Nam, bịt mặt so tài với Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến. Tuy tay không mà ông vẫn cầm cự được hai ngàn chiêu, sau đó trá bại bỏ đi. Về đến Vũ Lương sơn, chân nhân nghiền ngẫm, nghiên cứu suốt một năm ròng, tìm ra nhưng chiêu thức đặc biệt để hoá giải thương pháp của họ Từ.

Giờ đây, Tử Khuê kế thừa tuyệt học ấy thản nhiên cử kiếm chống đỡ những thế thương ác liệt ấy của Trịnh Bá Nghiêm và tay tả bất ngờ khoa nhanh, vẽ nên những vòng tròn kỳ ảo, bám lấy đầu thương rồi chụp lấy đoạn cán thép ở sát phần mũi thương sắc bén.

Tử khuê chẳng dại gì giành giật cây thương khi đối phương đang cầm bằng hai tay. Chàng chỉ thuận thế kéo Bá Nghiêm về phía mình rồi tràn tới nhanh tựa cơn lốc thọc bốn kiếm vào người gã.

Bá Nghiêm thất kinh hồn vía vội buôn vũ khí, phiên thân tránh né. Gã đã dày công khổ luyện suốt hai mươi mấy năm nên bản lãnh cao cường, phản ứng thần tốc nên nhờ vậy mà thoát chết, chỉ bị thương nơi vai tả. Vết thương không nguy hiểm đến tính mạng nhưng đã khiến tay trái gã tạm thời bị phế. Khổ thay người sử dụng thương phải cầm cả hai tay, què một coi như cũng tiêu đời.

Trịnh Bá Nghiêm chẳng còn chút dũng khí nào nữa, bỏ của chạy lấy người. Tử Khuê không thèm truy đuổi, quay lại tìm đại cửu phụ.. Tòng Thư đang được Thiết Đảm Hồng Nhan băng bó vết thương bằng vạt áo của chính nàng xé ra.

Tống Thụy mỉm cười, ánh mắt đầy vẻ khâm phục:

- Sao sư huynh không quăng cây thương chết tiệt ấy đi? Nó bằng thép mạ vàng chứ đâu phải vàng ròng mà sư huynh tiếc của.

Thì ra vũ khí của bang chủ Bích Huyết bang vẫn còn nằm trong tay chàng, Tử Khuê tra kiếm vào vỏ, cười đáp:

- Chẳng phải ta tham vàng mà muốn dùng nó để phá vây! Ta cũng học vài đường thương, nay thi thố thử xem sao.

Kỹ Tòng Thư nãy giờ chăm chú quan sát chàng trai râu rậm, bổng nhận ra nụ cười cởi mở thân mật kia cảm thấy thân thiết lạ lùng. Ông run giọng hỏi :

- Thiếu hiệp là ai mà lại cố công bảo toàn cái mạng già này của lão phu vậy?

Tử khuê bước đến thật sát kề tai ông mà nói:

- Đại cửu phụ! Tiểu điệt là Quách Tử Khuê, giọt máu của Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam đây. Nhưng bí mật này tuyệt đối không được để lộ ra ngoài, xin cửu phụ cứ làm như chẳng có quan hệ gì. Trước mắt chúng ta phải vào được trong trang cái đã.

Kỹ Tòng Thư tin đã tám phần, song vẫn cẩn thận hỏi lại:

- Thế mẫu thân ngươi có điểm gì kỳ lạ trên người?

Tử khuê đỏ mặt đáp:

- Gia mẫu có một bớt son đả hình đám mây bên ngực trái.

Kỹ Tòng Thư mừng muốn sa lệ, định ôm cháu mà không dám, ông chỉ nghẹn ngào bảo:

- Tạ ơn trời phật, lão phu đã tìm thấy em gái của mình rồi.

Thiết đảm hồng nhan nghe tất cả, giận dỗi trách Tử Khuê:

- Sao sư huynh không sớm nói cho tiểu muội biết? Phải chăng sư huynh không tin tiểu muội?

Tử khuê cười gượng:

- Chẳng phải ta không tin nàng, mà ta không muốn, nàng bởi việc riêng của ta mà thọ nạn đấy thôi. Ta hứa từ nay sẽ không giấu diếm sư muội điều gì cả.

Tống Thụy hài lòng vui vẻ nói:

- Sư huynh hãy đánh mở đường, tiểu mụôi dìu Kỹ cửu phụ theo sau.

Kỹ Tòng Thư phì cười:

- Lão phu chỉ bị thương nhẹ, đâu cần ngươi dìu dắt. Hay là nha đầu ngươi muốn lập công mua chuột già này.

Tử Khuê không hiểu nhưng Tống Thụy nhận ra ngay ẩn ý của câu nói đó, nàng thẹn đỏ mặt vội vàng thúc ép Tử Khuê tiến bước.

Nãy giờ họ trao đổi được vài câu ngắn ngủi như thế là nhờ có sự bảo vệ của mấy chục gia đinh nhà họ Kỹ. Tòng Thư đối xử với đệ tử thủ hạ rất hậu nên bọn chúng trung thành tuyệt đối, chết chẳng sờn lòng. Họ biết rằng nếu mình có mạng vong thì thê tử sẽ được Kỹ gia trang nuôi dưỡng chu đáo.

Giờ đây khi nghe Kỹ trang chủ cao giọng ra lệnh, họ lập tức tập trung thành đội ngũ quanh ông, vừa đánh vừa tiến theo nhịp độ phá vây của hán tử áo xanh, râu rậm. Họ không biết người ấy là ai song trong lònh kính phục vị anh hùng cái thế. Ngay cả năm vị chưởng môn nhân bạch đạo cùng mấy trăm đệ tử cũng phải lắc đầu thán phục thấy Hàn Thiếu Lăng đả thương và tước vũ khí của bang chủ Bích Huyết bang chỉ với một chiêu.

Thất Bổng cái là người tự hào lai lịch, lộ số võ công ngàn nhà, nay không nhận ra môn hộ của Hàn Thiếu Lăng, nên vò đầu bứt tóc vừa chửi vừa khen:

- Con bà nó! Không hiểu cái môn phái quỷ quái nào, đã sản sinh ra một bậc kỳ tài, anh hùng xuất chúng đến thế nhỉ, lão phu mà không điều tra ra được thì thề sẽ bỏ rượu.

Bang chủ Cái bang là con sâu rượu, nên lời thề ấy đối với lão là độc địa nhất.

Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ cũng có mặt chốn này. Sau lễ thượng thọ sư phụ là Vân Thiên Tử, Mộ Duy Lộ đã lên đường đi Nhưỡng Thành để tìm Đông Nhạc Tiên Hồ. Khi dừng chân qua đêm ở huyện Bảo An Định, gã ghé thăm một thanh lâu nổi tiếng để mua vui. Khủng khiếp thay, ngay đêm ấy gã phát hiện mình bị liệt dương. Mặc cho ả danh kĩ hoa nhường nguyệt thẹn, thân hình bốc lửa kia trổ hết ngón nghề của làng chơi, “thần thương” của Mộ Duy Lộ cứ vẫn ỉu xìu như cọng bún thiu.

Gã chết điếng người, tưởng như bầu trời sụp xuống đầu mình, tuyệt vọng rời thanh lâu trong ánh mắt khinh thị, giễu cợt của bọn kĩ nữ.
Thế là Mộ Duy Lộ chẳng còn lòng dạ nào mà đi đến chỗ hẹn với Đông Nhạc Tiên Hồ ở Nhưỡng Thành nữa. Gã cấp tốc quay về núi Võ Đương, khóc lóc, van nài Vân Thiên Tử chữa trị giùm.

Sư phụ gã chẩn mạch cẩn thận và an ủi học trò rằng bệnh này rất dễ chữa, chỉ cần gã chuyên cần rèn luyện nội công ”Võ Đương Tâm Pháp” trong ba năm, ngày ngày uống thuốc là sẽ lành bệnh.

Từ đó, Mộ Duy Lộ trở thành một đệ tử siêng năng, cần mẫn và có đạo đức không chê vào đâu được. Gã chẳng bao giờ nhìn ngắm hay cười cợt với bọn nữ đồng môn, lúc nào cũng trang nghiêm, đạo mạo tựa bậc cao tăng đắc đạo vậy. Nhưng đêm về, gã mân mê khúc thịt thừa vô dụng rồi thở dài thườn thượt và oán trời, trách đất chẳng tiếc lời.

Hôm nay, Mộ Duy Lộ chứng kiến cảnh Hàn Thiếu Lăng hiển lộng thần oai, được người người thán phục, ca ngợi thì lòng vô cùng tức tối. Gã càng đố kỵ đến điên người khi thấy Thiết Đảm Hồng Nhan cứ bám lấy họ Hàn mà vào sinh ra tử. Mộ Duy Lộ đã từng tán tỉnh Tống Thụy nhưng không thành công. Con nha đầu ấy đã dửng dưng trước dung mạo tuyệt thế cũng như tài sản kếch xù của gã.

Với tâm trạng xấu ấy, Mộ Duy Lộ buột miệng gièm pha:

- Võ công của Hàn Thiếu Lăng có lẽ xuất xứ từ bàng môn tà đạo nên mới lợi hại khác thường như vậy. Cái cảnh đánh lén Âu Dương minh chủ là đủ biết họ Hàn chẳng phải người quang minh chính đại.

Sau khi biết học trò cưng của mình vì nữ sắc mà bán rẻ tông môn, Vân Thiên Tử rất đau lòng và không còn ưu ái Mộ Duy Lộ nữa. Nay nghe y giở thói tiểu nhân, buông lời đố kỵ kẻ hơn mình, Vân Thiên Tử bực bội nạt:

- Câm ngay! Ngươi biết gì về chính tà mà dám lạm bàn trước mặt trưởng bối? Và nếu Hàn thí chủ không tập kích Âu Dương Mẫn thì làm sao cứu mạng Kỹ trang chủ kịp thời?

Mô Duy Lộ hổ thẹn vòng tay nhận lỗi rồi lùi về phía sau.

Y đi rồi, Đại Giác Thiền Sư, Phương trượng Thiếu Lâm Tự bỗng thở dài:

- A Di Đà Phật. Lão nạp thấy cảnh chúng sinh tàn sát lẫn nhau, thịt nát xương tan mà lòng đau như cắt. Chẳng lẽ chúng ta cứ đứng khoanh tay nhìn mãi hay sao?

Tùng Xuân Tử, Giáo chủ Toàn Chân giáo buồn rầu ứng tiếp:

- Chúng ta là kẻ tu hành, không quen ứng phó với những hoàn cảnh như thế này. Phải chi có Cửu Hoa Thánh Y ở đây thì hay quá.
Thất Bổng Cái bực mình chửi đổng:

- Mẹ kiếp! Cái lão mũi trâu họ Cổ này quả là đáng ghét, lúc người ta cần đến thì chẳng thấy đâu, thế mà lão dám tự hào mình là bậc thần cơ diệu toán.

Bang chủ Cái bang là bằng hữu chí thân của Cửu Hoa Thánh Y nên mới dám phê phán nặng như thế
Chợt Trúc Lâm Tử reo lên:

- Chư vị hãy xem kìa, Âu Dương Mẫn đã phá được vòng vây của bang chủ Chiết Mai bang cùng các Hộ Pháp và ra lệnh rút quân.
Các chưởng môn nhân đang đứng trên một gò đất khá cao nên quan sát trận địa dễ dàng.

Quả đúng vậy, Âu Dương Mẫn bị gãy xương và rách màng phổi bên trái, mỗi lần hô hấp là đau đớn, võ công chỉ còn một nửa. Trong khi đó, Dương Tố Vy được sự hỗ trợ của sáu đầu lĩnh võ nghệ cao cường nên đã chiếm thượng phong. Là kẻ gan hùm cái thế, Âu Dương Mẫn hiểu rõ rằng mình đã thất bại, cưỡng cầu chỉ tổ thiệt thân. Lão ta bèn xuất kỳ chiêu, đả thương một hộ pháp Chiết Mai bang rồi rút quân.

Ba trăm kiếm thủ tổng đàn giờ chỉ còn lại hai đội ngũ chỉnh tề, theo Minh chủ phá vây. Y như Huyết Mai hội chủ năm xưa, Âu Dương Mẫn phóng tay chém giết hung hãn như cọp cùng đường chẳng ai có thể ngăn bước.

Không còn trở ngại nào khác, Dương Tố Như kéo dốc thủ hạ đến hợp lực với Bích Huyết bang để đoạt linh kỳ.

Trước đó, Trịnh Bá Nghiêm đã quay lại tấn công bọn Tử Khuê để rửa hận. Gã mang theo phó tướng của mình và những thủ hạ kiêu dũng nhất. Bản thân họ Trịnh cũng tham chiến với vũ khí là một thanh trường kiếm lúc nãy đeo lủng lẳng ngang hông.

Người sử dụng trường binh thường có thói quen mang thêm đao hoặc kiếm. Lý do là vì thương giáo rất cồng kềnh, nặng nề. Không thể lúc nào cũng mang kè kè bên mình được. Chẳng lẽ đi dạo phố hay dự tiệc mà cũng vác thương theo. Hoặc giả khi phải chiến đấu trong một môi trường chật hẹp, vướng víu như rừng cây chẳng hạn thì vũ khí dài rất bất lợi. Cho nên, ngay cả Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến cũng phải đeo gươm, cả Trịnh Bá Nghiêm cũng thế. Tất nhiên, kiếm pháp của họ không lợi hại lắm.

Trường hợp của Tử Khuê thì ngược lại, chàng chuyên luyện quyền kiếm song vẫn biết qua loa phép đánh vài loại trường binh, và khá thông thạo thương thuật, côn thuật. Điều này xuất phát từ quá trình hoàn thiện pho “Thao Quang Thần Thức” của Vu Mục Chân Nhân. Sư phụ chàng đã dồn tâm huyết một đời vào việc biến pho “Nga Mi Đạo Quyền” thành một tuyệt học có một không hai, hơn cả Thiếu Lâm “Thập Bát La Hán Quyền” hay “Võ Đương Trường Quyền”. Pho quyền này sẽ giúp người võ sĩ chống chọi được cả với binh khí , dù dài hay ngắn.

Binh pháp Tôn Tử có câu: “Tri kỷ bi kỷ,bách chiến bách thắng”. Vì vậy, chân nhân đã phải nghiên cứu phép đánh của rất nhiều loại vũ khí để tìm ra cách khắc chế.

Riêng đối với pho “Hoàng Long Thương Pháp” và pho “Thiếu Lâm Trường ôn”, ông đã phải lao tâm khổ tứ hàng năm trời. Với trí tuệ mẫn tiệp phi thường, Chân Nhân đã tự tái hiện từng chiêu thức ảo diệu nhất của đối phương và giải phá.

Khi truyền nghề cho Tử Khuê, Vu Mộc Chân Nhân đã dạy luôn những gì mình thu hoạch được của thiên hạ. Điều này chẳng phải là vô ích vì thế sự vốn vô thường, bất trắc, không thể lường trước được. Biết đâu có lúc Tử Khuê không còn trường kiếm trong tay, phải vớ đại đoạn tre gỗ nào đó, hoặc đoạt lấy vũ khí của kẻ địch mà sử dụng.

“Thao Quang Thần Thức” dù tuyệt diệu đến mấy cũng sẽ kém hiệu quả trong một cuộc hỗn chiến với số đông. Bởi những hạn chế ấy của quyền thuật mà người ta đã chế tạo ra vũ khí và dùng trong chiến tranh.

Trường thương là loại binh khí cực kỳ lợi hại chốn xa trường. Xưa kia, đại tướng của Lưu Bị là Triệu Vân, tức Thường Sơn Triệu Tử Long, một thương một ngựa xông pha giữa vạn quân như chốn không người. Và trong sử sách Võ Lâm còn kể rằng lúc trận giữ thành Tương Dương, vị đại hiệp thực thà Quách Tĩnh cũng đã dùng thương mà đánh nhau với quân Mông Cổ. Mặc dù bình thường ông quen xài kiếm hơn.

Tóm lại, Tử Khuê rất có lý khi sử dụng cây kim thương của Trịnh Bá Nghiêm khi phá vây. Tuy chàng chỉ biết bảy chiêu thương và tám chiêu trường côn song cũng tạm đủ. Thứ nhất là vì phép đánh trường côn chính là căn bản của thương thuật. Để tăng khả năng sát hại, người ta đã gắn thêm mũi thép sắc nhọn vào đầu gậy mà tạo ra thương và giác. Từ đó mà thương pháp có nhiều thức đâm hơn côn pháp.

Bảy cộng tám là mười lăm, song với một kẻ đã thấu hiểu đạo biến hoá của võ học thì mười lăm chính là vô số. Đương nhiên Tử Khuê sẽ ngượng tay vì không quen và chẳng đạt đến mực thượng thừa của thương thuật như Trịnh Bá Nghiêm.

Nhưng đám bang chúng tép riu của Bích Huyết bang thì Tử Khuê thừa sức quét văng đi bằng một thế công cực kỳ dũng mãnh. Kim thương nặng gần chục cân được vũ lộng bằng đôi bàn tay với những bắp thịt nở nang, rắn chắc nên khí thế hùng hậu phi thường đao kiếm của bọn thủ hạ Bích Huyết bang chạm phải đường thương thì lập tức văng khỏi, bàn tay rướm máu. Tử Khuê luyện cả nội công, ngoại công, sức lực hơn hẳn Trịnh Bá Nghiêm.

Tử Khuê hứng chí xông lên, trường thương bay lượn vun vút tựa dải lụa vàng, kình phong xé gió vù vù, dọa khiếp phe địch.

Về mặt tâm lý thì bọn đệ tử Bích Huyết bang đã có phần khiếp sợ Tử Khuê. Khi thấy chàng sử dụng vũ khí của thượng cấp mình. Bang chủ còn thua thì thủ hạ nào thấm thía gì với đối phương? Lại thêm bằng chứng hiển nhiên là đường thương vũ bão đầu tiên, nên chúng chẳng dại gì đương cự mà mang họa.

Thế là vòng vây trước mặt Tử Khuê ngoan ngoãn dãn dần ra, theo từng bước chân của chàng, Tử Khuê đánh hết mười lăm chiêu, đưa đoàn người tiến lên được bốn trượng, chỉ còn cách cổng Quách gia trang ba trượng nữa thì nghe Trịnh Bá Nghiêm quát vang:

- Kẻ nào lùi bước sẽ bị xử tội chết!

Bọn bang chúng sợ hãi liều mạng xông vào tấn công Tử Khuê, không dám nhường đường nữa. Tử Khuê múa tít kim thương đánh bạt chúng ra và suy nghĩ:

- Dẫu ta giết chết mấy chục gã này mà vào được trong thì cuộc chiến vẫn không kết thúc. Phải tìm cách khác mới được.

Chàng lùi lại, ra hiệu cho Tống Thụy thay thế mình rồi đến sát Kỹ Tòng Thư mà nói nhanh:

- Chúng ta vào trong cũng vô ích. Tiểu điệt sẽ cố mang “Diêm vương lệnh kỳ” đến giao cho Hội đồng Võ Lâm, có như thế mới giải được tai họa.

- Kỹ lão thấy đệ tử thương vong khá nhiều, hiểu rằng mình đánh nữa sẽ chẳng còn một mống. Và nếu ông cố giữ Quỷ Kì thì Kỹ gia trang không một ngày yên ổn. Vì vậy, Tòng Thư đồng ý ngay, trao cây cờ báu cho cháu trai.

Từ Khuê nhận lấy, giơ cao lên phất và quát lớn:

- Xin hội đồng Võ Lâm tiếp nhận linh kỳ!

Sau đó Tử Khuê thu ngắn cánh cờ, cuộn mảnh lụa tam giác lại, giắt vào thắt lưng rồi múa thương đánh thốc về hướng Tây, nơi mà các phái Bạch đạo đang đứng như phỗng.

Lúc này, Trịnh Bá Nghiêm và lão Phó bang chủ râu dài đang tiến vào từ hướng Nam, còn cách xa đội ngũ của Kỹ trang chủ mấy trượng. Thấy phòng tuyến hướng Tây khá mỏng, Bá Nghiêm vội quát:

- Không cần giữ cửa trang nữa, mau chặn gã cầm cờ cho ta!

Thế là bọn thủ hạ của gã bỏ chỗ cũ, ùn ùn kéo về hướng tây, bổ sung quân số cho vị trí quan trọng. Ngay cả bốn lão hộ pháp trước giờ canh giữ trước cổng, nay cũng bỏ nghề.

Thiết Đảm Hồng Nhan bảo Kỹ lão:

- Xin Cửu Phụ cứ rút vào trong trị thương trước. Tiểu nữ sẽ đuổi theo hỗ trợ Quách sư huynh.

Kỹ Tòng Thư gật đầu và dặn dò:

- Đao, kiếm không có mắt. Lão phu mong rằng hai người cẩn trọng. Lão phu sẽ điều binh hỗ trợ ngay.

Tống Thụy ôm quyền chào rồi phi thân về hướng Tử Khuê đang tả xung hữu đột. Phe đối phương muốn cầm chân chàng nên tập trung rất dày ở trước mặt, sau lưng cũng có nhưng không nhiều. Nhờ vậy, Thiết Đảm Hồng Nhan có thể phá vây, vào với Tử Khuê.

Thấy nàng, Tử Khuê vô cùng cảm động và yên tâm mở đường máu vì đã có người che chắn mặt sau lưng. Đối thủ lúc này của chàng gồm Trịnh Bá Nghiêm, Dương Tố Vy và lão nhân râu dài Phó bang chủ Bích Huyết bang. Chung quanh đấu trường là sáu trăm thủ hạ của hai bang hội Chiết Mai, Bích Huyết. Họ tập trung nhiều ở hướng tây để đề phòng sự tham chiến của phe Bạch đạo. Tuy lực lượng này chỉ độ hơn hai trăm song đều là tay khá nhất là năm vị chưởng môn nhân và Thập Bát La Hán Thiếu Lâm Tự. Nhưng với oai phong của Bắc Thiên Tôn và Nam Thiên Tôn chưa chắc bọn hòa thượng, đạo sĩ, ăn mày ấy dám tham chiến. Bằng chứng là từ đầu đến giờ họ cứ bình chân như vại.

Nhưng sự thực lại khác với dự đoán của Trịnh Bá Nghiêm và Dương Tố Vy, Vân Thiên Tử chưởng môn nhân phái Võ Đương đã vận công quát vang:

- Hội đồng Võ Lâm yêu cầu Chiết Mai bang và Bích Huyết bang đình thủ! Hội đồng sẽ thu nhận “Diêm Vương Quỷ Kỳ” và hủy hoại ngay tại chốn này.

Dương Tố Vy bỏ trận địa, nhảy lên đứng trên vai ả nữ thủ hạ to con rồi khôn khéo đáp:

-Bẩm chư vị chưởng môn! Gia sư Bắc Thiên Tôn muốn sử dụng linh kỳ để giúp đạo quân triều đình ở vùng quan ải phía bắc Sơn Tây, đương cự với rợ Mông. Mong hội đồng Võ Lâm ủng hộ hành vi chính nghĩa ấy.

Vân Thiên Tử bối rối, chẳng biết phải giải quyết thế nào thì được một nữ đồ đệ đứng bên hiến kế. Vị đạo cô ấy là đệ tử nhỏ nhất của ông, đứng hàng thứ tám đạo danh Linh Tuệ. Nàng ta tuổi mới đôi chín, tính tình hiền lành, vui vẻ nhưng đầu óc thông minh tuyệt thế, mẫn tiệp phi thường.
Khác với Mộ Duy Lộ, Linh Tuệ đến Võ Đương không một xu lễ vật mà vẫn được làm đệ tử của chưởng môn nhân, tức đời thứ hai. Đáng lẽ, nàng ta phải làm đệ tử đời thứ ba mới đúng quy củ. Nhưng chẳng ai ganh ghét với Linh Tuệ cả vì nàng là cháu gọi Vân Thiên Tử bằng chú ruột. Vả lại, Linh Tuệ rất dễ mến, được cả phái yêu thương. Và nàng chính là người duy nhất cổ vũ cho Tử Khuê trong trận so tài với Mộ Duy Lộ ở Quang Hóa.
Giờ đây, cô nàng có cặp mắt tinh đời ấy rỉ tai mách nước cho sư phụ. Nghe xong, Vân Thiên Tử hớn hở cao giọng trả lời Dương Tố Vy:

- Thiện tai! Thiện tai! Bắc Thiên Tôn đã có lòng vì xã tắc như thế thì Hội đồng Võ Lâm rất khâm phục. Nhưng nếu chư vị không mau đình thủ thì e rằng vị thí chủ họ Hàn kia sẽ hủy bảo vật đi đấy.

Câu nói khách sáo ấy chính là lời nhắc nhở Tử Khuê mau phá hủy linh lỳ. Chàng trai xui xẻo của chúng ta tuy hơi thật thà nhưng không đến nỗi ngốc. Tử Khuê liền tỉnh ngộ, quét một thương sấm sét, đẩy lùi những đối thủ của mình. Và bất ngờ phóng thẳng kim thương vào người lão phó bang chủ Bích Huyết bang. Lão ta không dám né tránh sợ hại mạng bọn thủ hạ phía sau, đành vung đao chặn lại.

Đao pháp của lão rất linh diệu nên đã đánh rơi được mũi ám khí to đùng ấy xuống đất. Nhưng Tử Khuê đã lợi dụng khoảnh khắc nọ mà rút Diêm Vương Quỷ Kỳ ra, kéo dài cán thép, sử dụng như một thanh kiếm thứ hai bên tay trái.

Chàng có thể dùng tả thủ đánh những chiêu quyền, trảo, phối hợp với trường kiếm bên tay hữu thì việc múa cờ bằng tay trái chẳng phải là khó.
Nghĩa là Tử Khuê đã không làm theo lời nhắc nhở của Chưởng môn phái Võ Đương mà lại dùng sự toàn vẹn của “Diêm Vương Quỷ Kỳ” để phá vây. Phe địch rơi vào thế “Ném chuột sợ vỡ đồ quý” sẽ phải nhường đường. Chàng muốn thay thân mẫu báo đáp đại ân dưỡng dục của Tòng Thư nên cố gắng hòan thành tâm nguyện của ông là bảo toàn linh kỳ, sau này trao cho người tài đức.

Vậy phải chăng Tử Khuê thầm cho rằng mình là vị tướng tinh giáng phàm ấy? Không phải vậy, từ sau lần thất bại trước hồn ma của Lỗ Phán Quan ở Trình gia trang, chàng không còn chút ảo tưởng nào vào cái gốc gác thần tiên của mình nữa.

Tử Khuê là người thẳng thắn, khoáng đạt, nên chẳng thèm để ý đến chúng nữa. Nhưng ma quỷ và thuật bói toán là hai mặt hiển nhiển nhiên tồn tại của văn hoá Trung Quốc mấy ngàn năm nên Tử Khuê chấp nhận được. Do đó, chàng không thắc mắc vì sao Cửu Hoa Thánh Y nhận ra mình dù chưa hề gặp gở. Còn ma thì chàng đã gặp rồi.

Nhắc lại,với chủ ý ấy, Tử Khuê ung dung lao vút về phía trước. Dùng linh kỳ đâm Trịnh Bá Nghiêm ba nhát. Họ Trịnh không dám dùng thanh gươm được mài sắc như dao cạo của mình chống đỡ, đành phải thoái hậu. Gã sợ chém rách cờ báu thì uổng công lao kéo quân đến đây và không hoàn thành sứ mạng do Thiên Tôn đã giao phó. Họ đã ra lệnh cho gã và Tố Vy chiếm cho bằng được “Diêm Vương Quỷ Kỳ”.

Đẩy lùi được Bá Nghiêm, Tử Khuê yên tâm xông vào tấn công lão Phó bang chủ Bích Huyết bang. Tuy là phó nhưng bản lĩnh lão ta còn cao hơn họ Trịnh. Thất Hòan Đao Hướng Vụ Quan năm nay đã sáu mươi sáu tuổi, có tài đánh đao siêu việt, hùng cứ đất Hành Dương đã mấy chục năm. Hướng lão mở trường dạy đao thuật, lấy tên là “Bá Đao đường”, đệ tử động đến gần ngàn.

Hướng Vụ Quan vốn không có tham vọng lớn lao, bằng lòng với vai trò bá chủ vùng đông nam tỉnh Hồ Quảng (Gồm Hồ Bắc và Hồ Nam hiện tại). Nhưng do từng chịu ơn cứu mạng của Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến nên Hướng lão đã khuất thân làm phó cho Trịnh Bá Nghiêm. Ông còn đưa mấy trăm học trò giỏi của mình đến gia nhập Bích Huyết bang, tạo thành lực lượng nòng cốt của tổ chức non trẻ này.

Tử Khuê nhờ bảy vòng thép rủng rẻng trên sống đao đối phương mà nhận ra lai lịch lão gì có gương mặt chữ điền cương nghị kia. Tuy biết Thất Hoàn Đao không phải là kẻ ác, song đã ở thế đối đầu thì chàng chẳng thể nương tay. Tử Khuê trận trọng xuất chiêu “Tường Vân Long Hiện” (Rồng hiện trong đám mây lành).

Vầng kim ô đã khuất sau rặng núi xa xăm cuối trời tây, chỉ còn lại chút nắng vàng hiu hắt nhuộm dở dang những đám mây trắng lững lờ. Những tia nắng ấy không đến được đấu trường đẫm máu này để tô điểm cho màn kiếm ảnh dày đặt của Tử Khuê tạo ra một đóa mây lành rực rỡ.

Nhưng chẳng vì thế mà chiêu kiếm giảm phần lợi hại, tám mươi sáu thức đâm như chớp giật vẫn khiến cho Thất Hòan Đao phải rợn tóc gáy. Lão ta cẩn trọng đón đỡ bằng một chiêu đao cực kỳ thận trọng và hùnh mạnh “Hướng gia đao pháp” vốn nổi tiếng võ lâm về tính trầm ổn, vững vàng. Bản đao rộng gấp đôi bảo kiếm nên khi phòng thủ thì bội phần kín đáo. Hơn nữa, Hướng Vụ Quan luyện võ rất sớm, cả đao pháp lẫn công lực đều thâm hậu. Nhờ vậy, lão cản phá được gần hết những thế công của Tử Khuê.

Nhưng Hướng Vụ Quan không ngờ rằng gã tiểu tử râu rậm kia lại có thể sử dụng hai tay cùng một lúc, dùng “Diêm Vương Quỷ Kỳ” thọc liền năm thức thành năm đòn đâm nhanh tựa độc xà thểm điện. Nên Hướng lão chỉ có thể rút chân trái về và dùng đao che chắn thân phải.

Khổ nỗi là lão cũng không dám hủy hoại cờ báu nên đành phải nhắm vào đoạn thép ở mũi cán cờ mà va chạm. Đã phân tâm đếm mức ấy thì đường đao không thể nhanh và kín như thường lệ được. Thế là lão trúng một kiếm của đối phương vào sườn tả.

Vết thương không nặng nhưng cũng đủ khiến Thất Hòan Đao nản chí rời vị trí, nhường đường cho kẻ địch. Đánh nhau mà phải kiêng dè đủ thứ thì thà không đánh còn hơn.

Trịnh Bá Nghiêm cũng hiểu hoàn cảnh éo le ấy nên không hề trách móc vị lão tướng của mình. Gã bực bội xông vào tấn công Thiết Đảm Hồng Nhan vì nàng bám sau lưng Tử Khuê, mà vượt lên. Thất Hòan Đao thấy thế cũng hợp lực cùng bang chủ, cho rằng nếu bắt được Tống Thụy thì gã rấu rậm kia sẽ phải dùng linh kỳ để đổi con tin.

Hướng lão dồn toàn lực xuất chiêu “Bạt Sơn Đảo Hải”. Đường đao mãnh liệt phi thường, quyết chặt gãy hoặc đánh văng bảo kiếm của ả họ Tống.
Nếu là đơn đấu một chọi một thì Thiết Đảm Hồng Nhan còn có thể tránh né va chạm và đối phó chiêu dao dữ dội ấy bằng những thế đâm nhanh qua sơ hở, là sở trường của kiếm. Nhưng lúc này, nàng đang phải đọ kiếm với Trịnh Bá Nghiêm nên chỉ còn cách chặn đường đao rồi thoái hậu.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà người đời gọi nữ nhân là phái yếu, trời sinh họ ra với khung xương nhỏ nhắn, cơ bắp mềm mại, chẳng phải để đánh nhau. Những tạo vật mỹ miều đáng kính ấy có nhiệm vụ cao quý là sinh sản, bảo tồn nòi giống nhân loại. Chỗ thích hợp của họ là một ngôi nhà ấm cúng, một cái giường trải nệm êm, hoặc là một cái bàn thờ trên đầu đức ông chồng râu quặp. Nghĩa là trừ trường hợp giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, họ đừng nên vác tấm thân nõn nà, mềm mại của mình ra chốn đầu gươm mũi giáo.

Do sự thua thiệt bẩm sinh ấy mà năm ngón tay búp măng của Tống Thụy đã không giữ nổi chuôi kiếm khi va chạm với nhát Đao nặng như núi Thái của Hướng lão. Hổ khẩu nàng rách toạc, trường kiếm văng ra và gò nhũ phong bên trái bị mũi đao rạch một đường không sâu lắm.

Nữ nhân quý trọng nhất là gương mặt của mình, sau đó chính là bộ ngực. Bởi thế, dẫu có là cọp cái thì Tống Thụy cũng phải kinh hoàng rú lên, vì đau thì ít mà hoảng hồn thì nhiều. Nàng tưởng rằng một chỏm ngọc phong đã bị chặt cụt, tan nát đời mỹ nữ.

Do thoái hậu quá gấp nên lưng nàng đã chạm lưng Tử Khuê. Nghe tiếng rú của sư muội, Tử Khuê kinh hãi đảo bộ quay ngoắt lại che cho nàng đối diện với Thất Hoàn Đao và Trịnh Bá Nghiêm. Chàng đâm liền năm thất như mưa xa để ngăn cản rồi trao “Diêm vương Quỷ Kỳ” cho Tống Thụy sử dụng.

Tống cô nương hoàn hồn, sau khi sờ lên ngực yên tâm vì núm vú hồng hồng xinh xắn vẫn còn nguyên. Nàng vừa điểm huyệt chỉ huyết, vừa vung cờ chống chọi với Dương Tố Vy ở trước mặt. Nàng ta dãn ra ngay vì sợ làm rách cờ.

Thiết Đảm Hồng Nhan cao hứng tràn lên, quét rộng linh kỳ, tiến rất nhanh. Dương Tố Vy và bọn thủ hạ chẳng đủ bản lãnh đả thương người mà không làm hại đến lá cờ nên đành bó tay.

Lúc này, cục diện chiến trường có diễn biến mới. Kỹ trang chủ đã băng bó vết thương xong,cùng thứ nữ là Kỹ Lưu Tiên kéo lực lượng gia đinh ra hỗ trợ Tử Khuê.

Họ đã xuất trang bằng lối sau vòng sang hướng Tây và bất ngờ đánh tập hậu phe đối phương. Gần hai trăm cây cung chia hai đợt mà buông tên với lòng căm thù, giận dữ nên đã thu hoạch không nhỏ. Có đến bảy tám chục gã thủ hạ của hai bang Chiết Mai-Bích Huyết bị trúng đòn, kêu gào thảm thiết.

Kỹ Tòng Thư là người thích săn bắn, thuật xạ tiễn rất cao cường. Kỹ gia trang lại tọa lạc đơn độc ở một vùng vắng vẻ, chung quanh là vườn cây bạt ngàn, nên ông đã chú tâm dạy nghề bắn cung cho các gia đinh. Cung tiễn là thứ vũ khí phòng thủ hoặc tấn công từ xa rất hữu hiệu.

Trận này, Kỹ lão đã tổn thất một phần ba quân số, song lực lượng còn lại càng thêm kiêu dũng, vì muốn báo thù cho đồng đội.

Họ là những nông dân chất phác trong vùng, sống bằng nghề chăm sóc vườn tược đã bao đời. Khi Kỹ Tòng Thư mua lại ngàn mẫu vườn này, không những tăng lương cho họ mà còn dạy võ nghệ, kiếm cung, khiến ai cũng vô cùng cảm kích.

Họ rất giận dữ khi người ngoài ngang nhiên đến cướp đọat một vật nằm trên bàn thờ nhà họ Kỹ đã mười năm. Nếu vì lá cờ kia có thể giết người mà phải hủy bỏ thì có khác nào cần phải thiến hết đàn ông trong thiên hạ để không còn tội cưỡng dâm. Thiện ác do lòng người chứ nào phải do vật?

Họ không quen việc bắn vào đồng loại nên đầu trận hơi run tay, nhưng giờ thì ai nấy lạnh lùng buông từng mũi tên chính xác đến không ngờ. Kẻ đứng người quỳ, thay nhau bắn vào những kẻ hung ác đang xông đến.

Bọn đầu lĩnh hai bang Bích Huyết-Chiết Mai ỷ vào bản lĩnh cao cường cố vượt trận mưa tên, dẫn quân tiến lên. Mười mấy gã Hộ Pháp, đường chủ ấy đều là cao thủ thành danh, thừa sức dùng vũ khí đánh bạt những mũi tên không bọc sắt, bắn ra từ những cây cung nhỏ.

Cung vốn có hai loại. Trường cung có cánh dài độ sải tay, bắn ra những mũi tên dài nặng, đầu bọc sắt, bay rất xa và có thể xuyên thủng giáp võng. Nhưng loại này đòi hỏi sức lực mạnh mẽ, thường chỉ dùng trong chiến trận. Loại thứ hai là đoản cung, cánh ngắn và mỏng hơn, tên cũng nhẹ và ít khi bọc mũi. Đoản cung bắn gần rất tốt, tiện lợi hơn trường cung.

Năm xưa, mỗi kỵ binh Mông Cổ đều được trang bị cà hai loại cung này và tài xạ tiễn của họ đã tạo nên một đế quốc rộng lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Nhưng đám gia đinh Kỹ gia trang chẳng phải người Mông. Họ chỉ có thể sử dụng đoản cung và do bọn cường đạo không bao giờ mặc áo giáp nên tên của họ chẳng bọc mũi bằng kim loại làm gì. Vì vậy, mười bảy gã hung thần đã an toàn đến nơi, tấn công quyết liệt, khiến số công thủ phải bỏ nghề, rút kiếm đương cự. Kỹ Tòng Thư và ái nữ là Kỹ Lưu Tiên cũng xuất kiếm.

Bọn bang chúng đằng kia bị trúng tên thương vong, không tuân phục nữa, song cuối cùng cũng đã ào đến ngày càng đông và áp đảo được phe Kỹ gia trang.

Đến nước này thì Tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán không còn nhẫn nhịn được nữa. Gã chẳng thể đứng nhìn bằng hữu của phụ thân mình thảm tử. Họ Lư lúng túng nói với Trúc Lâm Tử:

- Bẩm ân sư! Đồ nhi được lệnh của gia phụ đến đây hỗ trợ cho Kỹ trang chủ. Nay ông ta đang lâm nguy, đồ nhi chẳng thể làm ngơ. Xin ân sư lượng giải cho.

Trúc Lâm Tử buồn rầu đáp:

- Nam-Bắc Thiên Tôn là bằng hữu chí thân của tiền nhiệm chưởng môn năm phái nên bọn ta không thể can thiệp vào việc của họ. Hơn nữa, Bắc thiên tôn lại mượn cớ dùng linh kỳ để bảo vệ giang sơn, khiến năm phái càng khó ra tay. Nhưng nay Đán nhi đã nhận lệnh của cha già thì cứ hành động.

Tây Nhạc Kiếm Khách mừng rỡ kéo mười mấy gã huynh đệ chạy về hướng đấu trường, tiếp tay cha con Kỹ Tòng Thư.

Lư Công Đán là kiếm thủ cừ khôi nên mới được xếp vào hàng “Võ Lâm Ngũ Tú”. Gã vung kiếm đâm liền chín thức, đẩy lùi một trong hai gã đường chủ Chiết Mai bang đang uy hiếp Kỹ Lưu Tiên, giải tỏa áp lực cho nàng, rồi sánh vai người đẹp mà chiến đấu.

Tuy không thể sánh bằng Đông Nhạc Tiên Hồ hay Thiết Đảm Hồng Nhan, song nhan sắc Kỹ Lưu Tiên cũng thuộc hàng mỹ nữ. Nếu nàng ta không có tính cả thẹn, thường tránh mặt khi khách đến chơi thì không chừng Lư Công Đán đã phải lòng rồi. Trước giờ gã chỉ thấy thấp thóang bóng hồng chứ không tỏ tường mặt mũi. Họ Lư đang thất vọng vì đánh mất hai thần tượng là Dịch Tái Vân và Tống Thụy nên giờ đây dễ dàng xao xuyến trước một mục tiêu mới đầy hấp dẫn. Lưu Tiên không nói lời đa tạ, chỉ đỏ mặt liếc gã bằng ánh mắt đầy cảm kích, song cũng đủ khiến họ Lư nghe hồn rộn rã, rạo rực. Gả bèn trổ hết bản lãnh, đả thương đối thủ của mình để khoe tài với mỹ nhân.

Sự tham chiến của Lư Công Đán và mười bảy gã cao thủ đất Nam Dương chỉ cải thiện đôi chút thế hạ phong của phe kỹ gia trang. Nhưng may thay, Tử Khuê cùng Thiết Đảm Hồng Nhan đã thóat khỏi sự vây hãm của kẻ thù, đến được vị trí mà phe Bạch đạo đang đứng.

Tống Thụy hổn hển nói:

- Kỹ trang chủ xin dâng linh kỳ cho Hội đồng Võ lâm gìn giữ.

Dứt lời, nàng trao cờ báu cho Vân Thiên Tử, chưởng môn nhân phái Võ Đương cũng là người đứng đầu hội đồng Võ Lâm.

Vân Thiên Tử vừa nhận lấy thì bọn Trịnh Bá Nghiêm chạy đến. Họ Trịnh lộ rõ vẻ nóng nảy nhưng Dương Tố Vy thì gian hoạt, nghiêng mình lại uyển chuyển nói:

- Khải bẩm hội đồng Võ Lâm! Gia sư tuổi hạc đã cùng nhưng vì gian sơn xã tắc mà ngày đêm lo lắng, buồn phiền quyết ra tay trừng trị bọn rợ Mông, bảo vệ biên thùy. Chư vị cũng là phần tử của Đại Minh, xin hãy thành toàn ý nguyện ấy của người. Gia sư sẽ vô cùng cảm kích.

Lúc này, Tử Khuê và Tống Thụy đang đứng phía sau với năm vị chưởng môn nhân. Tử Khuê liền rỉ tai Thất Bổng Cái:

- Thạch bang chủ! Vãn bối là Vu Diệp đây. Gia nghĩa phụ Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh đã từng bảo rằng Nam-Bắc Thiên Tôn tuy già mà lòng vẫn đầy tham vọng. Vì vậy, chúng ta không thể để “Diêm Vương Quỷ Kỳ” lọt vào tay họ được.

Thất Bổng Cái vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, đấm vào vai Tử Khuê:

- Con bà nó! Té ra ngươi đã bái lão họ Trần làm cha nuôi nên kiếm thuật tăng tiến nhanh như vậy, khiến lão phu ngờ ngợ đóan ra mà không dám khẳng định.

Rồi lão quay sang đỡ lời Vân Thiên Tử, đối đáp với Dương Tố Vy:

- Cây cờ này oai lực phi phàm, quan hệ rất lớn đối với vận mệnh Võ Lâm, nên bọn lão phu chẳng thể khinh suất giao cho cô nương được. Nếu quả thực là lệnh sư có tâm nguyện ấy thì cứ khải tấu lên hoàng thượng, xin một đạo Thánh chỉ. Lúc đó, Hội đồng Võ Lâm sẽ cung kính trao bảo vật. Còn giờ đây, cờ báu sẽ được mang về núi Võ Đương cất giữ, theo đúng ý nguyện của chủ nó là Kỹ trang chủ.

Lúc này, Kỹ Tòng Thư và thủ hạ đã rút về đến cổng trang và phe địch cũng chẳng truy đánh vì có mục tiêu mới là phe Bạch đạo.

Kỹ trang chủ nghe được câu nói của Thất Bổng Cái liền cao giọng xác nhận:

- Thạch Bang chủ nói chí phải.

Dương Tố Vy tức tối trở giọng đe dọa các chưởng môn nhân:

- Chư vị làm thế là khinh thường một bậc tiền bối đức cao vọng trọng, e rằng gia sư sẽ giận đấy.

Toàn Chân trưởng giáo Tùng Xuân Tử cười nhạt đáp:

- Nữ thí chủ đừng giở trò “Cáo mượn oai hùm”. Các phái vì chút nghĩa tình của tiền nhân mà nể trọng lệnh sư chứ chẳng hề sợ hãi. Nay thí chủ chỉ bằng lời nói suông mà muốn Hội đồng Võ Lâm phải phải ngoan ngõan trao bảo vật hay sao?

Trịnh Bá Nghiêm, Bang chủ Bích Huyết bang là người nóng nảy, hùng hổ quát:

- Được! Để xem phái Võ Đương sẽ giữ Quỷ kỳ được bao lâu, khi song Tôn giá lâm hỏi tội.

Lời đe dọa hàm ý xem thường này đã làm cho đệ tử phái Võ Đương tức giận, nhưng chỉ mình Linh Tuệ thì không. Nàng cười khúc khích rằng:

- Hai lão ấy sẽ không ra tay! Họ đã già khú để mà lấy vợ trẻ trung thì sức đâu đánh đấm nữa.

Bá Nghiêm giật bắn mình, buột miệng:

-Sao ngươi lại biết ?

Linh Tuệ vui vẻ đáp:

- Năm ngoái tiểu đạo về Sơn Tây thăm quê, có đi ngang Đại Bạch sơn, tình cờ nghe bách tính đồn đãi việc vị lão tiên họ Phùng, tuổi đã quá tám mươi mà còn mê gái đẹp. Tiểu đạo liền suy rằng Nam Thiên Tôn cũng thế.

Hai trăm đệ tử Bạch đạo phá lên cười khoái trá. Riêng năm vị chưởng môn nhìn nhau lo lắng, hiểu rằng hiện tượng kia chẳng hề đơn giản. Sự thoái hóa tư cách của hai lão bất tử nọ đã phần nào giải thích được nguyên nhân vì sao họ để cho đồ đệ mình khai bang lập phái. Hội đồng Võ Lâm càng tin lời Tử Khuê, quyết không trao “Diêm Vương Quỷ Kỳ” cho họ.

Đạo Giác Thiền Sư, phương trượng Thiếu Lâm Tự nói với giọng hiền hòa nhưng kiên quyết:

- A Di Đà Phật. Nhị vị thí chủ hãy về bẩm báo lại với song Tôn như thế. Nếu có Thánh chỉ thì bọn lão nạp sẽ dâng cờ.

Trời đã nhá nhem tối nên không ai để ý thấy một cánh chim khổng lồ đang lơ lửng trên không trung và bất ngờ lao vút xuống từ hướng tây, tức từ phía sau phe Bạch đạo. Trên lưng chim là một bóng người nhỏ thó như một đứa trẻ lên mười.

Lúc con chim lượn đến vị trí trên đầu các chưởng môn nhân, người ấy khéo léo điều khiển cây nhuyễn tiên dài ngoằng quấn lấy cây “Diêm Vương Quỷ Kỳ”, đang nằm trong tay tả Vân Thiên Tử. Thủ pháp của hắn cực kỳ chuẩn xác và nhanh đến mức chưởng môn nhân phái Võ Đương không sao phản ứng kịp, đừng nói chi đến những người khác.

Khi mọi người hiểu ra có kẻ cướp cờ, la hét thất thanh thì cánh chim đã bay vút lên cao, chỉ còn lại tiếng cười ngạo nghễ.

Thất Bổng Cái tức tối chửi vang:

- Tổ cha cái lão Phi Điểu Thần Ma. Không ngờ lão đốn mạt ấy còn sống đến đây cướp đọat linh kỳ.

Vân Thiên Tử bẽ bàng nói lời hối lỗi:

- Bần đạo bất tài, để cho bảo vật lọt vào tay kẻ ác, lòng vô cùng hổ thẹn. Sau này Phi Điểu Thần Ma dùng cờ báu mà tàn phá sinh linh thì bần đạo chỉ còn cách liều chết với y để trả nợ cùng Võ Lâm.

Dương Tố Vy hậm hực trách cứ:

- Nếu lão sớm đưa ngay linh kỳ cho ta thì làm gì lão quỷ Lục Doãn Ngôn cướp được. Tội lỗi tày trời ấy lão hãy cố mà gánh lấy.
Dứt lời, nàng cùng Trịnh Bá Nghiêm ra lệnh rút quân vì ở lại cũng vô ích. Ở đây các chưởng môn nói lời an ủi Vân Thiên Tử song không sao làm cho ông vơi đi niềm hối hận. Nhưng Tử Khuê đã cải thiện được tình hình, chàng từ tốn nói:

- Theo thiển ý của vãn bối thì việc Phi Điểu Thần Ma đoạt cờ có cái hay của nó. Lục Doãn Ngôn tính khí thất thường, cổ quái nhưng không phải là kẻ gian xảo, nhiều tham vọng. Tiên sư từng nhận xét rằng Phi Điểu Thần Ma đáng thương hơn là đáng ghét. Nay dẫu cho ông ta có linh kỳ trong tay thì chắc cũng để dương oai cùng Võ Lâm chứ không dùng với mục đích cướp bóc hay tranh hùng tranh bá. Nhưng ngược lại, nếu Nam-Bắc Thiên Tôn đọat được bảo vật thì hậu quả khó lường. Gia nghĩa phụ bảo rằng hai người ấy là những kẻ đạo đức giả, nhờ khéo che giấu bản chất tham dục mà được Võ Lâm kính trọng.

Kỹ trang chủ cũng đã đến nơi, vui vẻ mời cả lực lượng Bạch đạo vào trong dùng cơm và nghỉ ngơi. Trời đã tối hẳn, ai nấy đều đói meo và nhớp nháp nên nhận lời ngay















Hồi 6 : Xoa Lạp phùng bão vũ
Hiền tức nhập Quách gia



Sáng hôm sau, quần hùng rời Kỷ gia trang, chỉ còn lại Tử Khuê và Thiết Đảm Hồng Nhan. Họ ở thêm bốn ngày nữa mới lên đường.

Kỹ Tòng Thư lưu luyến mãi và hứa với cháu trai rằng sẽ đi Hứa Xương ngay khi lành vết thương. Ông nóng lòng muốn gặp lại đứa em xa cách bao năm. Ông sẽ đích thân đến thăm Quách gia trang trước để chứng tỏ rằng mình chẳng hề oán hận Kỹ Thanh Lam. Không những thế, Tòng Thư còn muốn định cư ở Hứa Xương để anh em được gần gũi nhau. Ngàn mẫu vườn ở đây ông sẽ bán đi hai phần, phần còn lại tặng cho bọn đệ tử kẻ chết được nhiều hơn người còn sống.

Hai người đến Dụ Châu thì trời đã xế chiều, có đi tiếp cũng chẳng về kịp Nghiệp thành. Họ ghé vào quán trọ trong thành nghỉ ngơi.

Sau trận chiến tại Kỹ gia trang, thanh danh Hàn Thiếu Lăng đã nổi như cồn, trước tiên là ở cùng đất phí Nam tỉnh Hà Nam này. Và chắc chắn rằng tiếng tăm ấy sẽ dần lan tỏa khắp võ lâm theo bước chân của những người đã chứng kiến trận chiến ấy. Họ Hàn lân lượt đả thương Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn, bang chủ Bích Huyết bang Trịnh Bá Nghiêm và Thất Hoàn Đao Hướng Vụ Quang bằng chỉ một chiêu. Chiến tích ấy quả là vô tiền khoáng hậu, oanh liệt phi thường.

Người ta đã mau mắn tặng cho Hàn Thiếu Lăng một mỹ hiệu là Cầu Nhiêm Đại Hiệp (Đại hiệp rậm râu).

Thiết Đảm Hồng Nhan, kẻ luôn sát cánh chiến đấu bên cạnh ngôi sao mới, cũng được ca ngợi và đánh giá rất cao.

Nhân vật nổi tiếng thứ ba là Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn, kẻ đã cướp được “Diêm vương Quỷ Kỳ” trước mặt Hội đồng Võ lâm. Thiên hạ còn rỉ tai nhau một tin đồn là Chiết Mai bang cùng Bích Huyết bang đã trao giải thưởng ba ngàn lượng vàng cho bất cứ ai cáo giác chỗ trú ẩn của Thần Ma. Nhưng ít người han hố số vàng ấy vì lão chết toi họ Lục di chuyển trên không trung, biết đâu mà lần.

Thanh danh là chiếc áo lộng lẫy nhưng cũng mang đến nhiều phiền toái cho người quân tử, chỉ những kẻ tiểu nhân mới đắc ý khi nổi tiếng và lợi dụng thanh danh để trục lợi.

Vì còn trẻ nên lúc đầu Tử Khuê cũng rất khoan khoái khi nghe mọi người ca tụng mình. Nhưng trên đoạn đường từ Báo Bình đến Dụ Châu, chàng đã phải dừng cương hàng chục lần để đáp lễ sự tôn sùng của khách võ lâm liền thức ngộ ra rằng mình không thích hợp với thanh danh. Chàng ngượng ngùng lắng nghe những câu tán dương sáo rỗng và thầm hổ thẹn xiết bao khi được gọi là “Võ Lâm đệ nhất cao thủ”. “Thiên hạ đệ nhất kiếm”… Chàng càng bối rối khi Tống Thụy đứng gần đấy cứ nhìn rồi tủm tỉm cười.

Cho nên giờ đây, hai người cố tình tìm một khách sạn sang trọng, đắt tiền nhất, nơi mà khách giang hồ ít khi dám bén mảng tới. Xương Vinh đại lữ điếm là một nơi như thế chỉ dành cho bấc phú quý hay những lái buôn lắm vàng nhiều bạc.

Gương mặt râu ria oai vệ của Tử Khuê đã khiến lão chưởng quỹ già chột dạ. Lão phân vân không hiểu hai kẻ mang gươm này vào đây ở trọ với mục đích gì? Nhưng chợt nhớ ra rằng mình đã biếu xén hậu hĩnh cho Tri huyện Dụ Châu hàng tháng, nên đêm đêm quân binh túc trực bên ngoài, lão an tâm phúc đáp:

- Bẩm đại gia và phu nhân! Bổ điếm vẫn còn một phòng thượng hạng rộng rãi và thoáng mát, hy vọng nhị vị hài lòng.

Tống Thụy thoáng chau mặt nhưng không cải chính. Nàng gật đầu và dặn thêm một mâm cơm cùng vò tượu Thiệu Hưng lâu năm.

Lão chưởng quỹ sai tiểu nhị đưa khách lên phòng trên lầu, rồi cắm cúi ghi chép tên họ hai kẻ khả nghi vào sổ. Lão giữ luôn thẻ Đinh của họ nên chẳng sợ bị quỵt tiền.

Dù là phòng thượng hạng thì cũng có một chiếc giường, Tử Khuê ngao ngán thầm nghĩ đêm nay mình sẽ phải ngủ trên trường kỷ hoặc sàn nhà. Chàng rất thương mến Tống Thụy song vẫn chưa đến mức quyết tâm lấy nàng làm vợ. Mẹ chàng là người chán ghét chế độ đa thê, thường dạy rằng: “Nam nhân nhiều vợ sẽ chẳng bao giờ có được hạnh phúc đích thực. Do đó, trừ phi chính thất không sanh được con trai nối dõi tông đường. Khuê nhi chớ nên đa mang”.

Lý do thứ hai ít quan trọng hơn là vì Thiết Đảm Hồng Nhan lớn hơn chàng bốn tuổi. Kỹ nương cũng không thích điều ấy. Tuổi xuân của nữ nhân qua mau hơn nam nhân, nhan sắc tàn phai theo từng đứa con, và đến một lúc nào đó vợ chồng sẽ như đũa lệch khó so, người đàn ông lại nghĩ đến chuyện nạp thiếp.

Chính vì những nguyên nhân ấy mà Tử Khuê đã chấp nhận từ hôn Đông Nhạc Tiên Hồ, dù lòng cũng tiêng tiếc. Tuy Thái Vân chỉ như tượng đá nhưng lại là pho tượng đẹp hiếm có trên đời.

Tối hôm ấy, hai người tĩnh tọa luyện khí, Tử Khuê có công lực thâm hậu hơn nên xả công hơi trễ. Lúc mở mắt thì chàng thấy Tống Thụy đã giành lấy chiếc trường kỹ nhường giường cho mình.

Tử Khuê nói mãi chẳng được liền xách gối xuống sàn gỗ mà ngủ. Hai người trằn trọc một lúc lâu rồi cũng thiếp đi vì mệt mỏi. Cưỡi ngựa đường dài là một việc cực nhọc, tổn hao nhiều sức lực, cơ đùi, cơ lưng đều mỏi rời.

Cuối canh ba, Thiết Đảm Hồng Nhan bỗng nghe gan bàn chân nhột nhạt, thức giấc mở mắt ra xem. Nàng giật bắn mình khi thấy một bóng ma trắng toát, tóc buông xõa, mặt mũi đầy máu, lưỡi thè ra dài cả gang tay. Dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn tọa đăng mù mù, cảnh tượng ấy càng bội phần đáng sợ.

Ma quỷ là hiện tượng siêu nhiên nằm ngoài sự hiểu biết của lý trí lại hiếm khi gặp được, nên con người luôn khiếp sợ, nhất là nữ nhân. Thiết Đảm Hồng Nhan to gan lớn mật, sẵn sàng đối mặt với cả cái chết nhưng cũng không bình tĩnh nổi trong trường hợp này. Sợ ma, sợ rắn và bóng tối là bản năng của đàn bà.

Tống Thụy hồn phi phách tán, rú lên rồi nhảy vào đến chỗ Tử Khuê, chui vào chăn, ôm chặt chàng mà run như cầy sấy, miệng lắp bắp:

- Quỷ! Có quỷ!

Tử Khuê ngồi bật dậy ngó quanh rồi vỗ về, trấn an:

- Ma quỷ nào đáng sợ. Ta đã từng gặp qua rồi, nàng không nhớ sao!

Tống Thụy vẫn chưa hoàn hồn, kéo chàng nằm xuống rồi rúc vào nách. Gần khắc sau nàng đã hết sợ, bắt đầu biết hổ thẹn khi ôm ấp Tử Khuê. Nhưng nàng không sao buông ra được nữa, tâm thức bị xâm chiếm hoàn toàn bởi ý niệm khát khao được ở mãi bên chàng. Đây chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời mà nàng tìm kiếm bao năm. Tử Khuê như cây sối cao lớn, vững chắc để nàng nương tựa suốt đời. Tống Thụy suy nghĩ miên man, hiểu rằng mình đã yêu say đắm chàng trai anh hùng cái thế và trung hậu này. Ngoài chàng ra, chẳng còn nam nhân nào khác trong thiên hạ xứng đáng để nàng trao thân gửi phận.

Khi đã xác định được tình cảm, Tống Thụy bớt băn khoăn về việc đụng chạm xác thân, đắm chìm trong tâm trạng của một kẻ tìm được tình yêu. Nàng là người trọng tình cảm lứa đôi thơ mộng nên nhẹ phần dục tính, dẫu có rạo rực cũng không nghĩ đến chuyện hiến dâng.

Ngược lại Tử Khuê đang trong thời kỳ phát dục mạnh mẽ nên cơ thể rất nhạy cảm với mùi hương kiều mỵ và sự mềm mại, ấm nóng của da thịt mỹ nhân. Chàng cắn răng chế ngự lửa lòng, nằm im như tượng gỗ, thao thức đến gần sáng mới ngủ được.

Thựa ra, Thiết Đàm Hồng Nhan cũng vậy. nàng không ngủ được vì quá hạnh phúc và vì một chút nghi hoặc, giận hờn. Tuy nàng rất khâm phục tư cách quân tử của chàng song lại tự hỏi:

- Phải chăng Tử Khuê không yêu ta nên mới trơ ra như thế kia? Đáng lẽ chàng phải ôm ta hoặc hôn hít vài cái để biểu lộ tình cảm chứ?

Do không nắm chắc được tình cảm đối phương nên Tống Thụy khá phân vân, quyết định giữ kín nỗi lòng, chờ Tử Khuê tỏ tình trước.

Sáng ra, Thiết Đảm Hồng Nhan đã toại nguyện vì Tử Khuê say ngủ ôm nàng như ôm gối dài, vô cùng thân mật.

Thiết Đảm Hồng Nhan khoan khoái hưởng thụ một lát rồi cựa quậy khiến Tử Khuê thức giấc. Chàng hổ thẹn vì tư thế nằm sỗ sàng của mình liền ngõ lời tạ lỗi. Tống Thụy cười mát, hững hờ đáp:

- Sư huynh chớ lo. Tiểu muội chẳng vì việc đêm qua mà bắt huynh phải lấy tiểu muội đâu.

Đàn bà là thế đấy, tuy đã yêu chết mê chết mệt mà ngoài mặt cứ vẫn kiêu kỳ.

Dùng điểm tâm xong, hai người rời thành Dụ Châu. Họ chẳng ghé thăm Tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán vì mới gặp mấy hôm trước.

Chiều hôm ấy, Tử Khuê và Tống Thụy về đến Nghiệp Thành. Tuy rất vui mừng nhưng Tống Nhiên và Ngụy Công Tử không giấu được vẻ lo âu.

Chủ nhân Hồng Vận đại phạn điếm nghiêm nghị bảo Tử Khuê:

- Khuê nhi! Hiện nay ngươi đã trở thành mục tiêu săn đuổi của rất nhiều người, tính mạng đang bị đe dọa trên từng dặm đường phía trước. Hôm qua, lão phu được một bằng hữu trong giới Hắc Đạo cho biết Âu Dương Mẫn đã ngấm ngầm bắn tin với Hoạch Đầu Hội, tổ chức giết mướn đáng sợ nhất võ lâm rằng sẽ mua thủ cấp Cầu Nhiêm Đại Hiệp Hàn Thiếu Lăng với giá vạn lượng vàng ròng. Hoạch Đầu Hội đã nhận lời và đang triển khai nhân thủ truy tìm ngươi. Mắt khác, cả Chiết Mai bang và Bích Huyết bang cũng cử nhân thủ bám theo để giết ngươi cho bằng được.

Tử Khuê nghe lão nói thế nên xanh mặt. Chàng được sư phụ và mẫu thân dặn dò rất kỹ câu ”Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng”, nên giờ đây rất lo lắng.

Thiết Đảm Hồng Nhan phì cười chế giễu:

- Té ra Cầu Nhiêm Đại Hiệp, một kẻ thần dũng tuyệt luân, lại có lá gan hơi nhỏ.

Tử Khuê rầu rĩ thú nhận:

- Đúng là ta có sợ thực. Đối phương dùng thủ đoạn đánh lén thì dẫu Đại La Thiên Tiên cũng khó toàn mạng, huống hồ gì ta.

Ngụy Công Tử Tề Thúc Như tủm tỉm gật gù khen:

- Khuê đệ còn trẻ mà không hiếu thắng, cao ngạo thì quả đáng phục. Ngươi chớ lo, ta đã có sẵn diệu kế giúp ngươi thoát khỏi đại họa này.
Tử Khuê mừng rỡ vái tạ:

- Thế thì hay quá. Mong Tề đại ca chỉ giáo cho tiểu đệ.

Ngụy Công Tử đắc ý trình bày:

- Tề mỗ đã chuẩn bị cho ngươi một lai lịch giả rất chu đáo, cộng với tài hóa trang của ta thì dẫu kẻ thù đứng trước mặt ngươi cũng không nhận ra.
Thúc Như dừng lời, nâng chén rượu mời cả bàn uống cạn rồi mới nói tiếp:

- Trong võ lâm đương đại có một cao thủ độc hành, tuổi trung niên, tên Bàng Nguyên Hối, biệt hiệu là Thiết Thủ Thần Tiêu. Họ Bàng tính tình cô độc, lạnh lùng tự xem mình đứng giữa chính tà, hành động theo ý thích bản thân, lúc thiện, lúc ác, không theo quy củ nào cả. Vóc dáng và dung mạo Bàng Nguyên Hối cũng na ná như Khuê đệ nên hóa thân không khó.

Tử Khuê nhăn mặt:

- Nhưng lỡ mà tiểu đệ xui xẻo đến mức chạm mặt Thiết Thủ Thần Tiêu thực thì biết làm sao?

Ngụy Công Tử mỉm cười mà ánh mắt bi thương:

- Ngươi cứ yên tâm. Họ Bàng đã chết cách nay hai năm, do bọn ta tự tay chôn cất một cách bí mật, chẳng ai biết việc ấy.

Tống Nhiên thấy gã nghẹn lời liền kể thay:

- Nguyên Hối và Tề Tứ đệ vốn là bạn tri âm tri kỷ. Một đêm nọ, họ Bàng mang thương tích trầm trọng chạy đến Tề gia trang và chết ở đấy. Do kẻ thù của Thiết Thủ Thần Tiêu rất lợi hại nên Thúc Như phải âm thầm chôn bạn trong vườn nhà, không mộ chí.

Thiết Đảm Hồng Nhan hiếu kỳ hỏi:

- Bẩm phụ thân! Chẳng hay, hung thủ là nhân vật nào mà đáng sợ như thế? Và vì sao Bàng đại thúc lại có thù oán với họ?

Tống lão vuốt râu tư lự:

- Võ lâm chẳng phải chỉ gồm hai phe Hắc – Bạch mà còn có những cao thủ, dị nhân, những môn phái thần bí nữa. Trong số ấy, Lôi Đình Thần Cung là lực lượng đáng gờm nhất. Gần ba mươi năm trước, Lôi Đình Thần Cung đã một lần giương oai làm chấn động võ lâm. Lôi Đình Cung Chủ Trác Ngạn Chi xuất cung lần lượt so tài với các phái lớn, các đại cao thủ trong thiên hạ. Với hai pho “Lôi Đình kiếm pháp” và “Lôi Đình thần chưởng”, Trác cung chủ đả bại và đánh trọng thương rất nhiều tinh hoa của võ lâm Trung Nguyên.

Cho rằng võ công của mình là vô địch nên Lôi Đình Đế Quân đã trúng kế khích tướng của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh chấp nhận xa luân chiến với Tam Tôn. Quả nhiên, Đế Quân đả bại được Nam Thiên Tôn rồi Bắc Thiên Tôn, nhưng rốt cuộc, vì đuối sức nên lão ta đã trúng một kiếm của Trung Thiên Tôn. Vết thương không nặng song Đế Quân phải theo lời giao ước mà hồi cung.

Khổ thay, Thiết Thủ Thần Tiêu lại tình cờ lạc đến Lôi Đình Thần Cung, nơi mà chẳng ai biết chỗ. Và không hiểu Nguyên Hối đã phạm lỗi gì mà bị Đế Quân cho thủ hạ truy sát đến tận Nghiệp thành này? Họ Bàng đã giấu kín ẩn tình ấy, chẳng chịu tiết lộ cho Thúc Như nghe.

Nghe xong, Tử Khuê đau khổ hỏi lại:

- Bẩm Tống lão gia. Nếu thế thì việc tiểu đệ hóa trang thành Thiết Thủ Thần Tiêu có khác gì “Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”. Thoát được Hoạch Đầu Hội mà đụng nhằm Lôi Đình Thần Cung không chừng còn chết sớm hơn.

Ngụy Công Tử trừng mắt trách chàng:
- Sao ngươi ngốc thế. Chẳng lẽ bọn ta không biết điều ấy? Thực ra năm ngoái chẳng hiểu vì sao Lôi Đình Thần Cung lại nhờ Cái bang loan tin khắp nơi rằng họ đã bãi bỏ lệnh truy nã Bàng Nguyên Hối. Nghĩa là ngươi rất an toàn.

Tử Khuê thở phào ngượng nghịu nói:

- Tiểu đệ quả hồ đồ. Mong Tề huynh lượng thứ cho.

Quá trưa ngày mồng chín tháng năm, Tử Khuê đến Nhưỡng Thành, chỉ còn cách Hứa Xương độ hai ngày đường nữa. Chàng đói bụng nên ghé vào Tịch hà đệ nhất tửu quán dùng cơm. Do sông Tịch chảy ngang ngoại thành phía Nam nên chủ quán lấy tên này, hàm ý rằng tiệm mình đứng nhất trong cả vùng lưu vự sông Tịch Hà.

Nhưỡng Thành nằm ở giao lộ của năm con đường, tỏa đi năm hướng nên có phần phồn vinh hơn Nghiệp thành. Và Tịch Hà tửu quán cũng xứng danh đệ nhất vì cơ ngơi đồ sộ, tráng lệ, rộng rãi. Bàn ghế ở đây toàn bằng danh mộc đen bóng. Mặt bàn phủ vải xanh, còn ghế thì là loại ghế dựa. Phạn điếm thuần túy thì dùng ghế đôn, còn tửu quán luôn luôn bày ghế dựa. Lý do là vì các bợm nhậu thường ngồi lè nhè hàng mấy canh giờ, thắt lưng mỏi rời, cần có chỗ nương tựa.

Bàn bát tiên của Trung Hoa lúc đầu có mặt hình vuông nhưng sau đã biến thể thêm dạng tròn. Mặt bàn hình tròn vừa thẩm mỹ lại vừa tăng thêm diện tích, phòng khí số khách là chín hoặc mười chứ không phải tám. Tửu khách luôn muốn được ngồi chung với bạn nhậu tâm đầu ý hợp, dẫu chật một chút cũng chẳng sao.

Tịch Hà đệ nhất tửu điếm có hai tầng, tổng cộng một trăm bốn chục bàn, đều là loại mặt tròn cả. Tầng trệt đã chật ních, gã tiểu nhị liền dẫn Tử Khuê lên lầu. Chàng ngồi xuống, lột nón rộng vành, thận trọng quan sát các bàn chung quanh, và giật mình khi nhận ra Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim cùng hai ả nữ tỳ.

Cả ba đều lặng lẽ ăn uống, chẳng nói cười láu táu như các nữ nhân thường làm. Cổ nhân đã nói: “Ba người đàn bà đủ họp thành chợ”, thế mà họ im như thóc chứng tỏ tâm trạng rất nặng nề.

Nhất là Trình Thiên Kim, hoa dung sầu héo, ánh mắt buồn vời vợi, cứ nâng chén nốc tràn chẳng động đến thức nhắm. Da mặt nàng không đỏ mà lại hơi tái nên nét muộn phiền càng lộ rõ.

Tử Khuê không sao rời mắt khỏi gương mặt đẹp ai oán ấy và lòng choáng ngợp bởi một tình cảm lạ kỳ. Bóng Thiên Kim luôn vương vấn trong hồn nhưng Tử Khuê vì hổ thẹn mà cứ cố quên đi. Giờ gặp lại cố nhân chàng chợt thức ngộ rằng mình đã hoan hỉ phi thường, chỉ muốn bước sang cùng nàng trò chuyện. Tất nhiên, Tử Khuê rất xót xa khi thất Thiên Kim buồn bã đến thế. Chàng muốn biết nguyên do và làm người an ủi. May thay, ả tỳ nữ áo xanh, mắt một mí, đã lên tiếng giúp Tử Khuê hiểu ra cớ sự. Ả dịu dàng an ủi Thiên Kim:

- Tiểu thư chớ nên quá bi quan. Tuy đạo quán Thiên Sư ở Hứa Xương không biết Vu Diệp Chân Nhân là ai song tiểu tỳ tin rằng chàng ta chẳng phải kẻ gian trá. Có lẽ chàng mới nhập môn và mới rời Long Hổ sơn lần đầu nên bọn đạo sĩ Thiên Sư ở các địa phương khác không thể biết được. Chúng ta cứ đi thẳng đến Thượng Thanh cung ở Giang Tây, hỏi thăm Trương Thiên Sư tất cả rõ thực.

Trái tim Tử Khuê đập loạn như trống trận vì hiểu rằng Thiên Kim đã đến Hứa Xương tìm mình, không thấy nên thất vọng. Chàng chưa kịp nghĩ thêm thì nghe mỹ nhân nói:

- Tiểu Trinh! Ta vì bệnh tình của thân mẫu mà khởi hành quá trễ, đã tự nhủ rằng nếu đến Hứa Xương không gặp thì sẽ đi Long Hổ sơn tìm chàng.

Ta chỉ lo lắng một điều là vì sao chàng không có mặt ở Hứa Xương như đã nói. Ta tin chàng nói thật nhưng lại sợ Vu Diệp ngộ nạn dọc đường nên không sao cứu được.

Ả tỳ nữ thứ hai nàng mặc áo xanh, đúng quy định của hạng tồi tệ, song dung mạo khác ả kia ở chỗ mắt to và răng thì khấp khểnh. Ả ngập ngừng xen vào:

- Nô tỳ chỉ e ngại một việc là liệu khi gặp nhau chàng ta có chịu tiếp thụ ân tình của tiểu thư hay không?

Thiên Kim thở dài đáp:

- Tiểu Huệ nói chẳng sai. Nhưng ta tin rằng mối chân tình này có thể khiến chàng thấu hiểu và thương xót.

Tử Khuê bàng hoàng, ngơ ngẩn khi biết Nữ Hầu tước yêu thương mình tha thiết. Lạ thay, chàng lập tức cảm thấy hạnh phúc vì điều ấy và tự nhủ:

- Ta lấy Trình tiểu thư làm vợ thì cũng tốt chứ sao. Nhưng phải xem thử cái tính nóng như Trương Phí của nàng ta có sửa đổi được hay không?

Lúc này, bất chợt Thiên Kim quay mặt nhìn về hướng Tây, bắt gặp ánh mắt trân trối, sỗ sàng của Tử Khuê. Nhưng thay vì nổi tam bành, Thiên Kim chỉ khẽ cau đôi mày liễu, chẳng nói gì. Tử Khuê rất hài lòng trước phong thái đoan trang, thùy mị ấy, vừa ăn vừa suy nghĩ cách làm quen và đưa nàng về Hứa Xương.

Chàng định ăm chén thứ ba thì bên bàn của Thiên Kim đã xảy ra sự cố. Có năm người mặc áo tơi bằng vải sơn màu xanh, đầu đội nón tre sùm sụp, xăm xăm bước đến, vậy chặt bàn của chủ tớ Trình Thiên Kim. Ba nữ nhân biến sắc đứng phắt dậy, tay đặt vào đốc gươm, sẵn sàng đối phó. Thiên Kim điềm đạm hỏi:

- Ngũ vị là cao nhân phương nào và đến tìm ta có việc gì?

Một trong năm người kỳ dị ấy cười rộ, ngạo nghễ đáp:

- Chẳng lẽ kiến văn của Trình tiểu thư lại nông cạn đến mức nhìn không ra lai lịch của bọn ta sao? Xoa Lạp Cốc mới bế môn có mấy năm đã bị lãng quên, lòng người quả là đen bạc.

Xoa nghĩa là áo tơi để che mưa, còn lạp là nón tre rộng vành. Hèn chi năm người này trang bị đủ hai thứ ấy, dù trời chẳng hề mưa.

Tử Khuê từng nghe sư phụ nhắc đến Xoa Lạp Cốc, một trong những môn phái cổ quái nhất võ lân. Cũng như đối với Lôi Đình Thần Cung, người giang hồ chẳng hề biết địa điểm của Xoa Lạp bí cốc. Người ta chỉ có thể hiểu đại khái rằng Lôi Đình Thần Cung tọa lạc đâu đó ở vùng Thiểm Bắc, còn Xoa Lạp bí cốc thì nằm trong tỉnh Sơn Tây.

Xoa Lạp cốc tồn tại đã gần trăm năm song thỉnh thoảng mới xuất hiện trên chốn giang hồ. Tuy nhiên, môn nhân của họ có bản lĩnh rất cao cường, thủ đoạn lại tàn nhẫn phi thường, từng khiến người võ lâm phải rùng mình khi nhớ đến chuyện xưa.

Điển hình nhất là vụ Xoa Lạp cốc tiêu diệt Thạch Long trại ở vùng cực Bắc tỉnh Hà Nam, nơi giáp ranh với Sơn Tây. Toàn bộ ba trăm lẻ tám người của tổ chức này đều bị giết sạch, không chừa cả đàn bà lẫn trẻ con.

Tuy chẳng có ai sống sót để tố cáo nhưng thiên hạ đều biết Xoa Lạp Cốc là hung thủ. Trước đó nửa tháng, Thạch Long trại chủ Hạ Tường Khánh vì tranh giành một ả kỹ nữ ở An Dương mà chặt đứt bàn tay của một khách mua hoa. Nào ngờ gã ta lại là thủ hạ Xoa Lạp cốc và tuyên bố sẽ trả thù. Việc này được nhiều người chứng kiến nên sau khi huyết án xảy ra, lai lịch hung thủ lập tức được xác nhận.

Nhắc lại, nữ Hầu tước Trình Thiên Kim nghe đối phương xưng là người Xoa Lạp cốc thì cũng chẳng hề sợ hãi. Nàng đã uống khá nhiều rượu nên dũng khí ngất trời, không xem đám tơi nón kia ra gì. Thiên Kim thản nhiên hỏi lại:

- Chư vị chưa nói lý do đến tìm bản cô nương?

Kẻ lên tiếng lúc nãy là một lão nhân râu ngắn, mặt mũi âm trẩm, trắng bệch, tuổi độ quá sáu mươi. Lão ta cười nhạt đáp:

- Mấy ngày trước, Thiếu cốc chủ bổn cốc tình cờ gặp tiểu thư ở Hứa Xương. Người sinh lòng ái mộ nên sai bọn lão phu đến rước nàng đi du ngoạn Xoa Lạp cốc một chuyến.

Tử Khuê và toàn bộ thực khách tưởng rằng vị nữ Hầu tước nổi tiếng nóng nảy kia sẽ chửi bới hoặc rút gươm chém cái kẻ đã buông ra lời đề nghị khiếm nhã. Nào ngờ, Thiên Kim mỉm cười gật đầu:

- Hay lắm! Bổn cô nương từ lâu đã ngưỡng mộ oai danh của Xoa Lạp bí cốc, nay có dịp thăm thú thì quả là mãn nguyện bình sinh. Phiền chư vị dẫn đường cho.

Nói xong, nàng hớn hở gọi tiểu nhị tính tiền. Năm sứ giả của Xoa Lạp cốc ngơ ngác nhìn nhau, không ngờ sứ mạng của mình tưởng khó khăn ai dè lại hoàn thành một cách dễ dàng như thế. Lão râu ngắn có vẻ là trưởng toán nên luôn đứng ra phát biểu, lão ta hào phóng nói:

- Trình tiểu thư là thượng khách của bổn cốc, xin cứ để lão phu vinh hạnh thanh toán bữa cơm này.

Rồi lão loay hoay móc túi bạc ra để trả cho gã tiểu nhị. Đúng lúc hai tay lão bận rộn, Trình Thiên Kim rút kiếm đâm liền một nhát thần tốc xuyên thủng ngực đối phương.

Hai ả tỳ nữ Tiểu Trinh, Tiểu Huệ cũng xuất thủ gần như đồng thời với chủ nhân. Chúng kề cận Thiên Kim đã mười năm nên hiểu rõ ý này đến mức chẳng cần phải dùng lời hay dấu hiệu.

Khi Thiên Kim bạt kiếm thì hai ả cũng rút gươm thọc vào người hai lão Xoa Lạp Cốc gần mình nhất. Nhưng do bản kĩnh không cao, động tác chậm chạp nên họ chẳng đả thương được ai, chỉ dọa cho hai lão ấy khiếp vía nhảy lùi.

Mảng vòng vây phía nam đã vỡ, Thiên Kim cùng hai tỳ nữ lao vút về hướng cầu thang mà đào tẩu. Trước đó, Thiên Kim còn vung cước hất ngã chiếc bàn bát tiên để cản đường đối phương.

Lão sứ giả bị thương gục ngã nhưng vẫn giận dữ quát:

- Đuổi theo bằm xác chúng cho ta!

Một lão ở lại chăm sóc thương thế cho nạn nhân, ba lão kia chạy xuống lầu. Thực khách nhốn nháo như ong vỡ tổ, một số hiếu kỳ ồ ạt kéo nhau ra lan can để xem Trình Thiên Kim có thoát được hay không. Thì ra nàng ta và hai nữ tỳ xinh xắn đã bị chặn lại ở sân trước bởi hai gã tơn nón khác. Như vậy là Xoa Lạp cốc cử đến đây tổng cộng bảy thủ hạ.

Hai kẻ chặn cổng tuổi chỉ độ tứ tuần song võ công rất cao cường, chỉ bằng một chiêu liên thủ họ đã chặn đứng được chủ tớ Thiên Kim. Ba nữ nhân hợp sức tấn công quyết liệt mà không sao mở được sinh lộ để đào vong, cuối cùng thì ba lão già trên lầu cũng đã xuống tới, vậy chặt họ lại.
Do oán hận Thiên Kim dùng ngụy kế đả thương thượng cấp của mình nên ba lão này xuất thủ cực kỳ độc ác. Chỉ trong chớp mắt bằng một đòn hợp công, họ đã đánh thanh trường kiếm trên tay Thiên Kim và một lão xấn tới để kết liễu đời nàng.

Thiên Kim mất vũ khí, chỉ còn cách thoái hậu và chờ chết vì lưng đã chạm phải Tiểu Huệ. Trong lúc tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc thì trên không trung bó bóng người sa xuống, đứng chắn trước mặt nàng và vung khí giới đánh chặn lão sứ giả hung hăng kia.

Quái nhân là một hán tử tuổi độ bốn mươi. Mặc võ phục trắng, thân thể lực lưỡng. Dung mạo của gã đáng lẽ cũng khá anh tuấn nếu đôi lông mày sâu róm kia không quá rậm và thô kệch. Lại thêm hai mảng lông đen ở dưới mắt, kéo dài từ chân sống mũi đến hết gò má, trông thật quái dị. Ngoài râu mép, gã còn có túm râu dê dưới cằm rất khó coi.

Đấy chính là nhan sắc hiện nay của Tử Khuê. Nhờ thứ thuốc mọc lông thần diệu của Cửu Hoa Thánh Y mà Ngụy Công Tử dễ dàng tạo cho chàng những đặc điểm của Thiết Thủ Thần Tiêu Bàng Nguyên Hối. Gia dĩ, họ Bàng tung hoành ở phía Tây ít khi dương oai nơi xứ lạ nên chẳng mấy người rõ mặt.

Lúc lìa đời trong Tề gia trang, Nguyên Hối đã để lại đầy đủ khí giới, giấy tờ tùy thân và cả bí kíp võ công. Tử Khuê chỉ cần tham khảo bí kíp hai ngày là đã có thể sử dụng thanh “Hắc Long Tiêu” một cách nhuần nhuyễn.

Thực ra phép đánh tiêu rất gần với kiếm pháp, gồm nhiều thức đâm. Tiêu thân tròn, không thể chém nhưng đòn quét của nó cũng làm cho đối phương thọ thương chứ chẳng chơi, vì “Hắc Long Tiêu” làm bằng thép ròng và nặng như trường kiếm. Do đó, Tử Khuê không gặp trở ngại gì khi dùng tiêu thi triển sở học kiếm thuật cao siêu củ mình.

Giờ đây, Tử Khuê múa tít “Hắc Long Tiêu” xuất chiêu “Nghịch thủy hành chân” (Ngược nước giong thuyền), tiêu ảnh mịt mờ. Tiêu kình cuồn cuộn tựa sóng Trường Giang lớp lớp xuôi về Đông. Không khí lọt qua những lỗ tiêu tạo thành những âm thanh là lạ tựa tiếng gió hú trong cơn mưa bão.
Lão sứ giả Xoa Lạp cốc hung hãn cử kiếm công phá màn tiêu ảnh và có cảm giác như mình là kẻ lội ngược dòng, áp lực chung quanh cực kỳ nặng nề.

Đường kiếm của lão hơi chậm lại và chính lúc ấy Tử Khuê thò tả thủ khóa chặt lưỡi gươm rồi thọc mũi kiếm ở đầu tiêu vào tim kẻ địch.

Nạn nhân rú lên thảm khốc ôm ngực quỵ xuống trong sự bàng hoàng của đồng đảng. Người vừa bị giết là Ngũ Hộ pháp của Xoa Lạp cốc, bản lĩnh rất cao cường, sao lại có thể thọ hại ngay trong chỉ một chiêu. Điều đáng sợ kế tiếp là bàn tay của gã áo trắng chẳng ngán gươm đao.

Cái chết chóng vánh của ngũ hộ pháp đã khiến bọn Xoa Lạp cốc khiếp hãi, nhảy lùi về phía sau xem xét hung thủ là ai. Tiểu Trinh, Tiểu Huệ mừng vì được nghỉ tay, đứng thở dốc. Thiên Kim thì phấn khởi nhận lấy thanh kiếm mà Tử Khuê đoạt được của kẻ thù. Nàng nhận ra ân nhân là kẻ đã nhìn ngắm mình lúc trước nhưng không biết đấy là Vu Diệp Chân Nhân.

Lúc này, một sứ giả Xoa Lạp cốc đã nhớ ra lai lịch của gã cầm tiêu sắt, hai bàn tay xỏ trong đôi găng tay kỳ lạ, đầy những vẫy có óng ánh. Lão ta giận dữ quát:

- Thiết Thủ Thần Tiêu! Ngươi quả là không biết sống chết nên mới dám can thiệp vào việc của bổn cốc và lại còn giết chết Ngũ Hộ pháp nữa. Hôm nay bọn ta sẽ phân thây ngươi làm trăm mảnh.

Dứt lời, lão đưa tay trái lột chiếc nón tre có vành rộng hơn hai gang trên đầu xuống, sử dụng như chiếc khiêng. Ba người kia cũng hành động như thế.

Nhờ sự dạy dỗ của Vu Mộc Chân Nhân mà Tử Khuê sớm biết rằng nón tre của Xoa Lạp cốc là loại vũ khí. Phía dưới lớp cột tre đan kia là một lớp thép lá mỏng nhưng rất kiên cố, khả dĩ chịu đựng được đao kiếm. Và hơn thế nữa, phép đánh kiếm thuẫn hợp bích của họ rất quỷ dị, lợi hại.

Tử Khuê đã có “Ngư giáp miệt” (Vớ vẩy cá) vũ khí thành danh của Bàng Nguyên Hối, nên chẳng hề sợ hãi. Đôi găng tay quý giá này được khâu từ da của loại cá lạ sống ở hồ Thanh hải, hồ nước mặn lớn nhất Trung Hoa. Lúc xuất đạo, Nguyên Hối mới tròn hai mươi, trong một lần đến thăm người dì ruột sống cạnh hồ Thanh hải, thì nghe bà kể về con Thiết Giáp ngư. Gã liền tìm cách bắt cho bằng được cá quý. Sau bảy tháng nhẫn nại thả thuyền buông câu, cuối cùng, họ Bàng đã tóm được Thiết Giáp ngư, lột da khâu thành đôi bao tay. Nhờ có “Ngư giáp miệt” mà Nguyên Hối mau chóng thành danh, nổi tiếng khắp ba tỉnh Tây Bắc và đất Thiểm.

Giờ đây, “Ngư Giáp miệt” đã làm cho công phu “Thai Quang thần thức” của Tử Khuê lợi hại hơn trước gấp bội. Đôi găng quý che phủ đến tận khuỷu tay, tạo ưu thế tuyệt đối cho một quyền thủ.

Tử Khuê tận dụng ưu thế ấy vươn tả thủ vẽ liền chín thức Thao Quang, đối phó với thanh kiếm của lão sứ giả mặt tròn nung núc thịt, còn thiết tiêu thì điểm nhanh tựa mưa rào. Lão ta dùng nón tre phòng thủ rất hiệu qua vì diện tích nó khá lớn. Thủ pháp sử dụng thuẫn của lão lại vô cùng linh diệu tạo thành cả một bức màn thép kín như bưng, vô hiệu hóa toàn bộ những thế công của Tử Khuê.

Nhưng chẳng phải vì thế mà lão chiếm được thượng phong bởi lo sợ tả thủ đối phương đoạt mất kiếm. Cánh tay trái Tử Khuê hoạt động độc lập, chập chờn bám theo lưỡi kiếm của lão, thế thức huyền ảo phi thường. “Ngư giáp miệt” quả là báu vật hãn thế, kiếm sắt chạm vào là bị trượt đi nên không hề làm tróc được miếng nào.

Miệt có móng nhọn được mang ở tay thì gọi là “Thủ miệt”. Ở chân gọi là “Cước miệt”. Từ ngày xuất hiện trước thời nhà Hán, nhưng lúc ấy miệt hoàn toàn làm bằng da thú. Đến thời Đông Hán có thêm loại vớ, găng khâu bằng tơ lụa, gọi là “la”. Nhưng cuối cùng thì sau vài ngàn năm, từ “miệt” vẫn được sử dụng rộng rãi hơn cả.

Nhắc lại, Tử Khuê có “Ngư giáp miệt” mà vẫn ở thế quân bình, thì Trình Thiên Kim và hai ả nữ tỳ, chẳng thể an lành trước phép đánh kiếm thuẫn lợi hại của Xoa Lạp Cốc. Chưa đầy nửa khắc, Tiểu Trinh, Tiểu Huệ đã lần lượt bị thương, kêu rên não ruột.

Tử Khuê chột dạ, hiểu rằng chẳng thể kéo dài cuộc chiến thêm nữa. Chàng nghiến răng, dồn toàn lực đánh liền sáu chiêu liên hoàn, tiêu ảnh mịt mờ xám xịt khiến đối thủ tối tăm mặt mũi bởi hàng ngàn thế thức tựa mưa sa.

Lão sứ giả Xoa Lạp Cốc chẳng phải kẻ tầm thường, tuy hoa mắt trước đường tiêu vũ bão song vẫn ngoan cường chống cự, kiếm thuẫn dệt lưới quanh thân, kín đáo và vững chắc như tường đồng vách sắt. Công lực của lão thâm hậu hơn đối phương, thừa sức chịu đựng cho đến lúc gã họ Bàng đuối tay, rồi mới phản công.

Trong thế phòng thủ, đường kiếm loang nhanh như gió, thuận thế mà bay lượn chứ chẳng có điểm chết như lúc tấn công. Do đó, lão ta không sợ Tử Khuê chụp trúng kiếm của mình.

“Hắc Long tiêu” tuy làm bằng thép dày song cũng là vật rỗng nên khi va chạm với kiếm thì ngân lên ong ong rền rĩ tựa tiếng chuông.

Bỗng lão sứ giả thấy Thiết Thủ Thần Tiêu nhấp nhô, chờn vờn, thân trên ngã về mé tả, có vẻ như muốn đảo bộ sang hướng ấy để tránh chiếc thuẫn lỳ lợm và tìm sơ hở trong đường gươm của mình. Tất nhiên đối phương phải làm như thế vì cái thuẫn thiết lạp phòng thủ kín đáo hơn trường kiếm.

Nào ngờ, khi lão vừa xoay theo thì Bàng Nguyên Hối lại thả tấn về mé hữu, vươn thủ chụp lấy chóp nhọn của nón rồi hất ngược lên. Đương nhiên, sườn trái của lão hở ra và họ Bàng đã thọc mũi “Hắc Long tiêu” vào đấy.

Đoạn thép ở đầu “Hắc Long tiêu” chỉ lú ra độ nửa gang dạng như mũi trường kiếm, làm bằng loại thép cực tốt của Nhật Bản được mài sắc như dao cạo và mỏng như đầu kim, xuyên thấu phổi nạn nhân.

Với vết thương trầm trọng ấy, lão sứ giả Xoa Lạp Cốc khó mà thoát chết. Tử Khuê rảnh tay, lập tức quay ngoắt lại tấn công đối thủ của Tiểu Trinh là lão sứ giả mắt trâu, mũi lộ. Chàng xuất chiêu “Phiên Thiên phục địa” (Lật nhào trời đất) đánh vào mé hữu đối phương.

Ả tỳ nữ Tiểu Trinh thấy có tiếp viện thì phấn khởi tinh thần, xông lên đẩy kẻ thù vào thế lưỡng đầu thọ địch. Lão mắt trâu bắt buộc phải dùng chiếc thuẫn nón tre đối phó với Tiểu Trinh còn trường kiếm ở tay phải thì chống đỡ đường tiêu của Tử Khuê.

Trong văn chương cũng như võ học, yếu tố thiên bẩm cực kỳ quan trọng. Do thiên phú chẳng đồng đều nên có kẻ học một biết mười và người học mười biết một. Kẻ đỗ Trạng nguyên khi chưa đến tuổi nhược quan, kẻ thi tám lượt chẳng đậu nổi tú tài.

Tử Khuê được trời xanh ưu đãi, ban cho trí tuệ thượng thừa, nên tuy còn trẻ mà đã thấu hiểu được đạo biến hóa của võ học, thành tựu vượt xa người thường.

Điều ấy giải thích cho việc chàng có thể đánh thắng những kẻ địch lão làng, tu vi thâm hậu hơn mình. Nghề đánh kiếm cũng là một nghệ thuật giống như âm nhạc, thi văn hay hội họa vậy. Và trong nghệ thuật thì tài không đợi tuổi.

Tử Khuê nắm được đạo biến hóa nên đường kiếm tiêu dao tự tại tựa nước chảy mây trôi và nhanh như gió thoảng. Trong khoảnh khắc chàng tung ra vài trăm thế thức với tốc độ kinh hồn phong tỏa thân trên đối thủ.

Lão sứ giả Xoa Lạp Cốc rơi vào cơn lốc dữ, bấm bụng loang nhanh trường kiếm, cố bảo vệ mặt ngực và bụng. Lão luyện bốn mươi mấy năm, công thì chưa chắc đã hay nhưng phòng thủ thì thừa sức. Lão ta đã đỡ gạt được hết những đòn hiểm ác của cây tiêu đen trùi trũi, lòng cũng bớt khiếp sợ. Lão ung dung cử kiếm đánh bạt mũi tiêu đang thọc vào ngực mình. Nào ngờ, thép chẳng hề chạm thép và bụng dưới thì đau đớn khủng khiếp.

Khi huyệt khí hải đã bị đâm thủng thì Hạng Vũ cũng trói gà không chặt. lão sứ giả rú lên thảm khốc, tứ chi bủn rủn, lảo đảo ngã quỵ. Tiểu Trinh nhân cơ hội này đâm bồi một kiếm vào ngực lão để rửa hận. Lúc nãy, lão ta đã rạch ba đường trên làn da mỹ miều của ả.

Tiểu Trinh quay sang giúp Tiểu Huệ, còn Tử Khuê thì liên thủ với Trình Thiên Kim. Nhưng từ trên lan can lầu phía trước tửu điếm, có tiếng già nua quát lớn:

- Rút lui thôi, quân binh đã đến!

Thế là hai gã tơi nón tuổi trung niên bỏ cuộc mà đào tẩu. Mấy lão già trên lầu cũng đã cõng người bị thương nạn nhân của Thiên Kim nhảy xuống đất chạy mất.

Quan quân Nhưỡng thành chẳng dám hạch sách vị Nữ Hầu tước đáng kính, lặng lẽ thu dọn xác chết mang về Nha môn.

Chiến tích oanh liệt của Thiết Thủ Thần Tiêu đã khiến chủ nhân Tịch Hà đệ nhất tửu điếm vô cùng thán phục. Ông kính cẩn mời những kẻ thắng trận vào khu hậu viện trị thương.

Băng bó và thay y phục xong, Thiên Kim cùng hai nữ tỳ nghiêng mình tạ ơn ân nhân.

Tử Khuê hiền hòa bảo:

- Tại hạ tương trợ tiểu thư cũng là vì tình bằng hữu với Vu Diệp Chân Nhân, xin tiểu thư chớ bận tâm.

Thiên Kim đỏ mặt thẹn thùng hiểu rằng đối phương đã nghe hết tâm sự thầm kín của mình lúc còn ở trên lầu tửu điếm. Đồng thời, nàng rất hân hoan khi có tin tức về người trong mộng.

Thiên Kim e lệ nói:

- Nay Bàng đại hiệp đã hiểu rõ tâm tình của tiện nữ, xin hãy nhủ lòng thương mà chỉ giáo hạ lạc của Vu Diệp. Tiện nữ cơ hồ tuyệt vọng khi đạo quán Thiên Sư ở Hứa Xương phúc đáp rằng chẳng biết chàng là ai.

Tử Khuê nghiêm nghị trả lời:

- Vu Diệp có nhiều kẻ thù lợi hại, sợ liên lụy đến gia quyến nên phải giữ kín lai lịch. Thực ra, y không phải là độ đệ Thiên Sư Giáo nên chẳng đến đạo quán làm gì. Vu Diệp tên thật là Quách Tử Khuê, nhà ở ngoại thành Hứa Xương, gần cầu Bá Lăng. Tiểu thư muốn tìm gặp cứ đến Quách gia trang tất sẽ gặp. Nhưng tại hạ mong rằng tiểu thư sẽ hành sự thật kín đáo và thận trọng.

Chiếu mười một tháng năm, Tử Khuê và Thiên Kim về đến Hứa Xương. Tiểu Trinh và Tiểu Huệ đã quay lại Huyện Trình vì đi đông không có lợi.
Khi đến bờ sông Thạch Lương, Tử Khuê cáo biệt. Chàng điềm đạm dặn dò:

- Vu Diệp còn có song thân nên chẳng thể tự quyết định được hôn nhân. Tiểu thư hãy vào thành nghỉ ngơi, suy nghĩ cho chín chắn, tìm ra cách tốt nhất để vào Quách gia trang. Cái tính nóng như lửa và mỹ hiệu Trình Giảo Kim trước đây e rằng sẽ khiến cha mẹ Vu Diệp ái ngại. tại hạ có mặt trong hoàn cảnh này sẽ bất tiện và cũng chẳng giúp được gì. Hơn nữa, tại hạ có việc gấp phải ngược bắc ngay. Xin cáo biệt. À quên! Tại hạ đã thề giữ kín lai lịch của Vu Diệp, vì vậy tiểu thư tuyệt đối không được cho nhà họ Quách biết tại hạ là người tiết lộ.

Thiên Kim nói lời cảm tạ rồi rầu rĩ giục ngựa qua cầu Bá Lăng, đi thẳng vào trong thành, Tử Khuê quanh quẩn trong khu rừng liễu vắng vẻ cạnh bờ sông, chờ tối hẳn mới về nhà. Chàng bỏ ngựa lại trong rừng, kín đáo vượt tường phía sau Quách gia trang, tìm đến phòng của mẫu thân trước.
Qua khung cửa phía sau, Tử Khuê thấy cha mẹ mình đang ngồi uống trà, chuyện trò rất vui vẻ liền nói:

- Nhị vị nhân gia, hài nhi đã về đây!

Quách Thiên Tường và Kỹ Thanh Lam giật mình hoan hỉ rú lên:

- Khuê nhi!

Kỹ nương mau mắn rảo bước đến, mở cánh cửa thông với vườn hoa rồi ôm chầm lấy con trai. Quách lão cười khà khà bảo:

- Thằng bé này quả là linh hiển, chúng ta vừa nhắc đến thì đã có mặt ngay.

Tử Khuê dìu mẫu thân trở lại ghế rồi lột nón, phục xuống khấu đầu:

- Hài nhi bái kiến phụ mẫu.

Quách lão cằn nhằn:

- Sao mặt Khuê nhi gớm ghiếc thế? Nếu ngươi không lên tiếng trước chắc bọn ta chẳng nhận ra.

Kỹ nương bảo Tử Khuê ngồi vào ghế, ngắm nghía chàng bằng ánh mắt yêu thương rồi âu yếm hỏi:

- Sao Khuê nhi lại phải hóa trang thành Thiết Thủ Thần Tiêu. Phải chăng cái thân phận Hàn Thiếu Lăng chẳng còn an toàn nữa?

Tử Khuê gật đầu, kể lại mọi tao ngộ từ lúc rời nhà, kể cả việc Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim sẽ đến đây nay mai. Kỹ nương cao hứng nhất là việc tử khuê cứu được Đại Cửu phụ và anh em bà sẽ sớm được tài ngộ.

Thấy ý con trai đã chịu lấu vợ thì Quách lão rất vui. Ông cười bảo:

- Ngươi chịu kết hôn là tốt rồi. Còn con bé họ Trình kia dù có dữ dằn cỡ Trương Phi cũng phải hiền như bụt khi làm dâu của mẫu thân ngươi. Lão phu còn phải sợ bà ấy thì Trình Giảo Kim thấm thía gì.

Kỹ nương hổ thẹn nguýt ông chồng già và điềm đạm bảo Tử Khuê:

- Hôn nhân là chuyện quan trọng cả đời. Để ta xem thử tính nết Thiên Kim thế nào rồi mới quyết định được.

Sáng hôm sau, Tử Khuê trở lại là một vị thiếu gia văn nhã, mặt mũi trắng trẻo, trơn láng, không một cọng râu, lông mày cũng thành mảnh như trước. Gia nhân tỳ nữ hoan hỉ đến chào và nô nức chuẩn bị cho tiệc tẩy trần, mừng thiếu chủ mới du ngoạn Bắc Kinh trở về.

Người vui nhất có lẽ là Quách Tử Chiêm, bào đệ của Tử Khuê. Cậu bé bám chặt lấy Tam ca chẳng rời luôn miệng hỏi han về chuyện bắc hành. Tử Khuê phúc đáp đầy đủ, miêu tả rất sống động cảnh vật phồn hoa và những danh thắng chốn Đế Đô. Những kiến văn ấy chàng thu lượm được từ sách vở.

Nguyên ngày hôm ấy, chẳng thấy Trình Thiên Kim xuất hiện, Tử Khuê rất nóng ruột, đứng ngồi chẳng yên. Kỹ nương cười bảo:

- Khuê nhi chớ trông ngóng cho uổng công. Con bé ấy làm sao dám vô cớ nhập trang trong khi ngươi đã cấm không được khai ra Bàng Nguyên Hối? Ta đã cho tỳ nữ Thu Linh giám sát cổng trang, phát hiện một nữ lang xinh đẹp đã ba lần đi ngang qua. Nhưng Khuên nhi cứ yên tâm, mẫu thân đã có diệu kế để thử thách nàng dâu.

Sáng ra, Kỹ nương sai ả tỳ nữ thân tín Thu Linh kẻ đã hầu bà suốt hơn hai chục năm qua, dán lên cổng Quách gia trang một tờ thông báo tuyển nữ gia nhân.

Lập tức có nhiều người đến xin việc nhưng Kỹ nương đều khéo léo từ chối cho đến xế chiều Thu Linh hớn hở chạy vào thông báo với Kỹ nương:

- Bẩm phu nhân! Cá cắn câu rồi. Cô ả hôm qua đã thay y phục bằng vải xấu đến xin làm gia nhân. Mời phu nhân ra đại sảnh xem mặt nàng dâu.
Quách lão cũng có mặt tại khuê phòng gật gù bảo:

- Không ngờ rằng Trình Giảo Kim này lại chí tình với Khuê nhi như thế. Nàng ta là con nhà danh gia vọng tộc, lại mang hàm tước hầu, vậy mà dám hạ mình làm tôi tớ Quách gia, tình ý ấy quả là đáng khâm phục. Lão phu sẽ cùng bà ra xem mặt bậc kỳ nữ tử.

Kỹ nương cũng rất xúc động, vui vẻ cùng trượng phu tiến ra khách sảnh. Phu thê an tọa xong, Kỹ nương mới ra lệnh cho Thu Linh ra cửa sảnh mời cô gái đang đứng khép nép dưới hàng hiên.

Thiên Kim ngượng ngùng theo Thu Linh vào bái kiến vợ chồng Quách trang chủ, những người mà nàng thiết tha được gọi là cha mẹ chồng.

Đến nơi, nhìn thấy gương mặt nghiêm nghị của Kỹ nương, Thiên Kim bất giác nghe lạnh xương sống, người run như cầy sấy. Nàng nghiêng mình thi lễ, ấp úng thưa:

- Bẩm trang chủ cùng phu nhân, tiện nữ họ Hồ tên Thiên Kim, quê quán Phủ Nam Dương, năm nay hai mươi bốn tuổi. Tiện nữ vì hoàn cảnh khó khăn mà phải rời quê, đến Hứa Xương nương tựa một vị biểu thúc, nhưng chẳng may người ấy đã dời nhà đi địa phương khác. Thời may, tiện nữ đi ngang qua quý trang thấy thông báo tuyển gia nhân nên mạo muội vào đây, khẩn cầu nhị vị thường tình mà thu nạp.

Thiên Kim đã học thuộc lòng thiên cố sự này nhưng giờ đây ngấp nga ngấp ngứ mãi mới nói ra được. Nàng không quen nói dối nên mặt đỏ như gấc vì xấu hổ, mắt huyền đẫm lệ trông rất đáng thương.

Hôm nay, vị nữ Hầu tước kiêu sa mặc bộ y phục bằng vải xấu rộng thùng thình, chắc là mua lại của ai đó. Tóc nàng thắt bím đơn sơ, chân mang giày cỏ, giống hệt kẻ nghèo hèn. Nhưng không vì thế mà nhan sắc Thiên Kim mờ nhạt đi, nàng vẫn xinh đẹp lạ lùng, một vẻ đẹp tự nhiên, mộc mạc của loài hoa dại.

Kỹ nương rất hài lòng trước dung nhan và tấm chân tình của Thiên Kim. Bà hiểu rằng nàng có một trái tim vĩ đại, son sắt, sẽ mang lại hạnh phúc cho Tử Khuê. Kỹ nương tủm tỉm cười bảo:

- Công việc trong Quách gia trang rất bề bộn và nặng nhọc, lão thân chỉ sợ cô nương không kham nổi đấy thôi. Cô nương có nước da trắng trẻo, mịn màng, bàn tay thon thả, chẳng một vết chai sần, chắc trước giờ chưa hề vất vả. Bổn trang chỉ thiếu một chân phụ bếp, liệu cô nương có làm được không? Chắc lão thân phải tìm người khác quá.

Thiên Kim hốt hoảng van nài:

- Bẩm phu nhân! Tiện nữ tuy bề ngoài yếu đuối mảnh mai nhưng sức lực chẳng kém nam nhân. Dẫu công việc nặng nề đến mấy tiện nữ cũng hoàn thành được.

Nàng vừa nói vừa sa lệ khiến Quách trang chủ mủi lòng, lên tiếng chấp thuận ngay:

- Thôi được! Kim nhi đừng khóc nữa. Lão phu sẽ nhận ngươi vào làm.

Thiên Kim mừng như chết đi sống lại, quý ngay xuống dập đầu cảm tạ. Nàng đi theo tỳ nữ Thu Linh xuống chỗ ở của gia nhân, không để ý đến thư phòng của vợ chồng Quách trang chủ.

Thiên Kim vừa đi ra ngoài thì Tử Khuê bước vào, ngượng nghịu hỏi:

- Nhị vị nhân gia nhận xét thế nào về Thiên Kim?

Quách lão vỗ đùi đắc ý:

- Tốt lắm! Tốt lắm! Được một nàng dâu như thế thì lão phu còn mong gì hơn nữa.

Kỹ nương mỉm cười phát biểu:

- Ta cũng rất hài lòng nhưng cứ chờ thêm vài hôm nữa để xem Kim nhi có thể vì tình yêu mà hy sinh đến mức nào?

Trong những ngày sau đó, Thiên Kim phải làm quần quật từ sáng đến tối, chẳng hề được ngơi tay. Ngoài việc phục vụ cho ba bữa cơm, nàng còn bị sai phái một cách vô tội vạ. Không những thế, thiên kim còn bị Thu Linh mắng mỏ, giễu cợt không thương tiếc. Thực ra cũng có nguyên nhân là sự vụng về của vị tiểu thư chưa bao giờ làm việc nhà. Thiên Kim thường đánh vỡ chén đĩa khi rửa chúng, nhặt rau không sạch, thái thịt không xong, miếng nào cũng thô kệch và nham nhở như chó gặm.

Có lúc, Thiên Kim tưởng chừng như mình không sao chịu đựng nỗi cơ cực này thêm một ngày nào nữa. Nhưng chính những phút giây ngắn ngủi được nhìn thất Tử Khuê, dù chỉ xa xa đã nâng đỡ tinh thần nàng. Thiên Kim lặng lẽ chấp nhận công việc tôi đòi đầy tủi nhục, chờ cơ hội tiếp cận Tử Khuê. Tình yêu đã giúp nàng nhẫn nhịn đến mức chẳng hề nổi giận khi bị Thu Linh tát vào mặt. Nàng chỉ ứa lệ, thầm gọi tên chàng.

Thu Linh tuổi đã gần bốn mươi, theo hầu Kỹ nương từ lúc bà còn nổi danh Băng Tâm Ma Nữ. Khi bà rời bỏ chốn giang hồ thì Thu Linh cũng cùng đi. Hiện nay, Thu Linh đã trở thành quản lý gia nhân, tỳ nữ của Quách gia trang. Nàng cũng là người duy nhất biết rõ ẩn tình và thứa lệnh chủ mà thử thách Thiên Kim.

Trưa ngày hai mươi mốt, ngày thứ tám làm đầy tờ của Thiên Kim, sau khi tát nàng dâu tương lai của họ Quách xong, Thu Linh hớn hở đến phòng vợ chồng trang chủ báo cáo:

- Bẩm trang chủ và phu nhân. Nô tỳ đã thử tát Trình tiểu thư để xem phản ứng. Nàng ta không hề có sắc giận, chỉ khóc mà thôi.

Quách Thiên Tường bất nhẫn trách vợ:

- Bà quả là người thận trọng quá mức, đầy đọa dâu quý của lão phu. Lỡ Kim nhi chịu đựng chẳng nổi mà bỏ đi thì có phải uổng không?

Kỹ nương cũng có vẻ hối hận, phân bua với trượng phu:

- Thiếp vì quá lo lắng cho hạnh phúc mai sau của Khuê nhi nên hành sự hơi quá tay. Nhưng giờ thì đã đủ, chúng ta có thể nhận dâu được rồi.

Bà quay sang dặn dò người tỳ nữ trung niên. Thu Linh vui vẻ đi ngày xuống bếp, tìm Thiên Kim và nói:

- Này Hồ hiền muội. Phu nhân cho rằng ngươi không thích hợp với việc bếp núc nên giao cho nhiệm vụ này. Từ nay ngươi sẽ hầu hạ Tam công tử.

Thiên kim tưởng mình nằm chiêm bao, vui sướng đến ngẩn người. Nàng ngơ ngẩn bước theo Thu Linh, lòng bối rối nô nức lo âu, không hiểu Vu Diệp sẽ đối xử với mình thế nào?

Đến phòng tử khuê ở dãy Đông Sương, Thu Linh đẩy cửa, kéo Thiên Kim vào rồi ngoe nguẩy bỏ đi. Tử Khuê đã đứng sẵn mỉm cười âu yếm.

Thiên Kim nhìn chàng trân trối, nước mắt tuôn như suối, không nói được tiếng nào. Nàng chẳng dám chắc chắn rằng chàng có nhận ra mình hay không khi song phương chỉ tương hội một khoảnh khắc ngắn ngủi, và hiện giờ nàng đã khác hẳn vì đội lốt nghèo hèn.

Nhưng tử khuê đã bước đến, siết chặt nàng vào lòng và hỏi:

- Thiên Kim! Nàng có hạ cố nhận lời cầu hôn của ta không? Nàng đã vượt qua được sự thử thách của song thân ta rồi đấy.

Thiên Kim bừng tỉnh ngộ, bật khóc rấm rức và đám thùm thụp vào ngực Tử Khuê.
Tài sản của dunghoitaisao127