1.Trời rớt cong trũng xuống cánh rừng Du-Duyệt, mây thả mây trôi thành một sương lãng đãng quyện lướt bên vách núi dựng đứng chiều.
Khiêm-Tề leo lên mỏm đá, đôi mắt trượt nhô sau vạt lá rừng cao cố tìm kiếm dấu tích của bóng nắng chừng trốn khuất sau màn xanh thẳm đục. Trời sắp lên sao. Màn đêm sẽ tới. Ban chiều, anh mãi mê chạy theo dấu tích một con hưu vàng tuyệt quý đã không chú ý đến thời gian, đến khi nó nhanh chân trốn biệt trong khu rừng sương khói thì anh mới nhận ra mình đã đi quá xa. Qua ngọn núi này sẽ đến hồ quỷ khóc Sarasvati [1], một nơi theo truyền thuyết không dành cho người thường như ánh bén mảng tới. Lo lắng thoảng đến, Khiêm-Tề ước đoán: từ đây về làng khá xa và anh sẽ đi trong màn đêm muộn trễ dầy những ánh trời sao mơn rung trên lớp nhành lá rừng cao khuất lắp.
Khiêm-Tề xếp lại cung tên, cột ba con gà rừng đeo lên vai. Một lần nữa anh nhìn lên bầu trời nhắm định một hướng đi nhanh nhất để thoát khỏi cánh rừng này. Mon men theo vách núi xanh rêu, vén từng luồng dây rừng quyện đan như tổ nhện. Đi một quãng thật lâu. Khiêm-Tề nhìn thấy con suối nhỏ hồi ban chiều mình đã vượt qua. Dòng nước trong mát lách tách chảy mở kéo một cơn khát bật cháy ở cổ họng. Khiêm-Tề lần bước xuống suối, cuối vốc một bụm nước đầy lên tay và ngữa cổ uống. Một thoáng thư thả tràn đọng qua đôi mắt. Khiêm-Tề bâng khuân nhìn cánh rừng, trong màn đêm nhạt tối vừa lay thả, một ánh lửa đỏ được thắp lên trong căn nhà cách không xa con suối làm anh chú ý. Chắc là có người ở bên kia, anh thoáng nghĩ và quyết định đi về hướng ánh sáng không màng do dự.
Trước mắt anh, sau những vòng dây leo quấn bám hai bên dãy hàng rào, sau những màu bông trỗ vàng đỏ khẻ đong đưa gió. Căn nhà lợp bằng lá rừng dựng bên cây cổ thụ già thắp lên một hi vọng loé. Khiêm-Tề bước tới. Bên góc cửa, dưới ánh đèn lửa leo lét sáng mờ, một lão ông râu trắng mặc áo bố đương ngồi thong thả trong cái nền tĩnh mịch của rừng sâu đọng lắng. Khiêm-Tề chầm chậm đi trong tiếng lá khô sột soạt gãy kêu bên ngoài khoảnh sân lặng vắng. Một thanh âm. Một tiếng động khẻ khàng rớt bên ngoài cũng đủ làm cho lão ông chú ý ngoái nhìn ra. Ông thấy Khiêm-Tề đang phân vân đứng ngó mình trong ánh mắt muốn nhờ vã.
“Cháu thợ săn đi lạc rừng à?”. Ông lão chống gậy bước ra ngoài, ân cần hỏi.
“Thưa, tôi đuổi theo con thú nên bị lạc. Trời đã tối, đường về nhà quá xa nên xin hỏi ông có thể cho tôi được trú tạm ở đây một đêm”. Lão ông không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, mau mắn gật đầu đồng ý, dẫn bước Khiêm-Tề vào nhà, mời anh ngồi bên chiếc bàn gỗ nhỏ và ân cần hỏi: “Chắc là cháu chưa ăn uống gì phải không?”
“Dạ! Cám ơn lão ông! Từ sáng đến giờ cháu chỉ mãi mê săn thú…”. Dù cảm thấy rất đói nhưng Khiêm-Tề tỏ ra ái ngại trước sự quan tâm của lão ông. “Đây! Cháu có ba con gà rừng vừa săn được, lão ông hãy để cháu ra sau bếp nướng lên là có một bữa no rồi”.
Ông lão xua tay, “không cần!... không cần! Nhà lão vẫn còn chút măng và thịt heo đủ cho cháu dùng cho bữa tối. Cả nhà chúng ta đều đã ăn xong cả rồi”. Trấn an Khiêm-Tề xong, ông lão lớn tiếng gọi vợ và chốc sau một bà lão lò dò từ sau nhà bước ra.
Khiêm-Tề đứng lên chào, thấy mái tóc bà lão bạc như mây trên đỉnh núi tiên Utal hay dạt trôi xuống cánh rừng Du-Duyệt vào mỗi mùa thu, như màng sương trắng toả bên góc núi vừa chiều nay anh vô tình khám phá. Khiêm-Tề ngẫm nghĩ, những người ở chốn hoang sơ thanh vắng này chắc hẵn là những bậc bán tiên tu luyện, xa phàm lánh tục, an cư trong thế chẳng vướng luỵ bụi trần chắc trong nhiều năm lắm.
“Cháu cứ an tâm nghỉ ngơi ở đây, sáng mai hãy xuống núi”. Bà lão bước đến, ân cần nắm lấy bàn tay Khiêm-Tề và nói.
“Dạ, xin cám ơn lão bà đã thương xót cho”. Khiêm-Tề cuối đầu đáp lễ.
“Cháu ngồi đây đợi bà lấy thức ăn mang ra”. Bà lão lần bước ra nhà sau, chiếc bóng thoáng đọng mềm lên vách lá. Lão ông khẻ nhìn Khiêm-Tề hỏi: “Cháu trai tên gì? Nhà ở đâu?”.
“Dạ, cháu tên là Khiêm-Tề, nhà ở ngoại thành Cưu-Lưu”.
Ông lão khẻ cười, đôi mắt sáng lóng lánh: “Cháu không phải là người đầu tiên lạc bước đến đây. Dăm ba tháng nhà lão lại có người thợ săn đến xin tạm trú.”
Khiêm-Tề thầm cảm phục lòng tốt cưu mang của những con người sống ở nơi hoang dã này, anh muốn rạn hỏi hoàn cảnh của gia đình ông lão nhưng lại thoáng chút e ngại.
“Xin mời anh dùng bữa ăn đạm bạc của nhà chúng tôi”.
Khiêm-Tề nghe tiếng nói ngọt ngào xướng bên tai, giật mình thoáng nghĩ chẳng lẽ bà lão lại có đến hai giọng nói. Anh nhìn sang, một bối rối ùa dập tới. Trước mắt Khiêm-Tề không phải lão bà mà là một ảnh hình của cô gái áo trắng với mái tóc dài mịn như những sợi tơ long lanh trong ánh đèn nhạt sáng. Trên đôi môi thẳm màu, làn da đỏ đương lay động một sức sống riêng như âm gió lùa vi vu vào vách núi, như tiếng suối lách chảy róc rách qua từng hòn đá cuội nhẵn mòn. Khiêm-Tề nhận ra, từng nét từng nét trên con người kia: mái tóc, mùi hương, giọng nói, ánh mắt, làn da, đôi môi… là mỗi thực thể sống động rất riêng mà anh không thể nào khơi ra được từ trong trí tưởng tượng của mình để hình dung tả.
“Anh ăn đi kẻo nguội!”. Cô gái gợn bẽn lẽn nhìn Khiêm-Tề, nhắc lại.
Khiêm-Tề giật mình, hít một hơi sâu, gắng lòng trấn tĩnh. Anh gật đầu cảm ơn cô gái và cuối xuống dùng bữa trong cái nuốt nghẹn, trong cái nhịp tim không ngừng hồ hởi giẫy đập sau lớp áo.
2. Nắng trời tươi non trên nền cao hửng sáng.
Khiêm-Tề dần bước đến cổng rào. Thoáng đứng ngập ngừng. Rồi anh quay lại, bịn rịn nhìn cô gái, “cám ơn sự giúp đỡ của gia đình em, Vu-Bạch”.
“Lần sau có lỡ bước, anh cứ ghé nhà em mà trú tạm”. Vu-Bạch tươi cười, vẫy vẫy đôi tay mềm ra dấu tạm biệt Khiêm-Tề.
“Anh sẽ sớm trở lại thăm em”.
Khiêm-Tề quay đi, lòng bâng khuân một nỗi niềm khó tưởng. Trên từng bước chân trở về ngoại thành Cưu-Lưu, hình ảnh Vu-Bạch với từng nụ cười, từng ánh mắt... không ngừng ẩn hiện xao động trong dòng suy tưởng của chàng thợ săn lỡ bước.
3. Trưa trời đổ nắng chói chang nóng như muốn nấu chảy tan hết những hòn đá mòn nhẵn lót trên thân đường ngoẵng dài, muốn đốt bỏng rát cả đôi lòng bàn chân của khách bộ hành nào cố tình dẫm lên, rảo bước.
Đã mười mấy ngày dài, Khách-Vũ-Ba ròng rã rời đi khỏi rặng Utal không dám ngoái nhìn lại, giấu lưu luyến trong cái màn tưởng tượng vùng núi quê hương từng bước từng bước xa dần ở sau lưng, dài mất hút. Hai mươi năm quen sống trên rặng Utal bình lặng, Khách-Vũ-Ba không muốn rời khỏi miền đất thân thuộc đó chút nào. Nhưng với nhiệm vụ nặng nề mà trưởng lão đã tin cậy giao phó, Khách-Vũ-Ba không còn cách nào khác có thể để thoái thác chối từ. Và anh, lần đầu tiên rời Utal với nhiều lo lắng chất chồng. Trong mối e ngại nồng đó, Khách-Vũ-Ba luôn thầm cầu nguyện sự linh anh của thần Ozak và các vị trưởng lão đời trước sẽ tương trợ anh sớm hoàn thành sứ mệnh.
Khách-Vũ-Ba chầm chậm bước dưới nắng trời mây tản. Từ khá lâu hồi sáng sớm, anh đi một quãng thật dài, thấm đầy mõi mệt. Dường như không còn sức để bước tới nữa, Khách-Vũ-Ba chọn một gốc cây đa lớn ven đường, ngồi xuống. Trong từng hồi lá khẻ rung lay, trong cái lặng im của tư tưởng, anh thực hành bài tập prana [2], lưu thanh khí xuống đan điền, chuyển từng trược khí ra bên ngoài theo hơi thở.
Một lặng im kéo dài thật lâu giữa trời trưa nắng đổ.
Từ góc đằng xa, một chiếc xe ngựa màu đỏ thong thả chạy tới. Người phu xe đầu đội nón xanh, mặc chiếc áo vải thô màu trắng, tay giữ cương, mắt chăm chú hướng nhìn về phía trước. Hai cô gái ngồi sau: một áo xanh, một áo đỏ bâng quơ nhìn từng lớp cảnh vật lần lượt lướt ngang qua tầm mắt.
Tiểu-Hàm đang trên đường trở về quê chịu tang mẹ. Từ Cưu-Lưu, nghe tin mẹ bệnh nặng nàng tức tốc trở về, nhưng vừa mới đi một đoạn đường ngắn nàng lại đón hung tin rằng mẹ vừa mới mất. Dưới hàng mi rũ cong, đọng mềm lệ ướt, đôi mắt nàng ngậm ngùi một lưu luyến của tình thân, một lùi lũi đơn côi của sanh ly tử biệt. Nhìn Tiểu-Hàm buồn bã, Du-Tử ngồi kế bên không ngừng vỗ về động viên em gái.
Chiếc xe ngựa chạy qua chổ Khách-Vũ-Ba ngồi chừng hai mươi bước chân thì dừng lại. Hai cô gái bước xuống xe, Tiểu-Hàm cầm bình nước, Du-Tử xách một túi bánh bước đến chổ gốc đa. Tiểu-Hàm nghe nói nếu thực tâm bố thí cho một tu sĩ sẽ đem đến phước báu cho người đã khuất và khi nhìn thấy Khách-Vũ-Ba ngồi trầm lặng dưới gốc cây như một thầy tu, nàng đã kêu cho xe dừng lại.
“Chắc ngài đã đói và khát! Chúng tôi có một chút nước và ít bánh xinh được dâng lên”. Tiểu-Hàm lên tiếng.
Khách-Vũ-Ba từ từ mở mắt, ngước nhìn lên thấy hai cô gái, anh bối rối cuối xuống lấy chiếc chén bát từ trong túi ra dâng lên. Tiểu-Hàm mở nắp chiếc bình mang theo, rót một chén đầy nước trên tay Khách-Vũ-Ba; Du-Tử cuối xuống đặt túi bánh trước mặt anh.
“Cầu mong hai vị được như ý cát tường”. Khách-Vũ-Ba xá tay đáp lễ.
“Thưa! Người chết như mẹ tôi liệu có về cõi an lạc?”. Tiểu-Hàm thành kính hỏi Khách-Vũ-Ba.
“Tuỳ vào nghiệp quả của từng người mà nơi đến sẽ khác nhau. Tôi mong rằng mẹ của người sẽ về nơi an lạc”. Khách-Vũ-Ba đáp lời.
Hai cô gái xá tay đáp lễ, quay bước trở về xe.
Tiếng vó ngựa gõ giòn lên đường đá nhẵn.
Khách-Vũ-Ba ngồi lặng im. Giữa thinh không, anh nghe tiếng lọc cọc rời đi, bỏ rớt vọng một rung động lạ lùng mà anh chưa từng biết tới.
4. Khách-Vũ-Ba tay cầm gậy trúc, từng bước lặng lẽ thẳng đi về phía trước. Con đường từ ngoại thành về trấn Cưu-Lưu nằm cạnh sông Thu-Thuỷ trầm mặt một dòng nước hiền lặng của mùa thu. Trên chiếc bè chuối, một thiếu phụ, một đứa bé trai và một con đê đang lướt đi nhấp nhô sang bờ bên kia sông. Cây sào tre trên tay người đàn bà tung tẩy từng nhịp, chạm xuống, khuấy động dòng nước, bật ra một sức đẩy chập chùng trong ánh nắng vàng rải lao xao trên mặt nước. Thằng nhỏ lấy tay che nắng, đứng trên bè nhìn Khách-Vũ-Ba tươi cười, với nó, dường như một tu sĩ ẩn dật đi lang thang trên đường cái của ngoại thành yên tĩnh này ắt hẵn là một sự là lùng hiếm thấy.
Cạnh bờ sông, mấy bóng chim hồng hạc cổ cao lêu nghêu, xoè màu lông đỏ như ánh bình minh ló dạng sớm, lững thửng đi trên bãi cỏ nhạt vàng úa lá, lấp lé nước. Khách-Vũ-Ba nhìn lên, tiếng một con đại bàng xé tan yên tĩnh trời dường như đang hân hoan chào đón anh. Bóng nó vừa vụt bay lên từ ngôi đền đền gạch đỏ hoang phế chơ vơ ngả bóng tháp buồn xao xao xuống mặt sông gần đó.
Khách-Vũ-Ba lần bước đến ngôi đền, bàn tay anh run run chạm khô vào dãy bờ tường loang lỗ thời gian tàn rữa, bám đầy những vám bụi mờ đọng. Một xúc cảm nuối tiếc ùa đọng đến. Nhìn ngôi đền hàng ngàn năm tuổi, anh thầm nghĩ, có lẽ thời gian trôi qua đã làm người ta quên đi những tín ngưỡn cổ xưa để thay thế những điều mới mẽ? Hoặc họ đã có một chốn thờ phượng mới để thay thế ngôi đền cũ nát lặng lẽ này.
Khách-Vũ-Ba bước vào trong, trước mặt anh, hình tượng đá thần Thái Dương Surya ngồi trên cổ xe một bánh, thần Arunadeva ngồi trước nắm cương điều khiển bảy con ngựa trời [3] đương trong thế cưỡi mây lướt vòng quanh núi Meru. Dưới chân tượng, trên mặt một phiến đá lớn chạm khắc hình mười hai vị thần Adityas [4], trong mười hai tư thế đại diện cho mặt trời đi qua mười hai cung hoàng đạo, tạo ra mười hai dãy rung động năng lượng khác biệt ảnh hưởng đến dục giới.
Trong quyển bí thư cổ điển mà Khách-Vũ-Ba từng đọc có ghi:
“Thần Mặt trời Surya rong ruỗi trên cổ xe chạy vòng quanh núi Meru [5] dài 95.100.000 yojanas [6]. Ngài bắt đầu đi từ phía đông của vương quốc Devadhani, vùng đất của thần Indra [7]; rồi đến phía nam Samyamani, nơi ở của thần Yamaraja; rồi đến phía tây Nimlocani, vương quốc của thần Varuna; cuối cùng đến phía bắc Vibhavari, chổ của thần Mặt trăng.
Mặt trăng, Mặt trời và các vì sao quay quanh núi Meru. Khi thần Surya đi qua mười hai chòm sao, ngài sẽ trao cho các Adityas mỗi người một nhiệm vụ để cai quản dục giới.
Thần Ansh trông nom về nợ nần; Aryaman biểu tượng cho sự thanh nhã và trang trọng; Bhaag chuyên về di sản thừa kế; Daksh phụ trách nghi thức và lễ lạc; Dhatri sáng tạo trong nghành nghề thủ công mỹ nghệ; Mitra biểu hiện cho tình thân hữu nghị; Pushan là sự thịnh vượng; Savitra có sức mạnh của ngôn ngữ; Vivasvan đại diện cho công lý của nhân thế; Varun chủ trương của nghiệp vận trong dục giới; và Vaman là kẻ vận hành luật trời.”
Cảm thán trước cảnh tượng hoang phế, Khách-Vũ-Ba rảo bước tìm vài nhánh cây kết lại thành chổi, cần mẫn quét dọn ngôi đền. Anh vừa làm vừa đọc một bài chân ngôn:
Vua Mặt trời rực đỏ
Một tinh khiết của ánh sáng
Một con mắt của thế giới
Một chân ngã bất diệt
Dạo quanh vòng Meru
5. Rời khỏi ngôi đền Mặt trời đổ nát, Khách-Vũ-Ba tiếp tục đi đến một ngã ba đường. Anh không biết ngã nào sẽ rẽ về nội thành Cưu-Lưu nên đứng lại phân vân nghĩ ngợi.
Một chút sau Khách-Vũ-Ba nhìn thấy một người đàn ông quần áo rách rưới, tóc tai rũ rượi đang lững thững đi về hướng anh đứng. Anh tiến đến hỏi hắn:
“Anh có thể cho tôi biết đường nào đi về thành Cưu-Lưu hay không?”.
Người đàn ông không trả lời, ngó anh bằng mắt ngây dại, cười hềnh hệch rồi bỏ đi trong cái dáng liu xiu và hát:
Nàng sinh từ mây núi
Từ dòng sữa trăng mật
Lộng lẫy một vì sao
Mặc áo thiên hà đỏ
Khách-Vũ-Ba thấy làm lạ, một người đàn ông điên dại làm sao có thể hát được một bài ca nói về một người đàn bà với giọng điệu đó được chứ? Hay là có điều gì bí mật đang ẩn tàng ở chốn này chăng? Liệu nó có phải là điều mà anh đang tìm kiếm? Khách-Vũ-Ba ngó mặt trời đậu trên ngọn cây cổ thụ cao, chiều đang sắp đến. Anh quyết định chọn con đường người đàn ông điên kia vừa đến để tiếp bước hành trình.
-----------------
CHÚ THÍCH:
[1] Sarasvati: Theo thần thoại Ấn Độ, Sarasvati là một con sông thiêng bắt nguồn từ dãy Himalaya, có dòng chảy ngầm dưới sa mạc. Dòng sông này là một nơi dành cho loài ma quỷ đến tắm rửa để tẩy sửa tội lỗi của mình.
Trong Ấn Độ giáo, Saraswati còn là tên gọi của nữ thần học thuật, âm nhạc và các môn nghệ thuật khác.
[2] Prana: Một phương pháp yoga của người Ấn Độ
[3] Bảy con ngựa trời của thần Surya có tên là: Gayatri , Brhati , Usnik , Jagati , Tristup , Anustup và Pankti;
[4] Adityas: Mười hai vị thần thuộc nhóm Thần mặt trời, con của hiền triết Kashyap và nữ thần Aditi;
[5] Meru: Núi Tu-di. Theo thần thoại Ấn Độ giáo, núi Tu-di là trung tâm của tam giới. Mặt trời, mặt trăng và các vì sao quay chung quanh núi Tu-di;
[6] Tương đương 760.800.000 dặm;
[7] Indra: Thần Indra là thiên đế, vua của chư thiên và các vị thần.