Ngôi nhà hai tầng cổ kính màu kem sữa đứng trên đại lộ vòm cung có hàng cây ở giữa, nằm sâu trong một khu vườn đã tàn lụi được ngăn cách với vỉa hè của đại lộ bằng một hàng rào gang khía rãnh. Trước nhà là khoảng sân nhỏ rải nhựa, về mùa đông, trong sân nổi lên một đống tuyết lớn với cây xẻng cắm trên, còn mùa hè nó biến thành một chi nhánh tuyệt vời của khách sạn ngoài trời với mái che bằng vải bạt.
Ngôi nhà này được gọi là “Nhà Griboedov” do chỗ dường như trước đây nó thuộc về một bà dì của nhà văn Alekxandr Sergheevich Griboedov. Nhưng có đúng thật như vậy không – chúng ta không biết chính xác. Thậm chí có người còn nhớ rằng Griboedov không hề có bà dì chủ nhà nào cả … Nhưng ngôi nhà vẫn có tên như vậy. Hơn thế nữa, một tay khoác lác của Moskva còn kể rằng , trong gian phòng cột tròn ở tầng hai, nhà văn danh tiếng đã đọc trích đoạn của hài kịch “ Đau khổ vì trí tuệ” cho bà dì kia nghe, trong lúc bà ta nằm dài trên ghế xôpha. Mà thật ra, hỏi ma nào biết được, có thể ông đã đọc thật, điều đó không có gì quan trọng cả !
Cái quan trọng là ngôi nhà này hiện nay thuộc về MASSOLIT, cái tổ chức do ông Mikhail Alekxandrovich Berlioz bất hạnh đứng đầu cho đến khi ông xuất hiện ở công viên Hồ Pat’riarsi.
Theo sáng kiến của các thành viên MASSOLIT, không ai gọi ngôi nhà này là “Nhà Griboedov” nữa, mà tất cả đều gọi một cách đơn giản “Griboedov”. “ Chiều qua tớ loanh quanh ở Griboedov suốt hai tiếng đồng hồ”, - “ Kết quả thế nào ?” – “ Nài được đi nghĩ ở Italia một tháng”. – “ Khá lắm !” Hoặc là: “ Đến gặp Berlioz đi, hôm nay ông ta tiếp khách ở Griboedov từ bốn đến năm giờ chiều”… vân vân và vân vân.
Toàn bộ MASSOLIT được bố trí ở Griboedov một cách lý tưởng đến nỗi không thể nào nghĩ là có thể tiện lợi và ấm cúng hơn. Bất kỳ người nào vào Griboedov trước hết muốn hay không muốn đều được làm quen với những thông báo của các hội thể thao và những bức ảnh tập thể cũng như cá nhân của các hội viên MASSOLIT treo dọc hai bên tường cầu thang dẫn lên tầng hai.
Trên cánh cửa của phòng đầu tiên ở tầng trên này treo một tấm biển lớn “ Tiểu ban nhà nghỉ - câu cá”, và ngay bên cạnh là hình một con cá chép mắc câu đang vật vã.
Trên cánh cửa phòng số hai là dòng chữ không thật dễ hiểu lắm: “ Vé nghỉ sáng tác một ngày. Hỏi M.V. Podloznaia”.
Cánh cửa tiếp theo mang một dòng chữ rất ngắn nhưng đã hoàn toàn khó hiểu: “ Perelưghino”. Từ đó, người khách tình cờ đến Griboedov sẽ lóa mắt trước vô số những bản đề sặc sỡ trên các cánh cửa gỗ dẻ của bà dì: “ Đăng ký xin giấy. Gặp Poklevkina.”. “Thủ quỹ”, “ Thanh toán cá nhân cho tác giả các vở ca kịch ngắn”…
Sau khi cắt ngang dãy người xếp hàng dài vô tận bắt đầu từ phòng thường trực ở phía dưới, ta có thể trông thấy biển đề trên cánh cửa “Vấn đề nhà ở”, nơi người ra vào không ngớt.
Phía bên kia “Vấn đề nhà ở” là một tấm biểu ngữ sặc sỡ vẽ mỏm đá lớn, trên mỏm đá, một kỵ sĩ mặc áo choàng phớt với súng trường khoác sau vai đang phi ngựa; phía dưới là những cây cọ và bancông; trên bancông có một người trẻ tuổi tóc rối bù đang nhìn đâu đó lên cao bằng cặp mắt rất xanh, tay cầm chiếc bút máy. Biển đề: “Nghỉ sáng tác dài hạn từ hai tuần (truyện ngắn) đến một năm (tiểu thuyết, truyện dài nhiều tập). Ialta, Súuc-Su, Borovoie, Sikhitgiri, Makhindgiauri, Lêningrad (Cung điện Mùa Đông)”. Ở cánh cửa này người cũng xếp hàng nhưng không đến nỗi dài lắm, chừng trăm rưởi người.
Tiếp đó, nằm dọc theo những chỗ vòng khúc, lên xuống của ngôi nhà Griboedov là “Ban Chấp hành MASSOLIT”, “Quầy thủ quỹ số 2,3,4,5”, “Ban biên tập”, “Chủ tịch MASSOLIT”, “Phòng chơi bida”, một loạt các phòng ban phụ khác, và cuối cùng đến gian phòng cột tròn, nơi trước kia có một bà dì nằm thưởng thức bản hài kịch của một người cháu thiên tài.
Bất kỳ người khách nào (tất nhiên nếu anh ta không phải là kẻ quá đần độn) sẽ lập tức luận ra rằng những con người may mắn được là hội viên của MASSOLIT sống sung sướng đến mức nào, và một nỗi ghen ăn ghét ở đen tối bắt đầu hành hạ anh ta. Và không chậm trễ, anh ta liền ném lên trời những lời trách móc cay đắng là sao trời không ban tặng cho anh ta lúc sinh ra là một tài năng văn học – mà thiếu cái đó, lẽ hiển nhiên, thì đừng hòng mơ ước cái gì có được tấm thẻ hội viên MASSOLIT, tấm thẻ màu nâu sẫm thoang thoảng mùi da quý với một đường viền mạ vàng rộng, tấm thẻ khắp Moskva ai cũng biết.
Người nào có thể nói được gì để bào chữa cho lòng ghen tỵ đó ? Nó là thứ tình cảm thuộc phạm trù hèn kém, nhưng dù sao cũng phải thông cảm với tình cảnh của người khách. Bởi vì những gì anh ta thấy trên tầng hai chưa phải là tất cả và còn lâu mới là tất cả. Toàn bộ tầng dưới của ngôi nhà bà dì là tiệm ăn - một tiệm ăn phải nói hết ý ! Cũng là công bằng khi nó được coi là tiệm ăn tốt nhất ở đất Moskva này. Và điều đó không chỉ vì nó được đặt trong hai gian phòng lớn với trần cuốn vẽ những con ngựa màu tím, bờm Asiri; không chỉ vì trên mỗi chiếc bàn ăn đều có gắn đèn, trải khăn; không chỉ vì không phải bất kỳ người nào muốn cũng đều vào được đây; mà còn vì chất lượng đồ ăn thức uống ở Griboedov này hơn hẳn bất kỳ một tiệm ăn nào khác của Moskva, và chúng được bán ra với một giá phải nói là hết sức phải chăng.
Và vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên trong câu chuyện sau đây mà tác giả của những giòng văn trung thực bậc nhất này một lần nghe được cạnh hàng rào gang của Griboedov:
- Hôm nay anh ăn tối ở đâu, Amvrosi ?
- Sao lại hỏi ngớ ngẩn thế, tất nhiên là ở đây rồi, Phoka yêu quý ạ ! Artribald Artribaldovich hôm nay mách thầm với tớ là sẽ có cá vược đặt sẵn a naturen (1). Một món cá tuyệt vời !
- Anh biết cách sống lắm, Amvrosi ạ ! - người gầy guộc, tàn tạ, với vết loét trên cổ, tên là Phoka, thở dài nói với nhà thơ có vóc dáng khổng lồ, môi mọng, tóc vàng óng, má hồng hào tên Amvrosi.
- Tớ không biết cách biết kiếc đặc biệt gì cả đâu, - Amvroisi bác lại, - mà chỉ có một ý bình thường là được sống cho ra con người. Cậu muốn nói là cá vược thì ở tiệm ăn “Kolize” cũng có chứ gì ? Nhưng ở “Kolize” một suất cá vược giá mười ba rúp mười lăm kôpêch, còn ở chỗ chúng tôi giá chỉ năm rúp năm mươi ! Ngoài ra, ở “Kolize” cá vược phải giữ đến ngày thứ ba, và, ngoài ra nữa, cậu còn không được đảm bảo là sẽ không phải chấp nhận một chùm nho do một thằng thanh niên từ ngõ Nhà hát xông ra ném vào mặt. Không, tớ dứt khoát loại trừ “Kolize”, - tay sành ăn Amvrosi oang oang khắp cả dãy phố. - Đừng có thuyết phục tớ, Phoka !
- Tôi có thuyết phục anh đâu, Amvrosi ạ, - Phoka rầu rỉ nói. – Ăn ở nhà cũng được.
- Ôi, xin kiếu ! – Amvrosi lại sang sảng, - Tớ đã hình dung ra cảnh vợ cậu đang cố xử lý món cá vược đặt sẳn a natuean trong chảo ở khu bếp tập thể của căn hộ ! Hi-hi-hi ! …Ô rơvoa (2), Phoka ! – và vừa nghêu ngao hát, Amvrosi vừa bước đến hàng hiên dưới tán dù che.
Ê-hê-hê… Đúng, quả vậy, quả như vậy thật ! Những cư dân Moskva cố cựu còn nhớ nhà Griboedov lừng danh ! Cá vược rán đặt sẳn là cái gì ! Rẻ lắm, Amvrosi ạ ! Còn cá tầm, cá tầm trong những chiếc xoong trắng bạc, từng miếng cá tầm sắp giữa những khúc thân tôm và trứng cá tươi ? Còn trứng gà nướng với nấm mũ nghiền nhừ đựng trong cốc ? Còn philê thịt sáo hầm, anh có thích không ? Với nấm củ ? Chim cun cút theo kiểu Giênơ ? Mười rúp rưỡi ! Lại còn nhạc Jaz, lại còn phục vụ nhã nhặn ! Còn vào tháng Bảy, khi cả gia đình đã đi đến nhà nghỉ, riêng anh bận những công việc văn chương không thể trì hoãn giữ lại Moskva, - ngoài hàng hiên, dưới bóng những chùm nho quấn quýt, trong vệt nắng vàng choé trên chiếc khăn trải bàn sạch tinh là đĩa súp prentanhiơ ? Amvroisi, anh còn nhớ không ? Nhưng cần gì lại nói thế nhỉ ? Qua cặp môi của anh, tôi thấy là anh còn nhớ. Những món cá hồi trắng, cá vược của anh là cái gì !... Rồi còn đủ loại chim dẽ, gà gô theo mùa, cun cút, dẽ giun ? Rồi nước khoáng narzan buốt lạnh cổ ? Nhưng thôi, đủ rồi, đừng lạc đề nữa, hỡi bạn đọc, xin mời theo tôi !...
Vào hồi mười giờ rưỡi tối, sau khi Berlioz tử nạn ở công viên Pat’riarsi, trên tầng hai của nhà Griboedov chỉ có một căn phòng bật đèn sáng, ở đó mười hai nhà văn đã tụ tập lại để dự cuộc họp và mệt mỏi ngồi chờ Mikhail Alekxandrovich Berlioz.
Những con người ngồi trên ghế, trên bàn và thậm chí cả trên hai bệ cửa sổ trong phòng Ban chấp hành MASSOLIT, đang khổ sở vì nóng bức. Không một tia gió tươi mát nào lọt vào các ô cửa sổ để mở toang. Thành phố Moskva đang trả lại số hơi nóng đã tích tụ được sau một ngày trong các lớp nhựa đường, và rõ ràng là đêm đến cũng không mang lại sự dễ chịu hơn chút nào cho mọi người. Từ dưới tầng ngầm của ngôi nhà bà dì, nơi đặt bếp tiệm ăn, bốc lên mùi hành tỏi và tất cả đều cảm thấy khát, tất cả đều cáu kỉnh và bực bội.
Nhà viết văn xuôi Beskudnikov - một người trầm lặng, ăn mặc lịch sự, với cặp mắt đồng thời vừa chăm chú nhưng lại vừa khó nắm bắt được, - rút đồng hồ từ trong túi ra. Kim nhích dần đến con số mười một. Beskudnikov gõ gõ ngón tay lên mặt đồng hồ, giơ ra cho nhà thơ Dvubratski ngồi bên cạnh trên mặt bàn và vì không có việc gì làm, đang vung vẩy đôi chân đi giày màu vàng đế cao su.
- Thế đấy, - Dvubratski lẩm bẩm.
- Chắc anh chàng mắc lại ở Kliazma rồi, - vang lên giọng trầm của Nastasia Lukinisna Nevremenova, nàng con gái mồ côi của một lái buôn Moskva giờ trở thành nhà văn chuyên viết những truyện ngắn về đề tài chiến đấu trên biển với bút danh “ George Hoa Tiêu”.
- Xin lỗi ! – Dagrivov, tác giả của những vở ca kịch ngắn, mạnh dạn lên tiếng. – Riêng tôi thì tôi cũng vui lòng được ngồi uống chén trà ngoài bancông hơn là phải chịu luộc chín ở đây. Hình như cuộc họp ấn định vào mười giờ thì phải.
- Mà bây giờ ở Kliazma thật là khoái, - George Hoa Tiêu cố ý chọc mọi người có mặt ở đây, vì biết rằng khu nhà nghỉ mát Perelưghino của Hội ở Kliazma là niềm ao ước chung của tất cả. – Bây giờ có lẽ họa mi đang hót. Tôi bao giờ cũng làm việc có hiệu quả hơn khi ở ngoại ô, đặc biệt là vào mùa xuân.
- Đã ba năm nay, tôi đóng tiền để bà xã đau bệnh bazdo(3) được gửi đến thiên đường đó, mà chẳng hiểu sao không thấy tăm hơi gì cả, - nhà viết truyện ngắn Ieronim Poprikhin cay đắng và độc địa nói.
- Điều đó còn tùy ai gặp mai, - nhà phê bình Ababkov ngồi trên bệ cửa sổ gầm gào.
Trong cặp mắt nhỏ tí của George Hoa Tiêu cháy lấp lánh niềm vui, và nữ văn sĩ nói bằng giọng contranto thật dịu dàng:
- Đừng thế, các đồng chí, không nên ganh tị. Tất cả chỉ có hai mươi hai nhà nghỉ, hiện đang xây dựng thêm bảy nhà nữa, thế mà chúng ta ở MASSOLIT phải đến ba nghìn người.
- Ba nghìn một trăm mười một người, - một ai đã từ trong góc phòng chêm vào.
- Đấy, thấy chưa, - George Hoa Tiên tiếp tục, - làm sao bây giờ? Lẽ đương nhiên được nhận nhà nghỉ phải là những người tài năng nhất trong số chúng ta…
- Những ông tướng ! – nhà biên kịch Glukharev xông thẳng vào cuộc tranh biện.
Beskudnikov giả vờ ngáp dài, bước ra khỏi phòng.
- Một người chiếm những năm buồng ở Perelưghino, - Glukharev ném sau lưng anh ta.
- Lavrovich một mình sáu buồng ! – Dêniskin nói rõ to, - và phòng ăn ghép bằng ván sồi !
- Ê, bây giờ cái chính không phải là chuyện đó, - Ababcov gầm gào, - cái chính là đã mười một giờ rưỡi rồi.
Tiếng ồn ào nổi lên, bắt đầu một cái gì đó như sự nổi loạn. Mọi người gọi điện về cái xóm Perelưghino đáng ghét nọ, nhưng không gọi được nhà nghỉ cần tìm, mà lại gặp phải nhà Lavrovich, được biết rằng Lavrovich đang ngồi ở ngoài sông, và vì vậy tất cả tỏ vẻ hoàn toàn thất vọng. Gọi hú họa đến Tiểu ban văn học, theo số máy phụ 930, nhưng tất nhiên là chẳng tìm thấy ai ở đó cả.
- Đáng lẽ ông ta phải gọi điện đến chứ ! – Deniskin, Glukharev và Kvant lớn tiếng hét.
Ôi, họ la hét chỉ phí công vô ích: Mikhail Alekxandrovich không thể nào gọi điện đi đâu được nữa rồi. Ở xa, rất xa nhà Griboedov, trong một gian phòng lớn được chiếu sáng bằng những ngọn đèn điện hàng nghìn nến, nằm trên ba chiếc bàn kẽm là cái mà vừa mới đây còn là Mikhail Alekxandrovich.
Trên chiếc bàn thứ nhất, ta thấy tấm thân trần máu đã khô đông lại với một bàn tay bị gãy và lồng ngực dập nát; trên mặt bàn thứ hai là chiếc đầu không còn răng cửa với đôi mắt mờ đục mở to giờ không còn sợ làn ánh sáng hết sức gay gắt nữa; và trên chiếc bàn thứ ba là một đống giẻ rách nát.
Đứng cạnh thi thể mất đầu là giáo sư pháp y, chuyên gia giải phẫu bệnh viện và phẫu thuật viên của ông, các đại diện của cơ quan thẩm cứu và nhà văn Gieldưbin, phó chủ tịch thứ nhất của Mikhail Alekxandrovich Berlioz ở MASSOLIT, được gọi đến đây bằng điện thoại, bỏ bà vợ đang đau ốm ở lại nhà.
Một chiếc xe đến đón Gieldưbin, và việc đầu tiên là chở ông cùng với dự thẩm viên (lúc đó đã gần nửa đêm) đến căn nhà của người quá cố, niêm phong toàn bộ giấy tờ của Mikhail Alekxandrovich lại, rồi sau đó mới đến nhà xác.
Và bây giờ những người đứng cạnh thi hài kẻ quá cố đang thảo luận nên làm thế nào tốt hơn: khâu gắn chiếc đầu bị cắt rời ra vào cổ hay cứ đặt thi hài như thế vào hội trường nhà Griboedov, chỉ đem một chíêc khăn đen lớn phủ mặt tử thi kín đến tạn cằm ?
Vâng, Mikhail Alekxandrovich không thể gọi điện đi đâu được nữa, và những Deniskin, Glukharev cùng Kant với Beskudnikov cáu kỉnh kêu la là chỉ phí công vô ích. Đúng nửa đêm, cả mười hai văn sĩ rời tầng hai đi xuống tiệm ăn. Và ở đây họ lại một lần nữa thầm nguyền rủa Mikhail Alekxandrovich: tất cả các bàn ngoài hiên, hiển nhiên đã không còn chỗ trống, và họ buộc phải ngồi lại ăn tối trong các gian phòng dù đẹp đẽ nhưng rất nóng bức này.
Và vào đúng nữa đêm, trong gian phòng thứ nhất trong số những gian phòng đó có một cái gì đó đổ ầm ầm, rơi loảng xoảng, rung tới tấp, nhảy tâng tâng. Và liền ngay đó một giọng nam lanh lảnh hét lên trong điệu nhạc: “Alliluia !!” Đó là dàn nhạc Jaz lừng danh của nhà Griboedov bắt đầu lên tiếng. Những khuôn mặt đẫm mồ hôi rạng rỡ hẳn lên, những con ngựa vẽ trên trần nhà dường như sống dậy, các ngọn đèn dường như sáng thêm, và bỗng nhiên, như hóa điên, cả hai gian phòng đều bắt đầu nhảy, rồi tiếp theo đó là cả hàng hiên phía ngoài cũng nhảy.
Glukharev nhảy với nữ thi sĩ Tamara Bán Nguyệt, Kvant cũng nhảy, nhà viết tiểu thuyết Giukopov nhảy với một nữ diễn viên điện ảnh nào đó mặc áo màu vàng, Dragunski, Trerdactri nhảy, Deniskin nhỏ con nhảy với George Hoa Tiêu đồ sộ, người đẹp nữ kiến trúc sư Semeikina Gall nhảy trong vòng tay siết chặt của một người lạ mặt nào đó mặc quần dài trắng bằng vải gai. Nhảy: cả chủ nhà lẫn khách mời, cả dân Moskva và nhà văn Iogann từ Kronstad đến, cả một anh chàng Vitia Kuptic nào đó từ Rostov tới, có lẽ là đạo diễn, với đám nấm hắc lào hồng hồng trên khắp một bên má; nhảy: cả những đại diện tinh hoa nhất của tiểu ban thơ ca thuộc MASSOLIT, tức là Pavianov, Bogokhulski, Sladki, Spitrkin và Adelphina Buzdiac, cả những thanh niên không rõ nghề nghiệp đầu húi bốc, vai áo độn bông, cả một người nào đó rất đứng tuổi với bộ râu lẫn một cánh hành xanh, cùng nhảy với ông ta là một cô gái quá thời trong chiếc áo màu da cam nhàu nát đang mòn mỏi bởi chứng thiếu máu.
Đầm đìa mồ hôi, các nhân viên phục vụ đi lại với những vại bia cũng đổ mồ hôi đầm đìa giơ cao trên đầu, chốc chốc lại kêu lên khàn khàn và cáu kỉnh: “Xin lỗi, thưa ông, xin lỗi !” Ở một nơi nào đó vang vang những khẩu lệnh được hô vào loa: “Một suất Karski ! Hai ly Duprovca ! Đĩa lòng thêm !!” Cái giọng nam lanh lảnh bây giờ không còn hát nữa, mà rít lên : “Alliluia !” Tiếng nhạc jaz nhiều khi bị át đi bởi tiếng loảng xoảng của đống bát đĩa mà những người rửa bát thả trượt theo băng chuyền dốc xuống bếp. Tóm lại, đúng là địa ngục.
Và vào nửa đêm, xuất hiện một bóng ma trong địa ngục. Một người đàn ông đẹp dáng, mắt đen, với bộ râu nhọn mặc áo đuôi tôm bước ra hàng hiên và đưa ánh mắt đầy quyền uy nhìn khắp vương quốc của mình. Những kẻ ưa thần bí nói rằng, đã có thời người đàn ông đẹp đẽ này không vận áo đuôi tôm, mà nịt ngang người một chiếc thắt lưng da rộng bản, từ đó thò ra những báng súng lục; còn mái tóc đen nhánh được vấn trong một tấm lụa điều, và chiếc chiến thuyền giương lá cờ đen ngòm với hình đầu lâu dưới quyền chỉ huy của ông ta đã từng rong ruổi trên mặt biển Karaibe.
Nhưng không, không ! Những kẻ ưa thần bí chuyên đi bịp người đã nói không đúng sự thật, trên thế giới này không hề có biển Karaibe nào cả, và những tên cướp biển liều lĩnh không rong ruổi trên đó, không có những cổ thuyền chiến ba buồm đuổi theo chúng; và trên mặt nước không vật vờ làn khói súng đại bác. Không có gì cả, và chưa bao giờ có gì cả ! Mà chỉ có một gốc lipa già cỗi, chỉ có dãy hàng rào bằng gang và phía ngoài là đại lộ… Và tảng nước đá đang tan dần trong bình nước, nhìn rõ ở phía sau chiếc bàn bên cạnh cặp mắt bò đực của ai đó ngầu máu, và cảm thấy thật kinh hoàng, thật khủng khiếp… Ôi, hỡi các vị thần linh, các vị thần linh của tôi, thuốc độc đâu, hãy cho tôi thuốc độc !...
Và bất thần sau chiếc bàn vang lên một từ: “Berlioz !” Tiếng nhạc jaz chững lại, rời rạc rồi lặng ngắt, dường như bị ai đó lấy nắm tay đánh vụn, cắt ngang. “ Cái gì, cái gì, cái gì, cái gì ?!!! “ – “Berlioz !!!” Rồi mọi người nhảy vụt dậy, rồi khắp nơi nổi lên tiếng la hét…
Vâng, đúng thế, nỗi đau khổ như một cơn sóng chợt dâng trào khi nghe cái tin khủng khiếp về Mikhail Alekxandrovich. Một người nào đó xăng xái hét lên là cần phải lập tức, ngay tại đây, không ai rời chỗ, thảo ra một bức điện tập thể và gửi nó đi không chậm trễ.
Nhưng bức điện nào, chúng tôi xin hỏi, và gửi đi đâu ? Và gửi nó để làm gì ? Mà quả thực, gửi đi đâu ? Và dù là bức điện nào đi nữa, thì nó cũng cần gì cho cái con người với chiếc gáy dập nát đang bị bóp chặt trong đôi tay cao su của phẫu thuật viên giải phẫu bệnh lý, còn cổ thì bị những mũi kim cong của giáo sư chọc nát ? Ông đã chết, và ông không cần bất cứ một bức điện nào. Tất cả đã kết thúc, chúng ta sẽ không bày thêm việc cho ngành bưu điện nữa.
Vâng, ông đã chết rồi… Nhưng chúng ta thì hẵng còn đang sống !
Vâng, đau khổ như con sóng dâng tràn, giữ ở trạng thái cao trào một lúc, rồi bắt đầu rút xuống, một vài ai đó đã quay trở về bàn, và – lúc đầu còn kín đáo, sau đó công khai không giấu giếm, - tiếp tục uống rượu và nhắm thức ăn. Chẳng lẽ lại bỏ phí món thịt gà rán dơ volai ? Chúng ta có thể giúp được gì Mikhail Alekxandrovich ? Bằng cách nhịn đói ư ? Chúng ta là những người còn sống cơ mà !
Tất nhiên, người ta đã khoá nắp đàn piano lại, ban nhạc giải tán ra về, một vài nhà báo đi đến tòa soạn của mình để viết điếu tang. Nghe nói Gieldưbin từ nhà xác đã đến đây, đang ngồi ở phòng làm việc của người quá cố, và lập tức có tin loang ra là ông ta sẽ thay thế Berlioz. Gieldưbin gọi cả mười hai Ủy viên ban chấp hành từ tiệm ăn lên gặp mình, và trong cuộc họp được triệu tập cấp tốc ngay tại căn phòng làm việc của Berlioz, mọi người bắt đầu thảo luận một số vấn đề về việc sắp đặt lại gian phòng cột tròn của nhà Griboedov, việc chuyển thi hài người quá cố từ nhà xác về đây, việc tổ chức lễ viếng và những việc khác có liên quan đến sự kiện đau buồn này.
Còn tiệm ăn thì đã trở lại sống cái cuộc sống bình thường của mình, và có lẽ sẽ cứ tiếp tục sống như vậy cho tới khi đóng cửa, tức là đến bốn giờ sáng, nếu như không xảy ra một việc, lần này thì hoàn toàn đặc biệt và làm cho toàn bộ khách ở đây kinh ngạc hơn nhiều so với tin về cái chết của Berlioz...
Những người đầu tiên gây ra xôn xao lo lắng là cánh xà ích túc trực ở cổng nhà Griboedov. Một người trong bọn họ bỗng nhổm người trên ghế xe ngựa, hét toáng lên:
- Chu cha, trông kia !
Tiếp liền đó, không hiểu từ đâu ra, cạnh hàng rào bằng gang, một đốm lửa nhỏ vụt loé lên và tiến dần lại phía hiên nhà. Những người ngồi sau bàn theo nhau nhổm dậy nhìn, và họ thấy rằng đi về phía tiệm ăn cùng với đám lửa nhỏ kia là một bóng ma nhờ nhờ trắng. Khi nó tiến đến tận dàn cây leo, tất cả mọi người đã như hóa đá sau bàn với những miếng cá tầm xóc trên nĩa cầm trong tay, mắt trố ra nhìn kinh ngạc. Người gác cửa, đúng lúc đó vừa từ phía sau cánh cửa phòng gửi áo ngoài của tiệm ăn bước ra sân để hút thuốc, vội giẫm tắt điếu thuốc và tiến lại phía bóng ma với mục đích rõ ràng là chận ngang đường vào tiệm ăn, nhưng không hiểu sao cuối cùng ông ta đã không làm việc đó mà dừng lại, trên môi nở một nụ cười ngớ ngẩn.
Và bóng ma đi qua dàn cây leo, bước lên hiên, không bị ai ngăn trở. Đến lúc này, mọi người mới nhận thấy rằng đó hoàn toàn không phải là bóng ma nào cả, mà đích thị nhà thơ nổi tiếng nhất Ivan Nikolaievich Bezdomnưi.
Nhà thơ đi chân đất, mặc chiếc áo khoác bạc trắng rách bươm, trên ngực áo găm lủng lẳng bằng kim băng bức ảnh in hình một vị thánh nào đó không ai biết đã mờ nét, và nửa dưới người là chiếc quần lót dài kẻ sọc cũng màu trắng. Trong tay Ivan Nikolaievich cầm một ngọn nến thường dùng trong các buổi lễ cưới đã thắp lên. Trên má phải của anh có một vết xướt còn mới. Thật khó có thể đo được chiều sâu của sự im lặng bao trùm trên hàng hiên tiệm ăn. Nghe rõ cả tiếng bia chảy xuống sàn từ chiếc cốc vại cầm nghiêng trong tay một người phục vụ nào đó.
Nhà thơ giơ ngọn nến lên quá đầu, nói to:
- Chào các bạn ! – nói rồi anh cúi nhìn xuống bên dưới chiếc bàn gần nhất và buồn bã thốt lên: - Không, hắn không có ở đây.
Trong phòng vang lên hai giọng nói. Giọng thứ nhất, rất trầm, buông ra một cách tàn nhẫn:
- Rõ rồi, cơn sốt trắng(4).
Còn giọng thứ hai, của phụ nữ, hoảng hốt:
- Làm sao công an lại để cho anh ta đi ngoài phố trong bộ dạng như thế này nhỉ ?
Ivan Nikolaievich nghe thấy câu nói đó và đáp ngay:
- Họ đã hai lần muốn giữ tôi lại ở ngõ Skatertnưi và ở đây, trên phố Bronnaia, nhưng tôi nhảy qua hàng rào, và các vị thấy đấy, bị rách một bên má ! – Ivan Nikolaievich bất thần giơ cao ngọn nến và hét to: - Hỡi các văn hữu ! (Giọng khàn khàn của anh đanh lại và trở nên nóng nảy). Tất cả hãy nghe tôi ! Hắn đã xuất hiện ! Hãy lập tức tìm bắt lấy hắn, nếu không hắn sẽ gây ra những tai họa không lường nổi !
- Cái gì ? Cái gì ? Anh ấy nói cái gì ? Ai đã xuất hiện ? - từ bốn phía mọi người nhốn nháo hỏi.
- Tên chuyên gia ! – Ivan đáp, - và tên chuyên gia đó vừa giết chết Mikhail Berlioz ở hồ Pat’riarsi.
Mọi người từ gian nhà trong chen nhau đổ ra hàng hiên, xung quanh ngọn nến của Ivan hình thành một đám đông quay tròn.
- Xin lỗi, xin lỗi, anh hãy nói cho rõ hơn, - Ivan Nikolaievich nghe vang lên bên tai một giọng nói khe khẽ và lịch thiệp, - anh nói cho rõ, ai giết ? Ai giết ?
- Một tên chuyên gia người nước ngoài, một giáo sư gián điệp ! – Ivan nhìn quanh, đáp.
- Nhưng họ tên hắn là gì ? - giọng khe khẽ lại hỏi.
- Họ tên ấy à ?! – Ivan Nikolaievich buồn rầu thốt lên, - gía như tôi biết được họ tên của hắn ! Tôi chưa kịp nhìn rõ họ tên hắn trên tấm danh thiếp… Chỉ nhớ chữ cái đầu tiên là “Vê”, họ hắn bắt đầu bằng chữ “Vê” !... Họ nào bắt đầu bằng chữ “ Vê” nhỉ ? – Ivan đưa bàn tay lên ôm trán và tự hỏi mình, rồi anh bỗng lẩm nhẩm: - Vê, vê, vê ! Va …vô …Vasner à ? Vagner à ? Vainer ? Vegner ? Vinter ? – tóc trên đầu Ivna như dựng ngược lên vì căng thẳng.
- Vulph phải không ? - giọng của một phụ nữ nào đó kêu lên nảo nùng.
Ivan nổi cáu:
- Đồ ngu ! – anh hét to, đưa mắt tìm người vừa nói. – Vulph thì có liên quan gì ở đây ? Vulph không có lỗi gì hết ! Vô, vô… Không ! Tôi không nhớ được ! Này các bạn, chúng ta phải làm như sau: hãy gọi điện ngay bây giờ cho công an, để họ phái năm người đi môtô mang súng máy lùng bắt tay giáo sư. Mà đừng quên nói rằng cùng với hắn ta còn có thêm hai đứa nữa: một tên người dài ngoẵng, quần áo kẻ ô… một mắt kính bị vỡ… và một con mèo đen, béo hú. Còn tôi bây giờ phải lục tìm khắp nhà Griboedov đã… Tôi cảm thấy là hắn đang ở đây!
Ivan Nikolaievich lo lắng xô giạt mọi người vây quanh ra, tay huơ huơ ngọn nến làm dầu nến chảy ra rơi cả lên người, rồi anh bắt đầu ngó xuống phía dưới các bàn ăn. Bỗng có ai đó gọi lớn: “ Mời bác sĩ đến !” – và một khuôn mặt béo tốt, dịu dàng, cạo nhẳn nhụi, đeo kính gọng sừng, xuất hiện trước mặt nhà thơ.
- Đồng chí Bezdomnưi, - khuôn mặt đỏ nói bằng một giọng như diễn văn, - đồng chí hãy bình tĩnh lại đi ! Đồng chí đang quá xúc động bởi cái chết của con người được tất cả chúng ta yêu quý là Mikhail Alekxandrovich … Không, phải gọi thân mật hơn là Misa Berlioz. Chúng tôi hiểu rất rõ điều đó. Đồng chí cần phải được nghỉ ngơi. Bây giờ các bạn sẽ đưa đồng chí vào giường, và đồng chí sẽ ngủ một lát…
- À, mày, - Ivan nhe răng, cắt ngang lời, - mày có hiểu là cần phải bắt ngay thằng giáo sư kia không? Thế mà mày lại chõ miệng vào nói những lời nhảm nhí ! Đồ ngu !
- Đồng chí Bezdomnưi, tôi xin lỗi, - khuôn mặt nọ đỏ tía lên, đáp, rồi vừa bước lùi ra sau, vừa hối hận là đã giây vào sự việc này.
- Ai thì cho xin chứ mày thì không xin xỏ gì hết, - Ivan Nikolaievich nói với giọng căm ghét.
Các cơ mặt anh co giật làm khuôn mặt trở nên méo mó; anh nhanh như chớp chuyển ngọn nến từ tay phải sang tay trái rồi dang rộng cánh tay giáng một cái tát vào ngay mang tai của khuôn mặt vừa lộ vẻ thông cảm nọ.
Đến lúc này mọi người mới nghĩ ra là phải giữ tay Ivan lại – và họ đã làm đúng như thế. Ngọn nến bị tắt ngấm, chiếc kính văng ra khỏi mặt rơi xuống sân lập tức bị giẫm nát. Ivan hét lên một tiếng dữ dội đến mức người đi ngoài đường cũng nghe thấy, và bắt đầu tự vệ. Vang lên tiếng bát đĩa rơi từ trên bàn xuống, tiếng phụ nữ kêu la.
Trong lúc ngoài hàng hiên những người phục vụ dùng khăn trói Ivan lại, trong phòng gửi áo ngoài đã diễn ra câu chuyện sau đây giữa tên thuyền trưởng cướp biển và người gác cửa:
- Anh có thấy là anh ta chỉ mặc quần lót không ? – tên cướp biển lạnh lùng hỏi.
- Thưa ông Artribaldo Artribaldovich, xin ông thể tất cho, - người gác cửa đỏ tía mặt nói, - tôi có thể làm được gì ạ ? Tự tôi cũng hiểu rằng ngoài hiên đang có các bà, các cô ngồi…
- Ở đây chẳng liên quan gì đến các bà, các cô cả. Các bà, các cô thì thế nào cũng xong, - tên cướp biển đáp, mắt nhìn như thiêu rụi người gác cửa, - còn với công an thì không xong được ! Người mặc quần lót chỉ có thể đi ngoài phố Moskva trong một trường hợp là bị công an giải đi, và cũng chỉ đến có một nơi duy nhất là đồn công an ! Còn ông, làm gác cửa thì phải biết là khi trông thấy một người như vậy thì phải lập tức huýt còi, không được chậm giây nào. Ông nghe thấy chưa ?
Người gác cổng đờ đẩn nghe ngoài hiên có tiếng la hét nhộn nhạo, tiếng bát đĩa rơi và tiếng phụ nữ kêu.
- Biết phải làm gì với ông bây giờ ? – Tên hải tặc hỏi.
Da trên mặt người gác cửa đổi sang màu của người sốt phát ban, còn mắt thì như bị chết cứng đờ đẩn. Ông cảm thấy như mái tóc đen, bây giờ được chảy rẽ ngôi, lại bọc trong lớp lụa đỏ rực như lửa. Áo đuôi tôm và áo sơ mi trong ngực biến mất, và từ sau thắt lưng da hiện ra chuôi một khẩu súng ngắn. Người gác cửa hình dung ra cảnh mình bị treo cổ trên trục ngang của cột buồm mũi thuyền. Tự mắt mình, ông nhìn thấy chiếc lưỡi thè lè ra của chính mình và mái đầu không còn sinh khí gục thõng xuống một bên vai, thậm chí ông còn nghe cả tiếng nước vỗ xuống mạn thuyền. Đầu gối của người gác cửa đã khuỵu xuống. Nhưng vừa lúc đó, tên cướp biển đem lòng thương hại ông và tắt đi ánh nhìn sắc nhọn của mình.
- Coi chừng đấy, Nikolai ! Đây là lần cuối cùng. Chúng tôi không cần những người gác cửa vô tích sự như vậy trong tiệm ăn đâu. Ông hãy đến nhà thờ xin làm gác cổng thì hơn. – Nói xong, tay thuyền trưởng hạ lệnh ngắn gọn, rõ ràng, chính xác : - Gọi Pantalei ở quầy căngtin lên đây. Mời công an đến. Lập biên bản, chuẩn bị xe. Đưa đến bệnh viện tâm thần. - Rồi thêm: - Huýt còi lên !
Mười lăm phút sau, đám thính giả vô cùng kinh ngạc không chỉ ở tại tiệm ăn, mà cả ở ngoài đại lộ lẫn trong các cửa sổ của những ngôi nhà vây quanh khu vườn của tiệm ăn, đều thấy từ trong cổng nhà Griboedov năm người – Pantelei, người gác cửa, một công an, một nhân viên phục vụ tiệm ăn và nhà thơ Riukhin – khiêng ra một người trẻ tuổi quấn trong những chiếc khăn trông hệt như một con búp bê; anh ta, nước mắt chảy ròng ròng, vừa cố tìm cách nhổ nước bọt trúng vào mặt Riukhin, vừa thổn thức gào lên:
- Đồ đểu ! Đồ đểu này !
Tài xế chiếc xe tải quay máy với vẻ mặt dữ tợn. Bên cạnh, một tay xà ích thúc ngựa, quất sợi dây cương màu tím nhạt lên thân con vật, hét :
- Hỏa tốc đây ! Chở người đến bệnh viện tâm thần đây !
Xung quanh, đám đông ồn ào bàn tán về sự kiện chưa từng thấy này; tóm lại, một cảnh om sòm, xấu xa, tởm lợm, hấp dẫn, hèn hạ, nó chỉ kết thúc khi chiếc xe tải đã chở nhà thơ Ivan Nikolaievich bất hạnh cùng Riukhin, Pantelei và người công an rời cổng nhà Griboedov đi khuất.
----------------------
CHÚ THÍCH
(1) A naturen: thứ thiệt, nguyên chất ( Phiên âm tiếng Pháp.)
(2) Ô rơvoa : tạm biệt (PÂTP).
(3) bazdo: rối loạn tuyến giáp trạng.
(4) Chỉ chứng suy nhược tâm thần do nghiện rượu.