Iii. Những điều kiện cần biết khi luyện khí công
III. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN BIẾT KHI LUYỆN KHÍ CÔNG
A. QUÁ TRÌNH LUYỆN TẬP CỤ THỂ
1. Hỏi: Như vậy một quá trình luyện khí công thực tế như thế nào?
Đáp: Như chúng ta đã biết, quá trình cơ bản của luyện khí công là tự chữa bệnh – dưỡng sinh – nâng cao khả năng. Đó là quá trình không có thể đảo lộn nhưng cũng có thể kết hợp, pha trộn chút ít để luyện nhanh.
Trong quá trình tự chữa bệnh, khi gặp một căn bệnh có ảnh hưởng lớn tới sức khỏe thì không nên luyện nâng cao mà nên luyện tự chữa bệnh lẫn với dưỡng sinh. Về thực chất, dưỡng sinh được dùng làm nền cho quá trình luyện tự chữa bệnh và nâng cao, mặc dù vẫn phải có quá trình dưỡng sinh thật sự.
Trong quá trình dưỡng sinh, lúc đó đã không có những biến động lớn trong cơ thể. Ý nghĩa của quá trình này, như ta đã biết là ổn định cơ thể, phòng bệnh và chuẩn bị luyện nâng cao rồi đến luyện công phu. Mục đích chính của quá trình này là cân bằng và điều hòa các khí.
Trong quá trình nâng cao là đi vào các bí pháp khí công, nâng cao mức sinh học. Quá trình này vẫn lấy dưỡng sinh làm nền để đảm bảo sự ổn định cơ thể, tạo điều kiện nâng cao mức sinh học.
Như vậy ta có công thức:
Quá trình tự chữa bệnh = PP tự chữa bệnh + PP dưỡng sinh
Quá trình dưỡng sinh = Các PP dưỡng sinh
Quá trình nâng cao = PP nâng cao + PP dưỡng sinh
Ngay quá trình luyện công phu tiếp theo cũng có công thức:
Quá trình công phu = PP công phu + PP nâng cao + PP dưỡng sinh
2. Hỏi: Như vậy các bài tập cụ thể của từng quá trình thế nào?
Đáp: Trong quá trình tự chữa bệnh nên thực hiện các bài sau đây:
1) Vòng vận ngũ khí chữa bệnh với việc chẩn đoán bản thân đang mắc bệnh gì, thì vận vòng đó.
2) Thở - Khí công.
3) Thư giãn, tĩnh dưỡng, tức là bài tập ở thế thư giãn, tĩnh tâm, thở điều hòa.
4) Xoa bóp, giải huyệt chữa bệnh theo dương kinh bị bệnh.
Qua trình này thực hiện hàng ngày theo trình tự sau đây:
1- Xoa bóp, tự giải huyệt (khoảng 10 phút).
2- Thư giãn, tĩnh công (10 phút).
3- Thở khí công (5 phút).
4- Vận chân khí (5 phút).
5- Vận ngũ khí (10 phút).
Tổng cộng tối thiểu 40 phút.
Chia làm hai lần:
- Sáng, trước khi hoạt động.
- Chiều, tối, trước khi ngủ.
Lưu ý: Các hoạt động thường ngày nên tương thích với bệnh tật như sau:
Bệnh
Mắt
nhìn
Mũi
ngửi
Lưỡi
ăn
Tai
nghe
Thông dịch
Màu
Mùi
Vị
Âm
Tâm
Đỏ
Khét
Đắng
Nói
Mồ hôi
Can
Xanh
Hôi
Chua
Hét
Nước mắt
Tỳ
Vàng
Thơm
Ngọt
Ca
Nước bọt
Phế
Trắng
Tanh
Cay
Khóc
Nước mũi
Thận
Đen
Thối
Mặn
Rên
Nước tiểu
Cụ thể nên hoạt động tương thích như sau:
a. Tâm bệnh: tránh ngửi mùi khét, nghe âm nói thường nặng, tắm để thông mồ hôi; ở thể vượng, bệnh thì tránh màu đỏ, kiêng vị đắng; ở thể suy thì hay nhìn màu đỏ, ăn vị đắng.
b. Can bệnh: tránh ngửi mùi hôi, nghe tiếng hét, hay rửa mặt. Can vượng thì tránh màu xanh, không ăn vị chua; Can suy thì hay nhìn màu xanh, ăn vị chua.
c. Tỳ bệnh: hay ngửi mùi thơm, xúc miệng. Tỳ bệnh vượng, tránh màu vàng, không ăn vị ngọt, không nghe tiếng ca. Tỳ bệnh suy, hay nhìn màu vàng, ăn vị ngọt, nghe tiếng ca.
d. Phế bệnh: kiêng mùi tanh, không nghe tiếng khóc hay vuốt mũi, chảy nước mũi. Phế bệnh vượng, không nhìn màu trắng, tránh vị cay, Phế bệnh suy, nên nhìn màu trắng, ăn vị cay.
e. Thận bệnh: kiêng mùi thối, xa tiếng rên, không ăn vị mặn. Thận bệnh vượng, tránh màu đen, uống nhiều nước để thông tiểu, hạ khí. Thận bệnh suy, hay nhìn màu đen, ít uống nước.
Vòng vận chân khí của thời kỳ chữa bệnh kết hợp dưỡng sinh và thở có thể làm đơn giản như sau:
Theo dòng suy nghĩ, chuyển tâm ý theo mạch Nhâm từ mũi (miệng ngậm), hít từ từ cùng nhịp đếm xuống bụng, ngừng lại một thời gian, sau đó chuyển ý ra sau lưng, đếm và thở ra (chuyển ý tới gáy thì thôi, vì đưa lên đầu có thể có hại).
Các bài luyện ngũ khí và chân khí cho chữa bệnh được luyện tăng cường theo thời gian như sau:
- Tâm bệnh: vượng ngày Bính ngày Đinh, suy ngày Giáp ngày Ất và mùa Hạ.
- Can bệnh: vượng ngày Giáp ngày Ất, suy ngày Nhâm ngày Quý và mùa Xuân.
- Tỳ bệnh: vượng ngày Mậu ngày Kỷ, suy ngày Bính ngày Đinh, quanh năm bốn mùa đều được.
- Phế bệnh: vượng ngày Canh ngày Tân, suy ngày Mậu ngày Kỷ và mùa Thu.
- Thận bệnh: vượng ngày Nhâm ngày Quý, suy ngày Canh ngày Tân và mùa Đông.
B. LUYỆN KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
Quá trình luyện khí công dưỡng sinh được thực hiện qua các bài tập sau:
a. Thở - khí công.
b. Vận chân khí.
c. Xoa bóp, kích thích huyệt toàn thân.
d. Thư giãn – Tĩnh công.
Trình tự mỗi buổi tập hàng ngày như sau:
- Xoa bóp, giải huyệt (10 phút).
- Thư giãn, tĩnh công (10 phút).
- Thở - khí công (10 phút).
- Vận chân khí (10 phút).
Luyện vào buổi sáng và tối.
Theo mùa, luyện thêm các bài về ngũ khí:
- Mùa Xuân, chuyên luyện Can khí.
- Mùa Hạ, chuyên luyện Tâm khí.
- Mùa Thu, chuyên luyện Phế khí.
- Mùa Đông, chuyên luyện Thận khí.
- Bốn mùa, cùng luyện với Tỳ khí.
Thêm vào quá trình này là phép dưỡng sinh trong ăn, uống, sinh hoạt, giao tiếp.
C. QUÁ TRÌNH LUYỆN KHÍ CÔNG NÂNG CAO
Quá trình luyện khí công nâng cao thực hiện như sau:
a. Thở - khí công.
b. Vận chân khí (Đan điền công).
c. Nê hoàn công.
d. Càn khôn bát thức.
e. Dịch khí công.
Luyện hàng ngày như sau:
- Thư giãn, xoa bóp (5 phút).
- Thở – khí công.
- Đan điền công: ban ngày. Nê hoàn công: ban đêm.
- Dịch khí công hoặc Càn khôn bát thức.
Lưu ý: Sau khi tập, phải tĩnh công rồi mới nghỉ.
- Không luyện Dịch khí công và Càn khôn bát thức cùng lúc. Mỗi đợt tập cho Dịch khí công thì chuyên luyện Dịch khí công, còn Càn khôn bát thức thì luyện đợt khác và xen lẫn là khí công dưỡng sinh.
1. Hỏi: Xin cho biết thêm về các phương pháp bổ trợ
Đáp: Phương pháp bổ trợ có nhiều, nhưng tự bản thân nên lựa chọn, sự lựa chọn dựa trên cơ sở các pháp sau:
- Án ma pháp: kỹ thuật xoa bóp theo huyệt;
- Bát đoạn cẩm: kỹ thuật thở kèm động tác;
- Thập bát La hán quyền;
- Thái cực quyền;
- Thiết tuyến quyền;
- Dịch cân kinh.
Các pháp này nên áp dụng từ từ và có chọn lọc. Rất tiếc, các sách viết đúng về vấn đề này, hiện tại chưa có.
Ngoài các pháp bổ trợ trên, ta có thể dùng thuốc, nhưng cũng hạn chế.
2. Hỏi: Với việc luyện tập tự cá nhân, theo sách vở, học theo môn phái và học với thầy thế nào?
Đáp: Đây là một vấn đề khó, trên thực tế muốn đạt được kết quả tốt phải kết hợp ba loại hình này, vì:
- Luyện cá nhân: sự rèn luyện chủ yếu, tự bản thân mình thấy mình cần gì là luyện hướng đó, đây chính là quá trình tự hóa thân mà đạt kết quả.
- Luyện theo sách vở: là tìm hiểu một cách hệ thống lý thuyết và thực hành, đồng thời tìm hiểu kinh nghiệm qua sách vở, để áp dụng vào quá trình tự tập. Ở đây nên kết hợp một nhóm người để tiện việc khảo cứu, tìm chân lý và bổ túc cho nhau.
- Luyện theo thầy và môn phái: là sự luyện rất tốt nhờ kinh nghiệm người đi trước và học có kỷ luật để đạt kết quả cao.
Nhưng hiện tại có một vấn đề rất lớn đặt ra cho ba loại hình này như sau:
- Các sách vở nói về khí công thực thụ rất hiếm, chân lý của khí công bị bàn cãi quá nhiều và bị hiểu lầm;
- Các lý thuyết và bài tập chưa được định hình và phổ cập;
- Hoạt động có tổ chức về khí công chưa hề có, từ các tổ chức mang tính xã hội, cho đến các môn phái; ngay ý nghĩa của khí công là nền tảng của dưỡng sinh và võ thuật cũng chưa được hiểu đúng;
- Những người đã trải qua khí công thực thụ quá ít, và khó tập hợp lại.
Và cuối cùng là cuộc sống hiện tại, xu hướng, cách sống đương thời tỏ ra không phù hợp với khí công. Điều đó không có nghĩa là không nên hay không thể luyện khí công, mà cần phải hiểu rõ nó và tìm ra ý nghĩa của nó đối với bản thân, rồi thu xếp hoàn cảnh, thời gian cho nó một cách thích đáng.
3. Hỏi: Thái độ đối với khí công thế nào là đúng?
Đáp: Thái độ rất quan trọng trong mọi vấn đề. Thái độ quyết định sự thành đạt mục đích. Đối với khí công ta không nên cho nó là cao siêu, cũng không nên hạ thấp coi nó là vô bổ, mất thời gian. Như trên đã nói, mục đích khí công là chữa bệnh, dưỡng sinh và nâng cao khả năng. Người luyện không nhất thiết phải theo toàn bộ các quá trình.
Mục đích của ta là chiến thắng bệnh tật, phòng bệnh, khỏe mạnh sống lâu, có khả năng tốt hơn trong cuộc sống, thì ta chỉ cần luyện khí công chữa bệnh và dưỡng sinh, rồi duy trì khí công dưỡng sinh là đủ. Nếu chúng ta muốn tìm hiểu, muốn có các khả năng dị biệt để sử dụng vào con đường nhân đạo, thì sau khi thay đổi cơ thể bằng khí công tự chữa bệnh và dưỡng sinh, ta nên luyện khí công nâng cao và chuyển sang luyện công phu.
Ngay trong phần đầu của công phu, có nói về công phu thu phát khí giữa con người và thế giới bên ngoài, có ý nghĩa dưỡng sinh cao, cho phép hòa hợp giữa con người và vũ trụ.
Thái độ phụ thuộc vào lòng tin, khi chưa tin ắt có sự nghi ngờ, mà đã nghi ngờ thì không nên luyện vì lợi ít, hại nhiều.
Thái độ nghi ngờ tạo ra trạng thái tâm sinh lý trái với điều kiện luyện khí công, cho nên hãy tạm tin để luyện, khi đã có kết quả thì tin tưởng hoàn toàn, không đổi lòng.
D. NHỮNG BIẾN ĐỘNG TRONG LUYỆN KHÍ CÔNG
1. Hỏi: Xin cho biết, trong khi luyện khí công có biến động cơ thể hay không, những biến động đó thế nào?
Đáp: Luyện khí công là quá trình phục hồi - ổn định – nâng cao cơ thể, cho nên tránh sao được các biến động cơ thể.
Các biến động trong quá trình luyện khí công, được chia làm ba loại như sau:
a. Các biến động xấu: cần tránh và có cách xử lý;
b. Các biến động tốt: không nên lo sợ và bình tĩnh;
c. Các biến động xác định mức độ vượt qua: các biến động này vừa xấu, vừa tốt nhưng kết cục là tốt, xác định mức độ vượt qua.
Các biến động này trong cơ thể thể hiện:
- Biến động nội tạng của các cơ quan nội tạng;
- Biến động khí – huyết của bản chất khí huyết;
- Biến động gân – cốt của hệ gân cốt;
- Biến động năng lực của các khả năng trong cuộc sống hàng ngày;
- Biến động thần kinh là biến động của trung khu thần kinh và hệ thần kinh thực vật.
2. Hỏi: Xin cho biết từng loại hình cụ thể và cách xử lý
Đáp: Xin được trình bày các biến động này theo hệ thống cơ thể:
a. Biến động cơ quan nội tạng:
- Biến động xấu: các cơ quan nội tạng đột nhiên đau, cảm giác đau tức từng vùng và từng điểm.
- Cách xử lý là nên dừng lại toàn bộ luyện tập, xoa bóp vùng đau, xác định xem đau ở vùng nào thuộc kinh nào, lập tức sử dụng các đường kinh âm (kinh tạng) và đưa khí ra, vì lúc đó là bế tắc khí nơi tạng hoặc dồn quá nhiều khí vào đó, nếu nặng lập tức chuyển sang vận ngũ khí tự chữa bệnh.
- Biến động tốt: các cảm giác nóng ấm khu trú ở nội tạng, các cơ quan nội tạng họat động tốt, nên bình tĩnh tiếp tục luyện.
- Biến động vuợt qua: cảm giác nóng, tê xuất phát từ nội tạng một lúc sau lan truyền theo đường kinh mà hết, điều đó chứng tỏ ngũ khí đã phát, cần tăng cường luyện để chuyển nó đi, lúc này sẽ thấy hoạt động nội tạng tốt hơn mức bình thường.
b. Biến động khí – huyết:
- Biến động xấu: của khí là đau tức các đường kinh của huyết. Nặng của khí là đường kinh tê rần, chân tay bải hoải, ngũ quan hoạt động kém; nặng của huyết là cửu khiếu (hai mắt, hai mũi, hai tai, miệng, đường tiểu, đường đại tiện) rỉ máu. Lúc đó chỉ xoa bóp cơ thể, chuyên luyện chân khí, ở kinh nào vận hành khí kinh đó, không chậm trễ.
- Biến động tốt: của khí là thếy tê dần nhẹ, toàn bộ cơ thể cảm giác nhẹ nhàng; biến động tốt của huyết là cảm thấy nóng ấm cơ thể, cơ thể tràn trề sinh lực.
- Biến động vượt qua: thấy nóng, tê tại các cơ quan tàng khí – huyết, sau đó lan ra các kinh và cơ thể, đi tới đâu có cảm giác đến đó, lập tức tăng cường luyện tập đẩy mạnh tác dụng.
c. Biến động gân – cốt:
- Biến động xấu: ở gân là thấy đau tức bải hoải, nặng là co rút đau đớn; ở cốt là thấy đau nhức, nặng là không cử động được. Ở gân thì day huyệt, vận chân khí tăng Can khí; ở cốt là xoa bóp, vận chân khí tăng Thận khí.
- Biến động tốt: hoạt động thoải mái, linh hoạt hơn, cảm giác nóng, tê trong gân cốt mà không đau.
- Biến động vượt qua: ở cốt là các hiện tượng nóng như thiêu đốt, nhất là ở các khớp; ở gân là cảm giác tê và giật vô thức, nhưng các hoạt động đều rất tốt. Lúc đó tăng cường luyện tập.
Đây là biến động rất hay và nên tận dụng.
Tận dụng được là bước sang thời kỳ mới, không tận dụng là nguy hiểm. Hiện tượng mà người ta hay nói là lửa Tam muội thiêu đốt, chính là hiện tượng này; nếu không chuyên chú tăng cường luyện, thì qua một thời gian ngắn sẽ bại hoại gân cốt mà nguy tính mạng.
d. Biến động thần kinh:
- Biến động xấu: thần kinh trung ương rối loạn, nhẹ là choáng váng, đầu đau nhức, nặng là hôn mê bất tỉnh. Đây chính là hiện tượng “tẩu hỏa nhập ma” do hỏa khí lên đầu đột ngột. Lúc này nên dùng day huyệt, xoa huyệt, luyện kinh mạch âm thuận chiều, hay kinh mạch dương nghịch chiều, vận hành riêng đường Nhâm, ngừng suy nghĩ, bế huyệt Á môn, Đại chùy ở hệ thần kinh thực vật là đau tức các du huyệt trên Bàng quang kinh hai bên cột sống, hoạt động tạng phủ rối loạn.
- Cách xử lý: ở kinh nào là luyện đường âm kinh thuận hay đường dương nghịch chiều, day các huyệt, xoa bóp phủ tạng.
- Biến động tốt: thần kinh sáng suốt, tạng phủ hoạt động tốt, cảm giác trong đầu, lưng tê rần; không có gì sợ, tiếp tục luyện.
- Biến động vượt qua: cảm giác hưng phấn thần kinh, các sinh hoạt đều tăng như ăn nhiều, uống nhiều; tăng cường luyện tập, vận ngũ khí, chân khí cao hơn.
e. Biến động năng lực:
- Biến động xấu: mọi chức năng, năng lực suy nhược, người mệt, bải hoải toàn thân.
Nên tập trung luyện chân khí, an dưỡng sinh hoạt.
- Biến động tốt: mọi năng lực tăng lên, cơ thể tràn trề sinh lực; tiếp tục luyện.
- Biến động vượt qua: các chức năng đột phát, tăng cường luyện tập toàn bộ.
3. Hỏi: Như vậy làm thế nào để tránh biến động nguy hiểm, đạt được biến động tốt?
Đáp: Muốn như vậy chỉ có cách:
- Luyện tập đúng hướng dẫn của các quá trình;
- Luyện từ từ từng bước, luôn sử dụng các phương pháp phụ trợ;
- Trước và sau luyện luôn có động tác phụ và thủ gián tĩnh công;
- Luyện tập thường xuyên, liên tục trong một đợt; khi kết thúc một đợt, cơ thể phải ở tình trạng tốt;
- Nâng dần các bài tập và cường độ tập, thu xếp thời gian tập nâng cao;
- Luôn liên hệ với người đi trước để hỏi và nhờ xử lý giúp.
4. Hỏi: Các biến động có phải là bệnh không?
Đáp: Các biến động theo xu hướng xấu mà không xử lý là bệnh, để lâu sinh tật, để nặng là chết; các biến động theo xu hướng tốt không phải là bệnh.
Thực tế, các biến động không phải là bệnh, nó chỉ là tiền đề của bệnh từ nguyên nhân khí, nếu xử lý và tăng cường luyện tập thì không sao.
5. Hỏi: Hiện tại có những phương pháp mà nhiều người vì luyện mà mắc bệnh lý là làm sao, cách xử lý?
Đáp: Sở dĩ mắc bệnh khí công là do:
- Tập sai phương pháp;
- Tập gián đoạn;
- Tập vội vàng;
- Tập không đúng lịch trình.
Thông thường, các hiện tượng phổ biến là tập sai. Các phương pháp đúng không bao giờ gây bệnh, các phương pháp sai gây hậu quả xấu, cần chỉnh lý lại. Cách xử lý duy nhất là vận hành ngược lại điều đã làm và tiến hành khí công chữa bệnh ngay, khi còn kịp.
|