Một hôm lão vừa đi ngoài phố vừa giơ cao một cái hộp sắt tây có dán giấy mầu sặc sỡ lên trước mặt mà ngắm nghía. Cái hộp đó lão vừa mua ở cửa hàng ra. Lẽ ra lão phải mua một cái rìu, nhưng không hiểu thể nào lão lại bước vào cửa hàng khác và trông thấy những cái hộp đó. Thế là lão cứ dán mắt vào chúng không rời được nữa, và suốt một tiếng đồng hồ lão cứ luẩn quẩn bên cạnh quầy. Tự dưng lão bỗng thấy thèm ăn cái thứ đựng trong hộp ấy quá, đến nỗi nước miếng cứ ứa ra mồm và đầu thấy quay cuồng. Cô bán hàng người to ngang mặc áo blu trắng bắt đầu liếc xéo lão, thế là lão bắt đầu moi đưa cho cô ta từng đồng hào mà Maxicô đưa cho lão để mua rìu, lão moi từng đồng một vì chỉ sợ trả thừa. Lão hy vọng sẽ còn lại ít tiền, và số tiền thừa có khi cũng đủ để mua một cái rìu không cán, cán lão có thể tự làm lấy. Nhưng cô bán hàng vẻ mặt khó chịu cứ cầm mãi, cầm mãi. Bỗng cô bực mình gắt lên với lão. Thế là Đô Khôcrô hốt hoảng dốc hết cả đống tiền vào lòng bàn tay hồng tham lam của cô ta, rồi đưa ngón tay chỉ vào cái vật lão cần. Lão hy vọng cô ta sẽ đếm và trả lại tiền thừa cho lão. Nhưng cô bán hàng chỉ ném toẹt cái hộp lên quầy trước mặt và gắt gỏng, mặt đỏ gay vì tức giận. Lão hấp tấp bước ra, không hiểu sao người ta lại cáu gắt với lão, và khi đi qua cái cửa có lò xo, lão vấp chân vào cái ngưỡng cửa, cái cửa đập mạnh vào gót chân lão một cái. Lão tưởng như đó là cô bán hàng nhảy qua quầy và cắn vào gót chân lão. Đi hết cửa hàng, Đô Khôcrô rẽ vào một cái ngõ hẻm, giữa hai dãy nhà gỗ dài, mà vào lúc trời nắng gắt thế này, không có ai ra ngồi ngoài chái. Những cái quần áo lót phơi trên dây cứ lặng lẽ khô đi, ở góc một dãy nhà, lão chỉ nhìn thấy một cô bé đang ngồi, đầu gối tròn trĩnh, đang chơi với cái gương và con mèo. Con mèo cứ ngoảnh mõm đi chỗ khác lại bị cô bé gí vào gương, và con mèo ngạc nhiên vểnh tai nhìn bóng của nó trong gương. Con mèo quay lại nhìn Đô Khôcrô, sợ hãi và co rúm người lại, định vùng chạy khỏi tay cô bé, nhưng cô bé ghì chặt nó vào ngực và lại gí sát nó vào gương. Cô bé không buồn để ý ông lão khi lão đi ngang qua cô, về phía trường học.
Bước vào trong sân trường vắng vẻ, Đô Khôcrô ngồi xuống con đường lát xi măng và bắt đầu mở hộp. Lão không có dao, nên dùng một hòn đá nhọn để mở. Lão đập và nắp hộp một cái, rồi cái nữa, mạnh hơn. Sốt ruột lão bắt đầu ghè lung tung vào hộp, cái giấy màu lòe loẹt bị rách dần rồi tuột hẳn, cái vỏ sắt tây bóng nhoáng bị bẹp lỗ chỗ. Cuối cùng cái chỗ hàn trên nắp hộp bị bong ra, nước trong đó chảy ra. Lão ghé miệng vào khe hở và cảm thấy một mùi vị ngòn ngọt, nhờn nhờn mà lão chưa hề được ăn bao giờ. Lão cảm thấy ngon một cách kỳ lạ. Mút hết nước, Đô Khôcrô nậy nắp ra và nhìn thấy ở trong hộp có những miếng cá đều nhau. Lão bắt đầu ăn cá, nhưng không thích lắm. Nhưng dù sao lão cũng ăn hết chỗ cá, và lão muốn liếm chỗ nước còn lại, nhưng lão sợ miếng sắt tây làm đứt lưỡi. Lão bèn giơ cao cái hộp bẹp và đợi cho những giọt nước ngòn ngọt chảy vào mồm lão. Bỗng lão nhìn thấy trên trời một vệt khói trắng dài. Lão nheo mắt quan sát vệt khói lớn dần, cong lại, phình ra ở phía trước y như có phép lạ. Nhưng không có phép lạ nào cả, mà đó chỉ là những cái máy bay, lão biết thế, chúng bay chậm đến nỗi nếu nhìn mãi sẽ mỏi mắt và buồn ngủ. Cứ hễ lúc nào nhìn lên trời và quan sát những con chim sắt bay là lão lại cảm thấy như thế, Đô Khôcrô nghe nói chúng không hề đập cánh và chạy bằng xăng như chiếc xe máy và xe tải.
Ném cái vỏ hộp đi, Đô Khôcrô đứng dậy, lấy tay phủi phủi đít quần rồi thất thểu đi về phía cửa hàng bán rìu. Bước vào cửa hàng, lão dừng lại cạnh cửa và nghiêng ngó xung quanh. Trong gian phòng lớn có rất nhiều thứ, nhưng phần lớn là những thứ lão không cần. Trong góc lão thấy có cả những cái rìu không cán mới tinh màu đen, bôi mỡ, mắc trên dây như xâu cá - nhưng tiền không còn nữa, nên Đô Khôcrô lại quay ra. Điệu nhạc vang lên từ cái thùng sáng loáng, một cô gái áo choàng xanh đang cúi người trên nó, chân choãi dài phía sau gõ gõ theo nhịp. Đô Khôcrô bước ra, thầm rủa mình và rủa cô gái có rất nhiều cái rìu kia nhưng chắc chẳng đời nào và chẳng vì cớ gì chịu biếu không cho lão một cái.
Ba đứa trẻ con chạy ngang qua Đô Khôcrô, tay nắm một dải giấy dài, lão không hiểu nổi lũ trẻ chạy đi đâu và làm gì. Nhưng lão vẫn thấy vui, vì thấy chúng mải chạy theo việc của chúng và không để ý đến lão, không chế giễu hoặc ném đá vào lão. Và lão cứ đi như thế trên đường phố, giữa những ngôi nhà xám, bụi bậm, trên cái phố bụi bậm và đông đúc, lão đi tay không rìu, túi không tiền, chân bước lờ rờ, và lão muốn dừng lại, đứng im một chỗ, vì lão xấu hổ. Nói gì với Maxicô đây ? Anh chàng ốm yếu kia sẽ nghĩ gì ? Có lẽ cái bộ mặt nhợt nhạt vì thuốc lá của anh ta sẽ mỉm cười như mọi khi và không nói gì cả, cứ nằm ngửa xuống cát ẩm, đầu gối lên đôi tay gập vào nhau. Nhưng Maxicô thì có thể nghĩ lão đã đem tiền uống rượu hết, cái khổ nhất là ở chỗ đó. Làm sao nói, giải thích cho cô ấy hiểu rằng lão, một lão già, tự nhiên bỗng thèm ăn cái thứ lão chưa được ăn bao giờ trong cái hộp xinh xắn ấy ?
Cái rìu cũ của lão đâu, Đô Khôcrô ? Mất rồi, lão chôn nó dưới cát, và bây giờ không tìm thấy nữa. (Ông già Yu tặng lão cái rìu ấy). Thế sao lão lại chôn nó vào trong cát ? Vì lão sợ con người lạ mặt kia. Hóa ra mọi tội lỗi là do người lạ mặt ấy chứ không phải lão. Nhưng anh ta ở đâu đến nhỉ ? Có lẽ ở dưới biển chui lên, mà cũng có khi ở trên trời rơi xuống. Hay là ở trên núi xuống ? Mà ai gọi hắn ta đến nhỉ ? Chẳng ai gọi cả, tự nhiên hắn đến Camarôn.
*****
Người đó đang đứng trên bờ, cạnh bãi nước cạn, nơi có một đống sà lan và xuồng hỏng. Người anh ta cao, cân đối, đầu để trần, chân đi đất, quần xắn ống để lộ đôi cẳng chân xanh xao khẳng khiu đầy lông lá. Anh ta mỉm cười, tay cầm chiếc mũ lưỡi trai đựng đầy những con cầu gai. Những con cầu gai đã bị người đó lấy đá đập vỡ rồi mút hết trứng vàng ở trong. Anh ta ngồi dưới cái thành rách nát của chiếc xuồng hỏng và nhìn Đô Khôcrô đang nhặt ốc biển.
Bấy giờ đã xế trưa, đến chiều Đô Khôcrô nhìn thấy người đó cạnh nhà mình - anh ta nằm co người trên cát như con chó bị lạnh. Ông lão đi lên nũi hái cỏ, và lúc về nhà thấy người đó vẫn nằm trên cát. Đô Khôcrô ăn xong bữa chiều nguội, vào nằm ngủ trong bóng tối. Lão ngủ trên ba tấm gỗ kê trên một cái hòm rỗng lớn và một cái mô tơ to kềnh không biết quẳng trong túp nhà này từ bao giờ, Đô Khôcrô đắp bằng cái chăn bông Maxicô cho lão, nên thân già của lão bớt lạnh.
Biển vẫn cuộn sóng ầm ầm, mặt đất hơi rung chuyển, và Đô Khôcrô mau chóng quên đi số tiền bị mất.
Ban đêm lão nằm mơ thấy người lạ mặt hóa thành con chó chạy khắp quanh nhà, rít lên ăng ẳng, rồi lấy chân cào cào đất dưới gốc cây để chui vào trong, Đô Khôcrô giận dữ quát lên, con chó bỏ chạy. Sáng dậy khi mở cửa, lão nhìn thấy có người nằm ngay ngưỡng cửa, Đô Khôcrô lấy khóa khóa cửa lại, giấu chìa vào chỗ kín rồi đi hái rong.
Hồi đêm biển động, nên có rất nhiều rong biển bị dạt lên bờ - những sợi rong dài óng ánh nằm ngổn ngang trên cát, cuộn vào nhau thành từng bó. Đô Khôcrô xếp chúng lại thành một bó vừa ôm, lấy dây bó lại rồi nhấc lên lưng, quay về nhà. Lão thấy cửa nhà bị mở và trong nhà Maxicô đang dọn dẹp. Người lạ mặt nằm trên chiếc giường của lão, đắp chăn.
-Bác Đô Khôcrô ơi, người này đang bị ốm này ! - Maxicô nói, có vẻ như ngạc nhiên.
-Ốm thì ốm chứ sao - Đô Khôcrô nói, đoạn hất cái bó trên vai xuống ngưỡng cửa.
-Xin lỗi bác - Maxicô bảo - Để tôi mang cho bác cái chăn khác.
-Hôm nay nhiều rong quá - ông lão lẩm bẩm làm như không nghe thấy Maxicô, đoạn quay người cầm sợi dây bước ra khỏi nhà - lão lại đi ra biển nhặt rong.
Còn Maxicô tìm thấy trong khu đổ nát của thị trấn một cái khung giường sắt hãy còn nguyên cả lưới và cõng trên vai mang về nhà. Những thanh ván lát sàn đã bị ai tháo đi, chỉ còn lại những gióng ngang đã gần mọt hết, Maxicô đặt cái khung giường lên hai tấm gióng đó, rồi bắt đầu thu xếp cho ông lão một chỗ nằm. Chị lấy gậy gõ chan chát vào lưới sắt, để đất và sắt gỉ bong ra, rồi lại quay ra khu đổ nát và kéo lê trên cát về hai cái nệm rơm cũ người ta dùng để đậy cá muối. Ném tấm nệm xuống cái mạng lò xo, Maxicô trải lên trên một mảnh giấy dầu, gập bốn mép lại. Chị đặt cái giường xa cửa để ông lão khỏi bị gió lùa. Vừa tất bật làm, miệng vừa khe khẽ hát. Maxicô vẫn không quên thỉnh thoảng liếc về phía người lạ xem anh ta đã tỉnh chưa. Nhưng anh ta vẫn nằm im, thở đều, hai mi mắt xanh xao và hơi sưng khép lại. Maxicô quyết định chưa kể cho ai biết về người lạ mặt, chị đã có ý đồ riêng của mình.
Buổi chiều chị là từ thị trấn đến, mang theo chăn, nước cháo loãng, một con gà luộc và một cây nến. Lúc đó người lạ mặt đã tỉnh và nhìn chị mỉm cười.
-Ăn đi - Maxicô đặt hai cái bát trước mặt hai người bảo. Nhưng người lạ mặt chả buồn nhìn đến bữa ăn, anh ta chỉ nhìn chị cười.
-Chị tên là gì ? - anh ta khẽ hỏi chị bằng cái giọng hơi khàn khàn nhưng dễ nghe.
-Anh ăn đi, ăn đi - Maxicô quay đi chỗ khác, nhắc lại.
-Tôi không ăn được - Người lạ mặt vẫn cười, cái nụ cười bất tận.
-Ngày mai tôi sẽ gọi bác sĩ đến - Maxicô bảo.
-Không cần đâu ! Lạy chúa, không cần ! - Người lạ mặt bỗng hốt hoảng, nụ cười của anh ta có vẻ sợ hãi.
-Sao lại không cần ? Thế không phải anh đang ốm sao ? - Maxicô hỏi.
-Không cần bác sĩ. Không cần ai cả. Tôi chỉ bị cảm thường thôi mà. Bây giờ hết rồi. Tôi van chị đấy ! Chị hiểu không ?
-Tất nhiên là hiểu chứ ! - Maxicô có vẻ hơi bực.
-Thế thì tốt. Tôi không cần ai cả. Sáng mai là tôi dậy được rồi - anh ta đã bình tĩnh lại và lại hỏi : Nhưng tên chị là gì cơ ?
-Masa - Maxicô đáp chỏng lỏn, mỉm cười rồi quay sang Đô Khôcrô. Lão đang ngồi trên đất, dựa lưng vào chiếc lò sưởi đã tắt, phía trên có một ngọn nến vàng đang lập lòe, kêu lách cách - Bác ơi, bác đừng kể cho ai về con người này nhé - chị nói với lão.
Đô Khôcrô lặng thinh, lão nghĩ : Vậy thì làm sao bây giờ ?
-Này ! - Maxicô bỗng vui vẻ kêu lên - Anh ăn đi, không tôi gọi bác sĩ đấy.
Anh chàng người Nga bệnh tật ấy trông đẹp trai, mà Maxicô lại không thích những người đàn ông đẹp. Chị cũng có một anh chàng đẹp trai như thế - đẹp nhất thị trấn - trước đây thì có, nhưng bây giờ thì không - chị ở một mình với con gái. Bây giờ Maxicô chỉ thích những người đàn ông xấu trai thôi, vì họ bao giờ cũng chung thủy với vợ, không bỏ chạy theo những cái váy khác ngay sau khi vừa cưới nhau một năm. Người chồng xấu trai không bao giờ lên mặt kiêu căng, anh ta không có ảo tưởng rằng bất cứ người con gái nào vẻ vẩy gấu váy cũng đều chỉ cốt làm dáng với anh ta. Và dĩ nhiên, một người chồng như thế sẽ không bao giờ bị đi tù vì tội cầm dao đâm chém nhau chỉ vì một đứa con gái hư hỏng nào đó, trong khi vợ có mang nằm nhà và nôn thốc nôn tháo.
-Cứ để anh ấy nằm đây cho đến khi khỏi hẳn - Maxicô bảo lão.
Từ hôm đó ngày nào Maxicô cũng đến thăm họ, mang theo rất nhiều thức ăn. Nhưng con người bệnh tật ấy hầu như chẳng ăn gì, thành thử bao nhiêu thức ăn ông lão được chén cả. Được một tuần Đô Khôcrô nhận thấy lão béo ra, thắt lưng quần phải cài rộng ra một lỗ, còn người ốm thì vẫn nằm bẹp trong chăn và nhìn lên trần nhà.
Nhưng một hôm Đô Khôcrô ở trên núi về, vác trên vai một bao đầy thứ cỏ mà Maxicô gọi là cỏ "chân chó" và nhìn thấy cái rìu của mình nằm cạnh cửa, đã được mài sắc, lưỡi sáng loáng. Còn người lạ mặt thì không có nhà. Đô Khôcrô nghĩ bụng : mài rìu để làm gì nhỉ ? Chắc người lạ mặt đã khỏi rồi đây. Lão chưa bao giờ gặp người nào khó hiểu như hắn ta. Hay là hắn bị điên ? Suốt hai tuần hắn không nói một câu, chỉ nhìn và mỉm cười. Lúc đầu lão rất khó chịu. "Có gì mà nhìn tôi ? - Đô Khôcrô nghĩ - Nào tôi có treo ảnh trên người đâu mà nhìn ?" Nhưng sau nụ cười của anh ta bắt đầu làm lão sợ, thậm chí trong mơ lão cũng sợ. Tối đến, cứ hễ Đô Khôcrô đặt lưng lên chiếc giường kêu cót két, thì trong bóng tối, trên đầu lão, lại xuất hiện khuôn mặt xanh tái và cái nụ cười bất động ấy. Và giả sử như Đô Khôcrô có tiến lại gần người đó và châm diêm lên, thì chắc lão cũng vẫn nhìn thấy đôi mắt ấy và nụ cười ấy. Trong mơ ông lão như nhìn thấy một cái đầm lầy mà lão phải đi qua, nhưng lão không dám đi vì từ cái vết nứt đen ngòm kia chắc chắn sẽ có một con rắn dài hiện lên, và phải có đủ sức bấm những ngón chân vào nhau để con rắn không nhìn thấy lão. Không hiểu sao lão thấy con rắn đó chính là nụ cười méo mó của người lạ mặt kia. Một đêm đang ngủ, lão bỗng choàng tỉnh, như có ai thích vào ngực lão, và lão nhìn thấy : người lạ mặt đang ngồi bên cạnh giường lão, miệng mỉm cười, mắt nhìn đi đâu đó, cửa thì mở, và qua khe cửa có thể thấy rõ vô vàn các vì sao trắng rắc khắp trời. Thế là suốt từ đó đến sáng lão không sao chợp mắt được nữa, cứ nằm theo dõi xem con người kỳ dị kia sẽ làm gì. Và bây giờ lại cái rìu kia nữa, hắn đã mài sắc như lưỡi dao cạo. Hay là hắn biết Đô Khôcrô có nhiều tiền ? Nhưng tiền lão đã bị người ta ăn cắp sạch rồi còn đâu. Nhưng làm thế nào nói cho hắn biết như vậy, và biết hắn có tin không ?
Trước khi trời tối ông lão cứ đi loanh quanh cạnh chiếc rìu, khẽ sờ vào lưỡi dao sáng loáng của nó, và khi thoáng thấy bóng người kia về, lão vội giấu ngay rìu vào lò sưởi. Đến nửa đêm Đô Khôcrô vẫn nằm thao thức, và lão chợt nghĩ rằng người lạ mặt có thể đưa tay sờ soạng chiếc lò sưởi và tìm thấy chiếc rìu. Thế là lão lần đến lò sưởi, rón rén lôi cái rìu ra, cố không để nó và vào miệng lò, rồi ghì chặt cái khối sắt lạnh vào ngực, lẻn ra khỏi nhà : lão chạy đến một nơi thật xa và chôn rìu vào trong cát. Làm xong việc ấy lão mới thấy buồn ngủ.
Sáng hôm sau Maxicô đến, và cẩn phải đốt lò, bắc chảo gang lên đun nước sôi để chần chỗ rong hái được. Lúc đó mọi người mới nhớ đến rìu. Đô Khôcrô đào tung khắp quanh nhà mà không thấy rìu đâu. Maxicô bèn đưa tiền sai lão vào phố mua cái rìu mới. Người lạ mặt thì bò ra khỏi nhà, ngồi xuống bờ tường và nhìn lão. Có lẽ anh ta đã rõ mọi chuyện nên mỉm cười và không nói gì cả.
-Sống rồi chứ ? - Maxicô hỏi người đó.
-Trời hôm nay đẹp quá, Masa ạ - anh ta đáp rồi bỗng vươn vai ngáp một cái ngon lành.
-Đi ngủ đi ! - Maxicô kêu lên và bật cười.
Còn Đô Khôcrô thì thất thểu đi vào thị trấn, từ nhà đến đó đi mất gần một tiếng dọc theo bờ biển, rồi lại phải qua cái thị trấn chạy sâu vào đảo gần hai cây số nữa. Nhưng lúc quay về tay không, thì lão lại muốn cho đoạn đường dài ra gấp đôi, Đô Khôcrô vừa đi vừa nhìn chăm chăm xuống chân - may ra có cái rìu hỏng nào vứt đi chăng ? Chao, có biết bao nhiêu thứ trên mặt đất ! Đủ các thứ thủy tinh vỡ, lấp lánh như những mảnh mặt trời, một tờ báo rách có nhiều chữ to, chữ nhỏ, một mảnh ván thùng dính đất khô, một cái chân gà toàn móng, những cái vũng nước cũ có trời xanh và mây trắng ở dưới đáy, những chiếc giày hỏng, tấm ván lợp gãy nát, một cái lông lợn cạnh hàng rào, rồi lại cả những chiếc xe, và những vết chân người không biết chạy đi đâu.
Đến gần chợ, Đô Khôcrô va đầu vào con ngựa đang ngủ - con ngựa đứng chui nửa người vào cái khe giữa hai hàng rào, chắn cả con đường nhỏ chạy men theo phố. Nhặt cái mũ bị rơi xuống đất lên, Đô Khôcrô cáu tiết đấm vào sườn con ngựa một cái, đau điếng cả tay. Con vật lười biếng nhích lên trước ba bốn bước, rồi lại đứng ngủ, một chân sau chùng xuống. Ông lão lặng lẽ bước đi tiếp, vừa đi vừa vẩy vẩy bàn tay đau.
-Ê, Khôcrô ! - Lão bỗng nghe ai gọi tên mình.
Quay về phía có tiếng gọi, lão nhìn thấy anh thợ rừng Trêsan, anh chàng Trêsan trẻ có cái miệng đầy răng sắt. Anh ta ngồi xổm ngay bên đường dưới hàng rào nhà và không làm gì cả. Đô Khôcrô bỗng nhớ lại người ta đã cắt chỗ thoát vị cho Trêsan, và mùa hè đó anh ta không vào rừng được. Có khi anh ta thừa cái rìu không biết chừng !
-Đi đâu đấy, Khôcrô ? - Trêsan hỏi, mắt nheo lại vì nắng, ngắm từ đầu đến chân ông lão.
-Trêsan, nếu anh có cái rìu cũ nào không dùng đến … gãy cán rồi cũng được … anh cho tôi nhé ! - Đô Khôcrô đưa ống tay áo lau mồ hôi từ cằm chảy xuống, hỏi.
-Chờ tôi mang ra cho - Trêsan đáp ngay, rồi đứng dậy đi về phía ngôi nhà, nơi anh ta sống một mình, không vợ.
-Đô Khôcrô nhoài người qua cái hàng rào thấp : rau xanh phủ kín các luống đất, lá dưa chuột thủng lỗ chỗ trải rộng như một tấm thảm xanh, những qua dưa chuột nhọn đầu nhô lên khỏi đám lá. Ông lão thở dài thán phục : anh chàng biết làm ăn lắm !
Trong đám thợ rừng Trêsan là người trẻ nhất, anh ta hãy còn nhiều say mê khát vọng và lúc nào cũng băn khoăn lo lắng chuyện tìm vợ. Nhưng trong chuyện vợ con anh ta không gặp may, anh đã có khá nhiều vợ, nhưng cô vợ nào cũng chỉ cưới được ít lâu là bỏ đi. Trêsan sạt nghiệp vì các lễ cưới. Những người thợ rừng nói đùa, anh còn trẻ quá nên chưa lập được chiến công đàn ông nào. Trước hết phải cắt cái thoát vị đã, họ khuyên anh chàng như vậy. "Bây giờ thì cẩn thận đấy, các bà các cô chưa chồng ạ !" - ông Pagê béo ị gào lên như vậy, khi cuối cùng Trêsan chịu để người ta cắt đi cái dị vật của mình.
Trêsan đưa cho ông lão cái rìu còn tốt, đóng rất chắc và một cái cán dài. Cái cán gỗ được cạo bằng mảnh thủy tinh cứ nhẵn bóng lên.
-Cầm lấy, Đô Khôcrô, cái này thừa đấy - Trêsan một tay đưa chiếc rìu qua hàng rào cho lão, còn tay kia thì ôm cái chỗ hãy còn đau.
-Trêsan … anh đã cứu tôi - Đô Khôcrô toét miệng cười cám ơn, vừa giơ cái rìu ngắm nghía bốn phía - Thôi bây giờ tôi đi nhé, Trêsan !
-Đi đâu mà vội thế Khôcrô ? Hay có ma-đam nào rồi ? - Trêsan cười ha hả, nhe mấy cái răng sắt to ra.
-Maxicô đang đợi … Chúng tôi phải nấu rong. Hôm nào tôi đến giúp anh … Khoai tây anh đã vun gốc chưa ?
-Chà, ở đây một người cũng chẳng có việc gì làm nữa là - Trêsan xua xua tay rồi lại thận trọng ngồi xuống cạnh hàng rào. Anh ta buồn vì không có việc làm
Và Đô Khôcrô lại tiếp tục đi, tay phải cầm cái cán rìu, tay trái đút vào đằng sau cạp quần. Vậy là thần thánh vẫn thương xót và không quên lão. Còn nếu như lão có phải sống độc thân và chưa bao giờ có nhà cửa đoàng hoàng, thức ăn thừa thãi, quần áo lành lặn, thì đó đâu phải vì ác tâm của thần thánh. Vì họ biết làm gì khi số phận của mỗi người đã được ghi trong cuốn sổ thiên tào. Và trong cuốn sổ ấy, các thần cứ nhắm mắt lại mà viết, chứ bản thân cũng đâu có biết viết gì. Đó là bàn tay nó tự viết. Và ví thử như cả tám trăm điều bất hạnh đều rơi vào anh, thì như thể cũng chưa hẳn anh đã là người cuối cùng trước phiên tòa thượng đế. Điều may mắn lúc nào cũng có thể gặp ở mỗi bước đi trước mặt ! Maxicô còn trẻ nên cô ta cứ tự coi mình là kẻ bất hạnh, chứ đã biết cái tương lai ghi trong sổ định mệnh của cô ta nó ra sao đâu.