Hôm đó Maxico đến sớm - mọi người đang bắt đầu kéo ra bãi tắm. Chị rút trong túi ra cái khăn bông sạch và cái gương, rồi đến cái cạo râu và cái kéo gói chung trong một tờ giấy, và đặt tất cả những thứ đó cạnh người đang ngồi trên giường.
-Này, cầm lấy, cạo râu đi. Sao cứ để râu như ông già thế ? - chị vừa nói, vừa chỉ vào bộ râu bờm xờm của anh ta. – Còn bác Đô Khôcrô, bác cởi áo ra tôi giặt cho – Và chị đặt lên gương một bánh xà phòng màu vàng - thế là bánh xà phòng lại nằm trên bánh xà phòng.
-Tôi sắp đi rồi - chị nói tiếp và mỉm cười. Phải, các người ạ, chị sắp đi, đi đến chỗ chồng. Và mặc cho các cô bạn gái trong xưởng may muốn nói gì thì nói, chị không nghe ai cả. Chị vừa nhận được một lá thư, cuối cùng thư đã đến ! Chị tổ trưởng không chịu cho chị thôi việc ngay - cứ tạm nghỉ phép và đi đến đó đã, phải biết chắc chắn là anh ta đang đợi, thì hẵng xin thôi việc, nếu đến lúc đó chị vẫn còn giữ cái ý định ngu ngốc ấy. „Không, Marina Xecgâyepna ạ, chị cứ cho thôi việc đi, đằng nào tôi cũng sẽ đi mà ...“
„Maxico yêu quý, người vợ hết sức đáng kính của anh - bức thư nói, bằng cái giọng của chồng chị, và nghe giọng nói ấy có thể hiểu được rằng người chồng đẹp trai có đôi lông mày đen rậm của chị đã thấm mùi khổ cực – Em yêu quý ... Cứ sáng sáng, tiếng réo buồn tẻ của hồi chuông báo hiệu lại đánh thức bọn anh dậy, và anh tỉnh dậy giữa gian nhà lạnh lẽo, và không biết là sương rơi xuống chiếc gối nhà tù của anh, hay là nước mắt thấm ướt nó – những giọt nước mắt ân hận, vợ Maxico đáng quý của anh ạ ! Bởi ngay trong lúc ngủ anh vẫn không thôi dằn vặt nguyền rủa mình đã hành động một cách hèn hạ để gây cho em và con bao nỗi đau khổ - chính vì thế mà anh không viết thư, anh không dám viết. Anh đã bị trừng phạt rất xứng đáng và không hề thương xót bản thân mình chút nào – anh chỉ thương em phải đau khổ tủi nhục và phải một mình nuôi con gái của chúng ta, không có sự giúp đỡ của đàn ông ... Mà biết đâu, Maxico đã gặp người khác xứng đáng hơn, và bây giờ đang nghe những lời khuyên của người ấy ?“. Và trong giọng nói của người chồng nghe thấy cả nỗi lo lắng, sự giận dỗi ngấm ngầm và lòng ghen tuông, ôi lòng ghen tuông. Những mùa đông lạnh thấu xương, còn mùa hè thì mồ hôi chảy mờ cả mắt, ruồi muỗi đốt khắp người khi làm việc trong rừng. Bữa ăn của người tù lại kham khổ, bánh mỳ thì bao giờ cũng khô cứng, nhưng không phải cái đói hành hạ anh ta, cũng không phải cái giá buốt hay nắng cháy, mà là nỗi ân hận muộn mằn cắn rứt, nỗi ân hận mà có lẽ giờ đây chẳng cần đến nữa ... Đội lính áp tải canh phòng họ rất nghiêm ngặt, suốt đêm ngày trên các chòi cao lúc nào cũng có lính gác cầm súng đứng, ngoài hàng rào dây thép gai thì một đàn chó dữ chạy đi chạy lại, tiếng xích kêu loảng xoảng. Khi đoàn người tù xếp hàng năm đi qua xóm thợ - những người phụ nữ buồn bã nhìn theo họ, nhưng trong số đó không có cặp mắt quen thuộc thân thiết mà chỉ chúng mới có thể an ủi được anh. Anh còn sáu năm nữa, và anh không biết sẽ chịu đựng sáu năm đó ra sao ... Nhưng chị thì chị biết cách sống sáu năm ấy ! Ngày ngày, mùa đông cũng như mùa hè, mưa cũng như tuyết, chị sẽ đứng bên cạnh con đường nơi họ bị giải đi qua. Chị sẽ đứng và nhìn anh, hôm nào trời đẹp chị sẽ dẫn cả con gái theo. Chị mặc cái váy đẹp nhất và đứa con gái chị cũng cho ăn mặc chỉnh tề - để người bố nhìn thấy vợ con của anh ta sống ra sao. Chị sẽ xin vào làm thợ may trong cái thị trấn đó, và nếu không có công việc này thì chị sẽ làm bất cứ việc gì ... Chị sẽ bán hết đồ đạc và ra đi, chỉ mang theo chiếc đàn accoocđêông. Họ sẽ không bao giờ quay lại thị trấn này nữa – ngày nào anh ấy mãn hạn tù, cả ba người sẽ lại đi đến một nơi thật xa. Và ở đó, nơi xa cách tất cả những ai biết nỗi đau khổ tủi nhục của họ, họ sẽ ở lại vĩnh viễn và tạo nên câu chuyện cổ tích tốt đẹp của mình. Kỷ niệm của tất cả những năm tháng đáng buồn kia sẽ là cây đàn phong cầm bóng nhoáng, tiếng rất hay của anh ta, cây đàn mà cả đứa con gái sau này cũng được bố dạy chơi ; con bé có cái tai rất tinh, ngay bây giờ nó đã biết hát nhiều bài rất duyên dáng khiến mọi người phải kinh ngạc.
Người khách lạ bỗng cười vang, kéo cái gương lại sát mặt.
-Masenca này, có lẽ tôi không cạo râu đâu – anh ta nói – Vì đằng nào chị cũng sắp đi rồi.
-Sao lại thế ?! – Maxico có vẻ bực – Anh không biết ngượng sao ?
-Không, không, tôi thích thế - người đó vẫn bướng bỉnh – tôi chỉ sửa qua một chút thôi – Nói rồi anh ta khua kéo lách cách xung quanh mặt, mắt liếc vào gương, xén bớt bộ râu. - Thế nào, trông có được không ? – sau đó anh hỏi, đầu đưa sang hai bên trước mặt chị, mỉm cười.
-Trông như tướng cướp ấy, - Maxico bật cười.
Chị mở cúc áo, cởi chiếc váy trên người ra, chỉ còn bộ áo tắm màu xanh trên người, rồi nhìn quanh tìm chỗ treo váy, và chị treo nó lên cái đinh trên tường ngay gần cửa.
Sau khi Đô Khôcrô loay hoay bên cạnh chiếc lò sưởi một lúc mới cởi xong áo đưa cho chị, chị quay sang bảo người kia :
-Anh cũng cởi áo ra đưa cho tôi.
Và bây giờ cả hai, ông lão và người lạ mặt, đang ngồi trên bờ tường, giơ vai ra sưởi nắng, tay tì lên những tấm ván ấm, và bên cạnh con suối bắt nguồn từ chỗ thác nước và đổ vào biển chỗ gần mũi cát, thấp thoáng cái đầu đen đen và đôi cánh tay của Maxico. Bầu trời xanh cùng mấy đám mây trắng trên đầu họ đang lặng lẽ quay tròn. Trên mặt biển, ngày hôm đó có màu tối đục, một con hải âu đang bay, và nó có vẻ là một sinh vật quan trọng trong cái thế giới hoang vắng này, bởi vì ngoài nó ra, trên nền trời không có con vật nào khác. Người lạ mặt cúi cái cằm đầy râu chạm sát vai, nhìn ông lão, còn ông lão thì nheo nheo cặp mắt dưới cái mũ lưỡi trai nhìn lên con chim. Con hải âu vỗ cánh đều đều, kêu lên những tiếng yếu ớt, buồn bã và da diết. Người lạ mặt quan sát thân hình khẳng khiu tiều tuỵ của ông lão, với bộ ngực lép kẹp như ngực đứa trẻ, có mấy dúm lông bạc cạnh hai cái núm vú không cần thiết của người đàn ông. Người đó nghĩ : bên cạnh anh ta đây cũng là một điều kỳ diệu, một cuộc sống của người nào đó, đang chảy qua cái cơ thể khốn khổ này, như con suối chảy qua cái dòng của nó, còn ở đằng kia, nơi con suối toả rộng ra trên bờ cát, và đổ vào biển là đôi vai phẳng phiu nhẵn bóng đang ánh lên trong nắng, là cánh tay đang vui vẻ giơ lên, là cái gậy đập đập vào quần áo, và từ xa vẳng lại những âm thanh – păc ! păc ! păc ! ... – những cử động và những âm thanh gắn liền với nhau. Ông lão mặc chiếc quần rộng thùng thình màu xám, gấu rách tua tủa, để hở hai bàn chân nứt nẻ với những ngón chân quặp vào nhau trông rất tội nghiệp.
Trông ông lão như thiu ngủ, cái lưỡi trai bị tụt xuống sát đôi lông mày gãy khúc một cách đau khổ. Vẻ mặt ông lão trông thật kỳ dị, thân thể gày mòn khô héo, còn người phụ nữ kia thì khoẻ mạnh, đẹp đẽ, khuôn mặt chị sao mà giống tâm hồn chị đến thế. Chị có ba cái tên - một tên Nga, một tên Nhật và một tên Triều Tiên, - nhưng không cái tên nào trong cả ba cái tên đẹp ấy mô tả đúng được chị - tất cả những cái tên ấy chỉ là gợi một cách ngẫu nhiên. Tên người – nó chỉ là cái từ ghép bằng mấy âm thanh. Chị có lần hỏi anh tên là gì và anh đã nói một từ không dài lắm. Chị hài lòng gật đầu rồi nhắc lại cái tên ấy để nhớ, còn anh thì cảm thấy buồn, vì khi phát âm cái tên ấy lên, dường như chị đã nhấn mạnh đến một cái rất không quan trọng và rất nhỏ bé, vì tưởng rằng đó là cái chính yếu, và do đó đã tách cái chính yếu đó ra khỏi cuộc sống lớn lao, thường xuyên không bao giờ thay đổi - mặt khác lại cũng thay đổi từng khoảnh khắc một - của biển cả, trời, đất, mặt trời mà lúc nào anh cũng ao ước cảm thấy mình là một bộ phận của nó trong những ngày cuối cùng này của anh. Khi bắt cái tên ấy phải vang lên, người phụ nữ lại kéo ra ánh sáng cái sắp sửa phải biến đi, phải vĩnh viễn rời bỏ cái thế giới dễ hiểu xung quanh và cái ấm áp giản dị của lòng nhân đạo hết sức con người mà chị mang trong mình một cách vô tư vui vẻ : như những con chim mang trong họng chúng các bài ca. Con người gắn với bản thân anh ta bởi cái tên, chứ không phải gắn với cuộc sống bởi cái tên. Trong cõi lòng thầm kín, con người đó lúc nào cũng thấy buồn, vì con người anh ta - một con người đầy đủ - chưa có, và lúc nào anh cũng cảm thấy hình như con người ấy của anh phải có. Đó là vì cái trí nhớ lâu đời của anh lo lắng, cái trí nhớ mà khi ra đời anh đã mang theo, và mặc dù anh dã cố hết sức vắt óc, nó vẫn không sáng ra được chút nào. Thế rồi anh đi tìm kiếm anh – trên mặt đất, trong đêm tối và trong ánh sáng, trong thị trấn ồn ào náo nhiệt và trong rừng rậm hoang vu – và anh sáng tác ra những huyền thoại về mình, anh không chấp nhận anh chỉ là một người con bình thường của đất, người anh em giản dị của cỏ cây và muông thú. Ngỡ ngàng, anh dừng lại trước vực thẳm, và thật may mắn, nếu trên bờ vực ấy anh gặp được một con người, dù chỉ là một lão già khốn khổ, ngày ngày đi nhẫn nại đi nhặt sò, ốc ở ven biển. Và cũng rất may, nếu anh kịp thời nhớ lại rằng đã lâu lắm, hồi anh còn bé, anh đã sống cạnh biển ngay trên bờ của nó, trong một túp lều gỗ tồi tàn kiểu Nhật, gần một đồn biên phòng hải đảo. Vào những ngày biển lặng, những người lính trần truồng lại lùa ngựa xuống biển, cạnh chỗ cửa sông, để tắm cho chúng – Con ngựa chùn lại không dám xuống nước vì sợ con sóng nhỏ, và người lính giật giật dây cương, lấy gót chân thúc vào bụng nó. Xa xa ngoài chân trời, xuất hiện một chiếc tàu thuỷ dưới một cột khói cao, chú bé tưởng như nó cũng là một bộ phận bình thường của biển, tựa như những con hải âu, con cá, doi cát và những tảng đá trên bờ, tựa như những người phụ nữ Triều Tiên váy giắt cao trên chân, cúi gập nửa người trên mặt biển lấp lánh chỗ bãi cạn, để mò ốc, trông như những cái xuồng cũ bị mắc kẹt mãi mãi trên đám cát ven bờ, tựa như mùi rong biển và mùi nước mặn, và nhất là cái mùi không gì so sánh của những con cầu gai mà cậu bé đi nhặt trên bãi cạn rồi đem rải chúng trên cát cạnh chiếc xuồng cũ.
* * * * *
-Ông chủ ơi, ta đi ra xem cá đi, - anh ta nói với ông lão.
Cá hả ? Đô Khôcrô gật đầu bằng lòng, đi vào nhà khoác cái áo vét rồi bước ra – lão không quen đi cởi trần. Còn người lạ mặt thì cởi quần, quẳng xuống bờ tường và chỉ mặc một chiếc quần đùi xanh bạc phếch đi ra biển. Trên bờ, những con sóng ào ào chạy lên cát, như những người đàn bà to béo, nhảy xuống nước, và lớp cát ẩm lúc đó, khi nước trôi đi, nó lại trở nên tối mờ. Trên chỗ cát đặc và ướt có cắm một cái cọc ngắn, thân cọc buộc một sợi dây câu. Người lạ mặt lấy tay cuộn sợi dây kéo lên khỏi nước, còn ông lão thì tay chắp sau lưng, đứng bên cạnh nhìn sợi dây đang cắt sóng và từ từ đi ngược về phía tay người lạ mặt, dọc theo sợi dây, những giọt nước trong cứ chạy chạy rồi văng xa. Trong bốn lưỡi câu có gắn mồi, có ba lưỡi câu có cá. Một con cămbala to, có cái lưng màu xám bẩn và cái bụng trắng mịn thỉnh thoảng lại bám chặt xuống đáy, theo sau nó là hai con nagava mình óng ánh đang giãy giụa trên sóng. Người lạ mặt giơ cao sợi dây có cá, lắc một cái rồi ném xuống chân ông lão, ông lão ngồi xuống và bắt đầu gỡ con cá cămbala to mập đang quẫy ra khỏi lưỡi câu. Ở chỗ quăng thứ hai, cách chỗ thứ nhất không xa, hòn chì không biết bị vướng vào cái gì, và người lạ mặt phải lội xuống để gỡ. Anh lội ngập đến thắt lưng, giơ cao hai khuỷu tay nhảy nghiêng người đi mỗi khi có con sóng ập tới. Bỗng anh kêu ré lên, cười sằng sặc rồi ngụp xuống nước, làm bọt bắn tung toé xung quanh. Sau đó anh cứ đưa hai tay mò dưới đáy, tìm kiếm một hồi, trên mặt nước chỉ thấy cái đầu anh nhô lên lúc thì quay mặt, lúc thì quay gáy vào bờ. Còn ông lão cứ ngồi xổm nhìn và đợi, tay giữ cái túi cá lủng lẳng giữa hai đầu gối. Con cămbala to mập cứ giãy giụa làm cái túi đung đưa. Người lạ mặt đang đứng dưới nước bỗng nhảy lên cao gần đến đầu gối, giơ cao cánh tay trên đầu, và trên sợi dây câu không nhìn thấy trước mặt anh ta có hai con cá đang quẫy - một con là cămbala, còn con cá khác như con navaga không to lắm, vừa giống con cá hồng. Nhưng đó là cá hồng, và ông lão vui lắm, vì sẽ có món thết Maxicô. Canh cá nấu bằng cá hồng thì không có gì tuyệt bằng.
Sau khi gõ nốt chỗ cá ở sợi dây thứ ba, cuối cùng ông lão đi về nhà, còn người khách lạ ở lại mắc mồi mới vào lưỡi câu. Đô Khôcrô vừa xách cái túi lưới nặng trĩu vừa khoan khoái ngắm từ miệng đến đáy túi. Lão suýt vấp phải cái đầu cắt ngắn không biết của anh chàng nào đang nằm trên đất.
Ở cạnh nhà ông lão nhìn thấy Maxicô đang đứng bên một người tay xách một nắm cần câu, chân đi đôi ủng đánh cá dài. Hai ống của đôi ủng đã bị sờn hết, trên một ống lớp cao su bong cả ra, lủng lẳng như cái tai chó. Người đánh cá và Maxico đứng cách xa nhau đang nói chuyện, Maxico đang phơi những chiếc áo đã giặt lên những cành ngưu bàng chắc, ngoái nhìn qua vai. Người đánh cá đó là người Triều Tiên, nhưng lại mang họ Nga – Cudơnhetxôp. „Ngày mai có lẽ mưa đấy nhỉ ? – Maxico hỏi, đưa tay chỉ về phía hòn đảo xa ngoài biển - từ sáng sớm đã thấy hiện rõ trên nền trời, cũng tối sẫm như biển. „Nào biết được, - Cudơnhetxôp vừa lấy ngón tay gãi gãi cổ vừa trả lời. – Không phải lúc nào cái điềm ấy cũng đúng đâu. Có lúc nó hiện rõ hàng tuần liền mà vẫn không sao, không mưa tí nào“, - „Phải, phải, có lúc như thế đấy.“ Maxico vuốt cho thẳng mấy cái cổ tay áo ướt, chiếc áo vắt trên cành ngưu bàng trông như tay người đang ôm những chiếc lá „Nhưng cũng có khi mưa – Cudơnhetxôp nói tiếp như nói với mình, - vì từ sáng vợ tôi thấy đau ở chỗ ngang thắt lưng, và chỗ xương gãy của tôi cũng thấy hơi nhức. Ai biết được mưa bất thình lình lúc nào không hay. Thời tiết ở Xakhalin này cũng như đàn bà Xakhalin ấy - Chẳng ai biết một tiếng sau đẻ ra chuyện gì.“ Rồi khoát tay một cái, người đánh cá lê bước đi tiếp, kéo sền sệt đôi ủng nặng trên cát.
Anh ta cưới một người phụ nữ Nga, một người đàn bà nhanh nhẹn, giọng oang oang tên là Clava, mà anh ta rất sợ nhưng cũng rất yêu, thậm chí anh ta còn mang họ của vợ. Anh ta suốt ngày mất mặt ở ngoài biển với mấy cái cần câu, và chị vợ cứ rày là mãi về chuyện đó, chị ta muốn anh mua con bò và đi chăn nó. Nhưng anh Cudơnhetxôp này lại rất ghét bò, chỉ thích đi câu cá thôi – nên không phải tự dưng người ta đặt cho anh cái biệt hiệu „con quỷ biển“. Nhưng nghe nói, mặc dù như thế, hai vợ chồng Cudơnhetxôp sống rất hòa thuận . Một hôm chính lão Đô Khôcrô đã nhìn thấy cặp vợ chồng ấy trong giây phút hạnh phúc của họ : họ trốn ra mỏm Camarôn nghỉ. Cudơnhetxôp tất nhiên là cứ đứng rình mấy cái cần câu của anh, còn Clava thì ngồi phía sau, duỗi dài chân trên cát ấm. Chị ta là người đàn bà hiền lành, ít nói, chị cứ ngồi cúi đầu ra phía trước, rồi lại ngả sang một bên, lấy lược gỗ chải mớ tóc thưa màu sáng. Đô Khôcrô lúc ấy đang hái rong biển trên bờ. Lão đi qua chỗ họ, cúi người chui qua những sợi dây câu trong suốt của Cudơnhetxôp căng dài giữa biển và những đầu cần câu dẻo. Cả hai vợ chồng chào lão, rồi ngạc nhiên nhìn người lạ mặt râu ria xồm xoàm đang đi về phía họ - người này vác một ôm rong biển.
Mắc giun vào lưỡi câu xong, anh quay quay hòn chì và quăng nó ra tít ngoài xa. Mấy sợi dây câu, rít lên trong không khí, rồi rơi đánh tõm xuống nước. Một ngọn sóng dâng lên, đổ xuống, bẹp ra rồi tản đi các phía. Anh khoắng khoắng tay vào dòng nước đang tràn tới. „Nói dối – anh ngước nhìn hòn đảo xanh ngoài xa miệng lẩm bẩm – không mua được“. Cái bầu trời bao la kia không dễ gì mây có giăng kín được. Đến đêm nó sẽ sáng rực một màu xanh ngoan cường vô tận , và các vì sao sẽ chen chúc nhau trên đó. Và sáng hôm sau, một màu xanh lá cây sẽ bắt đầu lan dần từ mép của nó, rồi hình như sẫm lại, và một mặt trời đỏ rực nặng nề sẽ nhô lên từ dưới biển, con người sẽ được thấy một ngày mới, cũng ấm áp và trong trẻo như ngày hôm nay.
Anh nhìn về phía thị trấn - bờ biển hình như đang chuyển động dưới đám người tụ tập trên nó. Họ chiếm toàn bộ bãi tắm và đáng tiến dần về phía Camarôn. Một chàng thanh niên lấy tay tung quả bóng chuyền, người đàn bà giơ tay, đứng lên trên cái chăn. Hai cô bé người mảnh dẻ ôm nhau, tay cô nọ để lên cổ cô kia, đang đi ra biển. Một nhóm cô cậu choai choai đang ngồi túm tụm chơi bài, một cậu đội chiếc mũ rộng vành rất kỳ dị. Tất cả bọn họ đều mong cho mặt trời kéo dài thật lâu, và chắc chắn sẽ như vậy, vì nếu những đám mây nặng như đá kia lại kéo tới và trời lại mưa xuống những giọt mưa xám xịt tối sẫm, thì anh cũng không thể chịu nổi. Anh đi về nhà, tay rũ rũ những hạt nước đọng ở đầu ngón tay. Anh nhìn thấy một con chó gầy nhom lông vàng nhạt đang chạy xiên theo sườn núi từ trên quả núi sau mỏm cát xuống. Sau đó con chó biến mất sau mấy bụi tường vi, còn lớp cát bị xáo lên dưới chân nó thì chuyển dịch và lăn tròn từng lớp xuống theo sườn dốc. Bên trên lớp cát ấy, ở chỗ khác, cát cũng bắt đầu chuyển động, và sau đó - ở một chỗ cao hơn, rồi tiếp đến cả sườn cát khẽ chuyển động, rơi xuống lả tả. Và cái chuyển động lặng lẽ chậm chạp ấy của cát dường như bỗng biến thành anh, trong con người anh cũng có cái gì bắt đầu rời ra một cách lặng lẽ, mơ hồ và không kìm giữ nổi, đầu anh quay cuồng như đang bị lắc lư trên một nơi rất cao so với đất. Anh loạng choạng, dang hai tay ra phía trước, nhưng vẫn đi tiếp. Anh nhìn thấy ông lão và Maxico và muốn đi đến chỗ họ.
Maxico ngồi trên một gốc cây cong queo, trăng trắng, bị nước biển và nước mưa mài nhẵn, còn ông già đứng trước mặt chị. Người đàn bà đang chọn cá trong túi lưới, còn ông già nhìn theo tay chị. Chị ngước mắt nhìn con người đang đi tới. Và anh, loạng choạng, dường như đi vào cái nhìn của chị, ngã vào trong một cảm giác bỗng hiện sáng lên trên khuôn mặt người phụ nữ.
Đôi môi mềm mại của chị thoáng rung động, hai góc môi kéo dài sang hai bên, hàm răng trắng muốt lấp lánh – đó là nụ cười, nụ cười ấy trùm cả lên đôi gò má thanh tú mịn màng của chị và truyền lên mấy nếp nhăn cong cong hai bên khóe mắt, sau đó đi vào đôi mắt ấy, rồi từ đấy nó hiện ra - bằng một thứ ánh sáng đặc biệt mà không một nơi nào trên thế gian này có nữa. Ngồi phịch xuống cạnh người đàn bà, anh ngó vào cái cửa sổ nhỏ của vũ trụ loài người, và anh nhìn thấy trong đó hình ảnh của anh, bầu trời, và những đám mây.
-Thế nào Masenca, ta nấu canh cá chứ ? – anh hỏi, cảm thấy đất nặng nề tròng trành dưới chân, khẽ thụt xuống và trôi đi khỏi thân người anh.
-Anh là chủ, anh đi nấu đi, - Maxico đáp.
Chị và ông lão đang đứng trên mảnh đất tròng trành ấy, và đến được chỗ đất ấy còn rất gần – có thể với tay được. Một con ruồi xanh đang bay vo ve bên cạnh mặt, người đó yếu ớt xua tay đuổi nó đi. Đất vẫn lặng lẽ, từng milimét một, từ từ trôi đến gần anh và anh, nhìn ra hòn đảo, nín thở, hồi hộp chờ cho nó chạm vào chân.