2
Đang đi, anh Tám Chấn chợt đứng hẳn lại nhìn tới trước, trầm trồ bảo Ngạn:
- Cứ mỗi lần về Hòn là tôi thấy cảnh Hòn khác đi. Tháng này Hòn coi xanh tốt quá. Chú ngó kia, mãng cầu ta lên lá non coi mướt chưa? Ngạn và chú bảo vệ anh Tám là Đạt cũng dừng lại.
Đứng bên anh Tám, Ngạn đưa mắt nhìn về phía Hòn Đất. Anh cũng đã có cảm giác rất dễ chịu, ngay từ đầu đường rẽ về Hòn. Hòn Đất nổi lên trên Hòn Me và Hòn Sóc, gối đầu lên xóm, về tháng này trông xanh tốt quá. Bấy giờ vừa sang tháng chạp ta, đã nghe gió Tết hây hẩy lùa trong nắng. Cây cối trên Hòn và các xóm nằm liền Hòn vụt rạo rực, tràn trề nhựa sống. Vùng Hòn với những vòm lá của đủ các loại cây ăn quả đều sum sê, nhẫy nhượt. Những ngôi nhà trong xóm, mái lá và ngói đỏ chen nhau coi đông đúc như một thị trấn. Nhà còn cất leo lên trên triền Hòn thoai thoải, ở xa ngó cứ như những chuồng chim câu, có cái vách ván đã bạc thếch vì mưa nắng, có cái còn mới nguyên, vách lát bằng ván sao nổi lên đỏ sẫm. Xa quá khỏi Hòn một đỗi, là bãi Tre. Thấp thoáng những cây tre đằng ngà cao vút, vàng óng, những cây tre lâu nay vẫn đứng đấy, bình yên và thanh thản, mặc cho bao nhiêu năm tháng đã đi qua, mặc cho bao nhiêu gió mưa đã thổi qua. Sau rặng tre ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang rỡn sóng, mang mang một màu xanh lục. Đứng ở đây, khi sóng sủi bọt âu yếm vỗ bờ, Ngạn thấy dưới chân bãi Tre như có một đường viền bằng ren, thỉnh thoảng lại dợn lên. Anh Tám vịn vai Ngạn, cất bước chầm chậm đi tới và nói:
- Cảnh Hòn đẹp thiệt... Từ ngày đồng khởi tới nay chưa đầy một năm mà cảnh đã thay đổi hẳn. Trận càn giữa năm, nhờ quần chúng đấu tranh gắt nên nó cũng không phá được gì.
- Nghe đâu nó đã có rải thuốc hóa học ở một số nơi trong tỉnh mình hả anh?
- Có, nhưng càng rải nó càng chết. Có điều là sau ngày mình quật nó, nó hoảng một lúc, nay đã tỉnh tỉnh lại. Chúng đã bắt đầu chà xát mạnh ở một số nơi.
- Ở đây thì kể như đã bị một trận rồi...
- Nó sẽ còn chà nhiều trận nữa chớ. Tụi nó dư biết đây là căn cứ của mình. Nó biết mọi cuộc đấu tranh tràn vô thị xã đều xuất phát từ đây. Vả lại, Hòn Đất là một điểm nằm trong khu vực tập trận của khối xâm lược Đông Nam á. Về phía ta, ta cũng không muốn chúng nó tới chỗ này. Nếu chúng có đóng bót, ta cũng phải nhổ đi... Anh Tám Chấn dừng lại. Lát sau, anh cười rất hóm rồi nói:
- Riêng chú thì Hòn Đất còn đặc biệt quan trọng hơn. Mặc tình chú đi đông đi tây gì đi nữa, nhưng chân chú đã bén rễ đất Hòn rồi... Ngạn nhoẻn miệng cười. Anh Tám hỏi:
- Sao, tính ngoài ngày làm đám cưới à? Thôi, Tết này làm luôn đi. Tôi ráng "cương" lên làm chủ hôn một trận coi. Sau Tết tôi đi học rồi. ạng bà mình có nói:
“Cưới vợ thì cưới liền tay... " gẫm ra rất là biện chứng nghe. Nên nhớ làm cách mạng và cưới vợ, hai chuyện mới coi qua thấy như có mâu thuẫn, nhưng trong điều kiện nào đó lại thống nhứt với nhau. Tất nhiên chuyện đời cũng có anh cưới vợ rồi thì sanh ra bê bết, nhưng có nhiều anh lại yên tâm hăng hái hơn. Cũng tùy, tùy "anh" tùy "em"... Phần chú thì tôi xin miễn nói, còn út Quyên thì tôi có thể nói: đó là một cô gái rất tốt. Công việc Đoàn nó hăng hái tháo vát, công việc vườn tược, nấu nướng may vá nó làm cứ gọn hơ. Về sắc thì khá quá đi chớ. Đành rằng cái chuyện hiểu lầm hồi nẳm có làm chú bực, nhưng chú cũng phải thấy qua chuyện đó út Quyên nói như thế nào. Tôi thấy chú phải mừng, vì nếu cô ta nghe tin chú như vậy mà không vật vã đau đớn chi hết thì mới nguy. Đằng này nó như muốn điên lên được mà... Nghe anh Tám nói, Ngạn cười tủm tỉm. Anh cố giấu nỗi đắc ý của anh. Thực ra, đầu tiên nghe chuyện đó thì anh đóa lắm, nhưng về sau càng nghĩ anh lại càng thấy thương Quyên, tin Quyên hơn. Chính anh cũng tự dặn lòng:
“Mình đã hai lần bị bắt, hai lần trốn thoát. Nếu có một lần thứ ba nữa thì cũng phải vững như vậy! " Bởi vì anh biết rõ Quyên đã khổ sở ghê gớm đến như thế nào rồi, khi cô hay một cái tin như thế. Vào tới đầu xóm, anh Tám Chấn hỏi Ngạn:
- Anh em trong đội chú đóng đâu?
- Ở giữa xóm. Anh ghé đó chớ?
- Được, ghé coi có Hai Thép ở đó không? Anh Tám quay lại vỗ vai chú bảo vệ của anh hỏi:
- Có muốn về nhà chơi không, Đạt? Đạt nhoẻn cười, gật đầu. Anh Tám nói:
- Thôi, cho chú về Lình Quỳnh thăm nhà, mai qua, nghe! Chú Đạt bảo vệ hớn hở xốc lại dây đai khẩu cạc - bin, nói:
- Cháu đi! Nói xong, chú rảo bước như chạy. Từ xóm Hòn Đất qua Lình Quỳnh chỉ có bốn cây số. Xóm Hòn Đất ở liền ngay chân Hòn. Cuối xóm là bãi Tre, cách biển vài trăm thước. Sau lưng xóm, còn một quãng vườn cây sum sê, rồi tới sông Vàm Răng. Sông không rộng cho lắm, ngày hai lần, nước sông lớn và ròng theo triều biển, theo tiếng bìm bịp kêu nghe tợ tiếng tù và thổi giục. Nhà cửa ở Hòn Đất san sát bên đường, xen vào giữa những vườn mít trái treo vàng rám, giữa những vườn dừa, vườn cau, và những cây ăn trái khác như mãng cầu, lê - ki - ma, măng cụt. ở đây có nhà cất trệt, nhưng cũng có nhà sàn phải đi lên bậc thang. Tùy theo lối vào nhà mà bậc thang đó bắc bên trái hoặc bên phải. Những nhà lớn lợp ngói thường có bậc thang ở hai bên, lên xuống bên nào cũng tiện. Người ta bảo ngày mùa đứng ngoài Tri - Tôn trông về Ba Hòn thấy giống như hình một cô gái vừa tỉnh giấc nồng nằm trên chiếc chiếu vàng, chân cô gái duỗi ra và đầu nhổm tới phía một dải lụa xanh phơ phớt. Chiếc chiếu vàng là đồng lúa chín tới. Và tấm lụa xanh ấy là dòng sông đó chăng? Anh Tám và Ngạn đi vào gần tới giữa xóm thì nghe trước mặt vẳng tới tiếng đờn ca. Chốc sau, có một giọng nữ cất lên. Ngạn kêu:
- Ca sĩ Năm Nhớ tụi tôi bắt đầu trổi giọng rồi! Anh Tám Chấn bảo:
- Mấy chú về đóng ở đây coi bộ đời lên hương dữ ha! Năm Nhớ ca đó hả?... Ca khá lắm, giọng đã tốt lại biết điều khiển tiếng ca. Hèn chi tụi lính bót nó mê cũng phải... à, nghe đâu hôm mấy chú làm ăn ở bót Cà - Tưng, tụi lính tuyên bố không bắn để nghe ca hả? Ngạn gật đầu:
- Ờ, tức cười lắm. Có thằng kêu:
- Cô Năm thương nhớ ơi, làm sáu câu nữa đi, anh em tụi tôi là dân mộ điệu mà, không bắn bậy đâu!
- Cũng hay. Tụi nó không bắn bậy là hay rồi. Nhưng nội dung bài ca ra sao? Chuyện này hơi tinh tế đây, tôi cũng dốt lắm, nhưng tôi nghĩ là lời lẽ bài ca của mình có tình có lý, sao cho nó nhớ vợ, nhớ con muốn bỏ trốn ráo. Không nên dùng lời lẽ cứng nhắc, cũng không nên mùi quá... Chà, chắc Năm Nhớ ca nhiều bản mùi dữ hả? Nên chi tụi nó mới kêu là "Cô Năm thương nhớ" đó chớ gì?
- Không đến nỗi đâu anh... Lính thì thằng nào cũng ham gái. Mười thằng dê hết chín, Năm Nhớ nhiều phen cũng tức mình lắm. Cô ta nói: - "Tụi lính mắc dịch đó, tôi mà không vì cách mạng, còn lâu tôi mới ca cho tụi nó nghe? "
- À, còn chú Diệp học sinh ở Rạch Giá mới vô đó thì sao?
- Chú ta cũng tốt thôi. Anh em cũng thương. Nhưng tất nhiên đối với cuộc sống này chú ta còn nhiều bỡ ngỡ.
- Ở ngoài thành mới vô thì đứa nào cũng vậy. Cố giúp đỡ nó. Con em của đồng chí mình đã hy sinh, mình phải có trách nhiệm. Tiếng đờn ca vọng lại mỗi lúc một rõ hơn. Anh Tám nghe biết ngay tiếng đờn độc huyền của ông Tư Đờn, liền nói:
- Từ ngày bị mù tới giờ, ngón đờn của ông Tư nghe càng xúc động. Anh Tám và Ngạn đi một đỗi nữa thì đã ngó thấy cây me lớn. Cạnh gốc me cổ thụ ấy là nhà ông Tư Đờn, coi như một cái quán cốc. Hai người mới bước vào thì một con chó phèn to từ trong chạy xổ ra kêu ư ử, cúi liếm chân hai người và vẫy đuôi rối rít. Trong nhà vừa chơi dứt bài Vùng lên, anh chị em ơi! theo điệu Kim tiền. Anh em trong đội võ trang ngồi vây quanh cô Nhớ và ông Tư Đờn. Thấy hai người bước vào, họ la lên:
- Anh Tám với Năm Ngạn tới rồi kìa! Anh Tám bắt tay mọi người. Anh ôm vai một thanh niên coi dáng dấp rất học sinh, cười hỏi:
- Sao! Đi đây có vui không, Diệp?
- Dạ vui! Cậu thanh niên Diệp đáp, cười bẽn lẽn như con gái. Anh Tám lại bắt tay cô Nhớ, anh gật gật mấy cái:
- Xin chào ca sĩ! Năm Nhớ đỏ mặt kêu lên:
- Anh Tám! Anh Tám Chấn đến bên ông Tư Đờn:
- Bác Tư lóng này mạnh luôn hả bác?
- Tám Chấn đó à? ạng già mù thốt hỏi rồi run run đưa tay sờ lên khắp người anh, nắn nót cườm tay anh một cách lặng lẽ. Lâu sau, ông mới chậm rãi hỏi tiếp:
- Sao lâu nay không thấy về? Hay có về mà không ghé tui? Anh Tám nhẹ đặt tay lên đôi vai gầy của ông già:
- Mắc công chuyện quá không về được, bác à. Nếu có về thì ắt phải ghé thăm bác chớ! Anh ngó trước sau hỏi:
- Con Tím nó chạy đâu rồi bác?
- Nó đi mò cá ngoài sông...
Anh Tư không nói gì nữa. Anh cứ đưa cặp mắt sâu thẳm như muốn cố nhìn anh Tám. Nhưng ông đâu thể nhìn thấy anh được. Chín năm nay ông không nhìn thấy gì, kể cả thiên nhiên lẫn con người. Ngay như gốc me cạnh nhà ông, hay chõm Hòn, hay bờ bãi, mà nhất là những con người ông yêu mến, ông đều không trông thấy. Đành rằng có những cái ông đã thấy lúc mắt còn sáng, nhưng những cái ấy nay đều đã khác đi. Nỗi khổ tâm bậc nhất giày vò ông già mù này chính là ở đấy. ạng chỉ nghe sự biến thiên quanh mình mà không thấy được sự biến thiên đó, cho nên ông càng phải tưởng ra để thấy. Chính vì thế mà khi uất ức ông cũng uất ức hơn, lúc sung sướng ông cũng sung sướng hơn. Tại cái gốc me cổ thụ, cách đây không lâu, bọn đồn Hòn Đất đã trói quặt tay một chị cán bộ vào thân cây rồi dùng đinh đóng suốt qua hai bàn tay chị. ạng nghe chị chửi rủa, gào thét và tiếng súng nổ. Sau cùng, ông nghe tiếng kêu lớn:
"Cô bác ơi, hãy trả thù cho cháu!" Thế rồi một loạt súng nữa nổ vang. Từ trong nhà, ông quờ quạng chạy ra. Bọn giặc đẩy ông trở lại. Lúc chúng đi, ông nhắm hướng gốc me lồm cồm bò tới. Nhưng chị cán bộ không có đấy nữa. Chúng đã đem xác chị đi mất rồi. ạng ôm gốc me khóc. Nước mắt ngập đầy hai hố mắt ông đêm hôm đó và cả những ngày hôm sau. Thế rồi đêm đêm, ông tưởng như thấy chị cán bộ, nghe lại tiếng kêu, hình dung ra gốc me sây sát vết đạn, in sâu vết đinh đóng. Gốc me đối với ông đã đổi khác, là vậy. Những ngày đi đấu tranh, dẫu đường trơn lầy lội vì mưa dầm tháng tám, ông vẫn nắm tay đứa cháu, đợi bà con ùn ùn kéo ngang là nhập vào, đi lên bót, lên quận. Đấu tranh thắng lợi về, ông hình dung con đường trước nhà in đầy những dấu chân. Và ông sung sướng hơn, cũng là sung sướng như thế. Ngày đồng khởi, tất cả những buổi xử tội bọn ác ôn, ông đều có mặt. Hôm xử tên chủ Mưu
- Tên già gian ác nhất vùng, lúc anh Hai Thép vừa thay mặt tòa cách mạng hỏi ý kiến bà con có đồng ý xử tử nó không, ông nhóng lên giơ tay và la lớn:
- "Tử hình, tử hình!" Bà con ai cũng có cảm tưởng là ông ngó thấy được. Ai cũng nhường chỗ ông đứng. ạng hỏi:
- "Bắn à?" Người bên cạnh đáp:
- "Không, chém chớ không bắn!" Anh lại hỏi: - "Ai chém? " Khi người ta bảo người chém là Ba Rèn thì ông "à" lên một tiếng đầy tin tưởng. Hồi năm bốn mươi bảy, lúc mắt ông còn sáng, ông có thấy Ba Rèn chém Việt gian bằng mã tấu. Anh ta không bao giờ vung mã tấu lên quá đầu. Anh để lưỡi mã tấu gần cổ tên phản quốc, tưởng như anh chưa chém, thế mà bất ngờ cổ tay anh gặt mạnh một cái, đầu tên phản quốc rụng xuống. Lần đó, ông Tư đứng đợi kỳ đến lúc đầu tên ác ôn chủ Mưu rơi nghe cái "phịch" xuống bãi cỏ, ông mới chịu quơ gậy đi về. Nỗi căm uất, sự hả dạ và niềm vui sướng của ông Tư mù cho đến bây giờ cũng vẫn không có thay đổi. Bây giờ nó cũng sâu thẳm như hai hố mắt ông đang cố nhìn anh Tám Chấn. Chợt ông bảo:
- Mà nói vậy chớ rảnh thì ghé, không rảnh thì thôi, tui biết Tám Chấn với anh em mắc lo công chuyện cách mạng. Biết vậy là tui mừng. Tui coi như anh em có ghé thăm tui rồi đó... Anh Tám hỏi:
- Bác Tư ơi, độ rày bác còn uống rượu nhiều không? ạng Tư Đờn không đáp ngay. Chốc sau, ông mới nói:
- Còn, mà không nhiều...
- Bác Tư uống ít là tốt!
- Chú Tám nói phải, nói phải... Nhưng hồi đó khác bây giờ khác. Chú nghĩ, hồi đó đêm đêm cứ nghe tiếng cột chèo của tụi nó đập đầu anh em mình, tui hỏi chú liệu tui có ngủ đặng không? Mà tui lại không có mắt, tui còn làm gì được ngoài cái việc bòn mót gạo để dành, đêm đêm lóng tai nghe coi có chú nào về không, để quờ quạng bưng thúng gạo đưa mấy chú. Mấy chú bưng gạo đi rồi, tui thao thức, lúc đó tui mới uống... Dừng lại giây lâu, ông tiếp:
- Còn từ ngày mình đứng dậy tới giờ, tui không uống nhiều nữa đâu! Anh Tám từ từ nắm chặt hơn bàn tay gầy guộc của ông già mù. Một lần nữa anh lại nghe thấy có một cái gì trỗi dậy rất mãnh liệt, cứ sôi lên, thôi thúc khẩn thiết trong lòng.
3
Quyên xách con cá chẻm còn tươi rói đặt lên sàn nước. Cô xắn vội tay áo tới khuỷu, rồi cầm con dao phay dưới sàn chặt đứt sợi lạt tre xỏ ở mang cá. Quyên bắt đầu đánh vẩy. Bàn tay trái cô xòe hết năm ngón mà nắm không hết con cá. Con cá chẻm thiệt lớn. Mẹ Sáu nói nó tới cân bốn ký. Mẹ xách nó từ bãi Tre về đây cứ phải đổi tay luôn. Quyên cầm dao đánh soàn soạt lên mình con cá loáng nước, anh ánh sắc tím. Những cái vẩy cá văng ra to gần bằng đồng xu, Quyên thích thú lấy tay xếp nó lại, chồng cái nọ lên cái kia, nhìn cười, rồi lại tiếp tục đánh nốt đám vẩy còn lại. Con cá lớn là thế mà cô xoay trở làm coi gọn hơ. Cô chặt một nhát thì đứt rơi cái kỳ, chặt nhát nữa, đứt tiện cái đuôi. Phút chốc con cá chẻm đã làm xong, chỉ còn mổ ruột. Quyên với chiếc gáo có cán đặt trên miệng khạp múc nước đổ vào cái vịm sành da lươn cạnh đấy, rồi nhấc con cá thả vô. Cô giội mấy gáo nước nữa cho sàn lảng thiệt sạch. Lúc sắp sửa vớt con cá ra để mổ bụng, Quyên chợt nghe ngoài bậc thang nhà có tiếng gọi vui vẻ, sang sảng:
- Má ơi! Cô nghe đúng là tiếng anh Tám Chấn. Kế lại nghe:
- Má... Tiếng sau có vẻ mừng rỡ và âu yếm. Quyên biết ngay là tiếng Ngạn. Cô liền để con cá xuống, rửa tay và vãnh bàn tay vuốt những sợi tóc lòa xòa ở hai bên thái dương. Cô nhón gót chạy ra, kêu rối rít:
- Úi, anh Tám! Cô vồn vã với anh Tám Chấn, còn Ngạn thì cô chỉ đưa mắt nhìn một cái. Thấy Ngạn mặc cái áo sơ - mi đen của ai rộng thùng thình thì cô tức cười quá. Ngạn cũng vậy, anh chẳng hỏi gì cô cả, cứ thế anh ngồi xuống giữa nhà, dang tay đón con Thúy sà vào lòng. Ngạn hôn con Thúy chùn chụt. Hôn xong một cái lại "ừm" lên một tiếng coi có vẻ ngon lành lắm. Con bé hôn lại anh, hôn không rõ kêu thì anh không chịu. Ngạn mở vòng tay ra, chỉ về phía anh Tám Chấn. Con bé chạy tới anh Tám. Còn một bước nữa tới chỗ anh, nó đứng lại, xuôi tay, rồi mới ôm lấy cổ anh hôn rất kỹ lưỡng. Cả nhà đều nhìn cảnh ấy bằng cặp mắt vui vẻ, trìu mến. Mẹ Sáu đang ngồi nhai trầu, trệu trạo cười. Quyên đứng sau lưng mẹ, dùng ngón tay trỏ ấn nhẹ chiếc lông nhím trên đầu tóc bới của mẹ, và cô cười lúm cả hai má. Nụ cười của chị Sứ có nén giữ hơn. Nhưng mặt chị cứ ngây ra. Mắt chăm chăm để ý từng cử chỉ của con, chị không sao giấu được nỗi sung sướng xen chút hãnh diện. Sự an ủi của chị Sứ ở đây nhiều lắm. Đứa con gái vừa là cái kết quả của tình yêu thương chồng vợ, vừa là sự hiện diện của chị, của anh. Con bé gắn bó mọi người lại hết sức dễ thương và trong trẻo.
- Thúy đi học chưa?
- Anh Tám hỏi.
- Dạ con đi học rồi.
- Con bé đáp nhỏ nhẻ.
- Con đi học một mình à?
- Ngoại đi với con. - Nói tới đây, con Thúy đưa mắt liếc nhìn ngoại nó:
- Bữa nào ngoại cũng đi với con hết hà! Mẹ Sáu ngồi trên bộ ván vảnh tay vuốt tém cổ trầu ở mép, nói:
- Bữa nào tao cũng đưa nó đi rồi rước nó về đó Tám. Mà nó cứ không chịu chớ, nó nói:
- "Ngoại để con đi một mình, con đi được! "... Để nó đi một mình sao được kia chớ! Thằng Tám coi, máy bay bữa nào cũng rù rù, còn tàu sắt lâu lâu cặp mé biển thụt cà - nông phùm phùm. Đưa đón nó như vậy mà suốt buổi tao còn phập phồng, hễ có hơi máy bay thì thôi tim tao nó cứ nhảy lia. Huống hồ là để nó đi một mình, dọc đường rủi máy bay tới, nó biết hầm nào mà chui?
- Dọc đường mấy bác có đào hầm!
- Con bé nói.
- Thằng Tám coi nó nói đó... Có đào hầm? Đành là có, nhưng tao hỏi, rủi hầm có rắn ở dưới thì sao? Têm một miếng trầu mới, mẹ Sáu bỏ vào miệng, nhai rau ráu:
- Con nít tới chừng nó quýnh thì nó nhảy đại có biết rắn rít gì đâu. Người lớn còn bị cái nạn đó hoài... Anh Tám đang vén áo tháo thắt lưng súng ngắn, nghe mẹ Sáu nói thì bật cười. Mọi người đều cười. Quyên cười lâu hơn hết. Cô ghé cằm lên vai mẹ, nói:
- Má tôi bả nhát lắm, anh Tám ơi! Mẹ Sáu ngoái ra sau lườm cô gái út:
- Phải mà, thì tao nhát!... Anh Tám Chấn nghĩ bụng:
“Không đâu, mẹ Sáu không nhát đâu! Vì năm năm mươi tám, chính mắt anh trông thấy một thử thách dữ dội nhất xảy đến với mẹ Sáu. Dạo đó xảy ra câu chuyện hai tên lính đang ngồi trên chòi gác đồn Hòn Đất ngó thấy trong mé Hòn có một em bé cưỡi trâu. Tên này thách tên nọ nếu bắn trúng em bé nó sẽ thua cuộc một điếu thuốc thơm. Tên lính giương súng ngắm bắn. Phát súng nổ. Em bé từ lưng trâu ngã lăn xuống. Hay tin đó, bà con Hòn Đất uất quá, họ vác thây em bé ùn ùn kéo ra bót. Anh Hai Thép phải cho Sứ và chị Hai Thép theo. Anh dặn: - "Phải bắt chúng trừng trị tên bắn em bé, phải đạt được yêu cầu đó bất cứ với giá nào". Anh Tám và anh Hai Thép ngồi trong một nhà bên này sông theo dõi cuộc đấu tranh. Bọn giặc ngăn không cho đồng bào kéo tới bót. Khi bà con đòi trừng trị tên giết người, chúng bảo em bé chết là do rủi ro bị lạc đạn. Bà con xông lên. Thằng Xăm, người Khơ - me lai, bấy giờ là đồn trưởng, xách súng cạc - bin chạy ra. Nó chĩa súng vào ngực mẹ Sáu, vì mẹ là người xông tới trước tiên. Thằng Xăm thét:
- Đi về! Bà bước tới một bước, tôi bắn liền! Tình thế hết sức găng. Trong bất cứ một cuộc đấu tranh nào, thắng hay không là ở phút ấy. Thằng Xăm ác ôn lắm, nó dám bắn bà mẹ như chơi. Nếu lúc đó, mẹ Sáu lùi lại thì cuộc đấu tranh kể như hỏng. Nhưng không, mẹ Sáu không lùi lại. Mẹ nói với tên Xăm câu gì, anh Tám ở xa không nghe được, nhưng anh thấy mũi súng cạc - bin của tên Xăm cứ run lên. Giữa lúc đó, một người đàn bà ở phía sau lách đứng chen vào giữa họng súng của thằng Xăm và mẹ Sáu. Đó là thím Cà Xợi, mẹ ruột của thằng Xăm. Thím nói gì với thằng Xăm, rồi đột nhiên bước phắt tới đỡ họng súng của thằng Xăm lên. Bà mẹ Sáu cùng đoàn người thừa lúc đó chạy ào vô. Lần ấy, cuối cùng địch phải trói gô tên lính sát nhân lại. Thằng Xăm hứa sẽ bỏ tù nó. Sau đó về, anh Tám hỏi mẹ Sáu khi ấy mẹ đã nói gì với thằng Xăm. Mẹ bảo:
- Tao nói:
- "Xăm à, mày bắn tao như bắn bà Cà Xợi thôi". Và câu nói của bà Cà Xợi khi đó là:
- "Đừng bắn bà Sáu, bắn tao đây. Ngực tao nè, bắn đi, Xăm! " Thằng Xăm không bắn được. Nó là một tên ác ôn khét tiếng, nhưng nó chưa thể bắn mẹ nó... Bây giờ, nhìn mẹ Sáu, anh Tám nhớ rõ ràng ngày ấy mũi súng đã chĩa vào ngực mẹ như thế nào. Anh hỏi mẹ:
- Máy bay thì má sợ như vậy, còn hồi nẳm lúc đứng trước họng súng của thằng Xăm, sao má không sợ? Mẹ Sáu không đáp. Lát sau mẹ chậm rãi nói:
- Máy bay tao cũng không sợ đâu. Sợ là sợ cho con cho cháu. Chớ tao thì già rồi, sắp xuống lỗ rồi mà còn sợ nỗi gì, Tám! Má tiếp lời:
- Nói là nói vậy chớ tao chưa chết đâu. Tao còn phải mở mắt để nhìn nước nhà thống nhứt, để thấy mặt Cụ Hồ. Được thấy hai điều đó thì tao nhắm mắt mới đành! Anh Tám nói:
- Sớm muộn gì má cũng sẽ thấy hai điều đó!
- Chắc hôn Tám, chắc thiệt hôn Tám? Mẹ Sáu hỏi lại và ngước mắt khẩn thiết nhìn anh Tám như thầm hỏi thêm:
“Sao? Có gì mới không? Đảng nói sao, nói lại tao nghe, tao mừng với coi! " Mẹ Sáu cho rằng anh Tám cái gì cũng biết, cũng thông trước hết. Hễ anh Tám nói là mẹ tin, tin rằng cái đó phải, cái đó đúng. Mẹ tin anh Tám là tin ở Đảng, tin anh là người của Đảng dẫn dắt bao bọc cho mẹ, cho con cháu của mẹ và xóm làng sống yên ấm, vui vẻ và hiếu thuận.
- Chắc chắn chớ,
- Anh Tám nói với mẹ:
- má à, bây giờ không phải như trước. Hồi đó, mình muốn sống yên, muốn thống nhứt, nhưng Mỹ - Diệm nó không cho mình sống. Ai đòi thống nhứt thì nó chặt đầu, mổ bụng. Chịu không nổi bà con mình mới làm đồng khởi. Đã đồng khởi lên rồi thì chừng nào mình giành được lại cuộc sống tử tế đàng hoàng mình mới chịu, bằng không mình sẽ không buông súng.
- Đánh hoài à?
- Bà mẹ hỏi. Anh Tám đáp:
- Nếu nó còn ức hiếp mình thì mình còn đánh hoài. Hết người này tới người khác. Chừng nào Mỹ rút hết mới thôi!
- Tao ngó bộ Mỹ nó ngoan cố lắm, chừng nào nó mới chịu rút hết?
- Mình có đánh nó mới rút. Tây hồi đó cũng vậy! Bà mẹ để hai tay vào lòng, thấp giọng:
- Biết vậy rồi... Đoạn mẹ chép miệng:
- Lo cho tụi bây thôi, chồng vợ xa nhau, chớ tao thì già cả rồi... Mà điều tao nói thiệt với Tám, tao già thì già chớ tụi bây tới đâu tao cũng bươn theo tới đó. Đi đấu tranh chính trị tao đi hoài được. Hay là nấu cơm tiếp tế cho bộ đội tao cũng nấu được... Chợt ngoảnh lại thấy Quyên vẫn còn đứng bên cạnh, mẹ lấy tay xô khẽ con:
- Sao mà còn đứng đây? Rồi mẹ dịu giọng:
- Đi làm cá đi, con. Chiều rồi. Nấu cơm cho mấy anh mày nó ăn! Quyên từ từ nhắc cằm khỏi vai mẹ, đi ra nhà sau. Ngạn cũng nắm tay con Thúy đi theo... Quyên lật bụng con cá để lưỡi dao lên. Cô khẽ hỏi Ngạn bấy giờ đang đứng sau lưng cô tháo súng ngắn treo lên vách:
- Anh bận khính cái áo của ai vậy, anh Ngạn?
- Áo của anh Thẩm!
- Còn bộ quần áo em gửi cho anh đâu?
- Cho anh em rồi!
- Lại cho!
Quyên mổ cá, đem rửa. Tay làm miệng cô nói:
- Nè anh, chị Ba mới được thơ anh Ba, anh biết chưa?
- Biết rồi! Sao, ổng vẫn đàng hoàng chớ? Quyên hơi giẩu môi:
- Ở ngoải mà không đàng hoàng! Ai cũng được học tập, được giáo dục. Anh Ba ảnh tốt lắm. Đọc thơ, em tội nghiệp cho ảnh quá. Thôi, ảnh căn dặn chị Ba đủ thứ nghe... Nào là phải bình tĩnh, phải cho con Thúy đi học... Nói tới đó, Quyên ngừng lại một giây, và tiếp, giọng nhỏ hơn:
- Nghe vụ tụi mình, ảnh cũng có hỏi thăm...
- Sao ảnh biết mà hỏi thăm?
- Thì chị Ba viết thơ nói... Mà nè, anh Ba ảnh viết cho chị Ba tới mười tám cái thơ... Đâu phải như anh, hễ đi là biệt khỏi có gởi thơ về! Ngạn nghe Quyên nói vậy, liền thò tay nắm chéo áo Quyên giật giật:
- Thiệt không có gởi à? Quyên cười chúm chím mà không nói sao cả. Ngạn tức mình, càng giật chéo áo cô. Rồi anh xỉa nhẹ ngón tay trỏ vào sườn cô, làm cô giật bắn người:
- Anh Ngạn phá không cho em mần cá à? ... Thì..., thì anh gởi về một cái thơ chớ mấy?
- Mấy, mấy? Vừa hỏi Ngạn vừa tiếp tục xỉa ngón tay.
- Hai, hai... Con bé Thúy cũng vỗ tay bem bép trợ lực cho Ngạn:
- Chọc lét dì út nữa đi, dượng út! Quyên quay lại trừng mắt ngó con Thúy, bậm môi:
- Mày cũng binh dượng út mày à? Được rồi, tao không thèm chơi với mày nữa! Con bé níu tay Ngạn, ngó Quyên:
- Dì không chơi với con thì con chơi với dượng út.
- Ừ, cho dượng cháu mày chơi với nhau. Mai dượng mày đi rồi coi mày chơi với ai cho biết! Con Thúy nép vào người Ngạn, ngước hỏi:
- Dượng út chưa đi đâu, hả dượng út? ở chơi với con tới bữa kia, bữa kìa hãy đi nghe, dượng út? Giữa lúc ấy, có tiếng chân mẹ Sáu đi vào bếp... Ngạn nánh ra nhường lối cho mẹ đi. Mẹ hỏi:
- Mày về chơi được bao lâu, Ngạn?
- Dạ, có lẽ ngày kia con đi, má à! Ngạn nhẹ nhàng đáp lời mẹ. Cử chỉ anh bây giờ coi hết sức nghiêm túc. Anh đưa tay lên vuốt tóc và đặt nhẹ bàn tay sau gáy, Quyên liếc thấy, cố nén cười. Nhưng cô cũng vậy, cô cầm dao khứa cá cùm cụp, dáng coi chăm chú lắm. Mẹ Sáu hỏi:
- Tính làm món ăn gì đó, Quyên?
- Con định chưng tương.
- Ờ, con cá đó chưng thì ngon. Còn tôm với cua?
- Tôm thì chiên lăn, còn cua xào dấm, được không má? Mẹ Sáu nói:
- Làm sao cho mấy anh mày ăn nó chê đó thì làm! Rồi mẹ cười và đi ra. Nói là nói vậy chớ mẹ Sáu tin ở con gái mình lắm. Cả hai chị em Sứ và Quyên đều nấu ăn khéo. Hồi hai chị em còn nhỏ, mẹ đã chỉ dạy từng ly từng tý. Mẹ vẫn bảo:
- "Nhà mình nghèo, có con cá kho cũng phải kho cho ngon". Thiệt ra nhà mẹ Sáu nghèo là nghèo trước kia, chớ sau cách mạng, nhà mẹ được cấp bốn công đất tốt có vườn, gọi là ưu tiên cho gia đình liệt sĩ. ạng Sáu chết năm 40, vì "tội làm cộng sản, bắt được có khí giới giết người". ạng bị đem về xử bắn tại Hòn Đất cùng năm người khác. ạng là tay chế súng, chế lựu đạn ở chùa ông Đồng, tức Long Sơn tự, nay chùa ấy cũng còn. Anh con trai lớn của mẹ Sáu, tức anh Hai của Quyên thì chết hồi kháng chiến, hy sinh trong trận kinh xáng Mớp Văn. Người con rể thứ ba của mẹ Sáu tập kết ra Bắc mới gởi thư về đó, trước kia là bạn chiến đấu với anh Hai. Gia đình mẹ Sáu là một gia đình cách mạng, từ chồng tới con, con rể, và cả chính mẹ nữa. Sáu mươi hai tuổi với bao khổ cực, mừng vui, cay đắng, tóc mẹ nay bạc hết cả. Nhưng, như mẹ vẫn hằng nói:
- "Nhờ Trời Phật, tao còn đi cấy, đi làm cỏ vườn được. Vậy chắc là tao còn ngó thấy nước nhà thống nhứt, ngó thấy Cụ Hồ! " Thật vậy, mẹ Sáu gắn bó đời mình với cách mạng bằng nhiều thứ quá. Chồng con, đất đai, máu thịt. Niềm hy vọng của mẹ đều hướng cả vào cách mạng. Niềm vui mà mẹ có được cũng đều từ đấy mà ra. Niềm vui đó chan chứa trong cõi lòng bình dị, mênh mông, khi lắng lặng, lúc lại trào lên của mẹ. Không phải khó khăn gì mới thấy được niềm vui ấy. Những lúc này chẳng hạn, có con cháu anh em về, khuôn mặt nhăn nheo của mẹ lại rạng rỡ hẳn lên. Mẹ Sáu trở vào nhà trước, gặp lúc Sứ đang đem khoe cái thơ với anh Tám. Mẹ nói với anh Tám:
- Tao cũng chưa nghe kỹ cái thơ. Mới nghe nó đọc qua thôi. Mày coi đi Tám, còn tao tối nay để tao bắt con Quyên nó đọc rành rẽ cho tao nghe. Thằng Ba nó ý tứ trượng lắm, một chữ của nó nói cũng phải suy gẫm ra mới thấu được. Anh Tám coi thơ, thỉnh thoảng anh lại nhoẻn cười. Sứ đưa cả tấm ảnh cho anh coi. Anh Tám cầm tấm ảnh, nhìn chăm chú. Anh nhướn mắt, xây xây tấm ảnh:
- Coi mập mạp trắng trẻo hơn hồi đó! Đưa tấm ảnh lại cho Sứ, anh cười bảo:
- Ở xứ xã hội chủ nghĩa mà! Mẹ Sáu nghe nói, vẻ mặt càng thêm rỡ ràng. Sứ thì bảo với giọng hơi bứt rứt:
- Còn tấm hình của em gởi cho ảnh là chụp sau ngày em bị bắt về. Coi ốm lắm! Mẹ Sáu chép miệng:
- Bị ở chuồng cọp, chuồng sấu mà biểu mập sao cho được! Anh Tám Chấn lại cười. Nhưng nụ cười ấy tắt ngay trên môi anh. Anh nói:
- Tấm hình của cô chụp gởi chú Ba mà cô vừa nói đó thiệt là quý... Những tấm hình như vậy không phải ai cũng có. Tôi nghĩ chắc chú Ba sẽ quý tấm hình đó của cô hơn tất cả những tấm hình mà trước nay cô đã cho chú ấy. Rồi anh hỏi Sứ:
- Khi viết thơ cho chú Ba, cô có nói cô chụp tấm hình đó sau khi cô bị bắt không?
- Có... Nhưng em nói khác. Em nói:
“Tấm hình này em chụp sau ngày bị tai nạn... "
- Vậy ắt chú ấy biết!
- Chắc... biết!
4
Mẹ Sáu đem trải lên bộ ván gõ chiếc chiếu bông. Chiếc chiếu bông này là một trong đôi chiếu của nhà mẹ Sáu chỉ đem trải khi có giỗ kỵ, đám tiệc. Ngạn ngồi uống nước trà trên ván với anh Tám chợt nghe ngoài đường có tiếng ai nói chuyện giống như tiếng anh Hai Thép. Ngạn chạy ra. Hai Thép đã đi vào tới sân. Anh bí thư chi bộ nầy vóc người hơi gầy mà chắc. Đầu anh buộc ngang một cái khăn rằn, nách cắp một cái cặp da giả thứ của trẻ con đi học và mang một chiếc ra - đi - ô bán dẫn kiểu Nhựt. Một tay anh giơ chào Ngạn theo kiểu nhà binh rồi bước như nhảy lên bậc thang. Bàn chân trái của anh bị đứt hai ngón, cứ hếch hếch lên tấm gỗ bậc.
- Mới về hả chú? ạng Tám Chấn đâu?
- Ở trong nhà.
Vào nhà, anh Hai Thép liệng cái cặp da giả vào góc ván, ngó anh Tám Chấn cười và nháy mắt:
- Mới xuống hả ông? Hỏi xong, anh gấp gấp mở thêm một cái cúc áo nữa, tay tháo cái khăn trên đầu xuống đập đập mồ hôi đổ hột ở ngực. Anh Tám rót một chun trà, đặt trước mặt Hai Thép. Hai Thép nhấc chén trà lên, cười nói:
- Tụi tôi đợi ông xuống quá xá. Cái vụ đất bị cha con thằng chủ Mưu xáo canh hồi đó nay giải quyết lại nột dữ. Không phải dễ đâu nghe ông! Anh Tám Chấn cười cười:
- Thì tôi có nói là dễ đâu! Hai Thép đưa chun trà lên tợp một hớp rất kêu, chép chép miệng:
- Tôi đợi ông xuống đặng hỏi ý kiến ông về mấy khoản, giả tỷ như cái khoản... Anh Tám Chấn vội giơ tay khoát khoát:
- Thôi, uống nước đi, rồi ở đây ăn cơm với tụi tôi. Mai đã, mai hẵng tính. Bữa nay ông xả hơi "giải nghệ" một bữa đi! Hai Thép ngồi xuống ván, rót nước uống liên tiếp hai ba chun nữa. Mẹ Sáu ở sau bếp đi ra, thấy Hai Thép liền hỏi:
- Hai Thép đó à? Còn Ba Rèn với thằng Năm Tấn đâu?
- Cháu không gặp. Cháu ở nhà đi thẳng tới đây.
- Tôi có nhắn mấy đứa nó chiều nay lại ăn cơm, giờ sao chưa thấy tới?
- Ối, hơi nào mà lo cho mấy thằng đó, má ơi! Quyên đã bưng thức ăn ra. Mọi người đang ngồi nói chuyện liền lánh chỗ cho cô đặt đĩa cua xào dấm và đĩa tôm chiên vào giữa. Mùi chiên xào bay thơm quá. Đĩa tôm chiên coi mới thích làm sao. Những con tôm to bằng ngón chân cái đã lột vỏ, hồng hào nằm cong mình dưới lớp nước sốt cà chua đỏ tươi. Kế đó, chị Sứ lại bưng tiếp ra một thau nhôm đựng gỏi đu đủ trộn với khô cá bổi xé. Anh Hai Thép cúi nhìn thau gỏi, xoa xoa tay khều Sứ nói:
- Mấy món này tao ngó đều khá. Thế nào rồi tao cũng cho má bầy trẻ tới học tập, nhưng nếu chị em bây chỉ dọn bấy nhiêu món thì tụi tao chưa chịu ăn đâu! Quyên mau miệng:
- Còn cá chẻm chiên nữa, anh Hai à! Hai Thép vỗ tay đánh bộp một cái:
- Có cá chẻm chiên nữa à!
- Nhưng anh vội khoát nhẹ tay:
- Không, có cả cá chẻm tụi tao cũng chưa ăn. Quyên trố mắt. Sứ nói:
- Con Quyên khờ quá, anh Hai mà mày không biết à, ảnh nói xa nói gần đó mà... Hai Thép cười, hài lòng:
- Con Sứ khá lắm... Vậy cái tao nói xa nói gần đó có không? Có thì đem ra đây, mau đi! Sứ ngó mẹ, cười. Mẹ Sáu nói:
- Thôi, con vô trong buồng... đem ra đi, một chai thôi. Chớ không có, Hai Thép nó không ăn thiệt đa! Sứ vào buồng, lát sau cầm ra một chai rượu trong vắt, Hai Thép đưa tay với ngay chai rượu, ôm vào lòng như sợ bị đòi lại. Anh vừa rung đùi vừa khoát tay ra lệnh cho anh Tám và Ngạn qua. Rồi anh quay nhìn thẳng vào mắt Ngạn, cố lấy giọng thật dịu dàng:
- Mày về nhà tao thấy mày nhu mì điềm đạm, tao thương quá, Ngạn! Anh day qua mẹ Sáu nói:
- Má à, về nhà đây coi nó mủ mỉ vậy chớ ở chỗ khác, tự nãy giờ thôi bể nhà bể cửa với nó rồi nghe má! Mẹ Sáu lắc đầu cười. Anh Hai Thép khoái chí nhìn Ngạn đang ngượng nghịu leo lên ván... Hai Thép rót rượu ra ly. Anh nài nỉ mẹ Sáu phải uống một chút. Mẹ không chịu uống. Anh mời tới Quyên, Sứ. Hai chị em cười, lắc đầu. Anh đưa lên chạm với anh Tám Chấn và Ngạn. Ba cái ly ấy mới giơ lên vừa chạm vào nhau đánh "cốp" một cái chợt ngoài sân có tiếng chân đi thình thịch. Và tiếng chân đó lát sau vội vã nhảy lên bậc thang. Ba người cầm ly rượu trên tay chưa ai uống một hớp thì Tấn và anh Ba Rèn xồng xộc bước vào. Hai anh bắt tay anh Tám và Ngạn, ngồi ghé xuống ván. Tấn thì thào:
- Vừa có tin cho hay địch tập trung tại Tri - Tôn ngót ngàn quân. Thế nào mai nó cũng càn, nhưng chưa biết càn đâu.
- Bao nhiêu, gần một ngàn quân à?
- Anh Tám hỏi lại. Tấn gật đầu:
- Một tiểu đoàn chủ lực, một tiểu đoàn bảo an và thêm một đại đội biệt kích.
- Đại đội biệt kích của thằng Xăm. Anh em cho biết rõ như vậy!
- Ba Rèn nói. Anh Tám Chấn lặng thinh, cau mày. Anh chồm người tới trước thò tay nhặt cái nút, thong thả nhét miệng chai rượu lại, đưa cho Sứ bảo cô đem cất. Anh nói với mọi người:
- Thôi, tụi mình làm bậy ly này thôi. Tranh thủ ăn cơm đi. Má, cô Sứ với cô Quyên cũng lấy chén ra ăn cơm luôn thể. Tôi nghi nó đánh đấy. Nhưng nếu có đánh thì cũng giác hừng đông. Có đại đội thằng Xăm thì phải coi chừng. Có thể nó "đột" sớm hơn!
- Sao mấy bữa nay không thấy "đầm già" nó quần cà?
- Đâu nhứt thiết phải có "đầm già" quần. Đợi mọi người ăn cơm xong, mẹ Sáu thu dọn mâm chén. Cũng trên bộ ván đó, bây giờ mọi người ngồi quây lại. Anh Hai Thép buộc siết chặt cái khăn lên đầu, nói:
- Thấy rõ là nó đánh vùng Hòn rồi. Tôi đề nghị có bàn gì thì bàn mau mau để rồi chuẩn bị đối phó ngay. Theo tôi, một mặt Ba Rèn cho tập hợp anh em du kích lại xuống chông, gài lựu đạn. Còn vợ tôi để nó lo bố trí các tổ đấu tranh. Cần hết sức chú ý mặt đấu tranh hợp pháp để ngăn chặn sức đánh phá của địch. Chút nữa, tôi sẽ tạt qua nhà cho vợ tôi hay luôn! Anh Tám Chấn đặt bàn tay lên bàn, ngón tay trỏ của anh nhịp nhịp:
- Đồng ý với Hai Thép. Nhưng nên nhớ như vậy là quân số địch đông đấy! Về tình hình HBM thì ra sao? Khi đánh nhau với chúng, có chỗ lánh né không?
- HBM còn tốt thì ít thôi. Chỉ đủ cho một vài tổ. Đất cát khó đào quá, cứ bị sụp hoài. Mới đây lại bị sụp nữa, chưa củng cố lại kịp. Tụi tôi tính bố trí chặn đánh chúng ngoài vườn. Chừng nào thắt ngặt quá thì lánh né vô hang. Anh Tám Chấn im đi một lúc. Gương mặt anh thoáng vẻ lo lắng. Anh bảo:
- Phải ráng khắc phục vụ hầm hố sao chớ để như vậy thì bị động quá... Anh Ba Rèn nói:
- Hang Hòn là chỗ cố thủ rất ngon. ở đó một người mình có thể chống chỏi lại một trăm thằng. Lần trước cũng vậy...
- Lần trước khác, bây giờ khác... Tôi cũng tin là hang Hòn có địa hình chống đỡ thuận lợi, nhưng nếu chỉ xét về mặt địa hình không thì không được... Nhưng thôi, hiện tại là không có hầm đảm bảo ở ngoài xóm, cũng phải đành giải quyết như vậy thôi. Chớ nói về lâu về dài thì không thể cứ chỉ lấy hang Hòn làm chỗ dựa duy nhất được đâu. Day qua Ngạn, anh Tám nói:
- Đội công tác của chú cũng kết hợp với anh em du kích chiến đấu luôn. Ngạn gật đầu:
- Được rồi, đội tụi tôi có sáu súng: ba mát, ba tôm - xông, và mười lăm trái MK3. Tất cả đều có thể chiến đấu.
Ba Rèn hớn hở, nắm tay Ngạn gặc gặc. Anh Hai Thép bảo:
- Tôi thấy anh Tám không nên ở đây. Anh Tám Chấn suy nghĩ một chốc rồi nói:
- Không việc gì, tôi cứ ở đây thôi! Rồi kéo anh Hai Thép lại, anh nói nhỏ:
- Tôi sẽ ở lại ngoài xóm chỉ đạo bà con đấu tranh chánh trị. Anh liệu coi ở nhà nào thì tiện. Hai Thép thoáng vẻ mừng rỡ, nói luôn:
- Anh Tám cứ ở lại nhà tôi. Vợ tôi trực tiếp nắm các tổ đấu tranh chánh trị có anh giúp thì hay quá. Hầm bí mật ở nhà tôi cũng vững, thôi anh cứ ở đó!
Anh Tám Chấn gật đầu. Rồi anh tiếp:
- Hai Thép cho ai chạy qua Lình - quỳnh kêu chú Đạt của tôi về. Cứ để Đạt tham gia chiến đấu. Như vậy sẽ có thêm một cây cạc - bin. Đạt nó bắn cạc - bin khá lắm! Ba Rèn nói sẽ cho người đi qua Lình - quỳnh ngay. Giữa lúc ấy, Tấn an ninh nhích lại gần mọi người, khẽ bảo:
- Còn việc này nữa... Nếu địch nó càn vô đây thể nào nó cũng xài tụi điệp, dùng tụi này chỉ chọc. Hiện nay, còn thằng Ba Phi mình để đó theo dõi chưa bắt. Mình phải tính sao, chớ không...
- Phải bắt thôi. Thằng chủ trại đáy đó nguy hiểm lắm. Cả vợ nó nữa.
- Tôi cứ tưởng mấy ông đã bắt nó rồi chớ!
- Anh Tám nói. Và anh bảo tiếp
- Cho bắt đi! Nhưng không biết nghĩ sao, anh lại hỏi:
- Từ đó tới nay theo dõi nó thấy có hiện tượng gì mới không? Tấn đáp:
- Chưa thấy gì mới. Anh Tám gõ ngón tay xuống ván:
- Chắc bây giờ nó đang chờ địch tới lắm. Nếu bắt nó khai thác liền được ý đồ địch thì hay quá. Thế nào nó cũng biết. Ngạn nghe nói bắt gián điệp thì xen vào bảo:
- Từ trước tới nay mình có để lộ ra cái gì chứng tỏ là mình theo dõi nó không? Tấn nói:
- Không, nó không biết đâu! Hai Thép bảo:
- Đi bắt nó phải bố trí cho kỹ. ở đó meo lắm, cần ghé rà trước coi hồi chiều tới giờ tụi quận có thả lính vô không? Ngạn hỏi:
- Để cánh tụi tôi giúp cho một tay! Hai Thép gật đầu:
- ừ, vậy thì tốt lắm. Phải làm liền đi. Tối rồi. Đi ra tới ngoải là vừa. Ngạn đứng lên. Quyên lẹ làng chạy ra nhà sau lấy xanh - tuya súng đem ra đưa Ngạn. Ngạn thắt súng vào lưng, rồi cùng Tấn bước thót ra cửa. Hai Thép dặn:
- Bắt được cứ đưa thẳng nó về hang nghe! Ra tới đường, Ngạn đi sát vào Năm Tấn, nói:
- Tôi tính mình bắt thằng này phải mánh lới một chút, anh Năm! Phải gạt nó khai rồi hẵng bắt! Tấn chưa hiểu, hỏi:
- Gạt làm sao? Ngạn kề miệng nói rỉ vào tai Tấn. Tấn nghe xong lộ vẻ thích thú lắm. Anh ta khen:
Hay, hay! Ngạn nói thêm:
- Tụi tôi có đồ sĩ quan. Đừng lo!... Bởi trước sau gì mình cũng bắt nó mà. Nhưng trước sau một chút quan hệ lắm... Anh thì nó biết mặt, cứ bố trí vòng ngoài, để tụi tôi vô.