Chương 4
Nhật ký của Jonathan Harker (tiếp theo)
Tôi tỉnh dậy trên giường. Nếu quả thực là đêm qua tôi không ngủ mê, thì chắc chắn là bá tước đã đưa tôi về đây. Tôi cố trấn tĩnh lại, nhưng không đi tới một điều gì xác thực cả. Hiển nhiên là tôi trông thấy xung quanh mình những thứ có thể lấy làm bằng chứng: ví dụ, quần áo của tôi dược gấp cẩn thận và được đặt trên một chiếc ghế tựa, điều không giống với thói quen của tôi. Ngược lại, kim đồng hồ của tôi bị chết, trong khi tôi luôn có thói quen lên dây cót đồng hồ trước khi đi ngủ. Và còn nhiều chi tiết nữa... Nhưng không, tất cả sẽ chẳng nói lên điều gì nếu như đêm qua tôi bị đãng trí, hoặc vì một nguyên nhân nào đó khiến đầu óc rối tinh rối mù. Tôi cần phải tìm những bằng chứng xác thực. Tuy vậy, vẫn còn một điều làm tôi mừng rỡ: nếu như bá tước là người đã đưa tôi về đây, thì chắc hẳn lão phải rất vội, bởi vì mọi thứ trong túi quần tôi vẫn còn nguyên vẹn. Chắc chắn nếu có tìm thấy những dòng nhật ký này, lão cũng sẽ chẳng hiểu gì cả, vì tôi chỉ viết theo lối tốc ký. Điều đó sẽ làm lão khó chịu và sẽ hủy ngay lập tức những gì tôi viết. Nhìn ngó xung quanh phòng, nơi dù đã trải qua bao lo âu và sợ hãi, tôi vẫn thấy dường như đây chính là nơi tôi còn được yên ổn, bởi chẳng có gì đáng sợ hơn là những người đàn bà ghê tởm đang chờ đợi, chờ đợi để hút máu mình.
* * * * *
Ngày 18 tháng 5
Tôi muốn trở lại căn phòng ấy vào giữa ban ngày, vì tôi phải biết sự thật bằng mọi giá. Lên đến đỉnh cầu thang, tôi thấy cửa phòng vẫn khép. Ai đó đã cố đẩy cánh cửa về vị trí cũ sát với thanh nẹp đứng dù nẹp gỗ này đã bị hỏng. Tôi thấy then cửa chưa cài, mà hình như cánh cửa được khép lại từ bên trong. Vì vậy, tôi e mình đã không ngủ mê, và từ nay trở đi, tôi buộc phải hành động, bắt đầu từ cái điều gần như xác thực này.
* * * * *
Ngày 19 tháng 5
Chắc chắn tôi đã sa vào lưới của lão bá tước, có hy vọng trốn thoát cũng chỉ là đlều viển vông. Tối hôm qua, bằng cái giọng như có bùa ngải, lão lại bắt tôi phải viết tiếp ba lá thư khác, thông báo tôi sắp sửa kết thúc công việc ở đây và sẽ quay về trong khoảng dăm hôm nữa, lá thứ hai phải viết rằng tôi sẽ rời khỏi đây ngay ngày hôm sau. Lá cuối cùng cho biết tôi đã rời khỏi lâu đài và đang trên đường về Bistritz. Thực tình mà nói, tôi rất muốn làm loạn để chống lại sự ép buộc này, nhưng khi nghĩ lại, tôi thấy sẽ là điên rồ nếu bàn về thiện chí của bá tước, bởi lúc này tôi hoàn toàn nằm trong tay lão, nếu không chịu nghe theo lời lão, tôi sẽ khiến lão nghi ngờ và nổi cơn điên. Lão hiểu tôi rằng đã quá rõ về lão và có thể trở thành một mối nguy hiểm đới với lão. Cơ may duy nhất của tôi, nếu còn có thể gọi như vậy, là cố gắng kéo dài tình trạng hiện nay. Biết đâu sẽ có một cơ hội xuất hiện cho phép tôi trốn thoát... Tôi đã được biết trong đôi mắt lão chứa chất đầy sự hung bạo khi lão đẩy thô bạo ả đàn bà tuyệt đẹp kia. Lão giải thích vôi tôi dịch vụ bưu điện ở đây rất thất thường, các lá thư sẽ làm cho bạn bè tôi yên tâm. Lão còn bảo tôi rằng với lá thư cuối cùng tôi phải viết, lão sẽ nhờ giữ lại ở Bistritz cho đúng đến ngày tôi thực sự phải trở về, vì sợ thời gian tôi ở lại đây sẽ còn kéo dài. Lão nói với một vẻ tin tưởng đến nỗi chỉ cần tôi khẽ mở mồm phản đối thôi cũng đủ để gây ra cho lão những mối nghi ngờ mới. Vậy là tôi phải cố kiềm chế. Tôi hỏi lão xem tôi phải điền ngày tháng vào thư như thế nào, lão trả lời :
- Lá thứ nhất ghi ngày 12 tháng 6, lá thứ hai ghi ngày 19, và lá thứ ba ghi ngày 29.
Bây giờ thì tôi đã hiểu thời gian tôi còn phải ở lại đây là bao nhiêu lâu. Cầu Chúa che chở cho con!
* * * * *
Ngày 28 tháng 5
Có thể tôi sẽ tìm được cách thoát thân - hoặc ít nhất là gửi được chút tin tức về nhà. Những người Digan đã trở về lâu đài và cắm trại ở dưới sân. Tôi sẽ viết vài lá thư rồi cố gắng nhờ họ gửi hộ ra bưu điện. Tôi đã bắt chuyện với họ từ cửa sổ phòng mình, chúng tôi đã làm quen với nhau. Họ biểu lộ tâm tư bằng cách cúi đầu thật thấp và làm mọi cách nói bằng dấu hiệu với tôi, mà thú thực là tôi chẳng hiểu gì cả...
Các lá thư đều đã được viết xong. Thư gửi Mina tôi vẫn viết theo lối tốc ký, còn thư gửi ngài Hawkins, tôi chỉ yêu cầu ông ta cố gắng liên lạc với Mina. Tôi thông báo rõ tình hình của tôi cho cô bạn gái, nhưng không hề đá động gì tới những nỗi khiếp đảm đã trải qua. Cô ấy sẽ sợ phát khiếp nếu như tôi hé nửa lời về hoàn cảnh của mình. Vì vậy, cho dù những lá thư này không đến được địa chỉ, thì lão bá tước cũng không thể nghi ngờ gì về mức độ tôi đã nắm bắt được các ý đồ của lão...
Tôi ném hai lá thư kèm theo một đồng tiền vàng qua cửa sổ cho những người Digan và ra hiệu cho họ hiểu tôi muốn nhờ họ mang thư ra bưu điện. Có một người chạy ra nhặt thư, ép vào ngực, rồi cúi đầu chào tôi đúng như phong tục của người Digan, sau đó anh ta bỏ mấy lá thư vào mũ. Bây giờ thì tôi còn có thể làm gì khác ngoài việc chờ đợi? Lát sau, tôi lại mò vào thư viện đọc sách. Tôi viết những dòng này khi lão bá tước chưa tới...
Tuy nhiên, tôi cũng không được ngồi lâu một mình, lão bá tước đã bất ngờ đến ngồi bên tôi và nói với tôi bằng cái giọng nhẹ nhàng quen thuộc trong lúc mở hai lá thư ra cho tôi xem :
- Đám người Digan vừa trao lại cho tôi mấy tờ giấy này, dù không hiểu nguồn gốc của chúng, song tôi vẫn giữ chúng rất cẩn thận! Ngài nhìn xem... (vậy là lão đã xem mấy lá thư rồi). Cái này là của ngài, gửi cho ông bạn Peter Hawkins của tôi; còn cái này... (lúc mở lá thư thứ hai ra xem những dòng chữ tốc ký nguệch ngoạc, mặt lão tối sầm lại, đôi mắt ánh lên vẻ giận dữ và độc ác)... cái này trước mắt tôi là một sự bỉ ổi, nó phản bội một tình bạn hiếu khách! Và hơn nữa, nó lại không có chữ ký nữa chứ... Vì vậy, nó không thể dính dáng đến chúng ta được.
Rồi lão thản nhiên đưa cả phong bì lẫn lá thư vào ngọn đèn bàn, đợi cho những tờ giấy cháy hết, lão mới quay sang bảo tôi :
- Còn lá thư gửi ngài Hawkins, tức là lá thư còn lại này, tự tôi sẽ mang đi gửi bởi đó là thư do chính ngài viết. Đối với tôi, các lá thư của ngài đều là những gì thật linh thiêng. Chắc ngài sẽ tha thứ cho tôi về việc tự ý mở thư của ngài, có phải vậy không ông bạn? Tôi thật không biết đó là thư của ai. Ngài sẽ bỏ lại thư vào phong bì hộ tôi chứ?
Lão cúi đầu, vẻ rất lịch sự, đưa cho tôi một chiếc phong bì mới. Tôi chỉ còn biết viết lại địa chỉ và miễn cưỡng đưa lại cho lão. Lão chào tôi rồi bỏ ra khỏi thư viện. Cánh cửa vừa khép lại, tôi chợt nghe có tiếng chìa khóa khẽ xoay trong ổ. Một lát sau tôi mới dám ra mở thử, quả thực cánh cửa đã bị khóa chặt.
Phải đến một hoặc hai tiếng sau, lão bá tước mới quay trở lại thư viện, nét mặt vẫn thản nhiên như không. Tôi giật mình tỉnh dậy, bởi lúc đó tôi đang nằm ngủ trên ghế trường kỷ. Lão nói với tôi bằng một giọng rất vui vẻ và tử tế.
- Mệt lắm phải không ông bạn? Vậy thì về giường mà nằm đi. Đó chính là nơi ngài có thể ngon giấc nhất đấy. Vả lại, tối nay tôi cũng không thích ngồi chuyền trò với ngài, vì tôi còn rất nhiều việc phải làm. Hãy về ngủ đi, tôi đề nghị ngài đấy...
Tôi về phòng tiếp tục ngả lưng, và thật kỳ lạ, đúng là tôi đã ngủ thật yên giấc mà không hề mê man một chút nào. Sự thất vọng đã tự mang đến cho nó một liều thuốc dịu êm.
* * * * *
Ngày 31 tháng 5
Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi thức dậy sáng nay là lấy vài tờ giấy và mấy cái phong bì cất trong túi du lịch nhét vào túi áo, để có thể tranh thủ viết nếu có dịp trong ngày. Nhưng lại thêm một sự kinh ngạc, một cú sốc nữa đến với tôi!
Tất cả giấy má của tôi đều đã biến mất, từ những thứ vô nghĩa cho tới những thứ cần thiết và không cần thiết cho tôi nếu như tôi có cơ hội rời khỏi lâu dài.
Ngồi thừ một lúc tôi mới sực nhớ đến việc kiểm tra nết chiếc va ly và tủ quần áo, nơi tôi cất quần áo của mình.
Bộ quần áo tôi định cầm theo để đi đường không còn ở trong tủ, rồi đến tấm áo choàng, chăn du lịch... cũng đều biến mất sạch. Tôi lục tìm lung tung, nhưng chỉ mất công vô ích...
Không hiểu lão định âm mưu gì với cái trò mèo này?
* * * * *
Ngày 17 tháng 6
Sáng nay, lúc đang ngồi nghĩ mông lung ở mép giường, tôi chợt nghe thấy có tiếng roi đánh đôm đốp ở bên ngoài, tiếp đó là tiếng vó ngựa kêu lộc cộc trên con đường rải sỏi dẫn vào sân lâu đài. Mừng khấp khởi trong lòng, tôi chạy vội đến bên cửa sổ nhìn xuống sân có hai chiếc xe khá lớn đang chạy vào, mỗi chiếc đóng tám con ngựa lực lưỡng, do một người Slovaki ăn mặc theo kiểu truyền thống dân tộc điều khiển. Tôi quay ngoắt ra cửa với ý định chạy xuống lối cửa chính để ra sân, bởi tôi nghĩ thế nào người ta cũng sẽ mở cửa đằng này. Nhưng lại thêm một cú sốc: cánh cửa đã bị khóa chặt!
Tôi đành phải quay về cửa sổ gọi xuống sân. Tất cả ngẩng đầu nhìn tôi, tay chỉ chỉ trỏ trỏ, vẻ rất kinh ngạc. Đúng lúc đó, thủ lĩnh nhóm Digan xuất hiện. Thấy đám bộ sâu đang chăm chú nhìn lên cửa sổ, ông ta buông ra một câu gì đó khiến đám người cười phá lên. Vậy là tất cả các nỗ lực của tôi đều trở nên công cốc, thậm chí lúc này chẳng còn ai thèm ngước nhìn lên cửa sổ nữa. Hai chiếc xe ngựa chở đến những chiếc hòm lớn vuông vức, có quai cầm được làm bằng loại dây rất to. Nhìn cách khuân vác của những người Slovaki và tiếng hòm đập bồm bộp xuống sân, tôi đoán đó là các hòm rỗng không. Khi tất cả được chất thành một đống ở góc sân, đám người Digan trả cho người Slovaki mấy đồng xu bạc. Lĩnh tiền xong, người Slovaki đánh ngựa quay trở ra. Tôi thẫn thờ đứng bên cửa sổ nghe tiếng vó ngựa xa dần rồi mất hẳn.
* * * * *
Ngày 24 tháng 6, trước buổi bình minh
Tối hôm qua, lão bá tước rời tôi khá sớm để về phòng lão. Đợi lão đi khỏi, tôi rón rén leo vội lên chiếc cầu thang xoáy trôn ốc, với ý định rình lão ở ô cửa sổ phía nam. Tôi tin chắc là sắp có chuyện xảy ra. Đám người Digan đã bỏ đi làm việc gì đó trong lâu đài tôi không biết, chỉ biết là họ đang làm việc, bởi thỉnh thoảng tôi lại nghe thấy những tiếng lịch kịch như tiếng cuốc xẻng từ xa vọng tới. Tôi linh cảm đây hẳn là một việc làm tội lỗi.
Tôi đứng khoảng gần nửa tiếng bên cửa sổ thì thấy một cái bóng thập thò ở cửa sổ phòng bá tước. Bóng đen ấy thò đầu ra trước rồi nhanh chóng nhoài cả thân người ra ngoài. Đó chẳng phải ai khác ngoài lão bá tước. Nhưng lần này, lão làm tôi phải kinh ngạc hơn nhiều: lão đang mặc bộ đồ mà tôi đã mặc trong cuộc hành trình đến lâu đài, trên vai lão là chiếc túi đáng sợ mà tôi đã thấy nó biến mất cùng ba ả đàn bà. Không còn nghi ngờ gì nữa, mục đích của lão là muốn dùng bộ dạng bên ngoài của tôi cho một hành động mờ ám mới mà tôi chưa rõ. Quả là một trò cực kỳ tinh quái của lão: lão định làm người khác tưởng là tôi. Làm như vậy, lão có thể chứng minh cho mọi người thấy tôi cũng đã được phép ra bưu điện thành phố hoặc bưu điện ở các làng lân cận để bỏ thư của mình, và từ nay trở đi, mọi hành vi hèn hạ của lão đều có sự góp phần của tôi.
Tôi bắt đầu thấy điên tiết khi nghĩ mọi mánh khóe của lão rồi vẫn cứ tiếp tục diễn ra trong khi tôi bị khóa chặt ở đây, bị nhất như một tù nhân thực sự mà không hề có một sự che chở, bảo vệ nào.
Tôi quyết định cứ đứng như vậy bên cửa sổ chờ lão quay trở về, bởi chẳng có gì khiến tôi muốn bỏ đi khỏi chỗ đang đứng. Được một lúc, tôi chợt giật mình khi trông thấy những chấm nhỏ kỳ lạ đang nhảy nhót cùng ánh trăng. Chúng giống như những hạt bụi li ti đang quay cuồng và thỉnh thoảng lại tụ lại như một đám mây nhỏ. Nhìn vào những hạt bụi ấy, tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng như nhẹ nhõm hẳn đi. Tôi đứng tựa vào khung cửa sổ tìm một tư thế dễ chịu hơn để có thể ngắm cho rõ cảnh tượng lạ mắt này.
Chợt có một cái gì đó khiến tôi giật mình những tiếng kêu nặng nề và rên rỉ của bầy chó vọng lên từ dưới thung lũng. Những tiếng kêu ấy mỗi lúc một rõ hơn, và tôi thấy dường như các hạt bụi đang chuyển sang thành những hình hài mới tùy theo tiếng ầm ĩ xa gần đó, có điều là lúc này chúng đang nhảy nhót dưới một ánh trăng yếu ớt hơn. Dường như tôi đang ráng sức đánh thức các bản năng luôn ngủ vùi nơi tiềm thức sâu thẳm của chính mình, linh hồn sống của tôi đang giãy giụa đáp lại những tiếng gọi hoang dại ấy. Tôi đang bị thôi miên bởi cảnh tượng kỳ quái ngay trước mắt! Những hạt bụi nhảy nhót mỗi lúc một nhanh hơn, các tia sáng trăng dường như cũng bắt đầu nhảy nhót ngay gần tôi, rồi bỗng nhiên mất hút vào bóng tối. Lúc này thì cả những tia sáng cũng hội tụ lại tạo thành những hình thù ma quái... Tôi giật thót người một lần nữa, cái giật mình bất ngờ làm tôi bừng tỉnh và trả lại tôi sự tự chủ, tôi vừa kêu gào vừa bỏ chạy thục mạng. Các hình thù ma quái đang dần dần tách ra khỏi ánh trăng, và giờ tôi đã có thể nhận ra chúng: đó chính là những người đàn bà mà từ nay trở đi, số phận sẽ ràng buộc tôi với họ. Chạy về đến phòng tôi mới cảm thấy yên lòng hơn một chút: ở đây, ánh trăng sẽ không thể lọt được vào, chỉ có ánh đèn soi tỏ mọi góc ngách nhỏ nhất.
Khoảng hai tiếng sau, tôi chợt nghe thấy một âm thanh gì đó giống như tiếng oe oe kêu khóc của trẻ con vọng tới từ phòng lão bá tước. Nhưng rồi tiếng kêu the thé và ngạt ngạt ấy đã nhanh chóng tắt lịm, trả lại bầu không khí tĩnh mịch sâu thẳm, rùng rợn, làm tôi gai người. Tôi chạy vội ra mở cửa, song cánh cửa một lần nữa bị khóa chặt trước sự bất lực hoàn toàn của tôi. Tôi chỉ còn biết ngồi phục xuống giường mà khóc cho số phận.
Đó chính là lúc tôi nghe thấy một tiếng kêu gào ở ngoài sân, tiếng kêu gào đau đớn của một phụ nữ. Tôi ra cửa sổ nhìn xuống, quả thật ở dưới sân có một người đàn bà đầu tóc xõa xượi, hai tay ôm ngực kêu khóc thảm thiết. Chợt nhìn thấy tôi bên cửa sổ, mụ bỗng kêu rống lên, giọng đầy hăm dọa :
- Đồ quỷ dữ, hãy trả lại đứa con cho tao?
Rồi mụ quỳ sụp xuống, hai tay giơ lên trời, miệng lảm nhảm, giọng the thé nhắc đi nhắc lại câu đòi con. Không thấy ai trả lời, mụ bắt đầu bứt tóc, tay đấm thùm thụp vào ngực, và làm đủ những trò lố lăng khác mà chỉ có những kẻ đau đớn đến tột cùng mới làm được. Cuối cùng, mụ lao bổ về phía trước lâu đài. Dù không còn trông thấy mụ, tôi vẫn nghe thấy những tiếng đấm thùm thụp điên dại vào cánh cửa ra vào.
Cùng lúc đó, tôi nghe thấy giọng lão bá tước, có lẽ từ trên tháp lâu đài vọng xuống. Giọng lão rì rầm, khàn đục và có cái gì đó như tiếng kim. Và bất chợt từ xa, tiếng kêu hú của bầy sói bỗng rộ lên như đáp lại tiếng gọi của lão. Quả thực, vài phút sau, một đàn sói bỗng từ đâu ào ào chạy tới đầy sân lâu đài với một sức mạnh như con nước tràn đập.
Mụ đàn bà gần như không kịp kêu thêm một tiếng, và bầy sói cũng gần như im lặng ngay lập tức. Loáng một cái, tôi đã thấy chúng nối đuôi nhau rút lui với cái lưỡi thè lè liếm mép.
Thực lòng mà nói, tôi không có gì phàn nàn cho người đàn bà ấy, bởi số phận đen đủi đã đến với đứa con của mụ, nên tốt hơn, là cứ để mụ được về nơi chín suối cùng đứa con bất hạnh.
Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi có thể làm được điều gì bây giờ? Làm sao thoát khỏi cái đêm dài hãi hùng này đây?
* * * * *
Ngày 25 tháng 6, buổi sáng
Những người chưa từng trải qua những đêm tối hãi hùng sẽ không thể cảm nhận được cái dịu dàng và trong lành của buổi sớm mai. Sáng nay, khi những tia nắng sớm khẽ đậu trên hàng rào song sắt ngay chỗ trước ô cửa sổ phòng tôi trông xuống, tôi cứ tưởng có một chú bồ câu hòa bình vừa đậu ở đó! Vậy là bao nỗi lo sợ trong tôi đã biến mất như một làn hơi nước dưới ánh mặt trời. Ánh nắng đã trả lại cho tôi lòng dũng cảm, vì vậy tôi phải quyết ra tay hành động ngay! Tối hôm qua, một trong những lá thư tai quái, những lá thư có thể xóa sạch sự tồn tại của tôi trên đời này, những lá thư định mệnh mà lão bá tước bắt tôi phải viết đã được gửi đi. Tốt hơn hết là hãy đừng nghĩ quá nhiều đến chúng, mà phải tìm cách hành động?
Trong suốt thời gian ở lại lâu đài, đêm nào tôi cũng cảm thấy các mối đe dọa, theo cách này hay cách khác, đè nặng lên người, buộc tôi phải tin là mình luôn đứng trước một mối nguy hiểm. Có một điều rất lạ là từ khi đến đây, tôi chưa một lần được thấy lão bá tước vào ban ngày. Phải chăng lão đã ngủ trong khi người khác thức, và chỉ thức vào lúc người khác đã ngủ? Kỳ lạ thật! Giá như chui được vào phòng lão thì hay biết mấy! Nhưng đó là điều không thể được. Cửa phòng lão bao giờ cũng khóa, không có cách nào...
Không, vẫn có một cách... nhưng vấn đề là ở chỗ tôi có dám làm hay không. Lối mà lão bá tước vẫn dùng để chui ra ngoài, tại sao tôi lại không làm như lão được? Tôi đã vài lần trông thấy lão bò qua cửa sổ. Tại sao tôi không thể mò vào phòng lão theo đường cửa sổ ấy? Đây quả là một việc làm rất khó khăn, nhưng tình cảnh của tôi lúc này còn tuyệt vọng hơn nhiều. Tôi sẽ liều một phen. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với tôi, đó là cái chết. Song cái chết của một con người đâu phải là cái chết của một con vật, và có khi tôi còn được Chúa ban cho một cuộc sống vĩnh hằng ấy chứ. Chúa sẽ phù hộ cho tôi! Mina, xin gửi em lời chào vĩnh biệt nếu như anh không trở về. Vĩnh biệt người bạn chung thủy của tôi, người lúc nào cũng coi tôi như một vị cha thứ hai của mình. Cuối cùng, xin được vĩnh biệt tất cả. Mina ơi, một lần nữa xin được vĩnh biệt em!
* * * * *
Buổi sáng cùng ngày, một lúc sau
Vậy là tôi đã xuống được dưới đó và ơn Chúa phù hộ, tôi đã trở về phòng mình mà không sứt mẻ gì cả. Tôi sẽ giải thích mọi chi tiết ngay bây giờ.
Lúc đó, không hiểu sao tôi lại can đảm đến thế! Tôi đi về phía ô cửa sổ phía nam lâu đài rồi leo ngay lên rìa đá hẹp chạy dọc bức tường bên ngoài. Các viên đá xây ngoài rìa tường đều rất lớn và chỉ được đục đeo rất sơ sài giữa các mạch vữa, như tôi đã nói, đều tróc lở vì năm tháng. Việc tôi đặt chân lên các gờ đá cheo leo này cũng đồng nghĩa với việc lao vào một cuộc phiêu lưu chết người...
Leo được vài bước, tôi thử cúi nhòm xuống dưới chân lâu đài nằm sâu hun hút xem có chóng mặt không, nhưng rõ ràng là tôi không dám làm như vậy quá một giây. Tôi hoàn toàn xác định được vị trí ô cửa sổ phòng lão bá tước và cố gắng leo tới đó càng sớm càng tốt. Sự cheo leo của rìa tường không làm tôi chóng mặt, bởi lúc nào tôi cũng cố gắng nhìn ngang. Và trong một khoảng thời gian mà tôi thấy là rất ngắn ngủi, tôi đã leo tới rìa cửa sổ cánh sập phòng lão bá tước.
Sau khi đẩy được cánh cửa lên, tôi co gập người, thò hai chân vào trước rồi chuồi vào trong phòng. Tôi lấm lét nhìn quanh, thật may là lão bá tước không có trong phòng. Đồ đạc dưới này không có gì nhiều chỉ có vài thứ đồ gỗ cọc cạch có vẻ như chẳng bao giờ được sử dụng; thứ nào thứ nấy đều phủ đầy bụi, một số trông rất giống với những đồ tôi đã trông thấy trong các phòng ở cháy phía nam lâu đài. Tôi nghĩ ngay đến chiếc chìa khóa, nhưng nó không được cắm trong ổ, và tôi cũng không tìm thấy ở đâu cả Sự chú ý của tôi dừng lại ở một đống tiền vàng đầy túi ụ nằm ở góc phòng - đó là đống tiền xu đủ loại của các nước Rumani, Anh, Áo, Hungary, Hy Lạp. Những đồng tiền này có vẻ như đã nằm ở đó từ rất lâu bởi có một lớp bụi phủ dày. Tất cả đều là những đồng tiền cổ có niên đại cách đây ít nhất là ba trăm năm. Tôi cũng nhận ra vài sợi dây chuyền và mấy đồ mỹ nghệ có nạm ít nhiều đá quý, nhưng những thứ này đều 100 rất cũ kỹ và bị hư hỏng cả.
Tôi đi về phía một tấm cửa nặng nề vừa được phát hiện ở một góc phòng, bởi vì không tìm được chìa khóa phòng cũng như chìa khóa cửa lâu đài đây là điều tôi không được quên và là mục tiêu tìm kiếm chính của tôi nên tôi buộc phải lục tìm, khám phá lung tung, nếu không cuộc phiêu lưu mạo hiểm vừa rồi của tôi sẽ chẳng có tác dụng gì cả. Cánh cửa này mở ra một hành lang có các bức tường xây toàn bằng đá, dẫn đến một cầu thang xoáy chôn ốc. Tôi thận trọng bước xuống, vì chiếc cầu thang đựng đứng này chỉ được chiếu sáng nhờ hai lỗ châu mai trên một bức tường rất dày. Xuống hết cầu thang, tôi lại rơi vào một hành lang tối tăm khác, một đường hầm thực sự, sặc mùi chua, hăng hắc, gợi cho tôi liên tưởng tới mùi của các xác chết đó là một mùi bốc lên từ lớp đất vừa được đào bới. Càng bước sâu vào trong, thứ mùi đó càng có vẻ nặng hơn khiến tôi gần như không thê chịu nổi. Cuối cùng, tôi mở toang cánh cửa rất đầy khác trong dãy hành lang. Tôi đang đứng trước một nhà thờ cổ điêu tàn, nơi hẳn đã có những thi thể được chôn cất. Mái nhà thờ thủng lỗ chỗ, hai bên tường có rất nhiều bậc thềm dẫn tới các hầm mộ. Tôi nhận ra lớp đất vừa bị đào xới và những xẻng đất đổ đầy các thùng lớn đặt rải rác xung quanh: chắc chắn đó chính là những thùng gỗ mà đám người Slôvaki vừa chở đến. Trong nhà thờ chẳng có ai cả. Tôi vẫn tiếp tục mò mẫm: biết đâu ở trong này lại có một lối ra? Không, không có một lối thoát nào cả. Tôi tiếp tục kiểm tra kỹ hơn nữa. Và mặc dù rất ghê tởm, tôi vẫn xông bừa vào các hầm mộ, nơi đang hắt ra những tia sáng yếu ớt. Trong hai hầm mộ đầu tiên, tôi chẳng tìm thấy gì ngoài những mảnh áo quan cổ và những đám bụi.
Vào hầm mộ thứ ba, tôi bỗng giật thót người khi phát hiện ra một điều.
Lão bá tước đang nằm lù lù trên một chiếc hòm đặt trên một đống đất mới đào? Tôi không thể nói là lão đã chết hay đang ngủ, bởi đôi mắt lão vẫn đang mở thao láo, vô hồn như đôi mắt đá, nhưng không lờ đờ như mắt người chết. Hai gò má của lão, dù xám ngoét, có vẻ như vẫn giữ được hơi ấm của sự sống, còn đôi môi thì vẫn đỏ như thường có ở lão. Tuy nhiên, thân thể lão lại hoàn toàn bất động, không có dấu hiệu của hơi thở, và trái tim dường như đã ngừng đập trong lồng ngực của lão. Dù thế, tôi vẫn cúi xuống với hy vọng là lão chỉ vừa nằm ở đây thôi, bởi mùi đất vẫn còn rất mới. Cái nắp hòm thủng lỗ chỗ được dựng tựa vào đống đất. Tôi nghĩ có thể các loại chìa khóa đang được cất trong các túi quần áo lão đang mặc, nhưng khi định tiến lại gần lão để lục soát, tôi lại đâm ra nhụt chí. Rõ ràng là trước sự có mặt của tôi, ánh mắt lão vẫn cứ tắt lịm và không có biểu hiện gì của sự nhận thức, song sự hận thù còn đọng lại trong đôi mắt trợn tròn ấy đã khiến tôi phải lập tức bỏ trốn, quay về phòng lão, trèo qua cửa sổ và bò ngược theo bức tường. Khi đã về tới phòng mình, tôi ngồi phục lên giường mà thở. Tôi cố chắp lại tất cả các ý nghĩ của mình...
* * * * *
Ngày 29 tháng 6
Hôm nay là ngày gửi lá thư cuối cùng của tôi. Lão bá tước hẳn đã không quên chuyện này, bởi một lần nữa tôi trông thấy lão rời khỏi lâu đài theo lối cửa sổ, trong khi vẫn không quên khoác bộ đồ của tôi trên người. Nhìn lão bò xuống theo bức tường như một con thằn lằn, tôi chỉ có một mong muốn: vớ lấy một khẩu súng hoặc bất cứ một thứ vũ khí chết người nào để cho lão một phát! Mặc dù tôi không biết thứ vũ khí ấy có tác dụng gì đối với lão hay không. Tôi không dám rình lão quay trở về, vì lúc này tôi đã thực sự cảm thấy sợ khi phải một lần nữa trông thấy bộ ba chết chóc lần trước. Tôi quay về thư viện tìm một cuốn sách để đọc cho khuây khỏa; nhưng chỉ được một lát, tôi đã lăn ra ngủ.
Sự xuất hiện của bá tước đã làm tôi thức dậy. Lão nói với tôi, giọng đầy vẻ hăm dọa :
- Ông bạn ạ, ngày mai chúng ta sẽ tạm biệt nhau. Ngài sẽ trở về nước Anh tươi đẹp của ngài. Sau này, có thể chúng ta sẽ không còn gặp nhau nữa. Lá thư ngài viết cho người thân đã được bỏ vào bưu điện. Ngày mai tôi sẽ không có mặt ở đây, nhưng tất cả những gì cần cho chuyến đi của ngài đều đã được chuẩn bị chu đáo. Người Digan sẽ tới đây vào buổi sáng, bởi họ có việc cần phải làm, cả đám người Slovaki cũng vậy Khi họ đi rồi, xe của tôi sẽ đến tìm ngài và chở ngài tới đèo Borgo, nơi ngài sẽ đón xe khách về Bistritz. Nhưng dù thế nào đi nữa thì tôi cũng vẫn hy vọng sẽ có ngày lại được đón tiếp ngài ở lâu đài Draculal!
Nghe vậy, tôi quyết định thử xem lão thành thật đến mức nào, sự thành thật của vị bá tước như lão. Tôi có cảm giác như muốn làm uế tạp ý nghĩ này khi hình dung tới một con quỷ. Tôi đột ngột hỏi lão :
- Tại sao tôi không thể đi luôn vào tối nay?
- Ông bạn thân mến ạ, bởi vì tay xà ích và đàn ngựa của tôi đều đang có việc phải đi.
- Nhưng tôi sẽ rất vui lòng nếu được như vậy. Nói thật với ngài nhé, tôi muốn được rời khỏi đây ngay lập tức.
Lão cười, một nụ cười thật dịu dàng nhưng cũng rất quỷ quái, một nụ cười mà tôi có thể dễ dàng đoán được cái ý đồ đen tối hàm chứa trong cái vẻ dịu dàng đến lạnh người ấy.
- Thế còn hành lý của ngài thì sao? - Lão hỏi.
- Không quan trọng. - Tôi đáp lại. - Tôi sẽ cho lấy sau cũng được.
Lão đứng dậy và nghiêng mình cúi chào tôi, cử chỉ của lão lịch sự đến nỗi suýt nữa thì tôi phải dụi mắt vì không nghĩ lão lại có thể thành thực đến thế.
- Người Anh các ngài có một câu ngạn ngữ mà tôi rất thích, bởi nó thể hiện rất rõ cái tinh thần trong cách xử sự của những người thuộc dòng dõi quý tộc chúng tôi: “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi!” Hãy đi theo tôi, ông bạn trẻ thân mến, ngài sẽ không phải miễn cưỡng ở lại đây thêm một giờ nào nữa, mặc dù tôi thật buồn khi phải chia tay với ngài và khi ngài sốt ruột muốn đi sớm như vậy. Lại đây?
Lão trịnh trọng cầm cây đèn và dẫn tôi xuống cầu thang rồi đi tiếp về phía cửa chính của lâu đài. Nhưng khi đi tới giữa hành lang, lão bỗng đột ngột dừng lại.
- Ngài hãy nghe đi! - Lão bảo tôi.
Có tiếng hú của bầy sói ở một nơi không xa lâu đài. Lão vung tay lên, và dường như những tiếng hú ấy cũng cấp cao lên theo động tác của lão, giống như dàn nhạc phải tuân theo chiếc đũa của người chỉ huy. Lát sau, vẫn cái dáng vẻ ai nghiêm, lão bước tiếp. Ra tới cổng lâu đài, lão rút chốc cửa, kéo tuột những sợi dây xích nặng nề xuống rồi từ từ mở cửa.
Tôi ngạc nhiên: như vậy là cửa không khóa. Chưa tin đây là sự thật, tôi ngơ ngác nhìn quanh, song vẫn không thấy chìa khóa đâu cả.
Cánh cửa càng mở rộng ra bao nhiêu thì tiếng kêu gào của bầy sói càng dữ dội bấy nhiêu. Lũ súc vật, con nào con nấy đều nhe răng thè lưỡi đỏ hỏn, vẻ rất hăm dọa, có con còn nghiến răng ken két. Không hiểu chúng xuất hiện ngoài cửa từ lúc nào. Tôi chợt hiểu mình không thể cưỡng lại ý muốn của bá tước. Tôi có thể làm gì để chống lại lão, khi lão có những đồng minh ghê sợ kia? Tuy nhiên, cánh cửa vẫn từ từ rộng mở, và lão bá tước thản nhiên ra đứng ngay ở ngưỡng cửa. Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ: có lẽ giờ định mệnh của tôi đã điểm; tôi sẽ bị đẩy ra làm mồi cho lũ chó sói, bởi vì tôi muốn thế. Ngón đòn nham hiểm này hẳn phải làm lão bá tước rất vui. Và như chẳng còn cách lựa chọn nào khác, tôi buộc phải kêu lên để tìm cho mình một vận may cuối cùng :
- Đóng cửa lại đi! Tôi sẽ đợi? Tôi sẽ đi vào sáng mai vậy?
Chỉ nói được có vậy, tôi lấy tay ôm mặt giấu đi những giọt nước mắt đắng cay tuyệt vọng.
Bàn tay thép của lão bá tước kéo mạnh cánh cửa nặng nề vào và cài các chất lại, tiếng va chạm của kim khí vang lên khô khốc trong hành lang.
Không ai nói với ai một lời, chúng tôi quay trở về thư viện, nhưng thấy chẳng có lý do gì để ngồi lại đấy, tôi đi luôn về phòng. Lần cuối cùng ngoái lại nhìn bá tước Dracula, tôi thấy lão vừa đưa tay làm một nụ hôn gió chào tôi, đôi mắt lão ánh lên vẻ đắc thắng cùng với một nụ cười ma quái mà đến quỷ Judas cũng phải lấy làm tự hào.
Tôi chuẩn bị lên giường nằm thì chợt nghe thấy hình như có tiếng ai đó đang thì thầm ngoài cửa. Tôi rón rén bước lại gần nghe ngóng xem sao. Tôi tin là mình đã nhận ra giọng lão bá tước :
- Không được, không được. - Giọng nói vẫn cất lên. - Quay về hết cả đi! Bây giờ không phải lúc cho chúng bay...
- Hãy cứ đợi đấy! Phải biết kiên nhẫn chứ! Đêm nay sẽ thuộc về tao, đêm tới mới dành cho chúng bay!
Đáp lại lời bá tước là những tiếng cười khanh khách giễu cợt. Tức điên người, tôi mở bật cửa ra, trước mặt tôi là ba mụ đàn bà đang đứng liếm mép. Nhận ra tôi, chúng lại rộ lên những tiếng cười cợt nhả và độc ác trước khi bỏ đi.
Tôi lảo đảo quay vào và đổ khuỵu xuống sàn nhà. Chẳng lẽ ngày tận số của tôi lại mau tới đến thế sao? Ngày mai! Ngày mai! Lạy Chúa! Hãy cứu con, cứu tất cả những người thân của con!
* * * * *
Ngày 30 tháng 6, buổi sáng
Có thể đây sẽ là những dòng cuối cùng tôi còn viết được trong cuốn nhật ký này. Ngay sau khi thức dậy trước buổi bình minh, tôi đã vội quỳ gối xuống sàn, bởi nếu như giờ tận số của tôi đã điểm, thì tôi muốn rằng thần chết phải được thấy tôi đã sẵn sàng.
Quỳ gối được một lúc thì tôi bắt đầu cảm nhận được rằng bầu không khí buổi sớm đang có một sự thay đổi tinh tế đến khó tả... và buổi sáng vẫn đang đến... khi có tiếng gà gáy đầu tiên. Tôi cảm thấy mình dường như đang thoát chết. Tôi mở cửa, bước xuống cầu thang trong một tâm trạng nhẹ nhõm hơn. Cổng lâu đài rõ ràng là không khóa như vậy là tôi lại có cơ hội chạy trốn! Tôi nôn nóng tháo xích, mở then, hai tay run run.
Nhưng cánh cửa vẫn không hề nhúc nhích. Sự nản chí, nỗi tuyệt vọng trong tôi dần dần lên tới cực điểm. Tôi lao bừa cả người vào cánh cửa với hy vọng sẽ tìm được lối thoát, song tất cả chỉ là vô ích. Lúc này tôi mới hiểu cánh cửa đã bị khóa ngay sau khi tôi chia tay với lão bá tước.
Tuy nhiên, tôi vẫn tự nhủ rằng bằng mọi giá, tôi phải tìm và lấy cho bằng được chiếc chìa khóa khốn nạn ấy, tôi sẽ lại leo theo bức tường và chui vào phòng lão bá tước. Chắc chắn tôi sẽ nhận được cái chết nếu lão bắt gặp tôi trong phòng lão, nhưng trong số những điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với tôi, thì cái chết dường như chỉ là điều tối thiểu. Và không chậm trễ một phút, tôi trèo ngay qua cửa sổ, leo xuống phòng lão bá tước. Căn phòng trống rỗng. Tôi không tìm thấy chìa khóa ở đâu. Đồng tiền vàng vẫn còn nguyên đó. Tôi lần theo cầu thang và dãy hành lang tối tăm mà lần trước tôi đã đi để tới nhà thờ. Tôi biết rất rõ con quỷ mà tôi tìm kiếm đang nằm ở đâu.
Chiếc hòm lớn vẫn nằm nguyên chỗ cũ, sát chân tường, song có điều là lần này nó được đậy nắp cẩn thận nắp hòm được đóng mớm sẵn những chiếc đinh như để chờ những nhát búa. Tôi biết rằng phải lục soát cái thây ma nằm bên trong thì may ra mới tìm được chìa khóa. Vì vậy, tôi buộc phải nhấc nắp hòm lên và để nó dựa vào tường, cái thây ma trong hòm đã làm tôi sợ khiếp vía?
Vâng, vẫn là lão bá tước đang nằm trong đó, nhưng lúc này trông lão lại có vẻ trẻ hơn một nửa, bởi mái tóc, bộ râu bạc trắng của lão đã chuyển sang một màu xám như tro bếp; hai má lão cũng có vẻ đầy đặn hơn và dường như còn có một màu hồng tươi dưới lớp da xanh nhợt. Đặc biệt là đôi môi, đôi môi lão lúc này trông rõ ràng là đỏ mọng hơn bao giờ hết với những giọt máu tươi trào ra từ hai bên mép, chảy tràn xuống cằm rồi xuống tận cổ. Hai con mắt sâu hoắm và long sòng sọc của lão bị mất hút trên một bộ mặt như phù nề. Tôi có cảm tưởng con quái vật khủng khiếp này chỉ sống bằng máu tươi. Cứ nghĩ đến việc cúi xuống sờ vào người lão là tôi thấy run, sự tiếp xúc đó làm trào lên trong tôi một cảm giác ghê tởm, nhưng dù thế nào thì tôi cũng buộc phải tìm cho bằng được cái mà tôi đang tìm, nếu không tôi sẽ thấy bại! Và như vậy thân xác tôi có thể biến thành một thứ mua vui cho ba mụ đàn bà đáng sợ trong đêm tới. Tôi cắn răng lục soát tất cả các túi áo trong người lão, song vẫn không thấy chiếc chìa khóa đâu Bộ mặt trương phồng của lão bá tước như đang cười nhạo vào mũi tôi, khiến tôi muốn phát điên. Ấy vậy mà tôi đã tốn không biết bao nhiêu công sức để giúp lão về ở gần thành Luân Đôn, nơi lão có thể tiếp tục thỏa cơn khát máu không cùng của mình trong nhiều thế kỷ tới, để rồi lại biến những kể yếu thế thành những quái vật nửa người nửa ngợm. Chỉ thoáng nghĩ thế thôi tôi đã không thể nào chịu nổi. Nghĩ vậy, tôi điên tiết vớ ngay cái xẻng nằm dưới đất và định nhằm vào giữa bộ mặt ghê tởm của lão mà phang. Nhưng đúng lúc đó, đầu lão bá tước bỗng khẽ xoay sang một bên, đôi mắt long lanh độc ác của lão bắt gặp đôi mắt tôi. Người tôi sững lại như bị tê liệt tay tôi buông thõng xuống, khiến chiếc xẻng chém một nhát khá sâu lên trán lão. Chiếc xẻng tuột khỏi tay tôi rơi xuống hòm và mắc vào nắp gỗ. Tôi định cúi xuống cầm cán xẻng thì nắp hòm bỗng đổ sập xuống che hộ tôi cái cảnh tượng ghê tởm bên dưới. Chi tiết cuối cùng mà tôi nhìn thấy y là bộ mặt phù nề nhuốm máu hằn rõ một nụ cười nhăn nhở ác độc mà chỉ ở dưới địa ngục mới có.
Tôi đờ đẫn nghĩ ngợi về những gì mình sẽ phải làm, nhưng rõ ràng là tôi không thể nghĩ nổi một điều gì. Người tôi cứ ì ra, chán nản, bất lực... Tôi cứ đứng mãi, đứng mãi, cho đến khi chợt có tiếng hát của đám người Digan đột nhiên từ xa vọng tới. Tiếng hát vang lên mỗi lúc một gần cùng với điệp khúc đều đều của tiếng vó ngựa. Như lão bá tước đã nói với tôi đêm qua, người Digan và cả người Slovaki đang kéo đến lâu đài. Sau khi đảo mắt nhìn xung quanh và nhìn chiếc hòm đựng cái thây ma chết tiệt một lần cuối, tôi chạy vội về phòng lão, định bụng sẽ tẩu thoát đúng vào lúc cổng mở. Tôi căng tai lắng nghe: có tiếng mở khóa loạch xoạch trong ổ khóa lớn, tiếp đó là tiếng kêu ken két nặng nề của cánh cửa dưới tầng trệt. Như vậy, hoặc là phải có những lối cửa khác vào lâu đài, hoặc là có người cầm chìa khóa mở một trong những cánh cửa tôi đã biết. Sau đó, tôi nghe thấy y tiếng động lúc to, lúc nhỏ của nhiều bước chân đi trong một dãy hành lang nào đó. Tôi quay lại chạy ngược về phía nhà thờ, bởi biết đâu lại có một lối ra nào đó mà tôi chưa nhìn thấy y? Nhưng vừa lúc đó, một luồng không khí cực mạnh bỗng bất ngờ ùa tới đóng sập cánh cửa dẫn tới cầu thang xoáy trôn ốc lại, khiến những lớp bụi bay lên mù mịt. Tôi vội vàng chạy ngược trở ra, song đã quá muộn, cánh cửa đã bị khóa. Vậy là tôi lại trở thành tù nhân. Tấm lưới của định mệnh đang ngày một vây chặt lấy tôi.
Lúc viết những dòng này là lúc tôi nghe thấy y trong hành lang phía dưới có những tiếng bước chân nặng nề và tiếng quẳng... vâng,... chắc chắn đó là những chiếc hòm đổ đầy đất Sau đó là tiếng búa nện. Đám người khi nãy đang đóng chặt chiếc nắp hòm mà tôi vừa làm đổ sập xuống. Một lát sau, tôi lại nghe thấy y tiếng những bước chân huỳnh huỵch trong đây hành lang, kế đó là tiếng những bước chân khác có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Âm thanh cuối cùng vọng đến tai tôi là tiếng sập cửa, tiếng cài xích, tiếng vặn ổ khóa, tiếng rút chìa khóa ra khỏi ổ, rồi tiếng mở và đóng một cánh cửa khác. Tôi còn nghe thấy y tiếng xoay chìa khóa và tiếng then cài một lần nữa.
Ngoài sân, phía đầu bên kia, trên lối đi rải sỏi, là tiếng xe ngựa chậm rãi đi xa dần cùng với những tiếng lộc cộc của vó ngựa. Bài hát buồn của người Digan một lần nữa lại vút lên văng vẳng để rồi tắt lịm bên tai tôi.
Vậy là chỉ còn một mình tôi trong lâu đài, một mình tôi với ba mụ đàn bà ấy! Những người đàn bà! Mina cũng là một phụ nữ, nhưng giữa cô và chúng chẳng có điểm gì chung cả. Chúng chỉ là những con quỷ cái?
Nhưng tôi sẽ không chịu ở lại một mình với chúng. Rồi tôi sẽ lại leo tường, leo xa hơn tất cả những lần tôi đã từng làm và tôi sẽ mang theo những đồng tiền vàng lấy trong phòng lão bá tước rất có thể sau này tôi sẽ cần tới số tiền đó. Tôi tuyệt đối phải rời khỏi cái lâu đài đáng nguyền rủa này để trở về với những người thân! Chuyến tàu đầu tiên, và là chuyến tàu nhanh nhất, sẽ đưa tôi thoát khỏi nơi địa ngục, thoát khỏi cái mảnh đất chết tiệt này, nơi quỷ dữ và những tạo hóa quái đản đang sống như chúng đã từng sống trên thế giới đầy những điều trớ trêu này!
Xem tiếp chương 5