Vượt qua đèo Ngang, con tàu Thống Nhất như sống động hẳn, lời bàn tán ồn ào. Vốn mang sẵn năng khiếu cố hữu lâu đời, những khuôn mặt hiếu kỳ không bỏ lỡ cơ may thi thố khả năng hóng hớt hòng làm huyên náo đời sống tinh thần vốn quá tẻ ngắt của mình. Lời bàn xoay quanh một khách nước ngoài đầu trọc lông lốc ở khoang đặc biệt nhanh chóng lan truyền cả con tàu. Lắm kẻ tọc mạch còn cố lách mình đến tận nơi mong tích thêm vốn “phiếm ngữ” cho cuộc hành trình.
- Chiếc đầu cạo nhẫn lắc lắc. Điệu bộ của khách trông thật khó khăn khi ông gắng bày tỏ cho cả hai cô phiên dịch trên tầu bằng thứ tiếng Anh ngọng ngịu. Ông cần một người biết tiếng Đức để nói chuyện; ông muốn biết những miền đất ở Việt Nam.
Hồi lâu, một anh chàng khá cao lớn, vận chiếc quần bò đã sờn tua ra ở gấu xuất hiện trước cửa cúp – pê.
-Gut- ten Tak- gờ. – Chàng trai gỡ chiếc kính râm to bự ra, gật đầu chào.
Nhìn vẻ lãng tử không chuyên phóng túng của chàng trai, ông khách mỉm cười. Ông chào đáp:
- Gút- ten Tak- gờ. - Ông bắt tay chàng trai.- Tên tôi là Hank Demaski. Còn tên anh là gì?
- Tên tôi là Việt.
Những dòng sông, những cánh đồng, những ngọn núi với vô vàn vỉa đá lớp lớp xếp lên nhau trôi qua cửa con tàu.
- Đẹp thật!- Hank trầm trồ. – Bình dị quá! Chẳng cần phải nói lên dù chỉ một lời, vậy mà thiên nhiên vẫn phô ra vẻ đẹp kỳ vĩ làm sao.- Hank chợt nhìn Việt hỏi:- Tầu chạy bao lâu thì tới Ci- tê Hồ Chí Minh
- Bốn mươi tám giờ một nghìn bảy trăm cây số.- Việt phác cử chỉ tán tụng mơ hồ. - Đó cũng là một kỷ lục đấy chứ, phải không ngài?
- Qúa chậm!- Hank cười vẻ thông cảm.-Dù sao tôi cũng biết ơn tốc độ của con tầu, nó giữ cho mọi cảnh vật từ tán lá đến ngọn cỏ vẻ nguyên vẹn của chúng. Ở châu Âu, những con tầu chạy nhanh quá, nó làm cho cảnh núi sông méo vẹo.
Một luồng không khí nong lùa qua cửa con tầu. Mảnh đất miền Trung với những vệt đất cháy đen thui như những dải khăn cũ kỹ nằm vắt trên cồn cát trắng khô cằn, khánh kiệt trải ra mênh mông bất tận. Hank thụt người vào. Ông lấy trong cặp ra cuốn “những người khốn khổ” của Vích- to Huy-gô. Ông ta đọc từ giờ này qua giờ khác. Chốc chốc Hank lại ngừng đọc, hai mắt nhắm lại suy tư, miệng mấp máy như đang xưng tụng ý tưởng nào đó trong cuốn sách. Vẻ say mê thành tín của Hank khiến Việt tò mò; chàng đặc biệt chú ý đến cách đọc của ông ta. Biết bao dặm đường, núi đồi đã trôi qua, vậy mà trang sách của Hank chẳng hề được lật. Nó ngang ngạch cố thủ như vẻ vĩnh cửu của Bất dịch. Trang chín mươi tám, Việt liếc trộm, chàng tự hỏi, không hiểu điều gì ở trong sách đó lại cuốn hút Hank đến vậy? Chàng hiếu kỳ ngắm nhìn chiếc đầu còn xanh rì chân tóc của Hank.
- Ngài theo đạo Phật phải không? – Việt không cầm lòng được hỏi. Không tiếng trả lời, trang sách đã uống cạn hồn Hank.
- Có đúng ngài theo đạo Phật phải không?- Việt hỏi giọng lớn hơn, chàng đập tay vào đùi Hank.
Hank giật mình, ông ta như choàng thức khỏi vùng mê đắm. Nhìn ngón tay Việt chỉ vào đầu mình, Hank chợt hiểu ra:
- Vâng! Tôi là một tín đồ Phật giáo.
- Ông theo phật giáo lâu chưa?
- Bốn chục năm rồi! Bên Đức có nhiều người theo Phật giáo. Chúng tôi theo, bởi vì nó tôn xưng sự nghiệp tự cứu rỗi của loài người như một công cuộc cô đơn tất cao cả nhất.
- Dường như ngài chỉ mới hớt tóc?
- Đúng thế! Tôi chỉ được phép theo đuổi sở nguyện cá nhân khi đã hưu trí.
- Vậy ông là người hành hương!- Việt nói vẻ xác tín. – Nhưng có lẽ ông đã chọn nhầm, đây không phải là đất tổ của Phật giáo.
- Dù sao, tôi vẫn cứ là một kẻ hành hương. Chỉ khác một điều là tôi chọn một miền đất thánh khác.
- Miền đất thánh nào vậy? – Việt bồn chồn.
Hank bỗng trầm tư, cái nhìn từ đôi mắt u uẩn mất hút sau những cồn cát khô cháy. Hank rùng mình, tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray như vết cào xước của hiện thực cuộc đời vào màn đêm buồn thẳm vô biên của tâm thức. Giọng Hank trầm buồn:
- Khi tôi buộc phải hưu trí, mặc cảm về sự thoái lui khỏi tam cấp bóng lộn của cuộc đời, ngày đêm sói lở tàn phá tôi. Đúng lúc nó dẫn tôi xuống những bậc thang cuối cùng trước miệng hố thẳm tuyệt vọng, vào lúc mà tôi đã nâng nòng súng lên thái dương mong kết thúc trò tung hứng dã tâm đầy quái ác của nhục cảm thoái vị, thì một tờ báo được liệng vào qua khe cửa nó đã cứu sống tôi.
- Có gì kỳ diệu ở đó?- Việt nóng ruột.
- Ngay trên trang nhất, hàng chữ lớn đưa tin sự kiện người Mỹ kỷ niệm ngày thất trận ở Việt Nam. Cảnh những quân nhân Mỹ vận lễ phục oai nghiêm, ủ dột trước tượng đài khiến tôi thú vị. Hào quang của chiến thắng đã nâng bước tôi khỏi tâm lý mặc cảm. Thế là tôi quyết định đến Việt Nam. Tôi muốn cứu chữa sự non nớt của mình.
- Thì ra vậy!- Việt khẽ reo như thể khám phá ra một chân lý.
- Chà!- Hank kêu lên, ông nhoài cả người ra ngoài cửa sổ ngắm nhìn. Đúng lúc, cửa toa tầu trông như một tấm phông trắng xóa, mầu trắng lấn lướt khắp không gian. Ngoi ra khỏi mầu cát trắng, nó trương lên như đang ào ạt ùa lên tầu- mầu trắng bạt ngàn của những tấm bia mộ quét vôi, đứng ken nhau như một bãi san hô khổng lồ đang quyết liệt phản chiếu ánh sáng chói bức của mặt trời.
- Đây là vùng nào vậy? – Hank hỏi.
- Quảng Trị- Việt đáp trong khi đeo chiếc kính râm vào cho đỡ chói. – Nó là vùng quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến.
Hank rơi xuống ghế trở lại. Ông nheo mắt nhìn cồn cát bảo:
- Nhìn đây, tôi cũng đủ hiểu sự nghiệp chiến tranh mà các bạn xây lên lớn biết nhường nào!
Câu nói của Hank du Việt ở về cảm giác tìm tòi khó hiểu ban đầu, nó treo trước tâm trí chàng một câu hỏi lớn: Ông ta thuộc típ người nào? Cảm thấy khó yên chàng đánh bạo trình bày:
- Với chúng tôi thật khó có điều kiện để tìm hiểu người Đức. Chúng tôi không thể đến đó được! - Trong giây lát, Việt ngừng lại, chàng liếc nhìn Hank thăm dò. Nhìn vẻ sẵn lòng của Hank, Việt tiếp – Liệu tôi có thể được biết tại sao ngài phải về hưu không?
- Được thôi, nếu cậu muốn. – Hank thở dài, ông lấy trong túi quần ra một lọ thuốc, nhón một viên bỏ vào miệng. Chờ cho viên thuốc tan trong miệng, chờ cho thời gian đủ xây lên một không gian im ắng trong tâm trí, Hank bóp trán và quyết định bắt đầu, giọng ông ta xúc động.
- Tôi làm nghề sen đầm. Chiều hôm đó trời lạnh quá, ngồi trực trong bốn bức tường kín mít nơi công sở mà tôi vẫn run bắn lên. Đúng lúc tôi đứng lên, tính đi lại vặn tăng chiếc máy sưởi, thì một luồng gió lạnh buốt quất tới từ sau lưng. Tôi quay lại nhìn, một người đàn ông choàng chiếc măng tô len tuyết phủ trắng hai bờ vai đã ở trong phòng, lưng quay lại phía tôi. Ông ta đang cố sức đóng sập cửa vào. Dù cho cử chỉ của ông hết sức mau lẹ, vài bông tuyết vẫn đủ thời cơ theo gió ùa vào phòng. Không nhìn tôi khách lạ bình thản cởi áo khoác ngoài. Sau khi treo chiếc măng tô và phủi tuyết trên quần áo xong, ông khách từ từ quay trở vào trong.
- Trời! Một luồng điện như sẹt qua tim tôi, người tôi sởn gai ốc. Trên khuôn mặt hóp sâu với chiếc trán sói đến tận đỉnh đầu, cặp mắt trũng như hai thung lũng bi ai sâu thẳm phóng chiếu cái nhìn sắc lạnh đến rợn người. Người đàn ông tiến lại phía tôi, bước đi nhẹ nhàng cô quả như bước chân của nhà tu thiền xuống núi, lão chỉ gật đầu chào tôi, môi khẽ nhếch như khởi thị một nụ cười thiện cảm. Song khó có thể hiểu được đó có phải nụ cười hay không bởi lẽ nhanh hơn cả khoảnh khắc, nó vụt tan biến vào khuôn mặt còn lạnh băng hơn cả bầu trời tuyết phủ. Một bộ mặt mà hơn bốn nhăm năm qua, kể từ sau đại chiến hai nó đã biến mất khỏi nước Đức. Người tôi run lên, tôi vờ rút ngăn kéo lấy thuốc hút, trong khi lấy bao thuốc tôi liếc nhanh vào góc bàn, trong ngăn kéo… khẩu súng ngắn vẫn ở nguyên vị trí cũ mầu thép ánh lên của nó khiến tôi an tân. Sau khi hút một hơi thuốc lá để tăng thêm can đảm, tôi cố lên giọng hỏi:
“ Ngài cần gì”.
Không đáp. Chẳng cần mời, lão già ngồi xuống chiếc ghế da đặt giữa phòng, lão xoay xoay hộp xì gà trong tay.Đốt xong điếu xì gà, lão bảo:
“ Tôi là Hector Atkinson. Tôi đến thú tội”.
“ Ông có tội gì”? tôi nhỏm người khỏi ghế hỏi.
“ Tội phạm chiến tranh” Atkinson đáp, môi chẳng hề động đậy.
- Tôi chăm chú lắng nghe và ghi chép tất cả lời khai của Atkinson vào cuốn sổ công vụ lớn: Từ chuyện ông tham dự vào đội đặc nhiệm SS; những mưu chước manh tâm hiểm hóc; những vụ bắn giết thanh toán đồng loại; cho đến ngày ông ta lẩn chốn nhân loại, tìm lên một đỉnh núi luyện trí phục thù: Tất cả thật khủng khiếp. Nhưng khủng khiếp hơn cả là nó đang được bộc bạch bằng một ngôn từ quá đỗi chân thật, một tâm thức mà gần nửa thế kỷ biệt lập khỏi loài người vén màn toàn diện trở thành trần trụi.
“Mời ngài ký vào đây” tôi xoay quyển sổ đẩy về phía Atkinson
Sau thoáng lưỡng lự, bàn tay của Atkinson trở nên quyết định lạ thường, nó mạch lạc lướt đi suốt từ đầu đến cuối cả nét ký dài ngoằng. Ký xong, Atkinson đốt điếu xì gà mới. Tôi nghĩ, ông ta cố hút điếu cuối cùng trong không khí của tự do. Nhìn đồng hồ sắp đến mãn sở, tôi ái ngại lấy ra một chiếc khoá số tám đưa cho Atkinson bảo:
“ Xin lỗi, chúng tôi không có nhiều thời gian…Mong ngài thể tất cho, không có cách nào khác… Ngài đành ở lại đây cho đến khi hành án.”
Ông ta cười, nụ cười vang khô không khốc như những tiếng nấc. Nụ cười khước từ:
“Tôi cũng chẳng có nhiều thời giờ” Atkinson dụi tắt điếu xì gà đáp. Lão thò tay vào trong tấm áo veston lấy ra khẩu Von- te cổ. Một kiểu súng mà ngày nay người Đức chỉ có thể nhìn thấy nó trong nhà bảo tàng, bàn tay lão cầm súng trông đầy vẻ tự tin và thành tạo.
“Ông đến đây tự thú để làm gì?” Tôi chợt hỏi “Ông chẳng thừa khả năng để tự ăn năn sao?”
“ Cám ơn”- Atkinson hạ khẩu Von- te xuống.- Dù sao ông như có vẻ muốn hiểu tôi! Đó là câu hỏi đã trăm ngàn lần dằn vặt tôi, nó trộn vào xúp tôi ăn, nó đọng lại trên môi, nó vướng nơi cuống họng, nó phả vào buồng phổi tôi theo khói thuốc. Phải, cứ mỗi lần tôi phỉ nhổ cái ý tưởng lôi cuốn ra công sở thú tội, ra cái nơi mà tôi trốn chạy cả cuộc đời, mỗi lần tôi lại khiên cưỡng thừa nhận sự yếu ớt của mình. Sau bao đêm trăn trở, cuối cùng tôi cũng lý giải được rằng: Nếu tôi tự ăn năn cho riêng mình tôi, thế là đủ. Song đó chỉ là lời biện giải thuần tuý cho sự nhút nhát. Tôi buộc phải hiện diện trước nhân loại để thừa nhận rằng: Tôi có thể lẩn trốn nhân loại, song không thể lẩn trốn chính mình. Cần can đảm thừa nhận cuộc thất bại của cá nhân trước giá trị nhân loại, giá trị con người.
“ Vậy tại sao ông lại khước từ còng khoá số tám, nó không phải của nhân loại sao?”
Atkinson lại cười, lần này nụ cười của lão nghe dễ chịu hơn nhiều. Lão bảo:
“Ông quả là thứ sen đầm mẫn cán. Tôi đã chống lại nhân loại thì tôi buộc phải thú tội trước nhân loại. Đó cũng là lẽ công bằng. Song tôi không quá ngu ngốc để hiến nốt cho nhân loại cái chết của mình, làm vậy là tước đi quyền phán xử của lương tâm. Để xứng đáng là một con người tôi dành quyền phán xử chính tôi, và chỉ có làm như thế tôi mới sám hối đích thực. Và hơn tất cả tôi muốn tạo ra cái chết của mình. Sáng tạo cuộc giải phóng toàn triệt nhất.”
Nói rồi lão nâng khẩu Von- te lên ngang thái dương ngón tay trỏ lão cử động đến ngéo cò.
“Vĩnh biệt” Lão chào.
- Khoan!- Tôi vụt đứng lên, cùng lúc nhanh như một tia chớp, tay tôi xé toạc tờ giấy khai báo có chữ ký của lão. Sau đó chẳng kém gì lão, tôi sững sờ trước hành vi quá mau lẹ của mình…Không hiểu tại sao tôi lại quá thản nhiên như vậy khi nhìn nòng súng của lão chĩa về phía tôi.
“Ông không bắn đâu!- Tôi bảo. - Ông sẽ không bao giờ muốn giết thêm dù chỉ một người nữa”.
“Qủa vậy!- Đồ chó má- Lão rủa.-Vì thế mà ngươi đã cố tình nhục mạ cuộc sám hối của ta.” Lão nhìn tờ giấy nát nơi tay tôi.
“Không phải”- Tôi hấp tấp đáp. - Ông muốn sáng tạo ra cái chết. Còn tôI, toi phải có quyền sáng tạo ra tôi chứ. Tôi muốn sáng tạo ra sự bao dung của loài người”.
“Cám ơn! Vĩnh biệt!”.
Một tiếng nổ chát chúa vang lên. Xác ông ta đổ xuống sóng soài, máu trào ra từ thái dương. Công sở náo loạn. Và sau đó thì tôi buộc phải về hưu. Hank thở dài, ông lấy ra một viên thuốc mới cho vào miệng ngậm
Con tầu lao mạnh, cảnh vật điên đảo.
Hồi lâu Hank hỏi:
- Cậu thấy thế nào?
Việt từ từ ngẩng đầu lên, chàng trông như một tín đồ thành kính bị hút mất hồn, chàng gắng đáp giọng run rẩy:
- Chẳng có gì khác ngoài sự thành thật biết ơn ông! Sau đó thì sao?
- Dù bị vứt ra khỏi công việc, tâm hồn tôi vẫn thư thái. Tôi tự hào, dù muộn mằn, cuối cùng vượt lên con người công chức, tôi đã sáng tạo ra mình. Song một ngày tình cờ tôi đọc cuốn “Những Kẻ Khốn Khổ”. Đây, nó đây!- Hank lật trang chín mươi tám của cuốn sách ra.- Tôi bắt gặp viên cảnh sát Gia- ve. Y mất cả đời rình mò theo đuổi Giăng – văn – giăng. Vậy mà cuối cùng khi bắt được ông, xấu hổ về cuộc săn đuổi của mình, Gia – ve đã tha con moi. Roi y nhay xuong song tu van. Gia-ve da sáng tạo ra mình, nếu không thì Vích- to Huy- gô đã sáng tạo ra Gia- ve. ý tưởng đó khai tử cuộc sáng tạo của tôi, nó ném tôi trở lại đầm lầy thất bại.
- Không đúng!- Việt nói rắn rỏi. - Ông đã tái sáng tạo ra giá trị con người. Gía trị con người không bao giờ là cũ cả.
- Rất cám ơn cậu!- Hank ôm lấy vai Việt thành thật. Khuôn mặt ông trở nên tươi tỉnh.
Sửa lại xong xuôi chiếc túi dết tua rua của mình, Việt đứng lên chìa tay cho Hank nói:
-Xin vĩnh biệt ông! Tôi xuống đây!
- Sao vậy!- Hank sửng sốt. - Đã đến nơi đâu?
- Tôi không mong muốn con tàu đưa tôi đến đích như một bọc hàng. Một đường ray đã định sẵn. Tôi muốn sáng tạo ra nơi đến của mình.
- Chúc cậu may mắn!- Hank đưa tay bắt.
- Hãy giữ lời chúc của ông lại.- Việt nhoẻn miệng cười.- Sáng tạo chẳng ăn nhằm gì đến may mắn. Bằng mọi giá chúng ta phải sáng tạo ra mình.-Vinh biệt!
- Vĩnh biệt!- Hank đáp, ông nói với thêm. - Còn tôi thì sao? Ai sẽ giới thiệu cho tôi về đất nước và con người Việt Nam.
- Ông hãy nhìn và biết lấy.- Việt đáp khi leo qua cửa sổ con tàu.
- Vĩnh biệt!- Chàng nhảy xuống khi con tàu đang leo dốc.
- Vĩnh bịêt! – Hank vươn người qua cửa gào to.
Đoàn tàu hú còi lao về phía trước. Chàng rồ đứng đó trên bãi cỏ, giữa khung trời xanh thẳm bao la, cõi hư vô bất tận tuyệt đối cho khát vọng sáng tạo của chàng.
Sa đéc đêm 1-7-1992