Tôi vừa xếp valise, vừa gạt nước mắt. Tôi làm cái công việc ghê gớm ấy vào một đêm khuya khoắt, lúc cả nhà tôi ngủ rồi, sau khi nói dối mẹ tôi là ra Nam thăm người bạn. Tôi nghĩ chỉ còn cách nói dối ấy là tiện, vì mẹ tôi chắc cũng không nỡ giận tôi nữa, một khi tôi ở xa. Mẹ tôi bằng lòng cho tôi đi, nhưng ái ngại dặn:
-Con mau mà về nhé, đây mẹ cho thêm một đồng nữa mà tiêu vặt. Trước sự tử tế trắng trợn của mẹ tôi, tôi suýt oà lên khóc, và chực nắm lấy áo người mà nói: 'Không, con nói dối, con đi lính đấy, mẹ ạ'. Cũng may lúc ấy, mẹ tôi bận hàng, để tôi có đủ thì giờ trở vào nhà, vừa đi vừa sùi sụt. Tôi chọn những cái quần áo còn lành lặn bỏ vào trong valise, và chất thêm vào đấy ít cuốn tiểu thuyết chữ Pháp. Tôi đau đớn như người vừa phạm lỗi nặng, khi tôi nghe, từ gian phòng bên đưa lại, tiếng thở dài não nuột trong giấc ngủ của mẹ tôi. Xếp hành lý xong, tôi bí mật trao valise cho thằng nhỏ, dặn nó mang lại nhà bạn trước vì tôi cần phải đi với vài cái quần áo cho người nhà đỡ nghi. Sáng mai... ánh bình minh chưa bao giờ nhợt nhạt, sầu muộn đến thế. Tôi chống mắt thức, chờ giờ tàu, nên tiếng gà gáy thứ nhất vọng vào lòng tôi một nỗi buồn thăm thẳm. Rồi tiếp đến rạng đông diễu cái cảnh huyền ảo bên ngoài. Sáng ấy, không hiểu sao mẹ tôi lại dậy sớm hơn mọi ngày. Từ dưới bếp, người lệ khệ mang lên một thau nước nóng, thả bơi ở giữa chiếc khăn mặt bông trắng tinh. Người còn tự rót nước cho tôi uống nữa. Lúc ấy, đã sáu giờ Sáng. Chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa là tàu chạy, là tôi đi.
-Kìa con không ra ga đi thì vừa ? Tôi không đáp, lẳng lặng cắp gói quần áo ra đi. Mẹ tôi ngờ là tôi dỗi vì có ít tiền nên gọi lại cho thêm mấy hào. Đã trót bước đi, tôi không thể nào quay lại được nữa, nên chối:
-Đã, con có đủ rồi ạ. Giọng tôi nói run run qua bóng tối mờ mờ. Mẹ tôi đứng lặng nhìn tôi, nhưng chiếc xe tay đã chạy. Chúng tôi có tất cả năm người đồng lòng đi. Theo chương trình đã định, chúng tôi lấy vé tàu ra Hà Nội, rồi từ ở đấy, lên thẳng Vân Nam. Chúng tôi sẽ sống chết với nhau, chúng tôi sẽ làm đủ mọi cách để đến khi về, mặt mày được vinh dự. Đưa chân chúng tôi hôm ấy, độ mươi người, hầu hết là bạn bè cùng lớp, những tâm hồn sôi nổi nhất, mà cũng chóng nguội lạnh nhất. Chúng tôi mặc quần áo vàng học ạinh, mạnh dạn và cố lấy vẻ tươi trẻ. Còn mười lăm phút nữa thì tàu chạy. Trong chúng tôi, lác đác có vài ba cái mặt trở nên nằng nặng, vài cặp mắt hơi chớp.
-Huýt ! Huýt ! Sình...Sình ! Tiếng còi và máy của tàu chở than làm chúng tôi, không hẹn nhau, cùng giật mình. Lấy vé xong, tôi vừa xách valise ra sân ga, thì có người bạn bảo tôi:
-Mẹ anh kia kìa! Mẹ tôi thật ! Tôi vội vàng giấu chiếc valise đi, rồi chạy ra đón người. Tôi chắc mẹ tôi đã được mách về cuộc hành trình của tôi, nên tôi lo lắm. Nhưng sự thực thì mẹ tôi chưa biết gì hết. Tôi muốn khóc lên mà thú tội với người, vì tôi không còn một phần nhỏ can đảm nào bỏ đi trước những vết nhăn chằng chịt trên mặt người nữa. Mẹ tôi đưa ra một cái gói gì to bọc bằng nhật trình, rồi bảo tôi:
-Con bỏ quên đôi giày 'săng đan' này, nên mẹ phải chạy lên đưa cho con. Mẹ tôi đã 'chạy' lên thực, cố nhiên là chạy trên đôi chân gầy yếu, vì sợ tốn tiền xe, đưa cho tôi đôi giày mà người biết là tôi thích đi nhất. Tôi cầm đôi giày mà ứa nước mắt. Tôi đã quáết định về sự đi của tôi rồi. Tôi đã quáết định bằng cách... ở lại ! Không một lời nói, tôi đến giằng chiếc valise ở tay bạn lại, và trong khi các bạn nhốn nháo ra sân ga, tôi cũng nhốn nháo... trở về. Mẹ tôi ngạc nhiên bảo tôi:
-Sao con không đi với các anh cho vui ? Tôi lắc đầu:
-Để hôm khác con đi cũng được.
* * *
Câu chuyện trên, mãi đến hai năm sau, mẹ tôi mới biết. Mẹ tôi biết, rồi mẹ tôi cười, rồi mẹ tôi đánh yêu tôi mà bảo:
-Mày chả về mà làm quan cho mẹ nhờ ! Các bạn tôi cũng không đạt được đến mục đích. Họ nản chí ở dọc đường, có kẻ xuống Nam, có người gan liền theo tàu đến Hà Nội rồi đáp ô tô trở về. Gặp lại nhau, chúng tôi chỉ cười, cười rơi nước mắt, và không ai bảo ai, cùng lẳng lặng đẩy câu chuyện trên kia vào dĩ vãng. * * * Hôm nay, một buổi chiều không nắng, không mưa, một buổi chiều nhàn tĩnh. Tôi đứng trên một dốc phố vắng, đưa mắt nhìn toán người từ xa lại với màu áo tôi thường khoác ngày xưa, ngày mà tôi đã suýt một lần về nước. Gió chiều lên lành lạnh. Qua màu áo cũng bạc, cũng cũ ấy, cái màu áo xông lên mùi Y Đông, tự nhiên, tôi cảm thấy ai hoài, chua xót. Hình như từ phương trời xa đương trôi về lòng tôi một buổi chiều tận thế.....
2-1940 Chị Yên Chính tên chị là An. Mẹ tôi gọi tránh ra là Yên. Yên là con nuôi mẹ tôi, nuôi để thay cho người nhà, để có ai hỏi thì bảo: nó là con nuôi tôi. Mẹ tôi thường kể lại rằng mua chị ta với cái giá hai quan tiền vào một năm lụt lội, đói kém. Yên như biết phận mình là con nuôi nên không bao giờ lên mặt với tôi hết. Ngày tôi còn nhỏ, Yên giữ tôi. Đó là người bạn gái ngày xưa, để sau này thành một người chị rất tốt. Kể ra, đối với Yên, tôi chịu lỗi nhiều lắm. Lòng tử tế, trung thành của Yên, mỗi lần nhắc đến, tôi không khỏi ngậm ngùi. Ngày nay, tuy Yên không sống chung với tôi trên quả đất này nữa, nhưng hình ảnh Yên vẫn theo tôi, bên những hình ảnh thân mến khác. Chị Yên có một thân hình gầy nhẳng, trái hẳn lại với cái sức khỏe dai dẳng của chị. Cái nghệ thuật độc nhất, cái nghệ thuật đạt được đến cái độ tối cao của Yên là sự bổ hết mười hai tạ củi trong một ngày liền. Mẹ tôi đảm đang thế mà vẫn phải lắc đầu, mỗi lần thuật lại cái kỳ công ấy. Một hôm chị Yên cầm dao rựa chặt củi, vô ý để lưỡi dao phập vào đầu ngón chân cái bắn ra cách đấy vài thước. Không một tiếng kêu, chị lấy vạt áo bịt ngay chỗ máu chảy, và lê dần nhặt cái đầu ngón chân lìa ra kia, chắp lại. Tuy bị thương, chị vẫn bổ củi, với một vẻ điềm tĩnh không hai. Không phải chị Yên bị mẹ tôi bạc đãi, nhưng vì tính thích làm, nên Yên tự muốn đầy đọa mình luôn. Người con gái ấy, suốt trong mười mấy năm trời, đã chứng kiến cái lên xuống của gia đình tôi, đã chia chung cảnh vui vẻ, nghèo khó với mọi người trong nhà. Ngày bốn lượt, chị gánh hàng cho mẹ tôi đi, về chợ, tiếng kẽo kẹt của chiếc đòn tre trên vai, bình yên nhip với tháng ngày âm u vắng mọi sự xa hoa của một người đàn bà Việt Nam chân chính. Chị Yên của tôi không đẹp, nhưng có duyên. Chị ăn trầu cắn chỉ, và vá vai một cách tài tình. Đôi khi có người giễu cợt chị, chị chỉ yên lặng. Tôi không hiểu có phải vì sự chịu thương, chịu khó như thế mà kiếp Yên chỉ là một chuỗi ngày đau khổ, nó thu ngắn đời sống của Yên lại không ? Chị Yên là tượng trưng cái tinh thần Việt Nam cao quý, là đại biểu của những bà mẹ cúi mình trên sự khó nhọc, để ạinh sản ra một đàn con lìa cội rễ, vênh vang tự nhận mình là những đầu óc Sáng suốt của cái thế kỷ đương qua. Trước sau, dưới sự phán đoán nghiêm ngặt của kỷ niệm, đối với chị Yên tôi vẫn là người bội bạc. Chữ bội bạc, với tôi, còn là nhẹ, tôi toan mượn đến tiếng dã man. Tôi không thể nào quên được một hôm, đi học về, lục nồi không thấy cá thu, thứ cá tôi ưa nhất, vì chị đã để cho mèo tha mất rồi, tôi nóng mắt, sẵn đôi giày Tây đang đi, nhằm xương ống chân chị mà chọt một cái thật mạnh. Yên nhắm mắt lại, nghiến răng để chịu đựng sự tàn ác của tôi. Khi nghe thấy tiếng guốc của mẹ tôi xuống nhà, Yên vội đứng lên, xuýt xoa:
-Khiếp ! Cái bực cửa làm cao quá, vấp phải luôn ! Mẹ tôi lườm chị và mắng:
-Rõ mù ! Người ta đi thì chả thấy việc gì. Chỉ được cái bị thịt ! Tôi không biết nói thế nào cả nên yên lặng. Đợi mẹ tôi đi khỏi, tôi tháo đôi giày Tây ra, trói cả hai chiếc làm một, định vất xuống ao. Chị Yên thấy thế, can tôi:
-Đừng em ! Vất giày đi, nhỡ mẹ hỏi không thấy, mẹ đánh chết ! Tôi phụng phịu trả lời:
-Nó đá chị thì em vất quách nó đi. Đôi giày ấy, tôi đem ném nó vào một xó, nói thác với mẹ tôi là đau chân phải đi guốc. Tôi vất nó đi, nhưng thỉnh thoảng Yên lại lấy nó ra lau chùi, làm tôi phát gắt:
-Chị còn tiếc nó làm gì nữa. Để em chặt nó ra. Tôi chặt nó ra thật. Bắt đầu từ đấy, không bao giờ tôi dùng thứ giày Tây mõm nhái và có ống như thế nữa. Thậm chí tôi ghét lây cả những người mang nó. Tôi thương Yên ngày một thêm, bởi chỗ tôi đá Yên loét thành một mụn sâu quảng, rồi biến ra cái sẹo thâm đen. Lòng tôi đôi phen thắt lại, rùng rợn nghĩ đến cái cử chỉ hung hãn của mình. Còn Yên, Yên không nghĩ gì hết. Mỗi lần tôi nhắc chuyện xưa, Yên chỉ cười mà gạt đi:
-Trò con nít, nhắc lại làm gì! Lòng Yên chỉ biết có sự trung thành và tận tuỵ.
Yên không thể nào như tôi, một người tự tạo ra đau khổ để sống, để sung sướng vì thấy mình đau khổ hơn người. Tâm hồn mơ ước kín đáo của người con gái ấy chỉ hơi hé mở để rung động vì một trong số những người thích Yên. Tôi biết chuyện, trêu Yên, và Yên chỉ đỏ mặt. Yên không biết chữ, nên vẫn nhờ tôi đọc các truyện Phạm Công và Cúc Hoa cho nghe. Yên thuộc lòng từng đoạn và đôi khi ngâm lên. Dưới ánh Sáng của ngọn đèn dầu con, những tối, Yên chăm chú nghe tôi đọc, và nhiều lúc đọc theo. Cuối năm ấy, người yêu Yên đến hỏi Yên. Mẹ tôi bằng lòng gả, nhưng bảo đợi đến hết tang ba tôi. Non ba năm đối với người con gái ấy có là bao; đó chỉ là một sự đợi chờ nhỏ nhặt, bên cạnh những công việc liên miên. Gia dĩ, chị Yên lại không biết thế nào là phản bội, thì cái ái tình chỉ thầm nuôi trong lòng hẳn phải là đẹp đẽ, chân thật. Trong gia đình tôi, sau ngày ba tôi mất, xảy ra nhiều chuyện bất bình giữa mẹ tôi và dì ghẻ tôi, chuyện bất bình kéo theo nó cả một cảnh chia rẽ vĩnh viễn. Hôm cãi cọ đầu tiên, hai người xung đột nhau. Chị Yên giúp mẹ tôi một cách đắc lực. Chị lăn vào gỡ tóc cho mẹ tôi, chị tát, chị xé những người về phái khác, trong khi tôi vừa khóc, vừa chạy loanh quanh. Kết quả chị Yên được đôi mắt sưng tím, mất một mảng da đầu. Chị bảo:
-Giá chúng nó còn đánh mẹ nữa, thì chị cho nhừ đòn !
Trông chị Yên lúc ấy đến gan dạ. Ai dám bảo đấy là một người con gái nhà quê, một người con gái gầy nhẳng, yếu ớt ? Yên trung thành trên hết mọi người trung thành. Tuy nghèo nhưng chị Yên không bao giờ lấy cắp, mặc dầu nhiều lúc mẹ tôi giao chìa khoá cho Yên giữ. Vốn liếng của chị Yên là vài hào chỉ giắt trong thắt lưng để ăn trầu dần. Chị Yên có cả chiếc gương nhỏ hình bầu dục, cả chiếc lược đồi mồi, và bằng những thức này, Yên giữ gìn nhan sắc để đợi một ngày đẹp đẽ đến trong đời Yên. Người thiếu nữ Việt Nam gương mẫu ấy còn một cách trang sức khác là ạoi dung nhan mình trên làn nước giếng lặng lẽ, rồi lấy tay từ từ rẽ ra hai bên mái tóc đen lanh lánh. Bánh quà nhận được sau mỗi buổi mẹ tôi đi chợ về, tôi thường chia cho Yên. Nhưng Yên để dành, trả lại cho tôi. Tôi hỏi chị:
-Sao bánh ngon thế mà chị không ăn ? Yên đáp, đôi mắt buồn buồn:
-Chị lớn rồi, chị không thích ăn nữa.
-Chị lớn rồi, chị đi lấy chồng phải không ? Yên hơi đỏ mặt, đáp:
-Không, chị không lấy chồng, chị ở với mẹ và em.
Yên hay ru tôi ngủ, tiếng hát của Yên rất buồn, buồn vì lòng Yên sẵn buồn, hay vì từ nghìn xưa, tiếng hay ru em vẫn buồn như thế ? Câu Yên thường hát là: 'Cát bay, vàng lại ra vàng,' 'Những người quân tử dạ càng đinh ninh' Nếu văn mà bây giờ tôi tin là người, thì tiếng hát xưa kia, biết đâu, lại không là tâm hồn Yên một ít? Ngủ trong tình thương của mẹ, trong lòng yêu của Yên, tôi say sưa trọn mười mấy năm trời đằng đẵng, và chỉ tỉnh dậy, cách đây không bao lâu, để tin rằng nước Nam, quê hương thứ hai của tôi, còn đẹp lắm, người nước Nam vẫn rất đỗi hiền lành !
Đã bao nhiêu lần, cánh mây xuân ngừng trên quãng đồng đầy hứa hẹn, trên dòng nước sông trong, đã bao nhiêu lần những người đàn bà nhà quê đau khổ, chua xót, nhưng vẫn bị sống quên lãng trong luỹ tre xanh ! Hỡi nước Nam! Tôi nghiêng lòng xuống người, trên những luống cày mà hương thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng uống nước và nói thứ tiếng của người, vì tôi đã thề yêu người trên bực tuyệt vời của tôn giáo. Trên dải đất súc tích những tinh hoa của văn chương, những công nghiệp của lịch sử, tôi còn ghi cả những bóng dáng người xưa tôi thương yêu, và trong số những người này, chị Yên tôi là một. Tôi kể nốt chuyện chị Yên. Hình như bao giờ chị Yên cũng đứng trước mắt tôi, với những nét nhăn nhó, với cái thân mình gẫy oặt vì sức gieo nặng của đau thương. Chị Yên chết rồi, nhưng chết như chị Yên là thoát. Tôi sống không hơn một chiếc lá lạc, một cánh mày vương. Tôi lớn rồi, tôi đã hiểu thế nào là bổn phận một người sống. Tôi đã biết thế nào là tha thứ, mặc dầu mỗi khi nhìn lại thời xưa, tôi vẫn căm ghét trước hình ảnh con người đáng ghét mà tôi đã có lần từ chối không nhận trong sổ họ nhà tôi. Còn hơn hai tháng nữa đến ngày cưới chị Yên, thì nhà tôi nhận chứa thêm một người khách: cậu họ tôi. Đó là một cái bóng thân thích lạc đi đâu lâu ngày, rồi một hôm, không hiểu vì túng tiền hay buồn sao đấy, sa xuống cái mái nhà quen biết, một cách vô lý và hết sức vô duyên. Tôi không bao giờ ưa những hạng người như thế, những người sống không ra sống, giằng cướp tay trên những hạnh phúc không thuộc về phần mình. Tôi hỏi mẹ tôi:
-Cái người nào đấy, mẹ ? Con trông ghét lắm ! Mẹ tôi trợn mắt lên:
-Hỗn nào! Cậu mày đấy! Một giọt máu đào còn hơn ao nước lã! Cậu thì cậu, tôi nhất định không ưa. Tình cảm của tôi trao cho ai, tôi muốn nó thẳng một mạch. Bắt nó quẹo lại, hay xiên đi, nó rất hậm hực. Đến mỗi bữa cơm, tôi ạo cho người ấy đôi đũa tre xấu nhất, nhưng chị Yên lại đổi ngay cho đôi đũa đẹp. Làm như thế, Yên chỉ là do lòng tử tế, nhưng có ai biết lòng tử tế cho Yên ? Yên đã bị hiểu lầm một cách tai hại. Cậu tôi, trông người xâu xấu thế nào ấy. n thì ăn nhiều, ngủ lại ngủ mê mệt đến tám chín giờ. Từ ngày có vị khách ấy vào, tôi mất vui. Yên chắc cũng không vui lắm, nhưng tính tình kín đáo, Yên không để lộ sự bất mãn như tôi. Có cái bóng gì hắt lên ngày sống vui tươi của tôi làm tôi khó chịu. Chị Yên hay dậy sớm đun nước pha trà. Biết lệ ấy, cậu tôi cũng lò mò dậy sớm, vào bếp, ngồi ngay cạnh Yên. Mỗi lần xuống bếp, tôi lại lộn tiết lên, vì cái dáng điệu đáng ghét của cậu. Tôi bảo chị Yên:
-Sao chị không chừa cái mặt ấy ra ? Yên lắc đầu:
-Chừa làm sao được, vì cậu ấy là người nhà kia mà ! Tôi biết chị Yên đâu khổ lắm. Chị Yên bị vướng, bị ngáng, đủ tình đủ tội. Một hôm, không nén được giận nữa, tôi bảo mẹ tôi:
-Cậu ấy... cậu ấy... Nhưng tôi im bặt, chạy vội ra ngoài sân. Tôi biết là nếu nói sự thật ra trong nhà tôi sẽ có sự xô xát, và Yên sẽ không còn được 'cát bay vàng lại ra vàng' nữa. Sự tức giận, hằn học, tôi trút nó vào trong một bức thư gửi ra Hà Nội cho anh tôi: 'Anh ơi,' Nhà ta có cái người cậu gì ấy. Trông cậu ấy em chỉ muốn đánh chết đi. Cậu ta cứ xán lại gần chị Yên rồi cười thế nào ấy. Em nghĩ giả dụ anh có ở nhà thì mấy mà chúng mình chả làm nên chuyện. Không tin anh cứ về nhà mà xem, em không nói dối đâu. Chúc anh bình yên; em tức lắm anh ạ. Em yêu của anh, X.X. Tái bút:-Anh có về thì mua bánh về nhé. Anh mua cả khăn chít đầu cho chị Yên nữa. Về mà xem, mau lên anh!
Viết xong thư, tôi hả lắm, lẩm bẩm mãi:
-Rồi phen này biết tay nhau ! Mẹ tôi vẫn không hay biết gì hết, vẫn lặng lẽ ngày hai buổi đi chợ, và khi về lại đưa cho cậu tôi những thức nhắm rượu. Tôi ngứa mắt lắm, nhưng không biết làm sao được. Yên cũng như lấy cái buồn của tôi. Yên hay ngồi một mình, thỉnh thoảng lại thở dài. Một Sáng, tôi thức dậy sớm, thì đã nghe tiếng cậu tôi nói trong bếp:
-Trông Yên ngồi bên lửa hay lắm ! Không có tiếng trả lời, rồi tiếng tiếp theo:
-Người ta khen còn làm bộ. Tôi gọi to lên:
-Chị Yên ra đây, chị Yên ! Yên vớ được dịp tốt chạy ra với tôi, nét mặt xanh ngắt. Tôi cầm tay Yên mà tội nghiệp hộ. Yên nhìn tôi, lộ vẻ cảm ơn, rồi lấy dải yếm lau mắt. Từ đấy, tôi không gọi cái người kia là cậu nữa. Tôi gọi bằng 'ấy' hay 'này', như người vợ mới cưới thẹn thò không dám gọi chồng bằng 'cậu' hay 'mình'. Rồi đến một Sáng kia
-độc ác thay là cái Sáng ấy
-tôi đương ngủ thì một bàn tay chợt đánh thức tôi dậy. Tôi hốt hoảng nhận ra là Yên, Yên đương khóc. Lúc ấy, trời Sáng chưa rõ mặt người. Ngọn đèn canh trộm vẫn leo lét cháy, ủ dột. Tôi ngồi dậy hỏi Yên:
-Sao chị khóc ? Yên không đáp, lắc đầu, mãi sau mới nức nở:
-Em ở lại, chị đi đây. Tôi rụng rời:
-Chị Yên đi đâu ? Ai đánh chị Yên ? Yên như chợt biết câu nói của mình là hớ, nên chữa:
-Không ai đánh chị hết, chị đi rồi chị lại về. Thấy tôi giữ riết lấy vạt áo, mà bên ngoài thì đã có tiếng gà gáy báo trăng thượng tầng lên, Yên nóng ruột: 'Chị ra tỉnh mua hàng cho mẹ. Em có tiền cho chị vay mấy hào'. Tôi lục rương đưa cho Yên một đồng bạc, tiền mẹ tôi cho để mua sách. Chị Yên còn nắm tay tôi đến mấy lượt nữa rồi mới bước ra đi. Bên ngoài, tiếng một con chó sủa bóng trăng lạnh. Tôi bắt đầu thiu thiu ngủ, thì chợt nghĩ đến một sự. Tâm linh vô cùng Sáng suốt của trẻ nhỏ đã cho phép tôi phác vẽ một chuyện ghê người. Tôi nhảy xuống đất, gọi:
-Cậu ! Cậu đâu rồi ! Không có tiếng thưa. Tôi vặn to ngọn đèn lên, rồi chạy lay tay cậu. Sự thông minh riêng làm cho tôi ngờ rằng cách ngủ mê của cậu tôi là giả vờ. Đợi tôi lay đến lần thứ năm
-người lớn ai lại ngủ mê thế nhỉ ?
-cậu tôi mới choàng tỉnh dậy, làm ra vẻ ngơ ngác nhìn tôi. Trước cặp mắt mở ra không vướng một bóng mệt nào của giấc ngủ, tôi điên lên:
-à, ra cậu gớm thật. Cậu tồi thật ! Cậu tôi tỏ vẻ kinh ngạc hỏi tôi:
-Sao cháu lại bảo cậu tồi ? Tôi càng tức thêm:
-Còn không tồi ! Được để tôi mách với mẹ tôi cho mà xem!
Sáng hôm sau, vị quý khách ấy vội vàng từ giã nhà tôi, nói dối là đã tìm được việc làm. Câu chuyện trên kia, tôi không dám nói cho ai biết, vì tôi chỉ hiểu nó bằng khiếu thông minh riêng, mà không bắt được tang chứng. Ròng rã trong hai năm trời tìm kiếm, mẹ tôi thấy chị Yên ở làng Nhồi, gần tỉnh lỵ Thanh Hóa, yên phận bên một người chồng ngày ngày xe đá về tạc những hình tượng xinh xinh...
Tôi sống bên núi Nhồi, bên chị tôi, trong hơn một năm trời nữa, hưởng lại, lúc cuộc đời bắt đầu chớm buồn, những ý vị đậm đà của một mối tình cao quý.
Ở Hà Nội, nhiều lúc tôi bạc bẽo quên mất người chị nuôi của tôi đi, vì phấn son và phù hoa đã quyến tôi đi xa ngày trước quá. Trong một bức thư gửi ra Hà Nội thăm tôi, mẹ tôi báo tin chị Yên đã chết, một tháng sau chồng và hai tháng trước đứa con trai. Mẹ tôi thêm: 'à, ra nó bị trùng làm đấy con ạ. ' Thế là hết ! Màn đời đã hạ xuống, sau tấn kịch đau đớn nhất của gia đình tôi. Trên đỉnh núi Nhồi ngày nay, vẫn còn nhô lên một mô đá, tượng hình người mẹ dắt con, đợi chồng trong quãng bao la vô hạn. Và ngày nay, mỗi lần về Thanh Hóa, ngồi trong tàu, đưa mắt nhìn mô đá cũ, tôi ngờ đó là hình dáng người chị dắt em...
2-1939. ngày gặp gỡ Vẳng nghe tiếng ếch bên tai Giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò... Ngày nhỏ, mỗi lần chán chúng bạn, tôi vẫn hay lại bên mẹ tôi cầu khẩn người kể lại sự cưới xin giữa người và ba tôi, rồi để tôi đem thuật lại với hàng xóm. Tôi còn nhớ nơi mẹ tôi ngồi kể chuyện là một cái hè bằng đất nện trước nhà. Từ đó, tôi vừa nghe chuyện, vừa nhìn ánh nắng chiều nghiêng xế, và những bóng lá lung linh. Có khi đương giữa câu chuyện, tôi véo má mẹ tôi mà hỏi:
-Đố mẹ biết bao giờ đến Tết ? Đố mẹ biết con được bao nhiêu tiền phong bao? Mẹ tôi khẽ gỡ tay tôi ra, lặng lẽ nói tiếp và lặng lẽ ru tôi ngủ mất lúc nào ! Tuy nhiên, trong giấc mơ kỳ dị, tôi vẫn hình dung được cả đám cưới, chú rể là ba tôi, cô dâu là mẹ tôi và... tôi là người dự lễ ! Dần dần tôi lớn lên. Qua mẩu đời sum họp của hai người ạinh ra tôi, tôi nhận thấy một định mệnh khe khắt, một duyên phận tăm tối và buồn rầu. Vì thế, tôi được biết rằng phần nhiều, hay tất cả cũng được, những bà mẹ Việt Nam đều phải đau khổ ngay từ lúc lọt lòng. Mọi sự do 'Trời' định, các tâm hồn đó chỉ biết vâng theo, một cách nhẫn nhục, một cách lặng lẽ, một cách chua xót vô cùng ! Bao nhiêu thế kỷ rồi, những tiếng thở dài mất tăm trong đêm tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống bổn phận hằng ngày, tầm thường và nhỏ mọn. Cuộc hôn nhân của mẹ tôi, đến nay, tôi mới thấm thía được hết cái đơn giản, cái nghi lễ của nó. Và đến ngày nay, tôi mới hiểu mẹ tôi hơn lúc nào hết, người con gái lái đò trên sông Ghép ngày xưa, người mẹ Việt Nam một cách dịu dàng và cao quý.
* * *
Cách đây hơn năm mươi năm. Một buổi chiều mùa hè vàng rực. Trên bờ sông Ghép lặng lẽ của tỉnh Thanh Hóa, dân làng Ngọc Giáp bỗng thấy bóng một người ngoại quốc, tay xách một gói vải xanh và đầu chụp chiếc mũ rơm đã vàng ỏng. Người khách lạ có chiếc trán rất lạ: nó nhỏ nhưng nhô ra một cách bướng bỉnh. Nhất là đôi mắt, sắc như dao, bén như nước, nhìn vật gì thì như hút vật ấy. Hai cái đặc điểm đó nhất định không được tạo bằng thuỷ thổ Việt Nam, mà là bằng tinh hoa của một dân tộc khác. Một vẻ gì xương xương, rắn rắn độn khắp mình người khách, biến cái thân thể thoạt trông thì gầy kia ra sự chịu đựng khó nhọc, ở đấy, một nghị lực bền vững tiềm tàng. Khách mặc một bộ quần áo bằng lĩnh Quảng Đông, nguyên màu đen, nhưng sau khi trải nhiều phong trần, đã đổi sang màu xám kệch. Y phục ấy gợi được trong lòng người gặp, bao nhiêu là cảm giác thanh thú, hương vị xa xôi. Từ đằng xa, những gợn lụa phơ phất như những gợn gió trùng dương, và khi lại gần thì gió trùng dương lại chỉ toàn xông lên một mùi cá mặn ! Linh hồn Trung Quốc phát lộ ra trong từng bước đi, điệu đứng, trong sự trầm mặc, trông tìm, trong cả cách đưa năm đầu ngón tay có móng dài vẩn ghét lên gãi sồn sột chiếc đầu gần như húi trọc tếch. Đêm về trong những bước nhẹ, hắt hiu bốc hơi lên mặt sông.
Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây không như hoàng hôn ở Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây ưu hoài như một chinh phụ nhớ chồng. Và như một gã giang hồ chạnh lòng khóc nước. Tuy nhiên, đôi mắt trong và Sáng kia không hề vẩn bởi màu sắc thê lương, vẫn quắc lên nhìn những đợt sóng nhuyễn nhàng bò quanh mấy con thuyền ngái ngủ. Cử chỉ lạnh lẽo đó thật là trái hẳn với cảnh sông nước buồn rầu, cái cảnh tầm thường nhưng đã làm chuyển dời bao nhiêu cuộc đời ngang dọc. Khách ngồi xuống vệ cỏ, không để ngắm cảnh chiều, mà để tháo cái gói vải từ bao lâu vẫn đeo ở tay, lấy ra một gói cơm nắm. Rồi không dao, không đũa, khách bẻ ngoắt nửa nắm cơm, đưa lên miệng, trong khi mấy ngón tay lần gỡ từng miếng cá khô. Đôi lúc khách ngừng nhai, chép miệng cho thấm xuống đáy lòng cái hương vị đậm đà của bữa cơm lưu lạc. Chỉ sau mươi phút, không còn một miếng cơm, một khúc cá nào sót lại trên mảnh lá chuối héo. Tất cả lương thực ngọt ngào trôi qua cổ họng, đảo lộn trong cái dạ dày vô bệnh, để biến thành những dòng máu hùng cường luân lưu nuôi mạch sống, và nuôi lớn mãi cái chí nguyện giang hồ. n xong, khách xoa tay đứng dậy, bước xuống bến sông rửa mặt và vốc nước uống, rồi lại trở lên nằm, đầu gối trên bọc hành lý. Tất cả những công việc ấy như đã được ấn định theo một phương pháp, nên có mạch lạc và quá củ hẳn hoi. Khách nằm rất bình tĩnh, tay chân duỗi thẳng, mặt hướng lên không gian, tâm thần nhập định. Nhưng nếu để ý, ta sẽ thấy loáng trên bụng khách một lưỡi dao nhọn như lá bùa hộ mệnh đặt ở đấy từ bao giờ. Trời quang lấp lánh sao, hứa một đêm phẳng lặng. Gió sông lên đầy. Làng mạc, xa xa, chìm mờ trong bóng tối, đôi lúc để lọt ra vài tiếng chó sủa ma. Mấy điểm đèn hạt đậu run trên sông như những con mắt buồn từ kiếp trước. Bỗng, giữa khoảng triền miên rộng rãi, ngân đưa một điệu hát lơ lửng bay trên dòng nước, một điệu hát đò đưa, trầm trầm, lặng lẽ: Muốn sang nhưng ngại vắng thuyền, Muốn về bên ấy nhưng duyên lỡ rồi! Nhịp hát gần lại và xa đi theo chiếc thuyền nhỏ, cô độc, ảo não, trong sự tỏ bày kín đáo của một tấm lòng thương nhớ mênh mông. ở trên bờ sông bên này, người khách đã đứng dậy, tay nắm chuôi dao, mắt nhìn cái vệt lửa của chiếc thuyền đặt mờ trên mặt nước. Thuyền hình như lại gần, vì sóng vỗ vào mạn đò mỗi lúc một mạnh. Và sau khi nhận đúng là một chiếc đò chở khách, người lữ hành của đất nước Trung Quốc hò lên: -Tồ ui ! (Đò ơi!) Sóng nước trả lời lại cái giọng kêu quái gở bằng một bóng vang lạnh lẽo. Tiếp đến tiếng từ dưới sông vọng lên, cái tiếng nhỏ nhẹ của người con gái xứ Trung Bộ:
-Ai gọi đò?
Một phút yên lặng. Người khách lạ khó nhọc lắm mới kiếm được câu trả lời:
-Ng...ộ...ộ! à 'tui tây' (à tôi đây)
Nói xong khách xăm xăm bước xuống đò, trước vẻ ngạc nhiên vô cùng của thiếu nữ. Đò quay mũi, thiếu nữ yên lặng chèo. Tiếng sóng khua, làm rộn vào lòng nàng một nỗi lo sợ kín đáo. Vừa chèo, nàng vừa liếc nhìn người khách lạ mà thoạt trông, nàng có cái cảm tưởng hãi hùng như gặp một tên giặc cướp Tàu ô ghê gớm. Đò đã ra giữa sông. Một làn gió thổi mạnh. Người khách lạ lúc này đã như rời bỏ những tư tưởng riêng, bắt đầu ngoảnh lên nhìn thiếu nữ. Đó là một cái nhìn rất lẹ, nhưng rất chắc, cái nhìn vẽ rõ ra một sự quáết định, khiến thiếu nữ bậm môi lại, và tuy trong bóng sao mờ mờ, e thẹn nhìn lảng ra ngoài xa... Một thoáng cười chạy qua môi khách, làm dịu hẳn vẻ hung tợn vừa rồi khiến thiếu nữ sợ hãi. Là vì lần đầu tiên trong đời, nàng chịu cái nhìn sắc mắt đó. Nó không tìm ở người nàng những điểm đẹp đẽ, mà chỉ cốt khám phá những điều kiện cần thiết cho sự gây dựng hạnh phúc gia đình, sự vững bền của nòi giống. Và biết đâu, trong khi nghĩ đến những gương cần mẫn đã từng lấp lánh phản chiếu cái đẹp huyền bí, thần thánh của góc trời phương Đông, người lữ hành kia đã không quan niệm người đàn bà Việt Nam như đã quan niệm người đàn bà Trung Quốc? Cho nên, dưới bóng sao đêm ấy, trên dòng sông khuya, người con gái Việt Nam đã che đôi má ửng hồng trước một người khách lạ và cùng lúc không hiểu sao, nàng thấy ngậm ngùi chua xót...
-Nhà 'nị' ở đâu? Người con gái ngơ ngác một lúc lâu, rồi mới hỏi:
-Nị? Nị là gì? Tôi không hiểu. Khách cũng ngẩn người trong vài phút mới tìm được cách cắt nghĩa:
-Nị là...nị! Là... Một ngón tay theo câu nói bỏ dở, chỉ thẳng vào thiếu nữ khiến nàng không nhịn được cười:
-A! Nị là cô? Khách lộ vẻ sung sướng đột ngột như người học trò không thuộc bài vừa được bạn nhắc:
-Cô ở đâu? Thiếu nữ mỉm cười, đưa tay chỉ một cái xóm nhỏ gần đấy, nơi hắt hiu Sáng vài chấm đèn dầu lạc loáng thoáng qua hàng rào tre thưa mỏng. Trong đêm, vẳng đưa tiếng chày giã gạo, đều đều rơi vào giữa cảnh tĩnh mịch, như kéo giãn thời khắc buồn bã không bao giờ tàn. Đò ghé bến. Người khách toan đưa đồng xu cầm sẵn trong tay cho thiếu nữ, bỗng lại ngần ngại:
-Cho 'tui' ngủ một đêm ở nhà cô nhé ? Thiếu nữ đặt con sào lên thành đò, ấp úng:
-ạng hỏi mẹ tôi ấy. Tôi không biết ! Nói đoạn nàng bước vội đi trước, nhưng đôi lúc chậm chân lại, vì biết người khách đang rảo bước theo. Đến một cái ngõ tre, thiếu nữ cất tiếng gọi:
-Mẹ này, có ông khách 'Tàu' xin ngủ trọ. Một bà cụ trạc năm mươi tuổi, tay cầm chiếc đèn con, từ trong nhà đi ra:
-Ai ? Ai mà trọ với ngủ? Người khách lạ cúi đầu chào bà cụ một cách kính cẩn. Bà cụ đáp lễ xong, quay lại bảo người con gái:
-Con xem dọn nhà trên, rồi nhường cái giường cho ông ấy nằm. Bà cụ nói vừa dứt, cô gái đã vùng chạy vào bóng tối, đem theo cái mặt chắc là phải đỏ hơn ban nãy nhiều.
-Trong khi ngồi tiếp chuyện khách, bà cụ thành thực hỏi:
-'Chú' đã xơi cơm chưa, để tôi bảo cháu nó nấu? 'Chú' khách cũng thành thực trả lời:
-'Tui ' ăn cơm rồi. Tui ăn ở ngoài bờ sông! Câu trả lời tự nhiên và ngờ nghệch đó khiến bà cụ mỉm cười và khiến cô gái đương ngồi đun nước gần đấy, cũng sặc cười theo. Nhìn cả hai miệng cười cùng một lúc, người khách ngơ ngác đưa mắt liếc hai bà con chủ nhà:
-Cười? Cười 'tui'? Bà cụ đỡ lời:
-à, cháu nó thấy ông lạ.
Đêm ấy là đêm đầu tiên trong cuộc đời giang hồ, người lữ khách đặt lưng trên chiếc giường tre ẽo ợt, giữa những tiếng và hình ảnh khác hẳn với những cái quen biết ở quê hương. Mái nhà tranh lợp sơ sài, để chảy xuống mặt khách một dòng ánh trăng hạ tuần, và ngừng lại ở đấy thành những đồng hào mới long lanh. Gió thổi trong vườn cau, xào xạc. Tĩnh mịch dễ làm đuối lòng người. Lữ khách lúc này, đã thấy chết chí phiêu lưu, bôn tẩu, để cảm khái trong niềm thương nhớ, trong giây phút chạnh lòng tưởng đến một mảnh đất xa xôi. Lữ khách ngạc nhiên ghé tai vào cõi yên lặng, cái yên lặng mênh mông và u uất, không bị phá bởi một tiếng súng bắn cướp nào như ở quê hương. Mấy tiếng tù và khuya rúc lên, bay vào gian nhà vắng. Lắng biết mọi người đã ngủ yên cả, vị thần tử của giang sơn Trung Quốc vắt chân chữ ngũ, khe khẽ ngâm một bài thơ cổ, qua nỗi xúc động đột nhiên tụ lại trong người: Uỵt loọc, vú thày sướng mủn thín, Coong phống, dì phổ, tui sàu mìn, Cú chấu sèng ngồi Hồn sán sì, Dề pun, chống séng tâu hac ạin. (Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên, Cô Tô thành ngoại Hàn San tự, Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền...) Ngay lúc ấy, từ gian buồng bên nổi lên mấy tiếng gì như chuột rúc. Lữ khách, thấy đứt mạch cảm hứng, càu nhàu trong bóng tối:
-ấy dà! Cẩm tố xỉ a ! (Chà! Lắm chuột thế! )
Nhưng đó không phải là tiếng chuột rúc. Đó là tiếng người con gái chở đò ban tối cười qua hai làn môi kín đáo khép lại.
1-1940 . Bài Phong kiều dạ bạc của Trương Kế, thời Đường. EM Dìn trong số những người đọc tôi hôm nay, ít nhất cũng có đến một trăm người quen em gái tôi. Tôi nói một trăm, vì muốn để cho em tôi đỡ tủi, khi mưa xuân lướt về trên những mái nhà đầm ấm, và nắng xuân chợt bừng qua kẽ lá như ánh Sáng chiếu lại từ những tấm lòng của các thiếu nữ đương tơ. Ngót bảy năm nay, chúng tôi xa nhau, ai biết em tôi đã qua bao nhiêu cuộc thử thách, người con gái vốn đã gầy yếu sẵn khi còn ở chung với chúng tôi? Và cả em nữa, em anh S, biết đâu em sẽ lại không đọc anh, đọc chính em, ngạc nhiên thấy đời em giống in như thiên truyện anh viết, và hết cả hồ nghi khi nhìn đến cái tên ký thân thiết dưới này. Nhưng em sẽ ở đâu đọc anh, gần anh, xa anh, hay không còn gần và xa anh nữa, trên đời này ? Xuân đến! Mưa bay! Người ta bảo nhỏ anh rằng trong tháng Giêng tốt lành sẽ có nhiều đám cưới. Anh không tin, mà tin làm sao, vì qua ánh Sáng ngày xuân, anh vẫn thấy lòng buồn vô hạn.
* * *
Sau bốn năm ba tôi mất, trước hai năm tôi lên tỉnh học, em gái tôi, tôi nhớ đúng thế, vào đời. Cuộc đón rước đầu tiên ở ngưỡng cửa đời sống là một cuộc hò hẹn giữa em tôi và người bạn trai của em. Năm đó, em tôi mười lăm tuổi. Như thế em tôi còn là chậm biết đời nếu ạo ạánh với những thiếu nữ bây giờ mới mười ba tuổi đã tỏ ra lịch lãm. Những khách nợ lâu đời nhất của dì ghẻ tôi
-em tôi và tôi là đôi con cùng cha khác mẹ
-được em tôi lục ra và đi đòi hết.
Em tôi trang điểm cẩn thận trước khi đi, và đi thật lâu. Tôi còn nhớ mùi nước hoa lần đầu em xịt lên tóc, một thứ hương vị ảo não đặc biệt cho mũi tôi lúc bấy giờ. Dì tôi nhìn em trang điểm thì gắt nhưng không phải là đe nẹt, mà lại ngụ ý khen. Riêng tôi, tôi nhận thấy em tôi đã đổi khác. Người con gái họ Hồ đó có lẽ sắp làm nên chuyện gì phi thường đây. Thành thử, hễ em tôi đi đòi nợ, là tôi trốn học đi theo. Chúng tôi 'đuổi' nhau qua nhiều phố, cuối cùng, em tôi đến 'đòi nợ' một người con trai nhỏ nhắn, xinh đẹp, đứng đợi em ở một phố vắng vẻ vùng ngoại ô. Ai đã từng có một người em gái tự do, tất hiểu lòng tôi lúc đó, một nửa căm giận, một nửa e thẹn, chỉ sợ em biết được anh tò mò dò theo. Sự bắt được tang chứng kia càng làm tôi phục ba tôi là thông minh, khi một hôm, no thuốc phiện rồi, người nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra, bảo với tôi đương loay hoay định ăn cắp một cái bánh ngọt trên khay:
-Ba biết con thèm ăn bánh lắm, nhưng sao con không xin ba? Ba đương mải nghĩ về em Dìn của con.
Ba chỉ sợ sau này nó hư. Tướng nó không được tốt lắm. Chỉ có anh Hai con là tử tế thôi. Tôi nũng nịu bảo ba tôi:
-Thế con không tử tế à ba? Lúc nào ba hút thuốc phiện chẳng có con ở ngay bên là gì.
Còn anh Hai thì chỉ biết chạy đi chơi.
-Phải, con tử tế với mấy cái bánh. Nhưng thôi, các con nhờ trời cũng khá cả, cái đứa hư nhất ba sợ là con Dìn. Và ba tôi đã nói đúng. Tôi cũng nghĩ đúng. Một dịp cho tôi khoe cái tài trinh thám với anh tôi:
-Đố anh biết đi đòi nợ là gì?
-Là đi bắt nợ, là đi thúc nợ.
-Là... Tôi vít cổ anh tôi xuống, nói khẽ:
-Là đi với trai, em Dìn nó đi với trai đấy. Anh tôi còn trẻ, nên cũng hăng hái hỏi tôi:
-Thật à? Bé thấy con Dìn ở đâu? Hay ai bảo? Nói mau lên, anh sốt ruột nghe lắm rồi đây! Tôi kỹ càng thuật lại chuyện và cười bảo anh tôi:
-Anh em mình được như cái thằng cu ấy, cũng thích đấy nhỉ.
Ngày hôm sau, chúng tôi lại đi rình, và lại bắt gặp em gái tôi. Nhưng chúng tôi chỉ trông nhau mà không ai dám ra đánh mắng người con trai như ở nhà đã định. Mãi đến sau này, tôi mới kịp nhận thấy chúng tôi nhát gan và vô lý, nhưng lúc tỉnh ngộ như thế, thì em gái tôi đã vào đời! Gia đình tôi là cuộc phân tranh ngấm ngầm và ra mặt giữa hai phe. Mẹ tôi và dì ghẻ tôi đánh nhau luôn, nhất là từ ngày ba tôi mất. Dì ghẻ tôi đã nhanh nhẹn chiếm được hết của cải của ba tôi, và khôn khéo sang tên dì ngay từ hồi ba tôi còn sống. Mẹ tôi không có cái gì cả, ngoài ba thằng con trai phải nuôi, và cái bàn thờ của ba tôi phải dọn sửa. Mẹ tôi bảo dì tôi là con một đứa hái củ nâu. Dì tôi chối phắt cái gốc tích ấy đi, và trả lại cho mẹ tôi hai tiếng 'lái đò'. Rồi hai người đánh nhau. Anh Cả tôi chạy can hai người ra, anh Hai tôi đóng cửa cho hàng phố khỏi thấy, còn em tôi và tôi thì khóc. Chúng tôi không biết ai phải, ai trái, nhưng chúng tôi người nào bênh mẹ người ấy. Em gái tôi phân bua với tôi:
-Mẹ anh tồi quá, cứ đánh mẹ em luôn.
-Mẹ em tồi ấy.
Cậy có của lộng quyền. Giữa hai chúng tôi có một cái gì ngăn trở. Chúng tôi tuy cùng ở chung một nhà, ăn cùng mâm, nhưng thực ra thì xa cách. Mẹ tôi tìm đủ cơ hội để dìm dì tôi xuống, và cố nhiên, như bắt được một thứ khí giới độc ác và màu nhiệm, người vin ngay lấy câu chuyện theo trai của em tôi để nói bóng gió. Hôm hai người cãi nhau, tôi được gọi ra làm chứng. Tôi thấy dì tôi ngồi trên sập, trước mặt một cái tráp trầu không vỡ đổ, nghiến răng hỏi tôi:
-Có thực chính mắt anh trông thấy con tôi theo trai không? Tôi không đáp và đưa mắt nhìn em gái tôi đứng thút thít khóc ở xó nhà vì vừa bị mấy cái tát. Tiếng dì tôi vẫn dằn mạnh:
-Anh cứ nói đi để tôi đánh tan xác nó ra, đồ không có người dạy! Mẹ tôi xen vào:
-Đừng có nỏ mồm. Bảo ai không có người dạy? Không được chạm đến con tôi!
Giữa lúc tôi chưa biết nói làm sao cả, thì em gái tôi chắp tay đưa lên bụng, kín đáo lạy tôi mấy cái. Lòng thương một người con gái yếu ớt làm tôi quên hẳn sự hiềm khích giữa người trong nhà. Tôi đáp rất gọn:
-Không, con nói dối đấy chứ! Tức thì dì tôi vênh mặt lên:
-Nghe nữa đi, nghe cái đồ nói dối nữa đi! Và tức thì hai cái tát của mẹ tôi cháy bỏng trên má tôi:
-Ai dạy mày nói điêu, mày hai lưỡi! Nhưng tôi lại chỉ còn có một lưỡi, khi ngồi ăn cơm với mẹ tôi:
-Đúng là con Dìn đi với trai, mẹ ạ. Ban nãy nó lạy con đừng nói.
Mẹ tôi lườm tôi và im lặng. Một chiều kia, đi học về, tôi ngạc nhiên thấy em gái tôi bị trói chặt như con lợn nằm ngoài sân, nhăn mặt dưới những vụt roi mây chập ba lại. Bên cạnh em, những tờ thư vất bừa bãi, cái xanh, cái tím, cái vàng, cái lá mạ. Dì tôi sai anh Hai tôi đọc to lên từng cái một. Mỗi lần một bức thư đọc dứt, là một lần roi mây vụt xuống đít em tôi. Tôi ngẩn người nghe cái giọng nói khôn khéo ngọt ngào mà tôi được biết lần thứ nhất. Nó lọt tai và mát lòng quá. Đôi khi người con trai gọi em tôi là 'quý nương' và tự xưng là 'kẻ này'. Tôi giấu một bức thư vào túi rồi đem ra học thuộc lòng. Em tôi chắc không muốn nghe lắm, nên nhắm mắt lại. Thực không gì đẹp bằng yêu nhau, xấu bằng yêu nhau!
-Đấy, em anh, anh xử lấy. Bây giờ ba nó chết rồi, tùy anh định liệu. Anh Cả tôi vốn hùng hổ nên đáp:
-Gọt gáy bôi vôi, đem trôi sông nó đi! Em tôi nghe hai tiếng ' trôi sông' thì nức nở khóc.
Dì tôi nóng mắt, cúi xuống, giật từng cái áo của em mặc ra. Đột nhiên không ai bảo ai, ba anh em chúng tôi cùng quay mặt đi. Riêng tôi, tôi thấy nổi dậy trong lòng nỗi công phẫn đối với cách giáo dục tàn nhẫn kia. Và suốt đời, tôi không quên được cái thảm cảnh của một người con gái bị xử ngược chỉ vì phạm một tội rất thông thường là yêu vì nhẹ dạ. Sự đó rất có ảnh hưởng đến đời tình ái của tôi, một cuộc đời chỉ toàn thấy những dang dở vì lẽ tôi không biết giữ trong tay những hạnh phúc mau biến. Sau trận đòn hôm ấy, em tôi trở nên buồn bã. Cuối cùng, dì tôi nhốt em tôi vào một cái buồng tối, khoá kỹ, chỉ cho giao tiếp với bên ngoài qua cái cửa sổ nhỏ. Tôi linh cảm rằng, tuy chúng tôi đã được yên lòng về cách nhốt em tôi như thế, một sự gì nghiêm trọng vẫn lảng vảng quanh nhà chúng tôi. Quả nhiên, một đêm kia thức dậy, tôi đứng ở trên gác nhìn xuống đường phố, chợt thấy một bóng người động đậy trong bóng cây. Ngay lúc đó, cánh cửa dưới nhà kêu lên, và người vú già tay cầm một tờ giấy trắng tiến lại phía cái bóng. Tôi ngẫm nghĩ và hiểu biết. Sáng mai, tôi chạy xuống nhà, lại căn buồng nhốt em gái tôi, bảo em:
-Sao em dám đưa thư cho vú già đem cho cái thằng nào đấy ? Em tôi đáp lại bằng một giọng cương quáết, rắn rỏi, một giọng nói làm tôi rùng mình, không ngờ có thể có được ở trên môi người con gái mới mười lăm tuổi:
-Tại vì... em nhớ người ta quá !
-Thế em không sợ người nhà đánh à ?
-Trừ phi anh nói. Nhưng em biết anh tử tế, chắc chẳng bao giờ anh muốn em khổ hết; anh còn nhớ ngày nào chúng ta giữ trâu và ăn ổi với nhau không?
Tôi không quên được ngày đó. Nó là cái kỷ niệm đẹp đẽ của đời tôi mà em tôi vừa nhắc lại. Một cánh đồng cỏ xanh mượt nằm ngủ dưới chân đồi, mới ba giờ chiều đã mờ, vì bóng núi che khuất mặt trời đổ lên đó. Chúng tôi thả trâu cho tự do ăn cỏ, lòng thanh thản dưới một bầu trời Sáng đẹp. Đôi lúc tiếng ạáo của dân Mường từ xa vẳng lại, là những thanh âm độc nhất hiu hắt trong cái rộng rãi, cô quạnh của linh hồn. Chúng tôi đánh trâu bò lên đồi vào lúc mờ Sáng, và trở về nhà khi nắng vàng chỉ còn nửa đốt ngón tay trên đầu bụi trúc. Đàn vật nối nhau theo hàng một, từ trên đồi uể oải xuống, làm thành một cái dòng màu xám chảy chầm chậm trong ánh mờ nhạt của hoàng hôn. Ngoài mấy người con gái mà tôi mến rất nhẹ nhàng và rất kỳ dị, em tôi là người bạn nhỏ hiền hậu của tôi ngày ấy. Chúng tôi cùng để lòng ước mong những chuyện không thể có, em tôi mơ được một căn nhà ngói dựng trên đồi, và tôi khờ khạo hơn, giản dị hơn, được bình yên chăn trâu trọn kiếp. Hai tôi lấy hoa ạim cài lên đầu, lên áo, và cùng cho rằng hương hoa ạim thơm, tuy thực ra nó vô cùng nhạt nhẽo. Chính ở cái chốn mà mây gió còn giàn nguyên màu dĩ vãng đó, chúng tôi lớn lên hồn nhiên giữa bài thơ tưng bừng của sự sống, hồn nhiên nhận biết cái tang máu mủ lần thứ nhất xảy ra trong cuộc đời chúng tôi: ba tôi mất.
Cái chết lặng lẽ của người trái hẳn với tháng ngày sôi nổi người sống, làm nhiều khi tôi ạinh lòng ngơ ngẩn trước thiên luật không thể cưỡng lại gieo xuống muôn loài. Đời sống lôi cuốn chúng tôi về những hoàn cảnh khác. Chúng tôi đau đớn thấy mây gió ngày xưa dần dần xa vắng bên những giấc mộng chỉ còn là nỗi thương tiếc nức nở giữa cuộc đời. Người con gái ngây thơ, vô tội là em tôi ngày xưa, bây giờ đang yêu thắm thiết, yêu mê say và đang phác họa trong óc những bước đường liều lĩnh sau này. Một Sáng, giấc mơ của tôi bị cắt đứt vì mấy tiếng kêu hốt hoảng của dì ghẻ tôi:
-Trời ơi, con Dìn nó trốn mất rồi ! Tất cả mọi người cùng chạy vội lại bên dì. Gian buồng nhốt em tôi đã từ bao giờ bật khoá. Rương của em tôi bị nậy nắp, bao nhiêu áo quần cũ, mới đều mất hết. Tôi chợt nhận thấy, trước quang cảnh đó, một sự gì hoang vắng lạ lùng, một nỗi gì lạnh lẽo không hẳn buồn rầu, nhưng kinh ngạc. Dì tôi lăn mình vật vã khắp nhà. Anh Cả tôi suy nghĩ về cách trốn đó. Anh Hai tôi thông minh hơn, chạy tìm em ở khắp các xó giường giăng đầy mạng nhện. Tôi thì chỉ biết yên lặng. Bỗng tôi để ý đến đôi mắt của ba tôi trong bức ảnh đặt trên bàn thờ, đôi mắt như quắc nhìn tôi. Nét mặt người buồn vì ạám. Tôi ngờ như có sự trách cứ huyền bí nào đó, sự trách cứ chính đáng gieo xuống tôi, vì tôi là một kẻ phạm tội: tôi đã quá dung thứ sự thầm nén của em gái tôi. Cuộc trốn đi được ngót ba tháng, thì một hôm, chúng tôi nghe tin em Dìn bị người con trai từ bỏ. Sự đoạn tuyệt đột ngột đó rất phiền phức và khó hiểu với tôi. Nhưng anh Hai tôi lại tỏ ra rất tường tận, kinh nghiệm. Anh giảng cho tôi biết:
-Đại phàm yêu nhau mà lấy nhau là hỏng.
-Thế yêu nhau mà không lấy nhau là không hỏng à anh ?
-Cái đó còn tuỳ mỗi người một duyên số. Câu triết lý vu vơ của anh tôi thế mà đúng. Người ta yêu nhau chỉ để yêu nhau. Lấy nhau tức là tham lam, ích kỷ. Mà đã yêu nhau, sao lại không thể can đảm xa nhau, không thể cao thượng chịu dứt cái tình đau đớn được? ái Tình, mà cái tên thứ hai ở thế gian này là Đau Khổ, không bao giờ cho phép người ta được thỏa nguyện. Chỉ có cha mẹ mới có quyền định đoạt được cuộc đời của con, và 'Trời' muốn thế, vì các bậc đã phải mang nặng đẻ đau, ắt được đền bằng một bài tính đố chính họ tìm lấy con số đáp! Xa nhau là yêu nhau thêm lên, vì hai trái tim vẫn tưởng nhau đẹp đẽ, nghĩa là vẫn sung sướng đánh lừa được nhau, vẫn mơ hồ và... tưởng tượng!
Em gái tôi không hiểu thế sự dám liều lĩnh đem cái tuổi mười lăm của mình ra thử thách một chuyện vượt lên trí óc, dại dột đem mình làm gương cho người sau, cho tôi. Em tôi đi được ba tháng thì dì ghẻ tôi cũng đi theo. Người đàn bà này đường hoàng đi ra bằng lối cửa chính, đem theo tất cả những của cải mồ hôi, nước mắt của ba tôi. Người khách thương ba mươi năm trời lăn lộn để gây chút sự nghiệp mong manh, không biết lúc này, ở thế giới bên kia, có thấy rằng chỉ những cuộc hôn nhân chính đáng mới tạo được nên những người vợ hiền và con chính đáng? Còn những sự lấy nhau vì nhục dục, vì tham vọng, chỉ là cách tự thỏa mãn và không có nghĩa gì? Từ bao lâu nay, tôi vẫn tin rằng mẹ tôi sung sướng. Nhiệm vụ một người vợ hiền, mẹ đảm Việt Nam đã được làm trọn vẹn, và danh vọng xứng đáng ấy được lấp lánh ở một chỗ cao quý nhất trong trái tim người. Cái phần thưởng đến với người tuy quá chậm và khó, nhưng chính sự khó và chậm ấy đã khiến tôi yêu mến nước Nam của tôi bằng một tấm lòng trọng đại, một mối tình vô ạong, nhất là quê hương thứ hai của tôi lại không được huy hoàng rực rỡ! Một năm trôi qua. Mùa xuân đến. Chúng tôi đón Tết trong nhà nhỏ, ba anh em cùng ngồi quây quần bên mẹ, quanh một nồi bánh chưng sôi. Gió bên ngoài rét lắm, lật trái những tấm lá thấp thoáng trong ánh lửa từ bếp chiếu ra. Mưa rơi ngoài cửa. Bàn thờ ba tôi Sáng trưng lên dưới một hàng nến đỏ nghiêm chỉnh như một toán quân đi chào cờ. Mắt mẹ tôi long lanh ướt. Người nhìn vào bếp lửa, đầu gối giơ cao để che lấp đôi mắt, chăm chú giở củi, nhưng thực ra là để che sự cảm động. Giữa lúc đó, người vú già ghé vào tai tôi:
-Cậu ra cho cô Dìn hỏi. Cậu ra một mình thôi !
Tôi ngạc nhiên đứng dậy, nói thác với mẹ tôi là đi tiểu rồi mở cửa bên chạy ra đường. Tôi thấy em tôi đứng nép dưới hiên một nhà người hàng xóm, rét run cầm cập. Tuy không trông rõ mặt và người em, nhưng tôi cũng biết được em gầy và yếu đi nhiều lắm. Em tôi nhìn tôi rồi hỏi:
-Anh ra có ai biết không? Mẹ em làm gì đấy? Tôi giấu chuyện dì tôi bỏ nhà đi, và đáp:
-Không ai biết cả vì anh nói dối anh đi tiểu. Cả nhà đang nhớ em, sao em không vào?
-Anh đừng nói cho ai biết em về nhé! Em van anh đó. Em xấu hổ lắm. Em lại đây thăm nhà vì em nhớ mẹ, nhớ các anh. Tôi nghẹn ngào bảo em:
-Thôi em cứ về, mẹ em năm nay ăn Tết ở nhà ông ngoại. Chả ai đánh em nữa đâu. Nước mắt em tôi trào ra, em nức giọng:
-Không, em không vào. Em đến chúc Tết anh là đủ. Xong, em đi... Tôi hốt hoảng:
-Em đi đâu ?
-Em vào Sài Gòn. Mười giờ tối hôm nay có tàu. Em chỉ còn ở đây được hai giờ nữa thôi. Năm nay anh có được nhiều tiền phong bao không? Chắc bánh chưng ở nhà ngon lắm nhỉ?
-ừ ngon lắm, em vào mà ăn.
-Em đã bảo em không vào mà lại. Em lại đây cốt được trông thấy anh và xin anh... mấy xu mừng tuổi gọi là nhớ lại ngày nào anh mừng tuổi em! Tôi sờ vào túi, móc ra được năm đồng xu, ngần ngại đưa cho em tôi:
-Anh nghèo lắm em ạ. Em tôi đón lấy số tiền, và cười đau đớn:
-Thế là nhiều rồi anh ạ. Thôi em đi nhé ! Nói dứt, em tôi lủi vào bóng tối, trong lúc tôi chợt nhớ ra, hỏi với:
-Em... em vào Sài Gòn với ai ? Tôi bước vào nhà buồn bã, sau khi đưa ống tay áo lên quệt nước mắt, giữa lúc mẹ tôi đã đứng dậy thắp hương trên bàn thờ ba tôi, vì tiếng pháo giao thừa bắt đầu nổ. Xuân về! Mẹ tôi yên lặng khấn khứa, đoạn quay lại phía chúng tôi, giọng nói của người như nhắc lại cả một dĩ vãng thiếu tươi đẹp:
-Không biết con Dìn năm nay bao nhiêu tuổi nhỉ ?
12-1943 Sáng trăng suông Chị đỏ Đương có một cuộc đời không đỏ chút nào. Tóc chị rối ren như tâm hồn chị bận rộn, bập bùng và sầu thảm như ánh đèn dầu lạc ạoi không đủ Sáng một góc nhỏ trong căn nhà tranh. Chị đỏ Đương lạc chồng từ năm mười tám tuổi. Chồng chị, một buổi Sáng kia, ngừng lưỡi cày đang thao thao rẽ những luống cổ điển trên mảnh đất nghìn đời, để nghe ngóng một tiếng gọi từ nơi nào vẳng lại: 'Sà Goòng ! Sà Goòng !' ấy thế là người dân đinh của xã Hòa Trường kia, giữa lúc máu trai chạy cuồng loạn trong người, đã ném cày, bỏ vợ, vất bà con, bước lên tàu sang... sang Tân Thế Giới.Và chị đỏ Đương đỏ mắt đợi chồng. Nhưng anh đỏ Đương không bao giờ còn trở lại. Chị đỏ Đương khóc đến đau mắt, và ba mùa thu qua, ba mùa thu của một tấm lòng nghi ngờ, thắc mắc, ba mùa thu đã trải lên đời chị đỏ Đương, như đã trải lên xã Hòa Trường, sự nguôi quên, lặng lẽ.
Chân trời xanh. Mặt hồ lặng. Người thiếu phụ Việt Nam đã thấy chết trong lòng niềm đợi chờ đau xót, bây giờ trở lại với cuộc sống bình thường, nhỏ mọn, nối Sáng theo chiều, qua mùa hạ sang mùa thu. Chung quanh chị đỏ Đương không ai nhắc đến anh đỏ Đương nữa. Mà có nhắc đến thì nghĩa gì mấy cái tiếng khô khan này:
-à, ở mãi bên kia Tân... khí giới! Xa. Xa. Và xa.
Lòng chị đỏ Đương tưởng tượng làm sao ra cái màu xanh mênh mông của biển cả, để với qua đó một bóng người đã mang đi nửa cuộc đời của chị. Chị đỏ Đương cần phải lấy chồng. Người làng ai cũng thấy vậy. Và chị đỏ Đương rất thẹn mỗi lần người ta khuyên chị bước đi bước nữa trong đời. Là vì chị đỏ Đương còn đẹp, có phần đẹp hơn trước đây, tuy không bao giờ chị dám chắc rằng mình đẹp hết. Đôi lúc, chị đỏ Đương ạoi trộm bóng mình lên mặt giếng, ngắm vội vàng, rồi thẹn thùng đưa mắt nhìn xung quanh, như sợ có ai vừa chợt thấy. Mùa xuân năm đó...
Cuộc đời thơ ấu của tôi đang diễn ra trong tiếng chim ca, trên bờ sông làng Chung Thượng giáp ngay nách làng chị đỏ Đương. Con đường đưa tôi đến nhà trường, hơn nữa, lại chạy qua trước nhà chị, một căn nhà nhỏ núp trong bóng dừa xanh, khiến tiếng nói của chúng tôi thêm thân nhau, cuộc đời chúng tôi thêm gần gũi. Đôi mắt người thiếu phụ ấy đã nhiều lần nhìn tôi qua hàng rào, và cái nụ cười chị từng nở trong bóng mát của một tấm lòng giàu thương yêu cũng như nhiều cực nhục, khiến tôi sung sướng nghĩ đến một ngày rất gần đây, tôi sẽ có chị đỏ Đương trong số những người thân thích. Tôi chỉ biết rằng chị đỏ Đương rất đẹp, đẹp kín đáo, và tôi lựa ngay được một người để gán cho chị. Người đó là anh Hai tôi. Rồi tôi mang theo trong lòng từ đấy, trên dải đường đã bình yên thu ngắn cuộc đời học ạinh của tôi lại, cả một giấc mộng to tát, giấc mộng phác vẽ, xây đắp hạnh phúc không cho mình, mà là cho một người, cho hai người thân thích. Tôi nhìn nhận chị đỏ Đương bằng một vẻ niềm nở riêng, và chị đỏ Đương đãi lại tôi theo hàng thân thích. Hàng rào râm bụt che khuất căn nhà chị đỏ Đương vẫn mùa mùa nở hoa, ngày ngày tươi thắm. Bên kia hàng rào, qua những kẽ lá loáng thoáng, về những buổi Sáng mùa đông, tôi vẫn thấy hơi nóng bốc lên từ cái miệng thắm nước trầu không, theo câu hỏi:
-Em đi học sớm thế? Có rét lắm không?
-Chả rét chị ạ. Em có áo bông rồi. Một lần, mừng được tin anh tôi sắp về ăn Tết, tôi chạy đến bảo chị đỏ Đương:
-Chị đỏ ạ, anh em sắp về Tết đấy. Mời chị xuống nhà em mà xem.
-Thế à ? Tôi tiếp theo, quên rằng những câu nói tự nhiên của mình đang làm cho một cô gái quê e thẹn:
-Thật đấy, ai nói dối chị. Anh em ở Hà Nội về ấy mà. Tết chị đến chơi với anh em nhé. Nói xong, tôi sung sướng cười, trong khi chị đỏ Đương đưa tay vin cành cây, ngó xuống đất, ngón chân cái di đi di lại hòn đất trong vườn...
-Hà Nội chắc là vui lắm đấy, em nhỉ ?
Tôi đáp như khi đứng trước các bạn cùng tuổi:
-Mà nào em có biết Hà Nội là cái... cóc gì. Nhưng chắc là vui vì nghe anh em bảo thế. Không đợi cho tôi sắp nói nữa, chị đỏ Đương bước vào nhà, sau khi bảo tôi:
-Thôi, em đi học không lại muộn.
Trời thôn quê xanh ra, cao lên, soạn sửa đón ba ngày của một mùa thái bình, thịnh vượng. Gió trong ruộng đã thoáng lẫn hương xuân, và trong khi tắm biếc thêm lđá tre mườn mượt nhung, đã làm rớm chảy sự tươi thơm trong những tấm lòng trai trẻ. Trăm nghìn lần dò hỏi nỗi thanh tịnh của dòng sông, điệu hiền hòa của chim gió, tôi cảm nghĩ đến những tiếng pháo sắp sửa cười vang để rồi, bất thần, ngừng bước chân, tôi đưa tay viết lên không gian hai chữ con con, xinh xinh, mà tâm hồn tôi đã nhiều lần nhắc đến: Tết! Chỉ còn ba ngày nữa là hết năm. Tôi mong đợi kỳ hạn về của anh tôi bằng cách ngẩn người đếm từng tiếng trống trễ nải, những tiếng trống chậm chạp lắm mới đập được vào tai tôi, trong khi, từ đằng xa, tôi ngạc nhiên thấy người khán già đã nhấc hẳn lên cái dùi gỗ... Chị đỏ Đương không có vẻ đợi Tết. Chị không biết trông chờ, mong ước, thì nghe làm sao được sự vần vũ màu sắc của không gian, thấy làm sao được nỗi rộn ràng của thời tiết. Chị đỏ Đương gói bánh, giã giò và nhờ những công việc này chị, biết rằng sắp Tết. Hôm chạy một mạch từ nhà lên báo với chị tin anh tôi về, tôi vẫn thấy chị đỏ Đương ngồi yên lặng nấu bánh.
-Chị đỏ ạ, anh em đã về đấy. Chị xuống nhà em ngay đi !
Nói xong, tôi đặt vào bàn tay chị hai chiếc bánh trứng gà, nói là quà của... anh tôi biếu chị. Lần đầu tiên, tôi thấy người thiếu phụ ấy buồn bã rõ rệt, lần đầu tiên đang vui, tôi bỗng thấy lòng mình rạo rực, thắc mắc vì tôi trót lỡ lời. Chị đỏ Đương không nói, không nhìn tôi, đôi mắt hướng cả về phía lửa cháy như người tính toán một điều gì. Sợ chị không bằng lòng, tôi hỏi gặng:
-Chị đỏ giận em à ? Chị đỏ Đương ngoảnh lên nhìn tôi, mỉm cười gượng gạo:
-Không, chị không giận, nhưng chị không muốn lên.
-Chị chê nhà em chật à ?
-Không phải, nhưng chị không muốn lên.
-Thế thì em bảo anh em... đến với chị vậy ! Chị đỏ Đương sặc lên cười. Tiếng cười dữ dội quá, lạnh lẽo quá, vì nó đột nhiên, vì chưa bao giờ chị đỏ Đương cười như thế hết. Ra đến ngõ, tôi còn quay với lại:
-Chị Đương đừng giận em nhé! Có tiếng đáp lửng lơ:
-Không !
* * *
Tôi ngồi lọt vào giữa đám đông người nhà quây quần trên chiếc phản ngựa đặt hỏa lò, vì hôm đó là Sáng mồng một Tết. Anh tôi hỏi tôi:
-Lâu nay bé học có khá không ? Tôi đáp:
-Em học cũng được anh ạ. Nhưng em có chuyện này muốn nói với anh... Mẹ tôi mỉm cười, nói xen vào:
-Nó muốn nói đến con đỏ Đương ở làng bên đấy. Con ấy nó đã có chồng rồi, nhưng thằng va đi Tân... khí giới đã mấy năm không thấy về. Sợ có sự gièm pha không tốt cho người tôi yêu mến, tôi nói trước:
-Chị ấy tốt đáo để. Anh cứ lấy đi, đến lúc chồng chị ấy về thì đã... xong rồi! Anh Hai tôi ngồi yên lặng. Mãi sau anh mới chậm rãi:
-Cứ kể ra lấy vợ nhà quê cũng tốt. Đỡ được mẹ. Nhẹ cả cho mình.
Ngay chiều hôm ấy, lấy chỗ tình quen biết, tôi đến mừng tuổi chị đỏ Đương và nhân tiện để anh tôi xem mặt chị. Thấy chúng tôi đến, chị đỏ Đương luống cuống cầm gậy ra đánh chó, rồi quên cả chào hỏi khách, chị cứ nắm lấy tay tôi mà yên lặng. Cảnh nhà chị đỏ Đương thanh bạch quá, Tết đến càng làm thanh bạch thêm. Mấy que hương đen ngậm ngùi cháy trên bàn thờ vắng vẻ, vài bông hoa giấy trơ trẽn thò ra ngoài chiếc bình sứ, không đủ điểm Sáng sự u tịch đã có từ nhiều đời. Chị đỏ Đương sống bên một người chị gái lỡ thời, tàn tật, thiếu hạnh phúc sum vầy, nhưng lại giàu lòng nhân đức. Hai tâm hồn ấy, một đã bị sa thải khỏi cảnh hoa nắng của đời, và một mang nặng cái dĩ vãng tình duyên không đẹp, đã ghé lại bên nhau, như bóng chiều nghiêng xuống túp lều rách, và cùng cảm hiểu nhau trong thứ tiếng nói thầm kín của đau thương. Chị đỏ Đương có thật để lòng rung động trong buổi sơ ngộ với anh tôi hay không, tôi không dám chắc. Nhưng bảo rằng người con gái ấy đã để thoáng lẫn ý nghĩ muốn lập một gia đình thứ hai, tôi đã có một nhận xét không quá sai lệch. Điều khiến chị đỏ Đương dùng dằng trước ngưỡng cửa cuộc sống mới, đó chính là cái hình bóng chỉ còn là hình bóng thường run run ở một nơi mà chị mơ hồ đoán là xa lắm, có thế thôi.
Anh Hai tôi thì đã nếm mùi ăn chơi ở Hà Nội. Anh đã biết qua thế nào là chán nản, cái cảm giác tẻ ngắt, vô vị, rớt lại sau những buổi tiệc đời, sau những cái xoay lưng hung tàn của mấy người con gái. Rồi giữa lúc lòng anh rộn cảm sự hoang vắng, u tịch, anh tự nhiên nghĩ đến gia đình, cứu cánh của những tâm hồn bị ruồng bỏ. Lần ấy, anh tôi nói trước:
-Năm mới, nhân dịp được về chơi, tôi đến mừng tuổi cô. Chị đỏ Đương cúi mặt xuống, giọng nói run run:
-Cảm ơn anh... Chị đỏ Đương chỉ nói được có thế, rồi bỏ tôi đi têm trầu, pha nước. Tôi đứng lấp ló sau thân cây cột, mỉm cười với anh tôi, đôi mắt nhìn anh dò hỏi... Ra về, thấy tôi xoắn xuýt đến chuyện cưới chị đỏ Đương, anh tôi gắt lên nhưng với vẻ hiền hậu:
-Trẻ con... thì biết gì ! Cách đấy ít lâu, theo lời yêu cầu của anh tôi, mẹ tôi sang bên nhà chị đỏ Đương dạm ngõ. Lễ ăn hỏi thật là đơn giản với những người thoạt ạinh ra đã sống một cách đơn giản. Chị đỏ Đương trốn biệt vào trong buồng, nghe qua kẽ vách, và nhìn trộm cũng qua đó. Tiếng người anh chị đỏ Đương hỏi:
-Bây giờ thì cô định thế nào? Có bà bên làng sang bỏ trầu đấy. Mấy phút yên lặng trong buồng rồi có tiếng đáp vọng ra, tiếng đáp của người chị ruột chị đỏ Đương:
-Cô ấy... bằng lòng rồi ! Tiếng 'rồi' bị ngạt trong cái bàn tay chụm lại. Trên đường về nhà, anh tôi giơ cho xem một cái bã trầu không và nói:
-Đương nó ở trong buồng, nó ném ra cho anh.
-Thế là anh chị xong xuôi với nhau rồi đấy !
Thực ra thì công việc chưa xong xuôi được. Anh tôi phải trở ra Hà Nội làm, và việc xin cưới phải gác lại đến sang năm. Hôm anh Hai tôi lên tỉnh, nơi sẽ đáp tàu ra kinh đô xứ Bắc, chị đỏ Đương cũng trảy chợ, sắm hàng. Cùng đi một đường, trong cùng một ngày, hai người bạn ấy đã trao đổi rất nhiều tâm sự với nhau, giữa những bông cỏ may phân phất theo một chiều gió đìu hiu... Tôi dừng lại ở đầu làng, trông theo họ, hai cái bóng mà tôi ước ao gần nhau mãi, mất dần đi trong lớp nắng mờ... Rồi tôi mang theo trong lòng, từ đấy, trên dải đường đã bình yên thu ngắn cuộc đời học ạinh của tôi lại, cả một giấc mộng to tát, giấc mộng cao quý, phác vẽ, xây đắp hạnh phúc không cho mình, mà cho một người, cho hai người yêu dấu. Trong cảnh yên lặng của những ngày thôn dã, mất đi đều đều, không tăm không tiếng, đôi lúc người phu trạm gầy khổ đến gõ cái gậy tre trên cổng nứa, trao cho tôi những phong thư từ Hà Nội chuyển về. Những bức thư ấy, tôi đều đem đọc cho chị đỏ Đương nghe, và chị đỏ Đương đều xin tôi đem về giữ lấy. Tôi còn nhớ mãi một đoạn này:
-Hôm anh ra Hà Nội, không nỡ xa Đương, vì tàu chạy rồi, anh còn thấy Đương lau nước mắt. Em nên vì anh đối với Đương tử tế, vì dầu sao, Đương cũng đã là con mẹ, là chị em. Phải, chị đỏ Đương đã là chị tôi.
Và tất cả những người như chị đỏ Đương đều là chị tôi hết. Cứ gì phải chung sống dưới một mái nhà, chia uống một ngụm nước, cùng ngắm một dòng sông, người ta mới yêu được nhau? Tình yêu, nếu thực là tình yêu, thì không có quê hương, cố quận, bởi nó tỏa ra từ một tấm lòng nghệ sĩ mênh mông, tự nó đã sẵn có sức hun nấu, và thâu suốt qua, và bao trùm lấy tất cả những gì đáng được sự thờ kính thiêng liêng. Tôi yêu chị đỏ Đương của tôi và nhiều chị đỏ Đương khác, vì tôi yêu vô cùng cái dải đất cần lao này, cái dải đất thoát được ra ngoài sự lọc lừa, phản trắc, cái dải đất chỉ bị bạc đãi mà không bạc đãi ai bao giờ. Anh tôi đã không bao giờ còn trở lại làng Chung Thượng nữa. Những năm trụy lạc, tù tội đã làm cách biệt con người ấy với cuộc tình duyên ngày xưa, và làm phai dần những lời thề thốt cũ. Rồi tôi cũng ra Hà Nội để chứng kiến cuộc đời lệch lạc, thiếu tin tưởng của anh tôi. Xa lắm rồi, lđá tre xanh vây kín xã Hoà Trường êm ái, và xa lắm, hình bóng người thiếu phụ thuở trước, tay vín cành găng, cố hỏi tôi bằng một giọng kín đỵo:
-Anh em sao lâu về thế nhỉ ? Cách đây vài năm, tôi được tin chị đỏ Đương đã lấy chồng và đã có con ẵm. Tôi đem chuyện ấy nói với anh Hai tôi thì anh cười chua chát:
-Người định nhưng trời đặt, ai biết đâu !
* * *
Một hôm, nhân có việc trở lại chốn cũ, tôi tạt đến thăm chị đỏ Đương. Tôi tìm lại nhà chồng chị, bày đặt ra chuyện mua thóc và hỏi thăm về mùa màng. Tôi cốt nói to để chị đỏ Đương hay rằng tôi đã về. Nhưng đáp lại cách ân cần kín đáo ấy, một điệu hát ru con từ gian buồng bên đưa lại, một điệu hát não ruột, đều đều: Hầu hơi... Trăm năm đành lỗi hẹn hò Cây đa bến cũ, con đò khác đưa... Tôi nhận ra tiếng chị đỏ Đương. Một cảm giác gì chán nản chạy lướt qua đầu óc tôi, chạy khắp người, khiến tôi rùng mình khó chịu. Tự nhiên, tôi không muốn gặp chị đỏ Đương nữa, bước ra ngoài, trong lúc bóng đêm hắt hiu về đầy cả bốn phía. Trời Sáng trăng suông.