Vào đầu năm thứ mười sáu, sau ngày ba mươi tháng Tư năm một nghìn chín trăm bảy mươi lăm, những người khách của chung cư, nếu tinh ý một chút, sẽ cảm thấy được cái gì khang khác trong bầu không khí sinh hoạt vốn nổi tiếng là đầu ấm và nề nếp của chung cư Thắng Lợi. Nói khang khác vì có sự bất bình thường tuy chưa biết đó là may hay rủi, là tiến hay lùi. Chỉ có điều, bộ mặt chung cư có vẻ buồn bã, đìu hiu hơn, từ người gác dan vốn là một lão ông đã từng làm nô bộc cho nhà chủ từ bốn mươi năm nay, mà cho đến khi đổi chủ, ông Thậm - tên người gác dan - rất tự hào được trở thành người chủ tập thể của cao ốc mười tầng này. Không tự hào sao được, ngay trong những ngày tiếp quản, những người Việt Cộng bước vào chung cư này với cái băng đỏ trên tay áo, tất thảy đều gọi ông là đồng chí, là người của giai cấp. Ông Thậm cảm động đến phát khóc, bởi vì từ thuở nhỏ cho đến già từng này tuổi, chưa ai gọi lão là cụ, là bác là ba, là đồng chí như bây giờ. Thậm chí, lão còn được đi họp với cán bộ, để bàn bạc kế hoạch ăn ở, bảo vệ và về sau này lão còn được lãnh lương do mọi người đóng góp. Thế là từ một người đày tớ, lão đã trở thành ông chủ, lão có thể trừng mắt hoạch họe những ông Việt Cộng chính hiệu đã từng vào sanh ra tử - đã đánh thắng Huê Kỳ, nếu ông ta không giữ đúng giờ giấc, nội quy. Đối với những ông chủ giàu trước đây, thì lão chỉ có một nước quỳ mọp và vâng lời. Đấy trừ cái thiếu thốn đôi khi nhếch nhác trong những năm tháng ăn bo bo và cải tạo liên tu bất tận rồi sau đó là những năm tháng mất điện mất nước, còn thì lão cảm thấy mình đủ uy quyền trước mọi người hơn bất cứ lúc nào trước đây. Lão, Thậm chí có quyền không mở cửa khi đã qua mười giờ đêm đối với bất cứ ai về muộn kể cả người trả lương cho lão, tức đồng chí tổng giám đốc một Liên hiệp có tên là Mex ở đàng sau đuôi. Tuy nhiên, lão cũng có điều đáng tiếc thường ẩn hiện qua tiếng thở dài riêng tư trong những ngày khang khác vừa qua...
Câu chuyện bắt đầu từ cái hôm những người Hồng Kông giống như những chú xì thẩu trong Chợ Lớn được một cán bộ của ủy ban đầu tư dắt đến đi coi nhà. Lý do viết trên tấm bảng đen - tờ báo tường vô cùng hữu ích của chung cư - là tham quan để đầu tư ngoại tệ mạnh, làm cho lão Thậm vừa mừng mừng vừa lo lo. Nhưng trên hết là sự bực tức của lão đối với mấy ông Chệt Hồng Kông bất nhã với lão. Cả một bọn người hơn chục đứa chẳng tay nào coi lão là người chủ quan trọng nhất có quyền uy cho hoặc không cho người vào nhà. Bọn họ lội ào ào lên cầu thang, thử thang máy, yêu cầu các chủ hộ mở cửa các phòng, chui vào cả toa lét, leo lên cả sân thượng bỏ hóa mười năm, cỏ xanh vàng mọc dày đặc như một cái trảng trống hình vuông giữa trời và cuối cùng họ ra đi như một cơn gió. Họ gục gặt đầu, chỉ trỏ và xì xào với nhau bằng tiếng Tàu và tiếng Anh khi ngước nhìn lên toàn cảnh chung cư lần cuối cùng rồi bắt tay ông tổng giám đốc kiêm trưởng nhà nói lời cám ơn bằng tiếng Việt lơ lớ: "cam on, cam on"...
- Này chú Ba, có chuyện gì vậy? Khi Tổng giám đốc Ba Tuấn tiễn đoàn người ra xe và trở lại, lão Thậm liền chặn ngang cửa để hỏi
- Chưa có gì đâu bác ơi. Mọi sự còn đang bàn bạc chưa đi đến đâu hết.
- Nhưng mọi cái sự bàn bạc là cái gì?
- à, có lẽ bác chưa được phổ biến chớ gì. Đại loại như vầy chung cư này sẽ bị giải tỏa theo quy hoạch, nước ngoài sẽ đầu tư lớn để làm khách sạn năm sao
- Trời ơi, chết!
- Sao? Sao lại chết?
- Rồi anh em ở đâu? Còn tôi.... mấy chú cho tôi ở đâu?
Ba Tuấn chỉ mỉn cười rồi bỏ đi với lời "xin lỗi bác, cháu bận". Lão Thậm chỉ biết đứng như trồng, bụng hoang mang cực độ. Ba Tuấn chính là người mười mấy năm trước đây gọi lão là đồng chí, phân công cho lão công tác bảo vệ, là người đứng ra quyên góp nuôi cơm lão thay vì tống lão vào trại nuôi người già cô đơn. Ông là niềm tin của lão, là chỗ dựa của lão, chỉ có ông mới đưa lão lên địa vị làm chủ. Đúng như vậy, chỉ có mình Ba Tuấn, người có chức lớn nhất, ở căn hộ to nhất trong chung cư hạng sang này mới là người đủ uy quyền để lão tin cậy. Những người khác đều thấp bé hơn, tầm cỡ chẳng bao lăm, thậm chí nhiều người trong họ còn xoàng hơn lão. Lão nhớ tới cái tay Hơn, người từ bỏ chung cư ra đi sớm nhất. Cái tay tư sản mới tên Hơn ấy đã chạy chọt có nhà riêng bị lão coi là con người đáng ghê tởm hơn cả ông chủ cũ trong một lần thuê lão kích cho bà chủ lớn lên cơn sản hậu mà chết để ông đường hoàng sống với cô vợ bé xinh đẹp. Ông chủ ấy bây giờ đang ở Mỹ cùng vợ sau và các con đâu biết rằng chính cái người đầy tớ ngày xưa ấy đang là công cụ đắc lực, tích cực nhất của chung cư khi nó về tay cách mạng. Thế mà có kẻ là cách mạng lại dễ dàng từ bỏ cái chung cư để tìm cuộc sống riêng. Nhưng đáng ghê tởm nhất có lẽ là một con người khác, sau Hơn, đó là Quýnh. Anh ta thuộc loại mà lão coi là "giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước" là người dày dạn kinh nghiệm trong cuộc sống đô thị thời bao cấp, thời đó thế nào lão không biết, nhưng trong cái thời mà những người cách mạng về tiếp quản chung cư này, ông đã hiểu rõ thế nào là một con người tháo vát như Quýnh. Chung cư có căn phòng sang nhất của chủ cũ, sàn trải thảm Ba Tư, toàn bộ salon, sập gụ, tủ chè, búp phê quý giá bóng lộn đắt tiền như ngà như ngọc, trước đây chỉ có giới chủ cỡ tai to mặt lớn với dáng ngồi chễm chệ, tướng đi bệ vệ oai phong như ông tướng, chỉ có những bậc cao sang quyền quý mới vào đó mà ngồi, đàm đạo, mà nếm những sơn hào hải vị. Lão thậm chí không dám nhìn vào gian phòng mênh mông ấy dù đã hơn ba mươi năm làm nô bộc cho nhà chủ. Thế mà, ào một cái, cái tay Quýnh tháo vát ấy đưa vợ con tới ở đàng hoàng chỉ cần trưng một tấm giấy nhỏ cho tập thể. Ai cũng nghĩ hắn ta được giao ở đấy để làm nhiệm vụ đặc biệt. Chẳng ngờ, chỉ sau một thời gian ngắn, bằng cách này hay cách khác, cái tên vô lại Quýnh đã qua mặt lão bảo vệ để đưa tất cả các thứ đồ đạc quý giá ấy ra khỏi nhà. Sau đó nữa, cả nhà hắn cuốn xéo đi đâu mất với lời tuyên bố xanh dờn trước khi bước ra khỏi cửa: "Chỉ có bọn rồ dại mới ở nhà tập thể! Tớ đã trót dại mười mấy năm. Bây giờ tớ đã khôn. Chủ nghĩa xã hội của tớ là nhà riêng, xe riêng, tiền riêng, tất cả là của riêng. Xin vĩnh biệt những người anh hùng tập thể!". Hắn nói thế và ra đi để rồi không thấy hắn ló mặt trở lại chung cư này nữa.
Chung cư thở phảo trút khỏi gánh nặng của một thằng đầu trộm đuôi cướp. Song mọi người đã phải trả giá, những hộ còn lại nhao nhao đòi Ba Tuấn phải tạo điều kiện cho họ chạy nhà để ra riêng. Chung cư bị phạt vì xài điện quá định mức rồi bị cúp điện (cúp điện cũng có nghĩa là cúp nước vì máy bơm không chạy được), số người xin nhà tăng lên. Người ta viết khẩu hiệu lên báo tường. Mất nước là mất tất cả. Rồi đến cái nạn phải đun nấu bằng củi, lại một số người giã từ cao ốc. Hết lượt người này đi đến lượt kia đến, họ thay như thay quân trực ở nơi chiến hào biên giới. Người đã trải qua chung cư thì đoạn tuyệt với nó, tìm kiếm nhà mặt tiền, nhà trệt để rộng đường làm ăn xoay sở. Người chưa có nhà thì lục tục kéo đến chung cư như đi tìm định mệnh! Mười mấy năm mọi người quay cái vòng nhà cửa đến chóng mặt, duy chỉ có mình Ba Tuấn và lão Thậm là bán trụ không hề suy suyển
Ba Tuấn đã làm cho lão nể phục sát đất khi khoảng bốn năm trở lại đây ông đã cầm đầu 20 hộ góp công góp sức duy tu phòng ốc điện nước chung cư, sửa sang quét dọn cầu thang, trần nhà, các ngõ ngách sạch bóng như khách sạn năm sao. Hai chục hộ sinh con đẻ cái, cưới vợ gã chồng, nẩy nở ra thêm làm cho cái chung cư chật cứng và đầm ấm. Tất cả mọi người gắn bó lo toan cùng một việc là chăm sóc chung cư như chính cái căn hộ của mình. Một dạo, để tìm giải pháp cho những chung cư Thắng Lợi. Báo chí đến làm tin, viết phóng sự, chụp hình, phỏng vấn Ba Tuấn và lão Thậm. Thật là những ngày sôi động đầy tư hào của những người vốn bất hạnh vì bất đắc dĩ phải ở cao ốc trong cái thành phố đã bị nông thôn hóa đến mức báo động. Chính niềm tự hào như một liều thuốc ngủ, một lời ru mộng mị, làm cho mọi người có ảo tưởng là sẽ giữ vững ngọn cờ chung cư tiên tiến mà không cần có tiền để duy tu, không cần có điện nước thường xuyên, chỉ cần gàu xách nước và củi nhóm bếp là đủ. Nhưng mới nửa đường đi tới chung cư tiên tiến thì những người Hồng Kông đã đến....
- Chú Ba! Lão Thậm lại đón đường Ba Tuấn. Chú nói thật xem, họ làm gì chúng ta? Họ hạ cờ tiên tiến của chung cư à, cái đám Hồng Kông ấy? Có thật là họ đưa ta đôla không?
Bình tĩnh, ông Hai! Rồi mọi chuyện sẽ rõ thôi mà!
Sáu tháng trời Ba Tuấn cứ nói cái kiểu y chang như vậy. Lão Thậm hỏi ai người ta cũng nói vậy. Càng ngày lão phát hiện ra lời nói và việc làm họ không còn đi đôi nữa. Trên con đường cầu thang, nơi giữ xe, tiếng sập cửa phòng, tiếng tháo dở mỗi ngày một hối hả, cập rập hơn. Các cặp vợ chồng, các cô cậu mới lớn có vẻ xăng xái khẩn trương hơn trong chuyện đi về. Ba Tuấn cũng vậy. Ông ít la cà ngoài cổng bảo vệ với lão Thậm để bàn với ông về công việc làm chủ tập thể cao ốc. Câu chuyện giữa lão và ông giám đốc ngày càng bâng quơ và tẻ nhạt hơn. Hình như ông đang đổi thay, đang hướng tới một cái gì đó, lão không thể nào hiểu được.
Rồi cái gì đến cũng đã đến: lầu I dọn nhà một lúc bốn hộ. Họ ra đi chỉ chào lão Thậm một tiếng như mới quen lần đầu, thậm chí coi như là khách lạ. Lão-nhân lúc người ta bận khuân vác đồ đạc - kéo tay một chú bé bảy tuổi mà lúc nó còn nhỏ lão là người giữ trẻ không công, lão còn hay cho quà.
- Này cu Tí - Lão mở cho nó viên kẹo cao su - bố mẹ cháu đi thật à?
- Sao lại không thật! Bố mẹ cháu được cho nhiều vàng lắm. Người ta bồi thường đấy! Toàn vàng lá! Bố mẹ cháu đã mua nhà rồi. Sang lắm ông ạ.
Lão Thậm không tin vào tai mình nữa! Nếu có thật vậy thì cái chung cư tiên tiến này sẽ ra sao. Cái hôm nhận được bằng khen, tất cả mọi người từ già đến trẻ lớn bé đều hứa trong tiệc liên hoan rằng sẽ giữ vững ngọn cờ. Đâu phải một mình lão nhớ, có cả mọi người đấy chứ, có cả đại diện chính quyền, công an đường phố, cả người của Mặt Trận Tổ Quốc chứng kiến. Lão không hiểu nổi, lẽ nào chính những người này lại đi xử tử hình một điển hình?
Dần dần lão nghiệm ra, những người lớn tiếng nhất trong trách nhiệm bám chungcư lại là những người hưởng ứng việc sang bán nó một cách nhanh nhẩu nhất. Như cái tay văn sĩ lão thành tiếng tăm lừng lẫy nọ. Hắn tự xưng như vậy để chiếm căn hộ sang nhất và xơi cái gì ngon nhất còn lại, diện tích mặt tiền, dưới trệt để mở tiệm buôn. Hắn ranh ma đến nổi cái hành vi lỡ chiếm bất hợp pháp của tập thể rồi cũng được nhà chức trách công nhận và hoàn tất thủ tục hợp pháp. Đùng một cái hắn sang bán tất cả cho Hồng Kông bằng con đường "mật giao" làm cho mọi người té ngửa vì bị bất ngờ, hụt hẫng. Rồi sau đó, cuộc thương lượng mới từ từ đến với những người khác. Hóa ra, cái tay tự xưng lão thành ấy lại có cái lão thành đúng nghĩa nhất, đó là sựa lừa dối, sự phản trắc với bạn bè và đồng đội. Lão Thậm chẳng những ghét mà còn thù cái con người đầy gian xảo ấy. Nhưng dù sao thì ông ta cũng để lại cho lão một gánh nặng thắc mắc: những con người haydạy dỗ người ta phải sống với lý tưởng, với tập thể, phải vì mọi người thì chính họ lại sống đê hèn nhất, bần tiện nhất cho cái riêng của họ. Vậy thì như cái thân lão đây, cái ước mơ nhỏ nhoi được làm người chủ tập thể chung cư liệu có tồn tại được hay không? Lão Thậm chỉ biết thở dài trước câu hỏi quá lớn so với khả năng ít ỏi của bộ óc teo tóp vì bị nhốt chặt gần nửa thế kỷ trong cái gầm cầu thang và trên đầu nó (cái bộ óc ấy) là cả một núi Ngũ Hành đầy những con người tai to mặt bự đa mưu túc trí đè lên, biến lão thành một thứ nô bộc chuyên nghiệp không gì có thể đổi đời hay cứu rỗi được. Bây giờ đây, lão còn biết dựa vào ai trong cái thành đô đang được tư nhân hóa với cái tuổi gần bảy mươi, cái chân thọt, con mắt chột và cái tổng thể tứ cố vô thân mà ngoài cái nhà này lão sẽ chẳng còn ai và chẳng còn gì. Lão Thậm có chết đi, giỏi ắm cũng chỉ nhập vào quân đội ma trơi sẽ được ân huệ duy nhất trong dịp cúng cô hồn, vào ngày rằm tháng bảy xá tội vong nhân. Trong ngày ấy - có lần Quýnh đã triết lý với lão rằng - may ra đời lão chỉ có một người thương yêu thật sự, người đó là cụ Nguyễn Du, người viết Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh. Cái tay Quýnh đểu cáng ấy đã làm cụ mất ăn mất ngủ vì mấy câu chiêu hồn mà cụ Nguyễn Du viết ra như là để dành riêng cho loại người như lão: "Cũng có kẻ nằm cầu gối đất - Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi - thương thay cũng một kiếp người - Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan" và "Hương lửa đã không nơi nương tựa - Hồn mồ côi lần lữa đêm đen. Còn chi ai khá ai hèn - Còn chi mà nói kẻ hiền người ngu". Và giờ đây - lão nghĩ, không biết giữa cái tay Quýnh độc mồn độc miệng kia với ông tổng giám đốc Ba Tuấn thần tượng của lão, luôn có giọng ngọt ngào và trang trọng chỉ dành riêng cho lão, ai là kẻ đáng tin, ai là kẻ đáng ngờ, cuối cùng lão phải biết theo ai, tựa vào ai...
Trí não chai lì mê ngủ của lão bổng hồi sinh, đưa lão vào trận mê hồn của tư duy đầy ảo giác và cuối cùng lão lịm đi trên chiếc ghế xích đu què quặt khập khiễng với lớp bố vá chằng vá đụp lão dùng để ngã lưng trong khi làm nhiệm vụ trông coi xe cộ, khách khứa ra vào.
Chính vào cái lúc nữa mê nửa tỉnh ấy, Ba Tuấn xuất hiện như một La Hán trầm tư với quá nhiều nếp nhăn trên trán. Ông sờ trán lão để yên tâm là lão vẫn khỏe mạnh rồi quan sát căn phòng xép của lão. Ba Tuấn lầm bầm:
- Không đến nổi thấp
- Chú Ba nói cái gì không đến nổi thấp?
- Tôi nói cái giá căn phòng người ta trả cho bác đấy, bác Hai ạ. Bây giờ bác ký tên vào đây
Lão Thậm chưng hửng, nhìn Ba Tuấn trân trân. Ba Tuấn thản nhiên đưa tờ giấy cho lão, lão ký chữ thập vào đó, xong Ba Tuấn mở xắc cốp lấy ra một bọc nằng nặng mở ra đếm từng cây một. Chẳn bảy cây vàng 9999. Ba Tuấn chờ đợi lão Thậm đưa bàn tay run run ra vồ lấy ôm vào lòng rồi mở lời cám ơn theo kiểu nhờ ơn Đảng ơn Chính phủ lão mới có được bảy cây, chớ nếu không thì cả đời lão nữa chỉ cũng không sao có được. Nhưng không, lão Thậm tỏ ra hết sức dưng dửng, lạnh nhạt nữa. Lão nói:
- Như vậy là chấm hết phải không chú Ba? Mười bảy năm xây dựng cái mô hình chungcư tiên tiến như vậy là xong hả chú Ba? Như vậy là mấy chú đã đồng ý bán đứng cái chung cư này cho Hồng Kông rồi phải không chú Ba? Như vậy là tất cả cô chú đều sẽ đi đến một ngôi nhà mới? Còn lão, thì lão biết đi đâu bây giờ?
- Bác Hai vô nhà dưỡng lão là tốt nhất. Còn bảy cây vàng thì gởi ngân hàng lấy lãi mà sống sung sướng tới cuối đời!
Ba Tuấn cố thuyết phục lão Thậm về tương lai sáng mà bảy cây vàng sẽ đem lại cho lão nhưng tuyệt nhiên không một tín hiệu ơn nghĩa nào được phát ra từ con mắt kéo mây đục mờ của lão, từ những nếp nhăn nheo vỏ táo phơi khô của ông già gần đất xa trời. Ba Tuấn thất vọng, đứng dậy và bước đi
Kể từ hôm đó lão Thậm trở thành một con người, một ông lão khác. Suốt ngày lão lụm cụm làm cái việc trông nom xe cộ khách khứa ra vào như một cái máy rôbốt già cỗi hết năng lượng hoặc bị vi khuẩn xâm nhập phần mềm. Công việc của lão bỗng chốc trở nên vô nghĩa vì không còn cái đích để tới, như một con thuyền không bến bờ. Lão rạc đi trông thấy. Lão không gượng nổi dù là một nụ cười để tiễn những người ra đi. Cứ mỗi lần có một căn hộ dọn đi là thêm một lần lão cảm thấy chới với như con tàu mất thêm những mảnh ván cuối cùng trong giông bão.
Cho đến cái hôm người cuối cùng là Ba Tuấn dọn đi, người ta không thấy lão nằm bất động trên cái ghế xích đu rách nát đặt tại cửa ra vào nữa. Ba Tuấn linh cảm điều chẳng lành khi phát hiện một đàn kiến đông vô kể từ phía hồ nước hành quân hối hả về phía nhà khô, nơi có căn phòng xép của ông Hai Thậm. Ba Tuấn lần theo con đường hành quân zíc zắc của đàn kiến và cuối cùng biết được chúng đang tiến thẳng vào phòng xép của ông Hai qua kẽ hở dưới cánh cửa cái. Cánh cửa để ngỏ Ba Tuấn đẩy cửa bước vào. Ba Tuấn sững người lại, miệng ú ớ không ra lời. Mọi người chạy đến tò mò nhìn vào chiếc giường đơn. Lão Thậm nằm nhắm mắt xuôi tay như hàng đêm ông vẫn nằm, tấm chăn đơn mong manh đắp ngang bụng, hai bàn chân thò ra ngoài khô đét, trên gối, đàn kiến đang xếp hàng tiến về phía mắt và tai. Mọi người nhận ra, cạnh gối là cái gói vàng mà Ba Tuấn đã giao cho lão. Cái gói còn nguyên, không có dấu vết của một lần săm soi nào.
Sáng dậy, gỡ tờ lịch, tiện mắt xem ngày âm, tôi biết bữa nay ngày mồng năm tháng năm, Tết Đoan ngọ, ngày tôi nhớ đời: dưới quê tới mùa còng lột, mùa mắn còng
Mọi năm, vào dịp này, sau ngày mồng năm chừng vài tuần, tôi thường được món quà: keo chao đựng mắm còng nhỏ xíu kèm theo vài trái chuốt chát của cậu Năm gởi từ quê lên.
Mắm làm bằng con còng lột chỉ là món ăn đồng nội đạm bạc của quê nghèo, vậy mà ngót mười lăm năm sau ngày giải phóng, năm nào, mùa còng nào cậu cũng gởi lên cho tôi. Vì một lý do riêng đối với cậu cháu tôi, mắm còng trở thành món ăn để hoài niệm.
Trong chiến tranh, cậu làm du kích, tôi làm phóng viên mặt trận. Năm đó, quê tôi là chiến trường, lại vào chiến dịch nên tôi thường về sống với đội du kích của cậu. Sông Ba Lai hạ nguồn mùa khô nước mặn đắng, dân lại tản cư, du kích mất nguồn tiếp tế nước ngọt và thức ăn.
Để có nước ngọt cầm hơi, du kích phải ngược dòng sông, bơi miết về trên nguồn nơi giáp nước, nhận xuồng cho nước ngọt tràn vào đầy óc ách rồi bơi về, tiện tặn chi xài cho qua mùa, qua chiến dịch
Có một lần, địch phục kích, mấy đội viên lấy nước ngọt không trở về nữa.
Còn thức ăn, du kích ăn toàn chữ C: thịt cò, cua, còng, cá chốt, đọt chà là, dây cóc kè... được coi là món ăn "chiến lược". Căn cứ núp trong rừng cò, ăn tỉa cò mới ra ràng lột da, xẻo đùi hầm với củ hủ chà là hoặc rô ti đường chảy, ăn ngày này qua tháng nọ. Tỉnh ủy sợ lô căn cứ, sợ cò bỏ đi nên buộc phải ngưng, thế là tắt nguồn, chúng tôi phải quay sang cua, cá chốt. Những thứ này phải câu và cũng hiếm nên cứ phải luân phiên từ cá cua, tới còng.Mùa còng lột vỏ, mỗi năm một lần vào mồng năm tháng năm ta. Lớp áo giáp đủ màu được trút bỏ, những chú còng mềm như lụa, thân ngậm đầy sữa, chỉ cần nấu qua loa cũng thành món ăn "cao cấp" liền. Nhưng còng lột nhiều vô kể, ăn đâu hết một lần, nên phải làm mắm để dành ăn dài hạn cả năm. Lại cũng có mùa, mắm đầy hũ nhưng không nhá được vì nhớ tới máu của một đội viên du kích thấm vào đó...
Như thế, mùa mắm còng đâu chỉ là mùa mắm còng, nó đã trở thành mùa để nhớ quê nghèo, nhớ đồng đội, nhớ cậu Năm. Cậu biết vậy nên cứ tới mùa còng làm mắm gởi lên thành phố cho tôi. Lần duy nhất đích thân cậu mang lên cho tôi khi cậu về hưu cách đây ba năm nhưng cũng là lần buồn nhất: thằng con trai nhỏ bảy tuổi của tôi phản đối quyết liệt, không ăn mắm. Bảo nó mắm ngon, của ông Năm cực khổ mang từ quê lên, nó rán nhắm mắt nhắm mũi gắp một đũa tí tẹo. Chưa kịp nuốt nó đã nôn ra mật xanh mật vàng. Bàn ăn lặng đi. Cậu tôi buông đũa, làm bộ cười khà khà nhưng mặt tái đi như bị hớp hồn. Lầ đó cậu về, buồn, giận, thôi không gởi mắm còng, cũng không lên nữa.
Tôi tưởng cậu sống để vậy chết mang theo, người du kích già sẽ không tha thứ đứa cháu trai kêu bằng ông sanh ra tại chốn thị thành không biết giá trị mắm còng. Nào ngờ, chỉ mưới hôm sau tờ lịch mách bảo cho tôi mùa mắm còng tới, vợ tôi tới cơ quan làm việc thì nhận được cái giỏ đệm con con. Vừa mở ra đã nghe mùi khăng khẳng quen thuộc của mắm còng. Thật thần kỳ, cậu đã hết giận. Tháo bọc nylon xếp cạnh keo mắm còng ra còn thấy một gói chuốt khô, loại chuối hồng phơi nắng tại nhà! Trong bọc chuối hồng, có lá thư, nét chữ quen thuộc của cậu tôi xấu như gà bươi:
" Mắm còng tao gởi cho vợ chồng mày. Còn gói chuối hồng khô tao gửi cho thằng Dân, nó khôg ăn được mắm thì ăn chuối cũng không sao. Hôm hổm tao coi truyền hình thấy nó đờn tranh được giải thưởng tao mừng, hết giận. Không ăn mắm còng nhưng đờn được bài Khổng minh tọa lầu nhịp ngoại là tốt lắm, được cả xóm mình khen. Tao nay già rồi, vợ chồng mày có dịp dắt nó về cho tao thăm. Cậu".
Vợ tôi vừa đọc thư vừa khóc. Còn tôi thì chỉ biết xếp bức thư lại để tối về nhà đọc riêng một mình.
ở cái thị trấn nhỏ bằng bụm tai này ít ai không biết biệt danh ông Năm cải tạo, cái tên đầu tiên nghe ai cũng sợ xanh mặt nhưng sau này trở thành danh bất hư truyền, mọi người thuộc làu về ông, như từng thuộc làu các thứ tương chao, giấy quyến hút thuốc, miếng khô cá đuối với xị rượu bán chịu trong gian hàng xén của thím Hon ở góc nhà lồng chợ.
Sở dĩ người ta quen thuộc tên ông và cả con ông là vì - ngoài cái uy danh của cán bộ cải tạo xã hội chủ nghĩa - còn có một lý do hoàn toàn trái ngược: ông là một con người chân tình dễ thương, chỉ cần gặp ông một lần là lần sau không thể giận ông, lại còn thương ông nữa, đó mới là điều đáng nói
Lần đầu tiên ông xuất hiện một cách bất ngờ trong đợt đổi tiền lần thứ nhất, nối theo sau đó là đợt cải tạo tư sản. Hồi đó ít ai đủ bình tĩnh để tìm kiếm trong nếp áo bà ba xám mốc của ông dáng dấp của một con người nông dân kháng chiến lâu năm vừa trở lại cố quán. Lúc đó chỉ nghĩ đến quyền lực của ông cán bộ trưởng ban cải tạo là người ta đã xanh mặt. Những cái lịnh từ căn phố hẹp và xấu xí nhưng đỏ chói một tấm băng đơ rôn "Ban cải tạo" luôn luôn có một uy quyền không thể cưỡng lại được. Lịnh gì từ đó? Lịnh như thế này: mọi người phải đi lao động sản xuất, không được bóc lột, phải sống lương thiện. Buôn bán hả, đó là "phi thương bất phú, nhất bản vạn lợi", không tốt, phải lao động chân tay để cải tạo. Ai cũng phải tự làm ra hạt lúa củ khoai để sống. Lúc bấy giờ, mới hết chiến tranh mấy ông "tối trời" về tiếp quản, lại có cả mấy ông "xã hội" từ ngoài Bắc về đông vô kể, ngụy quân và ngụy quyền vừa thua trận sợ hết vía, những người thuộc lớp nhà giàu thì đang tính toán để nhập cuộc, tình thế này khiến xui mọi người phải phục tùng cải tạo, tôn ông cải tạo lên hàng đầu, vì thế mà ông Năm được người ta nể sợ.
-Nè thím xẩm Hon, thím có biết nguồn gốc của thím không? Cái thời Mạc Cửu dong buồn ghé đây, mọi người Hoa đều là người lao động - Ông Năm thích thú giải thích trong cuộc họp vận động chính sách cải tạo công thương nghiệp - bởi vậy, tôi đề nghị thím trở lại cái gốc của mình trướ đây, phải cầm cuốc cầm cày làm ra hột lúa củ khoai mà ăn, sao lại để người ta trồng, còn mình thì hái, thật vô duyên, đó là bóc lột, thím hiểu chưa?
-Hà cái lầy, cái ông Năm nói khó nghe quá. Làm ruộng, phải có người mua lúa, xay lúa chớ, làm ruộng là nghề mà bán buôn cũng là nghề, nếu không thì ai làm cái gì ăn cái nấy được sao?
- Thôi, nếu thím không quán triệt được tinh thần nội dung cải tạo thì thím phải đi kinh tế mới
Cái con người trồng hiền như cục đất là vậy mà nói lời nào lời nấy chắc như đinh đóng cột. Thím xẩm Hon bị đi lao động cải tạo ở Kinh Phèn. Cùng chung số phận với thím có nhiều người, nhưng họ thuộc loại lai lịch chính trị "xấu" hoặc có hành động chống đối, ít có ai thuộc diện không tán thành "Cuộc đấu tranh giữa hai con đường"
Đợt đầu tiên kết quả có nhiều người đi kinh tế mới làm cho uy tín ông Năm lên cao, ông thành danh là Năm cải với ý nghĩa sự thần diệu của biện pháp biến cải mọi người bằng cày cuốc tưởng như ngó thấy được. Nhưng vốn là một người cách mạng triệt để, ông Năm vẫn còn chưa vừa ý một điều mà chỉ người trong nghề mới lưu ý tới mà thôi. Đâu chuyện xảy ra vào một hôm tối trời, sau khi sơ kết báo cáo đợt cải tạo đầu tiên của thị trấn.
Hôm đó, lần đầu tiên, sau gần ba chục năm tham gia đấu tranh cách mạng, ông Năm mới đi hớt tóc ngoài tiệm. Những năm trước đây, từ cái thời còn là thanh niên cho đến thành ông cụ, ông Năm chưa bao giờ ra tiệm hớt tóc vì ông chưa bao giờ có điều kiện sinh sống như một người bình thường. Ông luôn hoạt động bí mật ở thị trấn thời làm phu khuân vác cho nhà máy xay rồi nhảy ra khu đi bộ đội. Cái tóc của anh bộ đội xưa ít biết mùi tông đơ, thường là cắt bằng dao lam và kéo. Trong chiến khu, khái niệm đó nhờ khéo tay mà trở thành thợ Đức Hòa, một thứ thợ tồi nổi danh trong khánh chiến chống Mỹ. Nhưng không sao, trong chiến tranh, hớt tóc cốt là để cho mát đầu, dễ gội, mau khô chớ ít khi có điều kiện để mà làm đẹp. Vì vậy, cho đến khi trở thành ông rồi, ông Năm mới nhận ra là mình chưa bao giờ ngồi ghế phôtơi để cho người ta choàng lên mình tấm vải trắng và tha hồ mà tỉa tót, cạo gọt. Gần một năm về làm cải tạo ở thị trấn, mấy lần ông có dòm ngó tới một cái tiệm uốn tóc loại sang ở ngay con đường chính. Đây là cái tiệm có vẻ hấp dẫn và lúc nào cũng đông khách. Trước cửa tiệm là những tấm quảng cáo đủ kiểu tóc Tây Tàu. Bên trong là một căn phòng khá rộng để hai hàng ghế phôtơi lưng dạ hạ xuống được để nằm đấp bóp. Lại có cả những dụng cụ cạo râu và sấp tóc bằng điện. Đi ngang qua cửa, cái mùi dầu thơm dỏm nghe nặng mũi nhưng nó gợi nhó cái thời thơ ấu của ông đã từng được thoa phấn một lượt ở chân tóc trước khi tông đơ lướt bén gót nghe rào rào như tằm ăn lên. Kỷ niệm ấu thơ và tính tò mò của cán bộ cải tạo đã thúc đẩy ông Năm bước đến tiệm hớt tóc Hoa Hồng, làm các ông thầy hù sợ xanh mặt, nhất là khi họ nhận thấy mái tóc muối tiêu của ông chưa đến ngày đến tháng gì cả.
- Chào ông Năm. Mời ông Năm ngồi, uống nước
- Được rồi. Tôi đi hớt tóc đây
Mọi người thở phào, lăng xăng chọn ghế tốt cho ông. Người thợ hớt tóc cho ông cũng đúng như ông mong muốn: một ông già có vẻ lam lũ, nụ cười hiền, tóc hoa râm cắt ngắn, áo trắng cụt tay sạch sẽ. Trông ông thợ già, so sánh với những người thợ khác, ông Năm cảm tưởng rằng, ông thợ này đi lạc. Tất cả thợ ở đây đều trẻ, mặc quần áo mốt, tóc tai kiểu cách và đặc biệt là dài đến dị hợm. Bây giờ, ông mới thở phào nhẹ nhỏm. "Vậy là tốt - ông nghĩ thầm - ít ra cũng phải còn được một người lương thiện".
- Ông thứ mấy. Ông Năm hỏi
- Dạ, ông Năm cứ kêu tui là Ba Thợ, tui nhỏ tuổi hơn...
- Được rồi, tôi sẽ kêu là chú Ba. Nè, chú Ba là chủ tiệm hớt tóc này hả?
Ông Ba Thợ giật mình, kéo theo một dúm tóc mà lưỡi tông đơ chưa kịp ăn đứt, làm cho ông Năm Cải tạo nhăn mặt.
- Dạ, dạ. Xin lỗi ông Năm, tôi làm ông đau.
- Không sao. Vậy ông không phải là chủ tiệm à? Tiệm này giàu dữ hè?
- Làm công? Cái trố mắt của ông Năm trong gương làm cho ông Ba Thợ thêm một phen hết vía
- Dạ tui làm công thiệt mà ông Năm
- Những người thợ kia, ai là chủ? Ông Năm liếc mắt về cả hai phía, nơi đặt hai dãy ghế đang xoay đủ kiểu
- Dạ, họ cũng là thợ như tui vậy mà
- Được rồi. Thợ, nhưng họ chắc không phải người giai cấp. Vậy ai là chủ?
- Dạ, ông Năm nói ai là người của giai cấp. Bà chủ không có ở đây mà. Thím xẩm Hon, dọn nhà vô Kinh Phèn cải tạo rồi.
- Được rồi. Hóa ra, bà xẩm Hon còn kinh doanh cả cắt tóc nữa. Vậy mà tôi không biết. Bây giờ chú nói coi, chú bị bóc lột ra sao. ái da!
Ông Ba thợ lại giật mình, mũi kéo bập một chéo tai phải của ông Năm Cải tạo, vết kéo màu đỏ mọng. Ba Thợ hốt hoảng chạy quanh ghế, va chạm làm nó xoay tròn. Người ta tiếp cứu Ba Thợ bằng cách đưa cho ông miếng bông gòn để thấm vết máu.
Còn ông Năm thì tỉnh khô như không có chuyện gì xảy ra. Đợi cho mọi người hết lính quýnh, ông nói tiếp:
- Lương của chú bao nhiêu, công sức bị bóc lột cỡ nào?
- Dạ, chia tứ lục, bả bỏ vốn bả được sáu
- Chà, không được, vậy là bóc lột nhân công, là tư sản hớt tóc
Ông Ba Thợ đang cầm con dao cạo, liếc liếc vào lòng bàn tay, bỗng khựng lại như cái máy:
- ờ ờ... dạ tui biết rồi, thím Hon là tư sản hớt tóc
- Được rồi
- Dạ, chưa được, còn cạo râu nữa
- Không. Tôi nói cái chuyện thím Hon kìa
- Vậy mà tôi tưởng...
Ông Ba Thợ mừng ra mặt, thận trọng thấm nước vào hàm râu thưa thớt
- Chú tưởng gì. Tưởng đi kinh tế mới vậy là xong à? Cần phải cải tạo bà Hon và giải phóng cho chú
- Hả? Giải phóng cho tui à?
Ông Ba Thợ chỉ nói được có mấy tiếng nghe thảm thiết rồi mắt hoa, tay run không thể nào dám đưa lưỡi dao cạo bén ngót trở lại hàm râu được nữa. Vì vậy mà việc hớt tóc phải ngưng tại đây. Trước khi ra về, ông Năm kéo ông Ba Thợ ra riêng một góc nhà và nói:
- Chuyện cải tạo bà Hon sẽ làm sau. Tôi đang nghĩ cách giải phóng chú khỏi bị áp bức bóc lột. Chú cứ yên tâm
Ông Năm đã nói là làm. Việc đầu tiên là tìm thăm gia cảnh của ông Ba Thợ. Đúng y như ông nhận định, vợ chồng con cái của ông cả thảy năm người sống chui trong cái toa xe cũ bên cạnh bãi đổ rác. Bà vợ bán hàng rong, đứa con lớn đạp xe lôi, mấy đứa nhỏ rách rưới. Nhà nghèo nhưng có lộng hình Bác Hồ trong khung kính treo nơi trang trọng. Đây chính là người cần phải được giải phóng. Ông Năm phác ra ngay một ý định trước khi họp thị trấn ủy để bàn. Và giờ đây, trước mặt đông đủ bảy vị trong cấp ủy, ông Năm mới trịnh trọng đặt vấn đề:
- Cấp trên chưa có chủ trương cải tạo tiệm hớt tóc. Chúng ta phải chờ đợi. Nhưng không thể để một người nghèo bị bóc lột ở thị trấn. Giải phóng người thợ hớt tóc này dễ lắm. Chỉ cần một cái bàn con, cái thế tu-nê, cái tông đơ, con dao cái kéo là đủ, tất cả không quá năm trăm đồng tiền mới đổi. Chúng ta cần ủng hộ chú Ba Thợ, các đồng chí thấy thế nào?
- Tôi thấy tùy đồng chí Trưởng ban cải tạo thôi - một chi ủy viên nói - theo tôi không nên cải tạo từng người một. Cần có kế hoạch cải tạo để giải phóng cho tất cả mọi người lao động trong thị trấn
- Tôi đồng ý với ý kiến vừa rồi. Một giọng nữ cất lên. Chúng ta làm cách mạng chớ đâu phải đi làm từ thiện. Cách mạng cao hơn từ thiện một cái đầu.
- Còn tôi thì đồng ý với anh Năm. Một giọng khàn đặc run run của người già. Nhưng tôi đề nghị cách này: cả thị trấn ủy của mình gồm bảy vị hãy thử một lần làm công tác quần chúng. Chúng ta hùn tiền nhau giúp đỡ ông Ba một phen. Ông Ba mà được chúng ta giúp đỡ sống được thì cũng được nhiều ý nghĩa...
ý kiến đơn giản nhưng có sức thuyết phục, hòa giải được mọi người. Và cuối cùng, người ta lên đợc một danh sách ủng hộ mỗi người năm chục đồng. Riêng ông Năm và ông già nhất trong cấp ủy thì người thêm được tấm kiếng, người kia cái ghế dựa.
Một xe lôi đủ chở tất cả, kể cả hai ông già thay mặt cho cấp ủy đến túp lều bằng toa xe của ông Ba Thợ. Trời mới xế, bởi vậy, sau khi nói ý kiến ngắn về sự cần thiết phải giải phóng cho ông Ba Thợ khỏi bóc lột của chủ và trao quà tặng của thị trấn ủy, ông Ba Thợ còn kịp đáp lễ bằng một xị rượu thuốc, nhậu nghèo với khô cá khoai và khai trương luôn cái tiệm hớt tóc dã chiến đặt ngay bên hông toa xe. Bà con nghe chuyện lạ bu đến xem được hớt tóc quảng cáo không lấy tiền. Nhiều người lớn tuổi cảm động cảm ơn cách mạng quan tâm đến người nghèo. Người ta nhao nhao lên trình bày hoàn cảnh của mình cũng không hơn gì ông Ba Thợ và trông cậy vào sự giúp đỡ của thị trấn ủy. Người ta vây quanh hai nhà cách mạng đông đến nổi làm cho hai ông nháy nhau tìm lối thoát
Sau cái buổi "công tác quần chúng" đầy ý nghĩa đó, ông Năm được triệu tập lên tỉnh để tập huấn về công tác cải tạo công - thương nghiệp tư bản tư doanh đợt tiếp theo. Ông phải ở tỉnh ngót một tháng để nhận sự bồi bổ về nhận thức và kinh nghiệm. Bản thân ông cũng có báo cáo kinh nghiệm cải tạo ở thị trấn ông và không quên nhất mạnh đến công việc làm nghĩa để giải phóng một người nghèo. Câu chuyện gây được tiếng vang mặc dù không ít người không hiểu tại sao lại mỉm cười tỏ vẻ chế giễu. Tuy thế, ông Năm vẫn là ông với cái chứng chỉ hạng ưu về tập huấn cải tạo. Và ông ra về lòng đầy hân hoan, không ngờ, sau chiến tranh ông lại học được một cái nghề mới cũng đầy uy quyền và cũng không ít vinh quang.
Khi cái thị trấn quen thuộc hiện ra ông Năm liền nghĩ ngay đến ông Ba Thợ và cái tiệm hớt tóc đầy tình nghĩa của ông. Kìa, đã đến con hẻm dẫn vào bãi rác sau tường rào của một nhà máy xay, nơi có cái toa xe hư. Ông Năm bước vội, trong lòng xúc động hình dung lại khuôn mặt đầy vẻ biết ơn của người thợ hớt tóc già. Nhưng, ông Năm đứng sửng lại như vừa phát hiện ra miệng hố. Cũng tương tự như vậy, trước mắt ông là bãi rác với cái toa xe trống trơn. Không thấy gia đình ông Ba Thợ đâu, cũng chẳng thấy ghế hớt tóc. Bị đột ngột ông Năm phải đứng tần ngần một lúc lâu, trong lòng cộm lên những thắc mắc và rầu rĩ.
- á, tụi bây ơi, ông Năm Cải tạo kìa!
Có tiếng trẻ con nói phía bên kia đống rác. Ông ngoắc một đứa, cả bọn chạy đến bên hông. Chúng nó nhìn ông có vẻ lo sợ. Chỉ có thằng lớn là tỏ ra hiểu biết.
- Mấy cháu biết nhà ông Ba Thợ dời về đâu không
- Dạ con không biết. Nghe nói ổng đi xa lắm
- Đi lâu chưa
- Dạ lâu lắm rồi. Cả tháng lận
- Cả tháng. Hừ
- ổng mang luôn cái tiệm hớt tóc đi rồi à?
- Dạ đâu có. ổng hớt được có bữu đầu - Thằng bé gãi cái đầu trọc - ổng hớt cho con nè. Nghe nói ăn trộm vô rinh mất bộ đồ nghề của ổng rồi
- Hả? ăn trộm hả
- Dạ, ăn trộm thật mà
Ông Năm bị bất ngờ hoàn toàn, lắp bắp hồi lâu mới thành tiếng:
- Rồi tại sao ổng đi hả?
- Dạ, ổng đi ổng có nói với tía con tại vì ổng mất đồ nghề mà không dám trở lại làm mưới vì sợ...
- Sợ cái gì?
- Dạ cháu không biết đâu. Ông vô nhà trong kia hỏi tía con tía con nói cho ông nghe.
Lũ trẻ kéo nhau đi mất. Ông Năm không đi theo chúng cũng không quay trở ra. Ông đứng đó ngẫm nghĩ điều gì rất lâu.
Tôi miễn cưỡng gõ cửa. Chỉ có một mình ông cậu tôi trong phòng. Tình thế đó càng xúi tôi nên rút lui, mặc dù đã đội mưa đi trong đêm thứ bảy, bỏ buổi xi nê với bạn gái lại phải leo ngót chín từng lầu để tới đây.
Nói chung, từ lâu tôi rất sợ đối diện với cậu Năm tôi, tôi sợ bị rầy về tác phong, về nhân sinh quan, nhất là từ ngày cậu tôi về hưu lần thứ chín này. Cậu là sĩ quan cấp tá, đã từng là sư trưởng và rất nhiều chiến công, thế mà về hưu lại ở nhà của mợ, cán bộ công ty cơ khí. Từ khi tôi lớn lên cậu cũng là mẹ gần gũi tôi, thay cho cha mẹ tôi ở quê.
- Ngồi xuống đó, chờ cậu một lát nghen - Cậu không bắt tay tôi như lệ thường vì tay đang dơ - một chút nữa là xong ngay? Cháu thấy có gì lạ không? Thấy chưa nè?
Đối với tôi, sau một năm không về thăm cậu, bây giờ trông cái gì cũng lạ. Gian phòng lộng gió bỗng nhiên trang trọng lạ thường. Trên tường, sáng khuôn mặt ba người anh tôi đã hy sinh (cậu tôi có ba người con trai, thì cả ba đều hy sinh). Bộ salon tiếp khách được lau chùi sạch bóc bàn con với bộ đồ trà kỳ cọ sáng trưng. Và tôi vừa kịp nhận ra điều lạ nhất: chậu hoa quỳnh đặt trên mặt đôn sành hình trụ, màu à. Ba đóa hoa quỳnh bụ bẫm cỡ búp sen đang hé nở.
- Cậu đang chuẩn bị để đón hoa quỳnh nở đợt đầu tiên trong năm, cuối tháng năm - cậu tôi nói trong khi đang lui cui cắt tỉa những lá quỳnh đèo hoặc đã cỗi, phun nước rửa sạch bụi trên lá và lau sạch bụi nước rơi - cháu có dịp nào xem quỳnh nở chưa? Rồi cháu sẽ được thấy lẽ sống tuyệt vời của một loài hoa.
ổng lại lắc đầu "lên lớp" một bài học về lẽ sống. Tôi trộm nghĩ và bụng bảo dạ, đừng có quên mà nói ra -nhưng chẳng lẽ không góp chút gì vào niềm vui tuổi già của cậu tôi?
- Thưa cậu, cháu có đọc tin được biết các chiến sĩ phía Bắc tặng ca sĩ miền Nam ra phục vụ một đóa hoa quỳnh, chắc là thứ quỳnh này?
Mái tóc bạc phơ, chân mày cũng bạc cậu nhìn tôi qua cặp kính lấp lánh, ánh mắt long lanh, rồi cậu bước tới xoa đầu tôi như thuở tôi còn bé. Tôi chờ đợi để nghe những lời giáo huấn. Nhưng tuyệt nhiên không có, đây là điều làm tôi ngạc nhiên
- Chính là cái thứ quỳnh mà cháu đang ngắm đây - Cậu Năm chỉ vào những đóa hoa quỳnh đang chúm chím nở - Rồi cháu sẽ biết đây là thứ quỳnh nào. Quỳnh cũng có nhiều loại, có loại hoa dại như bông súng, với vẻ đẹp đồng nội, có loại thanh cao như hoa sen. Cậu đã loại bỏ nhiều loại, chỉ giữ lại một loại quý giá nhất mà cháu đang thấy đây. Đêm nay cháu ngủ đây với cậu sẽ thấy quỳnh này quý ra sao. Hãy ngủ lại đây với cậu. Đêm nay, sau khi xong xuôi, chỉ còn lại cậu cháu mình.
Có tiếng gõ cửa, cậu tôi xăng xóm mặc áo, mở cửa rước mấy người bạn già, khách của đêm hoa quỳnh nở. Tôi đoán thế, vì nghe được những câu chào đầy nhiệt tình: "Đêm nay, quỳnh tôi cũng có một bông". "Tôi cũng vậy, đáng lẽ là bảy bông, nhưng chẳng biết sao, nó vừa nhú ra đã đỏ úa và rụng". "Nè, trong khi hoa nở, cấm các "đạo sĩ hoa quỳnh" hút thuốc trong phòng, sợ làm ô uế mùi hương tinh khiết". "Ôi trời ơi tuyệt. Ba bông kia à. Mới hé nở mà đã thơm rồi"
Mọi người nhanh chóng ngồi vào bộ salon một cách trang trọng như đã có quy ước sẵn. Trong khi đó, cậuNăm tôi pha trà, mở đúng cái hộp đựng trà móc câu, cho đúng ba muỗng nhựa trà vào cái ấm gan gà - mà cậu tôi vẫn dùng từ ngày còn ở trong rừng. Trà được rót ra, đổ vào mấy lượt, cho thật "tới chữ" rồi mới được rót chia đều trong năm cái chung mắt trâu. Tôi tự biết rằng, mình cũng đã được cậu tôi dành phần bình đẳng với các vị khách cao niên.
- Bữa nay có thằng cháu ruột đến chơi - Cậu Năm chỉ tay về phía tôi - còn đây là các bác trong chung cư - Cậu hướng mặt về phía các ông khách - Tôi có thằng cháu trai độc nhất đang học quay phim, lại trúng nghĩa vụ quân sự, chưa biết nó tính sao đây.
Cậu Năm nói, giống như vừa chợt nghĩ ra cái chuyện tôi trúng nghĩa vụ quân sự, cái chuyện hơi khó xử về phía gia đình, cơ quan và cả tôi nữa. Chẳng qua là vì cái vai trò độc nhất của đứa con trai là tôi trong nhà và cả trong họ, lại là đứa đang mê nghề quay phim. Cả nhà đang bán tán, còn cơ quan thì đề nghị lên Hội đồng tuyển quân xét miễn. Chỉ riêng cậu Năm thì dứt khoát bảo tôi phải xác định thái độ là đi. Vậy mà bây giờ, cậu nói tỉnh như không: chưa biết nó tính sao đây.
Tôi biết rằng, câu chuyện về tôi chỉ có thể tạm dừng lại đây. Vào thời điểm này, chủ đề chính đang là ba cái bông quỳnh đang nở vô số cánh trắng như tuyến, nõn nà trinh bạch và thánh thiện hơn tất cả những cánh hoa trắng khác trên đời. Nhụy hoa màu hoàng kim, mang dáng hình chiếc thuyền rồng đang lướt tới. Nhưng, có lẽ đặc biệt nhất là mùi hương hoa quỳnh. Nó dìu dịu, đằm thắm, như kết tinh của tất cả những gì mộc mạc nhất của hương hoa đồng nội, trong đó có thoảng mùi bông bưởi bông cau, bông lúa, bông dừa, cả mùi của gió và trăng.
Mọi người lặng đi, chỉ ừ-à, xuýt xoa, hít hà cho đến hết hai tuần trà đầu tiên, khi đóa hoa đã xoè tròn, phô hết sắc hương làm mê đắm giác quan con người, những câu bình luận mới bắt đầu.
- Một loài hoa tuyệt vời như thế này mà lại nở về đêm, thật là một thiệt thòi cho nhân loại - Vị khách thứ nhất hào hứng tuyên bố: Nếu tôi là nhà khoa học, tôi sẽ cải tạo nó nở đúng vào buổi bình minh.
- Này cháu - Vị khách thứ hai quay sang tôi - có thể chụp ảnh hoa quỳnh được không? Chú muốn nói đến một kiểu ảnh naturel, thật như thiên nhiên, như đoá hoa quỳny trong ánh trăng thanh.
- Cháu chưa từng chụp hình hoa quỳnh - Tôi cố gắng nói thật nhỏ nhẹ - nhưng cháu nghĩ là rất khó, nếu như chụp thật tự nhiện, không dùng đèn flash, nghĩa là chụp dưới trăng hoặc ánh sáng thường.
- Chính vì vậy mà cần lai tạo sao cho hoa quỳnh nở ban ngày, dưới ánh sáng mặt trời.
- Tôi nghĩ là không nên lai tạo, nên giữ bản quyền này của thiên nhiên, nhưng hãy để tới lúc nó nở đẹp nhất, rồi cho đông lạnh, đến sáng hôm sau ta có thể chụp hình đóa hoa bằng ánh sáng trời. ý kiến của vị khách thứ ba có lẽ là ông giám đốc nhà máy đông lạnh làm mọi người cùng cười, trừ một người thôi, đó là cậu Năm tôi.
- Người ta có thể lai tạo bất cứ sinh vật nào có gien di truyền. Nhưng tôi e rằng không thể lai tạo được hoa quỳnh. Tôi quý loài hoa này ở chỗ nó chỉ nở vào những đêm thanh, thí dụ như đêm nay, một đêm hạ tuần tháng năm, cho nên, đúng là cần phải giữ mãi cái bản quyền của thiên nhiên tạo ra. Biến cải bông hoa quỳnh, tôi e rằng, chỉ là sự nhại lại hình thức của nó, chớ làm gì tái tạo được mùi hương? Và quan trọng hơn là làm sao có thể tái tạo được - dưới ánh sáng mặt trời - linh hồn của nó, lẽ sống của một loài hoa thanh khiết, của gió và trăng?
Không gian hẹp sực nức mùi hương như minh họa ý nghĩ của cậu tôi. Mọi người đều trầm tư, câu chuyện đang sôi nổi bỗng lắng lại, làm cho không gian thu hẹp, mùi hương hoa thêm quyến rũ, mê đắm.
- Anh Năm nói đúng - người khách thứ nhứt chống tay đỡ cằm, mắt lim dim ngắm hoa, đầu gật nhẹ - không nên lai tạo, cải biến gì cả, cứ để nó mãi mãi là hoa quỳny nở về đêm cho đời thêm phong phú. Chỉ có điều, xin anh Năm chỉ dùm cái linh hồn, cái lẽ sống của nó chẳng lẽ cũng là cái ta đáng quan tâm hơn cả hương sắc của nó hay sao?
Hầu như cả những người đang thưởng thức hương vị đặc sắc của hoa quỳnh, trong đó có tôi, đều có chung một dấu hỏi như vị khách thứ nhứt vừa nêu ra. Và tất cả đều hướng về tác giả của ba bông hoa tuyệt vời đêm nay.
- Cái này nói ra hơi trừu tượng, chẳng qua cũng là liên tưởng nhưng sự liên tưởng không phản lôgich - theo thói quen, cậu Năm vuốt mái tóc bạc rồi kéo ghế đến ngồi sát bên chậu quỳnh - các vị và cháu, hãy nhìn hai tiếng đồng hồ, nó sẽ còn một tiếng đồng hồ nữa mới nỡ hết. Thời gian ba tiếng đồng hồ không quá ngắn như bông mười giờ, nhưng cũng không quá dài như hoa giấy nhưng rất có ý nghĩa. Chính đây mới là chỗ đáng nói: sống một năm ròng trong mưa nắng ể góp nhặt tinh hoa và dốc hết cho đời trong vòng ba tiếng đồng hồ, không để lại cho mình một chút hương thừa nào. Lẽ sống, nhân sinh quan của hoa quỳnh là ở chỗ này đây. Nếu không tin tôi, các vị cứ ngồi lại đây đến mười hai giờ đêm, lúc đó cuống hoa không còn nghếch lên như bây giờ, nó rũ xuống sau khi đã làm xong phận sự.
Cậu Năm tôi ngừng nói, bước vào phòng trong một giấy, bưng ra khay rượu, trong đó có một cái nhạo và bốn cái chung nhỏ, rót rượu đưa tận tay từng người (lẽ tất nhiên là không có tôi)
- Bây giờ thì mời các vị nâng cốc chúc mừng lẽ sống hoa quỳnh, chúc mừng đêm nay. Cái gì có được, các đóa hoa này đã trao hết cho chúng ta. Hương lúa, hương dừa, hương bưởi, hương cau... có đủ tất cả, chúng ta đã nhận được tất cả trong những giấy phút chúng ta nâng cốc, hút thuốc mà không còn sợ xúc phạm đến sự tinh khiết của loài hoa.
Bốn ông già chạm cốc vui vẻ, thanh thản như bốn người thoát tục. Khi các "ông tiên" ấy từ giã nhau ra về, cũng là lúc những đóa hoa quỳnh bắt đầu xếp cánh và rũ xuống
- Tôi phải về đây, anh Năm ạ. Tôi chịu thôi, không thể nào nhìn đóa hoa tàn tạ mà không mủi lòng. Vị khách thứ nhất đứng dậy.
Vị khách thứ hai thở dài:
- Giống cái chết của con thiên nga, phủ phục sau khi đã hát lời cuối cùng. Chỉ có âm nhạc và hội họa mới biểu hiện nổi.
Còn vị khách thứ ba - người chủ trương đông lạnh - thì im lặng.
Khách về rồi, cậu tôi vẫn ngồi ngắm hoa một hồi lâu, cho tới khi ba đóa hoa hoàn toàn trở thành một cái xác không hồn. Lúc bấy giờ, sau khi đưa chậu hoa ra hành lang - khu vườn nhỏ đang tràn ngập ánh trăng - cậu tôi trở vào đốt ba nén nhang, cắm tạm trong chiếc bình hoa nhỏ đặt dưới ba bức chân dung các anh tôi.
- Các anh cháu là những đóa hoa quỳnh - cậu Năm tôi nói khẽ - Anh thứ hai của cháu hy sinh tuổi hai mươi ba. Anh thứ ba hy sinh tuổi mười tám. Anh thứ tư thì đúng tuổi tròn: hai mươi. Mỗi anh cháu đều cống hiến trọn vẹn đời mình cho đất nước, Không giữ lại chút gì cho mình. Cậu nghĩ, thà làm hoa quỳnh ngắn ngủi mà hào phóng còn hơn làm hoa giấy nở hoài mà hương vị nhạt phèo.
Cho tới khi tôi thiếp đi, cậu Năm không nói thêm gì nữa, không hề dặn dò, "lên lớp" tôi như mọi lần, cũng không đá động gì đến chuyện tôi có nên đi nghĩa vụ quân sự hay không.