Nhà tù Fenfield, bên phải". Chiếc xe ca chạy chậm lại và du khách dán mắt nhìn vào cảnh tượng quái dị : giữa khung cảnh xanh tươi dễ chịu của đồng quê, một toà nhà khổng lồ bằng gạch đỏ sừng sững lên, bao chung quanh bởi những dãy nhà nhỏ chen sát nhau làm tăng thêm vẻ bao la của nó.
"Tù khổ sai, bên trái". Hướng dẫn viên du lịch biết rõ việc mình làm, biết đúng chỗ nào có gì đáng xem trên con đường anh ta đi qua mỗi ngày. Khoảng hai chục cái đầu quay từ nhà tù sang tù nhân, đúng y như các du khách khác đã làm trong các cuộc hành trình khác. Hành khách há mồm ra nhìn với vẻ ngỡ ngàng, nhíu mày hay rùng mình quay mặt đi tùy tính khí mỗi người, trong khi chiếc xe ca từ từ lăn bánh xuống đồi.
Trên những cánh đồng và các con đường, rải rác vài trăm người đang làm việc. Trang bị bằng cày, cuốc, rìu và bay thợ nề, đó đây người của nhà lao đang bận rộn với công việc khổ sai của họ.
Chỗ này một nhóm người kéo cây đã đẵn, chỗ kia một nhóm khác đang cố kéo cái xe mà chính họ bị móc vào đấy. Nhiều nhóm khác, mỗi nhóm có một người trông chừng bận đồ xanh, đang xây một bức tường sắp xong. Gần đó một đứa con nít đang chơi và một cô gái đứng bên đường cái nhìn du khách đi qua.
Thỉnh thoảng một du khách bình phẩm rằng Fenfield đã đổi khác. Du khách luôn luôn chờ thấy một bức tường, một bức tường cao khép kín cái im lặng và điều bí ẩn bên trong nhà lao. Các hướng dẫn viên biết rõ điều ấy, và luôn luôn chỉ nhà tù trước tiên, tiếp theo mới cho du khách cái cảm giác rờn rợn với câu "tù khổ sai bên trái". Thông thường du khách bị xúc động khi nhìn thấy các tù nhân lác đác khắp nơi - phía bên ngoài bức tường.
Xe ca vừa chạy nhanh vừa rít lên và du khách hướng cái nhìn về chỗ khác. Tù nhân các nhóm làm việc hơi ngẩng đầu lên. Tất cả mấy cái trò đó đã quen thuộc quá rồi. Mỗi ngày nhiều xe ca chạy qua với cùng một thứ khẩu hiệu "Nhà tù Fenfield bên phải. Tù khổ sai bên trái". Mỗi ngày, du khách dán cái nhìn vào tù nhân đang làm việc trên đồng, nhìn vào những người cai tù, nhìn vào bức tường chưa hoàn thành.
Bức tường bao một vòng thô ráp chung quanh nhà lao. Có lẽ nó dài khoảng một dặm. Hàng trăm năm nay, nơi đó vẫn mở ngỏ cho mọi người. Tù khổ sai làm việc trên các đồng cỏ hay trên đường, trong khi cư dân quanh vùng chăm lo công việc của mình, không ai để ý ai. Rồi từ mấy năm nay bức tường được bắt đầu xây lên. Chậm chạp trong cái vòng tròn bất thường, nó bò dài ra tới các đầu ranh giới của nhà lao. Cuối cùng bây giờ nó hầu như trở lại điểm khởi đầu. Cái vòng tròn gần như toàn vẹn.
"Fenfield... bên mặt... Tù khổ sai... bên trái". Cô gái đứng gần đường cái quay bỏ đi khi một chiếc xe ca khác đang chầm chậm xuống dốc. Cô ta đi ngang qua trước nhóm người đang làm việc chỗ bức tường và tiến về phía một căn nhà lớn nằm cạnh cửa nhà lao. Nhóm người lo việc xây cất không để ý lắm đến cô ta, như thể cô ta là người qua lại thường xuyên. Cô gái có vẻ một người giúp việc nhà. Cô mang một giỏ thức ăn và một tờ báo; cả cô ta cũng vậy, cô cũng có vẻ quen thuộc với khung cảnh này lắm rồi.
Khi đi qua lỗ hổng của bức tường, cô chậm bước. Viên cai tù quay lại nói chuyện với tù nhân. Một gói nhỏ từ tay cô gái rớt ra trên đống đá. Rồi cô quay trở lại lối đi dẫn về nhà.
Lỗ hổng trên tường nhỏ, rộng khoảng hơn hai mươi bộ, hai mươi bộ cuối cùng của một dặm. Một con đường nhỏ băng qua đó, dùng cho cả cư dân quanh vùng và tù nhân. Sắp tới đây, khi bức tường hoàn thành, cư dân sẽ phải tìm một lối đi khác và sẽ không thấy tù nhân xuất hiện nữa. Nhưng hiện tại con đường cũ vẫn còn đó, điểm tiếp xúc cuối cùng giữa hai thế giới, thế giới tù tội và thế giới tự do.
Khoảng hai mươi người làm việc trong nhóm xây cất, đang nâng từng tảng đá to, trộn vữa, đẩy xe cút kít. Xa hơn một chút là một người làm việc một mình với cái bay và cái bàn xoa. Một thanh niên có lẽ vào khoảng hai mươi bảy tuổi, cao lớn, tóc hoe vàng, mang nẹp xanh trên tay áo và con số thêu xanh trên mũ cát két. Khi cô người làm đi ngang qua, anh ta không ngẩng đầu lên. Nhưng khi cô ta vừa đi khỏi, anh ta đặt cái bay xuống và băng qua lỗ hổng của tường.
Viên cai tù không để ý gì. Ngay cả cư dân vùng đó cũng thừa biết là một người "mang nẹp xanh" có thể di chuyển đó đây mà không hề bị theo dõi. Người tù khổ sai nâng vài tảng đá trong đống đá bỏ lên xe cút kít rồi đẩy đi qua cái lỗ của tường. Sau mấy phút anh ta lại trát vữa với vẻ chuyên cần, nhưng bàn tay cầm cái bay có dấu một gói con con. Lén lút, nghe ngóng như một con chim hoảng sợ, anh chọn lúc mà người cai và các tù nhân khác đang bận bịu, để nhét nhanh cái gói nhỏ vào dây nịt.
Vài phút sau, cô gái ra khỏi lối đi và bước chầm chậm xuống đường. Cô ngần ngừ một giây rất ngắn gần đống đá, lấy lại tờ báo rơi dưới đất rồi rảo chân rời xa sau khi liếc một cái tới "anh chàng mang nẹp xanh".
Trên băng đá gần lối đi công cộng, trong khi những người du khách đi ngang qua, cô đọc mảnh giấy mà anh đã thả rơi trên đống đá, anh viết : "Maeve yêu qúi, vì Chúa, xin em đừng lo lắng quá như vậy. Ngay cho là anh có bị ở đây suốt đời chăng nữa thì chúng ta vẫn còn có thể gặp nhau kia mà. Em yêu, khi chúng ta thành hôn, chúng ta không hề nghĩ rằng chưa đầy một năm sau là anh lại bị tù. Tuy vậy sáu năm nay anh cảm thấy gần như sung sướng ở đây, nhờ vào tình yêu và lòng can đảm của em. Sẽ có, sẽ phải có một phương tiện nào đó để mình gặp nhau".
Cô gái làm một cử chỉ sốt ruột rồi vẫn ngồi, với cái nhìn trống vắng, đầu óc cô chú mục nghĩ tới câu chuyện đã xảy ra.
Sáu năm trước, đang ở tột đỉnh hạnh phúc thì tai hoạ giáng xuống đầu họ. Buổi tối liên hoan ai cũng uống nhiều, rồi có cãi cọ, một tiếng súng nổ và cuộc điều tra tiến hành, vụ kiện xử qua loa và được giảm nhẹ hình phạt nhờ lòng khoan hồng. Rồi những năm tinh thần bị dằn vặt với giải pháp tuyệt vọng là đi làm con sen cho người ta để được gần anh...
Họ rất cẩn trọng. Không bao giờ, chưa một lần nào họ dám liều lĩnh. Một mẩu giấy vứt xuống đất hay một lời nói nhanh; đôi khi nếu tình hình thuận lợi, họ trao vội cho nhau một cái hôn nồng nàn. Chỉ thế thôi. Tuy nhiên như anh đã nói, là anh hầu như hoàn toàn sung sướng. Nhưng bây giờ - cô làm một cử chỉ nhỏ lần nữa, chụp vội mảnh giấy nằm trên đùi với vẻ bứt rứt.
Trở lại gần bức tường mọc cao dần lên, người thợ mang nẹp xanh quỳ trong một góc vắng để đọc mảnh giấy anh vừa nhặt khi nãy. Maeve viết : "Jack, anh phải nghe em. Đây là cơ hội cuối cùng của anh. Anh không có gì để mất cả bởi nếu anh bỏ qua dịp này, chúng ta sẽ xa nhau vĩnh viễn. Nếu anh nắm lấy cơ hội và thất bại thì điều tệ nhất có thể xảy ra là sự xa cách thôi. Chiều nay trước khi mọi người đi về, anh hãy đến. Thật là tuyệt vọng, em biết, nhưng chúng ta cũng đang tuyệt vọng lắm rồi".
Người tù khổ sai nhìn quanh một cách lén lút với vẻ gì còn nặng nề hơn là nỗi lo âu trong mắt anh. Anh loáy hoáy viết vội vã trên mảnh giấy còn giữa chừng, rồi anh ngừng lại, thở dài rít lên rồi bắt đầu viết tiếp. Còn đủ thời gian vừa đúng cho một lần chuyển đá nữa trước khi các nhóm thợ đi ăn trưa. Mấy phút sau, những người tù khổ sai về từ các cánh đồng và bìa đường, nối tiếp nhau vượt qua lối đi của bức tường; người ta nghe một tiếng gầm nặng nề, tiếng xì xào nổi lên trong nhà lao lớn rồi sự im lặng của buổi trưa rơi xuống Fenfield.
Trong sự yên tĩnh của bữa ăn trưa, Maeve nhặt mảnh giấy thứ hai không khó khăn gì, trước khi nhanh chân trở về với những bận rộn thường ngày trong căn nhà bên cạnh. Nhiều lần trong suốt buổi chiều, trong khi nghỉ chốc lát giữa các công việc, cô cố kềm chế tiếng nức nở khi đọc lại mảnh giấy cuối cùng của anh. Anh viết : "Maeve yêu quí, anh tin chắc là em có lý. Nhưng không cần gì phải vội em ạ. Gượm đã, Maeve ạ, hãy gượm đã. Vẫn còn ngày mai, hay một ngày nào đó, trước khi bức tường hoàn thành. Liều lĩnh hấp tấp có khi là điên rồ. Ngày mai -hay ngày kia - nói với các anh ấy hãy sẵn sàng. J."
Chiều xuống, khi mọi việc đã xong rồi, Maeve trở lại chỗ lỗ hổng nơi con đường băng qua. Cô nhìn thẳng về phía trước, không hề liếc về phía các tù nhân đang làm việc. Rồi thình lình cô dừng lại, nhìn sững, kinh hãi.
Phía bên trong lỗ hổng có rất đông người đang làm việc. Tất cả nhân sự tù khổ sai của Fenfield đều ở đó, một đám đông khổng lồ đang ở gần lỗ hổng. Không một người bận đồ xám nào có mặt trên đồng hay trên các con đường. Mọi người đều ở bên trong và bức tường mọc lên rất nhanh. Lỗ hổng khép lại.
Jack ở đó. Cô thấy anh bên kia thành lũy đang mọc dần lên trong khi anh đang làm việc giữa đám đông. Nơi lỗ hổng đã cao lên khoảng bốn bộ rồi, một bức tường dựng lên trước mắt cô. Số người làm việc đông gấp năm lần hơn trước và những tảng đá được đưa lên như có phép lạ.
Maeve nhìn chồng, đưa tay lên giữa chừng rồi buông thỏng xuống. Cô kêu lên cục cục ngớ ngẩn vô nghĩa trong khi chính anh đặt tảng đá cuối cùng vào chỗ. Hàng cuối cùng trải dài ra hết sức nhanh đến khi chỉ còn một khoảng trống nhỏ, chỉ một ô vuông vừa đủ lồng khuôn mặt anh trong chốc lát. Anh nhìn không nói gì, nhưng đôi mắt như bật lên một tiếng kêu thảng thốt. Rồi tảng đá bịt kín khoảng trống cuối cùng và Maeve im sững, chết lặng trước bức tường khổng lồ khép kín muôn đời sự im vắng và bí ẩn bên trong.
Sáng nay tôi đi học muộn và rất sợ một trận quở mắng. Thầy Hamel nói rằng sẽ kiểm tra chúng tôi về phân từ mà tôi thì chưa biết một chữ nào cả. Tôi định trốn học và chơi cả ngày ở ngoài trời. Hôm nay trời ấm và quang đãng. Chim hót líu lo bên bìa rừng, và quân Phổ đang tập luyện trong cánh đồng sau xưởng cưa. Những thứ này thực sự hấp dẫn hơn quy tắc về phân từ, nhưng tôi vẫn có đủ sức mạnh để kháng cự và chạy vội đến trường.
Khi tôi đi ngang qua toà thị chính, một đám đông đang tụ tập trước bảng thông báo. Suốt hai năm qua chúng tôi đã đón nhận toàn tin xấu tại đây : những cuộc chiến bại, những cuộc tuyển lính, những lệnh của sỹ quan chỉ huy. Tôi tự nhủ, vẫn không dừng lại :
'Còn gì có thể xảy ra bây giờ được nữa ?'
Khi tôi chạy nhanh hết sức lực, bác thợ rèn Wachter đang đứng đó đọc bảng tin cùng với người thợ học việc, gọi với theo tôi:
'Này nhóc, chạy nhanh làm gì, kiểu gì thì cháu cũng đến trường sớm thôi'.
Tôi nghĩ bác ấy giễu tôi, và chạy bở hơi tai đến tận chiếc vườn nhỏ của thày Hamel. Bình thường thì từ phố có thể nghe thấy tiếng huyên náo ở đây mỗi khi vào học, tiếng đóng mở bàn, tiếng học sinh đồng thanh đọc bài trong khi tay bịt tai để hiểu bài hơn, và tiếng thày giáo gõ thước trên bàn. Nhưng nay sao yên tĩnh quá ! Tôi đã định đến chỗ ngồi trốn không để thày giáo thấy, nhưng hôm nay mọi thứ đều yên ắng như sáng chủ nhật vậy. Qua cửa sổ tôi thấy bạn bè đã vào chỗ ngồi, và thầy Hamel đi lên đi xuống, tay cầm chiếc thước sắt đáng sợ. Tôi phải mở cửa và đi vào trước mặt mọi người. Bạn có thể tưởng tượng tôi ngượng chín mặt và sợ hãi như thế nào.
Nhưng không có gì xảy ra cả. Thày Hamel thấy tôi và ân cần bảo tôi:
' Vào chỗ nhanh lên an. Cả lớp đã bắt đầu mà không có em rồi '. Tôi trèo qua ghế và ngồi vào bàn. Đến khi đó, khi đã bớt sợ, tôi mới nhận thấy thày giáo đang mặc chiếc áo khoác xanh, chiếc áo sơ mi xếp nếp, đội chiếc mũ thêu bằng lụa đen mà thầy không bao giờ mặc trừ những ngày thanh tra và những ngày trao giải thưởng. Ngoài ra trường hôm nay trông thật lạ và trang trọng. Nhưng điều ngạc nhiên nhất đối với tôi là, trên những chiếc ghế đen trước đây luôn luôn trống vắng, nhiều dân làng đang ngồi và cũng yên lặng như chúng tôi; ông già Haủe với chiếc mũ ba góc, ông thị trưởng cũ, bác đưa thư cũ, và vài người khác. Mọi người trông có vẻ buồn bã, ông Hauser mang theo một quyển sách vỡ lòng cũ kỹ, mép đã nhàu nát, ông mở rộng sách trên đầu gối và đặt đôi kính ngang trang sách. Khi tôi phân vân chưa rõ mọi chuyện thì thày Hamel ngồi lên ghế, và vẫn với giọng nghiêm nghị, hiền lành như mọi ngày, thầy nói:
'Các em thân mến, đây là bài học cuối cùng mà thầy dạy các em. Lệnh mới đến từ Berlin chỉ cho phép dạy tiếng Đức trong các trường ở Alsace và Lorraine. Thày giáo mới sẽ đến đây ngày mai. Đây là bài học tiếng Pháp cuối cùng của các em. Thầy mong các em sẽ chăm chú.'
Những lời này như làm tôi thấy như bị sét đánh ! Những người tội nghiệp, đó chính là những gì người ta đã yết thị tại toà thị chính !
Bài học tiếng Pháp cuối cùng của tôi ! Tại sao, khi hầu như tôi không biết viết ! Tôi sẽ không bao giờ được học thêm gì nữa. Thế là phải dừng lại ở đây thôi sao ! Ôi, thật ân hận vì những lần không học bài đi tìm trứng chim hoặc đi trượt trên Sẩ ! Đống sách của tôi, mà vừa một lát trước đây tôi còn thấy thật phiền nhiễu, thật khó để mang vác, rồi ngữ pháp, rồi câu chuyện về các thánh, nay trở thành những người bạn cũ mà tôi không thể từ bỏ được. Cả thầy Hamel nữa, cái ý nghĩ rằng thầy sắp đi xa, rằng tôi sẽ không bao giờ được gặp thầy nữa, làm tôi quên hết tất cả về chiếc thước và tính cáu kỉnh của thầy.
Thật tội nghiệp thày ! Thầy đã diện bộ quần áo đẹp chủ nhật để dạy buổi học cuối cùng này, và tôi đã hiểu tại sao những người già trong làng lại đến đây ngồi, ở cuối căn phòng. Bởi vì họ cũng thấy buồn không được đến ngôi trường này nữa. Đó là cách họ cảm ơn vị thầy giáo đã phục vụ tận tuỵ suốt bốn mươi năm qua, và để tỏ lòng tôn kính với đất nước nay đã không còn là của họ.
Khi đang suy nghĩ về những điều này, tôi thấy mình bị gọi tên. Đến lượt tôi phải đọc thuộc lòng. Làm sao tôi có thể đọc đến hết cái quy tắc đáng sợ về phân từ ấy, rõ ràng, dõng dạc mà không phạm lỗi? Tôi rối trí ngay từ những từ đầu tiên và đứng đó, tay nắm chặt bàn, tim đập thình thịch, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Hamel nói:
'Thầy sẽ không mắng em đâu, An. Em bị phạt thế đủ rồi. Ngày nào chúng ta cũng tự nhủ : mình còn nhiều thời gian lắm, mai hãy học. Và em thấy cái gì đã đến rồi đấy. Đó là bất hạnh của vùng Alsace, vốn luôn hoãn việc học hành lại ngày mai. Và người ta có quyền nói: Gớm các ông giả vờ làm người Pháp nhưng lại chẳng biết đọc cũng không biết viết ngôn ngữ của các ông. Nhưng dù sao, an tội nghiệp, không phải em là người có lỗi nhất. Tất cả chúng ta đều có nhiều điều đáng trách.'
'Cha mẹ các em đã không quá lo lắng về chuyện học hành của các em. Họ thích các em làm việc ở nông trại hoặc nhà máy, như vậy có thể thêm được chút tiền. Còn thầy ư ? Thầy cũng đáng trách. Có phải thầy đã thường xuyên bắt các em tưới hoa thay vì dạy học không ? Khi thầy muốn đi câu cá, có phải thầy đã không ngại ngần cho các em nghỉ học không ?'
Rồi từ chuyện này sang chuyện khác, thầy Hamel tiếp tục nói chuyện về tiếng Pháp, rằng đó là ngôn ngữ đẹp nhất, rõ ràng nhất, logic nhất trên thế giới, rằng chúng tôi phải giữ gìn và không được quên nó, vì khi một dân tộc bị nô dịch, chừng nào họ còn giữ được tiếng nói là họ còn giữ được chiếc chìa khoá thoát khỏi ngục tù. Rồi thầy mở sách ngữ pháp và giảng bài. Tôi thấy rất ngạc nhiên vì mình hoàn toàn hiểu bài. Những gì thầy giảng thật dễ hiểu làm sao! Tôi nhận thấy mình chưa bao giờ nghe giảng chăm chú như vậy, và cũng chưa bao giờ thầy giảng nhiệt tình như thế. Có vẻ như người thầy tội nghiệp muốn truyền cho chúng tôi tất cả những gì thầy biết trước khi ra đi, và muốn đặt hết vào đầu chúng tôi chỉ trong chốc lát.
Sau bài học ngữ pháp, chúng tôi học viết. Hôm ấy thầy Hamel đã chuẩn bị cho chúng tôi những bản mẫu mới, trên đó có những chữ tròn trịa: France, Alsace, France, Alsace. Chúng trông như những lá cờ nhỏ phấp phới trong lớp học, treo trên những thanh trên bàn học của chúng tôi. Phải thấy là mọi người đều làm việc chăm chú ! Và yên lặng là sao ! Chỉ nghe thấy tiếng bút viết cọt kẹt trên giấy. Có lúc có mấy con bọ bay vào, nhưng không ai để ý đến chúng, kể cả những cậu nhỏ nhất đang chăm chú vạch những nét ngoằn ngoèo như thể đó là tiếng Pháp vậy.
Trên mái nhà bọn bồ câu khẽ cúc cu, và tôi tự nhủ :
'Liệu họ có bắt cả những con bồ câu phải gáy bằng tiếng Đức không ?'
Khi nào tôi ngẩng đầu lên khỏi trang vở cũng thấy thầy Hamel ngồi bất động trên ghế, đăm chiêu nhìn những thứ xung quạh, như thể thầy muốn khắc sâu vào đầu hình ảnh mọi vật trong cái phòng học bé nhỏ này. Thử nghĩ xem, suốt bốn mươi năm qua thầy đã ở chỗ này, với chiếc vườn ngoài cửa sổ và lớp học trước mặt, y như bây giờ. Chỉ có bàn ghế bị mòn đi cùng năm tháng, những cây óc chó trong vườn đã cao hơn, cây hoa bia mà thầy tự tay trồng đã chăng hoa quanh cửa sổ lên đến tận ngói. Hẳn thầy đau lòng biết bao khi bỏ lại tất cả những thứ này, khi nghe tiếng em gái thầy đi lại ở căn phòng phía trên gói ghém hành lý ! Vì họ phải đi khỏi đây mãi mãi vào ngày mai.
Dù vậy thầy vẫn có đủ can đảm để giảng tới tận bài cuối cùng. Sau giờ học viết chúng tôi học Lịch sử, và sau đó những em nhỏ hát ba, be bi, bo, bu. Dưới kia, cuối lớp học, ông già Hauser đã đeo kính vào, hai tay cầm cuốn sách vỡ lòng, cũng đang đánh vần cùng với chúng. Ông ấy cũng đang khóc, giọng run run vì xúc động. Nghe giọng ông ấy buồn cười quá mà chúng tôi vừa muốn cười vừa muốn khóc. Tôi sẽ nhớ mãi bài học cuối cùng này !
Bỗng nhiên đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ. Cùng lúc tiếng kèn trumpet của quân Phổ trở về sau cuộc tập luyện vọng lên dưới cửa sổ. Thầy Hamel đứng dậy, nhợt nhạt. Tôi chưa bao giờ thấy thầy cao như thế.
'Các bạn của tôi' thày nói, 'tôi... tôi...' nhưng một thứ gì đó đã làm thày nghẹn lại, không nói tiếp được nữa. Thầy quay lại bảng, lấy một mẩu phấn, tì bằng hết sức lực và viết thật to :
'Vive la France'
Rồi thầy đứng đó, đầu tựa vào tường, tay ra hiệu cho chúng tôi, không nói một lời :
'Hết giờ rồi, mọi người về thôi'.
"Bao nhiêu ?"
Cô gái chỉ vừa 18 tuổi, mái tóc đỏ, dài, thẳng xuống tận eo, một khuôn mặt xinh đẹp nhưng không tươi tắn vì trang điểm quá nhiều cộng với đôi mắt âu lo, không thân thiện . Cô ta nhúc nhích trong chỗ ngồi, trật cái váy cực kỳ ngắn lên 1 chút, có lẽ ngây thơ nghĩ rằng điều đó có thể lung lạc anh luật sư trẻ đang ngồi đối diện .
Marguerite, ngồi trong góc phòng nhìn thấy hết, và tự mỉm cười. "Không thông minh sáng sủa lắm, nhưng cũng chẳng sao, phải không !"
Ziegler (người luật sư trẻ) đẩy tờ hợp đồng lên bàn về phía cô gái, trả lời :" 10 ngàn đô", không để lộ chút nào là bị lung lạc bởi cái hấp dẫn lộ liễu của tuổi 18 . "Cộng với tiền sinh hoạt - nghĩa là tiền phụ cấp hằng ngày trong 9 tháng mang thai của cô . 50 đô 1 ngày cho 270 ngày - Ít hơn nếu cô sanh sớm . Như vậy tổng cộng là 23 ngàn 500 đô . "
Cô gái, tên gì nhỉ , Sondra ? có vẻ suy nghĩ hồi lâu . Cô nhìn quanh cái văn phòng sang trọng này như là để dánh giá sự sang giàu của Marguerite qua cái công ty mà bà ta dang thuê mướn cho cái việc đẻ dùm này . Thế rồi nhún vai 1 cái, Sondra lắc đầu nói 1 cách trịnh trọng "25000 đô cho chẵn" .
Ziegler nhìn qua Margueritẹ Marguerite đang khoái chí - trả giá dễ thế - thêm có 1500 đô nữa thôi . Marguerite khẽ gật đầu .
"Đồng ý" người luật sư nói . "Bây giờ nói đế n chuyện hợp đồng nhận sanh mướn, có vài chuyện mà cô phải thực hành đúng: Không hút thuốc, uống rượu, hút "xì" trong thời gian mang thai; khám sản khoa thường xuyên, chuyện này chún g tôi sẽ chịu tiền "
Sondra đọc qua bản hợp đồng, bỗng cô hơi giật người " Cái gì thế này ? 'Nếu điều kiện đòi hỏi, người đẻ mướn phải đồng ý đến ở trong nhà chăm sóc riêng ?'
"Nhà của bà Marguerite, vâng . Nghĩa là, nếu cái thai có bị khó khăn gì mà thôi . Chắc không có gì đâu . Nhưng ai biết được . Bà Marguerite sẽ cảm thấy an toàn hơn cho đứa bé trong bụng khi cô ở gần, với đầy đủ phương tiện chăm sóc . Lúc đó chúng tôi sẽ có thường trực 1 cô y tá và bác sĩ Chernow đây ". Người luật sư gật đầu về hướng 1 người đàn ông mập mạp ngồi kế bên Marguerite . " sẽ viê"ng thăm hằng ngày ."
Lần đầu tiên Sondra có vẻ do dự .
Marguerite đằng hắng rất nhẹ trong cổ , nhưng mọi că,p mắt đều dồn về phía cô ta . Cô ta nhìn cô gái trẻ rồi mỉm cười . "Tôi thấy cô không có gì phải lo đâu Sondra" . Cô ta nói 1 cách đầm ấm . "Ai cũng nói tôi có căn nhà rất tiện nghi, thoải mái ."
Sondra cười gượng, nhưng lại có vẻ không hiểu, chớ không phải là do dự Cuối cùng cô lên tiếng "Thưa ... điều này không dính dáng gì đến tôi, tôi biết, bà có thể nói tôi cút đi nếu muốn, nhưng ... Thế này nhé, bởi vì bà không thụ thai được cho nên trứng của tôi sẽ được dùng . Phải không nào ? Ông Ziegler cũng nói là người hiến tặng tinh trùng là vô danh . Bà cũng chưa bao giờ gặp ông ấy, có phải không nào ? "
Marguerite gật đầu .
"Vậy thì đứa bé được hình thành bởi 2 người lạ . Hoàn toàn không có gì liên hệ đến bà . Thế thì bà phải bận tâm những chuyện này làm gì ? Tại sao không chỉ là 1 vụ nhận con nuôi bình thường ?
Bà có tiền để nhận nuôi bất cứ đứa bé nào bà muốn . Làm thế này thì bà được gì chứ ?"
Marguerite lấy làm cảm kích ; bà không mong đợi Sondra nghĩ đến chuyện này, huống hồ là quan tâm đến nữa . Tuy nhiên bà đã chuẫn bị sẵn câu trả lời để đề phòng trường hợp này . Bà nghiêng mình ra trước, giọng nói cố ý thật nhỏ nhẹ . "Tôi muốn có cơ hội nhìn con của tôi lớn lên . Từ cái ý nghĩ ban đầu, thành cái phôi; từ cái phôi thành cái thai; từ cái thai thành 1 đứa bé . Tôi muốn nghe tiếng tim nó đập, yếu ớt trong người cô; tôi muốn để tay lên bụng cô và cảm thấy con trai hay là con gái tôi đang cử động . Tôi muốn được cảm thấy ... dù chỉ trong 1 khoảnh khắc ... là nó nằm trong tôi . Ở kế bên nó, kế bên cô, khi nó đang lớn lên ... tôi sẽ cảm thấy nó thật sự là của tôi nhiều hơn . "
Sondra lắng nghe, cảm động . Rồi chỉ 1 thoáng do dự, cô lật đến trang cuối của bản hợp đồng, nhìn Ziegler . "Cho tôi mượn cây viết ".
Marguerite mỉm cười mãn nguyện .
***
Chiếc Mercedes trắng có tài xế lái xuôi xuống "Đại lộ Hoàng Hôn", người ngồi trong xe dấu sau cửa sổ dán đen giống như hành khách trong chiếc xe ma . Bên trong, Chernow nói "Cô ta thông minh hơn là mới nhìn, nhưng cũng chưa được thông minh như cô ấy vẫn tưởng mình . Cô ấy biết cấy giống không đòi hỏi chuyện phải lấy noãn trứng ra, nhưng khi tôi nói phải lấy ra để loại trừ chuyện bịnh tật di truyền, cô ta chấp nhận ngay không suy nghĩ gì cả . "
Marguerite mồi 1 điếu thuốc - thuốc hút tạm thời thay thế cơn ghiền máu . " Không có gì có thể làm cô ấy nghi ngờ chứ ?"
Chernow lắc đầu . "Chúng ta đã làm cái chuyện khó nhất rồi . Cứ thử nghĩ lại, nhiễm sắc thể (DNA) của em đã được thay đổi khi trước . 1 khi chúng ta lấy noãn của cô ấy ra, cô ta sẽ không biết gì cả về việc nhiễm sắc thể của cô ấy đã bị lấy mất hoàn toàn khỏi trứng của cô ấy - hoặc là nhiễm sắc thể của em đã được đóng dấu lên đó . Cô ta chỉ nghĩ là những trứng được cấy giống được đặt vào trong tử cung của cô ta mà thôi ."
Marguerite phà khói thuốc . Cô ta phải cai trước khi đứa bé ra đời . " Rồi sao nữa ?"
"Rồi, nếu may mắn, thai nghén bình thường, sanh nở bình thường . Dù rằng dĩ nhiên là chưa có ai làm chuyện này bao giờ cho nên mình không biết chắc được điều gì cả . "
Marguerite gật đầu . Chiếc xe quẹo lên đường Queen, cao hơn đại lộ Hoàng Hôn, về hướng căn biệt thự của bác sĩ; Marguerite liếc về bên trái và nhìn thấy ánh đèn tráng lệ chảy dài đến tận chân trời, đó là Los Angeles về đêm . Bà ta rất muốn nhìn nó vào ban ngày, dù chỉ 1 lần, không phải chỉ trên màn ảnh .
"Marguerite ?"
"Gì đấy Stewart ?"
Chernow do dự . " Anh ... có điều hơi lo về chuyện này ."
"Sao ? Chuyện này đâu có hại gì đến người mang thai mướn , phải không ? "
"Việc cấy thì không sao cả . Nhưng nhiễm sắc của em đã bị thay đổi mãi mãi, cái lúc mà em bị cắn . Cái cắn đã ... làm biến đổi em thành bất tử, sống bằng máu, sợ ban ngày ... 1 số những tính chất của em sẽ di truyền vào bào thai . Hầu như chắc chắn đứa bé con của em sẽ là 1 loại ma cà rồng như em . Ít ra thì cũng mang 1 phần đặc tính ấy . "
Marguerite gật đầu . "Em biết . Em chấp nhận chuyện ấy lâu rồi ." Cô nhìn Chernow dò xét " Anh sợ sao ?"
"Anh ... không thích cái ý tưởng, ... là anh giúp vào cái chuyện nhân giống loại người-ma cà rồng"
Margurite cười khan . " Stewart, tin em đi , nhân giống theo cái kiểu cũ nhanh hơn, hiệu quả hơn nhiều " . Cô ta nói rồi mỉm cười . Thấy ông ta không hưởng ứng, cô đặt tay lên tay ông . "Stewart ... Anh đã biết em 20 năm nay rồi . Em không đi săn người; vì em có thể mua máu bao nhiêu cũng được mà . Em không cần bạn bè đàn đúm cùng loại với mình . Em không ham quyền lực, hay chinh phục . Không , không còn nữa ."
Cô nắm lấy tay ông ta, ôm thật chặc . " Khi em "chết", em mới 25 . " . Cô nói, lần này giọng nhỏ nhẹ vì xúc động thật sự "Em chưa bao giờ có cơ hội có con . 200 năm sau, giờ đây khoa học giúp em có cơ hội này . Đó là tất cả những gì em muốn ." Cô buông tay ông ra .
"Điều gì mọi người đều muốn ? " cô nói thật dịu giọng, mắt nhìn xa xôi . "Muốn được yêu thương không điều kiện . Được yêu thương, bất kỳ mình là thế nào, bất kỳ những gì mình đã làm ..."
Cô ta nhìn lại ánh đèn phố phường . "Chỉ có vậy thôi . " Cô nói, và đó là sự thực .
Chernow cầm lấy tay cô; cô ngước nhìn ông . Nhiều trăm năm đọc vẻ mặt của dàn ông khi họ nhìn cô, làm cho cô biết 1 cách chắc chắn và buồn bã rằng ông đang nghĩ gì . Cả 2 đều biết rằng ông không thể yêu cô như cô mong muốn; người thường không thể .
"Vậy em không giận nếu anh đốt hết ghi chép về vụ này sau khi mình làm xong ?"
Marguerite mỉm cười . "Nếu điều đó làm anh cảm thấy đỡ hơn thì có sao đâu ."
***
Vụ cấy thai tiến hành như dự định; trứng của Sondra được lấy ra, in dấu DNA của Marguerite, cấy giống bằng tinh trùng của người hiến tặng, rồi lại được cấy vào cơ quan của Sondra . 14 tuần sau, siêu âm cho thấy bộ xương thai nhi, hoàn toàn bình thường, 1 tuần sau, thử dịch xác định thai nhi là nam . Tuần thứ 16, nghe được nhịp tim đầu tiên của thai nhi, rất yếu ớt nhưng làm Margeurite sung sướng bàng hoàng . Marguerite vốn không có nhịp tim, không có mạch . Nhưng đứa bé của cô ta là sự sống . Cái thai thở bằng oxygen trong máu của mẹ nó . Tim của nó bơm máu (không giống như Marguerite, tim của cô ta chỉ dùng để dẫn máu 1 cách siêu nhiên: như là 1 dung dịch để nuôi sống cô ta chứ tự bản thân nó không phải là 1 chất sống.) Nhưng con của cô sẽ là người .
Chernow không lấy làm chắc về điều đó . Sống, vâng; người, chưa chắc . 1 nhị thể, có lẽ giữa sự sống và sự không chết ... mang đặc tính của cả 2 .
Marguerite biết điều này, bằng lý trí, nhưng lần đầu đặt tay lên bụng Sondra - lần đầu cô cảm thấy cái thai cử động trong cái chỗ ấy - mọi ý nghĩ đó đều xa vời . Có 1 sự sống trong đó: lần đầu tiên trong 2 trăm năm, 1 cái gì đó của cô đang sống . Đó là điều cô quan tâm mà thôi .
Đến tuần thứ 18 thì có chuyện trục trặc .
Bình thường, lượng máu trong người 1 phụ nữ mang thai tăng lên 25 phần trăm khi đến lúc sinh, nhưng lượng hồng huyết cầu sẽ giảm, vì thai nhi hấp thụ máu từ mẹ qua cái nhau . Lượng máu của Sondra tăng lên 25 phần trăm ngay trong 3 tháng đầu mang thai, hồng huyết cầu giảm đi 1 nửa . Sondra bắt đầu bị những triệu chứng thiếu máu trầm trọng : xây xẩm, choáng váng, mệt mỏi, chóng mặt, ù tai.
Xét nghiệm cho thấy xương tủy của Sondra sản xuất ra thật nhiều hồng huyết cầu để đáp ứng với nhu cầu máu bởi thai nhi ; cái thai thật sự đang hút máu mẹ nó 1 cách đáng lo ngại . Thân thể Sondra đang sản xuất máu tối đa, nhưng có vẻ không đủ . Tuần này Chernow bắt đầu truyền máu cho Sondra, cộng thêm thật nhiều calcium để cho tủy xương Sondra được mạnh .
Mọi việc yên ổn trở lại, nhưng đến giữa tháng thứ 7, khi Sondra gục ngã bất ngờ ngoài Trung tâm Beverly, thì 1 vấn đề lớn hơn lại đến. Cũng may Sondra còn tỉnh, và bảo nhân viên y tế chở cô dến văn phòng bác sĩ Chernow thay vì bệnh viện Cedars-Sinai gần đó; không biết các bác sĩ ở đó sẽ làm thế nào khi họ nhận ra tình trạng thật của Sondra .
Ngay cả Chernow ban đầu cũng không biết chuyện gì . Đúng, lại thêm 1 trường hợp thiếu máu nữa, nhưng nghiêm trọng vô cùng, và khi Sondra vừa đế văn phòng ông thì chuyện ấy chấm dứt . Ông chỉ biết tiếp tục làm xét nghiệm máu .
Khi đêm xuống, ông miễn cưỡng đưa cho Marguerite xem kết quả.
"Hồng huyết cầu của Sondra hoàn toàn bình thường," ông giải thích khi đang dùng bữa ăn tối (của ông chớ không phải củaMarguerite) trong căn biệt thự của Marguerite ở Holmsby Hills ."Nhưng ngay khi máu đi qua cái nhau để vào thân thể thai nhi, chúng bắt đầu bị biến thể lạ lùng . Huyết tương hầu như bị bốc hơi, và cái thai, đói máu, cố gắng hấp thụ từ mẹ nó nhiều hơn .... để rồi máu đó cũng bị bốc hơi luôn ."
Marguerite, âu sầu, nhìn chằm chằm vào cái đĩa không của mình " Chuyện này ... xảy ra bên ngoài phải không ?"
Chernow gật đầu lo lắng . "1 ngày nắng đẹp . Ngay khi họ đem cô ta vào phòng anh, máu bốc hơi chậm lại liền, rồi trở lại bình thường . Sau khi làm xét nghiệm máu, anh cho Sondra ngồi dưới đèn cực tím trong vòng nữa giờ, và cô ấy bị mất máu trở lại ." (Đèn cực tím co tác dụng giống ánh s'ng thiên nhiên ban ngày - Chú thic'h của TĐ)
Marguerite nhắm mắt . Cô nhận ra thực tại . Đứa bé có thể phải sống như cô, không bao giờ dám thấy ánh sáng ban ngày .
"Anh nghĩ cô ấy phải đến sống với em thôi," Chernow nói khẽ . " Tất cả phòng ốc nhà em đều có màn, có mái che nắng, có lưới an toàn
... chúng sẽ bảo vệ cái thai và Sondra . "
Marguerite yên lặng hồi lâu . Khi cô nói, giọng của cô như thì thào . " Tôi đã mơ đứa con của mình sẽ chạy tung tăng dưới nắng ."
Chernow hít 1 hơi ngắn . "Chuyện ấy sẽ không có đâu, Marguerite" Rồi 1 thoáng sau . "Anh xin lỗi"
Và Sondra đến ở với Marguerite, không nghi ngờ gì cả khi Chernow nói là cần theo dõi thai và mẹ kỹ lưỡng hơn ; nhà có nhiều che chắn nắng là để bảo vệ cho cô những lúc bị xây xẩm; những chuyện khác thì đều tốt, ai cũng tin là cô sẽ sinh nở bình thường, em bé sẽ khỏe mạnh .
Y tá trông nom cô 24 giờ 1 ngày . Và tiện nghi trong nhà của Marguerite - đủ loại người giúp việc sẵn sàng phục vụ, sửa soạn bồn tắm, nấu ăn tuyệt hảo ; 1 phòng giải trí riêng với hàng trăm cuốn phim, làm cho Sondra thích thú, ít ra là tạm thời . Cô ít khi thấy Marguerite, người luôn luôn bận "làm việc" vào ban ngày và không bao giờ xuất hiện trước khi mặt trời lặn; và ngay cả khi có mặt chỉ lắng nghe tiếng tim đập của em bé, rờ rẩm bụng của Sondra 1 chút , nói vài câu rồi lại đi đâu mất, bỏ Sondra lại 1 mình, cảm thấy giống như là 1 cái máy mang thai, máy đẻ mà thôi . Nhưng Sondra lại tự nhủ chính mình muốn như thế mà .
Qua đến tháng thứ 9, 1 đêm Marguerite thức dậy không thấy Sondra đâu cả - Marguerite hốt hoảng đi kiếm, chạy ra ngoài khu vườn mênh mông của căn biệt thự lùng sục 1 hồi thì thấy Sondra đang bước lững thững trên mấy miếng gạch lát gần hồ nước . Bỗng nhiên Marguerite thấy Sondra không còn giống 1 kiểu gái đẹp nhưng rẻ tiền. (vì vậy đỡ sợ cô ta nỗi hứng tranh giành quyền nuôi con) . Bây giờ cô ta trông giống 1 cô bé cô đơn .
Sondra nghe thấy Marguerite đến phía sau; quay lại "Chào bà" Marguerite bước tới gần . "Cô làm chúng tôi hơi lo đấy . Maria nói cô bỏ bữa ăn tối . "
Sondra nhún vai . " Không đói ." Cô quay lại, bước lên 1 viên gạch nữa . "Bị chóng mặt hồi chiều . Còn xây xẩm lắm . Ăn không nỗi đâu . "
Marguerite bước đến gần hơn . "Tôi xin lỗi . Không ai nghĩ rằng chuyện này làm cô mệt mõi đến thế này . "
Sondra mỉm cười "Vâng, à ... bà muốn nghe 1 chuyệnkỳ cục không ?" Cô ta lắc đầu thích thú . "Kỳ cục như cái bầu lắm điều này
... Tôi thật ra cảm thấy rất ... vui ... là đã có bầu . "
Marguerite thấy lạnh người, không phải vì cái lạnh ban đêm . Không lẽ cuối cùng rồi Sondra thấy gắn bó với cái đứa bé chưa sinh ra sao ? Cô hỏi: "Vui ? Tại sao ?"
Sondra nhún vai . "Tôi nhìn kỹ nhà của bà ... nhìn cái vườn khổng lồ này ... Tôi nghĩ bà chắc có nhiều tiền lắm - "
Trời, Marguerite nghĩ . Chắc muốn điều đình thêm tiền rồi ?
"Và tôi nghĩ ... " Sondra do dự; trong khi Marguerite chuẩn bị để trở nên cứng rắn . "Tôi nghĩ đứa bé này thật là may mắn, " Sondra nói khẽ . "Bà có thể làm được bao nhiêu chuyện cho nó . Tôi cảm thấy hãnh diện, Tôi nghĩ ... tôi giúp cho nó có 1 cuộc sống tốt hơn là cuộc sống của tôi . Bà hiểu không ? "
Marguerite đứng lặng im, ngạc nhiên vì lời nói của Sondra, cảm thấy tự xấu hổ .
Cô dịu dàng đặt tay lên vai của Sondra . "Vâng tôi hiểu Sondra nói gì lắm ." Cơn co thắt của Sondra bắt đầu vào lúc 2 giờ chiều thứ Tư, đúng 270 ngày sau bữa cấy thai nhân tạo . Cơn co thắt đầu tiên kéo dài 40 giây, mặc dù Sondra cứ thềrằng nó đến 1 phút rưỡi . Cơn co thắt thứ 2 đến 20 phút sau đó . Chernow đến trong vòng 1 tiếng đồng hồ . Ông cho Sondra vào trong xe riêng (chiếc Mercedes với những cửa sổ dán phim đen) , chở cô đến bệnh viện tư ở Santa Monica . Lúc này cơn co thắt đến càng lúc càng mạnh hơn . 3 giờ rưỡi chiều .
"Marguerite đâu ? " Sondra phều phào . 1 y tá xoa lên trán Sondra, còn Chernow thì trả lời bằng những điều bịa đặt đã tính trước: Cô ta đang đi San Diego vì công việc làm ăn, nhưng sẽ về ngay khi xong việc . Chernow hy vọng việc lâm bồn của Sondra sẽ như các phụ nữ đẻ con so , nghĩa là sẽ kéo dài khoảng 13, 14 giờ - đứa bé sẽ sanh ra sau khi mặt trời lặn đã lâu .
Dầu vậy, để an toàn, tất cả các màn cửa sổ đều được kéo xuống. Chuẩn bị cho em bé cũng như cho Marguerite .Sondra vỡ bọc nước (dấu hiệu thai nhi sẵn sàng ra đời - chú thích của TĐ) vào khoảng 5 giờ chiều, và với sự giúp sức của Chernow, cô ta bắt đầu rặn đẻ thật mạnh . 1 tiếng đồng hồ sau đó, khi mặt trời đã lặn, Marguerite trở mình trong giường, hoàn toàn khỏa thân như mọi hôm . Mắt mở trao tráo . Maria - người hầu gái tóc trắng, rất mực trung thành và che chở - đứng trên đầu giường
"Bệnh viện kêu đến" Maria nóị "Đã đến lúc ."
Nếu tim của Marguerite có thể đập, chắc nó đã đập tung lồng ngực của cô ta . Cô ta nhảy phắt dậy, hôn lên trán Maria, rồi lại đứng bên cửa sổ . "Ra ngoài đi", cô ta nói, và Maria lặng lẽ bước ra . Marguerite nhắm mắt lại, hình dung ra đứa bé, hy vọng (cô ta không thể cầu nguyện được với ai cả) cô ta sẽ không đến trễ không thấy đứa bé chào đời . Marguerite rung mạnh, thân thể cô lắc lư rồi thu nhỏ lại, nhỏ lần, nhẹ lần .
Và cô ta bay trên thành phố - trong thể dạng này cô cảm nhiều hơn là thấy - hướng về phía biển, nghe tiếng cây cỏ dưới chân, lắng nghe tiếng động của cái bệnh viện . Khi đến nơi Marguerite hóa thân lại thành người thường, xuơng thịt dài ra lại, đáp xuống đất . Trong bệnh viện, Chernow đã để sẵn quần áo cho cô ta thay trong phòng ông; cô ta nhanh nhẹn mặc vào rồi hối hả vào phòng Sondra .
Cô đi ngay đến bên giường Sondra, nắm lấy tay Sondra; Móng tay Sondra bấu chặt lòng bàn tay của Marguerite . Nếu là người thường thì Marguerite đã chảy máu . "Không sao đâu," Marguerite nói . "Mọi việc sẽ tốt dẹp thôi ." Cô ta liếc qua Chernow như muốn hỏi: Phải vậy không ?
Hiểu ý cô ta, Chernow gật đầu . "Mọi chuyện tiến triễn bình thường," ông nói . Trong vòng 2 giờ nữa, có thể thấy đầu của em bé . Và trong khi tiếng la khóc của Sondra ngập căn phòng, Marguerite ước gì cô là người đang la khóc đó ."Rặn đi ! Rặn đi! " Chernow tiếp tục đỡ đẻ cho Sondra . Sondra rặn - phần trên của cái đầu đứa bé đã lòi ra . Nhưng khi vừa mới thấy nó - mắt nó nhắm, da nó nhăn nheo - Marguerite cảm thấy có gì đó không hay, tuyệt nhiên không . Cô không nói gì, nhưng khi đứa bé trồi ra hơn, Chernow và Sondra cũng cảm thấy như vậy . Da của 1 đứa bé mới ra đời luôn luôn nhăn nheo, nhưng da thịt của đứa bé này thật ghê rợn, hầu như khô cằn . Có 1 cái gì đó quen thuộc với Marguerite 1 cách kinh khiếp ... và không có ngọ ngoạy . Cổ, vai, tay của em bé lần lượt trồi ra ... nhưng khi hài nhi được kéo ra, vào khoảng nửa đêm, mọi người đều đã biết 1 sự thật:
Đứa bé đã chết . Chết trong lòng mẹ .
Sondra khóc, thương cho đứa bé đã có thể có 1 cuộc sống rất sung sướng . Chernow thì sững sờ . Ông chỉ lẩ m nhẩm "Mọi việc tiến triễn bình thường mà... " .
Marguerite chìa đôi tay ra . Chernow cắt rún đứa bé, rồi lặng lẽ trao cái xác nhỏ nhắn cho cô ta ; cô ta không để ý gì đến máu và thuốc và nước ối dính đầy cái xác . Cô dịu dàng vuốt lên mặt hài nhi .
Da của nó quá già; quá già nua, trước khi nó được trẻ . Cô vả nhẹ lên đầu nó, ngón tay vuốt ve lỗ tai của nó , cổ nó, cái miệng nhỏ nhắn của nó .
Cô lẽ ra phải biết trước điều này . Có lẽ Thượng Đế, nếu Ngài có hiện diện, chắc đã giận dữ vì sự sống đaã được tạo ra 1 cách kiêu ngạo từ chỗ u tối nhất của những cái nôi . Hay là Quỷ vương, người mà cô ta đã chấp nhận 1 hợp đồng ma qủy 2 thế kỹ trước đây, đã nỗi điên vì cô ta dã dám làm ngược lại điều đã ghi trong hợp đồng : cô không bao giờ được tao ra sự sống , khi cô đã được bất tử cho riêng mình . Có lẽ đó là điều duy nhất mà Thiên đàng và Địa ngục đồng ý với nhau .
Cô dịu dàng vuốt ve làn da già nua của đứa con chưa-bao-giờ trẻ . Cô nhận ra ngay 1 điều cô đã thấy trước đây, khi 1 người yêu cùng loài với cô (bất tử) bị đụng bởi 1 chiếc xe ngựa và không biến hình kịp, ngã xuống giòng sông, và chết đi . Và cô biết rằng đứa con bé bỏng của cô đã bị từ chối sự sống mấy tiếng đồng hồ trước đó - vào lúc 5 giờ chiều .
"Nước chảy" cô chỉ nói như thế , và không có ai nghe ngoại trừ Chernow, càng không có ai hiểu . Marguerite ôm cái xác nhỏ vào ngực, và cầu mong ít ra linh hồn của nó đã bay di - ít ra đứa bé đã được phước có 1 linh hồn để bay đi - và nó biết rằng mẹ nó đã tìm được 1 sự giải thoát vĩnh viễn . Cô ta thì thào :" Vĩnh biệt , vĩnh biệt con cừu của mẹ" .
Lúc mới đọc tôi cũng chưa hiểu hết câu truyện . Vì vậy tôi nhắn thêm cho bạn nào chịu khó đọc truyện này . Bên cạnh nhiều ý nghĩa khác, câu chuyện có 1 ẩn ý rằng ma cà rồng bất tử sẽ chỉ chết đi khi ngâm mình trong nước đang chảy . Có lẽ ngay cả Marguerite cũng chưa biết cả điều này, cho đến khi nhìn đứa con mới sinh ra bị chết và nhớ lại 1 lần khi 1 người tình của cô bị ngả xuống nước . Có thể Marguerite đã nhận ra cách để từ giã cõi đời này . Dù sao tác giả không cho thấy chỗ nào là Marguerite có chán cuộc sống ghê rợn của cô hay không .