Đường đi A-man-tê Tác giả: nhiều tác giả Người dịch: NXB Thanh Niên
Nguồn : diendan.nuocnga.net
Giới thiệu :
"Đường đi A-man-tê" là một tập truyện khoa học viễn tưởng của nhiều tác giả Xô-viết nổi tiếng, do Nhà xuất bản Ngoại văn Mát-xcơ-va giới thiệu. Chúng tôi có chọn dịch một số truyện in trong tập này:
"Thung lũng Bốn Cây Thập Ác" nói lên ước mơ của con người muốn có một chiếc máy chiếu thời gian, căn cứ vào một số di vật nhỏ có thể dựng lại các sự kiện có liên quan đến những di vật đó trong quá khứ. Chiếc máy đó hỗ trợ rất đắc lực cho con người trong công tác khảo cổ hoặc tìm hiểu lịch sử của những vấn đề đã qua.
"Những cánh hoa bay" giới thiệu khả năng thông tin liên lạc của sinh vật từ xa, qua những sống vô tuyến sinh học. Nhiều nhà bác học cho rằng đây là một trong những thành tựu khoa học vĩ đại của thế ký 21, và con người có thể lợi dụng khả năng đó.
Một trong những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại là điều khiển học. Bạn đọc sẽ làm quen với điều khiển học thần kinh quá "Phương trình Mắc-xoen". Truyện giới thiệu những khám phá mới về bộ nào con người, cơ sở hóa điện của cảm giác và tư duy.
" Đường đi A-man-tê" và "Nhà du hành vũ trụ" giúp bạn đọc hình dung những khó khăn, nguy hiểm của các nhà du hành vũ trụ trong các chuyến bay xa xôi, dài hạn, hoặc khi phải sinh hoạt làm việc trên những thiên thể xa lạ.
Xuyên qua tất cả các chủ đề trên đây là những phẩm chất cần có của những người làm công tác khoa học kỹ thuật.
Tất cả đã bắt đầu như thế nào, tại sao chúng tôi đã gỡ mối cho câu chuyện bí mật này, máy chiếu thời gian và phương pháp chiếu thời gian là gì?
Như nhiều chuyện khác, câu chuyện tôi sắp kể cho các bạn nghe, đã bắt đầu từ việc khám phá ra các giấc tờ cũ trong kho của một căn nhà cổ. Đúng là để tìm chúng, chúng tôi không cần phải leo lên một thang gác ọp ẹp, tay cầm đèn; rất đơn giản là người ta đã gọi dây nói cho tôi từ khoa địa chất và địa lý thuộc Viện Hàn lâm khoa học, yêu cầu tôi đến cùng với bạn tôi là Bê-rê-xkin. Người tiếp chung tôi là Đa-nhi-lép-xki, công tác viên của khoa, tóc đã hoa râm.
Đa-nhi-lép-xki rút trong ngăn kéo bàn ra hai quyển vở mỏng, rất nhàu nát, bìa bị hoen ố, và đặt trước mặt chúng tôi.
- Đây, đống chí ấy nói. Chính vì các quyển vở này mà chúng tôi đã mời các đồng chí đến. Cách đây một tháng rưỡi, chúng tôi đã nhận được chúng từ Viện bảo tàng địa phương ở Cơ-ra-xnô-đa. Trong bức thư kèm theo, ông giám đốc của Viện báo cho chúng tôi biết là người ta đã tìm thấy chúng trong kho của một căn nhà gần như đổ nát, ở ngoại ô Cơ-ra-xnô-đa. Rất may là chúng còn lưu lại được qua các cuộc nội chiến và cuộc chiếm đóng phát xít...
- Đồng chí cho rằng chúng đã lâu đời đến thế ư? Tôi hỏi.
- Chắc chắn như vậy. Bạn bè của chúng tôi ở Cơ-ra-xnô-đa đã xác định được rằng các ghi chép cuối cùng là vào năm 1919. Hiểu được chúng quả là rất khó khăn. Nhưng chính các quyển vở này lại nói về đoàn thám hiểm Bắc cực của An-đrây Jin-xốp...
- Jin-xốp? Tôi ngạc nhiên hỏi. Chính cái đoàn đã biến mất không để lại dấu vết?
- Đúng vậy. Nhưng tốt hơn hết là hãy đọc bức thư kèm theo...
Bức thư này không giúp chúng tôi biết thêm gì mới, ngoài tên người đã ghi chép: các nhân viên của Viện bảo tàng địa phương cho rằng các cuốn vở này là của Dan-xơ-man, một người đã tham gia vào đoàn thám hiểm. Chúng tôi tò mò nhìn các quyển vở, do dự không muốn cầm lấy chúng.
- Việc này hình như làm các dồng chí thích thú, Đa-nhi-lép-xki quan sát chúng tôi và nói. Các đồng chí có bằng lòng nhận làm sáng tỏ nó không?
- Đồng chí muốn nói là tìm hiểu ghi chép này chăng?
- Tôi không rõ. Có lẽ tìm hiểu chúng cũng không đủ… Đoàn chủ tịch của Viện sẵn sàng giúp đỡ các đồng chí.
- Những tại sao các đồng chí lại nhờ chúng tôi.
- Chúng tôi có thừa lý do, đồng chí Véc-bi-nin ạ. Theo tôi biết, đồng chí đã nhiều năm nghiên cứu lịch sử chinh phục phương Bắc và mới đây, đồng chí lại cho in một cuốn sách về vấn đề ấy… Hơn nữa, đống chí là nhà văn và câu chuyện này lại bí mật như vậy… Cuối cùng, còn có máy chiếu thời gian, phát minh của cả hai đồng chí… Máy chiếu thời gian.
“Té ra đó là điều ông ta muốn đi đến, tôi nghĩ. Quả thật là tôi nghiên cứu lịch sử phương Bắc và tôi cũng đã đi nhiều. Quả thật tôi là nhà văn, nhưng nói cho cùng, những người chuyên nghiên cứu lịch sử Bắc cực không phải hiếm, kể cả những nhà văn hiểu biết địa lý. Cái chính, là do máy chiếu thời gian, phát minh của Bê-rê-xkin”!
- Cần chính xác, tôi nói với Đa-nhi-lép-xki. Người phát minh ra máy chiếu thời gian là Bê-rê-xkin. Chúng tôi chỉ cùng nảy ra ý nghĩ về chiếc máy ấy thôi. Nghe nói vậy, bạn tôi, từ nãy vẫn im lặng, liền cựa quật trên ghế, nhưng tôi không hề để ý đến – Trong trường hợp này, người phát minh không quan trọng. Điều không may là máy chiếu thời gian chưa được thử thách đẩy đủ. Đến đây, tôi chiếc nhìn Bê-rê-xkin, mong rằng cậu ta ủng hộ tôi.
- Chúng tôi không có gì bảo đam là nó sẽ đáp lại đầy đủ hy vọng của chúng tôi….
- Không có gì bảo đảm cả, Bê-rê-xkin nhắc lại sau tôi. Vai rộng, khỏe mạnh, đầu to, đôi lông mày rậm và hàm dưới bạnh ra, cậu ta có vẻ như một người suy nghĩ chậm chạp, không xứng với một lao động trí óc nhanh nhẹn và chính xác; trông cậu ta , không ai có thể nghĩ rằng đó là một nhà toán học và một nhà phát minh đại tài…
- Thật ra, Đa-nhi-ép-xki nói, điều làm chúng ta quan tâm hiện nay, không phải là máy chiếu thời gian mà là đoán thám hiểm bị mất tích. Các đồng chí có nhận điều tra việc này hay không là tùy các đồng chí.
Tôi trẻ lời là chúng tôi còn phải quy nghĩ xem đã. Đa-nhi-ép-xki đề nghị chúng tôi mang các quyển vở về để tìm hiểu chúng.
Chúng tôi trân trọng cầm lấy chúng, xếp cẩn thận vào trong cặp ra về…
Đến đây, hiển nhiên là phải dừng lại để giải thích thể nào là máy chiếu thời gian và phương pháp chiếu thời gian. Điều mà người ta vừa đề nghị chúng tôi trùng với phần cuối của công việc sơ bộ mà chúng tôi làm để chế tạo chiếc máy đó. Chúng tôi chuẩn bị thử máy tỉ mỉ hơn, trước khi xin cấp bằng phát minh. Trong đáy lòng, mỗi người chúng tôi đều nghĩ rằng máy chiếu thời gian quả là rất hoàn thiện, nhưng khi Đa-nhi-ép-xki trực tiếp đề nghị chúng tôi dùng nó, chúng tôi lại sợ và đã vội rút lui… Đã từ lâu, người ta bàn tán về máy chiếu thời gian và báo chí cũng đã giới thiệu một vài điều về nó. Hầu hết mọi người đều dè dặt đối với phát minh của chúng tôi. Và điều đó cũng dễ hiểu. Trên toàn thế giới, chỉ có hai chúng tôi nghiên cứu máy chiếu thời gian, Bê-xê-xkin và tôi, và các kết quả của phương pháp này hiện nay hoàn toàn không đáng kể.
Để cho rõ hơn, câu chuyện mà tôi kể không phải bắt đầu từ hôm chúng tôi trông thấy lần đầu tiên các quyển vở cũ nát. Cúng không phải từ hôm người ta tìm thấy chúng trong kho của căn nhà đổ nát… Nó đã bắt đầu sớm hơn nhiều, vào một đêm trời đầy sao, trong rừng rậm Tai-ga, lúc nảy sinh ra dự kiến về chiếc máy chiếu thời gian…
Đoàn thám hiểm địa lý nhỏ bé của chúng tôi lúc ấy đang làm việc ở miền Đông Xai-an. Suốt ngày, từ sớm đến chiều, chúng tôi đi theo một con đường mòn, vừa đi vừa quan sát: chúng tôi mô tả địa hình, cây cỏ, những biến đổi về tình chất của thung lũng sống Iếc-cút. Ba ngày sau khi khởi hành, chúng tôi đã rời thung lũng sống Iếc-cút để leo lên đèo Nu-khu-đa-ban ( theo tiếng Bu-ri-át có nghĩa là đèo có lỗ). Đã từ lâu, tất cả chúng tôi đều đã được nghe nói về cái đèo ký lạ này hay đã đọc một điều gì đó về nó. Do đó, mỗi chúng tôi đều muốn thấy nó ngay. Leo đèo rất vất vả, lối đi khá dễ dàng nhưng một loại miếu được dựng lên ở cửa đèo cho biết rằng ngay cả những người chăn súc vật và thợ săn, mặc dù đã quen với các điều kiện ở miền nũi, khi lên đây cũng sờ sợ thế nào ấy. Tôi xem xét miếu thờ. Dựng dưới chân một tảng đá dốc cheo leo, nó được phủ lên nhiều băng mày, mắc vào các cành cây, và có cả vài đồng tiền, vài chuỗi cườm và cả vài đồng Rúp cũ…. Những người dâng đồ cúng này có lẽ cũng không tin lắm vào sự linh thiêng của chúng, nhưng đó là tập quán từ xưa đến nay. Chúng tôi cũng không tin vào sức mạnh của thế giới bên kia, nhưng chúng tôi cũng đặt vài đồng tiên lên bàn thờ trước khi tiếp tục leo trèo vất vả… Cuối cùng chúng tôi cũng đến Nu-khu-đa-ban: bên phải lối đi dựng đứng một bức tường đá vôi thủng lỗ chồ; chỉ cò một cây Mê-le-dơ nhỏ bám vào sườn nó. Tôi lại gần và phát hiện ra ở một trong các sườn đá một chiếc mũ kim loại. Tôi không biết ai đã để nó ở đấy và tại sao. Nhưng việc trèo đèo, một cái đèo khó leo và đầy rẫy truyền thuyết, miếu thờ, và cuối cùng việc khám phá ra chiếc mũ cổ, đã gieo vào đầu óc chúng tôi nhiều ý nghĩ lãng mạn; sau đó ngủ đêm tại đấy, câu chuyện vẫn còn tiếp tục mãi về quá khứ của miền này, về lịch sử nói chung…
Tôi đã mang theo cái mũ. Dưới ánh lửa, Bê-rê-xkin và tôi chăm chú ngắm nhìn nó. Nó rất rộng so với đầu chúng tôi, hình như của một người khổng lồ. Nó được cấu tạo bằng tám tấm thép, phía dưới nối với nhau do một vòng kim loại, phía trước có một khe nhìn, và trên đỉnh có một vòng thứ hai, với một ống tròn nhỏ ở giữa rõ ràng là để cắm vật trang trí: lông bờm ngựa hay một cái gì đó khác.
Đêm khuya tĩnh mịch, nước chảy róc rách trên các hòn đá cuội, gió lạnh thổi từ đèo về, hàng loạt tia lửa lóe ra trong đêm tối và ánh trăng lưỡi liềm chơi vơi trên đỉnh nũi, kích thích trí tưởng tượng của chúng tôi, khiến chúng tôi dễ hình dung ra một dũng sĩ Mông Cổ trang bị đầy đủ, nhiều năm trước đây đã từng qua đèo Nu-khu-đa-ban, ròi trúng tên gục ngã… Ai đó ( về sau chúng tôi cũng không nhớ) nói rằng thật đáng tiếc là người ta không thể lấy lại các sự kiện đã xảy ra hàng chục, hàng trăm năm trước đây. Thật đáng tiếc, người ấy nói tiếp, là không thể xích chúng lại gần chúng ta như thể người ta đã xích gần các vật ở cách xa ta hàng nghìn và đôi khi hàng triệu ki-lô-mét nhờ kính viễn vọng.
Chính lúc ấy đã nảy sinh ra từ “máy chiếu thời gian”. Nps được đưa ra để vui đùa, do đồng dạng với từ kĩnh viễn vọng. Kính viễn vọng xích lại gần ta các vật ở xa trong không gian, còn máy chiếu thời gian… nó có thể dịch lại gần ta, các vật lùi xa về dĩ vàng, cho chúng ta thấy được các sự kiện đôi khi chỉ để lại một dẫu vết mờ nhạt.
Trí tưởng tượng của tôi đã khiến tôi thấy như thật chủ nhân cũ của chiếc mũ, đến nỗi tôi nói rất nghiêm chỉnh:
- Cái máy này đã có từ lâu rồi
Tất cả mọi người đều nhìn tôi, rất ngạc nhiên.
- Đó là khối óc, tôi giải thích. Óc con người. Chẳng phải nó đã có thể đi sâu vào quá khứ hàng thế kỷ và làm sống lại những sự kiện xa xưa đối với ta hay sao? Phải chăng ta đã chẳng tái tạo theo các vũ phú, những vật dùng hàng ngày, cách sống, cách đánh trận của tổ tiên ta? Chúng ta không tin các tiểu thuyết lịch sử hay các phim truyện kể lại những ngày đã qua lâu rồi sao?
- Các cậu lạc đề rồi, một đồng chí trong chúng tôi bắt đầu bẻ. Tất nhiên, mỗi người đều có thể tưởng tượng, chẳng hạn như mình đang ở trên sao Hỏa. Nhưng điều ấy không thay được kính viễn vọng…
- Cũng như không một kính viễn vọng nào thay được óc con người, tôi trả lời, không chịu thua. Chỉ cần trang bị cho khối óc một công cụ phụ trợ…
- Và không chỉ thế, Bê-rê-xkin chen vào. Từ nãy đến giờ anh vẫn yên lặng. Khi ấy anh còn là sinh viên khoa toán trường Đại học tổng hợp Mát-xcơ-va, vì ham thích du lịch, anh đã xin vào làm thợ trong đoàn chúng tôi – Không chỉ thế, anh nhắc lại. Đúng là không một kính viễn vọng nào hay một máy chiếu thời gian nào hoàn thiện nhất có thể suy nghĩ được, nhưng phải chăng khả năng của con người lại không tăng lên khi ta cung cấp thêm các dữ kiện mới cho nó?... Chỉ có bộ óc mới hiểu được quá khứ, nhưng máy chiếu thời gian có thể giúp nó bằng cách làm tái hiện các sự kiện đã thoát khỏi lý trí và cặp mắt con người… Các bức tranh kỳ lạ nhất diễn qua óc ta, chúng ta có thể cho rằng có người sao Hỏa, tuyên bố rằng các khe nứt của sao Hỏa là một hệ thống kênh đào, nhưng chỉ có ống kính mới cho chúng ta khám phá ra thiên nhiên thật của sao Hỏa. Trong việc tìm hiểu các sự kiện lịch sử, luôn luôn có rất nhiều sự vật lạ, khách quan và nếu máy chiếu thời gian có thể đưa chúng lại gần ta dưới một dạng không bị làm sai lệch đi vì các nhà sử học…
- Đó sẽ là một cuộc cách mạng trong sử học và cổ sinh vật học, tôi kêu lên. Con người sẽ có những khả năng vô tận làm tăng thêm hiểu biết của mình!
- Máy chiếu thời gian! Máy chiếu thời gian! Một người nào đó sẵng giọng nhận xét. Các cậu tán gẫu chưa đủ sao? Dù sao đi nữa cũng không thể chế tạo một chiếc máy như vậy được.
- Có thể được, Bê-rê-xkin nhận xét. Tất nhiên, không phải dưới dạng chiếc ống với các kính phóng đại, nhưng tuy nhiên…
- Thế thì nó sẽ như thế nào? Tôi hỏi, cảm thấy rằng Bê-rê-xkin nói rất nghiêm chỉnh, và ý nghĩ về chiếc máy có một cơ sở thực tế, dù rằng tôi không hiểu nó.
- Một máy điện tử, Bê-rê-xkin đáp. Một máy điện tử thông thường. Anh suy nghĩ rồi tiếp: - Không hoàn toàn thông thường, chắc chắn thế, nhưng là một máy cùng kiểu với máy tính, máy dịch và các máy khác tương tự. Chúng có thể giải những bài toán phức tạp nhất, dịch các văn bản “nhớ lại” hàng loạt sự vật khác nhau nhất. Những thành tựu của điều khiển học hiện đã lớn đến mức có thể tưởng tượng một máy điện tử mang tên máy chiếu thời gian… Giả sử chiếc mũ này có một lỗ. Chúng ta đặt nó vào trong máy chiếu thời gian và đề ra cho nó nhiệm vụ phải hoàn thành: giải thích nguồn gốc của lỗ ấy. Trong vài giây, với một tốc độ khổng lồ, máy chọn trong hàng trăm nghìn kiểu, một kiểu hợp lý nhất… Nhờ một tế bào quang điện, kiểu này sẽ được quay phim rồi chiếu lên một màn ảnh. Và lúc ấy…
- Và lúc ấy quá khứ sống lại trên màn ảnh! Tôi ngắt lời Bê-rê-xkin; anh đang chìm đắm trong mơ màng. Lúc ấy chúng ta sẽ thấy lại người dũng sĩ Mông Cổ đang leo chậm chạp lên đèo Nu-khu-đa-ban, chúng ta sẽ trông thấy kẻ thù nấp sau các tảng đá rình chàng, chúng ta sẽ trông thấy hắn giương cung và kết liễu đời người dũng sĩ bằng một mũi tên chính xác!
Tất cả các bạn của chúng tôi, ngồi quanh đống lửa phá lên cười, Bê-rê-xkin và tôi cũng vậy, câu chuyện này đối với chúng tôi quả là kỳ lạ.
Nhiều năm đã trôi qua kể từ buổi tối hôm ấy, và hôm nay chiếc máy chiếu thời gian đã sẵn sàng. Tất nhiên bây giờ không cần giải thích tỉ mỉ rằng con đường đi đến phát minh của chúng tôi biết bao lâu dài và khó khăn, rằng chúng tôi đã gặp bao thất bại và chán nản, rằng đã biết bao lần sự nghi ngờ xâm chiếm chúng tôi… Bây giờ tất cả những cái ấy thuộc về quá khứ và, như vẫn xảy ra cho các công trình kéo dài cuối cùng có kết quả tốt, mọi điều đã trải qua chúng tôi thấy một màu hổng cả… Chúng tôi đều bị một ý đồ lớn ám ảnh, ham muốn tạo ra một cái máy có thể mở một cửa sổ hướng về quá khứ xa xôi, có thể tái tạo nhanh và chính xác, từ những chứng cớ xác thực không đáng kể, bức tranh về một chiếc công hay một tội ác, hoàn lại danh dự cho một con người bị vu khống và lột mặt nạ kẻ vu khống; hiện nay chúng tôi còn chưa biết hết mọi khả năng của chiếc máy của chúng tôi, có thể theo thời gian nó sẽ cho phép các nhà cổ sinh vật học thấy tận mắt các sinh vật đã mất tích từ lâu, trước đây đã từ sống trên Trái đất; có thể nhờ nó các nhà khảo cổ nghiên cứu và các nhà sử học có thể dựng lại các diễn biến của trận Bô-rô-đi-nô hay cuộc chiến đấu giữa các nước ở gần Lép-dích…
Tóm lại, lúc ấy chúng tôi đã tin, đang tin và sẽ luôn luôn tin ở tương lai của phép chiếu thời gian, nghĩa là vào nghệ thuật nhìn lại quá khứ!
Tuy nhiên, lúc ấy các quyển vở cũ của Cơ-ra-xnô-đa xuất hiện trên bàn, chúng tôi vẫn chưa thể công bố những kết quả phát minh của chúng tôi. Mặc dù nó làm chúng tôi rất thích thú. Quả thật, thật là thú vị khi có thể , nhờ chiếc máy chiếu thời gian chúng tôi đã đưa vào một bức thư cũ của vợ tôi, biết được vợ tôi đã viết lá thư ấy như thế nào… Nhưng muốn cho chiếc máy này được mọi người công nhận, trước hết nó phải trải qua những thử thách cẩn thận, tỉ mỉ.
Bây giờ, chắc các bạn hiểu rằng các quyển vở của Đan-xơ-man đến đúng lúc như thế nào…
Vào lúc tôi viết các dòng này, công việc của chúng tôi đã hoàn thành, các bức tranh của quá khứ đã được dựng lại và khắc vào “trí nhớ” của máy chiếu thời gian. Người ta có thể nhìn lại chúng trên màn ảnh vào bất kỳ lúc nào. Tất nhiên, tôi nhớ rất rõ công việc của chúng tôi đã tiến hành như thế nào, cùng với Bê-rê-xkin; chúng tôi đã giải quyết từng khâu của số phận các con người ấy như thế nào…Và bây giờ khi có thể kể lại về tất cả các việc ấy, tôi lại tự đặt câu hỏi: viết cái gì? Các bạn đừng lấy làm lạ. Có thể kể lại chúng tôi đã thử máy như thế nào, nhưng cũng có thể mô tả các con người mà số phận đã được sống lại trên màn ảnh và cũng không phải chỉ ở trên màn ảnh… Quả là chiếc máy chiếu thời gian đối với chúng tôi rất quý nhưng những con người, những nỗi vui buồn của họ, đối với chúng tôi, lại còn đáng quý hơn… Công việc điều tra của chúng tôi càng tiến triển, chúng tôi càng ít nghĩ đến việc thử máy chiếu thời gian hơn là việc khám phá đến cùng bí mật về đoàn thám hiểm đã mất tích. Nếu các bạn đồng ý, tôi sẽ kể cho các bạn nghe điều ấy, về tất cả những gì mà chúng tôi đã được biết. Còn về chiếc máy chiếu thời gian…Xét cho cùng, đó không phải là điều quan trọng nhất…
Tình hình đoán thám hiểm Jin-xốp. Kiểm nghiệm thực tế đầu tiên của máy chiếu thời gian và các kết quả của nó.
Bê-rê-xkin và tôi, chúng tôi quyết định cân nhắc kỹ mọi mặt của vấn đề trước khi đi đến dứt khoat: thật vậy, nếu cuộc điều tra không kết quả có thể tổn hại đến ngay ý nghĩ về máy chiếu thời gian.
- Cậu hiểu chứ, Véc-bi-nin, Bê-rê-xkin ngồi trong chiếc ghế bành quen thuộc gần bàn giấu nói với tôi, liều lĩnh quả là rất tốt. Những để bắt đầu, hãy kể cho mình nghe những gì cậu biết về đoàn thám hiểm ấy. Lịch sử các phát kiến địa lý và mình, chúng mình xung khắc, và tiến hành một việc nào đó mình không hề nghĩ đến…
Cậu ta không nói hết, song tôi đã hiểu rõ ý cậu ta. Chúng tôi chỉ dám dùng đến máy chiếu thời gian, nếu công việc xem ra xứng đáng. Về điểm này, tôi không nghi ngờ gì cả. Nếu quả thật đó là đoàn thám hiểm Jin-xốp, thì chắc chắn tìm hiểu nó sẽ rất thú vị.
Chiều đã buông xuống, cả hai chúng tôi đều mỏi mệt sau ngày hôm ấy. Tôi đề nghị vợ tôi pha cho chúng tôi ấm trà. Trong khi vợ tôi đang ở trong bếp, tôi lấy rất nhiều sổ sách trên giá và đặt lên bàn.
- Cậu xem, tôi bảo Bê-rê-xkin, về đoàn thám hiểm này chỉ có một điều người ta biết rõ, đó là nó đã được tổ chức, đã đi về phương Bắc và đã mất tích không để lại dấu vết…
- Ít quá, Bê-rê-xkin mìm cười nói. Nhưng, liệu có thể biết được, thí dụ, tại sao nó đã được tổ chức và Jin-xốp là ai?
- Tất nhiên là biết, tôi trả lời. An-đơ-rây Jin-xốp là một nhà nghiên cứu thủy lộ Bắc cực, một trong những người đã tham gia vào đoàn thám hiểm nổi tiếng Tôn trên chiếc Da-ri-a…
- Hãy bắt đầu từ đầu, Bê-rê-xkin ngắt lời tôi. Mình đã được nghe nói về Tôn, biết ông ta đã chết, nhưng chưa bao giờ mình để ý đến các chi tiết… Nhưng chính các chi tiết lại rất cần cho chúng ta.
- Đúng, không có các chi tiết, chúng ta không đi đến đâu cả. Song mình vừa chợt nhớ đến một trường hợp lạ lùng. Nhưng hãy nói trước hết về đoàn thám hiểm Da-ra-a. Nó đã được Viện Hàn lâm khoa học tổ chức để nghiên cứu các đảo của miền Tân Xi-bê-ri, và để tìm “Miền đất Xan-ni-cốp”. Bây giờ, cậu sắp hỏi mình “Miền đất Xan-ni-cốp” là gì chứ gì?
- Không phải vậy, Bê-rê-xkin nói, hơi giận dỗi. Người ta đã viết hàng trăm lần đó là một mảnh đất mà nhà đi săn Xin-ni-cốp đã trông thấy vào thế kỷ trước, khi ông ta đang ở trên đảo Cô-ten-ny… Người ta đã tìm kiếm nó nhiều lần mà không thấy.
- Quả là người ta không tìm thấy nó. Nhưng không phải chỉ một mình Xan-ni-cốp thấy nó. Người Ê-ven là Đơ-giéc-ghe-li và cả Tôn nữa đã nhiều lần thấy nó. Năm 1886, trong khi nghiên cứu các đảo của miền Tân Xi-bê-ri cùng với nhà thám hiểm Bắc cực Bun-giơ, cũng như Xan-ni-cốp, ông đã trông thấy mảnh đất ở phía Bắc đảo Cô-ten-ny… Tôi tin chắc “Miền đất Xan-ni-cốp” có thật đến nỗi ông đã thử tiên đoán cấu trúc địa chất của nó theo hình dạng các trái vúi. Việc khám phá mảnh đất này đã trờ thành mục đích chính của cuộc đời ông. Chính vậy năm 1900 đoàn thám hiểm Da-ri-a đã khởi hành đi về phía các đảo của miền Tân Xi-bê-ri. Hai năm sau, Tôn đã chết cùng với nhà thiên văn học Dê-béc, hai người đi săn, người Ê-ven Đia-cô-nốp và người I-a-cút Gô-rô-khốp, trong khi họ đang làm việc trên đảo Ben-nét thuộc quần đảo Lông. Tàu Da-ri-a phải đến tìm họ ở đấy. Sau hai lần cố vạch một con đường đi đến chỗ họ mà không được, con tài đành phải trở về cửa sông Lê-na. Năm ấy, băng rất xấu. Tuy nhiên người ta biết rằng Jin-xốp đã yêu cầu thử đến đảo Ben-nét lần nữa, nhưng thuyền trưởng tày Da-ri-a là Ma-tit-xen không muốn mạo hiểm thêm. Bây giờ khó có thể xét xem ai đã có lý. Dù sao đi chăng nữa. việc thoát lui của chiếc Da-ri-a đã làm cho Tôn và các đồng chí của ông bị chết… Sau này, Jin-cốp đã viết rằng cái chết của Tôn đã gây cho ông một cảm giác rất nặng nề, và ông đã quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ dang dở do kết thúc thảm thương của nhà thám hiểm… Đó là lý do tổ chức đoàn thám hiểm Jin-xốp. Nó có nhiệm vụ tìm và mô tả “Miền đất Xan-ni-cốp”, và sau đó đến Thái Bình Dương qua eo Bê-rinh… Đoàn thám hiểm đã khởi hành từ Iếc-cút ngay trước khi xảy ra đại chiến thế giới lần thứ nhất…
- Và nó đã biến mất không để lại dấu vết nào, Bê-rê-xkin kết thúc.
- Không một dấu vét, cho đến nay, giả thuyết cho rằng đoàn thám hiểm đã chết trong băng giá của Bắc Băng Dương hay trên bờ biển hoang vắng được coi là hợp lý nhất. Chẳng hạn đoàn thám hiểm Bơ-rút-xi-lốp đi trên tàu Xanh An-nơ, Bút-xa-nốp trên tàu Héc-quyn, và một nhóm của đoàn thám hiểm Lông sau khi tàu Gian-nét bị đắm. Nhưng nếu Dan-xơ-man đã sống sót và ở Cơ-ra-xnô-đa năm 1919… Ông ta không thể thoát được một mình, trường hợp này hầu như bị loại trừ…
Vợ tôi rót cho chúng tôi chè rất đặc, gần như đen, và để khỏi làm vướng chúng tôi, đã ngồi tách xa trên đi-văng. Chúng tôi vào uống chè, vừa tiếp tục nói chuyện:
- Tôi không nghĩ rằng – tôi tiếp tục- đoàn thám hiểm này đã có những khám phá lớn. Những có một điều chắc chắn, đó là một hành động dũng cảm. Nếu những con người ấy đã chết trong một cuộc đấu tranh không cân sức với thiên nhiên, và có thể không phải chỉ chống thiên nhiên, thì bổn phận của chúng ta là phải tái diễn lại chiến công của họ và làm cho mọi người biết!
- Sao không nghiên cứu các quyển vở có phải đơn giản hơn không? Có lẽ chiếc máy chiếu thời gian sẽ không cần dùng đến, vợ tôi nói, vẻ châm chọc. Từ khi chúng tôi dùng chiếc máy thử bức thư của vợ tôi, cô ấy cảm thấy ngại chiếc máy ấy, nếu không muốn nói là sợ.
Dù sao, chúng tôi cũng theo lời khuyên khôn ngoan ấy, và bắt đầu xem 2 quyển vờ từng trang một, hết sức cẩn thận. Quả thật chúng rất nát, có nhẽ cũng chính vì thế các nhân viên Viện bảo tàng địa phương ở Cơ-ra-xnô-đa không khám phá được gì. Có hai giải pháp: nhờ các chuyên gia tìm hiểu cẩn thận tất cả những gì còn có thể hiểu được, hay trông cậy vào máy chiếu thời gian… Tất nhiên, chúng tôi không có ý nghĩ bỏ hẳn giải pháp thứ nhất, nhưng chúng tôi thích cách thứ hai hơn, vì nó vừa có thể giúp chúng tôi tranh thủ thời gian, vừa để chúng tôi thử lại máy. Chúng tôi quyết định dùng trang cuối của cuốn vở thứ hai. Chữ viết rất khó đọc, hình như của một người đã bị yếu sức, có thể đang hấp hối nhưng các trang hầu như không bị tác hại gì. Các dòng chữ thường bị ngắt quãng dường như chứng tỏ rằng Dan-xơ-man đã dừng lại để lấy sức trước khi tiếp tục… Chúng tôi có cảm giác rằng, trong khi viết các trang này Dan-xơ-man với sức khỏe đang kiệt, đã cố gắng ghi lại điều đó rất quan trọng mà ông ta tự cảm thấy không có quyền mang nó sang thế giới bên kia. Chúng tôi tin rằng việc tìm hiểu các trang cuối cùng này sẽ cho chúng tôi biết điều chủ yếu, như là đoàn thám hiểm đã trở nên như thế nào và liệu các kết quả nghiên cứu của nó có còn giữ được hay không…
Khi chúng tôi sắp đi đến học việc của Bê-rê-xkin thì tôi chợt nhớ ra rằng trong một cuốn sách của tôi, có danh sách các đoàn viên của đoàn thám hiểm Jin-xốp. Tôi nhanh chóng tìm thấy nó, và đọc thấy:
1. Jin-xốp, trường đoàn, nhà thủy lộ học
2. Chéc-kê-chin, thuyển trưởng, trung úy
3. Ma-du-rin, cộng tác viên khoa học, nhà thiên văn học
4. Kô-nô-plép, cộng tác viên khoa học, nhà dân tộc và động vật học
5. Đe-xni-xki, thầy thuốc
6. Gô-vô-rốp, phụ tá của thuyền trưởng
- Thật lạ lùng! Bê-rê-xkin nói, không có Dan-xơ-man.
Anh nhìn tôi, chắc nghĩ rằng tôi sắp giải thích tất cả cho anh. Nhưng chính tôi cũng chẳng biết gì cả.
- Không cần suy nghĩ nhiều cho mệt, tôi nói: Máy chiếu thời gian sẽ giúp chúng ta. Chúng ta hãy đến học viện.
Chiếc máy nằm trong phòng làm việc của Bê-rê-xkin. Điều chỉnh nó chỉ mất vài phút ( bao giờ Bê-rê-xkin cũng làm việc này). Tôi gồi trong một ghế bành trước màn ảnh.
Trong giây lát, khoảng thời gian mà chúng tôi cảm thấy dài vô cùng, màn ảnh vẫn tối. Cuối cùng, nó sáng lên và khi hình ảnh xuất hiện, chúng tôi thấy một người năm trên ổ rơm; đắp một chiếc áo khoác kiểu lính màu xam xám, hẳn đang lăn lộn và đôi môi mấp máy, rõ ràng hắn bị sốt cao và trong cơn mê sảng; tay hắn cầm máy chiếu thời gian đã giúp tái tạo lại cảnh này, là cảnh đã xảy ra từ thời nội chiến. “ Bệnh sốt thương hàn”, tôi nghĩ, và tôi đang định nói thì một giọng ốm đang nói, điều ảo tưởng hoàn toàn và bất ngờ, đến nỗi tôi giật mình. Nhưng đó là chiếc máy chiếu thời gian đang đọc các dòng chữ:…” Không nên bỏ qua…Đau khổ…Lương tâm. Mọi người phải biết…chết…cứu tinh…” giọng nói oang oang của chiếc máy cất lên một cách lạnh lùng. Giọng nói tiếp tục:” Lương tâm… lương tâm…Đúng hay sao?... Ai sẽ nói? Không thế tiếp tục sống thế này được… Đũng hay sai? Dù sao hắn đã cứu tất cả chúng ta…” Trong khí máy nói những lời này, trong đó người ta đoán ra một tấn bi kịch, một nỗi đau đớn thầm lặng, một tâm hồn bị dằn vặt, trên màn ảnh, người đó mở vở ra và bằng bàn tay vụng về viết lên đò vài chữ; rồi rất khó nhọc hắn giấu quyển vở vào trong ngực và lại ngã xuống bất động: mọi vấn đề trên thế gian đối với hăn đều đã được giải quyết. Chiếc máy nhắc lại:” Đũng hay sai ?” Bỗng nhiễn, sau một lúc im lặng ngắn ngủi, nó đọc tên “Chéc-kê-chin”. Hình ảnh biến đi và máy phóng thanh tắt ngấm, máu chiếu thời gian không thể nói gì hơn nữa.
Bê-rê-xkin và tôi trầm ngâm một lúc, lặng lẽ trong bóng tôi. Mắt tôi còn lưu lại hình ảnh của người đó, với khuôn mặt gầy gầy, mệt mỏi vì bệnh tật, bị nỗi nghi ngờ cấu xé. Tôi vẫn trông thấy chòm râu xám, máu tóc vốn đen bị rối bù… Tôi tin rằng chúng tôi vừa trông thấy Dan-xơ-man. Có lẽ chân dung không hoàn toàn đúng thế chăng? Chúng tôi chỉ có thể cung cấp tên người ấy cho máy chiếu thời gian thôi. Nó cũng có thể “ tự tạo ra một ý niệm” về con người theo chữ viết và văn bản của người ấy. Dù sao chăng nữa thì bức chân dung mà nó cung cấp cho chúng tôi, theo một vài dữ kiện ấy ( và chắc là sau khi đã chọn trong số hàng nghìn kiểu có thế có) đúng như chúng tôi đã “nhận ra” Dan –xơ-man…
Lúc ấy, điều làm chúng tôi quan tâm nhất, không phải là thành công đầu tiên của máy chiếu thời gian nữa, cũng không phải bản thân Dan-xơ-man, mà chính là điều bí mật vào lúc hấp hối Dan-xơ-man đã muốn vạch ra cho mọi người; tuy nhiên, mệt nhoài sau lúc thần kinh vừa bị căng thẳn, chúng tôi hiểu rằng bí mật ấy không thể khám phá trong chốc lát như vậy, và câu chuyện của chúng tôi xoay quanh những chi tiieets, không đụng đến những điểm chính…
- Năm 1919, Cơ-ra-xnô-đã thuộc về ai nhỉ? Về Đê-ni-kin à?... Lúc ấy Dan-xơ-man làm gì ở đấy?
Tôi nhún vai.
- Có thể làm gì cũng được. Ông ta có thể sống ở đấy, đánh nhau ở đấy, hay có thể ẩn náu ở đấy nữa…
- Chúng tôi không biết tí gì về ông ta… Và nếu như ông ta còn sống? Cũng có thể ông ta đã mất các quyển vở của mình
- Dan-xơ-man đã chết. Tiếc thay, điều ấy là dứt khoát. Nếu không, ông ta đã lên tiếng về đoàn thám hiểm
Bê-rê-xkin đồng ý như vậy. Chúng tôi rời học viện và ra về theo các phố yên tĩnh. Mát-xcơ-va đang ngủ.
- Và chiếc máy chiếu thời gian, nó chạy tốt đấy chứ? Bê-rê-xkin nói vẻ tự hào.
- Tốt lắm. Tôi xác nhận.
Đúng lúc chúng tôi định chia tay, Bê-rê-xkin hỏi:
- Tại soa máy chỉ nói đến Chéc-kê-chin? Có phải chỉ vì ông ta mà đã xảy ra toàn bộ câu chuyện này không?
- Chúng ta sẽ cố gắng làm sáng tỏ điều đó ngày mai, tôi trả lời. Rõ ràng đoàn thám hiểm này bị mất tích là câu chuyện phức tạp hơn mình tưởng lúc ban đầu. Dù sao, những trang cuối của cuốn nhật ký của Dan-xơ-man đã không làm sáng tỏ điều gì…
- Trái lại.
- Ngày mai, phải tiếp tục tìm hiểu các quyển vở từ đầu. Từ trang đầu tiên. Chúng ta đã hơi vội vàng. Phải theo mỗi sự việc qua từng mắt xích một, không bỏ qua mắt xích nào…
Kể lại những gì các quyển vở của Dan-xơ-man đã cho chúng ta biết, những giác ngộ mới chờ đợi chúng ta và một vài điểm có tính chất lịch sử về việc tham gia của các tù chính trị bị đi đày vào công cuộc thám hiểm miền Xi-bê-ri.
Việc tìm hiểu các quyển vở của Dan-xơ-man tiến triển tương đối tốt. Số phiếu chép lại các dòng đã đọc và được sửa lại không ngừng tăng lên. Chúng tôi đã biết Dan-xơ-man tham gia vào đoàn thám hiểm như thế nào, số phận bác sĩ Đe-xni-xki ra sao và đoàn thám hiểm đã làm gì ở I-a-cút.
Chẳng bao lâu việc ấy đã xong. Chúng tôi đã đọc tất cả những gì còn có thể đọc được. Thật không may, nhiều trang vở đã bị mất, một số trang nát đến nỗi ngay cả khi nhờ đến các nhà chuyên môn về hình pháp, chúng tôi cũng chỉ có thể đọc được một vài chữ lác đác, và cuối cùng, chúng tôi rất tiếc, nhiều trang khác chỉ chứa đựng những suy nghĩ của Dan-xơ-man, không có liên quan trực tiếp đến đoàn thám hiểm. Chắc chắn bản than những trang này cũng không kém phần thích thú, nhưng chúng không làm cho công việc của chúng tôi dễ dàng them, ngoài việc giúp chúng tôi mường tượng rõ hơn tính cách của tác giả của chúng. Rõ rang Dan-xơ-man là một đại diện điển hình của giới trí thức cũ, tự do, thích tự xét mình, thích suy nghĩ, và đánh giá rất cao các khái niệm về bổn phận, về lương tâm, về Tổ quốc. Từ các ghi chép của mình, ông đưa ra tất cả những vấn đề đạo đức, hơn nữa là mục đích cuối cùng ông tự đặt ra, cũng khuyến khích ông. Ông muốn kể lại cho các bạn đọc tình cờ của ông điều gì đó, mà theo ý ông, rất bí mật, kinh khủng và ông chuẩn bị cho họ điều ấy. Tuy nhiên, ông không kể hết nửa câu chuyện: các ghi chép của ông dừng lại ở đoạn đoàn thám hiểm đến cửa song Lê-na. Một phần khác, phần mà chúng tôi đã tìm hiểu qua máy chiếu thời gian, đã được viết trong khi ông bị ốm, thêm vào đó, còn một tờ giấy rời đã được cặp thêm vào quyển vở thứ nhất, khác hẳn các tớ khác về mẫu giấy cũng như về ý nghĩa và cách hành văn của các điều viết trong đó, chỉ có chữ viết vẫn là chứ của Dan-xơ-man…
Chúng tôi cất các quyển vở đi và quyết định sơ kết bước đầu. Từ nay đây là những điều chúng tôi biết.
Jin-xốp và các đoàn viên khác của đoàn thám hiểm đã đến I-a-cút vào mùa thu năm 1914. Ở cái xớ heo hút này người ta chỉ nghe nói đến chiến tranh. Tuy nhiên, các nhà cầm quyền địa phương coi đoán thám hiểm của Jin-xốp như đến quấy rầy trong lúc này, họ đã tiếp đoàn một cách lạnh lung, và nếu như họ không gây khó dễ cho đoàn, thì họ cũng không giúp đỡ gì đoàn cả. Đến nối rằng Jin-xốp và Chéc-ke-chin phải cố gắng lắm mới đóng được một thuyền nhỏ hai buồm và có được các trang thiết bị cũng như thức ăn cần thiết. Tuy nhiên họ cũng đạt được, nhất là, nếu như ta tin lời Dan-xơ-man, nhờ ở nghị lực của Chéc-ke-chin. Đối với người thuyền trưởng hình như ông có một mối cảm tình đặc biệt và ông luôn luôn đặt lên hàng đầu. Những người tù đày vì chính trị, hồi ấy rất đông ở I-a-cút, đã giúp đỡ Jin-xốp và Chéc-ke-chin rất nhiều để chuẩn bị cho đoàn thám hiểm. Sauk hi biết mục đích của đoàn, họ tự tìm đến tìm việc ở công trường đóng tàu, và sau này, hai người trong bọn họ, Rô-da-nốp và Dan-xơ-man, đã tham gia đoàn.
Jin-xốp cũng biết rõ là các tù nhân chính trị đã từng tham gia đoàn thám hiểm của Tôn. Năm 1902, khi bác sĩ Oan-te chết, ông ta đã được Ka-tin I-a-xép, một người chính trị ở I-a-cút thay thế, và trong đoàn thám hiểm phụ, do Vô-lô-xô-vit chỉ huy, cũng có hau tù nhân chính trị: kỹ sư Bơ-ru-xnép và sinh viên Xi-ôn-ghin-xki. Họ do dự khi chọn các con người thông minh và trung thực ấy để bổ sung cho đoàn thám hiểm của mình.
Trong các ghi chép của mình, Dan-xơ-man đã dành rất nhiều chỗ nói về ông và Rô-da-nốp. Do đó chúng tôi đã biết rằng Dan-xơ-man là một sinh viên y khoa, bị đày đến I-a-cút vì đã tham gia vào các cuộc biểu tình của sinh viên, và ông đã sống liên tục nhiều năm ở thành phố này. Đọc tài liệu của ông, chúng tôi đi đến kết luận rằng ông không có lập trường chính trị rõ rang, nhưng là một người trung thực, ông căm ghét chế độ hiện hành lúc ấy ở nước Nga Sa hoàng, mơ tưởng đến tự do, bình đằng và tin ở một tương lai đẹp. Xéc-gây Ro-da-nốp thuộc một loại người khác. Theo Dan-xơ-man, Rô-da-nôp là đảng viên của Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga, do là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, một người Bôn-sê-vich, một người có lập trường rõ rang và xác định. Trong các ghi chép của mình, Dan-xơ-man không hề tranh luận trực tiếp với Rô-da-nốp bao giờ, nhưng ông luôn nhấn mạnh tính kiên định, tính cách cứng rắn của Rô-da-nốp. Lúc đầu, chúng tôi không hiểu được tại sao, nhưng sau đó chúng tôi đi đến kết luận là, trong số tất cả các đoàn viên của đoàn, những người làm Dan-xơ-man chú ý đến nhiều nhất là Chéc-kê-chin và Rô-da-nốp mà ông thường đem ra so sánh. Đúng là chúng tôi có thể lầm, vì các ghi chép của Dan-xơ-man dừng lại quá sớm. Rô-da-nốp bị cảnh sát theo dõi rất nghiêm ngặt, lao động với mọi người trong việc đóng con thuyền mang tên Da-ri-a – 2, để tưởng nhớ đến Tôn. Người ta không rõ tại sao Dan-xơ-man không nói Rô-da-nốp đã được nhận vào đoàn như thế nào, Bản than ông đã được chính Jin-xốp mời tham gia đoàn, thay Đe-xni-xki bị ốm nặng và ông đã vui vẻ nhận lời.
Đoàn thám hiểm rời I-a-cút vào mùa xuân năm 1915, ngay sau khi tuyết tan. Ở cửa song Lê-na, đoàn đã đưa lên thuyền nhiều chó để kéo các xe trượt và tiếp nhận những người đi săn I-a-cút là những người đã từng đến đảo của miền Tân Xi-bê-ru. Con tàu Da-ri-a – 2 sau đó đã đi vào biển Láp-tép…
Chúng tôi không còn biết gì nữa.
… Chúng tôi lại giam mình trong phòng làm việc cảu Bê-rê-xkin, và chiếc máy chiếu thời gian lại phải giải một bài toán mới. Trong khi chờ đợi những cảnh xúc động, chúng tôi chăm chú nhìn màn ảnh, nhưng… máy đã từ chối không làm rõ nhưng ghi chép mà chúng tôi đã đưa vào. Từ chối, không hoàn toàn đúng như vây, “cửa sổ của quá khứ” hé mở đôi chút, nhưng không như chúng tôi nghĩ. Những ghi chép đưa vào máy nói về các sự kiện khác nhau, nhưng trên màn ảnh chỉ xuất hiện một người có xương bả vai nhô ra, đang ngồi viết. Mặc dù Bê-rê-xkin đã đưa nhiều tờ mới vào máy và thay đổi cách điều khiển, kết quả vẫn thế. Buổi chiều, mệt mỏi sau một ngày cố gắng vô ích, chúng tôi đành bỏ.
- Chiếc máy cà khổ này chưa có giá trị gì, Bê-rê-xkin nói, giọng mệt mỏi và gieo mình xuống một chiếc ghế bành.
Các quyển vưor đúng là của Dan-xơ-man, và chính Dan-xơ-man đã tham gia đoàn thám hiểm. Điều ấy, tôi không nghi ngờ gì. Nhưng các ghi chép này không phải Cơ-ra-xnô-đa, Dan-xơ-man mới viết chúng bằng cách nhờ lại các sự kiện đã xảy ra.
Người ta thảo luận chương trình hoạt động tương lai, máy chiếu thời gian đã đáp ứng vượt mức niềm hy vọng của chúng tôi và chúng tối được chứng kiến các sự kiện bất ngờ, bắt buộc chúng tôi phải hành động nhanh và kiên quyết. Bạn đọc sẽ được nghe nói đến Thung lũng Bốn cây Thập ác lần đầu tiên ở đây.
Liền hai ngày, chúng tôi làm các việc khác không có liên quan gì đến đoàn thám hiểm Jin-xốp. Chúng tôi muốn nghỉ ngơi, và nhất là muốn quên đi một chút về câu chuyện ấy. Về phần tôi, tôi không làm sao thế được. Sáng sớm ngày thứ ba, Bê-rê-xkin đến nhà tôi vẻ mặt ủ dột. Bản than anh, anh cũng không ngừng nghĩ đến đoàn thám hiểm.
- Chúng ta làm gì? Anh hỏi ngay. Dù sao chúng ta cũng không thể khoanh tay ngồi yên được.
- Tất nhiên là không! Điều ấy tôi cũng hiểu như bạn tôi. – Nhưng làm gì?... Có thể chúng ta nhờ đến phòng lưu trữ?
- Mình cũng đã nghĩ đến điều ấy. Có lẽ một tài liệu nào đó được lưu trữ ở đây chăng?
Hỡi ôi, chúng tôi biết rõ rằng không hề có một hy vọng gì , rằng. như một người chết đuối, chúng tôi bám lấy một cọng rơm để tìm cách làm yên tâm lẫn nhau.
- Dù sao cũng hãy thử xem, tôi nói, gạt bỏ mọi ngh ngờ. Chúng ta cũng chẳng mất gì…
Chúng tôi trở lại điểm xuất phát.
- Hình như chúng ta có một cái máy chiếu thời gian, tôi nhớ lại một cách mỉa mai.
- Và một cái máy như thế nào! Chúng ta có thể nhìn đến lúc nào tùy ý chiếc lưng còm của Dan-xơ-man, Bê-rê-xkin đáp lại cùng một giọng.
Với danh nghĩa chủ tịch đoàn của Viện Hàn lâm, chúng tôi gửi một yêu cầu tới mọi phòng lưu trữ, và chúng tôi trở lại với chiếc máy chiếu thời gian. Bê-rê-xkin đề nghị, thật vậy, đi máy bay đến I-a-cút, nhưng tôi gạt đi: tốt nhất là chờ đợi câu trả lời của các phòng lưu trữ. Không chắc có một kết quả mảy may nào, chúng tôi quyết định đưa vào máy tất cả các tờ của các quyển vở, cả những tờ chúng tôi đã đọc được cũng như các tờ khác. Khi chúng tôi đang giở cuốn thứ nhất, chúng tôi chợt chú ý đến tớ giấy cặp thêm vào khác hẳn các tờ khác cả về mẫu giấy cũng như những ghi chép trên đó. Trước đây chúng tôi đã cố đọc nó, nhưng chúng tôi chỉ nhận ra được những chữ số tương tự như các tọa độ: 69°21’03’’ và 177 º13’17’’. Nếu quả thật đấy là các tọa độ, thì vị trí ấy ở xứ Chu-cốt-ca. đâu đó có ở miền thượng lưu sông Bi-ê-lai-a, chỉ lưu sông A-na-đia… Có thể Dan-xơ-man đã ở đấy, nếu chiếc Da-ri-a -2 đã bị đắm ở bờ biển Chu-cốt-ca. Nhưng tại sao ông ta đã ghi các tọa độ của thung lũng ấy? Và dòng chữ ghi sau đây trên trang giấy có thể có ý nghĩa gì:” Th.l. bố.(tiếp theo là các toạn độ), pz slt pssbl.blvrs, Jrnl cch: pvrn, no, 140, rvre, frt, ppl, rnvrs, rcns!!!”. Rõ rang là Dan-xơ-man đã đánh số một điều gì đó rất quan trọng đối với ông, nhưng chúng tôi không sao hiểu được; còn về chiếc máy chiếu thời gian, chúng tôi không quá dựa vào nó: chúng tôi tưởng như thấy lại được cái lưng của Dan-xơ-man khi đang ngồi viết. Chính vì trang ấy ghi khác các trang khác, nên lẽ ra phải đưa nó vào máy để thử trước tiên mới phải.
Đó chính là điều Bê-rê-xkin đề nghị. Để bắt đầy chúng tôi yêu cầu máy làm sáng tỏ xem trang giấy đã được xé ra như thế nào. Chân dung của Dan-xơ-man mà máy đã ghi lại trong “trí nhớ” hiện ngay ra trên màn ảnh. Nhưng chúng tôi rất ngạc nhiên là phải chờ đợi câu trả lời. Cuối cùng, những bàn tay gầy guộc với các móng nham nhờ và cáu ghét hiện ra trên màn ảnh; chúng mở vở ra, rồi xé vội một trang đã đầy những ký hiệu khó hiển, gấp nó lại và giấu đi: chúng tôi trông thấy Dan-xơ-man nhét tờ giấy vào túi trong của áo khoác. Màn ảnh tắt.
- Có ba chi tiết nhỏ đáng chú ý, tôi nói với Bê-rê-xkin: các móng tay nham nhở, các bàn tay cáu đất, các động tác vội vã. Rõ rang là Dan-xơ-man giấu giếm điều gì, và sợ người khác trông thấy. Các móng tay gắm nham nhở, nếu không phải là một thói quen cũ, chỉ chứng tỏ sự bối rối.
- Đấy không phải là một thói quen, Bê-rê-xkin nhận xét. Đây là chứng cớ…
Anh lại cắm mạch cho máy, và chúng tôi lại thấy Dan-xơ-man hấp hối trên màn ảnh: Các bàn tay của ông, gầy guộc, nhưng sạch sẽ, móng tay chải chuốt, đang nắm quyển vở…
- Hay trao cho máy thời gian một nhiệm vụ mới, Bê-rê-xkin đề nghị, có thể nó đọc được điều đã viết ở trên ấy.
Nói là làm: câu trả lời có ngay lập tức. Chúng tôi thấy xuất hiện trên màn ảnh một người vai rộng, khỏe mạnh, dáng dấp nhà binh, hình ảnh thiếu mọi chi tiết vụn vặt cá nhân có thể khắc trong trí nhớ, nhưng ít nhất chúng tôi cũng có cảm giác đấy là một con người. Khó tính, cứng rắn, có thể độc ác nữa; người ấy đang ngồi viết và chúng tôi nhận thấy rằng quyển vở của hắn going hệt cuốn vở của Dan-xơ-man đã giấu đi. Những lời nói lạ lung văng vẳng trong im lặng :” Mục đích xác minh cho phương tiện. Quyết định đã dứt khoát, chỉ còn việc áp dụng nữa thôi. Và nó sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng tất cả sẽ không theo tôi…”
Bê-rê-xkin giơ tay ngắt mạch máy chiếu thời gian.
- Thật khó hiểu, anh nói. Phải bắt đầu lại.
Anh lập lại chương trình, và chúng tôi thấy tái hiện trên màn ảnh vẫn con người vai rộng và khỏe mạnh, với khuôn mặc độc ác. Giọng nói sang sảng của máy nhắc lại:” Quyết định đã dứt khoát…”
- Cái gì vậy, Bê-rê-xkin ngạc nhiên. Tôi chẳng hiểu gì cả…
Giọng nói tiếp tục:”….Tất cả sẽ không theo tôi… không nên xã giao…”
Bỗng hình ảnh mờ đi, và giọng nói lắp bắp những tiếng không rõ rang.
Bê-rê-xkin tắt máy.
- Không ổn rồi, anh nói. Rõ rang có cái gì đó không ổn… Thế nhưng không có ai mó tay vào máy cả! Nó phải chạy bình thường chứ.
Bồn chồn, Bê-rê-xkin muốn thử lại chương trình một lần nữa, nhưng tôi bảo anh rứt tờ giấy ra khỏi máy.
- Để làm gì? Anh hỏi, không giấu vẻ bực mình. Chúng ta đã nghiên cứu nó đủ mọi kiểu rồi!
Tôi cầm lấy tờ giấy và chăm chú xem xét, dưới con mắt tức giận của Bê-rê-xkin. Tôi sắp sửa trả lại anh thì một ý nghĩ bất ngờ đến với tôi.
- Này, tôi nói. Máy chiếu thời gian nghiên cứu tờ giấy từ trên xuống dưới, phải không?
- Thế thì sao?
- Cậu nhìn xem: các dòng chữ do tay Dan-xơ-man viết được bố trí gần như từ giữa trang…
- Nhưng ở phía trên không có gì cả sao?
- Có chư, chúng mình không trông thấy, nhưng chính chiếc máy nó đã thấy…
- Hay là nó được viết bằng mực hóa học?
- Mình không biết, nhưng dù sao, cũng có cái gì đấy. Hãy thử lập chương trình cho rõ rang, sao cho bây giờ máy không phân tích những dòng chữ của Dan-xơ-man nữa, mà tập trung vào những dòng không trông thấy.
- Có thể làm được, nhưng mình không biết sẽ được cái gì.
- Cứ thử xem.
- Cậu nói rằng hình ảnh và tiếng nói không rõ là do có sự chồng lên nhau ư?
ANh ta loay hoay mãi bên chiếc máy chiều thời gian, trong khi tôi theo dõi các thủ thuật của anh ta một cách sốt ruột: nếu chiếc máy không đánh lừa chúng tôi thì chúng tôi sắp khám phá ra một điều bí mật…
Bê-rê-xkin ngồi xuống cạnh tôi, và lần thứ ba người có khuôn mặt độc ác xuất hiện trên màn ảnh và các lời nói cũ vang lên. Khi giọng nói cất lên:” Không nên xã giao…”, tôi vô tình nắm lấy bàn tay Bê-rê-xkin trong lúc giọng nói tiếp tục:” Kẻ nào chống lại sẽ bị chết. Một số đã quên rằng chúng thoát nạn là nhờ ai. Phải nhắc lại cho chúng biết. Gia như tôi có thể kết liễu tên… không bao giờ tôi tha thứ cho Jin-xốp đã tuyển dụng nó…”.
Giọng nói im bặt và hình ảnh biến mất.
Bê-rê-xkin và tôi, chúng tôi nhìn nhau thỏa mãn: chiếc máy chiều thời gian đã chịu đựng thành công thử thách mới này.
- Tất cả những cái này đều rất tốt. Véc-bi-nin ạ, nhưng mình vẫn không hiểu tên này từ đâu ra? Bê-rê-xkin nói. Nhưng chúng ta chớ nên tìm cách đoán mò. Trước tiên nên để cho chiếc máy làm sáng tỏ những dòng chữ của Dan-xơ-man thì hơn.
Vài phút sau, những điều mà chúng tôi trông thấy càng làm chúng tôi ngạc nhiên hơn. Giọng nói vang lên sang sảng một cách rõ rang và lãnh đạm:” Thung lũng Bốn cây Thập ác”. Chúng tôi hy vọng trông thấy thung lũng ấy trên màn ảnh, nhưng có lẽ điều ấy vượt quá tầm của máy: một hình ảnh mờ nhạt thoáng qua trên màn ảnh và chúng tôi lại thấy Dan-xơ-man xuất hiện. ANh tag hi trong sổ điều mà chúng tôi nhận biết ngay:” Không có lối thoát nào nữa, tôi choáng váng vì điều đã xảy ra, tôi đã giấu cuốn nhật ký…”. Rồi Dan-xơ-man bắt đầu đi mãi theo một hướng. Duy chỉ có điều chúng tôi không thể hiểu là anh ta từ đâu đến và anh đang đi đâu. Chiếc máy chiếu thời gian vẫn im lặng, trong khi trên màn ảnh những làn song xanh kỳ lạ diễu qua. Chúng tôi có cảm giác là bộ “óc” điện tử của máy đã gặp một bài toán không giải được. Cuối cùng, giọng nói chậm rãi cất lên như luyến tiếc, từ “pô-vác-nhi-a”.
- Đó là tiêng chỉ những căn nhà gỗ ở phương Bắc! Tôi reo lên.
Nhưng rõ rang là chiếc máy chiếu thời gian không biết từ ấy, vì nó không cho hình ảnh một căn nhà nào cả.
Bê-rê-xkin tắt máy và lập chương trình nói rõ từ “pô-vác-nhi-a” nghĩa là gì. Tiếp đó, chung tôi thấy xuất hiện trên màn ảnh một căn nhà nhỏ, mái bằng, và Dan-xơ-man từ đó đi ra. “Tây – Bắc”, máy chiếu thời gian nói.” Một trăm bốn mươi”. Dan-xơ-man tiếp tục đi và chúng tôi hiểu rằng 140 là số bước anh ta phải đi. Rồi giọng nói sang sảng chi ra “ Một con sông, một khu rừng”. Lúc ấy Dan-xơ-man dừng lại, ghi vào quyển vở mở sẵn. Hình ảnh không rõ rang về một con sông, rồi một khu rừng xuất hiện trên màn ảnh. Sau giây lát yên lặng, giọng nói cất lên:” Một cây phong đổ, những rễ cây”, và chúng tôi trông thấy một cây phong khổng lồ bị bão nhổ bật gốc.
- Thật vô lý, Bê-rê-xkin nói giọng khẳng định. Sự việc diễn ra ở bên kia vùng cực, ở đài nguyện, và ở đây lại là rừng, là câu phong khổng lồ! Đến phải lập lại chương trình mất.
- Không, không, tôi nhận xét. Máy chiếu thời gian đã dựng lại toàn cảnh với một độ chính xác kỳ lạ. Dan-xơ-man đã giấu cuốn nhật ký ngăn cách căn nhà 140 bước về phía Tây Bắc trong rừng, dưới đám rễ một cây bị gió nhổ lên!
- Nhưng không hề có rừng, cũng như cây… ở vùng ấy! Dù sao đó chính là miền Chu-cốt-ca!
- Chắc là có rừng và cây, các nhà địa lý đều biết cả. Ở thung lũng của sông A-na-đia và vài chi lưu của nó vẫn tồn tại cái mà người ta gọi là “đảo rừng”. Phía Nam và phía Bắc lưu vực sông A-na-đia là đài nguyên, nhưng trong thung lũng thật sự có những rừng phong, rừng liễu, rừng thông phương Bắc và rừng bạch dương. Đó chính là chứng cớ cho thấy máy chiếu thời gian đã hiểu rất kỹ điều được ghi chép và đã minh họa đúng.
- Điều đó thật như thần thoại, Bê-rê-xkin nói vẻ suy nghĩ. Cậu biết không, khi mình nhắm mắt lại, đôi khi mình tưởng như không có chiếc máy thời gian, tưởng như tất cả mọi cái đó chúng mình đã đọc hay nghe nói đến ở đâu đó, hay tự chúng mình đã đặt ra… Bây giờ đã đến lúc phải hành động. Đa-ni-lép-xki đã hứa giúp chúng ta. Chúng ta sẽ yêu cầu ông ta cho đi máy bay đến Chu-cốt-ca. Đồng ý chứ?
- Tất nhiên.
Tuy nhiên, trước khi đi Chu-côt-ca, chúng tôi đưa trang vở cho các nhà chuyên môn xem. Sauk hi phân tích kỹ, họ đều xác nhận là, ngoài các văn bản mà ai nấy đều thấy rõ, còn có các dấu vết rất mờ về một chữ viết khác được in trên giấy: có ai đó đã viết lên trang trước và văn bản đã hằn lại trên trang mà chúng tôi có. Chúng tôi không khám phá ra các dấu vết ấy, nhưng cặp “mắt” điện tử của máy chiếu thời gian đã thấy chúng và đọc được. Các nhà chuyên môn dựng lại từng phần điều ghi chép, và chúng có thể thấy rằng đây là một chữ viết rắn rỏi, hoàn toàn khác với chữ viết của Dan-xơ-man… Ngoài ra, ngoài dấu tay của chúng tôi, trên trang giấy còn có dấu tay của hai người khác nữa.