Rồi sẽ trở về sống đầm ấm dưới mái nhà này những người con trai, con gái, con dâu, con rể của bà. ấy là ước vọng, là niềm tin của bà. ấy là kết thúc của câu chuyện cổ tích, là đinh ninh ghi tạc của bao kẻ còn đang trong khốn quẫn, cách trở.
Nhưng, những chàng Sọ Dừa, sau bao năm đằng đẵng cách xa, đến năm nào, tháng nào thì sẽ trở về đoàn tụ sum vầy ?
Ngày về không hẹn đã trở nên nỗi phấp phỏng thường xuyên đập nhịp. Thi thoảng tôi lại nghe thấy nỗi mong đợi cồn lên dồn dập, khi bỗng nhiên đàn chó trong khu tôi ở lại rộ lên tiếng sủa a dua a tòng. Nhất là từ ngày phường tôi lập chợ, số chó được nuôi trong các gia đình giàu có ở xóm Tây này tăng vọt. Vừa là bảo đảm an ninh, vừa là sinh lợi. Người ta bảo vậy. Nhà ông Luông có một con chó lài to kệu và sáu bảy con lít nhít lấy giống từ con Jăng nhà Hứng. Nhà hai chị em cái Vàng Anh - chúng đã gạt mẹ chúng khỏi danh sách những người sở hữu của cải - nuôi hai chó, một béc-giê, một phốc.
Thôi thì cứ là loạn xà ngầu lên mỗi sớm hửng, mỗi chiều sầm, là lúc lũ chó gần như được đồng loạt bứt khỏi xích, dông ra đường, tự do phóng uế và chạy nhảy cho đỡ cuồng cẳng. Ki-ki, Tô-tô, Giôn, Ních, Vằn, Vện... Tên tây, tên ta, đủ loại hình sắc, da lông. Càng lộn xộn, nhốn nháo hơn khi chúng mở mồm. Quả là những con khuyển hết sức mẫn cán, chỉ cần thoáng hơi khách lạ là y như rằng chúng biểu lộ ngay thái độ thù địch. Chúng gây nên một cuộc náo động vô lý, vào bất kể lúc nào. Nhà ông Luông ở đầu gió, hễ con lài nhà ông hắt hơi đánh xịch là cuộc hưởng ứng của lũ chó bùng nổ dây chuyền.
Khách ở xa đến được chúng đón tiếp mới thịnh tình làm sao !
Nhưng trưa ấy thì im ắng quá. Cái nắng lim dim. Con mèo Mí ngủ trên giàn mướp mới xanh lá. Thoảng hương ngải cứu từ khu đồi hoang tràn về theo mỗi đợt gió. Con chuồn chuồn ngô cụp cánh chốc chốc lại lúc lắc cái đầu bi ve. Nó đang ở trong tầm mắt quan sát của cái Thảm. Chốc chốc nó lại cảnh giác, bay vút lên. Bóng nó in chập chờn trên nền nắng càng trưa càng đậm vàng.
Tất cả đang bằng lặng như thường ta chẳng hề để tâm, thì tôi bỗng thấy tiếng đánh hơi của con chó nhà ông Luông. Tôi đã chờ đợi những âm thanh hằn học, gây sự của lũ bốn chân này. Nhưng kỳ lạ, tuyệt không một tiếng chó sủa. Chỉ có tiếng chân chúng dồn gấp tạo thành một vệt âm thanh dài dặc trốn chạy. Và vùng đất bị hong nắng vẩn lên một cuộn bụi mờ vì chân chó khua động. Tiếng động tan loăng dần. Vẫn không một con chó nào nho nhe nhóc nhách. Chúng bị mắc rọ mõm cả ? Hay bị một sức mạnh vô hình nào khống chế khiến miệng mở đấy mà chúng không tài nào phát nổi một tiếng kêu. Đã vậy, chúng lại có vẻ khiếp đảm, cuống quýt thế nào. Tôi thấy rõ điều đó ở hai con chó nhà cái Vàng Anh. Như bị một lực lượng thần bí nào
đó đe dọa, cả hai con ngày thường hung hăng là vậy mà lúc này bỗng cụp tai, quặp đuôi, cuống cuồng quay đầu bỏ chạy, hồn xiêu phách lạc đến mức đâm bổ vào sân nhà tôi, rồi sau đó biết là nhầm mới lấm lét lủi ra, miệng hực hực tức tối, đầy vẻ bất lực, yếu hèn.
Đường phố vắng tanh bóng chó. Chó nhà nào tọt hết vào nhà ấy. Chí khí và tính hung dữ chó rừng biến sạch, chúng tìm các gậm giường kín đáo chui vào và nằm quay đầu ra, rên ư ử, chưa hết cơn kinh hoàng.
Hẳn là đã xảy ra một hiện tượng bất thường : lũ chó đã đối mặt và thua chạy trước một đối thủ quá ư cao cường, có sức áp đảo ghê gớm.
Cái gì đã xảy ra ? Con vật nào, con người nào đã xuất hiện với tư cách là đối thủ cao cường, có sức mạnh phi thường như vậy ?
Tôi xác định ngay đó là một con người. Vì sự im vắng thăm thẳm của buổi trưa đã cho tôi nghe thấy rõ mồn một tiếng những bước chân bước gấp gáp từ phía xa vọng về. Đó là bước đi của một đôi giày địa chất cao cổ, đế cao su, cỡ bốn mươi hai to đùng. Đôi chân nện trên mặt đất như tiếng vồ đập, nhưng lại thoăn thoắt khiến hai ống quần bắt nắng bỏng rát chạm nhau lạt xạt. ại, cũng lại cái quần cỡ đại ! Cũng lại cái áo màu cỏ úa bộ đội cỡ đại, với hai ống tay buông để che nắng. Cái nắng cuối xuân chớm hè cũng xối lửa ra trò vào một khuôn mặt đàn ông trẻ và trần trụi nọ.
Đó là một gương mặt đã được bào giũa qua nắng, gió, hết vẻ thô nhám, chỉ còn lại nét tinh anh chọn lọc ngời ngời trên hai con mắt sáng quắc, cái gò mũi ngay thẳng, chính trực và cái miệng gạch một nét ngang bằng kiên nghị. Không nhìn thấy cằm vì lớp mồ hôi rịn ra xóa mờ ranh giới, cũng vì cái cổ lớn bằng khuôn mặt, tròn chắc như một ống trụ đồng.
Người nọ toát ra cái uy lực đến lạ. Tới đâu, mắt ông lia sang hai bên, lập tức ở đó im phắc và sạch quang bóng chó. Nhưng, bước chân ông chậm dần.
Tới căn hộ nhà tôi, ông đứng lại nhìn trái nhìn phải như soát lại trí nhớ, giật cái khăn đeo ở cổ lau mặt, rồi đi thẳng vào sân nhà tôi.
Vứt cái ba-lô lộn trái đựng quần áo xuống đất, người nọ bước một bước lên hiên. Lũ chó trong xóm bấy giờ mới bộc lộ đầy tính chất đê hèn của chúng là chó cậy gần nhà, và dường như đã thoát ra được cái vòng khống chế vô hình, mới bắt đầu sủa nhanh nhanh mấy tiếng để trút nỗi căm hận do phải nuốt nhịn bấy lâu. Không để ý đến tiếng sủa của lũ chó, người nọ bước vào nhà, chăm chắm nhìn tôi rồi đưa mắt sang cái Thảm, và cất lên một tiếng reo bồng bột tràn ngập cả căn buồng : - Cháu Duy ! Còn.. con mẹ Quỳnh đây, hả ?
Tôi ngỡ ngàng, rụt rè :
- Nó tên là Thảm !
- ôi chao ! Cháu tôi xinh xẻo thế này mà sao cái tên nghe buồn thế ! Không nhận ra chú à ? Chú Dũng đây.
Bế thốc cái Thảm lên, chú Dũng giụi cái đầu tóc xoăn đen bóng như bị lửa hun vào bụng nó. Cái Thảm cười khanh khách.
Mối quan hệ máu mủ ruột rà đã được tôi cảm nhận ngay từ khi chú Dũng bước vào nhà, chạm ánh mắt vào tôi. Còn cái Thảm, tôi không ngờ, nó cũng tinh nhạy thế. Nó trụt xuống, ôm cổ chú, hôn chút chút vào má chú. Rồi ngoảnh ra cửa, nó gọi váng : Bà ơi, chú Dũng chú ý về ! Ngoài sân, chẳng có ai. Bà tôi đi chợ bán ngải và mua thức ăn. Buồng trong cũng vắng. Mấy hôm nay, lão Hứng đi công tác, con Jăng cũng không có nhà. Lối vào buồng nhà lão và xuống khu phụ, như thường khi mỗi lúc lão đi vắng, buộc hai thanh gỗ chéo nhau chắn lại.
Nhưng chúng tôi chẳng phải chờ đợi lâu. Chú Dũng tôi vừa uống hết chai nước lọc, tôi đã thấy bà tôi đánh tiếng ở ngoài cổng : - Duy ơi, Thảm ơi, có bận gì không mà sao bà sốt ruột thế !
Con chuồn chuồn ngô rời sợi dây thép bay rập rờn. Con mèo Mí nhảy xuống sân, chun mình, vươn vai đón bà tôi bằng một tiếng mieo... kéo dài nũng nịu.
Cái Thảm tót lên giường, tung tấm chăn đơn, rối rít :
- Chú Dũng, chú trốn bà đi !
Chú tôi chiều nó nằm xoài xuống giường, để nó phủ lên mình tấm chăn vải. Xong đâu đấy, nó nhảy xuống đất, chạy ra cửa, toe toét :
- Bà ơi, không phải chú Dũng chú ý về đâu.
Bà tôi đã nhìn thấy cái thân hình người con trai út của mình, nhất là đôi cẳng chân to sều thò ra ngoài giường, ghìm cái cười trước câu nói ngây thơ của cái Thảm, giả đò ngơ ngơ hai con mắt :
- Quái, rõ ràng từ xa bà nhìn thấy có một chú bộ đội cao lớn rẽ vào nhà mình cơ mà. Hay là chú ấy vào không thấy đứa nào ở nhà nên bỏ đi rồi.
Tưởng bà mắc lừa thật, cái Thảm cúi xuống lật cái chăn phủ người chú Dũng, cười nắc nẻ :
- Cháu giấu chú Dũng ở đây kia mà bà !
Chú tôi bật người lên, đứng thẳng trong một thế võ phòng vệ, rồi thả lỏng toàn thân, cất tiếng cười ha ha. Bà tôi tít hai con mắt bạc :
- Chú cháu nhà bay đi đánh lừa thiên hạ được đấy. Hèn nào, bà đi chợ mà vấp liền mấy cái. Nhưng, không hiểu trời đất xui thế nào mà mua được con cá chép rẻ quá. Thế là chú cháu nhà bay được bữa canh dấm cá rồi.
Cái Thảm láu táu :
- Chú Dũng ơi, cháu biết chẻ rau rồi cơ. Cháu chẻ rau cho chú ăn với canh cá dấm bà nấu nhé.
*
* *
Hóa ra cởi trần trông chú Dũng còn to con hơn cả khi chú đóng bộ quân phục. Hai bả vai hình như không bị vướng áo, tha hồ căng doăng hết sức. Hai bắp tay chú căng ních, không bấu vẫn nổi con chuột. Gò ngực chú nở phồng, nhưng hai sườn chú vát dần xuống dưới. Bụng chú bé tí, lép kẹp, ăn rồi cũng như chưa ăn, nổi múi. Đặc biệt là da chú, từ ngực bụng đến chân tay đều như là vừa được phơi nắng, vừa được tẩm mật. Sức vóc thế, nhưng khi chú ngồi bệt dưới đất, lưng ngả vào thành giường, đôi chân nhẵn nhụi duỗi song song, trò chuyện với chúng tôi thì trông lại rất gọn và hiền hiền.
Bà tôi mừng lắm. Hai con mắt bà cứ đọng lại rồi lướt đi lướt lại trên da thịt chú như sờ nắn, xoa vuốt :
- Thế anh đi những đâu mà mẹ, cháu viết thư, cấm có giả nhời là thế nào ?
Chú cười hì hì :
- Con đi khắp nơi. Vào nam. Ra bắc. Sang đông, sang tây. Lên rừng. Xuống biển.
- Thế vẫn ở địa chất như ?
- ở địa chất được ba năm thì con đi bộ đội đặc công :
- Chú ở bộ đội đặc công ?
Tôi reo. Chú tôi gật :
- ở bộ đội đặc công đánh giặc được ba năm, bị yếu sức, con lại xin về đoàn địa chất. Lại đi tìm sắt. Bây giờ, con được trên cho đi học đại học.
Bà tôi cúi xuống rá gạo đang nhặt sạn, chớp chớp mắt. Những xúc động dồn nén từ năy đến giờ đã tràn đầy. Mắt bà nhòe mờ. Bà vạch túi, lấy cái khăn tay chấm đuôi mắt, rồi trách yêu chú tôi : - Thế mà cứ biền biệt. Con giai nhà này đứa nào cũng giống đứa nào. Y như bố chúng mày hồi xưa. Cấm có chịu thư từ tin tức gì. Người ta ở nhà héo hon, lo lắng thế nào, có biết cho người ta đâu !
Chú tôi cười khì, với tay lấy cái áo, móc bao thuốc lá : - Mẹ rõ lẩn thẩn. Con không giống bố thì giống ai. Anh em không giống nhau thì giống ai. Mà có gì mà phải lo ! Chết thế quái nào được mà sợ !
- Chỉ nói trạng ! Thế có nhận được thư mẹ, thư cháu Duy nó viết không ?
- Con nhận được cả. Nhưng ở chiến trường, di động, không làm sao viết trả lời được.
Bà tôi đập tay vào rá gạo, ngẩng lên :
- Hồi này lại ăn thuốc lá à ?
Cái Thảm đang chăm chú chẻ rau, lườm bà một cái rõ dài : - Hút thuốc lá chứ, bà lại nói là ăn !
- Rõ con mẹ Đốp chưa ! - Bà tôi cười, nguýt yêu cháu gái.
Chú Dũng gật gù nhả khói : - Con bé này khá ! Nhưng, phải đổi tên Thảm đi. Sao lại Thảm ! Mẹ mày đặt cho hả ?
- Bà đặt cho đấy. Thảm lắm, con ơi. - Bà bỗng xuống giọng, buồn tủi. -Con đi xa, bố thằng Duy không tin tức, mình mẹ với các cháu trứng nước ở nhà, thê thảm lắm con ạ. Sống nguyên vẹn được đến hôm nay là mừng lắm rồi. Con chưa biết hết mọi nông nỗi cơ cực đâu.
Chú tôi đứng dậy, tay cầm điếu thuốc ngún khói, mặt bỗng trầm xuống :
- Con biết hết mọi chuyện rồi. Có chuyện do chiến tranh. Có chuyện do làm ăn bậy bạ. Về đến nhà, liếc mắt một cái là con biết mẹ và các cháu khổ sở thế nào rồi. Chị Quỳnh cũng viết thư cho con...
Bà tôi ngẩng lên, thoáng một nỗi thắc mắc, nghi ngờ trong ánh mắt.
Bỗng dưng tôi có cảm giác bà tôi và tôi cùng thoát một hơi thở dài, trút hết bao nén chịu căng nhức bấy lâu trong người, kể từ lúc chú tôi có mặt ở căn buồng chật hẹp này. Cả cơ thể và tinh thần tôi chùng xuống, như được thả lỏng, thư giãn và thảnh thơi. Hóa ra bấy lâu chúng tôi phải gồng mình, nín thở. Bà già, con trẻ, hai cái hạng người xưa nay dễ bị dồn đuổi ra khỏi cảnh đời yên ổn, hay bị người ta ức hiếp, bắt nạt, dập vùi là vậy, khổ thế !
Chú Dũng tôi thay đổi bầu không khí gia đình và tôn giá trị của bà tôi và tôi lên. Chúng tôi chẳng những vui mà còn thấy mình mạnh lên rất nhiều. Ngay chiều hôm đó những thanh chắn ngáng đường xuống khu diện tích phụ của lăo Hứng bị chú tôi tháo dỡ.
Chú tôi hỏi :
- Cái bể nước vẫn còn chứ, Duy ?
Tôi đáp :
- Còn, nhưng nhà ông Hứng không cho nhà mình dùng. Cũng không cho xuống bếp.
- Thế thì trước hết chú cháu ta xuống đó tắm một trận cho đã.
Những chặp cười giòn tan lấp lánh trong tiếng nước giội òa òa thỏa thích. Thế mới biết cái Thảm là đứa tợn. Trước nay đã có lần nào bị giội nước từ đầu xuống. Thành thử nhận gầu nước đầu, nó hốt hoảng hít luôn nước vào mũi, nhưng chỉ gầu sau nó đã nheo nhéo : "Chú Dũng giội cho cháu mới" và tranh giành từng gầu nước với tôi.
Hết veo một nửa bể nước. Mà vẫn còn muốn giội nữa. Đến mức bà tôi phải lên tiếng : "Thôi, ba chú cháu có định ăn cơm không đấy ? Tắm lâu sũng người ra chứ báu bổ gì !". Đã bao giờ tôi nghe thấy cái thanh thỏa sung sướng ánh ỏi như thế trong câu trách yêu của bà.
Nhưng, niềm vui đã có một dấu hiệu chẳng lành.
Mặc quần áo xong, chú Dũng tôi đang vặn vòi nước giũ cái quần cộc của chú thì ngoài sân có tiếng xe Cúp hãm máy. Nhìn ra, tôi thấy Hứng đen ngòm cặp kính râm, áo ca-rô nâu vàng, tay lủng lẳng cái túi da in dòng chữ adidas, lẹp xẹp đôi dép da đi vào.
Không thấy con Jăng. Cũng không thấy Hứng đưa xe vào buồng. Như vậy là lão chỉ tạt qua nhà chốc lát, vì sực nhớ ra điều gì hệ trọng, hoặc đơn giản là về lấy cái gì quên đó thôi.
Đi qua buồng nhà tôi, nhận ra thanh chắn đường bị dỡ, lão hơi sững lại. Điều khác thường chưa từng có khiến lăo sa sầm nét mặt. Và không chần chừ một giây nào nữa, lão đâm thẳng ra cái sân sau lộ thiên, áp cạnh gian bếp và cái bể nước trong buồng tắm.
Chú tôi lúc ấy đã giũ xong cái quần nhỏ, đang thong thả tở ra và giăng lên sợi dây thép căng chéo qua sân. Có thể là chú tôi không biết đến sự có mặt của Hứng lúc ấy. Nhưng, rő ràng là thái độ, cử chỉ chậm rãi, đàng hoàng của chú tôi đã như là sự trêu ngươi, khơi thêm nỗi tức nghẹn của Hứng.
Hứng hùng hồn sấn ngay tới cái bể nước. Tôi có cảm tưởng, nếu như chú tôi thấp bằng lão, thì lão đã túm lấy chú tôi mà quát tháo, thậm chí cho mấy cái bạt tai rồi. Nhưng, có lẽ Hứng đã nhận ra cái sức vóc bất cập của lão trước đối phương, nên lão đành chống tay lên sườn, nhe những chiếc răng vổ chĩa vào chú tôi, bành cổ, cố lên giọng oai vệ :
- Mày là thằng nào ? ở đâu mà dám tự tiện, liều lĩnh vào đây, hở ?
Từ từ quay người lại, chú tôi làm ra vẻ bây giờ mới nhận ra kẻ vừa quát nạt mình, lừ mắt một cái và thõng tay đánh phịch. Cái thõng tay như một động tác giả khiến Hứng giật mình. ôi, cái già giặn, vững chãi của chú tôi. Cái thân hình lừng lững tượng đồng đen của chú tôi, nó nuốt trửng cái hình nhân còm cõi xác ve vì trác táng và lòng dạ nấu nung rặt những mưu mô gian hiểm của Hứng ! Tôi cam đoan là chỉ cần một động tác giả vờ nữa, chẳng hạn nắm tay lại và dứ vào mặt Hứng là chú tôi có thể đuổi thẳng lão ra cửa, chứ chưa cần dùng đến vũ lực. Nhưng, có lẽ thừa hưởng ở bà tôi thái độ điềm tĩnh, đúng mực, nên chú tôi lặng lẽ bước lại gần Hứng và hất hàm vào lão :
- Này anh, ăn nói cho tử tế nhé.
Sao lại mày tao ở đây ? Anh ngẫm xem : lẽ ra tôi phải hỏi anh câu ấy chứ, sao anh lại dám hỏi tôi ? Tôi là người chủ căn hộ này, liệu có cần nhắc lại điều hiển nhiên ấy với anh không nhỉ ?
Ngôn từ sắc sảo chứa đựng công lý và giọng điệu chững chạc của chú tôi đã khiến Hứng tắc họng. Lão nhổ phịt một bãi nước bọt rồi vùng vằng quay ra sân. Luống cuống, lão dận một thôi một hồi chiếc Cúp mới nổ máy.
Bà tôi, vẻ như người ngoài cuộc, ngoảnh ra sân sau bếp thanh thỏa gọi - Thảm ơi, lên bà chải đầu, rồi sắp mâm ra sân ăn cơm cho nó mát nào...
*
* *
Bữa cơm chiều ở ngoài sân vui vẻ quá. Canh cá nấu chua. Rau chẻ nhỏ ti, xoăn tít. Lại gió mát. Đúng là ăn mừng chú Dũng về. Chú Dũng về trị tội lão Hứng. Tuyệt. Chú Dũng vừa ăn vừa kể chuyện đặc công đánh giặc ở biên giới phía bắc. Hết bát cơm, chú đưa bà xới, nhìn tay bà, chú hỏi : sao mẹ gầy thế. Bà đáp : tạng mẹ nó vậy, cao lớn là bố anh. Cái Thảm khoe : Nó đã đứng đến tận vai tôi. Chú Dũng hỏi : Có nhớ mẹ không. Nó lắc rồi lại gật. Bà chép miệng : Nó có biết mặt mẹ nó đâu. Mà lạ, mấy năm rồi không có thư từ gì cả. Chú Dũng nhắc lại : Chị ấy viết thư cho con, nói là viết rất đều và gửi tiền rất đều về cho mẹ. Bà băn khoăn : thế là thế nào ? Chú Dũng cười : có bà rồi, chúng con khỏi phải lo gì hết. Bà chửi yêu chú Dũng. Lan man lại tới chuyện cô giáo Quyên, bà bảo : Cô vừa gửi thư ra giả lại cái nhà thuê, vì cô định ở lại trong ấy cùng chồng, để chồng chữa bệnh.
Đang ran ran thì cô Đại Bàng dắt cái xe đạp về. Cô nhận ngay ra chú Dũng :
- Trời, to đùng như ông hộ pháp rồi, cậu Dũng ơi.
Chú tôi cười :
- Chị vẫn khỏe chứ ? Anh Đại bao giờ về ?
Cô Đại Bàng dựa xe vào bờ rào, mặt ảo não :
- Cám ơn cậu hỏi thăm. Nhưng, càng nghĩ càng buồn, cậu ạ. Chuyện dài lắm. Rồi tôi kể cậu nghe.
Còn chưa kịp vân vi, người phụ nữ đã vội ngậm miệng, ngoảnh vào nhà mình, u uất :
- Thì cũng phải để tao thở một tí đã chứ. Cơm nước ở nhà chơi không mà cũng không chịu nấu. Bóc lột sức người ta thì cũng phải có chừng có mực chứ !
Trong nhà lại hắt ra tiếng gắt gỏng của cái Vàng Anh :
- Lại còn hóng hớt cái gì ở ngoài ấy nữa !
- Đứa nào nói cái gì đấy ?
Chú Dũng đặt bát cơm, nghển lên.
Cô Đại Bàng than :
- Còn đứa nào vào đây nữa, cậu !
- Này, vào mà dạy con phò con của bà nhé - Lại hắt ra tiếng cái Vàng Anh - không, đây là không nể đâu !
Chú Dũng đứng dậy, dőng dạc : - Này, đứa nào nói với mẹ mà hỗn láo thế ! Ra đây cho tao xem mặt nào !
Trong nhà im bặt. Bà rầu rầu :
- Gia đình nào cũng có chuyện.
Giàu có mà không dạy nhau ăn ở cho ra con người thì càng dễ tan cửa nát nhà. Các cụ nói : Hoàng kim hắc thế tâm là vậy. Còn nghèo túng mà không giữ lòng kiên trinh thì thành phường luồn cúi, nô bộc cả.
Trời sâm sẩm.
Mùa hè đến trong hơi gió nồm. Hương ngải về chiều càng nồng. Muỗi bay tụ từng đám trên mảnh trời chiều đang ngả màu hoa cà. Mấy con dơi vẽ những đường nét rối rít. Tít trên cao, trời xanh mỗi lúc một đậm đà. Rồi những chấm sao như những mũi kim li ti hiện lên, đưa ta vào cõi mung lung huyền bí xa thẳm. Tôi ngửa mặt lên, lòng dạ chợt nao dậy những cảm xúc bâng khuâng. Trên kia là thiên phủ, ngay khi mới sinh ra Tôn Ngộ Không
đã mở mắt phóng hào quang chiếu tới. Trên kia là vùng thiên cung Tề Thiên Đại Thánh đã nhiều phen gây náo động. Truyện lão Tôn anh hùng ăn trộm đào tiên, rượu ngự, linh đơn, phá rối hội Bàn Đào, mười vạn thiên binh cùng mười tám bậc thiên la địa võng bao vây đánh bắt không nổi, gây cho chúng tôi bao hồi cười khoái trá ; nhưng chàng cũng làm chúng tôi thương cảm xiết bao khi chính chàng bị Phật Tổ nhốt dưới núi Ngũ Hành, bắt ăn viên sắt, uống nước gỉ đồng.
Trên kia còn là cõi tiên, nếu quẻ thẻ nhà chùa nói đúng, thì chính là nơi bà tôi sinh ra. Bà tôi là cô tiên, vì chót lỡ tay đánh vỡ chén ngọc mà bị vua cha bắt xuống ở dưới trần này, bà xuống trần để đỡ nâng dắt dìu hai đứa trẻ côi cút chúng tôi ; cuộc sống của chúng tôi lắm lúc cũng kì lạ có phép màu là vì vậy.
Một bóng người lù lù xuất hiện ở trước sân đã đưa tôi trở lại với câu chuyện dang dở của chú tôi hồi chiều.
- Chào cụ.
- Không dám, chào ông chủ tịch.
- Tôi nghe nói nhà cụ có người lạ mặt.
- Lạ mặt nào hả ông ?
- Lạ mặt chứ còn thế nào nữa !
Chú tôi đứng phắt dậy, tiến ra :
- Tôi đây. Kẻ lạ mặt đây. ông là ai ?
- Tôi là chủ tịch phường.
- Chủ tịch thì trước hết phải kính trọng dân chứ.
Bóng người hơi lùi lại :
- Đừng có láo nhé. Có biết rằng gia đình này đang trong diện nghi vấn không ?
- Thế thì ông có biết rằng, cái lão chủ tịch ở phường Ngọc Sinh này nó ăn đút, nên thông đồng và làm ngơ cho kẻ cướp đến chiếm đoạt nhà người ta không ?
- Quân vu vạ ! Tôi trói gô cổ anh lại bây giờ thì đừng có trách ?
- ở ngoài quán nước, người ta đang chửi lão chủ tịch ấy đấy. Hàng trăm người chửi. Đủ hết các tội. ông ra mà trói người ta.
- Không trẻ con đôi co với anh !
Bà tôi tủm tỉm, khéo léo :
- Con trai tôi nó mới đi bộ đội về đấy mà, ông.
- Thì tôi đến để đưa cụ cái giấy đăng ký tạm trú cho nó đúng thể thức, chứ tôi có nói gì. Gia đình mình là gia đình cách mạng truyền thống, mình phải giữ. Bây giờ biên giới lộn xộn lắm, trên vừa cho biết, thám báo nó hoạt động rất dữ. Hàng tâm lý chiến nó đưa sang đầy. Mình phải cảnh giác. Trách nhiệm ấy là trách nhiệm chính trị của tất cả mọi người...
Chú tôi công kênh cái Thảm lên vai, nó nhìn chấm sáng vệ tinh trên bầu trời thắm thiết ánh sao.
*
* *
Có hai sự kiện khiến cho buổi tối hôm ấy không khí sum họp của gia đình tôi kém vui. ấy là việc ông chủ tịch Luông tới hoạnh họe. ông đi thì tới cuộc cãi lộn, cấu xé nha gay gắt giữa hai chị em con Vàng Anh.
Tôi không ngờ rằng trong gia đình người ta có thể đối xử với nhau tàn tệ đến mức con cái chỉ vì của cải mà chửi bới mẹ và tranh giành với mẹ. Cô Đại Bàng đã bị hai chị em con Vành Khuyên vào hùa với bố nó, tách ra khỏi cộng đồng, trên thực tế ít lâu nay đã không còn quyền hành gì ở cái nhà lắm tiền nhiều của này. Bố nó nghe đâu đã nhăm nhăm lấy người vợ khác nên gần đây thư từ thưa thớt, lạnh nhạt hẳn với cô Đại Bàng. Bây giờ thì đến lượt hai cô chủ giành giật nhau của nả. Thật kinh, đứa mười sáu, đứa mười bốn, mà chanh chua đáo để như hai mụ nạ dòng.
Chú Dũng đang nghển cổ tìm chấm vệ tinh cái Thảm chỉ trên vòm trời đầy sao, thì nghe thấy ở sân bên nhà cô
Đại Bàng tiếng thanh củi văng ra đánh cạch. Tiếp đó, tiếng cô Đại Bàng thất thanh : - Chúng bay giết tao đi ! Giời ơi là giời ơi ! Giàu có làm gì cho nó khổ thế này, ông Đại ơi là ông Đại ơi !
Cái Vàng Anh rít :
- Câm mẹ nó mồm đi. Việc gì đến bà nào. Bà là cái đinh gỉ gì trong nhà này nào. Nó có tội, tôi phải xử nó.
- Tao đ. có tội với đứa nào hết !
- Đ. có tội, hả ? Cái cát-xét đâu ? Mày đưa thằng ma-cô nào rồi, hở con ** dại ?
- Này, chị không có quyền hỏi cát-xét ấy nhé. Của chị đấy hả ?
- Của tao ! Của tao !
- Đ. phải của chị !
- ôi giời ơi, nó ăn cướp của tôi. Tôi đi vắng, nó mở khóa lẻn vào buồng tôi, xách cái cát-xét đi cho thằng nhân tình của nó.
- Không biết đứa nào có nhân tình !
- Mày câm ngay !
- Tao đ. câm. Bêu bêu... Thằng nhân tình vẩu !
- Tao phải giết mày ! Rồi tao đốt cả cái nhà này ! Cho tất cả của cải ra tro bụi hết !
Có tiếng chân chạy huỳnh huỵch, tiếng va chạm, tiếng đấm đá, xô đẩy, tiếng thở rộn rực. Rồi lại tiếng rít, tiếng la. Cuối cùng, tọt ra ngoài sân một cái bóng nho nhỏ mờ mờ. ấy là con Vành Khuyên. Con này đứng ngoài sân cứ mồm năm miệng mười chõ vào nhà chửi con chị. Cùng với các từ ngữ tục tĩu của hạng côn đồ là những hòn gạch, viên đá tương vào cánh cửa liên hồi. Cái gia đình con con ấy đã vào những ngày đổ đốn. Hai đứa con gái làm náo động cả xung quanh, đến nỗi chú Dũng tôi sau một ngày đi mệt nhọc, đang thiu thiu ngủ cũng phải nhổm dậy, đi ra sân, quát :
- Có im đi không, hay để tao phải sang dạy cho chị em chúng mày biết thế nào là lễ độ, hả !
Giọng chú toát ra cái uy lực gì mà hai chị em con Vàng Anh bỗng im tịt.
*
* *
Tôi đồ rằng chú Dũng tôi là một con người đặc biệt. Suy ra từ cái việc chú dẹp yên cuộc đánh lộn của hai chị em cái Vàng Anh, từ việc chú xuất hiện là lũ chó sợ hãi chạy biệt, thì biết. Có thể là chú có trường sinh học, có thuật thôi miên kỳ diệu hoặc là môn sinh của trường phái Y-ô-ga cũng nên.
Mấy hôm sau, có một sự việc nữa khiến tôi càng tin là tôi nghĩ đúng. Trời chớm vào hè, đã như đứng trước lò lửa. Đang ngủ trưa, bỗng chú tôi chồm dậy, nhìn lên cái quạt trần phủ bụi im phắc. Sao có điện mà cái quạt trần lại không quay ? Sau khi biết là nhà Hứng ác độc đã cắt điện quạt từ mấy năm nay, chú tôi liền đứng phắt dậy, và thoăn thoắt leo qua bức vách ngăn, vào căn buồng của lăo Hứng. Chỉ năm phút
sau, cái quạt đã ào ạt trong một vũ điệu xoáy tròn.
Điều kinh ngạc không phải là cái quạt chuyển động. Điều kinh ngạc là tôi nhìn ra cái khả năng leo trèo mềm dẻo, khéo léo như con vượn ở trong cái thân xác to cộ của chú tôi. Thì ra ở trong con người ta có nhiều tiềm năng bí ẩn lắm. Người ta có thể làm được nhiều điều bất ngờ lắm. Tôi nói với Việt, Việt bảo : "Bạn không thấy các chiến sĩ đặc công đấy à ? Họ tàng hình được nhé. Đi được dưới nước. Lại nhảy cao lên tận mái nhà được nữa cơ. Còn chó béc-giê, họ coi nó như con cừu thôi. Tớ nghe người ta nói : họ bôi mỡ hổ vào người, chó ngửi thấy là chạy re...".
Tôi phục chú tôi và dõi theo mỗi cử chỉ của chú tôi, đến nỗi, một lần thấy tôi cứ mân mê mãi cánh tay sần sẹo của chú, chú ngạc nhiên :
- Có cái gì lạ đâu ! Chó cắn đấy !
- Chó nào ?
- Chó nhà ! Tập cho nó cắn, hiểu không ? Vì có trường hợp mình đi trinh sát bị nó phát hiện, nó xô tới, mình nằm im, như chết, mặc nó cắn xé. Cắn xé chán, nó bỏ mình, đi.
- Thế không đánh lại nó ?
- Có chứ ! Tùy trường hợp !
- Đánh được ?
- Sao lại không được ! Trước hết phải nắm được đặc điểm này : chó dù dữ đến đâu cũng sợ người đi đứng đàng hoàng. Ta dùng ánh mắt ngay thẳng quắc sáng điều khiển chó. Chó sợ những vật tua tủa gai góc. Ví dụ như bàn tay ta xòe ra, mỗi ngón tay cứng đanh. Còn đánh nó, trước hết ta bắn thằng địch dắt chó. Sau đó, chó địch nhảy tới, ta giơ tay trái lên. Tất yếu là con chó sẽ chồm lên đớp vào cổ tay trái của ta...
- Chú ơi, chú dạy cháu mới.
- Dạy cái gì ?
- Dạy cách đánh chó ấy.
- Cháu còn bé, chưa đánh được.
Để chú luyện cho mấy miếng võ. Hai chú cháu tôi cùng ra sân. Chú
Dũng bảo : trước hết hãy luyện cho lòng mình yên tĩnh như trời xanh trên kia đã. Tôi ngẩng lên trời. Kỳ lạ. Những miếng võ uyển chuyển sôi động bất ngờ lại là những bông hoa lửa mọc trên mảnh đất bằng bặn, thanh bình. Thì ra lòng chính trực là cơ sở của mọi hành động. Và không thể dùng môn võ thuật cao quý vào mục đích đê hèn được. Chú Dũng bảo cơ sở của các động tác là những nguyên lý của động lực học. Chú dạy tôi khởi động. Dạy tôi đấm, đá, đỡ, gạt. Riêng về đấm, tôi học ba kiểu : đấm thượng đẳng, trung đẳng, hạ đẳng, nhằm vào mặt, ngực, bụng đối phương. Sau đó tôi tập vào bài một : đỡ và quật đối phương qua đầu mình.
Tập một lúc, mệt lử. Tôi và chú nằm nghỉ. Lại quanh về chuyện chó. Cái Thảm đi chơi về, sán tới, phá đám :
- ứ kể chuyện chó đâu.
Có lẽ nó bị con Jăng gây ám ảnh khiếp hãi từ nhỏ nên nó dị ứng về chuyện chó. Chú Dũng xoa đầu nó :
- Thế cháu thích chuyện gì ?
- Nó chỉ cổ tích Tấm Cám với chàng Sọ Dừa thôi.
- ứ phải.
- à này, cái Thảm bốn tuổi rồi sao không đi học mẫu giáo nhỉ.
- Họ bảo nó không có hộ khẩu, chú ạ.
- Chú ơi, chú có gặp mẹ cháu không ?
- Có chứ.
- Mẹ cháu ở xa hơn chỗ ông ngoại, chú nhỉ.
Chú Dũng nhổm lên, nhìn cái Thảm, là lạ :
- ông ngoại ở chỗ nào nào ?
- Bà bảo ông ngoại cháu ở trên Yên Kỳ ấy. Tết ông về đây ăn tết. Khi bà thắp hương khấn thì ông về.
Tôi chen vào câu chuyện :
- Cháu lên Yên Kỳ rồi, chú ạ. Cháu gặp ông rồi. Bà bảo ông hiện về lúc cháu với bà thắp hương, khấn.
- Chú thì gặp ông luôn.
- Thật à ?
- Gặp luôn. Gặp cả ông tổ, gặp cả cụ tằng tổ, gặp cả kỵ cao tằng tổ cơ.
Cái Thảm ríu rít :
- Chú kể chuyện gặp ông đi, chú !
*
* *
Thế này nhé. Đoàn địa chất của chú chuyên đi tìm sắt. Tất nhiên là gặp than, gặp vàng thì cũng đánh dấu lại để khai thác. Muốn biết ở dưới đất có sắt hay không, phải dùng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để thăm dò. Đồng thời phải khoan hoặc đào sâu xuống lấy mẫu, cũng có trường hợp phải đích thân xuống xem mạch quặng chạy thế nào. Lần ấy, các chú đào một giếng sâu. Sau đó, đào ngang vào thành giếng mấy đường hầm nữa. Chẳng bao lâu dưới lòng đất đường
hầm đã xẻ dọc xẻ ngang, đan qua đan lại như một mạng lưới. Nghĩa là có thể đi lại ở dưới đó từ đường nọ thông sang đường kia, một cách dễ dàng, bình thường, không phải khom lưng, cúi đầu.
- Thích quá ! - Cái Thảm rúc rích.
Chú Dũng tiếp :
- Tất nhiên là cháu Thảm có thể nhảy dây cũng không sợ vướng. Nhưng, dè chừng là rất có thể bị vấp ngã, vì đường gập ghềnh và đặc biệt là tối và ẩm ướt. Tối mò như đêm. Là bởi vì, đường hầm ở rất sâu dưới đất.
- Có thắp đèn chứ, chú ?
- Tất nhiên là chú được trang bị đèn. Cái đèn đeo ở trên mũ đội đầu. Đèn rọi về phía trước một luồng thẳng. Đi theo luồng sáng đó, thăm thẳm mịt mùng, có cảm giác đang đi trong một thế giới khác. Đây là thế giới bí ẩn, là nơi tàng trữ bao nhiêu điều mà con người ta đang đi tìm ! Thậm chí, đây còn là nơi trú ngụ âm thầm của những cái quý giá mà chưa hề có tên cơ.
Thành thử, làm việc ở dưới đó mệt vì thiếu không khí thở, lạnh vì ướt át, nhưng hăm hở, hào hứng lắm.
Chú Dũng ngừng một lát, rồi hạ giọng :
- Các cháu cứ tưởng tượng xem, một ca tám tiếng, một mình chú với một máy khoan đá trong cái thế giới lặng lẽ đó. Tha hồ mà tung hoành. Vì có cảm giác, một mình là chúa tể nơi đây... ấy vậy mà một hôm chú nhận ra... không phải vậy. Nghĩa là không phải chỉ có một mình mình. Lần ấy, chú vừa ngắt điện máy khoan để nghỉ ngơi. Quái lạ ! Máy ngừng chạy rồi, lẽ ra phải im ắng, chứ sao lại xôn xao thế này ! Lắng tai một lúc, chú nhận ra tiếng người. Sao lại tiếng người nhỉ ? Người ở đâu ? Mà nghe tiếng xôn xao thì có vẻ như là âm thanh quen thuộc của buổi bình minh ở một khu tập thể nào đó trên mặt đất ấy. Thế mới lạ ! Hay là mình đang chiêm bao ? Chú nghĩ. Vì khoảng không u mờ dưới lòng đất dễ tạo nên cảm giác hư ảo lắm.
Tôi nín thở, hồi hộp. Cái Thảm cũng im thít. Chú tôi nhăn trán, vẻ mắc mớ : - Nghĩ vậy, chú liền nhấc máy, định tiếp tục làm để xua tan ảo ảnh bất lợi. Nhưng vừa bật công tắc điện, chú vội tắt ngay vì nghe thấy một tiếng gọi : "Cháu Lã Văn Dũng đó, hả ?". Quay về phía phát ra tiếng gọi, chú nhận ra một ông lão cao gầy, mặc bộ quần áo ta, đi guốc mộc, chít khăn đầu rìu. Y như là một lão nông. Chỉ có điều là dáng vẻ rất cổ xưa. Chứ không gây cho chú cảm giác thánh thần nào hết. Bởi vì rõ ràng là ông cụ cầm tay chú lắc lắc, rồi cất tiếng nói ồ ồ, đặc giọng một ông lão vùng Thanh Nghệ : "Cháu lạ lắm hỉ ? Cháu nỏ biết kỵ mô ! Vì có trộ bao giờ ! Nhưng kỵ biết cháu. Kỵ, cụ cháu, ông cháu, cả bố cháu nữa, ở dưới này từ lâu cứ mong mỏi được gặp con cháu dòng họ Lã mình mà bây chừ mới thỏa !". Chà, thế hóa ra đường hầm chú đào đã xuống tới tận thế giới
bên âm, nơi tổ tiên mình đang sống mà chú không biết !
Tôi và cái Thảm cùng nở tròn hai con mắt hồi hộp. Chú Dũng tiếp : - Vốn quen với những bất ngờ trong đời lính đặc công, nên chú trấn tĩnh ngay. Chú bóp chặt tay ông kỵ, thưa : "Cháu cũng nghe mẹ cháu nói về các cụ, kỵ họ Lã, nhưng chưa bao giờ được gặp". ông kỵ cất tiếng cười ha ha : "Vậy, hôm ni kỵ sẽ dẫn cháu đi gặp tổ tiên. Nào đi cháu...". Thế là chú đi theo ông kỵ. Đi được độ chục thước bỗng thấy sương khói từ đâu phả ra mù mịt. Rồi có một người mặc áo trắng, tay cầm một cành tre từ một ngách núi đi ra cúi chào, xin làm người dẫn lộ. Đường đi càng lúc càng tối. Qua một quả gò gió từ hang thốc ra lạnh buốt và tanh sặc thì gặp một tòa nhà lớn, trong có mười cái ngai kỷ chắp bằng xương voi. Đó là chỗ ngồi của mười vị Diêm Vương trông coi mười nhà ngục dưới âm ti. Chà ! Hóa ra đây là nơi những kẻ khi sống làm điều tai ác, lúc
chết bị trừng phạt bằng đủ các cực hình. Đâu có phải chết là hết chuyện !
Chú tôi thoáng cười như tự giễu mình. Nhưng tôi vẫn chẳng thấy yên lòng và lại nhớ đến cảnh thập điện diêm vương ở căn nhà ngang ngôi chùa hồi tôi học mẫu giáo.
- Hai bên đường chú đi toàn thấy một lũ người so vai rụt cổ, kêu thét, lạy van vì bọn qủy tóc đỏ má đen và bọn quỷ đầu trâu mặt ngựa dùng kiếm ngắn, dùi đồng róc xương, cắt gân, mổ bụng, moi gan. - Chú tôi hắng giọng, tiếp. - Có kẻ bị ném vào vạc dầu đang sôi cuồn cuộn. Có kẻ bị đặt lên bàn chông đang rên la, giãy đành đạch. Có kẻ rú lên khiếp đảm vì sắp bị ném vào chuồng hổ, báo. "Chẳng lẽ, tổ tiên mình lại là những con người đang bị hành hình kia". Chú vừa nghĩ thì ông kỵ đã quay lại : "Đừng lo ! Tổ tiên mình ở chỗ khác cơ. Cháu có biết chuyện ông tổ họ Lã mình là tướng quân trong triều đình đánh giặc tài giỏi, một lần thất cơ, bị giặc chém đứt đầu còn xách đầu chạy về làng không ? Đó, ông cha mình đều là người có công tích, được thờ phụng kính mộ. Nơi yên nghỉ là ở chỗ tê kia !".
Theo ông kỵ đi, một lát chú leo qua một cây cầu, dưới cầu chảy sùng sục một dòng nước lửa đầy thuồng luồng, cá sấu... Tới bờ bên kia thì gặp một đoàn người rồng rắn xếp hàng đi xuống. Đó là những người mới chết. Tới đầu cầu, từng người đứng lại trước một ông quan đội mũ cánh chuồn. ông này xem sổ, ai là người lương thiện, nhiều công với dân với nước thì ông chỉ lối rẽ tay phải. Kẻ ác độc, bất nhân thì phải leo qua cái cầu lửa này, đi vào mười nhà ngục, tùy theo tội nặng nhẹ.
Tôi và cái Thảm cùng thở đánh phào. Chú Dũng cười khoái trá : - Thế là chú và kỵ theo người cầm cành tre rẽ về bên tay phải. Đường đi bỗng sáng bừng như soi trong ánh trăng rằm. Hương dạ lan bốc lên ngào ngạt. Thỉnh thoảng lại gặp một dòng suối róc rách, cúi xuống uống thì hóa ra toàn là rượu thơm hảo hạng. Rồi những rừng đào, rừng mơ liên tiếp nối nhau. Tha hồ bứt ăn. Nhưng chú cũng chả thiết. Vì chú mải chăm chú ngắm nhìn những căn nhà gỗ xinh xinh dựng ở bên sườn đồi, cạnh những khóm trúc đùi gà đẹp như trong tranh cổ. Phải nói, đúng là bồng lai tiên cảnh ! ấy thế !
Chú tôi cười thoảng một hơi, rồi tiếp :
- Đang đi, bỗng ông kỵ kêu to : Đây rồi, và cúi xuống, ông kỵ trật đôi guốc mộc ra, cắp vào nách, bảo chú leo theo kỵ lên một cái dốc đất đỏ. Thấy chú có vẻ ngần ngừ và nhìn kỵ như có điều gì thắc mắc, ông kỵ liền cười : "Đây là chỗ ở của các cụ họ Lã ta, cháu ạ. Đừng cười kỵ nhé ! Kỵ là người kém cỏi nhất trong các bậc tiền bối của cháu. Kỵ chỉ ở làng, học hết ấu học ngũ ngôn thi thôi. Chỉ là anh lão nông nhưng kỵ là anh chọc trời khuấy nước ở làng, thấy sự bất bằng là không có chịu, nên bọn hào lý rất
căm kỵ. Chúng là bọn sâu mọt. Vơ vét của dân chúng không từ một thứ gì, kể từ đôi guốc mộc. Thành ra kỵ quen nết là cái gì của mình cũng cứ phải cắp vào nách cho chắc chắn !".
Ba chú cháu chúng tôi cùng nấc lên cười. Chú Dũng gật gù, rồi đổi giọng nghiêm nghị : - ấy thế. Thế là chú theo kỵ leo lên quả đồi, đến trước một ngôi nhà gỗ nhỏ. Trước cửa ngôi nhà có một ông già râu đen, mắt sáng đang đi mấy đường quyền của bài Mai Hoa. Thấy chú và kỵ ông già nọ dừng bài quyền, chắp tay, cúi đầu, thi lễ. Kỵ cười : "Thằng cháu đời thứ mười sáu dòng họ ta đây mà" rồi quay lại chú : "Đây là con trai của ta, tức là cụ, là tằng tổ của cháu".
"Cháu chào cụ ạ". - Chú nói. Lạ thay, cụ cứ đứng hai tay chắp, hai mắt mở trân trân rồi lát sau lã chã dòng lệ rơi.
"Cụ tằng tổ cháu cương nghị lắm, nhưng hay bị xúc động. Thôi, để ta kể thay vậy". Kỵ nói. Thì ra, theo lời kỵ, cụ tằng tổ đỗ đầu thi hương, là bậc danh sĩ nổi tiếng, lại có tài dùng các pháp thuật hộ mệnh tàng hình với các phép nhâm, cầm, độn, toán. Cụ tằng tổ khi làm quan trong triều đã nhiều lần khuyên can vua tránh điều bạc ác, làm điều nhân nghĩa cho dân chúng, được các trung thần nghĩa sĩ trong triều vô cùng mến mộ. Thế nhưng, cuối cùng, người lại bị bọn nịnh thần vu oan hãm hại. Người bị vua bắt giam, bọn ngục tốt ngày đêm khảo đả, cứ ngực người chúng đá, bắt người khai là cầm đầu gian đảng. Căm uất, người đã vượt ngục dấy binh và hy sinh nơi trận tiền vì một mũi tên độc bắn trúng ngực.
Im lặng cho câu chuyện trải cái dư ba xúc động của nó. Cái quạt trần vẫn quay, nhưng ý tứ khép nép. Ngưng một lát, chú có vẻ bị kích động, nói tiếp :
- Kỵ vừa kể đến đây thì nghe thấy một giọng oang oang ở bên cạnh. Quay lại, chú thấy một người đàn ông nai nịt gọn gàng, chân đi ủng, đầu đội mũ bình thiên, hai tai ngang, tay cầm thanh đoản đao, vừa đi tới.
- A, ông của cháu Dũng đây rồi !
Tôi định đưa cháu sang thăm ông đây.
Kỵ reo mừng. Người đàn ông tướng con nhà võ, tức là người ông của chú, nghe vậy, lập tức bước tới, cắp thanh đoản đao vào nách, ôm chầm lấy chú.
- Trời ! Cháu của ông đây, hả ?
Chẳng hay cháu có việc gì hay là lạc lối xuống đây ?
Chú đáp :
- Cháu là công nhân địa chất.
Cả kỵ lẫn ông đều ngơ ngác không hiểu. Chú liền giải thích :
- Cháu đi tìm sắt trong lòng đất.
Sắt để làm vũ khí, làm máy móc cho đất nước, kỵ với ông ạ.
- à. Rứa thì kỵ hiểu. Sắt để rèn thanh đoản đao ông cầm tê !
- ừ, vậy ông cũng hiểu ! Với thanh đoản đao ni, ông đã cùng nhị vị tướng quân nữa, dẫn ba nghìn phu thợ, binh lính khởi nghĩa và suýt nữa thì thay đổi
được cảnh huống sơn hà hồi đó, cháu ạ.
- ông kể cho cháu nó nghe !
Kỵ đưa mắt, nói. ông chống mũi dao xuống đất, nhìn chú :
- Cháu học sử ký nước ta có nghe nói có một thời vua chúa nhà Nguyễn đua nhau bóc lột, hà hiếp dân chúng, tích tụ của cải, xây dựng lăng tẩm không ?
- Cháu có biết.
- ông làm tướng trong triều thời đó. Đau lòng lắm, cháu ơi. Ba ngàn phu chia làm hai hiệp, mỗi hiệp sáu tháng ròng, liên tục sáu năm trường. Lính cực nhọc đằng lính. Phu cực khổ đằng phu. Canh năm dậy. Canh hai mới ngừng công việc. Lại thêm bọn biện lý hộ công ngày đêm thúc ép. Hờn căm chất ngất cao bằng núi. Ba ngàn thợ dưới sự chỉ huy của ông chia làm ba đạo, canh năm ngày đó nhất tề vùng dậy. ông dẫn đầu trung đạo, xông thẳng vào tâu môn, áp sát giường bạo chúa. ại chao, thanh đoản đao này chỉ còn cách thân thể tên vua bạo tàn một bức vách thì tên Chưởng vệ Long võ quân hèn hạ thức giấc, kịp thời chạy ra chẹn cửa. Đúng lúc ấy ông phát chứng đau bụng. ại, trời chưa cho ta vận hội ! ông ngă xuống và bị mũi giáo của chính tên Chưởng vệ nọ đâm vào tim. Sau đó cả gia quyến, họ hàng ta còn bị xử tội lăng trì, bêu đầu, tru di tam tộc và tịch thu tài sản. Có lẽ, nhờ ân ưu xóm làng mà dòng họ chỉ còn một giọt máu, ấy là bố con lúc ấy là đứa hài nhi, thoát được, nhờ sự che giấu của xóm giềng.
- Bố cháu Dũng có nhà không, nhẩy ! - Kỵ bỗng nghển cổ sang trái, cao giọng hỏi.
- Có đấy ! - ông đáp thay.
- Ta sang đó đi. Cho bố con hắn trộ nhau, cho hắn mừng !
Thế là cả kỵ, cụ, ông đưa chú đi... Lúc đó hình như là trời đã sáng...
Tôi như chồm lên, rùng mình :
- Chú ơi, chú có thấy ngực ông có vết đạn không ?
Chú Dũng nhìn tôi, xa lạ :
- Ai bắn ông ? Làm gì có ai bắn ông ?
Tôi lặng đi.
Da tay tôi nổi gai rờn rợn. Những cảm xúc phi thường rùng rùng chuyển động trong tôi. Tôi nổi chìm trong câu chuyện vừa hư ảo lại vừa như xác thực chú tôi vừa kể. Tôi nhớ tới buổi tôi cùng bà tôi viếng mộ ông tôi ở Yên Kỳ. Người ta chẳng ai sống mãi cả. Ai cũng chết. Nhưng, cái chết không cắt rời con người với những người còn đang tiếp tục sống.
Vẫn đang mơ màng trong ảo giác, tôi sờ tay chú tôi, và câu hỏi tự buột ra từ tâm não tôi, trượt qua vành môi tôi :
- Chú ơi, thế chú có thấy bố cháu ở dưới ấy không ?
- Không ! Sao bố cháu lại ở dưới ấy ! Bố cháu còn sống. Bố cháu vẫn
đang lái xe trong quân đội.
Chú Dũng nói quả quyết, và nhìn tôi cái nhìn trắc ẩn. Tôi đứng vụt dậy, nghẹn ngào không sao kìm nén được :
- Chú ơi, bố cháu bị bọn Pôn Pốt bắn ba phát AK vào ngực, nhưng vẫn đưa ô-tô về tới địa điểm và không chết !
Sung sướng trào nước mắt, nhưng như một đớn đau cảm ứng từ truyền kiếp, tôi vẫn thấy nhói đau ở ngực mình.
Cái quạt trần thả sức quay. Ba sải cánh xanh văng tít mù. Nó hoạt động để bù lại mấy năm trời chết đứng. Cái Thảm thích lắm. Mùa hè in dấu ở khắp nơi. Cả trên người nó. Bà gọi nó là con phe rôm. Chiều nào bà cũng tắm chanh và lá mướp cho nó mà lưng nó cứ lẩn mẩn như lên sởi. Nó cũng là đứa tợn. Luôn miệng nó gào : "Vặn nhanh nữa lên, anh Duy !. Nó không biết rằng cái quạt là đầu mối câu chuyện rắc rối giữa lão Hứng, con người gian ác chết xuống âm phủ đáng bị giam vào ngục tối cho quỷ sứ trừng phạt, với chú tôi, con người chứa đựng bao điều bí ẩn về tài năng và hiểu biết.
Thấy cái quạt chuyển động sau bao ngày bị lão cúp điện, bảy hôm sau kể từ hôm hạch lạc chú tôi, bị chú tôi vặc lại, cứng họng, lão Hứng lầm lầm cái mặt ngay từ khi bước vào căn nhà, đi qua buồng nhà tôi. Ba lão bảo vệ đến ở cùng lão cũng đeo bộ mặt ác thần như thế. Không thấy con Jăng đâu. Qua trò chuyện của bọn họ thì biết họ gửi con chó giống này ở một nhà nào đó, gần đây.
Không hiểu bên trong nghĩ ngợi, dự tính gì, chứ bề ngoài, chú Dũng tôi thản nhiên như không. Với một con người như chú : mạnh mẽ, táo bạo, tài năng, trong người sôi sục một dòng máu phiêu lưu, nhưng lại rất hồn nhiên, vô tư, bản năng nữa ; thật cũng khó đoán.
Tuy vậy, tôi cũng vẫn lờ mờ ngửi thấy cái mùi máu lửa của cuộc chiến
căng thẳng giữa lăo Hứng và gia đình tôi, trước hết là với chú Dũng. Nhiều hôm cái quạt đã là khởi đầu của nhiều lời qua tiếng lại giữa chú tôi và lão. Bởi vì, có những trưa hè nóng như thiêu đốt, cái quạt đang quay vù vù, bỗng chậm dần và ngưng hẳn. Rõ ràng là có sự khiêu khích và ngấm ngầm một thủ đoạn ác hiểm gì đây. Chú tôi cố nén giận trước chuyện này :
- Anh Hứng ơi, anh có hiểu rằng bốn người chúng tôi chỉ có một diện tích là sáu mét vuông và nhiều lúc nóng quá, chật quá, tôi phải ra hiên nằm không ?
Buồng trong không có tiếng đáp. Chú tôi đánh động vào tấm liếp ngăn. Hứng vẫn tảng lờ.
Tình trạng này lặp đi lặp lại vài lần rồi.
Chiều nay lại xảy ra. Cơn bão xa ngoài biển Đông dồn tụ oi nồng, ngột ngạt đến nghẹt thở và mồ hôi cứ rịn ra nhây nhớp khắp người. Mất quạt thì phát ốm mất. Sau khi chú tôi gọi, hỏi,
trình bày hoàn cảnh nóng bức, nhún nhường, van vỉ, Hứng vẫn giở bài bây, ậm ờ một lúc rồi cất tiếng ngáy, chú tôi liền to tiếng :
- Anh Hứng, sao anh lại có thể nhẫn tâm như thế được nhỉ !
- › !... ông nói cái gì thế ?
- Anh ăn hiếp dồn chúng tôi vào chỗ bí quá đáng lắm rồi đấy. Nên biết
điều, anh Hứng ạ.
- Nhưng mà mất điện thì tôi biết làm thế nào !
- Anh nói dối mà không biết ngượng à ?
- Tiên sư thằng nào nói dối anh nhé.
Hứng lên giọng chửi thề, giữa vài ba tiếng cười nén lại trong bàn tay bịt miệng thoang thoảng mơ hồ. Chú tôi không để ý đến chi tiết ấy, cau có :
- Thật là quá đáng ! Quạt mình thì vẫn vu vu.
- Anh Dũng ạ, tôi không khốn nạn như anh tưởng đâu.
- Rõ ràng tôi nghe thấy.
- Thì mời anh vào kiểm tra !
Chú tôi bật ngay dậy, trên người chỉ độc cái quần đùi, hầm hập bước theo lối đi, rẽ vào buồng Hứng.
Tai biến xảy ra quá đột ngột, nhanh chóng !
Tôi chỉ nghe thấy một tiếng kêu hự dội từ bụng lên miệng của chú tôi. Rồi sau đó là những tiếng đấm, đá huỳnh huỵch, chan chát, bồm bộp của một đám ba bốn người, cùng tiếng thở hổn hển, tiếng rít khoái trá của bọn chúng.
Biết là có sự chẳng lành, tôi nhảy xuống giường, la to : - Bọn ăn cướp, giết người, các bác ơi !
Nhưng, tôi bị ngay một kẻ nào đó tát cho một cái ngã giúi ngã giụi vào góc buồng. Chồm dậy, tôi thấy ba bốn bóng đàn ông đang chạy từ buồng Hứng, qua nhà tôi ra sân. Một tên nhổ nước bọt chửi : "Phải biết lễ độ với kẻ nắm công tắc điện nhé !".
Tôi chạy vào buồng Hứng. Cửa buồng đã khóa. Bọn Hứng đã chuồn, sau khi bày kế hiểm lừa chú tôi vào buồng, bất ngờ đánh chú tôi một trận đòn thù. Bọn này là quân đánh thuê nhà nghề. Ngay từ cú đánh đầu tiên, chúng đã hạ chú tôi xuống đất và điểm huyệt cho chú tôi ngất đi. Chúng rất sợ chú tôi với sức quật cường tuổi trẻ lại từng trải trong lao động và chiến đấu, sẽ hồi tỉnh, nên ra đòn rất ồ ạt với phương châm đánh nhanh, rút nhanh. Bây giờ chúng đã kéo chú tôi ra khỏi căn buồng và vứt chú tôi lại trên lối đi xuống bếp.
Tôi ngồi xuống cạnh chú tôi. Nhưng, ngay lúc ấy chú tôi đã mở mắt, chống tay ngồi dậy và đưa mu tay quệt mép chùi dòng máu đỏ đang rỉ ra.
- Không hề gì ! Đừng nói cho bà biết ! Bọn chúng đâu cả rồi ?
- Chúng chạy cả rồi, chú ạ.
Chú tôi đứng dậy. Người chú đẫm mồ hôi. Nhưng không có dấu vết thâm tím. Mặt chú lì lì, mép chú trễ xuống, đọng niềm cay uất.
Bà tôi đi chợ về lúc đó.
Không hiểu là có điều gì báo trước mà bà tôi có vẻ hớt hải thế. Hấp tấp gắn liền với tai nạn hay vì bà tôi lúc đó già yếu, mệt mỏi, hoa mắt nên khi rẽ quặt vào nhà, đầu gối liền đập vào cái cọc sắt chôn làm cữ ở cổng. Kêu ối một tiếng, bà tôi buột rơi cái làn, tay ấp lên vết đau và khuỵu xuống giữa cơn nắng quái ban chiều.
Tôi và chú tôi vội chạy ra. Chú tôi định bế bà. Bà không chịu. Một tay ôm ngang lưng chú, chân đau co, chân kia tập tễnh, bà nhảy từng bước nhỏ vào nhà. Cái Thảm đi xin lá láng về hơ nóng cho bà đắp để tan máu tụ ở chỗ đầu gối vấp. Nhưng, không đỡ. Bao nhiêu cái mệt nhọc hình như chỉ chờ có dịp này hóa thành cơn đau nhức hành hạ bà.
Bà ôm chân, rên rẩm cả đêm.
*
* *
Nhưng, ngày đó là ngày gì nhỉ, mà tai biến liên tiếp tai biến dội xuống gia đình tôi ? Cả khi màn đêm đã buông.
Đêm ấy lại là một đêm không khí ngột ngạt, oi bức chưa từng thấy. Đôi lúc nhấp nháy ánh chớp nhỏ, nhìn lên thấy một trần mây, ngổn ngang mây cục, mây tảng, mây hòn, đen đen, xám xám. Cả dăy nhà chỉ thấy tiếng trở mình, cằn nhằn của người già con trẻ mất ngủ.
Chú tôi trở dậy đi tắm.
Từ hôm chú tôi về, chúng tôi trở lại sử dụng cái buồng tắm ở cạnh bếp của Hứng. Hứng thấy vậy chẳng nói chẳng rằng. Nhưng trò đánh trộm du côn lúc chiều với chú tôi, chứng tỏ thằng cha này là tên gian hiểm không vừa. Lão không chịu lép trước chú tôi đâu. Lão vẫn coi mình là kẻ mạnh, kẻ nắm công tắc điện.
Quả nhiên, chú tôi bị vào bẫy của lão lần thứ hai, ngay đêm ấy.
Như trên tôi đã nói, Hứng cùng đồng bọn về căn buồng của lão mà không thấy con Jăng đâu. Tôi cũng đã bị chúng lừa khi nghe chúng nói rằng con chó giống nọ hiện đang gửi ở nhà bạn chúng gần đây. Sự thật thì con Jăng đã bí mật trở về. Con béc-giê này to lớn, hung hãn, dữ tợn lắm. Nó hoàn toàn có thể đóng trọn vai tên hung thủ gây tội ác. Hứng gian ngoan đã tỏ ra vô cùng hiểm độc khi sử dụng con chó đực này để trả thù chú tôi. Trò này quả là chỉ có bọn lưu manh chuyên nghề mới bày ra được. Với con chó này, người khỏe mấy cũng chỉ là một đối thủ non yếu. Hơn nữa, dẫu có thương vong nặng nề đến đâu, nạn nhân cũng không có lý mà kiện cáo. Chó xích ở trong nhà tôi, anh mò vào làm gì để nó phải nổi cơn hung đồ ?
Thế là con Jăng được bí mật xích vào bếp. Cửa bếp được mở thông với cửa buồng tắm. Sợi xích đủ dài để
hung thủ có thể tung hoành trong buồng tắm.
Chú tôi lần xuống buồng tắm. Chú tôi từng bước bước vào cái bẫy đã giương sẵn của Hứng. Và bẫy sẽ sập, để bọn Hứng lúc này tụ tập ở một nơi nào đó hí hởn, tâng bốc nhau và ăn mừng thắng lợi.
Bọn Hứng thật là những kẻ tinh ma.
Chúng dự tính đúng. Cửa buồng tắm bị đẩy khẽ, kêu kẹt một tiếng, đã đánh thức con Jăng. Nó nhổm dậy, giũ mình. Và khi chú tôi lọt cả người vào, tay đang đưa ra phía trước, sờ tìm cái gáo đặt trên bờ bể nước thì con chó hung tợn kéo cái xích đánh sạt, nhe nhanh, chồm tới trong thế tấn công quyết liệt. Hai chân con chó với những chiếc móng nhọn sắc bập ngay vào ngực chú tôi, và cổ chú tôi đã chạm vào cái mũi ẩm ướt của nó.
Giật mình, chú tôi ngửa người né lui. Có lẽ đó là cái cảm ứng bén nhạy của một người vừa bị lừa sa bẫy, còn nguyên sự dè chừng cảnh giới trong cử chỉ, ý thức. Có lẽ, đó cũng là cái phản ứng tự nhiên của một người còn trẻ tuổi, nhưng sớm dạn dày trong va chạm, luôn ở trong tình thế bất ngờ phải kíp thời có cách ứng xử thích đáng. Đó là hành động thông minh của chiến sĩ đặc công. Bọn Hứng ranh ma, nhưng đã không lường hết mọi sự. Chúng không biết rằng chú Dũng tôi đã từng là lính đặc công.
Lúc này, chú tôi thoát cái ra khỏi tình huống đi tắm, trở lại ngay vị trí người chiến sĩ đặc công đang lần vào vị trí địch, bị khuyển địch tấn công. Lập được trạng thái tinh thần như thế, mọi việc sẽ đảo ngược lập tức ! Thật thế, bình tĩnh và nhanh nhẹn, tránh hàm răng nhọn của con vật, chú tôi lạng sang bên trái. Con chó mất đà chống chân trước xuống đất, nhưng lập tức bật ngay dậy, gần như bay lên, đớp vào bàn tay trái chú tôi giơ cao một cách cố tình để nhử nó. Thôi, thế là vào đúng bài bản rồi. Kẻ đi vồ người đã bị người đưa vào tròng. Nắm đấm
dồn hết sức trẻ và lòng căm hờn cùng ý chí quyết đấu của chú tôi vòng từ dưới quại lên đã đánh trúng ức con chó. Con chó tung người lên, hực một tiếng và đổ nghiêng xuống đất. Không bỏ lỡ thời cơ, chú tôi sáp tới, đè ập hai đầu gối lên mình con chó, và hai bàn tay xòe những ngón tay như sắt nguội chịt lấy cái cổ lông đen chuồi chuội của nó, bóp mạnh.
Nghe tiếng chú tôi gọi, tôi cầm cái đèn đi xuống, thì thấy con Jăng nằm nghiêng, đầu ngoẹo, lưỡi thè giữa hai hàm răng cắn chặt, nó đã chết.
Chú tôi đứng, tay chống nạnh, ngực dội lên hoắm xuống như sóng dồi
- Để nó đấy ! Quân khốn kiếp !
Không cứng tay với chúng nó thì chúng nó ăn thịt mình.
Chú tôi nói trong hơi thở dốc, đưa tay quệt đám mồ hôi vă đầy trán, rồi cùng tôi đi lên nhà.
Bà tôi cựa mình, hỏi :
- Có chuyện gì mà hai chú cháu rì rầm ở dưới bếp lâu thế ?
- Con tắm thôi ! Có gì đâu. Mẹ có đỡ không ?
- Đau ê ẩm khắp người, con ạ. Cả ở ngực nữa.
- Giở giời nên thế thôi, mẹ ạ.
Bà tôi đáp : ừ, rồi trở mình, quạt phành phạch. Được một lúc, lại mở mắt. Chú tôi vẫn ngồi dưới đất, chấm thuốc lá đỏ lòe soi hồng khuôn mặt tròn, rắn rỏi.
- Không đi ngủ đi, cứ ngồi ăn thuốc lá thế làm gì ?
- Con hút hết điếu này đã.
- Bố anh ngày xưa ho hen vì thuốc lá đấy ! Hừ, con trai, đàn ông nhà này, chả ai là không nghiện cả. Cai đi có được không ?
- Khi nào bốn mươi tuổi, con sẽ bỏ hẳn.
- Bố Duy năm nay bốn mươi rồi đấy. Khổ, gần chục năm rồi, chả hiểu sống chết ra sao !
- Chết thế nào được mà chết ! Mẹ cứ lo làm gì !
- Vẫn rằng là nghĩ thế, nhưng mà...
à này, con làm cách gì, hay là đi phép vào trong đó, hỏi tin tức anh con, xem thế nào. Mẹ nghe trong người hồi này không được như hồi năm ngoái.
- ôi, mỗi tuổi mỗi yếu, mẹ đừng lo. Mẹ còn sống với chúng con chục năm nữa. Rồi con học đại học xong, con còn lấy vợ chứ.
- ừ thì mẹ cũng mong sống mãi với con cháu. Chứ nếu bỗng dưng phải bỏ các con, nhất là các cháu... thì mẹ áy náy lắm.
- Mẹ chỉ nói gở !
- Cha bố anh, cũng biết trách mẹ nói gở. Này, con...
- Mẹ bảo gì cơ ?
- Anh thắp hương trên bàn thờ bố anh hộ mẹ. Vừa đặt mình là mê. Mà mê sợ quá. ông lão đứng ở cửa, mời vào không vào, chỉ khóc. Gặng mãi mới nói : tôi thương mình và các con, cháu quá, có biết đâu rằng mình chết rồi, vợ con, cháu nội, cháu ngoại, phải sống với lắm bất công thế !
Chú tôi leo lên ghế, cắm ba nén hương trên bàn thờ ông tôi. Không ngờ cái Thảm cũng thức giấc lúc đó. Nó rỉ tai tôi rằng nó mê thấy mẹ nó về, dẫn nó tới trường mẫu giáo. Tôi nằm im, nhớ tới câu chuyện huyền hoặc chú tôi kể hôm rồi, trong mùi thơm của hương trầm.
Tôi không ngờ đêm đó lại là những giờ phút sum họp cảm động hiếm hoi của gia đình tôi. Số phận hình như chưa cho phép chúng tôi được sống bình yên, đông đủ.
Tình thế và cá tính đã là nguyên cớ của các tai họa. Tai họa sau bắt nguồn từ tai họa trước và nặng nề hơn.
Sáng bửng, tôi và cái Thảm đang thiếp đi trong giấc ngủ bù thì nghe thấy tiếng bà tôi rền rĩ :
- Giời ơi, các ông nghe kẻ nào vu oan giáng họa cho con tôi thế !
Tôi tụt xuống giường. Bà tôi ngồi trên đất, cái khăn nhung buột rơi trên vai. Mái tóc bạc cùn phật phờ sau gáy. Chân đau co, chân lành duỗi. Mặt rộc rạc, đau đớn. Chú tôi mặc quần áo bộ đội, đứng khoanh tay, tựa lưng vào tường. Hai chiến sĩ công an mặc cảnh phục, đứng ở cửa đang xua đuổi hàng xóm đến xem ; lấp ló mặt hai đứa con gái nhà cô Đại Bàng ở ngoài cửa. Trong nhà một chiến sĩ công an khác đang đọc lệnh bắt giữ chú tôi. Lý do bắt giữ ghi trong lệnh chung chung là :
để đảm bảo an ninh, trật tự !
Thấy bà tôi mếu máo, người nọ cúi xuống :
- Cụ đừng lo. Không có chứng cứ thì anh ấy sẽ được thả ngay thôi. Cơm gạo đâu mà nuôi không bây giờ.
Chú tôi lừng lững đi ra tới cửa, quay lại : - Mẹ đừng khóc. Chúng con không làm điều gì tủi hổ cho dòng họ, tổ tiên, bố mẹ đâu.
Tôi và cái Thảm chạy theo giữ tay chú. Cái Thảm òa khóc.
Tôi đã không thoát ra khỏi cái mạng lưới định mệnh, nếu như là nó có thật, đang chụp xuống gia đình tôi. Tôi cũng như em Thảm, có mẹ, có cha mà lại hóa ra côi cút giữa cảnh đời. Nhiều khi chúng tôi đúng mà lại bị quy kết là kẻ có tội. Còn bây giờ... Bắt đầu là bài tập làm văn kể chuyện. Với đầu đề cô giáo Tuyết ra : "Em hãy kể lại một câu chuyện dũng cảm mà em được biết (nghe, thấy)", tôi đã say mê viết lại hơn một trang giấy chuyện chiến sĩ lái xe bị ba viên đạn AK xuyên phổi mà vẫn đưa xe được tới đích an toàn và không chết. Tất nhiên tôi đinh ninh chiến sĩ đó là bố tôi. Bố tôi không chết. Dứt khoát là thế vì chú tôi đã từng đến cái thế giới của những người đã khuất, đã gặp ông, cụ, kỵ tôi, và khẳng định là không có bố tôi ở dưới đó. Viết chuyện này với tất cả tình yêu và lòng kính trọng cha tôi, tôi chắc mẩm đó sẽ là chuyện hay nhất kỳ làm văn này. Gì chứ chuyện của tôi hay hơn chuyện của thằng Kim Phú là cái chắc.
Thằng Kim Phú, thằng Văn Giang học cùng tôi từ mẫu giáo. Lên lớp một, lớp hai, nay là lớp bốn, chúng cũng vẫn cùng lớp với tôi. Hai đứa chơi với nhau, xa lánh tôi vì tôi học giỏi hơn chúng, lại là con nhà nghèo. Giữa học kỳ một, thằng Văn Giang chuyển vào Sài Gòn theo bố mẹ. Còn lại thằng Kim Phú, con ông đại tá công an. Mất bạn, thằng này mới lân la làm lành với tôi và Việt. Mẹ nó cũng thúc nó chơi với tôi. Vì nó học kém quá. Quy tắc tam xuất làm không nổi. Văn nó còn kém nữa. Lần này, nó ăn cóp một câu chuyện in ở sách Kim Đồng của nhà văn Phong Thu nổi tiếng. Chuyện kể về một em nhỏ đánh vỡ cái lọ, dũng cảm nhận lỗi trước mẹ. Nó chép nguyên si, không sai từng dấu chấm, phẩy.
Chắc chắn cô Tuyết sẽ cho nó ăn trứng hay ăn gậy. Còn tôi, xoàng là tám, nếu không là chín, mười. Nào ngờ, tôi bị một vố tẽn tò, điếng người ! Đúng một hôm sau ngày chú tôi bị bắt giữ, đưa về giam ở trại tạm giam, cô giáo trả bài văn. Và tôi đã nhận lại bài văn sáng tạo của mình với nỗi tủi hổ chưa từng nếm trải. "Hoan hô nhà văn tương lai của nước Việt Nam ta. Em bịa tạc một câu chuyện đến nực cười. Nhưng, em đã gặp may, vì em đã làm cô buồn cười quá, nên em không bị không điểm".
Đó là lời phê của cô giáo Tuyết ở rìa bài văn của tôi. Cạnh lời phê tàn nhẫn và giễu cợt vô lối đó là con số 1 to tướng nhọn như một mũi tên. Tôi giấu vội bài văn xuống gầm bàn, tim như bị tên bắn trúng, đau lịm, nhưng cố gượng lên để đón nhận điều trớ trêu thứ hai : nghe cô đọc bài văn khá nhất đợt này, bài của thằng Kim Phú.
Cả lớp im lặng. Chỉ có Việt, sau khi nghe cô đọc và phân tích cái hay của bài văn ăn cóp nọ, là giơ tay.
- Em Việt có ý kiến gì ?
- Thưa cô, bài văn của bạn Kim Phú em nghe quen quen, hình như đã đăng ở đâu rồi đấy ạ.
Cô Tuyết xua tay :
- Cốt truyện có thể giống. Nhưng lời văn thì khác, em ạ.có - Nhưng thưa cô, lời văn cũng giông giống ạ.
- Giống là giống thế nào ! - Cô nghiêm mặt. - Em đọc nhiều đã bằng cô, hả ? Ngồi xuống !
Giờ ra chơi, thằng Kim Phú làm mặt lạnh với Việt. Còn với tôi, nó vác mặt ngay lên. Tôi không thèm chấp, mặc nó. Nhưng, đến giờ ra chơi thứ hai, bỗng có đứa chạy đến rỉ tai tôi : - Này, Duy. Thằng Kim Phú nó bảo chú mày vừa bị bắt.
- ừ đấy, thì sao nào ! - Tôi lườm thằng nọ, thấy nó im, liền thêm : -Người ta tạm giữ để kiểm tra. Không có gì thì người ta sẽ thả ra.
- Sao bảo chú mày là gián điệp Tàu ở biên giới mới về.
- Láo ! Đứa nào bảo mày thế ?
- Thằng Kim Phú. Nó bảo chính bố nó là thiếu tướng công an đã ký lệnh bắt chú mày.
Tôi sững sờ. Chả lẽ cái chuyện nó dọa tôi hồi còn học ở mẫu giáo lại là thật. Hay là, cái Vành Khuyên học lớp tám vốn căm ghét tôi, chú tôi, đã ton hót mọi chuyện xảy ra với thằng Kim Phú.
Giờ ra chơi thứ ba, tôi xộc đến định hỏi thằng Kim Phú chuyện nọ. Nhưng, vừa thấy tôi, thằng này liền lặp lại cái trò kết bè đảng, phong cấp tước từ hồi ở mẫu giáo, chỉ mặt tôi, hét :
- Các đồng chí sĩ quan cấp úy, cấp tá ! Các đồng chí hăy bắt trói tên phạm pháp này lại.
Trông cái thân hình lẳng khẳng, cái mặt lấc láo của nó tôi đã thấy ghét quá. Tôi xồng xộc tiến đến thẳng nó :
- Mày bắng nhắng cái gì thế !
Tức thì nó rút cái còi trong túi đút vào miệng, thổi đánh toét một tiếng rất chối tai. Trời ! Không hiểu ông bố đại tá hay thiếu tướng gì đó có thấu hiểu nông nỗi là : con ông nó lợi dụng luôn chức vị, phẩm tước của ông để dọa nạt, áp chế bạn bè không ?
- Các đồng chí bắt giam tên này lại ! - Nó ra lệnh.
- Mày nói ai là phạm ? - Tôi vặn.
- Mày ?
- Mày nói láo !
Tôi quát. Nhìn xung quanh đã thấy ba bốn thằng lẻo khẻo đang rập rình định giơ tay chộp mình. Chúng đều muốn tuân lệnh thằng Kim Phú. Tôi đoán chắc rằng thằng Kim Phú lại đã tổ chức được một đám hầu cận mình bằng cách đưa oai danh bố ra và bắt bọn kia phải đóng tiền cung phụng. Nhưng xem ra bọn muốn bắt tôi đều có vẻ e sợ. Con nhà giàu, có đứa nào vóc dạc đô khỏe như tôi. Tôi mười tuổi, mang tố chất di truyền của dòng họ có sức vóc, lại quen sống trong kham khổ, nên vừa khỏe lại vừa dai sức. Vào tuổi này, tôi cảm thấy sâu sắc thế nào là sự xúc phạm đến danh dự. Vả chăng, dư ảnh của cuộc bắt giữ chú tôi để lại trong tôi niềm cay uất lúc này dội lên cay sè gốc mũi tôi, vùng xoang trán tôi. Mình không cứng tay là bị nó ăn thịt liền. Tôi nhớ tới lời chú tôi khi trừng trị con Jăng cùng lúc lòng tôi rực lên ý nghĩ phải cho thằng Kim Phú một trận.
Thế là tôi nắm tay lại, gằm mặt xuống, lao thẳng vào thằng Kim Phú, một tay giơ cao che đỡ vùng mặt, còn tay kia như máy ra đòn tới tấp đúng
bài bản chú tôi đã dạy. Thằng Kim Phú giật lùi, nhưng nó cũng đã lãnh liên tiếp hai quả thượng đẳng vào mặt. Gầm lên, nó tung chân đá móc, một quả súc của tôi đã đánh bật chân nó lên. Mất đà, nó ngã ngửa tênh hênh và nằm khòng kheo trên sân như hình nhân bằng gỗ chắp, không sao đứng dậy nổi.
Trận đấu diễn ra trong nháy mắt. Bọn lâu la của thằng Kim Phú xô lại, đỡ nó dậy. Tôi lảng đi, ngỡ rằng cũng chỉ là chuyện bình thường vẫn hay xảy ra và chìm vào trong nhịp sống sôi động học trò. Nào ngờ, cái thằng có thói ăn trên ngồi trốc ấy lại là cái thằng cò hương, được bố mẹ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, chỉ giỏi hò hét, chứ va chạm mạnh là không sái tay cũng bong gân, trẹo cẳng. Bị mất đà ngã ngửa, nó vội vàng đưa tay chống đất. Nó đã bị chính nó hại nó.
Được bạn nâng dậy, nó so vai lại, khòng khòng cánh tay trái, sụt sịt khóc.
Cái thằng hèn ấy nhờ các bạn dẫn đến cô giáo Tuyết dạy văn, đồng thời là cô giáo chủ nhiệm lớp chúng tôi. Ngay lập tức, tôi bị mời đến trước mặt cô giáo :
- Nào, em đã làm hại bạn như thế kia, em có thấy xấu hổ không ?
- Thưa cô...
- Không thưa gửi gì cả. Tôi biết là vì sao em đánh bạn Kim Phú rồi. Em ghen ghét với tài năng của bạn ấy chứ gì ! Em tồi lắm ! Em thử nghĩ kỹ đi, như thế có xứng đáng là học sinh không ?
Tôi cúi gằm, mặt ê dại đi. Trời ơi, sao tôi bị nhục mạ đến thế này. Cô ơi, sao cô lại có thể gán cho em cái ý nghĩ đê hèn, đốn mạt như thế ?
Thằng Kim Phú được đưa về nhà nó ngay. Tôi ngồi học tiết cuối cùng, đầu óc mung lung, hỗn loạn. Nhưng, nỗi oan ức ấy chưa phải đã là đến mức cay đắng tận cùng. Tan học, tôi bị gọi lên văn phòng hiệu trưởng và ở đây, tôi đã phải chịu đựng một cực hình khổ
nhục mà tôi tin rằng sau này mỗi khi nghĩ lại, nếu không bình tĩnh, tôi có thể nổi cơn khùng điên, phá phách.
Tôi cam đoan là thế. Và tôi, cho đến giờ, vẫn không tài nào giải thích nổi, thân phận tôi sao lại có thể bị khinh rẻ đến thế, sao lại nằm trong tay ngẫu hứng của một người đàn bà xa lạ, chẳng phải là giáo viên, chẳng phải là hiệu trưởng, hiệu phó nhà trường.
Người đàn bà ấy đi chiếc xe La-đa đến trường. Cặp mông và bộ đùi mập bó trong cái quần bò hoa. Ngực nở căng sau làn áo phông cá sấu. Ngoài bốn mươi rồi, nhưng son phấn đang cố trẻ hóa bà, tạo cho gương mặt choăn choắt của bà cái vẻ kiêu kỳ và nanh ác của mụ dì ghẻ.
Bà như vồ lấy tôi, lôi tôi xềnh xệch vào căn buồng khi tôi vừa rụt rè đi đến trước cửa để trình diện cô chủ nhiệm.
- Mày đây, hả ? Cái thằng mặt sứa gan lim này. Mày ghen tức gì với con tao ? Mày thù hằn gì với nó, hả ?
Bà nhe những chiếc răng trắng như sứ, nhọn, nhỏ như răng chuột, và rít lên những tiếng chói tai, đồng thời hai tay bà cứ rung lắc, lay giật tôi như tôi là cái gốc cây bà phải đánh đổ vậy.
Tôi đã phản ứng lại. Tôi quẫy ra khỏi những ngón tay của bà. Lập tức bà gí ngón tay vào trán tôi day day và đay đả :
- Mày ghen ăn ghét ở với con tao, hở ? Mày mà dám so sánh với con tao, hở ? Con tao là lá ngọc cành vàng. Còn mày, mày là con cái đứa đánh ** thập phương, là con thằng khố rách áo ôm, cu-li poóc-tê. Thằng chú mày là hạng lưu manh có tiền án, tiền sự. Bà mày là con mụ nặc nô...
Bà thốc tháo tuôn ra, xối vào tôi mọi lời nguyền rủa, mạt sát nặng nề. Hóa ra bà đã đủ thời gian thu thập những thông tin cần thiết về gia đình tôi. Bằng cách qua mồm thằng Kim Phú hay qua hồ sơ bắt giữ chú tôi mà bà có thể biết ; và vì không cắn xé được tôi nên bà dùng chúng để hạ nhục tôi.
Cô Tuyết có lẽ thấy bà bị kích động quá, nên dịu dàng bảo bà : cứ bình tĩnh để cô dạy bảo tôi. Tức thì bà lồng lên như ngựa vía và xỉa vào mặt tôi : - Dạy bảo gì cái hạng này hở, cô ! Bé đã thế này thì lớn lên sẽ thành đầu trộm đuôi cướp như chú nó. ôi giời, cái quân vai u thịt bắp, mồ hôi dầu khốn nạn này, nó lỗ mãng quen thói rồi. Cái tay thằng bé nhà tôi mà nó dám mắm môi mắm lợi bẻ quặt lại thì không gãy cũng trật khớp chứ còn gì !
Mặt tôi đã tím lịm. Lạ sao lúc này tôi không còn cảm giác nhục nhã nữa. Phải, việc gì mà nhục nhỉ ? Kẻ kia sỉ nhục tôi. Nhưng, dựng chuyện vu cáo, tức là bà bịa đặt, gán cho tôi cái xấu xa tôi không có thì tôi không việc gì mà nhận lấy cái nhục. Tôi chỉ căm phẫn thôi. Và tôi phải gầm lên, sau một hồi nín hơi, tức nghẹn :
- Bà im đi !
Có lẽ bị bất ngờ nên người đàn bà nọ há hốc mồm, sửng sốt. Lúc ấy cô giáo Tuyết, ôi cô giáo kính mến của em, từ đầu tới giờ cô chẳng những chẳng đứng về phía kẻ bị vùi dập, chẳng có một hành động tối thiểu nào để bảo vệ thằng học sinh khốn khổ của cô khỏi móng vuốt cú diều, trái lại, cô lại dửng dưng, bỏ mặc nó bơ vơ đơn chiếc trước trò trả thù hung bạo ; giá như cô cứ tiếp tục im lặng thờ ơ thì cũng còn hơn là bỗng dưng cô vằn mắt nhìn tôi, quát : - Em không được hỗn ! - Cô đã về hùa với cái ác, cái vô lý.
Thế là người đàn bà nọ được thể, ngoạc mồm tru tréo : - Đấy, cô xem. Cái đồ bất nhân độc ác thế đấy. Nó dám chửi cả tôi. Này, bà nói cho mày biết. Cả nhà mày không đáng giặt sơ-líp cho nhà bà nhé ! Tôi đề nghị nhà trường phải đuổi học thằng này. Không thì tôi kiện lên tận Bộ giáo dục các người.
Rồi giật phắt cái ví đầm để trên bàn, người đàn bà quái kiệt nọ vùng vằng lao ra cửa, như thể là dằn dỗi gì đó. Nhưng, tới cửa, bà lại quay ngoắt lại, chỉ vào mặt tôi, gằn : - Chưa xong với bà đâu ! Bỏ ngay ra, về bảo cả nhà mày gom góp lại, bỏ ra mười nghìn đồng, để bà thuốc thang cho con bà. Không thì còn rắc rối với bà !
Lại một lần nữa, cô giáo phù kẻ thịnh, về hùa với kẻ có quyền hành và giàu có, quen thói tác yêu tác quái vào mọi việc, cô không giữ được lẽ công bằng của người đi dạy dỗ con trẻ, cô dằn hắt tôi :
- Em thấy tội lỗi của mình chưa !
Em làm bà ấy tức giận, em gây bao hậu quả rắc rối cho tôi, em có hiểu không ? Đấy, em tự làm hại em nhé : ai có thể kết nạp em vào Đội được nữa !
Nước mắt tôi ứa đầy vành mi. Tôi sẽ vừa gào vừa khóc vì uất ức, tủi hờn.
Nhưng không, tôi đã chỉ khóc vì thương bà. Bà tôi đã tới. Như bụt hiện lên cứu khổ cứu nạn kẻ yếu hèn, bà tôi đã tới cùng với Việt dẫn đường. ại, Việt, người bạn nhỏ bé thân yêu suốt đời của tôi. Việt đã chạy thẳng về nhà tôi, báo cho bà tôi biết : Cần phải cứu trợ tôi ngay. Bà tôi, cái áo nâu vá vai, gầy gùa, chân đau, tập tễnh chạy dọc theo hành lang gọi tên tôi, rồi đứng lại trước người đàn bà nanh ác cắp ví vừa xỉa xói tôi xong, với tiếng kêu vừa thống thiết, vừa quyết liệt :
- Các người có quyền gì mà hành hạ cháu tôi ! Các người có quyền gì !
Mụ đàn bà nọ liền lảng ra ngoài. Còn cô giáo Tuyết chắc vừa kịp phản tỉnh, nhận ra thái độ thiếu công bằng quá đáng của mình, liền đỡ tay bà tôi : - Cụ ơi, xin cụ cứ bình tĩnh, để cháu nói lại cụ nghe.
Cuối tuần đó, bà tôi được mời tới trường.
Trở về, bà tôi cho tôi biết : Cô giáo nhận là có thiếu sót trong việc này,
nhưng vì rõ ràng tôi đã đánh bạn bị thương nên phải chuyển sang lớp khác, để quan hệ hai bên đỡ căng thẳng, phải hoăn kết nạp Đội một thời gian và gia đình tôi phải nộp tám nghìn đồng thuốc thang cho thằng Kim Phú. Tổn thương của nó có giấy bác sĩ chứng nhận.
Tôi ứa nước mắt thương bà. Bà ôm tôi, xoa đầu tôi, ôi bà của cháu, bà mụ đỡ nâng cháu, một lần nữa bà lại dắt tay cháu đi qua cái hỗn độn vô lý, thiếu nhân cách của cuộc sống này.
Vỗ vỗ vai tôi, bà cười khe khẽ : - Con trai gì mà mau nước mắt thế !
Nín đi không em Thảm nó cười cho kìa ! Sợ bà không có tiền à ? Đâu khắc có đó. Nhiều no ít đủ, lo gì, cháu trai của bà.
Đâu khắc có đó, nói một cách cụ thể là chiều hôm đó, bà tôi chồng cái ghế đẩu lên cái ghế ba nan ở trên giường, và bảo tôi leo lên, tháo cái quạt trần xuống.
Trời hãy còn nóng, nhưng từ khi chú tôi bị bắt, Hứng đã công nhiên giật đứt hết dây điện của cái quạt và nó đã trở nên vô dụng. Thêm nữa, giờ đây nó lại như một vật chứng nhìn chỉ thấy đau buồn. Tất nhiên việc bồi thường thúc ép phải bán cái quạt đi vẫn là lý do chính, vì cũng chẳng còn cách nào khác.
Có người đến tận nhà mua cái quạt đó. Cũng lại là cái lão lái buôn mắt cặp kèm, ăn trầu thuốc dạo nào đã mua cái xe Eska. Cũng lại là cái thủ đoạn chê bai dìm giá và kiểu cách cò kè, bắt bí quen, mòn. Nhưng, lần này bà tôi không còn có được cái ứng phó linh lợi như hồi xưa. Bà tôi lặng lẽ đếm mười nghìn đồng rồi bảo ông ta : "Thôi, ông vác hộ tôi đi !". Khách mua đi rồi, bà tôi ngồi thần ra. Lát sau bà bảo :
trả cho nhà thằng Kim Phú cũng còn được hai nghìn để chu cấp cho chú tôi trong lúc bị tạm giam.
Thứ năm là ngày nghỉ học. Cả nhà dậy sớm. Bà nấu cơm, nắm thành hai nắm to, nhỏ. Nắm nhỏ để ở nhà cho cái Thảm trông nhà ăn trưa. Nắm to bà tôi và tôi đem đi cho chú Dũng. Bà bảo : chả ai người ta cho tù ăn no đâu, huống hồ lúc thóc cao gạo kém này. Nhà giam, tiếc rằng chỉ có thân nhân mỗi tuần tiếp tế cho người nhà bị giam có một lần, chứ nếu được thì mỗi ngày bà phải nắm một nắm cơm to gửi vào cho chú ấy ăn thêm. Cùng với nắm cơm, còn lọ vừng lạc.
Bảy giờ, hai bà cháu đến cửa nơi tạm giam đã thấy người ta đứng chật trong nhà đợi. Tôi lặng lẽ quan sát xung quanh mình. Những làn mây, làn cói, túi nhựa chật căng bánh chưng bánh tẻ, giò, chả, ruốc. Lại có cả người mang nem, thịt nướng, lạp sường, xúc xích. Mặt ai cũng ủ ê như mang tâm sự oan ức. Họ lầm rầm trao đổi chuyện trò, rồi đứng dậy rào rào xếp hàng đôi, khi vừa nghe thấy mấy tiếng kẻng khua kèng kèng.
Gần một giờ đồng hồ sau, bà tôi và tôi mới lọt qua được cái cửa vòm có hai cánh cửa sắt nặng nề, bước vào một căn buồng nhỏ, ở đó có người công an xem giấy tờ và kiểm tra đồ tiếp tế.
- Cụ gửi những cái gì vào ?
- Dạ, có nắm cơm với lọ muối vừng. - Không được để vừng trong lọ nhé.
- Sao ạ ?
- Tai cụ nghễnh ngãng à. Vứt cái lọ đi.
Người nọ lừ lừ nhìn bà tôi như nhìn tên gián điệp, rồi hất hàm :
- Bẻ nắm cơm ra !
- Cái gì ạ ? Nắm cơm tôi gửi cho cháu.
Người nọ cau mặt, không nói không rằng, nhấc nắm cơm bà tôi đặt trên cái bàn mặt đá rửa, bẻ đôi ra rồi ném bịch
xuống, hai tay đập vào nhau như phủ bụi.
- Cụ vào thăm ai ?
- Dạ, thưa con tôi. Lã Văn Dũng.
- Cụ về đi.
- Sao ạ ?
- Không có ở đây.
- Dạ, tuần trước tôi đến thăm, nó còn ở đây.
- Thả rồi.
- Sao ạ ?
- Cụ ra đi. Hỏi lôi thôi măi. Người tiếp theo đi.
Bà tôi vội vơ nắm cơm bị bẻ đôi và lọ vừng, cho vào cái làn guột, mừng mừng, lo lo, quay ngang quay ngửa, biết là chẳng còn có thể hỏi được ai nữa, liền dắt tay tôi đi ra.
Ra tới ngoài đường rồi, bà tôi lại quay lại, nhìn chăm chăm căn nhà đá có cửa vòm và hai cánh cửa sắt đen sẫm. Tựa như bà tôi muốn hỏi nó : con tôi có ở trong đó không ?
Rồi như tự giải đáp được cho mình, bà thở một hơi dài nhẹ nhõm : - ừ, chẳng có chứng cứ gì thì người ta phải thả chú ấy chứ, cháu nhỉ.
Nói đoạn bà lại ngẩn ra :
- Khổ ! Chả lẽ mãi mãi vẫn như hồi nào. Khỏe thì bắt nạt yếu. Người lớn thì ức hiếp trẻ con. Đứa giàu sang thì thao túng mọi chốn. Bọn nắm quyền thì tác quái khắp nơi ư ?
Chính lời bà tôi đã khiến bà giàn giụa nước mắt. Lát sau bà trỏ cái chòi gác cao vượt bờ tường cắm mảnh chai và chăng ba hàng dây điện bao quanh khu nhà giam, bảo tôi : - Hồi xưa, ông cũng bị giam ở đây. Bà cũng phải đi tiếp tế cho ông. Hồi đó họ bắt nhầm ông.
Rồi bà im. Tôi im lặng đi cạnh bà.
Chân bà đau từ hôm vập đầu gối vào cọc sắt, vẫn chưa khỏi. Bà bước tập tễnh. Tôi biết bà muốn về nhà thật nhanh. Nếu đúng là chú tôi đã được thả thì chú tôi phải về nhà chứ. Nếu không, chú tôi đi đâu ?
*
* *
Vừa bước vào sân, bà tôi và tôi còn đang rầu rĩ, do ấn tượng của buổi đưa cơm đến nơi tạm giam chú tôi, thì đã nghe thấy tiếng nấc của cái Thảm.
Cái Thảm đứng ở hiên. Nó vốn là đứa gan, từ lúc lớn khôn rất ít khi khóc. Càng lạ hơn là tiếng khóc của nó. Rõ ràng là nó cố kìm giữ. Nó chỉ nấc nấc trong cổ họng. Mặt nó do nhịn nín mà ứ đỏ. Tới khi bà tôi vứt cái làn ôm lấy nó, nó mới bật tiếng. Nhưng chỉ nức nở vài ba tiếng, nó lại nén lại, nấc nấc trong cổ họng. Và người nó rung lên. Tiếng khóc nghe tức tưởi, oan ức quá.
Bà tôi hốt hoảng bế nó lên :
- Đứa nào đánh cháu ? Đứa nào dọa cháu ?
Rồi nhìn vào nhà trong, bà la :
"Đứa nào rình lúc tao đi vắng dọa dẫm gì cháu tao, có gan thì ra đây cho tao biết mặt nào !". ý bà nghĩ lão Hứng. Lão Hứng đã về đây ở sau khi chú tôi bị tạm giam. Cùng về với lão là một người đàn bà trạc bốn mươi, to béo, mặt nhỏ bằng cái niêu con, thoạt nhìn bà tôi đã vận ca dao : "Những người mặt nhỏ như niêu. Cái răng trắng ởn, chồng yêu cỡn cờ". Rất có thể lão Hứng đã đánh mắng gì em tôi. Nhưng sao hỏi mãi em tôi vẫn không nói. Bà tôi bế nó ra sân, bảo tôi xem tay chân mặt mũi nó có chỗ nào thâm tím không. Nó lại nức nở to hơn và giậm chân lạch bạch, nghe càng ai oán. Hay là chị em con Vàng Anh bắt nạt nó. Có thể lắm. Hai đứa con gái này càng ngày càng tệ. Chúng tranh giành nhau của cải, coi nhau như quân thù quân hằn. Rồi có hôm về hùa với nhau, vác gậy đuổi đánh mẹ nó. Con Vàng Anh đã bỏ học, gia nhập băng ăn chơi của bọn quen lêu lổng trong phường. Cái Vành Khuyên
đem chuyện gia đình tôi đến trường, xuyên tạc và thêm dấm ớt bôi nhọ tôi.
Nhưng, trên người cái Thảm không có dấu vết thương tích. Bà tôi càng bối rối gặng hỏi. Càng gặng, nó càng khóc, càng run rẩy. Cuối cùng nó mới ôm cổ bà tôi, giụi mặt vào vai bà tôi, nghẹn ngào đứt quãng : - ông Hứng... đánh... chết con mèo Mí rồi...
Tôi choáng choàng đâm vào trong nhà. Bà tôi bàng hoàng kêu một câu gì đó tôi không nghe rõ. Cân não chúng tôi bị một đòn đánh trả choáng váng. Đây không đơn thuần là việc giết hại một con vật. Có cái gì đó hung hãn, man rợ hơn nhiều nên con em tôi mới rơi vào trạng thái khiếp hãi, thất thần như thế !
Nhưng, tôi còn chưa tìm thấy xác con mèo Mí thì đã nghe thấy tiếng cô Đại Bàng khe khẽ gọi bà tôi, ở bên bờ rào :
"Bà ơi, bà... con bảo bà cái này..."
- Cô nói rất khẽ rồi bỏ lửng câu tiếp.
Vì ngay lúc đó tôi thấy ông Luông chủ tịch phường với hai người công an mặc cảnh phục, bước vào sân nhà tôi, mặt cả ba người đều nghiêm nghị khác thường.
Chuyện gì nghiêm trọng đã xảy ra thế này ?
Cái Thảm nhận ngay ra điều gì đó bất thường, nó thấy phải để bà tôi tĩnh tâm mà đối phó, nên tự trụt ra khỏi vòng tay bà tôi, nín bặt, đi vào trong nhà.
Đứng lại ở giữa sân, mặc cái áo đại cán ka-ki, khuyết áo mắc sợi dây đeo chùm chìa khóa, ông Luông vẫn cái mặt lưỡi cày ấy, nhưng hôm nay trông đầy vẻ phẫn nộ và khinh bạc. Không thèm chào hỏi bà tôi, ông vào đề luôn :
- Chúng tôi có trách nhiệm thông báo cho cụ biết trong tình hình chính trị hiện nay, nhất là khi đang có cuộc sinh hoạt chính trị lớn, tức là bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp : phường, quận, thành phố, bất cứ một kẻ náo loạn nào cũng sẽ bị thẳng tay nghiêm trị !
Thấy bà tôi im, ông chủ tịch lại tiếp tục kinh nghiệm xử thế lợn lành trói chặt, hắng giọng : - Đối với bọn lưu manh côn đồ rắp tâm phá hoại cuộc sống xă hội chủ nghĩa tươi đẹp của chúng ta, chỉ có một cách là thẳng tay. Thẳng tay ! Cụ có hiểu không ?
Bà tôi cúi xuống, cầm cái chổi, thản nhiên :
- ông nói thế có gì mà khó hiểu.
Những quân bạc ác, bất nghĩa, bất nhân, chết xuống âm phủ còn bị quỷ sứ hành hình nát xương lòi da ra kia, ông ạ.
ông chủ tịch chống một tay lên sườn, chun mũi :
- Cụ cứ việc nói kháy đi !
- Tôi chả nói kháy ai cả. Những quân ngậm máu phun người, trước bẩn miệng mình...
Một anh công an chẹn lời bà tôi : - Cụ ơi, cụ khinh nhờn chính quyền quá rồi đấy !
Bà tôi nhếch mép :
- Chú có hiểu đầu đuôi câu chuyện chưa ? Nếu tôi có khinh nhờn thật thì là : Vì quan đú đởn nên dân nó nhờn, chú ạ.
Dứt lời, vứt tạch cái chổi xuống đất, bà tôi đưa tay xếp lại vành khăn đội đầu, cười khan một tiếng. Rồi lê cái chân đau đến trước mặt ông Luông, giọng bà tôi chợt lặng đi : - Thôi thì hôm nay tiện thể các ông đại diện cho chính quyền có mặt ở đây. Các ông nghe tôi nói lại đầu đuôi câu chuyện nhé. Cây muốn lặng, gió chẳng đừng. Tôi nói vậy, thật là cực chẳng đă, ông chủ tịch ạ. ông vào nhà tôi xem đi. Có cái quạt trần tháo xuống bán nữa là sạch bách rồi. Tôi từng này tuổi đầu mà phải nuốt nhục kẻ lộng hành, nín nhịn để nuôi dạy hai đứa cháu nội, cháu ngoại như hai đứa trẻ côi cút, mà cũng không xong, hỏi còn có cái khổ, cái nhục nào hơn nữa không, ông ?
Cái chân đau khiến bà tôi nghiêng người chực ngã. Tôi chạy vội lại đỡ bà. Bà vịn vai tôi đứng dậy. Rồi bà bảo tôi học bài đi, và bước lên một bước, giọng bà tôi cay nhức lên :
- Nào, đói khổ nó là cái nghiệp dĩ trường kỳ của dân ta, chẳng cần nói nữa, nhưng còn cái nhục nào hơn nữa thì ông cứ giáng xuống cho tôi và con cháu tôi hưởng đi. Nào, còn gì oan ức hơn nữa thì các ông cứ gây ra đi cho con cháu tôi nó chịu. Ngót nghét bảy mươi năm sống rồi, chồng chết oan mà nay thân còn mang tội. Con cái mỗi đứa một nơi. Thân già bới đất nhặt cỏ nuôi cháu. Vậy mà nay sổ đen, sổ đỏ. Mai quy tội gián điệp thám báo. Các ông có còn là Đảng, là chính quyền của dân không ? Đảng chân chính biết thương người nghèo khổ, công minh chính đại lắm các ông ạ !
Ngực bà tôi trồi lên hoắm xuống những hơi thở rộn rực. Bà mệt lắm rồi. Nhưng cơn bi phẫn vẫn còn đang đòi lên tiếng. Bà nấc lên từng câu đứt quãng :
- Khánh kiệt hết rồi ! Cùng cực lắm rồi, các ông ạ. Chỉ còn cái thân già ngực lép vú mướp tàn tạ nay sống mai chết nữa thôi. Nào, các ông muốn gì nữa thì nói đi !
Giọng bà tôi chợt như xé lên. Tôi kinh hoàng chạy lại ôm sườn bà, tấm tức khóc. Bà tôi vừa phanh mở hai vạt áo che ngực, rồi để mặc cho hai hàng nước mắt tràn qua hai má gầy, bà tôi gào lên khản re, và bước lên với vùng ngực già xám ngắt, nhăn nheo, khốn khổ : - Các ông đâm vào đây đi, bắn vào đây đi. Tôi sống thế là đủ rồi. ừ, đủ nhục rồi. Nào, đâm đi, bắn đi !
- Bà ơi !
- Bà ơi !
Tôi và em Thảm chạy lại ôm chặt sườn bà cùng kêu to. Tôi chuyển về phía trước bà, như một lá chắn che đỡ bà.
Hai người công an cúi mặt, có vẻ ân hận vì bây giờ mới hiểu ra phần nào sự thật. Một người ấp úng :
- Cụ Duy ạ, cháu xin cụ cứ bình tĩnh. Rồi mọi chuyện trước sau cũng sẽ rõ trắng đen.
- Bình tĩnh ! Bình tĩnh để các ông muốn chà đạp lên ai thì chà đạp à !
Có một câu nói đã cất lên kịp thời phản ứng lại lời dàn xếp muộn mằn nọ. Tôi không ngờ người nói câu đó là cô Đại Bàng. Cô Đại Bàng, ôi, người phụ nữ đau khổ và chân thật, hàng xóm của gia đình tôi. Tôi càng bất ngờ vì cô đã chạy đi loan báo cho các cụ tổ hưu trí biết, khi thoắt thấy ông Luông và hai người công an bước vào nhà tôi, vì cô nghĩ chắc là có điều gì chẳng lành cho bà tôi.
Bây giờ, người đã xúm đông xúm đỏ ở bên sân nhà cô Đại Bàng. Thật là cuộc hội ngộ các anh hùng đông như trong Tam quốc. Tôi chợt nhớ tới ý cụ Hồn Nhiên nói hôm nào vì nhận ra gương mặt hồng đỏ của cụ cạnh nét mặt đăm chiêu của ông Vinh pháo, ông Xương, cụ Tuệ, cụ Lục... Lại có cả Việt như ngọn măng cạnh cụ Xương.
- Tôi có ý kiến thế này nhé. - Cô Đại Bàng lách qua hàng rào, bước sang sân nhà tôi, xăng xái khác thường. - Mục sở thị là tôi trông thấy ông Hứng xách con mèo đến trước mặt con cháu bé Thảm, rồi cầm dao chém. Vừa chém vừa quát nạt : "Thằng chú mày sổng tù về đây thì tao giết như giết con mèo này, nhớ chưa ?". Con bé run cầm cập, mặt tái xanh tái xám. Tôi đứng ở bên này, vội lên tiếng : "ông độc ác quá quân Pôn Pốt thế, ông Hứng". ông ta mới xách con mèo máu mê bê bết chạy đi.
- Nó đâu rồi ?
- Nó đâu rồi ? Đồ dã man !
Cụ Hồn Nhiên áp mặt vào khe rào, nhìn sang, cất tiếng khàn khàn :
- Bớ ông chủ tịch. Cứ như lời ông nói là trong tình hình chính trị hiện nay phải nghiêm trị kẻ gây rối thì trước hết phải trị ông. Chính ông là kẻ gây rối loạn. ông kết tội lếu láo cho bàn dân thiên hạ, từ ông vua khỉ Tôn Ngộ Không tới bà lão nghèo khổ, cái thư viện của tôi.
Giữa tiếng cười bật lên có vẻ không đúng chỗ, cụ già cao niên vẫn tha thiết với việc đời, tiếp.
- Sắp đến ngày bầu cử Hội đồng nhân dân, ông phao tin ông Vinh pháo là đại tá dởm. ông man khai lý lịch của ông. ông ăn của đút của lót. ông gây muôn sự nhiễu nhương, muôn điều càn rỡ. ông làm hại thanh danh Đảng, Nhà nước ta !
- Lão còn nhiều tội nữa kia !
- ông chủ tịch ỉm thư của con cháu tôi !
- ông ăn cắp tiền con tôi gửi bưu điện cho tôi !
- Đả đảo Luông cường hào, ác bá !
Tôi không ngờ sân nhà tôi biến thành nơi biểu tình. ông Vinh pháo phải ra dàn xếp. Khóa vừa rồi ông trúng cử bí thư Đảng ủy phường. ông nói : bà con ai về nhà nấy đi. Mọi việc Đảng ủy phường đã biết, sẽ xử lý thỏa đáng trong một ngày gần đây. Cụ Hồn Nhiên hậm hực, kêu ông Vinh pháo vẫn mắc tật hữu khuynh. ông Vinh pháo cười cười, đập khẽ cánh tay cụt vào tay cụ Hồn Nhiên : "Mọi việc sẽ đâu vào đấy, cụ ơi !". Cụ Hồn Nhiên kêu : "Tôi sẽ kiện lão tới tận Tòa án tối cao. Chuyến này phải truất lão đi. Cầm quyền mà cổ hủ, ngu xuẩn, lại cơ hội, sâu mọt thì tàn hại cả bách tính !" Việt cũng có mặt ở đó. Việt thét : Kiện tới tận Ngọc Hoàng Thượng đế và Đức Phật Như Lai, vì lão vu cáo Tôn Ngộ Không !
*
* *
Sáng hôm sau, bà tôi không dậy sớm như mọi ngày.
Buổi trưa, đi học về, tôi thấy cái Thảm lúi húi ở trong bếp. Trên cái kiềng sắt, một xoong cháo nhỏ đang lặng lẽ sôi, nổi từng bong bóng mắt cá.
Bà tôi ốm từ hôm đó
Căn bệnh thấp khớp bà mắc từ lúc trẻ tái phát dữ dội từ buổi bà bị vấp cọc sắt ở cổng. Những khổ ải bà đã chịu đựng dằng dặc mấy chục năm cùng những buồn đau bà phải hứng chịu những năm tuổi già gần đây ngấm ngầm gây tổn thương tâm thể bà. Bà bước vào những ngày đau ốm triền miên và thời kỳ suy nhược toàn bộ cơ thể.
Tôi và em Thảm lên khu đồi hoang hái rau ngải về phơi, sắc cùng đậu đen rang chín cho bà uống. Bà uống một ngày ba bát đặc. Bà nằm liệt mất ba ngày. Ngày thứ tư, bà ngồi dậy được. Tôi đi học về thấy cô Đại Bàng đang ngồi nói chuyện với bà. Đầu giường bà có mấy lọ thuốc bổ thần kinh cô mới đem sang biếu bà. Càng ngày cô Đại Bàng càng gắn bó với gia đình tôi. Cô đã hoàn toàn thất vọng về hai đứa con và người chồng tệ bạc. ông ta đã về nước sau khi nhận án kỷ luật sa thải, hiện lánh mặt ở Kiên Giang với người vợ bất hợp pháp.
Nhưng, hôm nay cô sang chơi với nét mặt hân hoan khác thường. Và ngồi một lúc thì vẻ hân hoan của cô đã truyền sang cả bà tôi. Bà tôi hấp háy hai con mắt :
- Thế thật là cô có gặp em Dũng nó ?
- Thì chú ấy còn bắt tay con nói :
"Em không có tội gì nên họ thả ngay thôi. Chị nói với mẹ em rằng : em chào mẹ, em có việc vội phải đi ngay. Mẹ đừng lo gì cả". Trông chú ấy khỏe mạnh, vui vẻ lắm, bà ạ.
Bà tôi thở thào thào, sung sướng :
- Cái thằng tính khí lạ lùng. Con cái nhà này đứa nào cũng vậy. Trắc trở vì thế cũng nên, cô ạ.
Không nghe bà tôi nói, truồi theo dòng nghĩ ngợi của mình, cô Đại Bàng xáp lại, ghé tai bà tôi. Thì thầm cái gì mà lúc sau cô ngửa người cười khành khạch :
- Thế cho nên các lão mới há miệng mắc quai. Tố cáo chú ấy thì hóa ra : lạy ông tôi ở bụi này à ? Mà chú ấy tợn quá. Đêm, chú ấy đột nhập vào nhà lão Luông dán một tờ giấy ở cửa ghi rõ to : "Cảnh cáo bọn cường hào gian ác Luông, Hứng và đồng bọn !". Ba đêm liền như thế. Thành ra lão Luông mới phải viện công an đến dọa bà. Còn lão Hứng thất kinh sinh ra hành tội con mèo vô tội để trấn an mình. Bà xem, chú ấy chơi quả độc đấy chứ !
Tôi đang nhớ tới con mèo Mí tội nghiệp và cái buổi tôi và em Thảm tổ chức đưa nó lên chôn ở khu đồi hoang mà cũng phải bật cười vì cái ngôn ngữ dân dã ở câu nói cuối cùng của cô.
Cô có vẻ thích thú vì tiếng cười của tôi. Quả thật cô hồi này nói năng đã đẫm mùi chợ búa và cô biết rất nhiều chuyện đồn thổi ở phố phường. Cô đã tuyên bố với hai đứa con hư là cô sẽ buôn bán để sống, chứ không cần nhờ cậy gì chúng cả.
Cô oang oang :
- Lão Luông rồi chết bà ạ. Dân người ta tố cáo ầm ầm. ăn của đút thành thần ! Đi lao động hợp tác một suất : hai chỉ, ba chỉ. Ký giấy xin đăng ký kinh doanh cũng vàng, cũng tiền trao tay. Lão ăn của thằng cha Hứng này phải vài cây bà ạ. Các cụ ở tổ hưu người ta điều tra ra hết. Hóa ra, lão Luông này lý lịch có sạch sẽ gì. Cũng tham ô, hủ hóa, ăn cắp, ăn trộm bị đuổi ra khỏi ngành. Làm chủ tịch mà dám mở mồm nói : Tôi là người nắm công tắc điện, cho ai sáng người ấy được sáng. Đúng là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Cho nên bà thấy đấy, thằng thầy nó im thì thằng cha Hưng ** bợm, buôn lậu, ăn cắp này có dám nho nhe nhóc nhách gì nữa đâu !
Tôi ngó vào buồng trong. Quả nhiên mấy hôm nay lão Hứng không về nhà.
Cô Đại Bàng vắt hai chân lên nhau, triết lý :
- Hóa ra đánh đổ lão cũng vất vả đấy. Thế là mất đứt hai khóa còn gì, bà. Mà cũng tại ông Vinh pháo hữu khuynh cơ. Nó vu cho mình trắng trợn mà ông cứ cười hì hì là thế nào. ấy thế ! Nể nang là không có được với loài ngoan cố này. Thói đời mềm nắn rắn buông, bà ạ.
Bà tôi khe khẽ :
- ác giả thì ác báo cô ạ. Nhưng mà cô này, hôm rồi, lúc các cụ đến bênh vực tôi khỏi bị nhà Luông nó hạch lạc ấy mà, tôi nghe có người nói là lão ấy còn có tội là ỉm thư, lấy tiền của thân nhân người ta gửi.
- Có ! Có !
Cô Đại Bàng vỗ đùi, như nảy người dậy :
- Có, bà ạ. Chính là ông Xương, nhà văn, một hôm đã phát hiện ra. Con gái ông ta ở Sài Gòn tháng nào cũng gửi tiền cho ông ta dưỡng già, thế mà bặt đi từ đầu năm tới giờ, tiền không mà thư cũng chẳng có.
- Lão cướp cả cơm chim !
- Thế mới đểu chứ bà ! Chuyến này thì tù mọt gông.
- Thế thì mẹ cái Thảm...
Bà tôi lạc vào cái ý nghĩ đã đau đáu trong lòng mấy năm nay. Chẳng lẽ cô Quỳnh tôi lại vô tâm, thiếu trách nhiệm, bỏ mặc cái Thảm cho bà tôi ư ? Nếu vậy thì bà tôi đau lòng gấp hai lần kia.
Cô Đại Bàng không hề biết đến tâm tư của bà tôi. Vẫn giọng hào hứng, cô bảo, giờ lão Luông nhũn như chi chi. Cô xin đăng ký đi buôn, lăo phải ký liền. Và cái Thảm muốn đi học mẫu giáo, cam đoan cô sẽ xin được giấy của phường. Nhưng đang vui, cô bỗng chuyển giọng, rồi ôm mặt khóc hu hu : - Chỉ khổ thân con ! Biết chồng con thế này, con ở quách nhà quê, lấy chồng làm ruộng cho xong. Nếu không thì con cứ làm thợ bê tông cũng sướng một đời. Bà xem, sức vóc con thế này, năng suất con làm gấp đôi, gấp ba người khác, việc gì con phải phụ thuộc vào ai ! Hự, chỉ vì con nhẹ dạ cả tin, tưởng rằng nó tốt tiền, tốt bụng. Nào ngờ, nghề xế kiếm tiền như rác, làm nó tự cao tự đại, ta đây... Hư hư...
Bà tôi nhìn cô, thương cảm :
- Thôi, lựa lời mà bảo ban dần họ, cô ạ. Dẫu thế nào thì cũng đã là chồng là con. Khổ thế đấy ! Thời buổi hỗn độn, có ai được yên ổn ? Mẹ thằng cháu Duy đấy. Giờ không biết ở chân trời góc biển nào !
Không ngờ tôi lại gặp cô Thìn. Đã gần bốn năm qua. Khuôn mặt, dáng hình cô vẫn như xưa, chẳng có gì thay đổi : một vóc hình cao, một làn da nâu, một mái tóc kẹp. Nhưng, tính tình cô thì đã cởi mở, vui vẻ hơn. Cô đã được chính thức làm cô giáo, dạy lớp của cô giáo Hoa, cô giáo Hoa năm học này được đi đại học.
- ối, lại có cả cái giấy giới thiệu ông Luông ký cơ à ! - Cô lật tập hồ sơ xin học của cái Thảm do tôi đưa, kêu đầy vẻ giễu cợt - ông này hồi này tử tế nhỉ !
Rồi cô nhìn tôi, mắt trầm hẳn xuống :
- Chắc hồi trước em oán cô lắm nhỉ ? Thôi nhé. Cũng là vì ông Luông, ông ấy bảo là phải phân biệt như thế.
Tôi lắc đầu, chẳng hiểu lắc để làm gì.
Cái Thảm đứng sau tôi. Có hai con bé thấy nó đeo cái nơ ở hai bím tóc sán đến, định giật cái nơ và chòng ghẹo. Lập tức con em tôi quay ngay lại, giẫm chân guốc lên chân một đứa và hai tay thúc mạnh vào bụng đứa còn lại. Hai đứa con gái định giở trò ma cũ bắt nạt ma mới, cùng khóc toáng lên.
Đang cắm cúi viết, cô Thìn giật mình ngẩn lên.
- Làm cái gì thế, Thảm !
- Thưa cô, hai bạn ấy định trêu em. Hai đứa kia to mồm tố cáo cái Thảm. Cô Thìn lừ mắt nhìn em tôi.
- Hư nhé ! Khéo rồi làm bà tướng ở lớp này !
Cái Thảm bụm miệng, lì lì, vẻ bất tuân phục. Tôi quay đi, tự dưng buồn rũ rượi. Không phải tôi chê cô Thìn thô lỗ, bất công. Cô chẳng xấu như tôi hằng nghĩ đâu. Nhưng cô làm tôi nghĩ ngợi. Vào tuổi lên chín, lên mười, tôi đã nghĩ ngợi được rồi, chẳng những thế, tôi lại còn có thể nghĩ ngợi thay cho cả con em tôi. Ra trẻ con chúng tôi là thế. Chúng có đủ cả nỗi buồn phiền, cay đắng. Chúng là mầm non, là búp trên cành, nhưng cũng là những kẻ không có một chút khả năng tí xíu nào để tự vệ. Ai cũng có thể quát nạt, mắng mỏ, dọa dẫm, chê bai chúng được. Nhiều khi chúng là cái cớ để người ta trút những cơn tức giận không đâu. Cứ suy tôi ra thì rõ. Người ta thành kiến với mẹ tôi, bà tôi. Chẳng năm nào tôi được là học sinh tiên tiến, và đến giờ vẫn chưa được đeo khăn quàng đỏ, mặc dù môn nào tôi cũng được bảy tám phẩy trở lên. Trẻ con, ôi, cái thân phận yếu hèn !
Tôi và bà tôi hồi hộp đón chờ cái Thảm trở về sau ngày đi học đầu tiên
- bước đi đầu tiên vô cùng hệ trọng của tuổi ấu thơ của nó. Chỉ lo nó cau có bực bội. Nào ngờ nó tươi roi rói, cất tiếng lanh lảnh từ cửa nhà
- Cháu chào bà ! Em chào anh Duy !
Bà chống tay ngồi dậy, mừng rỡ :
- Thế cháu học hành ra sao ?
Nó nhảy lò cò lại gần bà, nhí nhảnh :
- Cháu bị cô phạt, bà ạ.
- Chết, sao thế ?
- Cô bắt cháu đứng nghiêm. Rồi bắt cháu xin lỗi cái Liên. Vì cháu cốc đầu nó.
- Chết ! Sao lại cốc đầu bạn thế, cháu ?
- Ai bảo nó bẹo má cháu. Nó lại còn định lấy cái kim băng của cháu.
- Nếu vậy phải thưa cô chứ !
- Thưa cô, cô lại bảo : lắm lời !
- Lúc nào cô không bận thì thưa, cháu ạ.
- Vâng ! Cháu phải thưa cô chứ.
Nó cười hị hị. Rồi lại uống nước, sớt cả nước ra cằm.
- Bà ơi, buồn cười lắm cơ !
- Cái gì mà buồn cười lắm ?
- Cả lớp cháu, con gái sún răng hết. Buổi trưa, cô y tá vào khám răng, cô khen răng cháu trắng, đẹp nhất. Cô Thìn hỏi : bạn nào xung phong kể chuyện cho bác Vinh nghe. Cháu giơ tay đầu tiên. Cháu kể chuyện Chàng Sọ Dừa. Cô Thìn vỗ tay hoan hô. Bác Vinh hôn cháu. Cháu ghét cái Liên ghê cơ. Nó bảo : đằng ấy phịa thêm, chàng Sọ Dừa đi đánh giặc dặn vợ mang theo một quả trứng gà chứ đâu phải hai quả. Hai quả nở thành hai con gà gáy "ò ó o..." chứ bà nhỉ. Hai con nó gáy thì mới to. Chàng Sọ Dừa mới nghe thấy chứ, bà nhỉ !
ôi, cái Thảm, em gái tôi ! Nó đã đi học ! Nó đang thành hình. Vượt qua cái thân phận bất hạnh, cái hoàn cảnh khốn khổ, giữa cuộc đời điều kiện an toàn còn rất bấp bênh này, nó là mầm non tươi xanh, hồn nhiên mạnh mẽ như chính sức sống của tự nhiên.
Trường học mở mang trí khôn cho nó. Các cô giáo vun xới những tình cảm đạo đức, nếp sống tốt đẹp mà bà tôi từ lúc bế ẵm đã gieo hạt vào tâm hồn nó. Chẳng ngày nào là nó không có chuyện kể về lớp học, cô giáo, bạn bè nó. Rõ ràng là nó sống dồi dào, phong phú hơn tôi hồi đó ; giống tôi, nó cũng sống với một tập thể nhỏ gồm những cá thể tí hon ở cái tuổi thơ dại của loài người, cái tổ chức tạp sắc trông vui mắt như nhìn vào kính vạn hoa, nhưng cũng đủ mọi chuyện phồn tạp, rắc rối. Cũng có những chuyện nao lòng người. Có bè cánh, chia rẽ, nói xấu nhau. Có cậy quyền, ỷ thế. Có xun xoe nịnh bợ. Có áp chế, bắt nạt kẻ yếu... Có oan ức và nỗi niềm thầm lén. Tất nhiên là mới manh nha và dưới dạng hình ngây dại. Nhưng cái Thảm rất khác tôi. Nó xông xáo, ngây thơ, thẳng thắn, tin yêu. Nó không hề có mặc cảm kém cỏi để câm lặng, chịu nhận thua thiệt. Nó lăn xả vào đòi công bằng. Và nó chinh phục được cả người có thành kiến với nó.
Con em gái tôi sống thanh thoát, hồn nhiên. Tôi nhận ra, nó gắn bó với bà nội tôi bằng một chiều sâu hiếm có. Có lẽ, đó không chỉ là tình bà cháu ruột thịt thông thường. Đó còn là mối quan hệ của hai phần một cơ thể. Với bà, nó không chỉ có lòng kính yêu mến mộ. Bà còn là một từ mẫu tinh thần, là cái linh hồn sống động, hướng dẫn nó, tỏa sáng trong nó. Hơn tất cả những đứa trẻ khác, nó sớm tự ý thức cái trách nhiệm của kẻ thấy mình phải cưu mang người khác. Thời kỳ làm nũng của nó đi qua rất nhanh. Kể từ khi bà nằm liệt một nơi, nó bắt đầu đảm nhận công việc nội trợ trong nhà. Nó nuôi gà. Nó nấu ăn. Thậm chí nó đi chợ. Tất nhiên là dưới sự chỉ bảo của bà. Nó trở thành người lớn và bà nhiều khi hóa thành đứa trẻ. Bà cũng thích làm nũng nó. Và nó lắm khi ra dáng người chủ quán xuyến gia đình. Đi học về, nó cất mũ là vớ cái chổi quét. Bà bảo nghỉ đã. Nó đáp : Nhà sạch thì mát, bát sạch thì ngon cơm. Em sạch, lắm người bồng bế, bà ạ.
Cái Thảm lặng lẽ phát triển. Như cái gốc su su mới giâm ở mảnh vườn nhà tôi, một hôm nào đó tôi bỗng nhận ra, lá su su đã lợp kín giàn và ở cành nách đã nở những chấm hoa, cái Thảm đã làm tôi bất ngờ khi nó là học sinh lớp 1 giỏi nhất quận năm đó.
Nó đem cái phần thưởng là một chồng sách Kim Đồng về khoe với bà và đọc cho bà nghe. Bà rưng rưng bảo :
- Học giỏi thế rồi ít nữa thế nào cháu cũng được cử sang Liên Xô học đấy, Thảm à.
Nó lắc đầu :
- Cháu đi xa thế, ai ở nhà trông bà !
Bà xoa đầu nó, bùi ngùi :
- Khổ ! Bà ốm lâu quá làm khổ cháu !
- Bà nói thế cháu khóc đấy. Bà ăn gì cháu nấu cho.
- Hôm nay bà ăn cơm.
- Cháu làm chả xương sông cho bà ăn nhẹ mình nhé.
- ừ, thế cháu có thích món ấy không ?
- Cháu thích nhất một hôm bà làm nem, với bà nấu món chân giò ninh cho cả riềng.
Bà cười hít hà :
- Món chân giò giả cầy. Hôm nào bà khỏe, bà làm cả món ấy cho hai cháu ăn.
- Thế mẹ cháu có biết làm những món ấy không, bà ?
Đột ngột nó hỏi. Cả bà và tôi đều sững người.
Hóa ra, trong âm thầm, dưới một bề mặt tĩnh lặng, một dòng mạch đời sống vẫn rì rào thắm thiết. Mối liên hệ vô hình, không thể hình dung nổi, vẫn được thiết lập giữa con em gái đáng thương của tôi và người mẹ yêu dấu của nó, bất chấp cả không gian xa ngái và hạn chế của các phương tiện thông tin. Đã có những lúc tôi thấy mắt nó ngẩn ngơ theo đuổi một hình bóng mơ màng. Đã có những khi tôi thấy nó lặng đi trong đau đáu tơ tưởng. Có sáng ngủ dậy, nó bảo : Đêm qua em mê thấy mẹ em về. Trời ! Đã một lần nào từ ngày hiểu biết nó nhìn thấy mẹ nó ? Và tôi đã run bắn cả người lên một hôm tôi thấy nó ngồi một mình trong nhà, lầm thầm nói chuyện với một bóng hình tưởng tượng là mẹ nó, với một câu cứ đay đi đay lại thật năo
lòng : "Mẹ ơi, mẹ có nhớ con không, con nhớ mẹ lắm, mẹ à !". Đó là trạng thái tâm thần gì đã nảy sinh ở nó, tôi không biết, tôi chỉ thấy nao dậy một xúc động sợ hăi về cái bí ẩn vô cùng của tình mẹ con.
Cũng như một hôm nó bảo tôi : Anh Duy ơi, mẹ em vẫn gửi thư về cho em đấy, gửi cả tiền nữa cơ. Tôi không hiểu là hư hay là thực, y như hôm nó khoe với tôi, rằng nó đã gặp mẹ nó. Mẹ nó từ trên một cái ô-tô, nhảy xuống ôm nó, hôn nó rồi khóc, bảo : Con tha thứ cho mẹ nhé. Mẹ bận lắm, mẹ phải đi đây. Đó là hình ảnh của cơn mộng mị ám ảnh, là sản phẩm của tâm linh hay chính đó là sự thật, một sự thật ở ngoài sự tưởng tượng của con người.
Cuộc sống vừa trần trụi, vừa huyền ảo là vậy.
Bởi vì đã có những ngày gia đình tôi gặp toàn chuyện buồn thảm. Nhưng cũng lại đã có những ngày như là được đền bù, đền bù một cách rất là hào phóng vậy. Có những ngày niềm vui ồ ạt đến, nhiều tới mức có cảm giác là ông trời chơi khăm, ông găm giữ chúng ở một chỗ, rồi ông mở tung cánh cửa cho chúng ồ ạt xô tới nhà tôi.
Hôm nay là ngày như thế. Bà nội, bà ngoại chúng tôi đang lệt bệt ốm yếu bỗng thấy tỉnh táo và khoan khoái khác thường. Dễ đã đến hai năm nay bà mới được cái sung sướng là thấy bao nhiêu bệnh tật bay biến đi hết, người bà không còn mệt mỏi, đau đớn, bà tênh tênh nhẹ nhõm như hồi bà chưa ốm vậy. Bà trở dậy, xếp dọn giường chiếu. Rồi bà nướng bồ kếp, bẻ vụn ra, đổ nước phích vào ngâm. Chiều, bà gội đầu cho bà, cho cái Thảm. Bà bảo từ nay bà khỏe, mỗi tuần bà sẽ gội một lần cho cháu gái bà. Gội đầu bồ kếp vừa thơm tóc vừa sạch đầu. Cả đêm ba bà cháu trò chuyện vui vẻ. Hôm sau là chủ nhật, là một ngày thu mát dịu. Không khí thu gợi cảm hứng sâu xa lòng người nên bà tôi vừa nêu ý kiến lên thăm vườn rau trên khu đồi hoang cũng là lên viếng mộ con mèo Mí bị lão Hứng giết hại, chúng tôi hưởng ứng và chuẩn bị ngay.
Sắp đi thì gờn gợn một chút khó chịu, ấy là vì, khi ra sân, chúng tôi chứng kiến một cuộc xô xát khá thê thảm ở nhà cô Đại Bàng. Con Vành Khuyên bị con chị cào xé rách cả áo và toạc cả mặt, chạy ra sân, quay mặt vào rủa xả con chị và dọa sẽ đốt phá tan tành của cải của cả "cái gia đình đốn mạt này".
Tuy nhiên khung cảnh phóng khoáng và hơi thu mát rượi trên khu đồi hoang đã xua tan ngay làn khói đen u ám nọ vừa vương vào cảm giác chúng tôi. Bà đi từng bước ngắn, thong thả. Cái Thảm dắt tay bà. Chân nó nhảy tâng tâng. Lên đến đỉnh đồi, nó buông tay bà, rúc vào bụi đom đóm, rúc rích : Đố bà tìm thấy cháu !
Khu đồi như một cái mai rùa chẳng còn hoang rậm như ngày bà mới lên khai phá. Đỉnh đồi, đứng uy nghi một cây cột điện cao thế, trông như hình một hiệp sĩ khổng lồ đứng chạng chân ở thế vő xuống tấn. Đó là cây cột điện đón dòng điện từ Hòa Bình về nay mai. Ven đồi, nơi đất mùn chảy theo dòng nước mưa tích tụ lại, theo gương bà tôi, nhiều gia đình trong phường đã tới cuốc đất, gieo trồng rau đậu. Mảnh vườn của bà tôi từ ngày bà tôi ốm vẫn được tôi và em Thảm chăm sóc, sinh sôi. Hàng rào cây sắn xung quanh đã xanh rì ngọn lá. Bốn luống ngải lên đều, lá chẽ đều tăm tắp. Một luống cải thìa vừa nở. Những ngọn mồng tơi vươn lên rèo đeo những chùm quả tím mọng bồ quân. Một luống rau đay rậm rà, xám đặc quả để làm giống.
Thắp mấy nén hương lên mộ con mèo Mí ở góc vườn xong, bà ngồi xuống một mô đất lợp cỏ êm mướt. Tôi cuốc lại mấy luống rau giền đỏ đã hết vụ, để sửa soạn cấy cải thìa.
Cái Thảm từ đâu chạy về. Nó giấu hai tay ở phía sau. Đến trước bà, mặt nó tưng bừng và có phần bẽn lẽn. "Cháu biếu bà". Cùng với câu nói, nó đưa hai bàn tay giấu ở sau lưng ra phía trước. ại ! Một bó hoa mào gà. Những bông hoa mộc mạc tia tía, tim tím, hồng hồng rung rinh. Bà sung sướng nhận bó hoa ôm vào ngực âu yếm nhìn cái Thảm, nhìn tôi. Bà có vẻ hài lòng về chúng tôi. Đó có lẽ là những giây phút hạnh phúc cực điểm của bà. ôi, bà yêu dấu của chúng cháu. Chúng cháu mừng vui quá sau bao ngày bà bị căn bệnh giam cầm trong căn buồng chật hẹp và tâm trạng lo buồn, nay bà trở về giữa thiên nhiên trong lành thoáng đãng, với chúng cháu đây, những đứa cháu lớn lên trong sự chăm sóc của bà, biết làm vui lòng bà.
Tuy nhiên, giữa đỉnh điểm của niềm vui, tôi vẫn chạnh lòng vì nhìn thoáng thấy một nỗi bơ vơ giữa mênh mông. Nhất là khi ngước lên trời, tôi nhìn thấy một đàn vạc xếp hình chữ V mềm mại, bị gió xiêu giạt đội hình, vẫy vẫy những đôi cánh bé nhỏ, cố nhoai lên giữa đại dương không khí, hướng về phía nam trong cuộc di trú thường niên khi mùa đông sắp về.
Trở về với bà lần thứ hai, trong tay cái Thảm là nắm lá ngải xanh. Nó xáp lại cạnh bà, nhẹ nhàng nhấc vành khăn đội đầu của bà, trải nắm lá ngải lên tóc bà và đặt vành khăn trở lại như cũ.
- Bà thấy bớt đau đầu chưa, bà ?
- Có... Có...
- Thật chứ, bà ?
- Tay cháu bà là tay cô tiên mà.
- Tay bà mới là tay bà tiên. - Cái Thảm sà vào lòng bà. - Bà là bà tiên có phải không bà ? Bà là cô tiên đánh vỡ chén ngọc...
Nó ngước lên trời xanh, ngập ngừng nhắc lại câu chuyện đã có lần bà kể, rồi đột nhiên lắc tay bà :
- Sao bà khóc hả bà ?
- à, bà nghĩ đến mẹ cháu, mẹ anh Duy.
- Mẹ cháu với mẹ anh Duy sắp về đấy, bà ạ.
- Ai bảo cháu thế ?
- Cháu ngủ mê thấy thế mà. Mẹ cháu bế cháu lên, nói : "Mẹ nghe tiếng gà gáy gọi, nghe tiếng con, tiếng bà gọi".
Bà đưa khăn tay lên chấm kẽ mắt. Chấm mãi kẽ mắt vẫn không khô.
Giấc mơ của cái Thảm đã dự báo đúng. Kỳ lạ thế ! Sự thực là mẹ nó vẫn thường ngày lắng nghe và đáp lại tiếng gọi thầm đầy nhớ thương của nó, mặc dù có kẻ đã táng tận lương tâm ra sức ngăn chặn, chia cắt mối liên hệ ruột thịt giữa mẹ nó và nó.
Khi chúng tôi còn đang lao động và vui chơi bên bà trong vườn ngải trên khu đồi hoang thì có một người bưu tá đến nhà tôi. Thấy cửa nhà khóa trái, người bưu tá già quay ra định đi thì thấy một người bộ đội mang quân hàm thiếu tá vận tải, đeo ba lô bước vào sân. Người bộ đội có gương mặt vuông vức rắn rỏi, trên vầng trán có ba nếp nhăn và hai nét vạt sâu ở bên mép, ẩn chứa nỗi niềm sâu kín, trông nhang nhác ảnh ông tôi đặt trên bàn thờ.
- Bác để tôi nhận hộ lá thư ấy cho. Người bộ đội đặt ba-lô xuống, nói.
Người bưu tá nhìn ông, nghi ngại.
- Tôi là bố cháu Duy ở gia đình này.
- Nếu thực thế thì được. Kèm thư có cả giấy mời lĩnh tiền đây. Khốn nạn cái thằng cha Luông, nó làm chủ tịch giàu nứt đố đổ vách, còn thèm cái kẹo trẻ con, làm mang tiếng cả ngành bưu điện chúng tôi ! Tôi biết thằng này tuổi ngựa, mệnh hỏa, bần tiện lắm. Mấy năm trời nay nó chẳng những ăn chặn tiền của bà con, mất cả lòng tin của
dân với ngành chúng tôi, lại còn ỷ thế cầm quyền, chà đạp lên quyền tự do thư tín, vu vạ dựng chuyện, làm rối loạn cả kỷ cương xã hội. Anh cầm thư và đưa tận tay bà cụ hộ tôi nhé.
- Cám ơn bác.
Người bộ đội bóc lá thư ra, đọc : Miền Nam, ngày...
Mẹ kính yêu muôn vàn lần của con, Con yêu quý của mẹ. Cháu yêu quý của cô, Thưa mẹ, Lần này là lần thứ 100 con cúi đầu xin mẹ tha tội cho con. Con có tội lớn mà chỉ có lòng mẹ lớn lao cao cả mới tha thứ được. Con viết vậy mà lòng vẫn xót xa, vì thư đi đã 99 lá mà không hồi âm tiếng mẹ. Con biết là con đã lạm dụng tình thương yêu, lòng vị tha vô cùng của mẹ, và con đã trót nông nổi gây nên lầm lỡ thì con cũng phải cắn răng chịu quở trách của mẹ, của chính lương tâm con. Con đã làm tủi hổ mẹ thì con phải chuộc lại lỗi lầm để báo đền công lao trời biển và đạo đức cao đẹp của mẹ.
Mẹ ơi, để lại đứa con tội nghiệp bé bỏng của con trên tay mẹ hôm ấy, ruột con đau như cắt vì thấy mình là kẻ vô cùng nhẫn tâm, nhưng con hiểu là mẹ đã sẵn sàng gánh chịu lỗi lầm cho con, chỉ mong con đừng tiếp tục làm buồn khổ thêm.
Từ biệt mẹ hôm ấy thực tình con đã không trở lại cái nông trường mà từ đấy con đã ra đi - nơi để lại cho con bao dấu vết ê chề, đau buồn. Phải đi xa. Phải lập được sự nghiệp thì hãy quay về với mẹ, với cháu. Bằng không thì... Con đã nghĩ vậy. Và con, trong túi chỉ còn vừa đủ tiền tàu xe, đã nhằm về phương nam, vùng đất mới của Tổ quốc, tìm nơi lập nghiệp. Con nghĩ, đó cũng là mong muốn của mẹ. Dòng họ nhà ta xưa nay chưa hề biết thối chí -cái cá tính kiên cường ấy có cội nguồn
dân tộc và xứ sở, cũng từ mẹ đã truyền lại cho con, con phải noi theo.
Buồn cái, ngay sau đó, một trận ốm kéo dài gần một năm đã khiến con tê liệt cả thân thể và ý chí. Nhưng con đã gượng dậy, tập tành và khôi phục lại sức mạnh cùng nghị lực. Bây giờ, đã bảy năm trôi qua rồi, bảy năm ở vùng biển con trồng cói, biển rút ra xa gần một cây số và người ta đắp một con đê, giành lại từ biển được hơn một ngàn héc-ta đất gieo trồng. Bảy năm, sa bồi liền thổ, mặn chua được thau rửa, đất thành đất ngọt. Còn con, bảy năm khắc khoải một câu hỏi dằn vặt : Mi đã nên người chưa ? Mặc dầu con biết lỗi lầm ấy bây giờ đã được nhìn nhận khác xưa nhiều.
Nay thì như tính cách của mẹ đấy, con dám quả quyết là con đã xứng đáng là con của mẹ, mẹ của con gái và là cô của cháu Duy. Con vẫn về với mẹ, với con con trong những giấc mơ. Và có lần mẹ có tin được không ?
Con đã gặp con con rồi đấy. ại, cái con bé mà khi trao cho mẹ đến tên nó con cũng chưa đặt, nó là hiện thân của công lao tái tạo của mẹ. Con đã hôn nó, ôm nó vào lòng, rồi lại phải quay đi vì mặc cảm tội lỗi còn nặng nề.
Con đã khóc không biết bao nước mắt ân hận, nhất là từ hôm cậu Dũng đột ngột vào đây, sau khi cậu ấy tìm được anh Nguyên con ở một bệnh viện bên nước bạn. Dũng đã kể hết mọi chuyện cho con nghe. Nó là một chàng trai tài hoa và thông minh, nhưng biến hóa khôn lường vì những ngẫu hứng bất tận và bất cẩn. Đó cũng có thể là những tật xấu của những đứa con mẹ đã từng gây phiền và làm rầu lòng mẹ... và mới đây, bất ngờ con lại gặp chị Thụy... chị hiện đang ở đây.
Thư còn dài. Nhưng đọc đến những dòng ấy, ông thiếu tá chợt ngưng lại. ông nhìn thấy một bụm khói đen đặc bốc lên trên mái nhà bên cạnh. Đồng thời, ông nghe thấy tiếng hai đứa con gái la thét, nguyền rủa nhau, dưới mái nhà đặc khói ấy.
"Làm cái gì thế ? Cháy nhà rồi !". ông thiếu tá đập cửa, hô hoán. Mặc, hai con quỷ cái mới lớn vẫn đang cơn say máu cào xé nhau. Chúng đã bị của cải làm cho phát điên, phát rồ. Thấy lửa đã bốc ngọn vàng vằn đỏ trên mái nhà, ông vội bám vào cái cọc giàn su su nhà tôi leo lên mái nhà, cởi áo, tụt xuống sân sau, vừa kêu cứu vừa hối hả múc nước trong bể nhà tắm dập lửa. ông đã nhảy qua lửa, vào căn buồng đang ngập khói, giội cả một thùng nước lớn vào cuộc vật lộn còn chưa phân thắng bại của hai chị em con Vàng Anh, rồi kéo chúng ra khỏi cơn hỏa hoạn và trận cắn xé cừu thù.
Thấy lửa dựng ngọn đỏ khé ở khu nhà mình, từ khu đồi hoang, tôi đã chạy ngay về.
Lửa sắp tắt, cái Thảm mới cùng bà về tới nhà.
Bà bước chầm chậm vào cái sân lác đác tàn than, vừa định than thở thì khựng lại. ông thiếu tá mặc cái may-ô, ngực trái lấp ló vết sẹo lớn bằng bàn tay quay ra :
- Mẹ !
ông kêu sung sướng và nghèn nghẹn. Và bà tôi gần như là khuỵu xuống sân :
- Nguyên đấy ư, con !
Cô Đại Bàng lật đật từ chợ chạy về, lăn lộn gào khóc trước cái cơ nghiệp bỗng chốc đã biến thành tro than. Người trong phường đến an ủi cô, thu dọn hộ cô. ông Xương, chủ tịch mới của phường và ông Vinh pháo, bí thư Đảng ủy, cũng đến. Công an lập biên bản, truy tìm thủ phạm và bắt hai chị em con Vàng Anh đi. ông Vinh và ông Xương vào thăm hỏi các gia đình xung quanh. Vào nhà tôi, hai ông đẩy cửa buồng nhà Hứng, bấy giờ mới biết là Hứng đã cuốn xéo đi từ bao giờ, căn buồng rỗng không. ông Vinh pháo gật gù : "Thằng cha này cáo già lắm. Thầy đổ, tớ vội chuồn ngay". ông Xương bình : "Nó thực hiện lời khuyên của đại ca nó : thiện, ác tùy theo sức mình đấy (!) Khốn nạn bọn cơ hội ! Cứ phải nổ súng mạnh vào mới được, đại tá ạ !".
Bố tôi dìu bà tôi vào nhà, đỡ bà nằm lên giường. Quay lại, bắt tay trò chuyện với ông bí thư Đảng ủy và ông chủ tịch một lát, rồi ông bắt tay vào công việc phá tấm vách ngăn, khôi phục lại toàn bộ diện tích nhà ở sở hữu của mình. Cái Thảm như con chim nhảy tâng tâng trên vùng đất mới giành lại.
Những ngày vui lớn đã đến. Nhưng, tôi đâu có ngờ, đó lại là những ngày cuối cùng của đời bà tôi. Cái buổi lên thăm mảnh vườn ngải, mộ con mèo Mí trên khu đồi hoang, hóa ra lại là cuộc chia tay của bà tôi với thiên nhiên, cây cỏ, và khung cảnh vùng bà đã gắn bó. Dường như bà tôi đã biết trước, đã dự liệu tất cả. Dường như bà tôi đã hoàn thành hết mọi việc và chỉ còn chờ gặp bố tôi, để làm một cuộc chia tay và bàn giao cuối cùng.
Tối hôm đó, bà kêu đau đầu. Em Thảm đắp ngải cứu thêm cho bà, được một lúc bà bảo, có đỡ. Sáng hôm sau, bà nói bà đau thắt ở vùng ngực. Cơn đau đầu, đau ngực hành hạ bà hai hôm liền. Bố tôi lấy thuốc, tiêm trợ sức, trợ tim cho bà. Các cụ tổ hưu đến cùng bố tôi định đưa bà vào bệnh viện. Nhưng bà lắc đầu không đi, bà nói thác là bệnh nhẹ thôi.
Ngày thứ tư, bà nói đã đỡ nhiều rồi. Bà bảo bố tôi đỡ bà dậy để bà chải lại đầu, vấn lại khăn, thay yếm, thay áo. Đặt bà nằm xuống, bố tôi hỏi bà muốn ăn gì, bà nói pha cho bà ấm chè đặc. Ngày xưa, hồi còn làm thợ, đi làm ca đêm, để khỏi buồn ngủ, bà hay uống chè đặc lắm. Nhưng, từ ngày đời sống khó khăn, bà quên cả mùi vị chè rồi. Bố tôi xuống bếp nấu lại nước phích để pha chè cho bà, bà vẫy tôi và em Thảm lại. Sờ soạng một hồi trên đầu giường, bà tìm được một cái túi vải nâu.
- Trong này có cuốn sổ tiết kiệm bà gửi số tiền bán đôi khuyên của mẹ cháu, nhờ ăn dè, hà tiện và mọi người cưu mang nên vẫn còn chút ít vốn để phòng thân. Cháu Duy giữ lấy hộ bà. Còn cháu Thảm ơi, không biết bao giờ bà mới làm được nem, nấu được món giả cầy, măng miến... cho cháu ăn.
Tôi mếu máo, kêu :
- Bà ơi !
Bà cười :
- Sao lại khóc, cháu ? Em Thảm nó có khóc đâu ! Con giai phải cứng
rắn lên chứ. Cứng rắn như ông nội, như bố cháu, như chú Dũng ấy chứ.
Tôi cố gạt nước mắt.
Bố tôi đặt ấm chè trên cái ghế ở đầu giường bà. Bà bảo bố tôi ngồi xuống cạnh bà, rồi nhìn tôi, mắt ngấn lệ, nhưng giọng rất tỉnh táo :
- Bà đã chết đâu mà Duy khóc ?
Bà chẳng muốn xa con, xa cháu đâu. Nhưng, nếu đã hết tuổi giời cho thì cũng đành vậy. Bà có cái ảnh to chụp hồi trước, đặt trong cái hòm gỗ cạnh cái hòm đồ nghề của bố cháu ấy. Cháu lấy ra rồi đặt lên bàn thờ. Nấu một bát cơm, luộc cho bà một quả trứng...
Bố tôi gượng gạo át lời bà : - Con biết rồi. Mẹ yên tâm. Nhưng, mẹ còn sống lâu với chúng con và các cháu. Bây giờ, sau bao nhiêu năm xa mẹ sống ngoài mặt trận, con mới về gặp được mẹ, mẹ phải sống rõ lâu, để con báo đáp công ơn mẹ chứ.
Bà gật :
- Bố Duy nói phải đấy. Thế anh kể chuyện cho mẹ nghe đi.
Bố tôi mừng quá, cúi xuống :
- Cô giáo Quyên và chồng cô ấy, mẹ còn nhớ chứ, hỏi thăm bà này. Chồng cô ấy khỏi bệnh rồi. Nhưng vợ chồng xin ở lại trong ấy công tác. Chính cô Quyên đã đến bệnh viện tìm con đấy, mẹ ạ.
- ờ ! Quý hóa quá !
- Cái Quỳnh, nó vừa gửi thư cho mẹ đây ! - Bố tôi rút từ túi quần sau lá thư ông nhận được hôm xảy ra vụ hỏa hoạn bên nhà cô Đại Bàng : - Nó là đứa con gái có ý chí. Tuy là cũng liều và vô tâm. Nhưng nay nó đã dám nói là nó xứng đáng với mẹ rồi. Nó cũng sắp ra thăm mẹ đấy.
Cái Thảm đón cái thư của mẹ nó từ tay bố tôi. Bà gật đầu mãn ý :
- Thôi, anh vẫn dõi theo em là mẹ yên lòng rồi.
- Còn thằng Dũng, mẹ đừng lo. Nó là đứa khá nhất trong chúng con. Đi bộ đội thì là dũng sĩ, huân chương chiến công hạng nhất. Làm địa chất thì chiến sĩ thi đua. Chính nó làm bọn sâu mọt ở phường này khiếp vía đấy mẹ ạ. Giờ, nó học Đại học Bách khoa Sài Gòn.
- Thế thì mẹ mừng.
- Nó gặp con, xin lỗi con vì có thời không nghe lời, xung khắc. Nó xin lỗi mẹ vì đã làm mẹ lo lắng.
- Anh em họ Lã chúng bay mỗi đứa mỗi tật.
- Biết làm thế nào được ! - Bố tôi cười. - Mẹ đẻ ra con, cái Quỳnh, thằng Dũng. Chúng con có lỗi lầm gì, mẹ bảo ban dạy dỗ, không được thì mẹ trách, mẹ mắng, chúng con không dám cãi. Công ơn mẹ, cha, dẫu con có sống thêm một đời nữa, cũng không trả hết được, mẹ ạ.
- Không... Mẹ không trách con. Mẹ thương con, thương các con, các cháu.
Bà tôi nghiêng mặt, khe khẽ. Trong ánh chiều thu muộn, khuôn mặt bà lặng lẽ tỏa ra xung quanh một niềm ưu ái và xót thương vô hạn. Đôi mắt bà đặt một cái nhìn tĩnh tại lên gương mặt tôi. Tôi cảm nhận được nỗi lưu luyến của bà tôi và cùng với cảm giác đó, tôi nhận ra vẻ hài lòng, mãn nguyện ở ánh mắt bà.
Chợt nhận ra cái thần thái khác lạ ở bàn tay bà đang nằm yên bỗng như run rẩy kiếm tìm chỗ dựa, bố tôi vội nắm lấy tay bà. Bà oằn người, trở lại thế nằm thẳng, thăng bằng. Trán hơi dốc về phía trên bỗng xuất hiện những chấm mồ hôi lạnh, bà co khẽ đôi tay đặt lên hai vạt áo màu cánh sen mới thay. Và mặt bà bỗng như thu khép lại, thiu thiu ngủ.
- Mẹ...
Bố tôi lay khe khẽ tay bà. Bà he hé mắt như chợt tỉnh. Lướt qua mặt tôi, em Thảm và bố tôi một ánh nhìn vĩnh biệt.
- Mẹ ơi
- Bà ơi
- Đừng khóc...
Bà mấp máy môi khó nhọc. Cằm bà như có một cơn co rút mạnh. Bố tôi cúi xuống, hai mắt nặng nước. Và nhận ra tay bà vừa đưa lên chạm vào vết sẹo ở ngực mình, bố tôi đỡ vội tay bà. Tay bà lạnh dần.
- Mẹ ơi Mẹ tha lỗi cho chúng con. Cảm thấy hết sức rõ ràng là phút lâm chung của bà đã tới, bố tôi bật lên nức nở, rồi vừa lặp lại câu trên như một lời sám hối, vừa quỳ xuống cạnh giường bà.
- Mẹ ơi mẹ tha lỗi cho chúng con. Rồi bỗng sực nhớ, ông như vùng vẫy trong cơn mê hoảng, thống thiết :
- Mẹ ơi... con xin mẹ một điều...
Mẹ cho phép con đổi tên cho cháu Thảm. Nhờ mẹ, đời nó đã qua đoạn thảm thê...
Bố tôi gục bên mép giường. Bà tôi ngáp khẽ một cái, rồi đi. Xung quanh tôi là một khoảng không hoang vắng.
*
* *
Cuối cùng, sau ba năm táng tại nghĩa trang thành phố, bà tôi đã trở về yên nghỉ cạnh ông tôi, trong nghĩa trang Yên Kỳ. Tôi đã nói cho bố tôi biết lời căn dặn đó của bà. Và bố tôi đã không tiếc công sức, tiền của để thực hiện nguyện vọng ấy của bà, cũng như bố tôi đặt bát hương, làm lễ tứ cửu bà ở tận chùa làng trong quê, để bà trở thành vãi làng.
Trở về nằm cạnh ông tôi, tất cả hình hài bà tôi giờ đây thu gọn trong một cái tiểu sành con con, nắp đậy là hai viên gạch xi măng nặng. Bố tôi đã nâng niu, gìn giữ cẩn trọng cái tiểu đựng hài cốt bà suốt dọc đường ô-tô lên tới đây. Bố tôi đã cùng với một người công nhân chuyên nghề của công ty nghĩa trang sửa sang huyệt và làm toàn bộ công việc cải táng cho bà tôi. Y như hôm bà tôi mất, ông khóc vật vã một hồi, rồi lau nước mắt, đứng dậy, cắt đặt, lo toan mọi việc. ông đi báo ủy ban, công an, các cụ tổ hưu, điện cho cô Quỳnh, chú Dũng, vợ chồng cô Quyên cùng những người thân, trở về ông phát tang, chia khăn cho tôi và em Thảm. Rồi tự tay bố tôi liệm bà tôi, với những động tác hết sức gọn ghẽ và hai mắt đỏ hoe. Đó là một đám tang đông người tới chịu tang và chia buồn nhất ở phường tôi. Cô Quỳnh, chú Dũng tôi ra kịp ngày. Cả người con nuôi của bà ở Sa Pa cũng về kịp. Nhiều người chịu ơn bà về viếng bà nhưng tôi không nhớ được vì lúc ấy thật bối rối và buồn đau.
Bố tôi nhè nhẹ đặt bà xuống huyệt. ông không cầm được nước mắt. Bà chúng tôi, giờ đây chỉ còn là một nắm xương khô.
Tôi và em gái tôi đắp mộ cho bà. Em gái tôi đã được cấp giấy khai sinh, tên Thảm đổi là Thắm. Thắm đi hái hoa mào gà đặt lên mộ bà. Rồi bố tôi bày đồ cúng thắp hương. Sau bao nhiêu năm sống trong dông, bão khốc liệt của chiến tranh, bố tôi vẫn còn nhớ tất cả các bài khấn vong linh tổ tiên mà bà tôi đã dạy. Tiếng bố tôi thầm thì trong hương khói dật dờ.
Tôi đã khóc khi ấy. Kỷ niệm hôm nào hai bà cháu đi viếng mộ ông cũng tại nơi đây lần lượt diễu qua trí nhớ tôi, dịu dàng và thiết tha quá. Cái đòi hỏi da diết của tôi ngày ấy là bà sẽ sống mãi với tôi, cuối cùng chỉ là ao ước. Nhưng bà ơi, vắng bà rồi, mà cháu vẫn có bà. ơn bà mãi mãi cháu để hai vai. Bà nhịn cho chúng cháu ăn. Bà lạnh cho chúng cháu ấm. Bà bế bồng, dìu dắt chúng cháu đi qua những năm tháng cách trở, lọc lừa, phản trắc, bất công. Bà đưa chúng cháu qua nơi hỗn độn đến sự an bằng. Có mẹ, có cha mà hóa ra côi cút, bao oan khổ, đắng cay, thiệt thòi của chúng cháu đều được bà san lấp, đền bù, an ủi. Những đau tủi, buồn khổ của tuổi ấu thơ đơn côi giữa cảnh đời, nhờ có bà, đã được gột rửa khỏi tâm hồn. Nhờ bà, chúng cháu bước qua vùng tủi hổ, đến với hy vọng và tin yêu. Bà là sự nhẫn nhịn, là lòng hỉ xả, là tuyết sạch giá trong, là tình thương, là lẽ phải, là sự cứng cỏi, kiên trinh. Bà là cổ tích. Bà là bà mụ đỡ nâng trong linh hồn chúng cháu. Bà là Phật bà. Hay chính bà là cô tiên giáng trần đã che chở cưu mang chúng cháu bằng tình thương yêu và các phép màu huyền nhiệm, thần kỳ !
Trí nhớ của tôi lần lượt trỗi dậy những ảnh hình, cử chỉ, âm thanh tươi nguyên màu sống động. Tôi nhớ đến câu chuyện huyền tưởng của chú Dũng tôi. Cuộc gặp gỡ tổ tiên dưới hầm sâu địa chất ấy chẳng phải chỉ là một sản phẩm tinh thần đẹp đẽ của một tâm hồn lãng mạn, phóng đạt của chú tôi. Nó còn là sự thật. Bà tôi lúc này đã về với ông
tôi, tổ tiên tôi, cư trú ở cái vùng âm thế dành cho những người lương thiện và có công tích. Cách trở âm dương mà tôi vẫn gần gụi với bà, với ông tôi và những người đã khuất.
Bà đã gắn bó tôi với huyết mạch, cội nguồn. ại, cái cội nguồn của tôi. Đó là một dòng chảy dồi dào mãnh liệt. Là trùng trùng lớp lớp những con người mạnh mẽ, có thể có tật này tật nọ, nhưng luôn luôn bất khuất, kiên trung. Kẻ thù, lũ gian manh muốn giết họ chỉ có cách là bắn, đâm, đánh vào nơi họ để trái tim. ý nghĩ như là muốn khái quát ấy đưa tôi trở về với bố tôi và vết sẹo lớn trên ngực ông.
Tôi gắn bó với bố tôi trong tư cách một người con trai đã lớn. Lớn rồi, bỗng ít nói hẳn đi. Bố tôi càng ít nói hơn. Nỗi buồn về sự lầm lỡ của mẹ tôi đè nặng tâm hồn ông. Thành ra, chưa bao giờ và có lẽ chẳng bao giờ tôi có dịp nghe ông kể, nhưng nhìn vết sẹo trên ngực ông, tôi tin rằng ông chính là người trung úy lái xe tài giỏi, dũng cảm, đã vượt qua cái chết vô cùng thần kỳ nọ.
Gió lập lòe những chấm hương em Thắm cắm ở những ngôi mộ láng giềng ông, bà tôi. Hương khói vật vờ một cảm xúc xa vắng. Những mộ chí xa gần lấm chấm trắng như bọt biển rập rờn trên khúc biến ảo của một lượn sóng đất đang dâng lên cao mãi, cao mãi. Và chơi vơi trên thiên đỉnh một tiếng gọi giục giã mơ hồ, mê ảo. Mênh mang trong lòng tôi một ước muốn thiết tha, giữa cõi đời thực còn bồn ngộn, ngổn ngang này.
Tiếng khóc của một phụ nữ đưa tôi trở lại với vầng nắng thu vàng thắm trên mộ bà. Người phụ nữ đang ngồi ôm mặt khóc ở cuối mộ bà tôi chính là mẹ tôi. Mẹ tôi đã trở về.
Trong khung ảnh treo trên tường, ba tấm ảnh mẹ tôi bóc đi ngày ấy, đã được dán lại, đúng dấu cũ. Nhìn nó, tưởng như xưa rày chưa hề có sự xê dịch, đổi thay nào. Tưởng như cuộc sống vốn là bằng lặng. Bằng lặng như hôm mẹ tôi về, cũng một chiều mưa, với cái mảnh ni-lông xanh, bước vào nhà, không một ai cất nổi một tiếng
nói. Mẹ tôi đã về ! Hơi muộn. Nhưng đúng như dự đoán của bà tôi ! Cuối cùng mẹ tôi đã trở về, sau bao nhiêu ngộ nhận, lầm lạc, sau những cơn trầm uất vì ân hận, vò xé nội tâm.
Chuyện của mẹ tôi, cũng như của bố tôi, dài lắm, kể ra đây không đúng chỗ. Nhưng có thể tóm tắt thế này : bà đã đuổi theo một cái bong bóng, vì quẫn trí, mê lú. Sớm nhận ra lỗi lầm, bà liền từ bỏ ảo ảnh, trốn nó và đi tìm bố tôi. Đó là một hành trình đau xé. Cùng với sự cắn rứt là nỗi tự thú biểu hiện bằng việc hàng mấy năm bà vẫn đều đặn gửi tiền về cho bà tôi. Mẹ tôi đã được chấp nhận trở lại mái nhà xưa.
Tuy thế, cho tới hôm nay mẹ tôi vẫn như là một kẻ ngoài cuộc. Trong nhà, bà chỉ nói chuyện được với cái Thắm. Sắp tới, cái Thắm sẽ theo mẹ Quỳnh nó vào nông trường ở Kiên Giang, bà sẽ buồn lắm. Trong việc cải táng cho bà tôi, bà như một người thừa. Bà tự thấy không xứng đáng được thắp hương và khấn vái bà tôi, tuy tôi đã mấy lần bắt gặp bà một mình thầm lén thắp hương xin bà tôi xá tội. Bây giờ, bà ngồi ôm mặt, lặng lẽ khóc.
Bố tôi, khuôn mặt già xọp, khổ ải, trán hằn ba vết nhăn sâu hoắm, sau một hồi đứng lặng ngắm thế đất hùng vĩ, cao ráo bà tôi nằm, quay lại, nhặt cái cuốc, nhìn mẹ tôi, khe khẽ, giọng thăm thẳm :
- Về thôi, Thụy !
Lần đầu tiên bố tôi gọi tên mẹ tôi, kể từ ngày mẹ tôi trở về. Nghe tiếng gọi ấy, mẹ tôi hấp tấp đứng dậy, xách cái làn đựng phần lộc sau cúng bà, vội vã đi theo bố tôi, tôi và em Thắm.