Ngày 26/5/2004, Porto đá trận chung kết Champions League với AS Monaco tại Gelsenkirchen, Đức. Ngay từ thời điểm ấy Mou đã biết mình sẽ rời Bồ Đào Nha để đi tìm một thử thách khác ở nước ngoài. Phần cuối của cuốn tự truyện vẫn do Mourinho viết, kể lại cảm giác của ông sau khi đã vươn lên đến đỉnh cao danh vọng.
Mourinho giành Champions League cùng CLB Porto
CÚ ĐIỆN THOẠI CHẾT CHÓC
Tôi ngước nhìn lên bảng điện tử, phút thứ 80 trận chung kết Champions League: 3-0. Tôi như cảm nhận được tất cả: niềm tin, sự tĩnh lặng, đoàn kết và niềm vui loan tỏa khắp đội bóng. Tôi nhìn sang Andre (Villas-Boas) và Rui Faria rồi nói với họ: “Xong rồi bạn mình ơi, chúng ta đã vô địch châu Âu”. Rồi tôi mỉm cười với những trợ lý còn lại, những người đang vẫy tay và giơ ngón tay cái về phía tôi.
Trong phút giây ấy, tôi để cho những suy nghĩ chạy ngang dọc trong tâm trí mình: chặng đường mà tôi đã đi qua, thời thơ ấu đầy những giấc mơ, những trở ngại, những cuộc khủng hoảng, những lời chỉ trích, gia đình, niềm tin, những CĐV trung thành tuyệt đối, lịch sử, sự bất tử và cả những lời đe dọa tính mạng mà tôi nhận được một ngày trước đó.
Đấy là buổi tập cuối cùng trước trận chung kết và như thường lệ, thứ duy nhất liên kết tôi với thế giới bên ngoài chính là chiếc điện thoại di động mà chỉ có vợ tôi biết số. Tôi cũng đã khóa mọi cuộc gọi từ bên ngoài vào khách sạn. Tôi muốn bản thân mình cũng như các cầu thủ chỉ nghĩ về trận đấu mà thôi.
Vào khoảng 10h30’ tối, tôi lên phòng và mở tivi xem phim The Punisher của diễn viên yêu thích John Travolta thì bất ngờ có người gõ cửa. Tôi mở cửa và nhìn thấy một trong những thành viên của BLĐ, Reinaldo Teles. “Xin lỗi vì đã làm phiền vào giờ này, nhưng tôi có những 8 tin khẩn dành cho anh”. Sau khi đọc tin, tôi quyết định gọi điện lại cho người gửi và nghe một giọng đe dọa:
“Mày nghĩ mày là nhất phải không thằng chó, bọn tao chưa đụng vào mày ngay đâu vì còn trận đấu. Nhưng ngay sau khi nó kết thúc thì mày chết chắc bởi vì bọn tao sẽ chờ mày. Ngay khi mày đặt chân trở lại Porto thì số phận mày sẽ được định đoạt, không còn cơ hội nào đâu”.
Tôi đáp trả: “Mày điên rồi. Tao không biết mày đang nói về chuyện gì và vì sao lại buông ra những lời này, nhưng tao biết mày là một thằng điên”. Cúp máy. Reinaldo Teles đứng nghe và điếng người, nhưng mau chóng trấn tĩnh và khuyên tôi đừng lo lắng. Anh ta hứa sẽ chu toàn chuyện này.
Các trợ lý đều tỏ ra bàng hoàng khi biết về cuộc điện thoại bởi kẻ ở đầu dây bên kia là một đại ca cỡ bự trong giới xã hội đen, từng dính nhiều tiền án. Cảnh sát biết tên này đang tập hợp đàn em và sẽ khiến cho chuyến trở về BĐN trở nên phức tạp. Ngày tiếp theo, chủ tịch Pinto da Costa đến cam kết về sự an toàn của tôi. Ông ấy hứa sẽ lo an ninh tận răng cho tôi và gia đình.
KHOẢNH KHẮC ĐI VÀO BẤT TỬ
Khi trọng tài Kim Nielsen thổi hiệu còi dứt trận, tất cả những gì tôi có thể nghĩ vào lúc đó là vợ và bọn trẻ. Họ đang ở trên khán đài và sẽ phải bay trên một chuyến khác để đảm bảo an toàn. Nhưng để cho yên tâm, một số thành viên trong đội đã lên tận nơi và dẫn họ xuống sân.
Khi ôm gia đình mình trong tay, những lo sợ tạm thời vơi đi, chỉ còn lại sự nhẹ nhõm, niềm vui và những cảm xúc không thể nào quên. Chúng tôi ôm nhau, hôn nhau và bật khóc. Bé Ze cứ hỏi: Tại sao mọi người lại khóc sau đi đã thắng trận chung kết? Lẽ ra phải cười thật vui chứ?
Khi ấy tôi đã muốn rời khỏi sân ngay lập tức, nhưng Matilde ngăn lại. Nàng bảo chiếc Cúp là của tôi, huy chương là của tôi và tôi phải tận hưởng giây phút này càng nhiều càng tốt. Thế là tôi đi quanh sân, hòa mình vào đội ngũ vừa vươn lên đỉnh cao châu Âu.
Lần đầu tiên, tôi chờ toàn đội ở cửa phòng thay đồ và hôn từng người một. Ngày 26/5/2004, tại Gelsenkirchen: chúng tôi đã trở thành bất tử. Trên phương diện cá nhân, đời tôi cũng đã hoàn toàn thay đổi. Tôi đã đi từ CLB nhỏ Leiria lên đỉnh cao thế giới chỉ sau 3 năm.
Cuộc sống của tôi cũng không còn chỗ cho sự riêng tư, lúc nào cũng phải được bảo vệ 24/24. Giờ thì tôi mới hiểu được cách hành xử vẫn hay bị chỉ trích của những người nổi tiếng. Một trong số họ, cũng là người bạn của tôi, đã từng nói: “Cuộc sống của người của công chúng vô cùng mệt mỏi”.
Nhưng hãy cùng trở lại trận đấu tại Gelsenkirchen. Chúng tôi đã chuẩn bị rất tốt, tất cả hiểu rõ AS Monaco như lòng bàn tay. Buộc Giuly phải chậm lại, Deco phải hy sinh để tham gia phòng ngự nhiều hơn. Cứ một phút qua đi người ta lại càng thấy ít Monaco đi và nhiều Porto hơn.
Paulo Ferreira đã khiến cho cầu thủ hay nhất bên Monaco - Jerome Rothen – “tắt điện”, như đã từng làm với Ryan Giggs và Alberto Luque trước đó. Baia thật mạnh mẽ, Jorge Costa thì hung tợn, Ricardo Carvalho không cho Morientes một khoảng trống và Nuno Valente vững vàng như thường lệ. Các bàn thắng của Carlos Alberto, Deco và Alentichev đến một cách tự nhiên. Tôi gần như không phải ra một chỉ thị gì trong trận đấu để đời ấy.
Chiếc Cúp thật đẹp. Tôi đã nhìn thấy nó một ngày trước đó nhưng không dám chạm vào. Giờ thì tôi nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình qua nó. Tôi thở vào nó nhưng vẫn chưa đụng vào (để cho cầu thủ làm việc ấy trước chứ). Trao HCV, Len Johansson nói nhỏ với tôi: “Hẹn gặp lại nhé, tháng Tám, Gala Monaco”.
Chúng ta sẽ mãi không quên ngày hôm nay, nhưng cảm xúc và hình ảnh này sẽ theo chúng ta đến hết cuộc đời. Sống với ký ức buồn là một bi kịch, nghĩ về những kỷ niệm đẹp sẽ cho ta thêm sức mạnh. Đừng đánh mất mình, hãy chơi như một đội bóng, chơi như không còn ngày mai, và chiến thắng
Mourinho nói với các cầu thủ trước trận chung kết.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Gấu Vương