Liễu Nguyệt về ở nhà Đại Chính, giống như nhà Trang Chi Điệp, gia đình cũng đông khách đến. Nhưng khách nhà họ Trang Chi Điệp đều là khách nghèo, còn khách nhà Đại Chính hầu hết đều là lãnh đạo các ban các cục, giám đốc các nhà máy, giám đốc công ty, thương trường. Những khách này chẳng có ai đến tay không bao giờ. To thì tủ lạnh, bé thì thuốc, rượu, quả dưa, người đem quà đến biếu dường như thành quy luật, khi bước vào cửa thay dép lê, thì quà biếu cũng đặt luôn vào trong gian nhỏ chứa giày dép, sau đó ngồi trong phòng khách nói chuyện với chủ nhà, người biếu quà chẳng bao giờ nói quà để ở chỗ kia, người nhận quà cũng không hỏi han cám ơn. Khi họ nói chuyện, Liễu Nguyệt không ra chào hỏi, chỉ khi nào chồng hay mẹ chồng gọi một tiếng:
- Liễu Nguyệt ơi, con (hoặc em) cũng ra đây chứ?
Liễu Nguyệt mới tươi cười hớn hở từ buồng ngủ bước ra, bước ra rồi, cô ta biết mỉm cười chào hỏi khách đến một cách hấp dẫn, thỉnh thoảng lại nói xen vào một hai câu chuyện phiếm. Nhưng cô ta biết chính xác chén nước trà của khách nào đã uống cạn hay chưa, cô ta không đi rót thêm nước mà gọi:
- Tiểu Cúc, rót thêm nước đi em!
Tiểu Cúc là con ở giúp việc trong nhà Đại Chính. Sáng sớm hôm sau về làm dâu, Liễu Nguyệt đã biết Tiểu Cúc. Lúc ấy Tiểu Cúc đang nhặt rau hẹ ở nhà bếp, Liễu Nguyệt cũng vô tình cúi xuống bốc nắm rau hẹ lên nhặt, chưa nhặt xong đã bỏ xuống ngay, đứng lên lấy xà phòng thơm rửa tay trong bể nước. Tiểu Cúc hắng một tiếng, Liễu Nguyệt vừa rửa vừa hỏi:
- Cô tên là gì?
Tiểu Cúc đáp:
- Tiểu Cúc!
Liễu Nguyệt bảo:
- Tiểu Cúc này, hôm nay mình ăn bánh chẻo, cho nhiều tôm khô vào, khi cho, cô gọi tôi một tiếng, tôi xuống tự tay làm nhân bánh.
Tiểu Cúc im lặng, vẫn nhặt rau hẹ như cũ, đột nhiên nói:
- Gia đình chủ tịch uỷ ban nhân dân thành phố ăn bánh chẻo, chưa bao giờ cho tôm khô vào nhân, thưa chị!
Liễu Nguyệt thừ người ra một lát, thay đổi sắc mặt, bảo:
- Thì ta muốn ăn bánh chẻo có tôm khô đấy!
Nói rồi cô ta vẩy vẩy nước trên tay, cũng chẳng thèm đóng vòi nước, nước chảy xoè xoè. Lên đến buồng cưới rồi, cô ta nói trống không:
- Vặn vòi nước vào chứ!
Sang ngày thứ mười, Liễu Nguyệt ở nhà buồn tẻ quá, cô ta bảo Đại Chính cô ta muốn làm việc. Đại Chính bảo đã cử người đi làm thủ tục hộ khẩu thành phố cho cô ta, ngay một lúc chưa làm xong thì đi làm ở đâu được? Liễu Nguyệt bảo, mặc kệ việc ấy, cô ta cần làm việc. Đại Chính liền nói với mẹ yêu cầu của Liễu Nguyệt. Bà vợ ông chủ tịch nghĩ đi nghĩ lại, liền gọi điện thoại cho Nguyễn Tri Phi, yêu cầu anh sắp xếp cho con dâu vào tiệm ca múa của anh. Ngày hôm sau Liễu Nguyệt đã đi làm.
Liễu Nguyệt không biết ca múa, nhưng Liễu Nguyệt có khuôn mặt xinh, có dáng người đẹp, nên cô ta đi theo đội mốt thời trang, học cách biểu diễn trên sân khấu. Đội mốt thời trang đều là những cô gái lưng ong chân dài, đẹp thì rất đẹp, nhưng trình độ văn hóa thấp nên nét mặt cứ đần đần. Liễu Nguyệt đọc nhiều sách, có khí chất tốt, biết biểu diễn phong thái của mình, nên chỉ trong thời gian rất ngắn đã trở thành một người nổi bật nhất trong đội mốt thời trang. Dân trong thành phố này thưởng thức biểu diễn mốt thời trang, không phải chỉ đến thưởng thức thời trang, mà cái họ muốn xem là mặt, hay nói một cách khác, cho dù thợ thiết kế ra thời trang kiểu gì, đối với họ, mốt trên sân khấu đều là những tấm thân hở hang, trần truồng. Họ chỉ trỏ cô này mặt xinh, nhưng mông to, cô kia gầy quá, vú lép kẹp. Cuối cùng người mà họ cảm thấy mê ly nhất, khêu gợi nhất vẫn là cô gái tên Liễu Nguyệt. Mỗi lần Liễu Nguyệt ra sàn diễn, thì ở bên dưới người xem cứ kêu lên ồ ồ và huýt sáo ầm ĩ. Bỗng chốc loan tin, ở chỗ Nguyễn Tri Phi có một cô người mẫu hết ý, khách đến xem cứ nườm nượp, phen này tha hồ mà hốt bạc. Trưa nay Mạnh Vân Phòng dắt ông lão có cuốn "thiệu tử thần số" độc nhất ở Bắc giao đến gặp vị đại sư từ Tân Cương đến, giám đốc khách sạn Trường Hồng đã bố trí ăn ở không phải trả tiền để cám ơn giám đốc, cũng là để mỗi bên trổ tài cho đối phương xem. Hai vị khách lạ này đã phát công chữa bệnh cho giám đốc, lại dự đóan làm ăn buôn bán cho khách sạn, quần nhau suốt một ngày. Đương nhiên vị giám đốc này đã tặng Mạnh Vân Phòng một nồi lẩu bằng đồng hoa sen kiểu cổ và hai ký rưỡi thịt dê đã thái sẵn, cùng gia vị ba màu để cám ơn lòng tốt của anh.
Mạnh Vân Phòng vui vẻ nhận quà đem về nhà nấu, gọi Trang Chi Điệp và Triệu Kinh Ngũ đến ăn. Trang Chi Điệp rầu rĩ, ăn chẳng được mấy, tiện tay mở tivi đang chiếu bộ phim đánh nhau của nước ngoài gồm năm mươi tập. Trước khi chiếu phim, đã quảng cáo tiệm ca múa của Nguyễn Tri Phi. Mạnh Vân Phòng bảo:
- Chi Điệp này, anh có biết không, hiện giờ Liễu Nguyệt đi làm trong tiệm ca múa, cô ấy làm người mẫu, ăn khách lắm.
Trang Chi Điệp nói:
- Thế thì tốt, Liễu Nguyệt thích hợp với công việc này. Sao anh biết chuyện ấy? Anh thường đi nhảy à?
Mạnh Vân Phòng bảo:
- Mình đâu có đi!
Hạ Tiệp bảo:
- Anh ấy không đi, nhưng con trai anh ấy thường hay đi!
Trang Chi Điệp nói:
- Mạnh Tần còn choi choi thế thì đi cái gì, nó có tiền mua vé à?
Hạ Tiệp đáp:
- Vấn đề là ở chỗ đó. Hôm trước Nguyễn Tri Phi gặp tôi bảo, cậu con trai của chị thông minh lắm, dăm ba hôm lại dẫn bạn học đến xem một buổi. Người soát vé hỏi vé, nó bảo Nguyễn Tri Phi là chú cháu, Liễu Nguyệt là chị cháu, thế là vào. Sau đó người soát vé hỏi tôi có thằng cháu ấy không, tôi ra xem, thấy Mạnh Tần, thằng nhóc này được, tương lai sẽ giống anh Phòng, cũng sẽ là một nhân vật. Khi về tôi nói lại với anh Phòng, bảo anh ấy giáo dục dạy bảo tử tế, nhưng anh ấy đã nhăn mặt lại. Anh nhìn kìa, mặt anh ấy đã tối sầm lại rồi.
Khuôn mặt tối sầm của Mạnh Vân Phòng lại ngượng ngập cười, bảo:
- Mình đâu có tối sầm mặt lại cơ chứ? Chi Điệp này, bao giờ mình đến đấy thăm Liễu Nguyệt nhé, đừng để Liễu Nguyệt cảm thấy con gái đi lấy chồng như chậu nước hắt đi.
Trang Chi Điệp đáp:
- Được thôi, anh liên hệ đi.
Mạnh Vân Phòng nói:
- Việc gì phải liên hệ? Ăn cơm xong, mình phải đi đến ban tuyên truyền một chuyến. Ông trưởng ban hôm qua gọi điện đến bảo mình chiều nay đến. Có việc gì thế không biết! Chẳng phải là mời sư phụ của Mạnh Tần phát khí công thải sỏi bọng đái cho vợ ông ấy sao? Hôm nay mình đi không chữa đâu, chỉ hẹn thời gian thôi!
Hạ Tiệp bảo:
- Xem ra anh tích cực nhỉ, lúc thì đi thăm con dâu của chủ tịch thành phố, lúc thì đi khám bệnh cho vợ ông trưởng ban tuyên truyền, bỏ mặc nhà văn ở đây chẳng đoái hoài gì đến hả?
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Em nói thế, hóa ra anh là kẻ tiểu nhân chạy theo quyền thế và lợi lộc phải không? Mình đi đến nhà ông trưởng ban tuyên truyền không đến ba mươi phút đâu. Các anh cứ ngồi đây nói chuyện, bốn giờ chiều chúng ta gặp mặt ở tiệm ca múa đúng giờ.
Triệu Kinh Ngũ nói:
- Nếu các anh đi, tôi không đi đâu.
Mạnh Vân Phòng hỏi:
- Kinh Ngũ, cậu hẹp hòi thế. Liễu Nguyệt không làm vợ cậu, thì cậu không dám gặp mặt cô ấy, có phải không? Người không dám gặp mặt phải là Liễu Nguyệt chứ? Nếu cậu không muốn gặp, cậu có thể không gặp, cậu sẽ nhảy ở sàn nhảy, chưa biết chừng sẽ gặp một cô vừa ý.
Hạ Tiệp nói:
- Anh có đi thì đi mau mau lên, lôi thôi mãi, sốt cả ruột. Vân Phòng này, em phải nói với anh, hôm nay muốn đi đến đó cho khuây khoả thì cứ ở khuây khoả thoải mái, đừng có bám theo Mạnh Tần đi, kẻo người soát vé lại phàn nàn, em không thể bẽ mặt nữa đâu!
Mạnh Vân Phòng hậm hực ra đi. Hạ Tiệp vội vàng thu dọn chén bát, cũng không rửa, liền gọi người hàng xóm bên cạnh sang, ngồi vây quanh đánh mạt chược.
Mạnh Vân Phòng đi đến chỗ trưởng ban tuyên truyền không phải do chữa sỏi thận cho vợ ông mà để nói một việc lớn có liên quan đến dân chúng cả thành phố. Thì ra, để tiến thêm một bước lấy chủ trương văn hoá dựng sân khấu để diễn kịch, sau khi vườn thú Bắc Kinh tặng vườn thú Tây Kinh ba con gấu mèo to, chủ tịch uỷ ban nhân dân thành phố chợt nẩy ra ý định liệu có nên tổ chức một tết văn hoá ở thành phố cổ? hơn nữa, cũng nghĩ sẵn huy hiệu của tết này là con gấu mèo to. Chủ tịch thành phố triệu tập các nhân viên hữu quan của ban tuyên truyền và cục văn hoá đến họp, ai cũng nhất trí khen hay, bảo đây là một ý kiến tôi, một là mở rộng tuyên truyền của thành phố ra ngoài, hai là lấy đó làm sống động nền kinh tế, đây cũng là một sáng kiến trong cả nước. Thế là đã thành lập một uỷ ban trù bị khổng lồ. Trưởng ban gọi Mạnh Vân Phòng đến là để trưng cầu ý kiến của anh về nội dung của tết văn hoá. Mạnh Vân Phòng nghe xong, đầu tiên nêu ra phải để Trang Chi Điệp tham gia việc này. Trưởng ban bảo đương nhiên là như thế rồi ,nhưng Trang Chi Điệp là nhà văn, những việc thông thường không cần phải phiền đến anh ấy, chỉ chờ sau này có nhiều văn bản phải viết mới nhờ đến anh ấy khởi thảo. Mạnh Vân Phòng đã đọc được các dự án thiết kế của tết văn hoá viết đầy ba tờ giấy, chợt cảm thấy nếu cứ tiếp tục bàn bạc như thế này, thì có bàn đến tối cũng chưa xong. Anh liền bảo đây là một chủ trương lớn, để anh đem bản kê dự án này về suy nghĩ cẩn thận, chiều mai sẽ đến trình bày cụ thể ý kiến của mình. Anh vội vàng gỡ ra, hấp ta hấp tấp đi đến tiệm ca múa.
Trong tiệm ca múa, biểu diễn thời trang vừa kết thúc, vũ hội mới bắt đầu. Người đến nhảy đông nghìn nghịt, đều là từng đôi, từng đôi áp sát vào nhau đung đưa tại chỗ, ánh sáng lốm đốm xoay tròn, làm cho tất cả khách nhảy giống như ảo ảnh và quỷ sứ không sao nhìn rõ ai với ai. Mạnh Vân Phòng đã từng nghe Mạnh Tần nói, Liễu Nguyệt thường hay tiếp bạn nhảy liền ngồi xuống cái bàn ngay cạnh, ra sức tìm Liễu Nguyệt trong đám đông. Nhưng mắt phải của anh đã hỏng, thị lực mắt trái cũng bắt đầu kém. Anh nhìn cô nào cũng mặc quần áo mới lạ, khuôn mặt xinh đẹp vô cùng, cứ tưởng là Liễu Nguyệt nhưng mỗi bản nhạc kết thúc, các cô gái từ sàn nhảy đi xuống thì chẳng có ai là Liễu Nguyệt. Không có Liễu Nguyệt thì tìm Nguyễn Tri Phi vậy. Nhạc lại nổi lên, từng đôi trai gái lại ùa ra sàn nhảy. Tất cả lại không biệt ra ai với ai. Lúc này Mạnh Vân Phòng mới cau có tại vì không liên hệ trước. Nếu bọn Trang Chi Điệp đến không gặp Liễu Nguyệt và Nguyễn Tri Phi chắc sẽ chửi mình. Đang lúc sốt ruột thì đột nhiên có người hỏi:
- Anh có phải là Mạnh Vân Phòng không ạ?
Khi Mạnh Vân Phòng quay đầu nhìn, thì ra tiếng nói ngay ở bên cạnh, một người đàn bà xinh đẹp ngồi đối diện cùng bàn đang đưa hai tay tì vào cằm ngắm nhìn anh. Mạnh Vân Phòng hỏi:
- Chị hỏi tôi phải không? Tôi là Mạnh Vân Phòng đây, xin lỗi chị là ai?
Người đàn bà kia giơ tay ra, đương nhiên Mạnh Vân Phòng đã bắt tay, lại nói một câu:
- Trông mặt thì quen lắm, đầu óc tôi yếu kém, ngay một lúc không nhớ ra, thành thật xin lỗi chị.
Người đàn bà nói:
- Khỏi cần xin lỗi, thật ra chúng ta chưa bao giờ gặp mặt nhau bao giờ. Em chỉ nhìn hình dáng của anh mà hỏi thôi đấy, quả nhiên là anh thật.
Mạnh Vân Phòng hỏi:
- Chị thấy tôi chột mắt có phải không?
Người đàn bà cười đáp:
- Nghe nói anh Phòng nhộn lắm, quả có nhộn thật. Nhưng em không phải là người vui nhộn, em làm việc ở viện kiểm sát, chắc chắn anh sẽ biết em là ai. Còn chưa nhận ra ư? Cảnh Tuyết Ấm là chị hai của em.
Mạnh Vân Phòng quả thật giật mình, gần như anh muốn đứng dậy bỏ đi, nhưng anh đã lập tức cười đáp:
- Biết rồi, biết rồi! Chị đâu phải người không vui nhộn, gặp được chị ở đây quả thật là một điều vinh hạnh đối với tôi. Tôi biết chị hai của chị, quả thật không phải người cùng một nhà, không đến với nhau. Chị và chị ấy có phần giống nhau. Thế chị hai của chị có khoẻ không?
Người đàn bà đáp:
- Chị ấy khoẻ thế nào được? Vụ kiện bạn anh, dường như khiến chị ấy muốn tự vẫn!
Mạnh Vân Phòng bảo:
- Sao lại nói thế, đại thể tôi có biết sơ sơ về vụ kiện này. Theo ý kiến của tôi hà tất phải đến nông nỗi này? Trước kia đều là bạn bè tử tế với nhau! Hiện nay Trang Chi Điệp ở nhà đang buồn khổ, oán hận Chu Mẫn đã gây ra chuyện rắc rối, biến một người bạn tốt đẹp hẳn hoi thành kẻ thù.
Người đàn bà hỏi:
- Nếu anh thật lòng quý mến tình bạn cũ, thì tại sao lại cung cấp chuyện riêng tư kín đáo của anh ấy và chị hai em? Vì thanh danh của mình, anh ấy làm tổn thương một người bạn trước kia, chuyện này cũng quá ư mất đạo đức.
Mạnh Vân Phòng nói:
- Sự việc không hoàn toàn như chị nói. Thôi nhé, chúng ta không nhắc đến chuyện ấy nữa, may mà vụ kiện cũng đã kết thúc.
Người đàn bà bảo:
- Anh Phòng không hiểu luật pháp. Toà án trung cấp phán quyết không có nghĩa là vụ án đã chấm dứt, còn phải được phép trình lên toà án cao cấp cơ mà!
Mạnh Vân Phòng hỏi:
- Còn gửi đơn kiện ư? Việc gì phải thế nhỉ?
Người đàn bà đáp:
- Dù thế nào đi chăng nữa, thì chị hai không nuốt hận được đâu anh ạ. Chị ấy đã dốc toàn bộ sức lực và trái tim vào vụ kiện này, thì chị ấy sẽ theo kiện đến cùng. Anh hiểu ý em chứ.
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Đương nhiên tôi hiểu, chưa kể đến đàng sau chị ấy có người, riêng đàng trước có một bà cô như chị đây, thì cũng nghĩ thế nào được thế.
Người đàn bà cười bảo:
- Vậy thì em cũng không nói nữa. Nếu anh cho phép, thì xin được nhảy một đoạn nhạc?
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Thật lòng xin lỗi chị, tôi một chút xíu cũng không biết nhảy, đây là lần đầu tiên tôi vào đây, tôi muốn tìm một người.
Người đàn bà nói:
- Vậy thì đáng tiếc, tôi đành phải mời người khác.
Nói xong, chị ta vẫy tay mời người phục vụ đến, trả tiền rồi bảo:
- Đem đến cho anh này một lon cô ca.
Sau đó ngẩng đầu đi luôn. Mạnh Vân Phòng tự thấy bị làm nhục, liền hỏi người phục vụ Liễu Nguyệt có ở đây không. Người phục vụ đáp:
- Hôm nay cô ấy không đến sàn nhảy, có lẽ ở buồng của cô ấy. Anh đi từ đây, ra cửa kia, bên tay phải là cầu thang, số mười tám gác ba là phòng làm việc của cô ấy.
Mạnh Vân Phòng cám ơn, móc tiền ra đưa cho người phục vụ nói:
- Lát nữa cô trả tiền lon nước cô ca cho người đàn bà kia, cứ bảo tôi nói, hẹn người tình đi chơi, sao lại để người tình trả tiền!
Mạnh Vân Phòng bấm chuông phòng số mười tám gác ba. Trong phòng im ắng, anh lại ấn mấy cái nữa, thì nghe thấy Liễu Nguyệt hỏi:
- Ai đó?
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Tôi đây.
Liễu Nguyệt đáp:
- Có việc gì đến phòng doanh nghiệp nhé, tôi hiện đang có khách quan trọng.
Mạnh Vân Phòng vội vàng đáp:
- Liễu Nguyệt, tôi là thầy Phòng của em đây.
Cửa buồng mở ra, Liễu Nguyệt son phấn rực rỡ, dường như Mạnh Vân Phòng không dám nhận ra. Anh bảo:
- Bây giờ khó gặp em thế hả, Liễu Nguyệt? Người em vẩy nước hoa gì vậy, khó ngửi quá, chẳng khác gì mùi trên người nước ngoài.
Liễu Nguyệt vội vàng liếc mắt ra hiệu, khe khẽ nói:
- Ở đây em đang có một khách nước ngoài – sau đó hất hàm vào gian trong, gian trong khép cửa.
Liễu Nguyệt giục Mạnh Vân Phòng đi vào, nói to:
- Thầy Phòng ơi, gả em đi rồi, các thầy cô chẳng ai đến thăm em nữa! Hôm nay thầy dẫn ai đến nhảy thế?
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Tôi chột một mắt, tai nghễng ngãng, dẫn được ai cơ chứ? Thầy Điệp của em gần đây tâm tư tồi tệ lắm, bọn tôi cùng đến thăm Liễu Nguyệt mà!
Liễu Nguyệt bảo:
- Đến cho khuây khỏa thì khuây khoả, lại bảo đến thăm em? Có chuyện gì mà tâm tư thầy Điệp tồi tệ, Liễu Nguyệt đi khỏi nhà, thì nhẹ nhõm cho anh ấy biết bao nhiêu tâm tư rồi còn gì?
Mạnh Vân Phòng nói:
- Em là con ma khỉ nhỏ, không có lương tâm – rồi kể cho Liễu Nguyệt nghe một lượt, tại sao Đường Uyển Nhi mất tích, Ngưu Nguyệt Thanh lại bỏ đi như thế nào, còn Trang Chi Điệp thì đang sống thui thủi một mình thật đáng thương.
Liễu Nguyệt nghe xong, tròng mắt tấy đỏ, cô ta hỏi:
- Thế thầy Điệp đâu?
- Bọn tôi hẹn bốn giờ đến đây, ở dưới sàn nhảy tôi tìm mãi không thấy Liễu Nguyệt đâu, chờ lúc nữa anh ấy đến, em chịu khó động viên an ủi anh ấy, cũng khuyên anh ấy đi gặp chị cả cúi đầu nhận lỗi, đoàn tụ trở lại.
Liễu Nguyệt nói:
- Sau khi em đi làm dâu, em chỉ bận bịu đến đây làm việc, cứ bảo đi thăm các anh, nhưng không có thì giờ, may mà ở đây không bị người ta coi thường, cũng đang định mời thầy cô cùng đến xem em biểu diễn, không ngờ Nguyễn Tri Phi bị người ta đánh, đã tạm thời giao cho em lo liệu công việc này, thành thử không có thời gian đến khu nhà hội văn học nghệ thuật, ở đấy đã xảy ra những chuyện ấy cơ chứ!
Mạnh Vân Phòng hỏi:
- Em nói sao, Nguyễn Tri Phi bị người ta đánh à?
Liễu Nguyệt đáp:
- Thầy không biết chuyện này à? Tối nào đóng tiệm, Nguyễn Tri Phi cũng đến nhận tiền. Tối hôm trước, đột nhiên có người chặn anh ấy ở cửa cầu thang, hỏi: "Ông là Nguyễn Tri Phi phải không?". Nguyễn Tri Phi không biết người này, hắn ta bảo hắn là thư ký riêng của công ty Thái Bình Dương, công ty định tổ chức lễ khánh thành, hy vọng đội mốt thời trang đến biểu diễn cho rầm rộ, Nguyễn Tri Phi bảo ở đây làm việc bình thường, không đi ra ngoài biểu diễn. Hắn ta bảo: "Giám đốc của bọn tôi đang ở trong xe dưới gác, liệu có xuống gặp mặt được không?". Nguyễn Tri Phi liền đi xuống. Trong xe quả nhiên có ba người cùng ngồi, trong đó có một người béo giơ tay ra bắt, Nguyễn Tri Phi vừa giơ tay chạm vào, thì bị kéo, đứng không vững, tên tự xưng là thư ký riêng kia đứng ở sau đẩy vào. Nguyễn Tri Phi đã bị đẩy lên xe, chiếc xe tu tu phóng đi luôn. Nguyễn Tri Phi biết ngay có chuyện chẳng lành, ôm két tiền hỏi người ta định làm gì, tên béo kia giáng cho một quả đấm vào mắt, chiếc kính râm vỡ tan, mảnh kính găm vào mắt anh, máu chảy ra. Tên béo kia nói: "Làm thế đó, thằng họ Nguyễn này, biết nhà ngươi phát tài, song không thể cứ để bọn này đói bụng, mượn nhà ngươi nhà ngươi không chịu, quả thật xin lỗi nhé, đành phải làm thế này vậy". Nguyễn Tri Phi còn đang bảo: "Ban ngày ban mặt các anh ăn cướp hả? Liễu Nguyệt là người của tiệm ca múa chúng tôi, các anh biết Liễu Nguyệt chứ?" Tên béo đáp: "Biết! Cô ấy là con dâu của chủ tịch thành phố thì sao nào? Tiền nhà ngươi đã kiếm đủ, giữ con mắt trái này để nhận ra bọn ta phải không?", một quả đấm nữa lại thụi vào mắt trái của Nguyễn Tri Phi. Xe phóng đến đường vòng phía nam, thì bọn chúng thả Nguyễn Tri Phi xuống đường rồi chạy mất tăm mất tích. May sao có một người bán rau phát hiện đưa vào bệnh viện, hai con mắt kia đã chảy hết thuỷ tinh dịch. Chuyện này ầm ĩ lên như bấm chuông mà thầy không hay biết gì ư? Bố Đại Chính cũng điên tiết yêu cầu công an tróc nã tội phạm, đương nhiên cục công an đã tăng thêm trạm gác ở bốn cổng thành kiểm tra xe cộ đi lại, nhưng không thấy ai khả nghi. Hỏi Nguyễn Tri Phi thì anh cũng không nói rõ được dáng vóc của ba tên kia, chỉ bảo có một tên béo, xe thì màu đỏ.
Mạnh Vân Phòng nghe mà nổi da gà, Liễu Nguyệt còn bảo cục công an hiện đang truy bắt tội phạm ở khắp nơi, nhưng đâu có phá án nhanh chóng được. Mạnh Vân Phòng không quan tq^mùi đến điều đó, hỏi Nguyễn Tri Phi nằm ở bệnh viện nào, vết thương chạy chữa ra sao, Liễu Nguyệt bảo ở bệnh viện trực thuộc của học viện Tây y, cụ thể chữa chạy thế nào, cô ta không có thời gian chưa đi thăm được. Mạnh Vân Phòng bảo:
- Nguyễn Tri Phi bảo em tạm kinh doanh ở đây là sáng suốt đấy, nhưng em cũng phải cẩn thận. Ở đây không bì với làm người hầu giúp việc được đâu.
Liễu Nguyệt nói:
- Bọn lưu manh côn đồ, ngay đến chủ tịch uỷ ban nhân dân thành phố cũng có sợ đâu. Cứ để bọn chúng đến, đến cần bao nhiêu thì em cho bấy nhiêu. Em đâu có giống Nguyễn Tri Phi chỉ cần tiền, không cần mạng sống?
Mạnh Vân Phòng liền mỉm cười đưa mắt ra hiệu sang phòng bên, khẽ hỏi:
- Khách ngoại quốc này là người nước nào thế? Tiệm ca múa các bạn làm ăn với người nước ngoài à?
Liễu Nguyệt đáp:
- Ông ta là giáo sư do học viện ngoại ngữ mời sang dạy, nói được vài câu tiếng Trung Quốc, thường hay đến nhảy nên chúng em mới quen biết. Thầy có gặp chàng trai người Mỹ này không?
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Tôi không ngửi quen mùi nước hoa trên người họ. Anh ta ngồi lâu rồi, sao vẫn chưa đi?
Liễu Nguyệt đáp:
- Anh ta rảnh rỗi đến tán chuyện ấy mà. Người Mỹ tự nhiên đáo để. Thầy nghi ngờ phải không?
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Em bây giờ không còn là cô bé nữa, là cô dâu của chủ tịch uỷ ban nhân dân thành phố cơ mà, bao nhiêu con mắt đang nhìn vào em.
Liễu Nguyệt nói:
- Em lớn thế này rồi, em không mắc lừa đâu.
Mạnh Vân Phòng nhìn đồng hồ, đã bốn giờ chiều, liền bảo anh đi xuống gác chờ Trang Chi Điệp ở cổng, một lúc nữa cùng lên thăm em. Liễu Nguyệt bảo cô không đi xuống đón bọn họ được, cô sẽ nhanh chóng chia tay với vị khách nước ngoài, cốt dành thời gian nhảy với Trang Chi Điệp tử tế. Mạnh Vân Phòng liền từ trên gác phóng ra cổng. Nhưng Mạnh Vân Phòng chờ ở cổng lâu lắm không thấy bóng dáng của Trang Chi Điệp đâu cả. Chia tay tiễn vị khách nước ngoài ra về, Liễu Nguyệt cũng xuống chờ, vẫn không thấy đến. Mạnh Vân Phòng lo lắng tới Nguyễn Tri Phi, liên nêu ra ý định đến bệnh viện thăm bạn. Nhưng căn dặn Liễu Nguyệt khi nào bọn Trang Chi Điệp đến, không nên nói đến chuyện của Nguyễn Tri Phi, để mọi người chán nản trong cuộc vui, chờ lúc nữa anh từ bệnh viện trở về nhà, hỏi thăm cụ thể bệnh tình, rồi sắp xếp thời gian cùng nhau đến thăm.
Liễu Nguyệt cảm động tấm lòng tốt của Mạnh Vân Phòng, cũng không dám rời đi chỗ khác, cứ chờ ở tiệm ca múa cho đến tối, Trang Chi Điệp không đến, cũng không thấy Mạnh Vân Phòng từ bệnh viện tạt về đây, suốt một đêm cô nơm nớp không yên.
Mạnh Vân Phòng đến bệnh viện không gặp Nguyễn Tri Phi. Bác sĩ bảo đã mổ thay mắt, không cho phép bất cứ ai đến thăm. Mạnh Vân Phòng được biết đã mổ, ca mổ lại đặc biệt thành công, thì đã đỡ lo, nhưng anh không rõ hai mắt Nguyễn Tri Phi đã chảy hết thuỷ tinh dịch, thì mổ thay mắt như thế nào, mắt thay được ư? Bác sĩ trả lời:
- Đương nhiên thay được, con mắt này của anh hỏng bao giờ vậy, lúc đó sao anh không đến mổ?
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Tôi còn một con mắt cũng đủ dùng. Hiện giờ giữa ban ngày ban mặt cũng có kẻ dám cướp giật, chuyện đời mù mịt như thế này, thêm một con mắt để nhìn, chỉ tổ bực mình nhiều hơn.
Nhưng bác sĩ lại nổi cáu:
- Cái đồng chí này, sao lại ăn nói như vậy hả?
Mạnh Vân Phòng thầm nghĩ anh chàng này không hiểu hóm hỉnh, vội cười xoà rồi hỏi Nguyễn Tri Phi thay mắt gì.
Bác sĩ đáp:
- Mắt chó.
Mạnh Vân Phòng ngạc nhiên hỏi lại:
- Mắt chó ư? Vậy thì sau này chẳng phải nhìn bằng mắt chó, thì con người thấp đi sao?
Bác sĩ hừ một tiếng rồi hầm hầm bỏ đi. Mạnh Vân Phòng buồn thiu, ra khỏi bệnh viện, thấy trời muộn cũng không tạt qua tiệm ca múa mà về thẳng nhà. Về đến nhà thì Trang Chi Điệp, Triệu Kinh Ngũ và Hạ Tiệp đang có mặt, hơn nữa lại có cả Chu Mẫn. Ai nấy buồn rũ rượi như cà chua bị trận sương muối, chẳng ai nói gì được cả. Mạnh Vân Phòng lên tiếng:
- Chết thật, mình chờ ở tiệm ca múa đến mức chân mọc rễ lên, mà các bạn vẫn còn ở đa6y không hề nhúc nhích. Mình người lớn chứ có phải trẻ con đâu, lời nói chứ có phải cái rắm đâu, có phải chơi trò khỉ đâu cơ chứ!
Hạ Tiệp gí ngón tay vào trán chồng, nói:
- Hư, tôi hận anh lắm đấy!
Rồi chị kéo anh xuống bếp nói chuyện. Hạ Tiệp kể lại với Mạnh Vân Phòng. Bọn họ đánh mạt chược đến ba giờ bốn mươi phút, vừa đứng dậy định đi thì Chu Mẫn bước vào. Anh ta mới từ Đồng Quan về, anh ta không cứu được Đường Uyển Nhi ra, mà ở trán dán một miếng băng to. Mọi người thấy anh ta thiểu não biết ngay đã đánh nhau ở Đồng Quan, hỏi về Tây Kinh lúc nào, tại sao không gọi điện thoại để ra bến xe đón? Chu Mẫn bảo anh đã về Tây Kinh hai hôm nay. Trang Chi Điệp hỏi:
- Về Tây Kinh hai hôm rồi ư? Hai hôm rồi ai im như thóc thế hả?
Chu Mẫn đáp:
- Tôi cảm thấy không cần thiết nói với mọi người.
Anh ta giục đánh bài, để anh ta góp một chân. Trang Chi Điệp thì điên tiết, sa sầm nét mặt, nói:
- Chu Mẫn, cậu trở về với cái dáng như thế này hả? Mọi người mong ngày ngóng đêm cậu trở về tới mức sắp sửa đổ máu mắt, cậu về đã hai ngày mà không thèm ló mặt, khi giáp mặt thì đùa cợt thế hả? cậu nói đi, Đường Uyển Nhi đâu?
Chu Mẫn sợ quá đáp:
- Tôi không cứu được cô ấy!
Trang Chi Điệp nói:
- Tôi biết cậu không cứu được cô ấy, vậy thì tình hình cô ấy ra sao cậu cũng không biết chứ?
Chu Mẫn mới bắt đầu kể. Anh ta về đến Đồng Quan thì đâu đâu cũng ầm ĩ tiếng chửi rủa chê cười anh ta, ban ngày anh ta không dám xuất hiện ở ngoài phố, cắt cử mấy anh em đồng bọn lân la chung quanh nhà Đường Uyển Nhi thăm dò tin tức mới biết. Sau khi Đường Uyển Nhi bị bắt về, người chồng kia đã lột hết quần áo của cô ta ra đánh, đánh tới mức thâm tím hết mình mẩy, không sót một chỗ nào, bắt cô ấy nói từ nay trở đi yên tâm sinh sống, nhưng Đường Uyển Nhi vẫn không hé răng, không nói có, cũng chẳng nói không, người chồng kia liền lấy dây thừng trói chân tay cô vào, rồi cưỡng hiếp vài lần, lần nào cũng ngước đãi tình dục, lấy đầu mẩu thuốc châm vào âm hộ, nhét đèn pin vào bên trong..Mới nói như vậy nước mắt Trang Chi Điệp lã chã rơi xuống. Nhưng Chu Mẫn lại cười bảo:
- Thôi đi, đừng khóc vì cô ấy nữa, kiếp này chúng ta có thể không bao giờ gặp cô ấy nữa. Cũng phải học cách quên dần cô ấy đi.
Thế là anh ta tiếp tục kể, anh ta bảo đã từng cử một người anh ta biết và cũng biết anh chồng kia đi gặp Đường Uyển Nhi, bởi vì anh ta đã thoả thuận với người của toà án ,chỉ cần Đường Uyển Nhi gửi đơn xin ly hôn, cho dù chồng cô ấy có đồng ý hay không, đều có thể xoá bỏ hôn ước. Nhưng người cử đi không gặp được Đường Uyển Nhi, cô ấy bị nhốt trong căn phòng nhỏ ở sân sau khoá trái. Chu Mẫn bảo quả thật không chịu nổi, cuối cùng vào một buổi hoàng hôn, anh đã đội một cái mũ lá xong vào ngôi nhà ấy, người chồng kia đã nuôi sẵn bốn tay võ, đề phòng anh ta đến, anh ta vừa vào cửa, bọn kia hồi hộp, giơ hai nắm đấm lên, mắt nhìn nẩy lửa. Anh ta bảo:
- Tôi đến đây không phải để đánh nhau.
Anh ta ngồi trước bàn đầu tiên, móc túi lấy ra một chai rượu, bảo đem chén ra cùng uống. Người chồng kia thấy anh ta như vậy, cũng mở mấy lon đồ hộp ra làm thức nhắm, sáu người cùng uống rượu. Chu Mẫn nói:
- Người anh em, sự việc đã đến mức này, thì chúng ta nói chuyện với nhau nhé! Đường Uyển Nhi theo tôi đến Tây Kinh. Tôi biết cô ấy chưa cắt đứt quan hệ vợ chồng với anh, nhưng tôi yêu cô ấy, cô ấy cũng yêu tôi, đây là chuyện đã hết cách, không bàn cãi gì nữa. Anh đã tìm được cô ấy ở Tây Kinh trở về, tìm cô ấy về cũng được thôi, nhưng anh cũng nên có một lời để tôi cho cho Uyển Nhi.
Người chồng kia bảo:
- Thế này nhé, tôi là người thô vụng, cũng chơi được dao cuốc trong đêm trăng, cứ phải rõ ràng dứt khoát. Anh là nhân vật có tên tuổi trong huyện Đồng Quan, nhưng tôi cũng là thằng đàn ông cao bằng bức tường, anh để tôi phải đội cái mũ xanh lâu nay, tôi đã chịu nhịn tất cả. Bây giờ ngồi lại được với nhau, tôi không chửi anh, cũng không đánh anh, tôi chỉ cầu xin anh đừng bao giờ đến tìm cô ấy nữa. Anh không quan tâm đến cái thân tôi, thì cũng nên xét tới số phận đứa trẻ.
Chu Mẫn hỏi:
- Anh cầu xin tôi sao?
Người chồng kia đáp:
- Tôi đang cầu xin anh đấy.
Chu Mẫn đáp:
- Nhưng làm sao tôi có thể tha thứ cho anh được. Anh đã lấy thừng trói cô ấy bắt về, đánh tới mức thân tàn ma dại, lại ngược đài tình dục như vậy thử hỏi cô ấy là vợ anh hay là một con trâu, con ngựa của anh, tình yêu, cưỡng đánh như vậy mà có ư?
Người chồng kia trả lời:
- Không việc gì mà anh phải lo chuyện ấy, cô ấy là vợ tôi. Tôi dậy dỗ cô ấy như thế nào, người ngoài không can thiệp được.
Chu Mẫn nói:
- Nhưng tôi không cho phép anh ngược đãi cô ấy như vậy! Anh muốn chung sống, anh phải đối xử tử tế với cô ấy. Nếu anh hành hạ cô ấy thì anh ly hôn.
Người chồng kia đáp:
- Đừng hòng tôi cắt đứt. Có chết tôi cũng không ly hôn.
Chu Mẫn nói:
- Vậy thế này, anh cầu xin tôi thì tôi cũng cầu xin anh, anh để tôi được gặp mặt cô ấy.
Chu Mẫn đã viết một đơn xin ly hôn, chỉ cần anh ta gặp được Đường Uyển Nhi, bảo cô điềm chỉ ngón tay vào đơn là anh ta có thể nộp cho toà án. Nhưng người chồng kia không cho gặp. Hai bên tranh cãi nhau. Chu Mẫn cứ hùng hục ra sân sau tìm, một tên đứng cạnh đã phang một gậy. Chu Mẫn ngã gục. Người chồng kia liền hô hét:
- Đánh, đánh chết thằng lưu manh vô lại này đi! Nó đến đây gây chuyện rắc rối, có đánh chết, mình cũng không phạm pháp đâu mà sợ!
Bốn tên vô lại xông vào đấm đá. Chu Mẫn ngay tức khắc nhảy lên bàn, hai chân đá ngã hai tên, người chồng kia ôm lấy anh ta, anh tóm tay cắn hắn. Hắn bị cắn lòi xương ra trắng hếu, nhưng cùng lúc ấy một tên khác đã đập chai rượu vào trán anh ta, thủng một chỗ chảy máu. Tiếng đánh chửi đã làm náo động cả bà con hàng xóm, Chu Mẫn thấy vậy, đội mũ lá lên đầu, mặt mũi bê bết máu bỏ ra về. Về đến nhà nằm vật ra, xấu hổ tới mức ba ngày ba đêm không ra khỏi cửa. Ngày thứ tư nghe tin cửa hàng xén của mẹ mở ở phố cũng bị đồng bọn của người chồng kia đập vỡ tủ kính. Anh ta vuột dậy khỏi giường, lại định đi liều mạng một phen. Bố mẹ anh ta đã ôm con giữ lại, xin anh ta để bố mẹ được yên, bố mẹ anh ta bảo, vì một đứa con gái mà làm ầm ĩ cả huyện lỵ, ai chẳng nói con đã cuỗm mất vợ của người ta? Bố mẹ ra khỏi cửa cũng bị người ta chỉ trỏ sau lưng, cho dù bọn họ đập phá cửa hàng, người đến xem đông là thế cũng có ai nói giúp mình đâu. Nếu lại đi gây sự, thì coi như con đã giết chết bố mẹ đi cho rảnh. Đàn bà dưới gầm trời này thiếu gì, sao con không yêu, lại đi yêu vợ người ta? Con đã lớn bằng ngần này, như con nhà người ta, đều đã bắt đầu phụng dưỡng cha mẹ, cha mẹ không mong tiêu của con một xu, không ràng buộc con một sợi chỉ, nhưng con cũng không được để bố mẹ lo cho con nữa chứ, con ơi! Chu Mẫn đã nghe lời bố mẹ, dần dần nguôi cơn giận, lại nằm bảy tám ngày nữa, rồi trở lại Tây Kinh.
Nghe vợ kể rõ ngọn nguồn, tâm tình Mạnh Vân Phòng cũng nặng trĩu. Anh đi ra, mở tủ lạnh lấy rượu nói:
- Đường Uyển Nhi không trở lại, không trở lại cũng tốt. Chu Mẫn đã trở lại, trở lại cũng tốt. Hôm nay mình uống rượu ăn thịt, Hạ Tiệp ơi, em ra quán đặc sản rừng mua về đây hai ký thịt chó nhé.
Hạ Tiệp đáp:
- Ăn thịt chó uống rượu cuốc lủi, anh định để mọi người đều bốc lửa lên à?
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Bảo em đi thì em cứ đi, việc gì lắm lời thế.
Hạ Tiệp đi ra phố, ai nấy vẫn im lặng. Chu Mẫn đã cất tiếng:
- Tại sao các anh cứ im lặng thế? Đường Uyển Nhi là vợ tôi, tôi không buồn đau, các anh buồn đau nỗi gì? Chuyện đời như mộng, chúng ta hãy cho qua giấc mộng này, chúng ta vẫn là người sống cho chúng ta chứ?
Trang Chi Điệp đưa hai tay cầm chai rượu, cố sức mở nắp, nhưng mở không được. Chu Mẫn bảo đưa cho anh ta mở, song Trang Chi Điệp đã lấy răng cắn, cắn đến mức kêu tnành tiếng cắc cắc, cuối cùng đã cắn được, tự rót co mình một chén uống luôn. Chai rượu đầy như thế, anh một chén, tôi một chén, dốc ừng ực vào cổ họng.
Hạ Tiệp đem được thịt chín về, thì rượu trong chai chỉ còn một một ngón tay. Mạnh Vân Phòng lấy ra chai thứ hai.
Hạ Tiệp nói:
- Vân Phòng ơi, anh có biết không, ở quán đặc sản rừng ai ai cũng bảo Nguyễn Tri Phi bị bắt cóc, hai con mắt chảy hết thuỷ tinh dịch!
Mạnh Vân Phòng liếc mắt ra hiệu cho Hạ Tiệp, nhưng anh liếc ở mắt chột, nên Hạ Tiệp không hiểu ý, vẫn đang nói:
- Họ còn bảo, bệnh viện dã thay cho anh ấy bằng mắt chó, mắt chó thay cho mắt người được à?
Triệu Kinh Ngũ và Chu Mẫn đều ngạc nhiên, liền dừng chén rượu. Nhưng Mạnh Vân Phòng cứ nhìn Trang Chi Điệp. Trang Chi Điệp nấc liền mấy cái song vẫn im lặng, bưng chén rượu uống dữ dội hơn. Vân Phòng hỏi:
- Chi Điệp, anh vẫn được chứ?
Trang Chi Điệp không trả lời, vẫn đang rót rượu cho mình.
Hạ Tiệp nói:
- Mời người ta uống rượu, còn tiếc rượu hay sao? uống say thì ở đây có giường.
Mạnh Vân Phòng giục:
- Vậy thì uống nhé, uống! Nguyễn Tri Phi bị cướp giật là đúng thế, mình đã vào bệnh viện thăm. Anh ấy cũng đáng đời, ai bảo đã phát tài, lại hay khoe khoang, hôm nay tài trợ cái này, ngày mai tài trợ cái kia, tự nhiên có kẻ đòi tính sổ với anh ấy. Nào Chi Điệp, hôm nay mình cũng say một mẻ, cạn chén này nhé.
Trang Chi Điệp mắt đỏ ngầu, đứng lên bảo:
- Mình phải về đây!
Nói xong đi về luôn. Mọi người ngẩn ra, cũng không dám nói giữ anh lại, cứ nhìn anh xiêu xiêu vẹo vẹo thất thểu từ trong cửa đi ra. Mạnh Vân Phòng tự uống tiếp chén rượu đó, một mắt sáng một mắt mù, cùng một lúc chảy xuống hai giọt lệ.
Trang Chi Điệp đêm ấy về nhà, vừa bước vào cửa, đã say ngã trên nền đất. Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, chỉ thấy đau nửa bên đầu. Mấy ngày liền chỉ uống thuốc giảm đau, ăn mì tôm, không ra khỏi nhà. Trong thời gian này, Mạnh Vân Phòng không còn thấy anh sang uống rượu nói chuyện, liền mời sư phục của Mạnh Tần đến phát khí công chạy chữa cho anh, rõ ràng nhìn thấy cửa sắt phòng chống trộm cắp mở hẳn hoi, lại gõ cửa gỗ nhưng không ai mở cửa. Đi xuống cổng lớn nhờ bà Vi gác cổng gọi bằng loa oang oang: Chi Điệp, xuống tiếp khách! Chi Điệp xuống tiếp khách!
Vẫn không có tiếng trả lời, Mạnh Vân Phòng liền ra trạm điện thoại công cộng ngoài phố gọi vào nhà anh. Trang Chi Điệp nhận điện thoại, anh gắt lên:
- Anh cứ gọi tôi làm gì hả? Anh là con ma thúc giục tôi riết thế?
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Anh không thể ở lì trong nhà, không đi đâu như vậy. Mình biết anh buồn khổ, nên mời sư phụ của Mạnh Tần đến phát công điều trị cho anh đây!
Trang Chi Điệp hỏi:
- Mình phải điều trị bằng khí công à? Mình chưa ốm đâu, mình chẳng có bệnh gì sất!
Mạnh Vân Phòng đứng im trong trạm điện thoại:
- Vậy thì thôi, anh không cho chạy chữa, thì anh tự lo lấy. Anh khỏi phải lo chuyện Nguyễn Tri Phi, bọn mình và Triệu Kinh Ngũ đã đi thăm rồi, mình đi với danh nghĩa của anh đấy, anh cũng không phải đi thăm nữa. Tình hình của anh ấy cũng khá, thay mắt xong khôi phục cũng rất nhanh. Nhưng mình phải nhắc nhở anh một việc, trong năm nay anh có chuyện rầy rà cuốn níu, nhà mình đã ngẫm nghĩ, lại mở "kỳ môn độn giáp" ra xem, mới tính ra, dụng cụ đồ đạc trong nhà anh sắp xếp không thoả đáng, sự việc xấu đi hoàn toàn là ở chỗ phong thuỷ địa lý của nhà ở. Đặt buồng ngủ ở góc tây bắc đã phạm điều kiêng kỵ lớn, người nên ngủ ở gian góc đông bắc mới phải, bộ ghế da ở phòng khách không nên đối diện với cửa chính, phải đặt dịch về bên chân tường phía đông. Anh có nghe rõ không hả?
Trang Chi Điệp điên tiết bỏ ống nghe xuống, Mạnh Vân Phòng nghe thấy tiếng hổn hển sau mấy tiếng cạch trong điện thoại, anh nhăn nhó một lúc song vẫn mời sư phụ của Mạnh Tần vào quán cơm bình dân ăn phở bò. Sau khi đưa khách đi khách sạn, anh đi đến tiệm ca múa tìm Liễu Nguyệt, mong Liễu Nguyệt nói tất cả với Ngưu Nguyệt Thanh. Nếu hai người ấy đi thăm Trang Chi Điệp thì tư tưởng tình cảm của anh Điệp có sẽ khá hơn, nếu không Trang Chi Điệp sẽ ốm quả thật tự huỷ diệt bản thân.
Liễu Nguyệt đã đến Song Nhân Phủ, nhưng người đã đi, nhà bỏ trống. Máy ủi đã húc đổ ngôi nhà của gia đình anh Thuận bên cạnh. Biết ngay Ngưu Nguyệt Thanh và mẹ già đã dọn đi nơi khác. Liễu Nguyệt đứng bần thần một lúc lâu dưới cây đào trong sân, rồi mới ấm ức đi đến ngôi nhà ở bên hội văn học nghệ thuật. Trang Chi Điệp đã tiếp cô ta, nhưng Trang Chi Điệp cứ luôn luôn ca cẩm nói với cô ta sau khi bị bắt về Đồng Quan, Đường Uyển Nhi đã bị ngược đãi tình dục như thế nào. Liễu Nguyệt không dám nói nhiều với anh, chỉ đi nấu cơm cho anh ăn, nhìn anh ăn xong, thì vội vàng ra về. Từ đó trở đi trong hơn mười ngày, ngày nào Liễu Nguyệt cũng đến thăm một lần, sau đó tiệm ca múa nhiều việc quá, cô ta nhờ một bà chủ quán phở thái Sơn Tây ở cửa ngõ bên trái trước cổng khu nhà hội văn học nghệ thuật mỗi ngày hai lần đưa cơm. Lúc đầu bà chủ quán không bằng lòng. Liễu Nguyệt bèn móc ra một nắm đô la, bảo:
- Trả công phục vụ cho bà bằng đô la còn không được hay sao?
Một hôm, Liễu Nguyệt cùng anh chàng người Mỹ kia đến ăn cơm tây ở một quán ăn phương tây mới mở tại phố Gác Trống, ăn xong Liễu Nguyệt có ý dẫn vị khách nước ngoài đến thăm Trang Chi Điệp. Hai người đã đi đến phố có ngôi nhà của hội văn học nghệ thuật, nhưng Liễu Nguyệt lại vẫy xe taxi đưa khách về trước, còn mình đi bộ đến thăm Trang Chi Điệp. Vừa lên gác, đi đến cửa thì một người ngồi xổm ở chân tường đang ngủ say, nhìn kỹ lại hoá ra là Chu Mẫn. Liễu Nguyệt lắc lắc người đánh thức anh ta và hỏi:
- Chu Mẫn ơi, anh dắt trộm bò ban đêm đấy hả?
Chu Mẫn nhận ra Liễu Nguyệt, vội vàng lau nước dãi chảy ở mép, rồi đáp:
- Tôi tìm Trang Chi Điệp ở khắp nơi mà không thấy, dự đoán anh ấy đang ở nhà, song gõ cửa lại không mở, tôi liền ngồi ở đây đợi anh ấy. Thế nào cũng phải mở cửa đi ra chứ. Không ngờ mệt quá ngủ thiếp đi. Bây giờ mấy giờ rồi?
Liễu Nguyệt đáp:
- Bốn giờ.
Chu Mẫn bảo:
- Vậy là tôi đã ngủ một giấc hai tiếng đồng hồ rồi ư?
Liễu Nguyệt bắt đầu gõ cửa, gõ tới mức cửa kêu ình ình, lại còn gọi rõ to:
- Thầy Điệp ơi mở cửa, em nghe thấy thầy đang khe khẽ ho. Em là Liễu Nguyệt đây, Liễu Nguyệt mà thầy cũng không mở cửa ư?
Trong nhà có tiếng bước chân, và cánh cửa đã được mở. Trang Chi Điệp xuất hiện ở cửa với sắc mặt xanh xao vàng vọt, anh hỏi:
- Chu Mẫn cũng đến hả?
Chu Mẫn đáp:
- Em ngồi ở ngoài cửa đã hai tiếng đồng hồ rồi.
Trang Chi Điệp hỏi:
- Có chuyện gì mà cậu dầy công thế?
Chu Mẫn đáp:
- Nếu không phải chuyện gấp, em đã quyết không quấy nhiễu thầy. Hôm qua em đến chỗ Tư Mã Cung, ông ấy bảo em, toà án cấp cao đã thông báo với họ phán xét cuối cùng, lật đổ hoàn toàn kết quả của toà án trung cấp, bắt sửa lại đã xâm phạm quyền danh dự của Cảnh Tuyết Ấm. Nghe nói, đây là do cô em gái gì đó của Cảnh Tuyết Ấm đã dùng kế mỹ nhân trong chuyện này, giở trò ma quỷ với người thẩm tra lại cụ thể…Mình không hành động ngay, không đi gặp các ông chánh án toà cao cấp. Từ lâu em đã bảo thầy đi gặp ông chánh án, sau đó mới biết thầy không đi, bây giờ nếu không làm ngay thì hoa kim châm sẽ héo sạch.
Trang Chi Điệp hỏi:
- Thế ư? – liền đi rót nước trà – Cứ sửa đi, sửa thế nào thì sửa. Xử thua là thua, xử thắng thật ra cũng là thua. Cậu uống nước đi.
Chu Mẫn không uống, sốt ruột bảo:
- Vậy thì chúng ta để họ chọc tiết như thế sao? Điều thứ ba của bản án sửa đổi viết rằng phải đăng công khai kết quả trên báo chí.
Trang Chi Điệp ngồi lại trên ghế da, trên tường sau ghế không còn treo tranh chữ, mà treo một tấm da bò rất to, anh bảo:
- Vậy thì có sao đâu, cứ để họ đăng báo. Cậu muốn gặp chánh án thì cậu cứ việc đi, tôi không muốn đi gặp bất cứ một người nào nữa.
Chu Mẫn nước mắt ròng ròng:
- Thầy Điệp ơi, em đi thì có tác dụng gì! Em van xin thầy hãy đi một chuyến nữa, chúng mình đấu khổ đấu sở một thời gian dài như thế, cuối cùng lại sa vào tình cảnh bi đát đáng ghét này sao?
Trang Chi Điệp đáp:
- Chu Mẫn này, tôi biết nói với cậu như thế nào nhỉ, cậu buông tha tôi, không bao giờ nhắc đến việc này nữa được không? Tôi phải viết sách, tôi là nhà văn, tôi phải yên tĩnh để viết sách chứ?
Chu Mẫn đáp:
- Vậy thì thôi, em sẽ chẳng bao giờ cầu xin thầy nữa. Thầy hãy viết sách của thầy, để cho thầy đi mà nổi tiếng. Em cũng đáng kiếp đã huỷ hoại tên tuổi của thầy.
Chu Mẫn bước ra, đóng cửa đánh sầm một tiếng. Quả nhiên bảy ngày sau, toà án nhân dân cấp cao của tỉnh đã công bố kết quả xét xử cuối cùng, còn các báo của thành phố hầu như đã đăng tin trong cùng một ngày. Mấy tối liền Chu Mẫn cứ bám theo Cảnh Tuyết Ấm trên đường đi làm về, thăm dò xong địa chỉ của gia đình chị ta. Cuối cùng vào một đêm mưa, nấp ở một chỗ ngoặt, anh ta đã phát hiện anh chồng Cảnh Tuyết Ấm từ trong nhà đi ra, đạp xe hối hả đi về phía đông, anh ta nhảy xổ ra đạp cả xe lẫn người ngã quay lơ sang bên đường, hằm hằm bảo:
- Thằng lừa gạt Lưu Tam kia, mày nợ tiền của bạn tao sao không trả?
Chồng Cảnh Tuyết Ấm ngã ra đất, mà chiếc vải mưa thì vừa vặn trùm kín đầu, nghe thấy tiếng chửi, liền đáp:
- Ông anh ơi, ông anh nhầm người rồi, tôi đâu phải thằng lừa gạt Lưu Tam, tôi chưa từng nợ ai bao giờ!
Chu Mẫn mừng thầm trong lòng, lại mắng:
- Mày hảo hán gây chuyện lại không dám nhận là hảo hán hả? Mày không phải kẻ lừa gạt Lưu Tam thì mày là thằng hèn nhát hả? Mày đừng trách tao độc ác, tao nhận tiền của người ta, thì làm việc cho người ta, mày nợ tiền không trả, thì lấy số tiền ấy mà khám bệnh nghe chưa?
Chu Mẫn co chân giẫm vào cổ chân gầy gầy kia, nghe thấy rắc một tiếng, biết ngay ít nhất cũng gãy xương, liền nhảy lên xe phóng đi như bay. Sáng hôm sau, Chu Mẫn uống tới mức say lảo đảo xuất hiện ở văn phòng toà soạn tạp chí, thì người nào cũng bàn tán chồng của Cảnh Tuyết Ấm bị người ta đánh hiện đang nằm ở bệnh viện khoa xương, họ bảo ác giả ác báo, có lẽ sáu trăm đồng bồi thường tổn thất danh dự mới thắng kiện, hoàn toàn không đủ chi phí để nằm viện. Chu Mẫn hỏi:
- Tay nào đánh thế nhỉ? Chúng mình nên tìm ra người ấy cảm ơn anh ta tử tế mới được. Thế chồng chị ta làm sao lại bị người ta đánh?
Lý Hồng Văn nói :
- Bảo là có người nhìn nhầm đánh nhầm ư, làm gì có chuyện ra tay nhầm cơ chứ. Chắc đã làm chuyện gì xấu xa, bị người ta nện cho đấy thôi! Chu Mẫn ơi, nếu cậu có giỏi toà soạn tạp chí bỏ tiền ra, cậu thay mặt toà soạn mua quà vào bệnh viện thăm anh ta như thế nào?
Chu Mẫn đáp:
- Nếu tôi còn làm ở đây, thì nhất định tôi sẽ đi. Nhưng bây giờ tôi không phải là người của toà soạn tạp chí nữa rồi.
Lý Hồng Văn hỏi:
- Sở bắt cậu thôi việc à?
Chu Mẫn đáp:
- Sớm muộn gì thì cũng bắt thôi việc. Hôm nay tôi đến tự xin nghỉ trước – nói rồi lấy ở túi khoác ra một tút thuốc lá, đưa mỗi người một bao – được các anh quan tâm giúp đỡ, tôi đã làm việc ở đây một thời gian, đáng tiếc là đã không góp công sức gì cho toà sọan, ngược lại còn gây nhiều phiền phức. Bây giờ tôi ra đi, đề nghị các anh hút xong thuốc thì quên tôi luôn. Tôi là tàn thuốc đã hút, thổi phù một cái chẳng còn gì đâu mà!
Mọi người đực mặt nhìn nhau, Lý Hồng Văn nói:
- Nhưng Chu Mẫn ơi, mỗi điếu thuốc này đều không hút hết, thường có một đầu mẩu, nói như vậy bọn tôi vẫn không quên cậu đâu.
Chu Mẫn đáp:
- Đầu mẩu thuốc, thì từ miệng nhổ ra vứt vào sọt rác ở góc tường kia.
Nói xong mỉm cười bước ra khỏi phòng làm việc, lại giơ tay lên chào, ra đi rất thoải mái.
Các báo chí đăng Trang Chi Điệp thua kiện, trong thành Tây Kinh lập tức đồn rầm lên. Những người trước đây còn chưa biết vụ kiện này lại đi tìm khắp nơi để mua số "tạp chí Tây Kinh" có đăng bài của Chu Mẫn. Lý Hồng Văn đã bí mật đem số tạp chí ấy còn niêm phong giữ lại ở toà soạn bán cho một con buôn sách cá thể với giá cắt cổ, con buôn sách lại nâng giá bán cho các hiệu sách ở ngoài phố. Càng có những tờ báo và tạp chí lá cải đến phỏng vấn toà soạn tạp chí và Cảnh Tuyết Ấm, viết nhiều bài nói về vụ kiện này, nhằm tăng thêm lượng phát hành của mình. Bỗng chốc các phố to ngõ nhỏ xôn xao bàn tán chuyện gì cũng có. Hàng ngày có người đến gõ cửa gia đình Trang Chi Điệp mười mấy lần, mà anh vẫn không mở cửa, còn điện thoại thì reo hết hồi này đến hồi khác, người hỏi tình hình rút cuộc thế nào, kẻ thì an ủi, người thì bất bình hậm hực, kẻ thì chửi bới trách móc. Trang Chi Điệp liền chặt phéng dây điện thoại, không thể tiếp tục ở nhà được nữa, một mình đeo kính râm đi ra phố vốn định đi đến một nơi nào dó, chẳng hạn đến nhà Mạnh Vân Phòng đánh bài, chẳng hạn đi tìm Triệu Kinh Ngũ hoặc Hồng Giang lấy một ít tiền tiêu, chẳng hạn đến bệnh viện tâm thần thăm A Lan. Nhưng hễ đến ngã tư phố, Trang Chi Điệp lại băn khoăn không biết nên đi đâu. Một cái xe đạp đang đi đến trước mặt, anh vội vàng lái sang bên trái nhường đường, thì chiếc xe đạp cũng lách sang bên trái, anh rẽ sang phải nhường đường thì chiếc xe đạp cũng rẽ sang phải. Người kia kêu cuống lên:
- A..a…
Cả người lẫn xe tránh nhau đã đổ kềnh. Trang Chi Điệp lồm cồm bò dậy, thấy ai đi trên đường cũng nhìn anh cười, hối hả đi theo phố. Người đi xe đạp cưỡi xe đi bên cạnh anh, quay đầu chửi một câu:
- Gà nó mỏ mất mắt rồi hả?
Trang Chi Điệp bỗng chốc nghẹn ứ cổ, đứng đực người tại chỗ không nhúc nhích. Người đi xe đạp đã đi lên trước, song lại ngoặt xe lại đi qua Trang Chi Điệp một lần nữa, vừa đạp chầm chậm vừa hỏi:
- Trang Chi Điệp phải không?
Trang Chi Điệp không nhận ra người đó, mặt anh ta có đầy mụn trứng cá. Người đó bảo:
- Hơi giông giống, không, không phải Trang Chi Điệp.
Xe đạp đã đi qua, Trang Chi Điệp nghĩ bụng, may mà anh ta không nhận ra mình, không thì khó coi quá. Anh đi về phía trước một cách không có mục đích, song lại nghĩ, cho dù anh ta có nhận ra, thì mình cũng không thừa nhận là Trang Chi Điệp! Thế là anh cười không thành tiếng. Chợt nhìn thấy trong ngõ nhỏ bên cạnh có một lá cờ vàng nho nhỏ đang bay dưới cây liễu, trên lá cờ vàng nho nhỏ ấy có viết một chữ "rượu", đi tới quả nhiên là một quán rượu nhỏ, liền vào quán gọi rượu ngồi uống. Sau khi uống một chén rượu gạo, mới chợt nhớ ra mình đã từng vào cái quán này. Hôm ấy, lúc uống rượu anh đã nhìn thấy con hiền cháu thảo đưa ma đi ngang qua đây, đã từng nghe bản nhạc du dương đưa đám tang trầm bổng rất hay, bỗng chốc anh cảm thấy quán rượu này vô cùng gần gũi, liền không đi đến nhà Mạnh Vân Phòng chơi bài nữa, cũng chẳng thiết đi tìm Triệu Kinh Ngũ và Hồng Giang, móc ở trong giày ra một tờ tiền giấy mua chén rượu thứ hai. Cứ như vậy uống một tiếng đồng hồ, ánh nắng trên bàn đã trượt dần xuống mép bàn. Trang Chi Điệp thỉnh thoảng nhìn ra ngoài cửa sổ và đã nhìn thấy một người đang hối hả đi qua, hình như là Liễu Nguyệt, liền gọi một tiếng, nhưng không được trả lời. Đi ra tựa cửa nhìn xa xa, Người đang đi ở phía trước chính là Liễu Nguyệt. Anh lại gọi một tiếng "Liễu Nguyệt!", một luồng gió phả vào mồm, chạy lên phía trước được chục mét, thì uỵch một tiếng, say ngã kềnh ra đất, oà oà nôn ra hẳn một đống.
Khi Liễu Nguyệt đang đi lên phía trước, hình như có tiếng người gọi, cô ta đi chậm lại, song không nghe thấy tiếng gọi thứ hai, cứ tưởng nghe nhầm, lại tăng tốc độ. Đã đi khá xa lại cảm thấy không đúng, liền quay đầu lại, thì vừa vặn nhìn thấy một người ngã xuống, trong lòng thấy nghi nghi, liền quay trở lại và kêu a một tiếng:
- Thầy Điệp ơi! Thầy Điệp, thầy say rượu đấy à?
Liễu Nguyệt vội vàng đỡ anh, song đỡ không nổi, liền nhảy sang bên đường vẫy một chiếc taxi. Một chiếc xe taxi phóng qua nhưng lại đang chở đầy người. Lại một chiếc khác đi đến, vẫn chở người. Khó khăn lắm mới vẫy được một chiếc, lại phải năn nỉ với lái xe mãi, cuối cùng mới cùng với cô khiêng người say lên xe. Nhưng khi quay lại thì nhìn thấy con chó đã ăn hết bãi nôn bên cạnh Trang Chi Điệp, nó đang thè lưỡi dài ngoằng liếm vào mặt Trang Chi Điệp. Trang Chi Điệp không đủ sức đủôi con chó, tay giơ ra, mồm nói:
- Đánh chó! Đánh chó!
Liễu Nguyệt đá con chó ra xa rồi cùng với lái xe khiêng Trang Chi Điệp lên xe, phóng vun vút về khu hội văn học nghệ thuật và dìu anh lên nhà rửa mặt súc miệng.
Liễu Nguyệt trông nom Trang Chi Điệp cho tới khi tỉnh dần và trở lại bình thường, thì cô ta oán trách anh không nên uống như vậy có hại đến sức khoẻ, nói xong cô ta mở ví da lấy ra một xấp giấy tiền. Trang Chi Điệp hỏi:
- Em làm gì vậy?
Liễu Nguyệt đáp:
- Em biết hiện nay anh thiếu tiền, nhưng anh thiếu tiền thì cứ bảo với em. Liễu Nguyệt này bây giờ tuy không có vạn quan tiền giắt ở lưng, song cũng không phải như lúc còn làm người hầu việc trong nhà ngày nào. Anh nói với em một câu, cho dù có hạ thấp thân phận của anh, nhưng anh không nên đem thanh danh của mình đi chà đạp bản thân đổi tiền uống rượu!
Trang Chi Điệp nghe đến nỗi đâm ra lẩn thẩn. Liễu Nguyệt liền bảo:
- Anh còn nói dối em hả? Hồng Giang đã kể hết với em rồi.
Trang Chi Điệp càng chẳng hiểu thế nào cả. Từ trong túi áo, Liễu Nguyệt lấy ra một quyển sách mỏng, nói:
- Anh xem đi.
Trang Chi Điệp cầm quyển sách nhỏ xem. Trang bìa hầu như không có vẽ vời gì, trên giấy trắng chỉ in giòng chữ "quá trình vụ kiện chơi bời của Trang Chi Điệp", bên dưới là mấy dòng mục lục chương tiết chủ yếu, thứ tự là:
Tình cũ khó quên Cảnh Tuyết Ấm, Chu Mẫn viết bài kể trăng hoa. Người đẹp nổi cơn tìm lãnh đạo, một bức thư riêng trơ mặt van xin, toà án trong ngoài mù mịt khói, Chu Mẫn bị phản bội, đáng đời!
Trang Chi Điệp quăng luôn quyển sách nhỏ, hỏi:
- Sao thế nhỉ?
Liễu Nguyệt đáp:
- Ở trong tiệm ca múa, em thấy có người cầm quyển sách này, em giật mình, hỏi mua ở đâu, trả lời mua ở nhà sách "Đại chúng", em đến nhà sách "Đại chúng" tra hỏi thì Hồng Giang đang ở đó giúp người ta bó loại sách này phát cho bưu điện huyện ngoại thành. Em hỏi Hồng Giang ai viết sách này, đây chẳng phải chà đạp lên thầy Điệp để kiếm tiền ư? Tại sao anh cũng tham gia vào việc này? Hồng Giang đáp anh cũng không biết, loại sách này đã kiếm ra tiền, thì tại sao để người khác kiếm mà mình không kiếm? Chị cả Ngưu Nguyệt Thanh và thầy Điệp đã ở riêng, thầy Điệp ngượng không đến đó lấy tiền, đành phải đến chỗ tôi xin, hiệu sách của mình phải có tiền chứ. Hồng Giang bảo anh cũng ngấm ngầm đồng ý chuyện này, bảo em quan tâm vừa vừa thôi, nói cũng in ít thôi. Sự việc có đúng như thế không?
Trang Chi Điệp nổi giận đùng đùng mắng:
- Cha cái thằng Hồng Giang, nó cũng dám bôi xấu tôi à?
Chửi mắng xong, lại khẽ cười bảo:
- Hì hì, Liễu Nguyệt này, anh không chửi hắn nữa, hắn quả là một người biết buôn bán, anh mắng hắn làm cái quái gì? Anh cũng chẳng truy hỏi ai viết. Chu Mẫn cũng được, Triệu Kinh Ngũ hoặc bọn Lý Hồng Văn cũng được, cứ để cho bọn họ viết, bây giờ cả thành phố đã ầm ĩ lên rồi, anh có thể bịt một hai cái mồm, chứt bịt sao nổi mồm dân toàn thành phố. Thầy Phòng của em đã từng nói chung quanh anh có một loạt người viết văn đang ăn anh, nào ngờ cái hiệu sách mà mình mở, cũng in trộm loại sách này để kiếm tiền, như vậy đã đến phiên anh ăn anh rồi đó!
Liễu Nguyệt nghe Trang Chi Điệp nói thế cũng chua xót trong lòng, liền nói an ủi:
- Thầy nghĩ như thế cũng được. Thầy còn choáng đầu không? Em dìu thầy lên giường nằm một lát.
Trang Chi Điệp lắc đầu, anh bảo không được anh không ngủ, lại nhìn Liễu Nguyệt một cách đáng thương, nói:
- Tại sao anh sống thành như thế này nhỉ? Liễu Nguyệt ơi, em bảo vụ kiện đã kết thúc, sự việc ấy đã xong, tại sao lại trở thành thế này?
Liễu Nguyệt đáp:
- Anh là danh nhân mà!
Trang Chi Điệp bảo:
- Là danh nhân, anh là danh nhân. Bây giờ anh càng là một danh nhân, một cái tên để cười, một cái tên để chửi!
Liễu Nguyệt nói:
- Thầy Điệp này, thầy cũng đừng quan tâm nhiều đến chuyện ấy, thầy là nhà văn, xét đến cùng nhà văn nói chuyện bằng tác phẩm, chẳng phải thầy định viết một truyện dài đó sao? Thầy nên bình tâm lại, dồn sức viết tác phẩm, thầy sẽ có thể vì chính danh của thầy, thầy vẫn có thể tạo ra thanh danh lớn hơn, tốt hơn.
Trang Chi Điệp hỏi:
- Vậy ư? Vậy ư?
Liễu Nguyệt đáp:
- Đúng vậy.
Nhưng Trang Chi Điệp lại nói bô bô:
- Anh không viết nữa, anh không cần thanh danh này nữa!
Trang Chi Điệp tiễn Liễu Nguyệt về rồi, liền kiên định ý nghĩ của mình không viết nữa. Không bao giờ viết nữa mới gỡ bỏ được thanh danh của mình! Cuối cùng anh đã kết thúc cuộc đời sáng tác của mình bằng một bài viết cuối cùng, anh đã viết một tin dài một ngàn không trăm hai mươi tám chữ nói rõ bở mất ngủ nặng nề dẫn đến mất khả năng sáng tác. Trang Chi Điệp hiện nay thích thú tuyên bố rút khỏi văn đàn. Bài viết xong, ký tên tác giả, gửi tới "văn đàn đạo bảo" đã đăng, các báo và các tạp chí lá cải ở thành Tây Kinh đã đăng tin sốt dẻo này. Tối hôm đó Mạnh Vân Phòng đã đến nhà Trang Chi Điệp hỏi:
- Chi Điệp ơi, anh có biết bên ngoài lại tung tin nhảm nhí về anh không? Họ bảo anh mất khả năng sáng tác, đã rút khỏi văn đàn, đây chẳng phải trò cười ư? Trưa nay, chủ tịch thành phố có gọi mình đến hỏi chuyện gì, mình đáp không thể có chuyện ấy. Chủ tịch thành phố cũng buồn lắm, nói nếu là đồn nhảm nhí thì phải tra hỏi chuyện này ở đâu ra, báo chí ở Tây Kinh tại sao lại có thể bóp chết danh nhân của mình như vậy? Chi Điệp có biết ai viết tin này hay không?
Trang Chi Điệp đã cạo trọc đầu, cái trán bóng loáng, anh đáp:
- Tôi viết đấy.
Mạnh Vân Phòng hỏi:
- Anh viết ư? Tại sao anh chơi đùa với chính mình như thế? Tâm tình anh có tồi tệ đến đâu chăng nữa, thì cũng không được làm như vậy. Anh thử nghĩ, ngoài sáng tác ra, anh còn biết làm được cái gì nữa hả? Ra phố đánh giày ư? Bán bánh quẩy à?
Trang Chi Điệp đáp:
- Tôi không đói là được chứ gì, cho dù có đói, thì tôi đến nhà anh ăn mày, anh cũng không cho ư?
Mạnh Vân Phòng nói:
- Vậy thì thôi, xưa nay có bao giờ anh nghe tôi đâu nhưng tôi xin nói với anh, hiện nay anh không phải là Trang Chi Điệp của Trang Chi Điệp nữa, anh là Trang Chi Điệp của thành phố Tây Kinh anh có lý lẽ thì đi gặp chủ tịch thành phố mà nói! Hôm nay tôi đến còn có một nhiệm vụ, đây cũng là chỉ thị của chủ tịch thành phố, đó là trong ngày tết văn hoá của thành cổ cần anh viết mấy bài quan trọng, trong đó có một bài về huy hiệu biểu tượng của ngày tết. Mình bảo với chủ tịch thành phố, gần đây anh không được khoẻ, chủ tịch thành phố bảo mình viết bản thảo ban đầu đã. Mình viết xong, ông ấy xem, cảm thấy không lý tưởng, nhất định đòi người cao tay như anh sửa chữa tỉa tót cho hay hơn.
Nói xong đưa ra cuốn bản thảo. Trang Chi Điệp cũng không thèm xem, quẳng sang một bên và nói:
- Tôi mất khả năng sáng tác rồi, viết không nổi, chữa cũng không nổi.
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Anh nói dối người khác, chứ nói dối Mạnh Vân Phòng này ư? Cho dù anh yên tâm không lên tiếng nữa, bài văn này coi như ký tên mình, anh cũng vẫn phải sửa chữa giúp.
Trang Chi Điệp nói:
- Tôi có thể giúp anh, cũng chỉ giúp anh được lần này, nhưng không được để lộ với chủ tịch thành phố một chữ nào đâu đấy nhé?
Mạnh Vân Phòng ra về. Trang Chi Điệp bắt đầu đọc và sửa bài. Anh rất buồn cười ngày tết văn hoá ở thành phố thiếu gì thứ để làm huy hiệu, là biểu tượng mà lại phải chọn con gấu mèo to cơ chứ! Gấu mèo to là con vật mà Trang Chi Điệp ác cảm hơn cả, tuy nó hiếm ở trên đời, nhưng nó đần, biếng nhác, ấu trĩ, nhất là cái dáng thơ buồn cười, làm sao có thể tượng trưng cho thành phố này và nền văn hoá của thành phố này? Trang Chi Điệp quẳng bút đi không sửa nữa. Không sửa nữa song lại nghĩ, có lẽ lấy gấu mèo to làm biểu tượng ngày tết là thích hợp chăng, cái thành phố bé nhỏ này lấy gấu mèo to như thế để tượng trưng là đáng đời lắm. Anh không muốn viết một đề nghị thay đổi vật tượng trưng, ví dụ con chim ưng, con ngựa, con bò, thậm chí con chó sói, nhưng anh không muốn sửa bài văn ca ngợi con gấu mèo này tới mức vô cùng tốt đẹp hay ho, thế là cố ý gạch xoá mấy đoạn, cho thêm nhiều lời vào, những lời ấy lộn xộn, trục trặc lung tung. Viết xong, hôm sau không gọi Mạnh Vân Phòng đến lấy, mà trực tiếp gửi cho chủ tịch thành phố. Vừa ra khỏi bưu điện, không ngờ lại gặp Nguyễn Tri Phi. Trang Chi Điệp quả thật ngạc nhiên, Nguyễn Tri Phi không đeo kính râm, hai con mắt đen lay láy. Anh hỏi:
- Mắt anh chữa khỏi rồi à?
Nguyễn Tri Phi đáp:
- Chữa khỏi rồi, vừa ra viện định đi thăm anh, nhưng chủ tịch uỷ ban thành phố cứ giữ lại, cử đi Thượng Hải mua một bộ nhạc cụ, tôi bị cử vào ban trù bị ngày tết văn hoá! Chứ không à, vừa mới ba hôm nay, đang bận mải rối tinh rối mù lên, vẫn chưa đến thăm anh được.
Nguyễn Tri Phi nhìn Trang Chi Điệp, đột nhiên nghi ngại hỏi:
- Anh làm sao thế? Mắc bệnh gì phải không? Anh đừng có xảy ra chuyện gì nữa, giống như Uông Hy Miên để tôi phải lo đấy!
Trang Chi Điệp hỏi:
- Hy Miên làm sao?
Nguyễn Tri Phi hỏi lại:
- Thế anh không biết gì ư? Việc này đầu tiên không nên để bất cứ ai biết, Hy Miên lại vẽ tranh giả các ngành hữu quan đang kiểm tra truy tìm.
Trang Chi Điệp hỏi:
- Có quan trọng lắm không?
Nguyễn Tri Phi đáp:
- Hiện giờ chưa nói được, xem ra không quan trọng lắm. Chi Điệp ơi, anh phải đi bệnh viện khám sao, chắc chắn anh bị ốm.
Trang Chi Điệp đáp:
- Không có bệnh gì đâu.
Nguyễn Tri Phi hỏi:
- Vậy thì tại sao bỗng chốc lùn đi thế?
Trang Chi Điệp đâu có bé nhỏ đi, nhìn vào thể mình, anh cười bảo:
- Anh từ Thượng Hải về, đừng ăn nói bậy nhìn cái gì cũng trái mắt!
Nguyễn Tri Phi nói:
- Chuyện ấy cũng đúng. Thượng Hải người ta….
Trang Chi Điệp cười cướp lời:
- Được rồi, được rồi, nói anh chân nhỏ đủ vịn tường đi chứ gì, mỗi lần đi Thượng Hải, khi về Tây Kinh, cũng cảm thấy đường phố Tây Kinh hẹp đi, bẩn đi, người Tây Kinh ai cũng quê mùa, dăm ba hôm sau, cảm giác này không còn nữa. Không sao đâu, đến chỗ tôi uống rượu nhé!
Hai người đến nhà Trang Chi Điệp uống rượu. Trang Chi Điệp hỏi tình hình điều tra Nguyễn Tri Phi bảo đã thay mắt chó. Anh hỏi:
- Anh không phát hiện ra chứ?
Trang Chi Điệp không phát hiện ra nhưng cười hì hì.
Nguyễn Tri Phi hỏi:
- Anh cười gì vậy? Lúc đầu tôi cứ tưởng thay mắt chó vào sẽ xấu xí khó coi, sau đó mới biết con người mắt như nhau cả. Những cô gái xinh đẹp có cặp mắt tốt lắm, nhưng anh móc con ngươi của cô ta ra, để lên bàn tay anh bảo là mắt người cũng được, là mắt lợn cũng xong, đẹp hay xấu ở chỗ, nó được lắp vào một khuôn mặt như thế nào.
Trang Chi Điệp nói:
- Khuôn mặt anh đẹp lắm, lắp vào cũng đẹp, chỉ có điều anh nhìn tôi thấp đi, có lẽ mắt chó như vậy chăng?
Nguyễn Tri Phi nổi cáu, giơ nắm đấm thụi một quả, nói:
- Nhìn anh thấp đi thật mà, chưa biết chừng con mắt chó này lại khiến cho mình có công dụng và tính năng mà người thường không nhìn thấy!
Rồi đột nhiên Nguyễn Tri Phi ngạc nhiên hỏi:
- Trên tường tại sao lại có một tấm da bò to thế này! Mua ở đâu thế, chuẩn bị may áo khoác da phải không? Có bán cho tôi được không? Văn hoá lần này tôi có ý định, ngoài việc tổ chức biểu diễn triển lãm tất cả nghệ thuật dân gian, còn chuẩn bị trang trí tử tế lại gác chuông và gác trống, trong thời gian tết văn hoá, hàng ngày bảy giờ sáng chuông phải gõ chuông, bảy giờ tối trên gác trống phải đánh trống. Đây là âm thanh của trời đất mà sách cổ đã viết. Hơn nữa trên bốn lầu cổ đông, tây, nam, bắc cũng phải đặt mười tám cái trống và mười tám cái chuông. Đến lúc ấy, trên lầu chuông, trống vừa vang lên tiếng chuông, trống thì trên bốn lầu cổng thành cũng đồng loạt hưởng ứng, không khí sẽ như thế nào nhỉ? Tấm da bò của anh đẹp quá, bán cho bọn tôi làm một cái trống lớn, sẽ đặt trên lầu cổng thành cửa bắc hùng vĩ nhất, được chứ?
Trang Chi Điệp im lặng một lúc rồi đáp:
- Bán thì không bán nhưng các anh có thể lấy đi bịt trống. Chỉ cần bảo đảm cái trống này ngoài tết văn hóa ra, từ nay về sau vẫn còn trưng trên lầu cổng bắc, để nó vĩnh viễn giữ âm thanh trong thành phố này là được.
Nguyễn Tri Phi hớn hở ra mặt, lập tức gỡ tấm da bò trên tường xuống, Trang Chi Điệp cũng giúp một tay, tấm da bò xoà xoà rơi xuống trùm kín người Trang Chi Điệp, lâu lắm không chui ra được. Nguyễn Tri Phi cuộn da bò, định ra về, Trang Chi Điệp lại có phần không chịu nổi, anh bảo:
- Anh mang đi thật à?
Nguyễn Tri Phi đáp:
- Sao lại không thật? Lại tiếc phải không?
Trang Chi Điệp nói:
- Vậy anh để lại cho tôi cái đuôi.
Từ buồng bếp, Nguyễn Tri Phi lấy ra con dao, đặt lên thớt gỗ, cắt cái đuôi để lại, rồi cuộn da bò đi vẫy một chuyến xe taxi chở về. Trang Chi Điệp không ngờ lại để Nguyễn Tri Phi lấy đi tấm da bò, trong lòng anh có phần nào luyến tiếc. Mấy hôm nay, bà chủ quán mì phở thái Sơn Tây đưa mì phở lên, anh ăn không thấy ngon. Anh hỏi:
- Mì phở này không ngon bằng trước. Mấy hôm đầu, bà chưa kịp bưng lên, tôi đã thèm nhỏ dãi cơ mà?
Bà chủ quán chỉ cười. Trang Chi Điệp hỏi:
- Hay là tôi ăn ngũ cốc muốn sáu vị?
Bà chủ quán đáp:
- Tôi nói thật với anh, anh chớ có bép xép với ai, nói ra quán ăn của tôi sẽ bị đóng cửa. Đã đóng cửa, thì tôi chịu tội, mà anh thì cũng đói bụng. Anh cảm thấy mì phở trước đây ngon, anh đâu có biết trong nước phở có cho vỏ thuốc phiện.
Trang Chi Điệp kêu lên:
- Có vỏ thuốc phiện ư? Thảo nào ngon thế. Để kiếm tiền sao bà lại làm như vậy hả?
Bà chủ quán đáp:
- Tôi hối hận quá đã nói với anh. Không nên cho vỏ thuốc phiện vào, nhưng đấy không phải bắt người ta hút thuốc phiện, nó chỉ làm cho người ta nghiện một chút, đến quán ăn nhiều hơn, đông hơn mà thôi, không ảnh hưởng gì lắm đến cơ thể. Bây giờ anh còn ăn nữa không? Tôi sợ anh đã biết, nên mấy hôm nay không tới ăn nước phở đấy.
Trang Chi Điệp đáp:
- Vậy thì ăn.
Buổi chiều bà chủ quán quả thật bưng lên bát mì phở thái, mùi thơm ngon sực nức. nếu bà chủ quán không nói trong mì phở có vỏ thuốc phiện, thì Trang Chi Điệp ăn vào chỉ thấy ngon mà thôi, nhưng biết trong phở có rưới nước ninh vỏ thuốc phiện, thì ăn phở vào, liền cảm thấy mình có tác dụng hút thuốc phiện, ngả người xuống giường, trong đầu cứ lơ mơ hoang hoảng. Cảm giác này càng ngày càng ghê gớm, dẫn đến tình trạng anh thường xuyên lâm vào cảnh lẫn lộn giữa hiện thực và ảo giác. Tối nay anh đang ngồi ghể sa lông da xem tivi, xem mãi, xem mãi, liền cảm thấy anh đi vào trong tivi, người trong tivi cũng bước ra dắt anh vào, thế là anh đi sâu vào trong cái hình vuông ấy như một đường hầm, liền nhìn thấy hai bên đường hầm có nhiều hang nhỏ, có một cái hang nhỏ viết trên cửa hai chữ "lên đồng", liền đẩy cửa bước vào, quả nhiên có bốn người đang lên đồng trên bàn cát ở bên trong. Anh liền chê cười lên đồng xem tướng có cái gì đáng tin đâu, bắt đầu chửi bới các sản phẩm bảo vệ sức khoẻ dang trỗi dậy trong thành phố Tây Kinh, quảng cáo rùm beng, làm cho ai nấy mê mẩn, chỉ nghĩ cách phải bảo vệ sức khoẻ của mình và đương nhiên có hàng đống những chụp đầu, bó bụng, đệm giày mác thần công, mác ma lực. Bây giờ của cải không là của cải, mà là của cải dinh dưỡng bảo vệ sức khoẻ bổ dạ dày, tráng dương, rau cải cũng không phải là rau cải mà là rau cải dinh dưỡng bảo vệ sức khoẻ nhuận âm bổ khí. Người bán hàng ở chợ rau cũng mặc áo blu trắng, đội mũ y tế có chữ thập đỏ! Bốn người kia thấy anh ăn nói quàng xiên, liền đe nẹt anh không được ăn nói linh tinh. Họ bảo lên đồng là việc hết sức linh nghiệm. Anh liền bảo tôi viết một chữ để thần viết ý lên bàn cát xem thế nào, ngay lập tức anh với một chữ "b". Không ngờ trên bàn cát lại xuất hiện một bài thơ, anh ngạc nhiên tới mức kêu lên thành tiếng. Tiếng kêu ngạc nhiên này, làm cho Trang Chi Điệp đột nhiên mở to mắt, lại nhìn rõ trên màn hình còn đang chiếu một bộ phim đánh nhau, anh biết vừa rồi mình đang trong cơn mơ. Nhưng trước đây Trang Chi Điệp tỉnh lại sau giấc mơ không bao giờ nhớ rõ sự việc trong cõi mộng, còn hôm nay lại nhớ mồn một câu thơ trên bàn cát:
Đứng là nhơ sự chắp hai tay Ngồi là bông sen xoè nở Đừng tác yêu tác quái nữa Chốn chui ra của mi đó, thằng kia!
Thế là anh nghi nghi hoặc hoặc, trong đêm ấy bị câu thơ ám ảnh, liền nhớ tới những cuộc đi lại với Đường Uyển Nhi trước đây, lại lơ mơ thấy mình đi sang căn nhà ở Song Nhân Phủ định gặp Ngưu Nguyệt Thanh.
Ngưu Nguyệt Thanh đi vắng, mẹ vợ thì đứng ở cổng kéo anh hỏi:
- Sao lâu nay con không sang thăm mẹ? Bố con giận lắm đấy! Mẹ đã nói dối thay con. Mẹ bảo anh đi viết lách, nhưng rút cuộc con bận việc gì, ngay đến ghé qua một lần cũng không có thời gian hay sao? Cô vợ của Chu Mẫn đã về chưa? Mẹ bảo buộc quần áo và giày của cô ta bằng dây thừng tre trong giếng, thì cô ta sẽ trở về, con có làm như thế không?
Trang Chi Điệp hỏi:
- Cô vợ của Chu Mẫn, cô vợ của Chu Mẫn là ai?
Bà già đáp:
- Con quên cô ta rồi à? Hôm qua mẹ gặp cô ấy, cô ấy khóc lóc trong một căn nhà, đi cũng chẳng thể đi, hai chân cong thế này này. Mẹ hỏi sao vậy hả cô? Cô ấy cho mẹ nhìn, ối trời ơi, nửa người phía dưới cô bê bết máu, bên trên khóa một cái khóa sắt to. Mẹ hỏi sao lại khóa ở chỗ này? Cô không đi tiểu à? Cô ấy trả lời không ảnh hưởng đến tiểu tiện, chỉ có điều nước tiểu làm han rỉ khoá, cô ấy không mở được. Mẹ hỏi, thế chìa khoá đâu để ta mở cho. Cô ấy bảo chìa khoá Trang Chi Điệp đang giữ. Tại sao con có chìa khóa mà không mở cho cô ấy?
Trang Chi Điệp hỏi:
- Mẹ ơi, mẹ nói điên gì thế?
Bà già đáp:
- Mẹ nói điên gì ư? Mẹ nhìn thấy Đường Uyển Nhi thật đấy. Con hỏi bố vợ con mà xem, bố vợ con cũng có mặt tại chỗ, mẹ còn đẩy bố con sang một bên và hỏi, ông nhìn cái gì? Chỗ này để ông nhìn hay sao?
Trang Chi Điệp thế là lại bừng tỉnh, mồ hôi trộm đổ túa ra hết trận này đến trận khác, anh không dám ngủ tiếp nữa, pha cà phê uống, mắt mở trừng trừng, ngồi cho đến sáng.
Sau khi trời sáng, Trang Chi Điệp đi tìm Mạnh Vân Phòng. Anh muốn kể những hiện tượng này với Mạnh Vân Phòng, có lẽ Mạnh Vân Phòng sẽ giải thích được. Nhưng Mạnh Vân Phòng đi vắng. Hạ Tiệp đang ở nhà khóc sướt mướt. Hỏi mới biết Mạnh Vân Phòng dẫn con trai Mạnh Tần và cùng với người sư phụ kia của Mạnh Tần đến Tân Cương. Hạ Tiệp nước mắt ngắn nước mắt dài sụt sịt nói với anh, sư phụ của Mạnh Tần đầu tiên bảo Mạnh Tần có tính hiểu biết cao, tương lai trở thành một nhân vật ghê gớm, Mạnh Vân Phòng không tin lắm, sau đó thấy con trai tuy nhỏ nhưng chỉ cho học kinh "Kim Cương", có sáu tháp thì thằng bé đã đọc thuộc làu làu như cháo chảy cũng cảm thấy có lẽ sẽ nổi đình đám, chứ chẳng phải chuyện chơi, cũng có ý định cho con trai tụng kinh đọc thiền, luyện khí công, tu mắt pháp, lại than vãn, tại sao đã già nửa đời người, mà mình chẳng làm nên việc gì, chắc chắn ông trời bắt mình xuống phục dịch hướng dẫn Mạnh Tần, nên đã có ý định theo con đường học vấn. Sư phụ Mạnh Tần muốn dẫn Mạnh Tần đi du lịch ở Tây Cương, lúc đầu anh không định đi, nhưng chủ tịch thành phố gọi anh đến bảo, ông đã xem bài sau khi sửa, tại sao sửa xong lại không bằng chưa sửa là như thế nào? Quả thật Trang Chi Điệp mất khả năng sáng tác rồi ư? Lúc này Mạnh Vân Phòng mới biết dụng ý của Trang Chi Điệp sau khi sửa chữa đã trực tiếp gửi bài cho chủ tịch thành phố, cũng phụ hoạ luôn, nói Trang Chi Điệp hỏng thật rồi, chủ tịch thành phố liền giao cho anh một mình đứng ra viết cũng được. Trở về nhà, Mạnh Vân Phòng luôn mồm kêu khổ, chi qua quýt chép lại bản thảo cũ, rồi gửi cho chủ tịch thành phố và dứt khóat cùng Mạnh Tần đi Tân Cương. Do đó, Hạ Tiệp không đồng ý. Hai người cãi nhau một trận, song Mạnh Vân Phòng cứ đi. Hạ Tiệp kể xong lại nói với Trang Chi Điệp nỗi oan ức của mình trong nhà này, ca cẩm chị và Mạnh Vân Phòng không chung sống với nhau được nữa. Trong cuộc đời Mạnh Vân Phòng, bất cứ lúc nào cũng có một đối tượng sùng bái, sùng bái đi sùng bái lại, đã sùng bái đến con trai mình, một người như vậy thì chung sống làm sao nổi? Trang Chi Điệp nghe xong không nói gì, bước khỏi cửa đi luôn. Hạ Tiệp lại khóc, nhìn thấy Trang Chi Điệp đã bỏ đi, liền đưa cho anh một mẩu giấy, bảo Mạnh Vân Phòng nhờ chị chuyển cho anh. Trong mẩu giấy không viết chữ nào, chỉ có một dòng chữ số Ả rập gồm sáu chữ số. Trang Chi Điệp hỏi đây là châm ngôn gì dành cho tôi vậy, chắc bảo tôi đọc để trừ hoạ tránh nạn chăng? Hạ Tiệp bảo, số điện thoại đấy. Mạnh Vân Phòng chỉ nói với chị, có một người hỏi anh về tình hình gần đây của Trang Chi Điệp, nhưng anh ấy không nói là ai, Mạnh Vân Phòng chỉ dặn đưa cho Trang Chi Điệp, Trang Chi Điệp sẽ hiểu. Trang Chi Điệp cầm mẩu giấy, song không nghĩ ra điện thoại của ai, nếu là người quen, vậy thì họ hoàn toàn không cần thăm dò tình hình gần đây của anh qua Mạnh Vân Phòng làm gì. Trang Chi Điệp chợt giật mình, đút mẩu giấy vào túi áo, cắm cổ đi ra.
Trang Chi Điệp không gặp được Mạnh Vân Phòng trong lòng nghi nghi hoặc hoặc, đi qua chỗ hàng thịt ở dưới gác chuông, liền định mua một mật lợn, nếu về nhà hễ nhắm mắt vào một cái, chưa thấy những hiện tượng quái gở kia, thì liếm mật đắng cho tỉnh ngủ. Nghĩ vậy, anh đã đứng xuống hàng mua thịt trước quầy. Giữa lúc ấy, chủ tịch thành phố đang ngồi xe đi kiểm tra tình hình tiến độ cải tạo thi công hội trường lớn tổ chức lễ khai mạc văn hoá của thành cổ, khi xe con đi qua gác chuông, đã nhìn thấy Trang Chi Điệp đang xuống hàng mua thịt, đầu cạo trọc, râu thì dài, liền bảo lái xe đỗ lại, nhìn qua cửa kính xe. Trang Chi Điệp đã đứng trước quầy bán thịt, người bán hàng hỏi:
- Lấy mấy cân?
Trang Chi Điệp đáp:
- Tôi mua mật lợn.
Người bán hàng hỏi:
- Mua mật lợn ư? Anh điên à? Ở đây bán thịt lợn, đâu có bán mật lợn?
Trang Chi Điệp đáp:
- Thì tôi mua mật lợn mà, chị mới là con điên!
Người bán thịt đập con dao lên bàn thịt, nói:
- Không mua thịt thì tránh sang một bên, nào người tiếp theo.
Người đàng sau chen lên, đẩy Trang Chi Điệp ra khỏi hàng, nói:
- Người này điên rồi, người này điên rồi!
Trang Chi Điệp bị đẩy ra khỏi hàng nhưng vẫn đứng tại chỗ, nét mặt cười gượng gạo. Chủ tịch từ trong xe nhìn ra, thì lái xe hỏi:
- Có xuống gặp anh ấy không ạ?
Chủ tịch thành phố vẫy tay một cái, chiếc xe nổ máy phóng đi. Ông chủ tịch nói:
- Đáng tiếc cho anh chàng Trang Chi Điệp này!
Không có mật lợn, trong đêm ấy Trang Chi Điệp ăn xong mì phở thái, vừa nằm xuống lại mơ hoang hoảng. Anh cảm thấy mình đang viết thư, viết thư cho Cảnh Tuyết Ấm, mà đây là lần thứ tư hay thứ năm gì đó, nội dung anh viết đại thể là mặc dù vụ kiện này, kiện đến đâu đi chăng nữa, thì anh lại càng ngày càng yêu chị ta. Chị ta đã luôn luôn bất hòa với chồng, chồng chị bây giờ lại gẫy chân đã tàn phế, anh hy vọng hai người cắt đứt mà xây dựng với anh để trọn ước nguyện ngày nào. Anh cảm thấy anh gửi thư đi rồi liền ngồi ở nhà chờ chị ta trả lời. Đột nhiên có tiếng gõ cửa, anh cứ tưởng bà chủ quán cơm đưa cơm lên. Cửa mở ra, Cảnh Tuyết Ấm đã bước vào. Họ đứng tại chỗ nhình nhau, không ai nói với ai câu nào, dường như còn có phần xa lạ, còn có phần ngượng nghịu, nhưng họ đã nói chuyện bằng mắt rất nhanh. Cả hai người đều hiểu rõ nguyên nhân tìm đến với nhau, lại đọc được nội dung trong mắt của nhau cùng một lúc hai người sà vào lòng nhau! Thế là họ ra tay chuẩn bị lễ cưới. Trong gian phòng này anh dã nhìn thấy các kiểu tóc của chị: búi ở sau gáy, bện thành một chiếc đuôi sam, bỏ xoã xuống hai vai, đã nhìn thấy một đôi chân mũi giày trắng thò ra dưới rèm cửa, đã nhìn thấy đôi chân ngồi xê bằng trên ghế đệm da, đã nhìn thấy đôi chân giày cao gót từ mặt bên dưới bàn. Anh giục chị ta đi sắm đồ dùng gia đình cao cấp, sắp đặt đồ ở trên giường, anh sẽ đăng tin mừng lễ cưới của hai người trên tất cả các tờ báo và tạp chí, sau đó lại tổ chức lễ cưới ở khách sạn sang trọng hào hoa chờ đến tối sẽ làm xong thủ tục, động phòng vui vẻ nhưng anh không cho khách đến ra về, đầu tiên đóng cửa buồng lại, anh học kiểu của người xưa ở Trung Quốc, cũng học cả kiểu của người hiện đại phương Tây, mời chị ta lên giường, đọc cho chị ta nghe một đoạn trong "Kim Bình Mai", cho chị ta xem băng hình. Mặc quần áo đi ra, cất to giọng anh tuyên bố trịnh trọng với khách khứa dang ngồi trong phòng khách: từ giờ phút này trở đi, tôi và Cảnh Tuyết Ấm xoá bỏ đăng ký kết hôn! Hơn nữa cũng lập tức phát tuyên bố này trên tivi. Các vị khách ai cũng ngạc nhiên, hỏi lại:
- Anh chẳng phải vừa mới kết hôn với Cảnh Tuyết Ấm đó sao? Tại sao lại định ly hôn?
Cuối cùng anh cười ngất:
- Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của tôi rồi.
Hành hạ suốt một đêm như vậy, khi trời tang tảng sáng, Trang Chi Điệp vẫn không rõ chuyện kết hôn rồi ly hôn với Cảnh Tuyết Ấm là một thứ ảo giác hay là từng trải thật, nhưng tư tưởng tình cảm của anh vô cùng thoải mái. Trong buổi sớm ấy anh đã uống hết nửa chai rượu gạo, nói thầm trong bụng:
- Trong thành phố này, những việc cần làm ta đều đã làm, đúng thế, nhưng việc cần làm đều đã làm xong.
Màn đêm buông xuống, Trang Chi Điệp xách một chiếc va li da to đi một mình ra nhà ga. Sau khi xếp hàng mua vé xong, đột nhiên cảm thấy sắp sửa bỏ thành phố này, trong thành phố này chỉ có một người đàn bà của anh. Trên người đàn bà có có một bản thân anh nhỏ xíu. Sắp sửa đi rồi, anh nên chia tay từ biệt với bản thân nhỏ ấy. Anh xách va li quay lại, đi tới trạm điện thoại công cộng. Nhà ga ở ngoài cổng thành bắc, trạm điện thoại vừa vặn ở dưới gốc cây hoè cổ, bên trái nhà cổng thành. Trời tối lắm, xa xa ánh điện rực rỡ, gió thổi ù ù. Trang Chi Điệp đi vào, nhưng phát hiện trong trạm đã bị kẻ nào phá hoại, trong chữ số của máy điện thoại đầy cát là cát, quay không được, ống nghe treo lơ lửng ở đó, giống một con nhện đen to tướng, đang treo trong không gian, hay giống như chiếc giày rách đang treo lơ lửng. Trong mấy việc tốt lớn mà ủy ban nhân dân thành phố làm cho quần chúng trong năm nay thì các trạm điện thoại công cộng trên đường cái này được ghi vào danh sách hàng đầu. Nhưng cái trạm điện thoại mà Trang Chi Điệp nhìn thấy, thì chỉ trong một thời gian ngắn ngủi cứ mười trạm thì có ba bốn trạm bị người ta làm hỏng như thế này. Trang Chi Điệp định chửi một tiếng, nhưng đã há mồm mà không chửi thành tiếng, bản thân cũng co cẳng đá ống nghe một cái thật mạnh, nghe thấy một tiếng kêu rất khoái trá.
Anh quay ra, dưới ánh đèn mờ ảo, đã nhìn thấy trên cây hoè già kia, dán chi chít những tờ quảng cáo nhỏ. Nội dung quảng cáo cái thì truyền đạt võ công phòng thân, cái thì phương thuốc bí mật gia truyền chuyên trị chứng không dẻo dai, cái thì báo cáo mang khí công của đại sư trường phái nào đó đời nào đó, còn có một tờ báo lá cải, trên đó đăng hai mẩu tin "chuyện lạ Tây Kinh", Trang Chi Điệp liếc mắt qua, bất giác xô đến gần đọc một lượt, một mẩu tin viết rằng, có người đàn bà X ở ngõ Y phố Những của thành phố, nhà hàng xóm thấy gia đình chị ta mấy ngày không mở cửa, cứ tưởng xảy ra tai nạn gì, liền phá cửa vào xem, quả nhiên chị ta nằm trên giường, người đã chết cứng. Kiểm tra toàn thân không có vết thương nào, không phải người khác giết, nhưng ở cửa mình lại cắm một cái lõi ngô. Mà ở góc giường vẫn còn một đống lõi ngô.
Còn mẩu chuyện lạ kia thì viết: ở bệnh viện X của thành phố, ngày Y tháng này, đỡ đẻ cho một phụ nữ, có thai sinh ra cái đầu, không có chân tay, da bụng trong suốt, nhìn rõ lục phủ ngũ tạng, cách gọi của đông y. Lục phủ gồm, dạ dày, mật, tam tiêu, bàng quang, đại tràng, tiểu tràng. Ngũ tạng gồm tim, gan, lá lách, phổi, thận. Bác sĩ hoảng quá vứt cái thai vào sọt rác, song người mẹ cởi áo gói lại mang đi. Không hiểu sao Trang Chi Điệp đã xé tờ báo lá cải ấy xuống, vừa bước đi vừa hồi hộp, trong lòng hốt hoảng. Anh móc túi lấy thuốc ra hút, trong gió bụi, quẹt liền ba que diêm đều tắt ngấm. Gió nổi lên mỗi lúc một to, liền nghe thấy một âm thanh rất lạ lùng, quái gở, như ma kêu, như sói gầm. Ngẩng đầu nhìn lên, trên hang cửa bắc có treo vắt ngang một băng khẩu hiệu "Nhiệt liệt chúc mừng ngày tết văn hoa của thành cổ". Phía trên khẩu hiệu có treo một cái trống to bịt da bò. Trang Chi Điệp nhận ra ngay đó là cái trống làm bằng tấm da bò già kia. Trong gió thổi, trống tự kêu ùng ùng u u.
Trang Chi Điệp quay người di vào trong phòng đợi, lại gặp Chu Mẫn đang đi đến. Hai người đứng sững sờ. Trang Chi Điệp hỏi một tiếng:
- Chu Mẫn, cậu có khoẻ không?
Chu Mẫn chỉ đáp một chữ:
- Điệp. Không, gọi là thầy Điệp…Xin chào!
Trang Chi Điệp hỏi:
- Cậu cũng đến đi tàu hoả ư? Cậu định đi đâu vậy?
Chu Mẫn đáp:
- Tôi phải đi khỏi thành phố này, đi xuống phương nam. Thế anh đi đâu?
Trang Chi Điệp đáp:
- Chúng mình lại có thể đi cùng một lối.
Hai người đột nhiên cùng cười. Chu Mẫn liền giúp Trang Chi Điệp vác chiếc va li da, bảo Trang Chi Điệp ngồi trên một chiếc ghế dài, rồi bảo đi mua mấy lon nước uống, liền chen vào gian hàng ở sảnh lớn. Khi Chu Mẫn quay lại thì Trang Chi Điệp đang nằm trên chiếc ghế dài, trên mặt che nửa tờ báo lá cải. Chu Mẫn bảo:
- Anh uống một lon nhé!
Trang Chi Điệp không động đậy. Chu Mẫn mở nửa tờ báo kia ra, thì hai tay Trang Chi Điệp đang ôm cái ba lô con con có đựng cái huyên gốm của Chu Mẫn, nhưng hai mắt trợn trắng dã, cái mồm nghẹo sang một bên. Ở ngoài phòng đợi, ông già kéo cái xe cải tiến bánh sắt lọc cọc, đang đứng dưới một con gấu mèo to tướng được ghép bằng một ngàn chậu hoa, rao to:
- Đồng nát…nào! Đồng nát nào! Ai bán đồng nát nào?
Chu Mẫn đập thình thình vào tấm kính cửa sổ trong phòng đợi. Tấm kính đã bị vỡ, tay anh ta bị mảnh kính găm vào chảy máu, máu đang chảy xuống ngoằn ngoèo như một con giun ven theo tấm kính vỡ, từ trong má. Chu Mẫn nhìn thấy ông già thu mua đồ nát không nghe thấy tiếng hét gọi của anh, nhưng có một người đàn bà xương xương áp sát má vào tấm kính có máu, cặp môi mỏng đang mấp máy. Chu Mẫn đã nhận ra chị ấy là vợ Uông Hy Miên.
Viết xong bản thảo buổi sáng 2 tháng 10 năm 1992 Sửa và chép lại xong tối ngày 20 tháng 01 năm 1993 Sửa lại xong chiều ngày 21 tháng 02 năm 1993
Thấm thoát, tôi ở thành phố đã hai mươi năm, nhưng vẫn chưa viết một cuốn truyện nào về thành phố. Càng áy náy, tôi càng không dám viết lấy được, thậm chí ngay đến truyện Thương Châu cũng lười viết. Theo hiểu biết của tôi năm bốn mươi tuổi, văn chương là chuyện thiên cổ…văn chương đâu phải là việc ai muốn viết thế nào thì viết…Nó là một câu chuyện, thuộc trời đất đã có từ lâu, chỉ có điều mình có duyên số được hay không. Chưa vội lấy chuyện nước ngoài làm ví dụ, hãy nói tới "Tây Sương Ký", "Hồng Lâu Mộng", cái đạt khi đọc nói đâu có cảm thấy nó là sự bịa đặt của nhà văn? Lơ mơ như đã trải qua, như trong cõi mộng. Văn chương hay, hoàn chỉnh như một dãy núi, núi không cần phải đẽo gọt cũng chẳng phải khéo léo trồng ở chỗ này một cây bạch hoa, đặt ở chỗ kia một khóm phong lan. Sự hiểu biết này khiến tôi lâm vào cảnh khó xử, tôi coi thường tác phẩm trước kia của mình, tôi cũng mất hết sự kính nể đối với nhiều tác phẩm trên đời, tuy tôi biết rõ loại văn chương này xét cho cùng cũng do con người cầm bút viết ra, nhưng tại sao dưới gầm trời có loại văn chương này, mà tôi lại không thể viết được? Kiểm điểm lại thì trước đây mình ngưỡng mộ nào là văn chương rực rỡ, tình cảm dạt dào, phong cách độc đáo, thật ra lại chính là cản trở sự phát triển của nhân tài. Ma quỷ hung ác, thượng đế cứ im đi. Kỳ tài là tuyết mùa đông sấm chớp mùa hè, đại tài là bốn mùa chuyển đổi. Tôi đã là người bốn mươi tuổi, đến cái tuổi một ngày không cạo mặt là khuôn mặt hoàn toàn khác lạ, không thể nói đầu óc chưa chín chắn nhuần nhuyễn, dòng văn không trôi chảy, cho dù hòn đá thì hòn đá cũng phải mọc một lớp rêu. Tôi đã bỏ đi dịp quan sát phát tài ăn uống chơi bời cờ bạc mà một người thường được hưởng, vậy thì gãi để hói cả tóc, hao tổn cả thân thể vẫn chưa ra áng văn hay quả thật tôi không có duyên số hay sao?
Tôi thấy buồn sâu sắc cho mình. Nỗi buồn này lại không có ai để nói. Cho nên, bước ra khỏi cửa thường có người sau khi biết tôi là ai muốn nói cung kính thì mặt tôi nóng như hòn than. Khi ra hiệu sách hễ nhìn thấy sách của mình ở đó là vội tránh xa. Tôi càng như thế, người ta càng bảo tôi khiêm tốn. Tôi khiêm tốn cái nỗi gì? Quả thật cảm thân mình chơi trò hư danh, mà hư danh này khiến tôi khổ sở khó nói.
Làm một người trong đời sống hiện thực, có tư tưởng này, tôi biết là một dấu hiệu chẳng lành. Sự thực cũng đúng như vậy. Trong những năm này, tai nạn cứ theo nhau ập đến, đầu tiên tôi bị viêm gan B. dai dẳng sống hơn một năm trong bệnh viện như nhà giam trá hình, tập trung các mũi tiêm lại, thì có thể nói đã trải qua một vạn mũi tên đâm vào người, uống thuốc nam hết gói to đến gói nhỏ, số cây thuốc này đủ nuôi sống một con trâu. Sau đó mẹ nhiễm bệnh phải mổ, sau nữa bố mắc bệnh ung thư qua đời, rồi em rể bị chết, cô em gái đáng thương dắt con nhỏ về nhà mẹ đẻ, tiếp theo là vụ kiện cuốn níu bản thân kéo dài lê thê. Tiếp theo nữa là vì người khác mà bị cuốn vào chuyện lôi thôi rắc rối của đơn vị, chịu mọi nỗi oan nhục cho đến khi lại rơi vào một cảnh khốn quẫn đáng sợ hơn, lời đơm đặt tới tấp dội xuống đầu. Tôi không có con trai sau khi bố mất, tôi đã từng nói, tôi trước không có người xưa, sau không có kẻ nối dõi. Bây giờ kẻ nên đi thì chưa đi, người không nên đi thì đã đi cả, mọi thứ đóng dựng trong mấy chục năm phấn đấu đã đổ vỡ liểng xiểng cả, chỉ còn lại cái thân tôi bị nhiễm siêu vi trùng cả phần xác lẫn phần hồn và ba chữ họ tên mà họ tên thì lại thường bị người ta réo người ta viết, người ta dùng và người ta chửi.
Giữa lúc ấy tôi bắt đầu viết quyển sách này.
Phải biết thành phố ấy trong quyển sách này song trong cái thành phố ấy lại không có một cái bàn để tôi viết quyển sách này.
Trong thời tiết oi bức nhất của năm 1992, nhờ có mối quan hệ với người bạn là An Lê, tôi đã trốn khỏi thành phố đến huyện Diệu. Huyện Diệu là quê hương của vua thuốc Tôn Tư Mạc. Tôi rất vui nhìn thấy một bức tượng màu "toạ hổ châm long". Trong hang vua thuốc trên núi, vua thuốc nguyên ý đi tượng màu kể lại ngày xưa vua thuốc đã từng cứu chữa khỏi bệnh cho một con rồng bị ốm. Tôi liền nhận định bệnh của tôi sắp khỏi bởi vì tôi cầm tinh con rồng. Sau đó tôi cùng với anh Cảnh viết kịch được bố trí ở trạm quản lý đập nước. Đây là nơi rất tốt lành. Khỏi cần nói tôi mệnh thuỷ, xưa nay thì lại liên quan đến văn học, mà con mương đó gọi đông Cẩm Dương rất huy hoàng sán lạn. Dập nữ tên địa phương gọi là Dốc Đào Khúc. Khúc có hai nghĩa văn chương. Những điều tôi viết lại phần lớn chuyện đàn bà, thì điều này sẽ càng hay. Ở đó thôn xóm, hiếm gà vắng chói cây xanh rợp bóng, hoa nở giăng giăng, mười mấy nhân viên quản lý đối xử với chúng tôi lại tôn kính mà không thể gần, quả thật là nơi yên tĩnh hiếm có. Trong suốt một tháng không có đài để nghe, không có báo để xem, không có mạt chược, chẳng có tú lơ khơ, mỗi buổi sáng sớm ra rừng cây, tương ra một luồng nước giải vàng óng, xuyên qua thân cây, nhìn thấy sương sớm bay lên trên mặt đập nước xa xa, cho tới khi sóng nước trong vắt óng a óng ánh màu đồng màu bạc, sau đó trở về đánh răng rửa mặt, xuống nhà bếp xách nước sôi và khua đũa bát đi ăn cơm, mùa hè ruồi nhiều vô kể, cơm vừa xới vào bát, ruồi cũng đã bám ở rìa, sau đó nghe nói đấy là một loại ruồi cơm từ đó cứ mặc kệ nó, ăn xong bữa cơm đầu tiên, anh nào anh nấy về phòng mình ngồi viết, quy ước với nhau không ai được quấy rầy ai, thế là cứ ngồi lì cho đến bốn giờ chiều, ngoài đi đại tiểu tiện, không bao giờ ra khỏi cửa. Khi tôi ngồi viết thích đóng cửa chính cửa sổ, rèm cửa sổ cũng phải kéo kín mít, nếu là một cái hang ngầm thì càng tốt. Thuốc hút liền tù tì, hết điếu này đến điếu khác. Mỗi khi anh Cảnh ở ngoài gọi đi ăn cơm, đẩy cửa gọi thẳng vào, khói trùm cả người anh! Lại ăn xong bữa cơm thứ hai, nên thư giãn một lúc trong ngày, kéo lê đôi dép ra đập nước bơi lội. Mặt trời lúc sáu giờ còn rát rát, chung quanh không một bóng người, tuy dũng cảm cởi trần truồng như nhộng, song chỉ biết kiểu chó bơi, chỉ có thể chân đập loạn xạ ở chỗ nước nông, đập tới mức bùn tanh đùn cả lên. Trong đám cỏ rậm trên bờ có tiếng đùa khà khà, thì ra đã có người ở đó từ bao giờ nhìn trộm. Bọn họ bảo, hơn mươi năm nay, năm nào cũng có ba người chết đuối, năm nay mới chết một người vẫn còn hai chỉ tiêu. Chúng tôi liền sởn tóc gáy, hối hả bò lên bờ mặc quần áo chuồn vội. Không bao giờ còn dám nghịch nước nữa, thời gian sau khi ăn cơm liền vác chiếc sào tre dài lê thê đi đập táo chau vách đá. Khi quả táo chua đầu tiên chín đỏ, chúng tôi đã đập cho nó rơi xuống, những quả táo chua đo đỏ trái cây duy nhất mà chúng tôi được ăn. Sau đó xa lắm, giữ lại được rất nhiều, cứ chờ một cô gái ở đàng sau lưng núi đến ăn. Cô gái đó là bạn học của An Lê, xinh đẹp mà tính cách cũng cởi mở, được An Lê nhờ cô thường đến thăm chúng tôi, cho nào bút, nào mực nào thuốc viên, thỉnh thoảng còn đem đến cái bánh nướng. Đêm đến, đêm ở đây rất tối như mực, quả tình giơ tay ra không nhìn thấy năm ngón, chúng tôi đọc cho nhau nghe những chương đã viết, đọc mãi đọc mãi, chúng tôi thường đói bụng, nhưng chẳng có thứ gì ăn. Chúng tôi đã từng bày mưu đi ăn trộm bí đỏ và khoai tây của nông dân ở bản gần đó, nhưng cuối cùng sợ chó chẳng ai dám đi. Ở cạnh ngã ba trước trạm quản lý có một cây đào hạt mãi tít trên ngọn đào có một quả đào xanh. Tôi đến bảo anh Cảnh, anh Cảnh nói đã nhìn thấy từ lâu . Lúc hoàng hôn, chúng tôi ra đó ném đá cho rụng xuống, nhưng ném mãi không trúng, nghỉ một lúc, rồi nhặt một đống tướng ngói vỡ và gạch đá, ném cho bằng hết mà quả đào vần trơ trơ không di chuyển, ngược lại cổ mỏi cánh tay đau, đành phải vừa quay về vừa ngoái cổ nhìn lại. Đêm ấy đã mười một giờ khuya, anh Cảnh thèm ăn không chịu nổi, bảo có loại ấu trùng anh biết có thể rán mỡ ăn được, đồng thời vác mặt đi mượn nào bếp điện, nào xoong con, mỡ muối, cứ làm như chìa tya ra là bắt được, một bữa thơm ngon sắp sửa đến mồm. Anh dẫn chúng tôi vào rừng cây bật đèn pin soi hết cây này đến cây kia. Trên thân cây có xác ve sầu, song không thấy có một con sâu non nào. Vậy là vì kiếm ăn mà đi trong quá trình kiếm ăn, lại tìm được niềm vui khác. Mỗi buổi tối từ đó về sau, việc này đã trở thành công tác của chúng tôi. Không hiểu sao, vẫn không bắt được con ấu trùng nào song đã bắt được khá nhiều đom đóm. Đom đóm ở đây bay như sao, chỗ nào cũng lập là lập loè và nhễu lắm. Chúng tôi đi qua đường mòn trong rừng cây ngỡ mình đang ở sông Ngân.
Anh Cảnh có nước da trắng trẻo, tôi gọi anh là Đường Tăng, quả nhiên có một đêm một con rết chui vào chăn cắn anh. Việc này khiến bọn tôi ngay ngáy, trước khi đi ngủ, anh nào cũng kiểm tra bốn chung quanh tường nhà, giũ chăn nệm, không bao giờ còn thấy rết, song thiêu thân và muỗi dại tối nào cũng đổ dồn ở ngoài cửa sổ, bám từng đám đen xì, lấy thuốc khử muỗi ra xịt, xác chúng hót một mẹt. Chúng tôi nhận xét đó là điều xấu. Tôi bắt đầu mài một hòn đá nhặt được ở Hương sơn, đá này đặc biệt lắm, ở phía trên hình thành một chữ "đại" một cách tự nhiên, kết cấu thân đá lạ, giống thân hình Liễu Công Quyền. Tôi đục đẽo đá có chữ "đại" thành hình đầu người đeo ở cổ, cái bùa hộ mệnh của mình. Cái bùa ấy luôn đeo cho đến khi tôi viết xong quyển sách này. Anh Cảnh thì nhặt được ở rừng cây một xác khô của con rắn bảy tấc. Xác rắn này cong vênh đến là đẹp, anh treo lên tường vôi, trông y hệt một thiếu nữ xinh đẹp đang chăm chú nhìn. Ngày nào tôi cũng sang phòng anh xem người đẹp rắn một lần, đầu óc nghĩ quẩn. Nhưng anh tặng tôi, tôi không dám lấy.
Tôi vĩnh viễn không quên được địa danh: đập nước Dốc Đào Khúc, sông Cẩm Dương ở huyện Diệu. Ở đây tròn một tháng, người gầy rộc hẳn đi, song đã hoàn thành bản thảo ba mươi vạn chữ. Khi mới đến, ở trước cửa căn phòng nở một bông hoa đại lý đỏ rực, bây giờ nó đã khô héo. Tôi hái một cánh hoa kẹp vào bản thảo đi xuống núi. Lúc đến huyện Diệu, tôi ngồi ở cửa một quán phở thở một hơi rõ dài, bảo "Hãy ăn một bữa mì sợi thật đã" liền ăn liền hai bát ôtô, mồm còn thòm thèm mà bụng căng cứng không đứng dậy nổi.
Trở về Tây An, tôi nhận tham gia đợt hoạt động trỉên lãm sách nhân ngày lễ văn hoá nghệ thuật của thành phố cổ. Trong hội chợ có quầy sách dành riêng cho tôi, những bạn đọc cuồng nhiệt ôm từng chồng từng chồng sách đến xin tôi chữ ký, trật tự bị rối tung, dòng người xô đẩy, tôi bị vây chặt ở giữa, dường như bị chen nát vụn. Sau mấy tiếng đồng hồ, may có mười anh cảnh sát dùng gậy chỉ huy tạo thành một vòng tròn, hộ tống tôi chui vào một chiếc xe đậu ở cổng chính vội vã phóng đi. Nhớ lại chuyện ấy hết sức buồn cười. Sau đó có một bạn bảo tôi, khi anh đạp xe đi qua cổng chính hội chợ sách, đã vừa vặn nhìn thấy cảnh sát dong tôi ra, anh giật mình tưởng tôi phạm tội gì. Lúc đó quả tình tôi có tâm lý phạm tội. Tuy tôi không thể nói với các bạn mặt tôi không hề có nụ cười. Rời khỏi nơi ồn ào người ta xô đẩy, một mình trở về, ngồi cô độc trên ghế sa lông, tôi đã nghẹn ngào nước mắt. Ai cũng có nỗi khổ của mình, tôi còn khổ hơn người khác. Nói với ai được nhỉ? Ai sẽ hiểu cho mình? Quyển sách đã viết xong đâu, nhưng tôi không bao giờ có cảnh yên tĩnh như ở huyện Diệu. Lần đầu tiên hẹn người đi chơi mạt chược, lân đầu tiên không nhà, đêm ấy tôi thua lỉêng xiểng. Nhưng khi viết quyển sách này tôi có thể quên mạt chược, thì cũng quên luôn quyển sách này.
Tôi sống những ngày như người mất hồn, ban ngày sợ trời tối, trời tối rồi lại sợ trời sáng. Tôi cảm thấy như có quỷ tha ma bắt, bức ách tôi hoàn toàn huỷ hoại bản tha6n, nhưng tôi không biết nên làm thế nào. Lúc ấy tôi nhận được thư của người bạn, trong mắng tôi mê say trong thanh danh, tại sao không gấp gáp viết cho xong quyển sách? Tôi đâu có mê say trong thanh danh, chính vì tôi biết, thành danh không có nghĩa đã thành công, tôi mới đau khổ đến mức không được người ta hiểu cho, đã không hiểu cho, lại định làm theo ý nghĩ của mình, mới sa sầm từng bước vào cảnh bạn bè chống lại anh em xa lìa! Nhưng tôi cảm ơn sự quở trách của người bạn vô cùng. Quở trách của anh đã khiến tôi hạ quyết tâm gạt bỏ mọi vướng mắc, một lần nữa đi xa khỏi thành phố để hoàn thành và sửa lại toàn bộ bản thảo của quyển sách. Tuy tôi không dám chắc, rút cuộc cuốn sách này sẽ viết thành hình thù gì, nhưng ít nhất tôi đã viết xong.
Thế là tôi đem theo bản thảo dở dang, lại bắt đầu cuộc lưu vong sáng tác với thời gian dài hơn lâu hơn.
Đầu tiên tôi đã tìm đến nhà Lý Liên Thành ở huyện Hộ. Vợ chồng họ Lý là đồng hương với tôi, đối xử nhiệt tình, lại tự tay nấu món cơm canh quê hương mà tôi ưa thích. Năm 1986 tôi sửa và chép lại truyện dài "Nôn nóng" ở gia đình anh chị Lý. Đến đây tôi được sắp xếp ở một gian bỏ trống trên nhà gác của uỷ ban sinh đẻ có kế hoạch. Lãnh đạo của uỷ ban sinh đẻ có kế hoạch hết sức quan tâm, bê chăn đệm mới cứng của họ ra, lại còn mua bếp điện dành riêng cho tôi sưởi ấm. Tôi vô cùng cảm động bởi họ đã tiếp nhận mình, tôi bảo quả thật tôi không thể nào báo đáp lại, nếu tôi là một phụ nữ, tôi xin tình nguyện để họ rạch bụng tôi một nhát, hoàn thành một chỉ tiêu sinh đẻ có kế hoạch. Một ngày hai bữa cơm ngoài việc đến nhà Lý Thiên Thành ăn đúng giờ ra, tôi ở lì trong phòng riêng sửa và chép lại bản thảo cuốn sách. Cả tầng trên ngôi nhà không có người ở, chuột bò qua lối đi, tôi cũng nghe thấy tiếng chúng. Ngoài cửa sổ là đường phố, bởi không là đoạn phồn hoa, lại vào mùa đông gió rét, nên không ồn ào. Chỉ có điều buổi trưa nắng ấm, có một ông già mặt đen thường bán thuốc chuột dưới gốc cây cố định ở tầng dưới ngoài cửa sổ, ông già không rao bán, song lúc nào cũng có thanh tre gõ đều đều. Tiếng gõ cốc cốc,mới đầu nghe buồn buồn, từ buồn lòngmà đi thưởng thức lại cảm thấy thanh gỗ đó kêu nhịp nhàng giống tiếng mõ ở nhà chùa, càng làm tgty yên tĩnh. Những ngày đầu, bếp điện thường hay cháy đứt, mỗi ngày phải nối dây may-so từ sáu đến tám lần. Tôi không biết nối, cứ phải gọi Liên Thành đến. Hôm ấy Lý Liên Thành đi xuống xã công tác, bếp điện lại cháy, ngoài trời lại gió thổi tuyết rơi, một miếng kính cửa sổ va đập bị vỡ, rơi xuống đất. Tôi rét run cầm cập không cầm nổi bút đứng dậy lấy tờ báo kẹp vào trong tấm màn the che cửa sổ tránh gió, vừa kẹp xong, gió lại thổi tung ra, kẹp nữa, gió lại hấtđi, đành phải đóng cửa đi đến nhà Liên Thành, co tay rụt cổ đi xuống gác một, ngoái cổ nhìn gác ba có cái cửa sổ giấy báo cũ đang đung đưa kia, trong lòng đột nhiên cảm nhận thấy giới hạn của câu thơ Đỗ Phủ "nhà tranh cót két gió thu ca".
Ở được hơn hai mươi ngày, một người bạn ở huyện Đại Lệ đến thăm tôi, cứ nằng nặc kéo tôi về nhà anh ở, anh bảo vừa xây một ngôi nhà mới, có mấy phòng bỏ không. Thế là Liên Thành đích thân lái xe chở tôi đến một bản có tên là Đặng Trang ở Vị Bắc. Tôi lại ở đây hai mươi ngày. Người bạn này họ Mã, cũng là một nhà văn. Tôi ở một phòng nhỏ trên gác hai nhà anh. Ban ngày, anh ở gác một đọc sách viết văn, hoặc vui đùa với đứa con một tuổi. Tôi ở gác trên đóng cửa sáng tác, chẳng ai để ý đến ai, chỉ tối đến hai người mới cùng ngồi chơi sáu ván cờ tướng. Nước cờ của hai người rất xoàng, song chúng tôi chơi cẩn thận lắm, chưa bao giờ hoãn nước cờ nào. Thời tiết ở Vị Bắc còn lạnh hơn huyện Hộ, nhà anh lại ở đầu bản, ngoài tường sau là cánh đồng rộng bát ngát. Ở trong buồng tuy có lò sưởi, nhưng tôi vẫn phải mượn áo trấn thủ da cừu của anh để mặc, còn mặc cả quần bông, trông cồm cộm to đùng. Người tôi vốn thấp lùn, dường như tròn xoay, mỗi lần xuống cầu thang dốc, cứ nghi nếu sơ ý trượtchân, chắc chắn sẽ lăn lông lốc ra tận cổng. Đặng Trang cách huyện lỵ hơn năm dặm. Ngày nào anh Mã cũng đạp xe ra phố huyện mua cá thịt, bột mì. Anh đi vắng, thì vợ anh cũng bế con đi chơi trong bản. Căn buồng nhỏ của tôi mịt mù hơi thuốc, phải mở cửa cho thông thoáng, tôi ra đứng ơ/ lan can ngắm cả bản. Trời sắp hoànghôn sương mù dày đặc lại bắt đầu giăng giăng trên cánh đồng. Trong ngõ xóm có nhiều chó đang sủa, gà nhà hàng xóm vỗ cánh phành phạch leo lên cành cây. Những con gà ấy đậu trên cây ngủ đêm, song lại đậu trên ngọn cây dương cao bốn năm trượng, khiến tôi cảm thấy thấy hết sức ngạc nhiên.
Trong hai mươi ngày, tôi đốt hết một đống than to tướng của nhà anh Mã. Bữa cơm nào cũng có đậu phụ, đến nỗi người bán đậu phụ ngày nào cũng đến rao bán ở ngoài cổng vài lần. Con anh vừa biết đi, không lúc nào ngơi chân ngơi tay, cháu bé đã quen tôi, thường hay len lén bò theo bậc cầu thang xi măng, lên nhìn tôi mỉm cười, không biết nói. Chị Mã cười bảo tôi "Cháu thích chú đấy, có lẽ sau này cũng định học văn học". Tôi đáp, sau này lớn khôn cháu làm gì cũng được xin chớ có làm văn học. Câu này không nên nói với chị Mã, bởi vì anh Mã là nhà văn, nhưng tôi nói câu ấy lúc đó rất chân thành. Điện ở nông thôn Vị Bắc mất thường xuyên, hơi một tí là mất điện, những tối nào không có điện dễ sợ lắm, tôi cứ lặng thinh ngồi lì trên ghế mây mắt mở trao tráo nhìn vào bóng tối đen như mực. Đêm đó tự nhiên mất ngủ, khi trời sáng mới chợp mắt. Đến mười một giờ mới mơ mơ màng màng mở mắt ra, cảm giác đầu tiên là không biết mình đang ở đâu. Nghe tiếng chị Mã nói với chồng ở gác dưới "Sao không thấy chú ấy ho nhỉ? Anh lên gõ cửa xem, biết đâu đã bị ngạt hơi than". Tôi hấp tấp mặc quần áo, đi xuống gác bảo, tôi không chếtdc, Thượng Đế không đời nào để tôi chết tự do thoải ma:i vô tri vô giác đâu, lại hỏi "Tôi ho ghê gớm lắm hả chị?" Chị Mã bảo "Ho dữ lắm, lẽ nào chú không thấy thế!" Quả thật, tôi chẳng đếy đến cái ho của mình, cũng từ hôm ấy tôi đã lưu tâm, mới biết mình ho liên tục, có lẽ do tôi hút thuốc quá nhiều. Tôi đã từng nghĩ, nếu nối tất cả những điếu thuốc tôi đã hút trong thời gian sáu tháng kể tữ khi suy nghĩ đến lúc viết xong bản thảo cuốn sách này, chắc chắn sẽ dài bằng một tuyến đường sắt dài dằng dặc tít tắp.
Khi tôi đã dùng đến tờ giấy cuối cùng của tập giấy nháp đem theo, thì tôi lại trở về huyện Hộ, ở trong gian nhà trước đây đã ở. Lúc này đã cuối tháng, cũng sắp hết năm. Vào những ngày "ngũ đậu", "mồng tám", hai mươi ba tháng chạp, người đến phố huyện đông dần, bận rộn chủân bị hàng tết. Tôi cũng tranh thủ làm việc, dù thế nào cũng duy trì tốc độ mỗi ngày không được dưới bảy ngàn chữ. Vợ chồng họ Lý thấy tôi phù mặt lên, không chịu ăn, đã tìm mọi cách thay đổi món ăn, nhưng tôi vẫn ốm, mà lại mất ngủ nặng nề. Tôi biết, mỗi khi đến gần bàn viết thì Trang Chi Điệp và Đường Uyển Nhi, Liễu Nguyệt cứ lởn vởn trong đầu, mỗi khi rời bàn viết nằm xuống giường, thì những con người và sự việc rối bung trong đời sống hiện thực cứ quấy nhiễu tôi hoài. Muốn thoát khỏi sự quấy rối về nhân sự trong đời sống hiện thực, tôi đành phải đối diện với Trang Chi Điệp và những người đàn bà của Trang Chi Điệp. Tôi cũng thường lâm vào cảnh lẫn lộn giữa hiện thực và ảo tưởng không sao tách bạch nổi.
Sáng tác quyển sách này quả tình là một sự an ủi quá lớn và sự trừng phạt quá lớn của Thượng Đế đối với tôi. Rõ ràng là một đoá pháo hoa xinh đẹp rực rỡ để con thiêu thân tôi hớn hở và lao theo trong bóng tối nhưng dụ tôi đến gần lại đốt cháy tôi.
Tối ngày hai mươi chín tháng chạp, rút cuộc tôi đã viết đến chữ cuối cùng của cả cuốn sách.
Đối với tôi năm một ngàn chín trăm chín mươi hai lắm chuyện, cuối cùng đã để tôi viết xong. Tôi không biết sang năm mới tôi sẽ sống ra sao, tôi cũng chẳng biết số phận của tác phẩm khốn khổ khốn nạn này sẽ thế nào. Từ ba mươi tết đến mười rằm tháng giêng, hàng ngày tôi ngồi vào trước bàn, chăm chú nhìn tập bản thao dầy bốn mươi vạn chữ ấy, tôi không dám giơ tay giở một tờ. Cuốn truyện này, so với các tác phẩm trước đây của mình sẽ ưu tú hơn, hay tình hình sẽ tồi tệ hơn? Tôi đã hoàn thành một duyên số, một sứ mạng, hay là một trò chơi của trời xanh? Tất cả đều mù mịt, mù mịt như tôi kiếp trước là con gì, sau khi chết biến thành con gì không biết nữa. Trước khi đánh bóng mạ kền, tỉa tót lần cuối cùng toàn bộ quyển sách, tôi viết bài văn ngắn ngủi này, mục đích là để tôi ghi nhớ nỗi khổ sở không thể nói với ai mà cuốn sách này đem đến cho tôi, ghi nhớ cuốn sách này, lại là vật duy nhất làm yên ổn linh hồn đã tan nát của tôi trong nỗi khốn khổ khốn nạn của mạng sống.