Bấy giờ, các tiểu thái giám khênh vào một rương đồ trang sức rất đẹp, sau khi mở ra, Lý công công nói: "Án đạo lý, Dương tước gia và Bá tước thái phu nhân, phu nhân nên nhập triều tự thân thụ lĩnh sắc phong của hoàng thượng. Nhưng Dương tước gia có công vụ tại thân, phải lập tức đi nhậm chức, do đó hoàng thượng đặc mệnh cho chúng tôi đến đây đại diện cho hoàng thượng sắc phong. Trong rương này đều là y quan và khăn quàng vai (nguyên văn: Hà bí, một phần trong lễ phục phụ nữ quý tộc Trung quốc thời xưa), xin hãy mặc vào."
Ngay sau đó có mấy tiểu nha hoàn bước lên, khiêng rương vào trong nhà trong. Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết vui mừng vào hậu đường thay y phục, một lát sau bước ra, thấy hai người đều mang thái quán (một loại mũ. Người Trung Quốc khi lớn, con trai đến hai mươi tuổi thì làm lễ đội mũ, khi đó được gọi là nhược quán, khi chưa hai mươi gọi là vị quán) của mệnh phụ, trên có tết hai dãy hà bí bằng lụa màu quấn lên quá đầu rồi vòng qua trước ngực, tai đeo khuyên bằng vàng, quả thật là ung dung cao quý, nghi thái vạn thiên.
Mọi người đều lớn tiếng chúc mừng, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết từ từ thích ứng cái gọi là hạo mệnh phu nhân thân phận cao quý này, cười ha ha lệnh cho người hầu bày yến tiệc đãi quý khách.
Hiện giờ Dương phủ chẳng còn chuyện ăn cơm trắng mà phải do dự ba bốn lần như xưa nữa, nhanh chóng bày yến tiệc linh đình.
Ngoại trừ Tần Chỉ Tuệ mang thai không thể uống rượu, những nữ nhân khác đều mừng cho Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết, không người nào là không nâng ly sướng ẩm. Dương Thu Trì thì ngồi cạnh Lý công công và Tiền bố chánh sứ cùng những người khác, uống cho lâm li thống khoái rồi mới tan tiệc.
Sau khi tiễn quan khách về, cả nhà tụ lại phòng khách nói chuyện.
Dương Thu Trì nói mình đã thăng làm Tứ Xuyên Ba châu tri châu, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết cùng mọi người đều cao hứng phi thường.
Phùng Tiểu Tuyết đã lâu không gặp phu quân, ngồi cạnh Dương Thu Trì mà mừng không biết sao kể xiết, vừa mới nhấp có chút rượu mà mặt đã ửng hồng, tuy trên mặt còn có khối bớt đen, nhưng vẫn không che được vẻ phong tình của tiểu mỹ nhân tuyệt sắc.
Trong lúc nói chuyện, Dương Thu Trì phát hiện Phùng Tiểu Tuyết cứ nhìn về phía Hồng Lăng mãi, bèn cười hì hì ngoắc tay gọi Hồng Lăng.
Hồng Lăng vũ mị tuyệt luân, dung nhan tiếu lệ vô cùng, giống như viên dạ minh châu lung linh dưới ánh trăng, dễ dàng hấp dẫn ánh mắt của những người khác. Hồng Lăng ngoan ngoãn chạy lúp xúp tới quỳ xuống thưa: "Hồng Lăng xin ra mắt lão thái thái, thái thái."
Dương mẫu quay sang hỏi Dương Thu Trì: "Vị này..."
"Đây là tiểu nha hoàn trong lần phá án mưu phản của Mễ viên ngoại ở Vũ Xương lần trước, tên là Hồng Lăng, hiện giờ là thiếp thân tiểu nha hoàn của Tống Tình." Dừng lại một chút, hắn hơi ngượng ngập tiếp: "Và cũng là thông phòng đại nha hoàn, và đã nói kỹ trước đó rồi, nếu như em ấy có thể mang thai với con, thì sẽ thu về một phòng."
Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết bừng tỉnh hiểu ra gật gật đầu, dùng ánh mắt từ ái nhìn Hồng Lăng, thấy dáng vẻ của nàng thật dễ thương, quả thật là người khiến cho người ta vừa nhìn đã yêu, mỹ nhân đẹp từ trong trứng đẹp ra.
Phùng Tiểu Tuyết bảo nàng ta đứng dậy, cầm tay nàng nói: "Ta nghe Chỉ Tuệ có nói qua em, nói em người vừa thông minh, lại xinh xắn hiểu ý người, còn biết nấu món rất ngon, đúng không?"
Hồng Lăng hơi thẹn, cúi đầu đáp: "Đa tạ bà lớn và bà hai đã khen ngợi."
Tống Tình đứng một bên nhắc nhở: "Thái phu nhân và phu nhân là hạo mệnh phu nhân được triều đình sắc phong, không thể gọi bừa như vậy nữa."
"Dạ!" Hồng Lăng vội chữa ngay, "Đa tạ thái phu nhân khoa tưởng, đa tạ bà hai khoa tưởng."
Tống Tình lại nói: "Cái này lại không đúng nữa, trong nhà này chỉ có một bà lớn, đó chính là phu nhân, còn Chỉ Tuệ tỷ tỷ và ta, các em chỉ có thể gọi là di nương."
Dương Thu Trì nói: "Làm gì mà nhiều quy củ thế, cứ gọi lại nhị phu nhân, tam phu nhân cho rồi. Hồng Lăng, em cứ gọi như vậy đi."
Hồng Lăng vội đáp: "Dạ, thiếu gia."
"Không quy củ!" Tống Tình bước đến cạnh Dương Thu Trì, nói với Hồng Lăng: "Đã về nhà cả rồi, thái phu nhân, phu nhân đều có mặt, sao lại còn gọi thiếu gia được, phải gọi là lão gia, nếu như cứ gọi là thiếu gia này thiếu gia nọ, thì sau này Chỉ Tuệ sinh em bé rồi nên gọi thế nào."
"Dạ!... lão gia!" Hồng Lăng bị Tống Tình chỉnh cho hồ đồ cả lên.
Tống Vân Nhi xả cho Tống Tình một câu: "Tỷ sao lấy đâu ra nhiều quy củ thế! Cứ gọi tùy tiện như trước kia có phải hay hơn không, tự do tự tại."
"Cái đó không đúng rồi." Tống Tình đáp, bước đến cạnh Dương mẫu, cầm nâng tay bà lên nói: "Thái phu nhân, hiện giờ không còn giống như lúc trước nữa. Lão gia chúng ta đã được phong bá tước, thái phu nhân, phu nhân cùng đã được sắc phong hạo mệnh phu nhân, chúng ta hiện giờ có thể được coi thuộc hàng người trên kẻ trước của triều đình, nếu như đóng cửa lại mọi người có xưng hô thế nào cũng không sao, nhưng nếu có người ngoài, nghe lối xưng hô không thành quy củ như vậy, sẽ khiến người ta ngầm cười chúng ta."
Dương mẫu gặt gật đầu: "Tình nhi nói có lý, như vậy đi, con là người định ra quy củ, sau đó cứ án theo quy củ này mà làm, không thể để cho lão gia các ngươi mất mặt." Xong chuyển đầu nhìn về phía Bạch phu nhân: "Chẳng hay ý thân gia thế nào?" Bạch phu nhân vốn là người nhà quan xuất thân, đối với chuyện tôn ti luân thường cũng rất xem trọng, mỉm cười nói: "Lời thái phu nhân chí phải, một gia đình lớn không có lề thói quy củ thì không thể được."
"Vậy thì tốt." Dương mẫu cười hà hà nói với Tống Tình: "Tình nhi, con cứ định củ đi là được."
Có Dương mẫu và Bạch phu nhân bênh vực, Tống Tình như nắm được thượng phương bảo kiếm trong tay, hoan hỉ gật đầu đáp ứng, chuyển thân quét mắt nhìn xung quanh, nói: "Ta phụng mệnh thái phu nhân, định ra quy củ, sau này ai làm trái lại, gia pháp xử trị!"
Các nha hoàn, bà mụ cùng người hầu đều dạ vang đáp ứng.
Tống Tình tiếp: "Lão thái thái, thái thái là hạo mệnh thái phu nhân, phu nhân, trước mặt người ngoài chỉ được phép xưng theo phong hiệu, còn ở trong nhà, thì có thể xưng hô là lão thái thái, thái thái. Tiểu Tuyết tỷ tỷ đương nhiên có thể xưng hô với phu nhân là mẹ, còn Chỉ Tuệ tỷ tỷ và ta cũng không có tư cách đó, chỉ có thể xưng hô là thái phu nhân, lão thái quân hay là lão thái thái. Lão gia của chúng ta hiện giờ là bá tước, khi ở trước mặt người ngoài phải xưng hô là tước gia, ở trong nhà thì có thể xưng hô là lão gia, không được phép xưng hô là thiếu gia, như vậy không có quy củ."
Dừng một chút, lại chỉ Tần Chỉ Tuệ và Bạch Tố Mai: "Đối với Chỉ Tuệ và ta, thì phải xưng hô là Tần di nương, Tống di nương, sau này Bạch cô nương quá môn, thì phải xưng hô là Bạch di nương, người nhà với nhau thì có thể xưng hô là "nãi nãi" (mợ), không được phép xưng hô là thái thái (bà)."
Nói đến đây, lại khẽ lay cánh tay của Dương Thu Trì, nói với Tần Chỉ Tuệ và Bạch Tố Mai: "Tiếng gọi phu quân hay tướng công này chỉ có Tiểu Tuyết tỷ tỷ mới được xưng hô, chúng ta chỉ có thể xưng hô là lão gia hoặc tước gia, đặc biệt là khi có người ngoài, ngàn vạn lần không được làm sai."
Dương mẫu vừa ý kéo tay Tống Tình, nói: "Rất tốt, trong nhà phải có con giúp bà lớn làm chủ mọi chuyện mới được."
Dương mẫu nhìn Tống Tình và Hồng Lăng, nhỏ giọng hỏi: "Hai đứa các ngươi có tin mừng chưa?"
Tống Tình và Hồng Lăng đều tái mặt, khe khẽ lắc đầu.
Dương mẫu an ủi: "Không hề gì, hai đứa còn nhỏ, từ từ rồi có." Rồi bà quay sang Dương Thu Trì: "Lần này con đến Ba châu thì mang theo hai đứa Tống Tình và Hồng Lăng đi, tranh thủ lần sau trở về nếu đều có mang hài tử như Chỉ Tuệ vậy thì mẹ vui lắm! Ha ha ha!"
Tống Tình và Hồng Lăng đều đỏ mặt, nghe nói có thể cùng đi với Dương Thu Trì tới Ba Châu, lòng vui mừng khôn xiết.
Nhân lúc bọn họ đang nói chuyện, Dương Thu Trì đến cạnh Tần Chí Tuệ, thấy bụng nàng đã lúp xúp, chúi đẩu nghe em bé trong bụng nàng, khiến Tần Chỉ Tuệ đỏ bừng cả mặt, nhưng lòng thì sung sướng vạn phần. Dù gì thì nàng cũng là người đầu tiên mang thai cho Dương Thu Trì, nếu như là sinh con trai, thì vị trí của nàng trong nhà này chỉ sau Phùng Tiểu Tuyết, địa vị không thể lay động. Tuy vậy, nàng không biết là còn có một Liễu Nhược Băng đã có mang với Dương Thu Trì sớm hơn nàng mấy ngày.
Dương Thu Trì hỏi: "Em bé của chúng ta có nghịch ngợm không?"
Tần Chỉ Tuệ cười khanh khách: 'Đương nhiên tinh nghịch, cứ đạp thiếp suốt." Ngừng một chút, nàng hạ giọng tiếp: "Giống như chàng lúc ở trên giường vậy!"
Dương Thu Trì cố ý làm ra vẻ rất ủy khuất: "Ta mà tinh nghịch cái gì? Ta với nàng trong đêm đầu tiên đó có dám cởi áo ra đâu, thật thật thà thà ngồi bên cạnh nàng ngủ suốt đêm thấy không?"
Trong đêm tân hôn của hai người, Tần Chi Tuệ dùng độc bỏ vào rượu định thuốc chết Dương Thu Trì, không ngờ âm soa dương thác, hắn không trúng độc mà nàng lại suýt bị độc chết. Dương Thu Trì thức canh cho nàng suốt đêm, Tần Chỉ Tuệ cảm động có dư, bảo hắn lên giường, hai người ôm nhau ngủ qua hết đêm tân hôn.
Tần Chí Tuệ đỏ mặt cười, nói: "Đó là vì chàng người tốt lòng tốt, là cái phước mà Chỉ Tuệ đã tu từ mấy kiếp trước. Có thể gả cho chàng, nhiều khi thiếp cứ không ngờ hạnh vận của mình lại tốt vậy."
"Nói đến hạnh vận, ta mới là có vận may nè, ta nếu không gặp nàng, con trai của ta hiện giờ chỉ sợ còn chưa có tăm hơi nửa chi."
"Sao chàng chưa chi đã khăng khăng là con trai rồi, nếu là con gái thì sao?" Tần Chỉ Tuệ tủm tỉm nhìn hắn.
"Gái à? Con gái càng tốt! Ta càng thích, vừa văn vẻ vừa biết thương người, không như con trai suốt ngày cứ đánh đấm sanh sự, không để cho người ta tĩnh tâm."
Tần Chỉ Tuệ phì cười: "Coi chàng kìa, toàn là nói tốt không." Rồi nhìn về phía hai mẹ con Bạch Tố Mai đang nhìn họ, thuận tiện bảo hắn: "Bạch tỷ tỷ nhất mực mong ngóng chàng, mau đi nói chuyện với tỷ ấy đi."
Hai mẹ con Bạch Tố Mai nhất mực ngồi ở bên cạnh mỉm cười nghe họ nói chuyện, Bạch Tố Mai cứ lén nhìn Dương Thu Trì không ngớt.
Nghe Tần Chỉ Tuệ nói thế, Dương Thu Trì nhìn về phía Bạch Tố Mai, nhớ tới lúc hắn và nàng ở đỉnh huyền nhai trong đêm mưa gió, cùng trần trụi thân hình ôm chặt nhau, lòng dâng lên niềm ấm áp, bước đến ngồi xuống cạnh nàng, hỏi: "Tố Mai, những ngày này nàng có khỏe không?"
Bạch Tố Mai tính cách nhu nhược, nàng sẽ không thể nào trước mặt nhiều người mà nói vói Dương Thu Trì những lời đại loại như vậy, nhưng trong lòng rõ ràng là tràn đầy nỗi nhớ mong hắn, cho nên cuối cùng cũng không nhịn được gật đầu, đỏ mặt lí nhí đáp: "Khỏe... chỉ là... nhớ chàng quá..."
Dương Thu Trì cầm tay nàng, thì thào: "Ta cũng nhớ nàng quá, nhớ đến những ngày chúng ta ở trên huyền nhai."
Bạch Tố Mai cố nhịn lòng ham muốn nhào phắt vào lòng Dương Thu Trì, nam nhân sau này sẽ thành phu quân của nàng, nam nhân mà nàng luôn luôn mong chờ lo lắng, nam nhân mà nàng muốn nằm gọn trong lòng, tỏ bày hết nỗi lòng chất chứa bấy lâu.
Dương Thu Trì đã đoán được tâm tư từ ánh mắt của Bạch Tố Mai, thì thào: "Sáng sớm ngày mai, ta đến tiểu hoa viên thăm nàng, được không?"
Đêm đó, Dương Thu Trì và Phùng Tiểu Tuyết tắm rửa xong vào phòng, Dương Thu Trì không nhịn được vội vã lột trần Phùng Tiểu Tuyết đè lên giường. Phùng Tiểu Tuyết đã lâu không nồng nhiệt cùng phu quân, hơi bẽn lẽn, nhưng phần lớn là do kích động, nên thân hình run run, nhiệt tình nghênh đón hắn.
Môn nội công tâm pháp mà Tống Vân Nhi dạy cho Dương Thu Trì đã được hắn tập luyện nhiều ngày, đã đạt tiểu thành, dùng để đối phó với Phùng Tiểu Tuyết đã lâu chưa gặp mưa gió, rõ ràng là khoan thai điêu luyện có dư, dễ dàng tống Phùng Tiểu Tuyết mấy lần lên tuyệt đỉnh điên phong, cuối cùng mới cùng cưỡi lên đỉnh vu sơn. Phùng Tiểu Tuyết mồ hôi nhễ nhại bấy giờ mới nằm gọn trong lòng Dương Thu Trì.
Phùng Tiểu Tuyết e thẹn hỏi: "Phu quân, chàng... chàng so với trước lợi hại hơn nhiều..."
"Thích không?" Dương Thu Trì trêu nàng.
"Dạ!" Hắc ám che đi dãy hồng hà trên mặt Phùng Tiểu Tuết, nàng đưa tay thon vuốt ve ngực hắn, cười hi hi nũng nịu: "Thiếp còn lo chàng nạp hai phòng tiểu thiếp, cộng thêm tiểu nha đầu Hồng Lăng, thân thể sẽ mệt nhừ luôn. Hiện giờ xem ra thiếp lo dư rồi."
"Ta học được một môn công phu, không những có thể cường thân kiện thể, mà còn có thể làm việc đó xong rồi rất nhanh khôi phục thể lực, thậm chí còn bảo trì tinh thần vượng thịnh, không cần phải lo lắng đâu."
Phùng Tiểu Tuyết a lên một tiếng, lại hỏi: "Phu quân, lần này chàng đi Tứ Xuyên Ba châu trấn nhậm, thiếp rất muốn theo chàng."
"Được a, ngày mai ta nói với mẹ, nàng cùng đi với ta, ta cũng hi vọng có nàng ở bên cạnh."
Phùng Tiểu Tuyết thở dài: "Nhưng suy đi nghĩ lại thì không đi hay hơn."
"Thân thể của mẹ không được khỏe lắm, hiện giờ Chỉ Tuệ có mang với chàng, thiếp đi rồi ai chiếu cố đây?"
"Trong nhà chẳng phải là có nhiều nha hoàn người hầu bà mụ hay sao?"
"Không giống nhau. Chàng ở ngoài làm quan không thể ở cạnh mẹ tận hiếu, nếu như thiếp cũng không ở cạnh, thì chẳng thể nói sao cho được. Hơn nữa, thiếp cũng muốn chiếu cố cho Chỉ Tuệ thật tốt, đó chính là cốt nhục đầu tiên của Dương gia chúng ta, không thể để bất kỳ sai sót gì."
Dương Thu Trì thầm nghĩ, Phùng Tiểu Tuyết nói rất có lý, không khỏi thở dài: "Ta chỉ hi vọng có thể sớm bắt được Kiến Văn, không còn làm quan ở những chốn khỉ ho cò gáy kia nữa. Sau khi trở về Vũ Xương hoặc Ninh Quốc phủ, chúng ta có thể ở cạnh nhau rồi."
Phùng Tiểu Tuyết xoay trở uốn éo trong lòng Dương Thu Trì, để cho bản thân nằm ngủ thoải mái hơn một chút, nói: "Dạ đúng, mẹ và thiếp cũng thường nói thế, thật hi vọng sẽ sớm có ngày đó."
"Sẽ mà, nhất định sẽ có." Dương Thu Trì khẽ hôn lên trán vợ.
Sáng sớm hôm sau, Dương Thu Trì mang theo các thiếp thân hộ vệ đến tiểu hoa viên. Tiểu nha hoàn Oái nhi sau khi mở cửa, nói tiểu thư đang chờ ở Tiểu các lâu.
Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ phân tán xung quanh cảnh giới, Dương Thu Trì một mình tiến vào lầu, khẽ gõ cửa. Cửa mở, Bạch Tố Mai dường như đứng sau cửa tự lúc nào, vui mừng nhìn hắn, reo lên một tiếng lao vào lòng hắn.
Dương Thu Trì ôm chặt nàng, hai người hôn nhau thật lâu. Hắn ẵm nàng tới giường, cởi áo váy nàng, hôn cổ nàng, gò ngực cao cao của nàng, vòng eo thắt đáy lưng ong của nàng.
Thân mình Bạch Tố Mai toát ra làn hương thật mê người, Dương Thu Trì khắc chế không được định cởi quần áo mình, Bạch Tố Mai đột nhiên mở mắt, níu chặt tay hắn, run giọng nói: "Thu Trì, không, không được... thiếp không thể..."
Dương Thu Trì phải phí rất nhiều nghị lực mới trấn áp dục vọng đang dâng trào như hỏa sơn của mình.
Bạch Tố Mai thấy thần tình khát khao của Dương Thu Trì, vừa thương vừa cảm kích, ôm vít cổ hắn nói: "Chỉ hơn hai năm nữa thôi, thiếp là người của chàng rồi. Đến lúc đó... tùy chàng muốn gì thiếp cũng chiều... được không?"
Dương Thu Trì hôn vào đôi môi hồng của nàng liên tục, gật gật đầu, chỉnh lý lại áo quần cho nàng, rồi ôm nàng nằm dựa ra giường, khe khẽ nói chuyện.
Bạch Tố Mai nói: "Thiếp rất mong chàng sớm trở về đây làm quan, như vậy thiếp có thể ngày nào cũng được gặp chàng."
Lời này Phùng Tiểu Tuyết cũng vừa nói đêm qua, hiện giờ nghe Bạch Tố Mai nhắc lại, Dương Thu Trì không khỏi thở dài, ngửa mặt lên trời, hai tay kê sau ót, bảo: "Ta cũng muốn lắm a, thật muốn được sớm trở về cạnh các nàng, làm hay không làm quan không trọng yếu, có thể cùng các nàng khoái khoái lạc lạc với nhau mới là trên hết."
Bạch Tố Mai trở người, nằm đè lên mình Dương Thu Trì, khẽ nói: "Chàng hiện giờ làm quan lớn hơn cả cha thiếp, lại đã là bá tước rồi. Thiếp hi vọng sau này chàng sẽ làm quan lớn hơn." Dừng lại một chút, nàng cười hi hi tiếp, "Chẳng phải là có câu phú quý thế vinh hay sao, chàng làm đại quan, Tiểu Tuyết và bọn thiếp đều nở mặt nở mày"
Dương Thu Trì dùng tay vuốt ve gương mặt tơ non như phấn của nàng: "Được rồi, vậy thì ráng tiếp tục những ngày khổ cực, tiếp tục nỗ lực phá án, bắt Kiến Văn dư đảng. Nếu như bắt được Kiến Văn, cái chức đại quan của ta chỉ sợ có muốn tránh cũng tránh không được, hắc hắc hắc."
Bạch Tố Mai không cười, trong mắt không hiểu vì sao xuất hiện một tia tư lự. Dương Thu Trì kỳ quái hỏi: "Sao vậy?"
"Thiếp dù sao cũng có điểm lo lắng, nếu như sau này chàng bắt Kiến Văn rồi, quét sạch Kiến Văn dư đảng rồi, hoàng thượng có..."
Lòng Dương Thu Trì chợt rúng động, nhớ đến câu danh ngôn "Thỏ chết giết chó, chim hết bẻ cung", nghĩ đến cổ nhân Hàn Tín, Lý Mục, và còn có mệnh vận của các danh tướng theo Chu Nguyên Chương đánh thiên hạ nữa, không khỏi rùng mình ớn lạnh.
Bạch Tố Mai khuyên giải: "Có thể là chúng ta lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử đấy thôi, chàng phá án như thần, cho dù là tiêu diệt Kiến Văn xong, hoàng thượng còn phải dựa vào chàng phá những án khác, giữ cho thiên hạ bình an a."
Dương Thu Trì thở dài đánh sượt: "Chỉ mong là như thế,... nhưng mà, chúng ta dù không có lòng hại người, nhưng phải có tâm phòng bị người. Nàng nhắc nhở rất hay, ta cần phải suy nghĩ kỹ vấn đề này, đừng đến lúc bị giết rồi mà chẳng biết rốt cuộc vì cớ làm sao." Dừng một chút, hắn lại hôn lên môi của Bạch Tố Mai, nhìn nàng cười: "Ta chết không quan trọng, nhưng mà để đóa hoa mai như ngọc như ngà của ta liên lụy, thì có chết vạn lần cũng không chuộc lại được."
Bàn tay thon của Bạch Tố Mai che miệng Dương Thu Trì, nói vội: "Không được nói loạn!" Sau đó niệm phật liên tục: "Bồ tát phù hộ, chuyện xấu không linh!" Sau đó gắt: "Coi chàng nói cái gì kìa!... Chàng mà chết rối, thiếp... thiếp còn sống được hay sao?"
Dương Thu Trì thấy nàng gấp đến nỗi thanh âm hơi run, liền khẽ đánh vào mặt mình, "Ta nói sai rồi, hai chúng ta ân ân ái ái đến bạc đầu, sao có thể chết thế được."
Bạch Tố Mai toàn thân vô lực nằm dựa vào lòng Dương Thu Trì, khẽ nói: "Đúng a, chỉ cần chúng ta có thể ân ái đến bạc đầu, còn có chuyện gì đáng cao vọng nữa."
Dương Thu Trì khẽ gọi Tố Mai, hai người đắm đuối nhìn nhau, ôm chầm lại một chỗ.
Bấy giờ, các tiểu thái giám khênh vào một rương đồ trang sức rất đẹp, sau khi mở ra, Lý công công nói: "Án đạo lý, Dương tước gia và Bá tước thái phu nhân, phu nhân nên nhập triều tự thân thụ lĩnh sắc phong của hoàng thượng. Nhưng Dương tước gia có công vụ tại thân, phải lập tức đi nhậm chức, do đó hoàng thượng đặc mệnh cho chúng tôi đến đây đại diện cho hoàng thượng sắc phong. Trong rương này đều là y quan và khăn quàng vai (nguyên văn: Hà bí, một phần trong lễ phục phụ nữ quý tộc Trung quốc thời xưa), xin hãy mặc vào."
Ngay sau đó có mấy tiểu nha hoàn bước lên, khiêng rương vào trong nhà trong. Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết vui mừng vào hậu đường thay y phục, một lát sau bước ra, thấy hai người đều mang thái quán (một loại mũ. Người Trung Quốc khi lớn, con trai đến hai mươi tuổi thì làm lễ đội mũ, khi đó được gọi là nhược quán, khi chưa hai mươi gọi là vị quán) của mệnh phụ, trên có tết hai dãy hà bí bằng lụa màu quấn lên quá đầu rồi vòng qua trước ngực, tai đeo khuyên bằng vàng, quả thật là ung dung cao quý, nghi thái vạn thiên.
Mọi người đều lớn tiếng chúc mừng, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết từ từ thích ứng cái gọi là hạo mệnh phu nhân thân phận cao quý này, cười ha ha lệnh cho người hầu bày yến tiệc đãi quý khách.
Hiện giờ Dương phủ chẳng còn chuyện ăn cơm trắng mà phải do dự ba bốn lần như xưa nữa, nhanh chóng bày yến tiệc linh đình.
Ngoại trừ Tần Chỉ Tuệ mang thai không thể uống rượu, những nữ nhân khác đều mừng cho Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết, không người nào là không nâng ly sướng ẩm. Dương Thu Trì thì ngồi cạnh Lý công công và Tiền bố chánh sứ cùng những người khác, uống cho lâm li thống khoái rồi mới tan tiệc.
Sau khi tiễn quan khách về, cả nhà tụ lại phòng khách nói chuyện.
Dương Thu Trì nói mình đã thăng làm Tứ Xuyên Ba châu tri châu, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết cùng mọi người đều cao hứng phi thường.
Phùng Tiểu Tuyết đã lâu không gặp phu quân, ngồi cạnh Dương Thu Trì mà mừng không biết sao kể xiết, vừa mới nhấp có chút rượu mà mặt đã ửng hồng, tuy trên mặt còn có khối bớt đen, nhưng vẫn không che được vẻ phong tình của tiểu mỹ nhân tuyệt sắc.
Trong lúc nói chuyện, Dương Thu Trì phát hiện Phùng Tiểu Tuyết cứ nhìn về phía Hồng Lăng mãi, bèn cười hì hì ngoắc tay gọi Hồng Lăng.
Hồng Lăng vũ mị tuyệt luân, dung nhan tiếu lệ vô cùng, giống như viên dạ minh châu lung linh dưới ánh trăng, dễ dàng hấp dẫn ánh mắt của những người khác. Hồng Lăng ngoan ngoãn chạy lúp xúp tới quỳ xuống thưa: "Hồng Lăng xin ra mắt lão thái thái, thái thái."
Dương mẫu quay sang hỏi Dương Thu Trì: "Vị này..."
"Đây là tiểu nha hoàn trong lần phá án mưu phản của Mễ viên ngoại ở Vũ Xương lần trước, tên là Hồng Lăng, hiện giờ là thiếp thân tiểu nha hoàn của Tống Tình." Dừng lại một chút, hắn hơi ngượng ngập tiếp: "Và cũng là thông phòng đại nha hoàn, và đã nói kỹ trước đó rồi, nếu như em ấy có thể mang thai với con, thì sẽ thu về một phòng."
Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết bừng tỉnh hiểu ra gật gật đầu, dùng ánh mắt từ ái nhìn Hồng Lăng, thấy dáng vẻ của nàng thật dễ thương, quả thật là người khiến cho người ta vừa nhìn đã yêu, mỹ nhân đẹp từ trong trứng đẹp ra.
Phùng Tiểu Tuyết bảo nàng ta đứng dậy, cầm tay nàng nói: "Ta nghe Chỉ Tuệ có nói qua em, nói em người vừa thông minh, lại xinh xắn hiểu ý người, còn biết nấu món rất ngon, đúng không?"
Hồng Lăng hơi thẹn, cúi đầu đáp: "Đa tạ bà lớn và bà hai đã khen ngợi."
Tống Tình đứng một bên nhắc nhở: "Thái phu nhân và phu nhân là hạo mệnh phu nhân được triều đình sắc phong, không thể gọi bừa như vậy nữa."
"Dạ!" Hồng Lăng vội chữa ngay, "Đa tạ thái phu nhân khoa tưởng, đa tạ bà hai khoa tưởng."
Tống Tình lại nói: "Cái này lại không đúng nữa, trong nhà này chỉ có một bà lớn, đó chính là phu nhân, còn Chỉ Tuệ tỷ tỷ và ta, các em chỉ có thể gọi là di nương."
Dương Thu Trì nói: "Làm gì mà nhiều quy củ thế, cứ gọi lại nhị phu nhân, tam phu nhân cho rồi. Hồng Lăng, em cứ gọi như vậy đi."
Hồng Lăng vội đáp: "Dạ, thiếu gia."
"Không quy củ!" Tống Tình bước đến cạnh Dương Thu Trì, nói với Hồng Lăng: "Đã về nhà cả rồi, thái phu nhân, phu nhân đều có mặt, sao lại còn gọi thiếu gia được, phải gọi là lão gia, nếu như cứ gọi là thiếu gia này thiếu gia nọ, thì sau này Chỉ Tuệ sinh em bé rồi nên gọi thế nào."
"Dạ!... lão gia!" Hồng Lăng bị Tống Tình chỉnh cho hồ đồ cả lên.
Tống Vân Nhi xả cho Tống Tình một câu: "Tỷ sao lấy đâu ra nhiều quy củ thế! Cứ gọi tùy tiện như trước kia có phải hay hơn không, tự do tự tại."
"Cái đó không đúng rồi." Tống Tình đáp, bước đến cạnh Dương mẫu, cầm nâng tay bà lên nói: "Thái phu nhân, hiện giờ không còn giống như lúc trước nữa. Lão gia chúng ta đã được phong bá tước, thái phu nhân, phu nhân cùng đã được sắc phong hạo mệnh phu nhân, chúng ta hiện giờ có thể được coi thuộc hàng người trên kẻ trước của triều đình, nếu như đóng cửa lại mọi người có xưng hô thế nào cũng không sao, nhưng nếu có người ngoài, nghe lối xưng hô không thành quy củ như vậy, sẽ khiến người ta ngầm cười chúng ta."
Dương mẫu gặt gật đầu: "Tình nhi nói có lý, như vậy đi, con là người định ra quy củ, sau đó cứ án theo quy củ này mà làm, không thể để cho lão gia các ngươi mất mặt." Xong chuyển đầu nhìn về phía Bạch phu nhân: "Chẳng hay ý thân gia thế nào?" Bạch phu nhân vốn là người nhà quan xuất thân, đối với chuyện tôn ti luân thường cũng rất xem trọng, mỉm cười nói: "Lời thái phu nhân chí phải, một gia đình lớn không có lề thói quy củ thì không thể được."
"Vậy thì tốt." Dương mẫu cười hà hà nói với Tống Tình: "Tình nhi, con cứ định củ đi là được."
Có Dương mẫu và Bạch phu nhân bênh vực, Tống Tình như nắm được thượng phương bảo kiếm trong tay, hoan hỉ gật đầu đáp ứng, chuyển thân quét mắt nhìn xung quanh, nói: "Ta phụng mệnh thái phu nhân, định ra quy củ, sau này ai làm trái lại, gia pháp xử trị!"
Các nha hoàn, bà mụ cùng người hầu đều dạ vang đáp ứng.
Tống Tình tiếp: "Lão thái thái, thái thái là hạo mệnh thái phu nhân, phu nhân, trước mặt người ngoài chỉ được phép xưng theo phong hiệu, còn ở trong nhà, thì có thể xưng hô là lão thái thái, thái thái. Tiểu Tuyết tỷ tỷ đương nhiên có thể xưng hô với phu nhân là mẹ, còn Chỉ Tuệ tỷ tỷ và ta cũng không có tư cách đó, chỉ có thể xưng hô là thái phu nhân, lão thái quân hay là lão thái thái. Lão gia của chúng ta hiện giờ là bá tước, khi ở trước mặt người ngoài phải xưng hô là tước gia, ở trong nhà thì có thể xưng hô là lão gia, không được phép xưng hô là thiếu gia, như vậy không có quy củ."
Dừng một chút, lại chỉ Tần Chỉ Tuệ và Bạch Tố Mai: "Đối với Chỉ Tuệ và ta, thì phải xưng hô là Tần di nương, Tống di nương, sau này Bạch cô nương quá môn, thì phải xưng hô là Bạch di nương, người nhà với nhau thì có thể xưng hô là "nãi nãi" (mợ), không được phép xưng hô là thái thái (bà)."
Nói đến đây, lại khẽ lay cánh tay của Dương Thu Trì, nói với Tần Chỉ Tuệ và Bạch Tố Mai: "Tiếng gọi phu quân hay tướng công này chỉ có Tiểu Tuyết tỷ tỷ mới được xưng hô, chúng ta chỉ có thể xưng hô là lão gia hoặc tước gia, đặc biệt là khi có người ngoài, ngàn vạn lần không được làm sai."
Dương mẫu vừa ý kéo tay Tống Tình, nói: "Rất tốt, trong nhà phải có con giúp bà lớn làm chủ mọi chuyện mới được."
Dương mẫu nhìn Tống Tình và Hồng Lăng, nhỏ giọng hỏi: "Hai đứa các ngươi có tin mừng chưa?"
Tống Tình và Hồng Lăng đều tái mặt, khe khẽ lắc đầu.
Dương mẫu an ủi: "Không hề gì, hai đứa còn nhỏ, từ từ rồi có." Rồi bà quay sang Dương Thu Trì: "Lần này con đến Ba châu thì mang theo hai đứa Tống Tình và Hồng Lăng đi, tranh thủ lần sau trở về nếu đều có mang hài tử như Chỉ Tuệ vậy thì mẹ vui lắm! Ha ha ha!"
Tống Tình và Hồng Lăng đều đỏ mặt, nghe nói có thể cùng đi với Dương Thu Trì tới Ba Châu, lòng vui mừng khôn xiết.
Nhân lúc bọn họ đang nói chuyện, Dương Thu Trì đến cạnh Tần Chí Tuệ, thấy bụng nàng đã lúp xúp, chúi đẩu nghe em bé trong bụng nàng, khiến Tần Chỉ Tuệ đỏ bừng cả mặt, nhưng lòng thì sung sướng vạn phần. Dù gì thì nàng cũng là người đầu tiên mang thai cho Dương Thu Trì, nếu như là sinh con trai, thì vị trí của nàng trong nhà này chỉ sau Phùng Tiểu Tuyết, địa vị không thể lay động. Tuy vậy, nàng không biết là còn có một Liễu Nhược Băng đã có mang với Dương Thu Trì sớm hơn nàng mấy ngày.
Dương Thu Trì hỏi: "Em bé của chúng ta có nghịch ngợm không?"
Tần Chỉ Tuệ cười khanh khách: 'Đương nhiên tinh nghịch, cứ đạp thiếp suốt." Ngừng một chút, nàng hạ giọng tiếp: "Giống như chàng lúc ở trên giường vậy!"
Dương Thu Trì cố ý làm ra vẻ rất ủy khuất: "Ta mà tinh nghịch cái gì? Ta với nàng trong đêm đầu tiên đó có dám cởi áo ra đâu, thật thật thà thà ngồi bên cạnh nàng ngủ suốt đêm thấy không?"
Trong đêm tân hôn của hai người, Tần Chi Tuệ dùng độc bỏ vào rượu định thuốc chết Dương Thu Trì, không ngờ âm soa dương thác, hắn không trúng độc mà nàng lại suýt bị độc chết. Dương Thu Trì thức canh cho nàng suốt đêm, Tần Chỉ Tuệ cảm động có dư, bảo hắn lên giường, hai người ôm nhau ngủ qua hết đêm tân hôn.
Tần Chí Tuệ đỏ mặt cười, nói: "Đó là vì chàng người tốt lòng tốt, là cái phước mà Chỉ Tuệ đã tu từ mấy kiếp trước. Có thể gả cho chàng, nhiều khi thiếp cứ không ngờ hạnh vận của mình lại tốt vậy."
"Nói đến hạnh vận, ta mới là có vận may nè, ta nếu không gặp nàng, con trai của ta hiện giờ chỉ sợ còn chưa có tăm hơi nửa chi."
"Sao chàng chưa chi đã khăng khăng là con trai rồi, nếu là con gái thì sao?" Tần Chỉ Tuệ tủm tỉm nhìn hắn.
"Gái à? Con gái càng tốt! Ta càng thích, vừa văn vẻ vừa biết thương người, không như con trai suốt ngày cứ đánh đấm sanh sự, không để cho người ta tĩnh tâm."
Tần Chỉ Tuệ phì cười: "Coi chàng kìa, toàn là nói tốt không." Rồi nhìn về phía hai mẹ con Bạch Tố Mai đang nhìn họ, thuận tiện bảo hắn: "Bạch tỷ tỷ nhất mực mong ngóng chàng, mau đi nói chuyện với tỷ ấy đi."
Hai mẹ con Bạch Tố Mai nhất mực ngồi ở bên cạnh mỉm cười nghe họ nói chuyện, Bạch Tố Mai cứ lén nhìn Dương Thu Trì không ngớt.
Nghe Tần Chỉ Tuệ nói thế, Dương Thu Trì nhìn về phía Bạch Tố Mai, nhớ tới lúc hắn và nàng ở đỉnh huyền nhai trong đêm mưa gió, cùng trần trụi thân hình ôm chặt nhau, lòng dâng lên niềm ấm áp, bước đến ngồi xuống cạnh nàng, hỏi: "Tố Mai, những ngày này nàng có khỏe không?"
Bạch Tố Mai tính cách nhu nhược, nàng sẽ không thể nào trước mặt nhiều người mà nói vói Dương Thu Trì những lời đại loại như vậy, nhưng trong lòng rõ ràng là tràn đầy nỗi nhớ mong hắn, cho nên cuối cùng cũng không nhịn được gật đầu, đỏ mặt lí nhí đáp: "Khỏe... chỉ là... nhớ chàng quá..."
Dương Thu Trì cầm tay nàng, thì thào: "Ta cũng nhớ nàng quá, nhớ đến những ngày chúng ta ở trên huyền nhai."
Bạch Tố Mai cố nhịn lòng ham muốn nhào phắt vào lòng Dương Thu Trì, nam nhân sau này sẽ thành phu quân của nàng, nam nhân mà nàng luôn luôn mong chờ lo lắng, nam nhân mà nàng muốn nằm gọn trong lòng, tỏ bày hết nỗi lòng chất chứa bấy lâu.
Dương Thu Trì đã đoán được tâm tư từ ánh mắt của Bạch Tố Mai, thì thào: "Sáng sớm ngày mai, ta đến tiểu hoa viên thăm nàng, được không?"
Đêm đó, Dương Thu Trì và Phùng Tiểu Tuyết tắm rửa xong vào phòng, Dương Thu Trì không nhịn được vội vã lột trần Phùng Tiểu Tuyết đè lên giường. Phùng Tiểu Tuyết đã lâu không nồng nhiệt cùng phu quân, hơi bẽn lẽn, nhưng phần lớn là do kích động, nên thân hình run run, nhiệt tình nghênh đón hắn.
Môn nội công tâm pháp mà Tống Vân Nhi dạy cho Dương Thu Trì đã được hắn tập luyện nhiều ngày, đã đạt tiểu thành, dùng để đối phó với Phùng Tiểu Tuyết đã lâu chưa gặp mưa gió, rõ ràng là khoan thai điêu luyện có dư, dễ dàng tống Phùng Tiểu Tuyết mấy lần lên tuyệt đỉnh điên phong, cuối cùng mới cùng cưỡi lên đỉnh vu sơn. Phùng Tiểu Tuyết mồ hôi nhễ nhại bấy giờ mới nằm gọn trong lòng Dương Thu Trì.
Phùng Tiểu Tuyết e thẹn hỏi: "Phu quân, chàng... chàng so với trước lợi hại hơn nhiều..."
"Thích không?" Dương Thu Trì trêu nàng.
"Dạ!" Hắc ám che đi dãy hồng hà trên mặt Phùng Tiểu Tuết, nàng đưa tay thon vuốt ve ngực hắn, cười hi hi nũng nịu: "Thiếp còn lo chàng nạp hai phòng tiểu thiếp, cộng thêm tiểu nha đầu Hồng Lăng, thân thể sẽ mệt nhừ luôn. Hiện giờ xem ra thiếp lo dư rồi."
"Ta học được một môn công phu, không những có thể cường thân kiện thể, mà còn có thể làm việc đó xong rồi rất nhanh khôi phục thể lực, thậm chí còn bảo trì tinh thần vượng thịnh, không cần phải lo lắng đâu."
Phùng Tiểu Tuyết a lên một tiếng, lại hỏi: "Phu quân, lần này chàng đi Tứ Xuyên Ba châu trấn nhậm, thiếp rất muốn theo chàng."
"Được a, ngày mai ta nói với mẹ, nàng cùng đi với ta, ta cũng hi vọng có nàng ở bên cạnh."
Phùng Tiểu Tuyết thở dài: "Nhưng suy đi nghĩ lại thì không đi hay hơn."
"Thân thể của mẹ không được khỏe lắm, hiện giờ Chỉ Tuệ có mang với chàng, thiếp đi rồi ai chiếu cố đây?"
"Trong nhà chẳng phải là có nhiều nha hoàn người hầu bà mụ hay sao?"
"Không giống nhau. Chàng ở ngoài làm quan không thể ở cạnh mẹ tận hiếu, nếu như thiếp cũng không ở cạnh, thì chẳng thể nói sao cho được. Hơn nữa, thiếp cũng muốn chiếu cố cho Chỉ Tuệ thật tốt, đó chính là cốt nhục đầu tiên của Dương gia chúng ta, không thể để bất kỳ sai sót gì."
Dương Thu Trì thầm nghĩ, Phùng Tiểu Tuyết nói rất có lý, không khỏi thở dài: "Ta chỉ hi vọng có thể sớm bắt được Kiến Văn, không còn làm quan ở những chốn khỉ ho cò gáy kia nữa. Sau khi trở về Vũ Xương hoặc Ninh Quốc phủ, chúng ta có thể ở cạnh nhau rồi."
Phùng Tiểu Tuyết xoay trở uốn éo trong lòng Dương Thu Trì, để cho bản thân nằm ngủ thoải mái hơn một chút, nói: "Dạ đúng, mẹ và thiếp cũng thường nói thế, thật hi vọng sẽ sớm có ngày đó."
"Sẽ mà, nhất định sẽ có." Dương Thu Trì khẽ hôn lên trán vợ.
Sáng sớm hôm sau, Dương Thu Trì mang theo các thiếp thân hộ vệ đến tiểu hoa viên. Tiểu nha hoàn Oái nhi sau khi mở cửa, nói tiểu thư đang chờ ở Tiểu các lâu.
Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ phân tán xung quanh cảnh giới, Dương Thu Trì một mình tiến vào lầu, khẽ gõ cửa. Cửa mở, Bạch Tố Mai dường như đứng sau cửa tự lúc nào, vui mừng nhìn hắn, reo lên một tiếng lao vào lòng hắn.
Dương Thu Trì ôm chặt nàng, hai người hôn nhau thật lâu. Hắn ẵm nàng tới giường, cởi áo váy nàng, hôn cổ nàng, gò ngực cao cao của nàng, vòng eo thắt đáy lưng ong của nàng.
Thân mình Bạch Tố Mai toát ra làn hương thật mê người, Dương Thu Trì khắc chế không được định cởi quần áo mình, Bạch Tố Mai đột nhiên mở mắt, níu chặt tay hắn, run giọng nói: "Thu Trì, không, không được... thiếp không thể..."
Dương Thu Trì phải phí rất nhiều nghị lực mới trấn áp dục vọng đang dâng trào như hỏa sơn của mình.
Bạch Tố Mai thấy thần tình khát khao của Dương Thu Trì, vừa thương vừa cảm kích, ôm vít cổ hắn nói: "Chỉ hơn hai năm nữa thôi, thiếp là người của chàng rồi. Đến lúc đó... tùy chàng muốn gì thiếp cũng chiều... được không?"
Dương Thu Trì hôn vào đôi môi hồng của nàng liên tục, gật gật đầu, chỉnh lý lại áo quần cho nàng, rồi ôm nàng nằm dựa ra giường, khe khẽ nói chuyện.
Bạch Tố Mai nói: "Thiếp rất mong chàng sớm trở về đây làm quan, như vậy thiếp có thể ngày nào cũng được gặp chàng."
Lời này Phùng Tiểu Tuyết cũng vừa nói đêm qua, hiện giờ nghe Bạch Tố Mai nhắc lại, Dương Thu Trì không khỏi thở dài, ngửa mặt lên trời, hai tay kê sau ót, bảo: "Ta cũng muốn lắm a, thật muốn được sớm trở về cạnh các nàng, làm hay không làm quan không trọng yếu, có thể cùng các nàng khoái khoái lạc lạc với nhau mới là trên hết."
Bạch Tố Mai trở người, nằm đè lên mình Dương Thu Trì, khẽ nói: "Chàng hiện giờ làm quan lớn hơn cả cha thiếp, lại đã là bá tước rồi. Thiếp hi vọng sau này chàng sẽ làm quan lớn hơn." Dừng lại một chút, nàng cười hi hi tiếp, "Chẳng phải là có câu phú quý thế vinh hay sao, chàng làm đại quan, Tiểu Tuyết và bọn thiếp đều nở mặt nở mày"
Dương Thu Trì dùng tay vuốt ve gương mặt tơ non như phấn của nàng: "Được rồi, vậy thì ráng tiếp tục những ngày khổ cực, tiếp tục nỗ lực phá án, bắt Kiến Văn dư đảng. Nếu như bắt được Kiến Văn, cái chức đại quan của ta chỉ sợ có muốn tránh cũng tránh không được, hắc hắc hắc."
Bạch Tố Mai không cười, trong mắt không hiểu vì sao xuất hiện một tia tư lự. Dương Thu Trì kỳ quái hỏi: "Sao vậy?"
"Thiếp dù sao cũng có điểm lo lắng, nếu như sau này chàng bắt Kiến Văn rồi, quét sạch Kiến Văn dư đảng rồi, hoàng thượng có..."
Lòng Dương Thu Trì chợt rúng động, nhớ đến câu danh ngôn "Thỏ chết giết chó, chim hết bẻ cung", nghĩ đến cổ nhân Hàn Tín, Lý Mục, và còn có mệnh vận của các danh tướng theo Chu Nguyên Chương đánh thiên hạ nữa, không khỏi rùng mình ớn lạnh.
Bạch Tố Mai khuyên giải: "Có thể là chúng ta lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử đấy thôi, chàng phá án như thần, cho dù là tiêu diệt Kiến Văn xong, hoàng thượng còn phải dựa vào chàng phá những án khác, giữ cho thiên hạ bình an a."
Dương Thu Trì thở dài đánh sượt: "Chỉ mong là như thế,... nhưng mà, chúng ta dù không có lòng hại người, nhưng phải có tâm phòng bị người. Nàng nhắc nhở rất hay, ta cần phải suy nghĩ kỹ vấn đề này, đừng đến lúc bị giết rồi mà chẳng biết rốt cuộc vì cớ làm sao." Dừng một chút, hắn lại hôn lên môi của Bạch Tố Mai, nhìn nàng cười: "Ta chết không quan trọng, nhưng mà để đóa hoa mai như ngọc như ngà của ta liên lụy, thì có chết vạn lần cũng không chuộc lại được."
Bàn tay thon của Bạch Tố Mai che miệng Dương Thu Trì, nói vội: "Không được nói loạn!" Sau đó niệm phật liên tục: "Bồ tát phù hộ, chuyện xấu không linh!" Sau đó gắt: "Coi chàng nói cái gì kìa!... Chàng mà chết rối, thiếp... thiếp còn sống được hay sao?"
Dương Thu Trì thấy nàng gấp đến nỗi thanh âm hơi run, liền khẽ đánh vào mặt mình, "Ta nói sai rồi, hai chúng ta ân ân ái ái đến bạc đầu, sao có thể chết thế được."
Bạch Tố Mai toàn thân vô lực nằm dựa vào lòng Dương Thu Trì, khẽ nói: "Đúng a, chỉ cần chúng ta có thể ân ái đến bạc đầu, còn có chuyện gì đáng cao vọng nữa."
Dương Thu Trì khẽ gọi Tố Mai, hai người đắm đuối nhìn nhau, ôm chầm lại một chỗ.
Tứ Xuyên Ba châu có dòng sông Ba như một dãy đai ngọc uốn lượng quanh những dãy núi cao rừng thẳm.
Lão ngư phu Du lão hán ngồi ở đuôi thuyền, nhìn con trai Dư Thiết Trụ đang ở đầu thuyền tung lưới quăng chài. Chài cá vẽ ra một đường võng hoa vô cùng mỹ lệ, tròn vành vạnh ụp xuống mặt nước xanh, rồi từ từ chìm xuống dưới.
Khí trời rất tốt, trời xanh mây trắng, gió sông vào dịp tháng tám khiến cho người ta cảm thấy mát mẻ thư thích cả người.
Dư Thiết Trụ từ từ thu lưới, đôi mắt tràn đầy hi vọng nhìn chong vào mặt sông. Sóng nước nổi bọt, lưới cá trong tay gã từ từ theo nhịp tay thu kéo dần lên, chầm chậm, và cảm giác càng lúc càng nặng.
Gì vậy cà? Dư Thiết Trụ cảm thấy hơi ngạc hiên. Gã và cha già đã đánh cá nhiều năm rồi, đối với chuyện trong lưới có cá hay không, cá lớn cá bé thế nào đều có thể cảm nhận được. Hơn nữa, đây chỉ là một con sông nhỏ, không thể nào xuất hiện cá lớn ngay cả gã cũng kéo không nổi. Chẳng lẽ lần quăng chài này của gã đã trúng được một bầy cá lớn?
Gã vui mừng nhìn trừng vào mặt nước, hi vọng sẽ nhìn thấy ngư nhân trắng bạc vẫy vùng trong lưới.
Không có ngư nhân, cũng chẳng có con cá nhép nào.
Nhưng lưới càng lúc càng nặng, Dư lão hán cũng cảm thấy bất ngờ, chui qua khoang thuyền, bước đến đầu thuyền, thấy Dư Thiết Trụ kéo lưới hơi có vẻ cật lực, lão càng kỳ quái hơn. Kinh nghiệm nhiều năm chài lưới đánh cá cho lão biết, đó nhất định không phải là cá, mà là một gốc cây hay gì gì đó, cần phải thật cẩn thận, không khéo sẽ làm rách lưới.
Du lão hán giúp con trai từ từ kéo lưới lên, từng chút từng chút một, vật trong lưới từ từ hiện ra, đó là một vật dài đen nặng trì trì trong nước, không rõ nó là cái gì.
Dư Thiết Trụ dùng lực kéo hẳn lưới lên, định thần nhìn kỹ, thì ra đó là một người bị bó chặt! Gã tức thời giật nảy mình, đối mắt nhìn cha, bất giờ mới lấy hết can đảm hất lưới, lật người đó qua, nhìn kỹ lại thì đó là một người đã chết, khắp người phù thũng! Người đó trợn trừng mắt, nhìn thẳng vào gã, khiến Dư Thiết Trụ hoảng sợ kêu lớn lên, quẳng lưới, ngồi phệt ra thuyền, suýt chút nữa té nhào xuống sông.
....
Nha môn của Ba châu, trời giữa trưa, ve sầu lớn giọng hét vang trời như ngày mai không còn mạng nữa, thật khiến cho người ta phiền lòng.
Dương Thu Trì đến Ba châu làm tri châu đã gần một tháng rồi. Trước khi đến đây, hắn đã mang theo hai tỷ muội Tống Vân Nhi và Tống Tình, tiểu nha hoàn Hồng Lăng, hai chị em song sinh người Miêu là Sương nhi và Tuyết nhi, cân ban Thường Phúc, sư gia, Lê viên thất tỷ muội, còn bà gác cửa Trương mụ cùng cả đám nha hoàn người hầu, dưới sự hộ vệ của Nam Cung Hùng, Hạ Bình và các hộ vệ đã đi đường vòng đến Thành Đô thăm Liễu Nhược Băng!
Dương Thu Trì rất mừng là bản thân có cái nhìn xa, an đốn Liễu Nhược Băng ở Thành Đô, cách Ba Châu không xa mấy, cưỡi ngựa hoặc đi xe chỉ mất ba bốn ngày.
Long sư gia rất biết cách làm việc. Ông ta biết Dương Thu Trì cực kỳ quý yêu Liễu Nhược Băng, nên không tiếc tiền chút nào, và cũng không cần phải tiết kiệm tiền cho Dương Thu Trì, đã mua cho Liễu Nhược Băng một gia sản, tuy không bằng khu hào trạch làm ăn kinh tế phát đạt của Dương Thu Trì, nhưng vẫn được coi là chỗ an cư thanh nhã, khung cảnh xinh đẹp, mang phong vị của viên lâm chốn Giang Nam.
Dương Thu Trì đối với khu nhà vườn to lớn này rất vừa ý, khen ngợi Long sư gia không ngớt. Liễu Nhược Băng cũng rất hài lòng, hắn lại dẫn nàng đi mua mấy tiểu nha hoàn và người hầu ở Thành Đô, an bài đâu đó rồi mới đi.
Thời gian để đi nhậm chức là có hạn chế, không thể chậm trễ quá lâu, hơn nữa Liễu Nhược Băng đã mang thai mấy tháng dễ dàng lộ ra, lại không thể quá nồng nhiệt, hơn nữa Tống Vân Nhi cũng ở đó, mọi hành vi đều cố kỵ, cho nên dưới sự đốc thúc của Kim sư gia cùng mọi người, đặc biệt là Liễu Nhược Băng bức hắn phải đi nhậm chức ngay, nên Dương Thu Trì chỉ còn biết rớt lệ mà từ biệt nàng, mang theo đại đội nhân mã trường đồ bạt thiệp đến Ba châu.
Tứ Xuyên Ba châu lúc này có thể coi là vùng núi non hẻo lánh, tuy so với Trấn Viễn châu có tốt hơn, nhưng cũng chẳng được là bao.
Mỗi lần nhớ đến Liễu Nhược Băng, Dương Thu Trì lại viết thư bày tỏ nỗi khổ của sự tương tư. Ở Minh triều dịch trạm tuy rất phát triển, nhưng so với thời hiện đại quả là cách xa một trời một vực.
Trưa hôm đó, tiết trời khá nóng, Dương Thu Trì phe phẩy quạt mo, cùng hai chị em Tống thị và tiểu nha đầu Hồng Lăng ngồi trong phòng khách nói chuyện, chợt nghe trống chầu vang lừng, có người hô vang cáo trạng, hơn nữa tình huống có vẻ khẩn cấp, chẳng lẽ có án mạng hay sao?
Bà gác cửa Trương mụ vào báo, nói có một lão hán ra dáng người chài lưới đến đánh trống báo cáo, nói ở Ba hà phát hiện một tử thi, muốn báo lão gia tới khám tra.
Dương Thu Trì lập tức ra lệnh cho bộ khoái của nha môn đến bảo hộ hiện trường trước, còn bản thân thì mặc quan bào, cầm rương pháp y vật chứng mang theo cái đuôi Tống Vân Nhi cùng rời khỏi nội nha, được Nam Cung Hùng và các hộ vệ bảo hộ, cộng thêm Kim sư gia và ngỗ tác của nha môn tháp tùng, ngồi quan kiệu đến cạnh sông của Ba châu hà.
Thi thể đã bị kéo lên bờ, dùng một chiếc chiếu lác che lại.
Dương Thu Trì trước hết hỏi Dư lão hán và Dư Thiết Trụ về những điều đã kinh qua khi phát hiện thi thể, sau đó mang bao tay tiến hành kiểm nghiệm tử thi thật cẩn thận.
Thi thể này là nam, mặc một bộ đồ bằng bố ngắn, nhìn dáng vẻ là một trang tráng hán, ở cổ có cột một dây xích sắt nhỏ, đầu cột vào tảng đá, tảng đá không nặng lắm.
Dương Thu Trì tìm kiếm trong túi của thi thể, phát hiện một chiếc khăn tay, trên đó có thêu một chữ Lý, còn không có vật gì khác nữa.
Khi cởi y phục kiểm nghiệm, hắn phát hiện thi thể đã bắt đầu thối rữa.
Tống Vân Nhi ở bên cạnh quan sát kỹ quá trình kiểm tra thi thể của Dương Thu Trì, đột nhiên ơ lên một tiếng.
Dương Thu Trì hỏi: "Có gì thế?"
"Ca, huynh trước đây đã từng nói, sau khi người ta chết thì huyết dịch sẽ trầm tích đến những vị trí thấp ở dưới cơ thể hình thành thi ban, thi thể này sao lại không có thi ban?" Tống Vân Nhi theo Dương Thu Trì khám tra khá nhiều thi thể, nghe hắn nói nhiều lần, cho nên cũng học được một số từ chuyên dụng.
Dương Thu Trì tán: "Vân nhi thật là thông minh, những lời ta nói trước đây muội đều nhớ hết cả, thật là không đơn giản nghe."
Tống Vân Nhi đắc ý nghiêng đầu: "Những lời huynh nói muội đều nhớ hết, có điều không có chỗ dùng, nhưng sao thi thể này lại không có thi ban?"
"Thi thể này không phải không có thi ban, mà là màu sắc của thi ban rất nhạt, không dễ phát hiện. Hơn nữa, thi thể trôi ở dưới sông, thi ban thường sẽ không lắng xuống chỗ ở dưới của cơ thể."
"Vì sao?"
"Nhân vì thi thể này tuy bị cột một tảng đá vào cổ bằng một dây xích sắt, nhưng tàng đá không quá nặng, dây xích sắt lại hơi dài, cho nên không thể giữ cho thi thể một tư thế nhất định, trong khi đó nước sông lưu động, cho nên thi thể trôi lên dạt xuống, không hề cố định, cho nên không hình thành vị trí thấp cố định để có thể tạo thành thi ban."
Đạo lý này rất đơn giàn, chỉ là Tống Vân Nhi nhất thời còn chưa nghĩ đến. Dương Thu Trì vừa khơi gợi, nàng liền minh bạch ngay, gật gật đầu, lại quan sát cẩn thận, rồi vui mừng nói: "Muội phát hiện rồi, là có thi ban, phân bố khắp nơi trên thân thể, nhưng trước đây chúng ta kiểm nghiệm thường thi ban có màu tím đỏ, trong khi thi thể này sao lại có thi ban màu hồng?"
Vấn đề này không dễ giải thích rõ cho Tống Vân Nhi hay, bởi vì người chết ngợp trong nước có nhiệt độ hơi thấp, cho nên sau khi hình thành thi ban, thì hồng cầu mang chất dinh dưỡng trong máu không dễ phân hủy. Hơn nữa dưỡng khí trong nước sau khi tiến nhập vào huyết quản sẽ hình thành máu chứa lượng hồng cầu có nồng độ cao màu đỏ, cho nên thi ban của người chết đuối hay chết ngộp trong nước thường không có màu tím hồng, mà là màu hôn phấn.
Vấn đề này quá hiện đại, Dương Thu Trì chỉ có thể giản đơn giải thích: "Cái này là do nước lạnh tạo thành."
Tống Vân Nhi không hiểu nước lạnh sao lại có thể khiến thi ban có màu hồng phấn, định hỏi cho rõ ngọn ngành, chợt nhìn chằm chằm vào miệng mũi của thi thể, vui mừng reo lên: "Muội biết rối, người này là bị độc hại xong rồi mới bị quẳng xuống sông!"
Dương Thu Trì lợi dụng điều này giả vờ kinh dị nhìn nàng: "Làm sao muội biết?"
Tống Vân Nhi chỉ vào miệng mũi của tử thi đang từ từ chảy ra một bọt khí màu trắng: "Huynh xem! Nếu không phải là bị độc chết, làm sao miệng mũi lại chảy ra bọt trắng thế này?"
Dương Thu Trì lắc đầu: "Đúng là... miệng mũi có xì bọt, nhưng mà chẳng lẽ vậy là bị độc chết hay sao?"
"Không phải độc chết, chẳng lẽ... chẳng lẽ y cố ý nhả ra bọt à?... Chẳng lẽ y còn sống sao?" Mắt Tống Vân Nhi trợn to lên.
Nghe lời nàng, đầu Dương Thu Trì bắt đầu to ra: "Thi thể này đã phù thũng thối rửa rồi, làm sao mà còn sống được! Hơn nữa vừa rồi muội cũng nhìn rồi, trên người thi thể có thi ban màu hồng phấn, người sống sao lại có thi ban?"
"Vậy, vậy miệng của y lại nhả ra bọt nước!?"
"Đâu có gì mà nhả bọt, cái đó là do nước lạnh rơi vào đường hô hấp, kích thích niêm mạc hô hấp tạo ra một lượng lớn niêm dịch. Người chết sau khi rơi vào nước sẽ hô hấp cấp xúc khiến cho số niêm dịch này bị hít vào trong đường hô hấp, không khí trong phổi quấy trộn thứ này lên, tạo thành những bọt khí. Do nó rất giống thứ bọt nôn mửa ra, cho nên gọi là bọt nước giải."
Tống Vân Nhi nghe không hiểu cái gì là đường hô hấp, nhưng nàng đã quen với cái kiểu nói chuyện thần thần bí bí của Dương Thu Trì, cho nên không lấy làm lạ nữa. Dương Thu Trì lấy một cái khăn nhẹ chùi qua bọt nhớt trên miệng mũi của nạn nhân, nói: "Thứ bọt nhớt này cho dù muội có chùi sạch rồi thì nó cũng sẽ xì ra, đặc biệt là khi di động thi thể nó sẽ ra nhiều hơn."
Quả nhiên, miệng mũi của thi thể lại từ từ ứa ra dịch trắng dạng sùi bọt tiếp.
Dương Thu Trì tiếp tục bổ sung: "Thứ bọt này có thể chỉ ra rằng người chết này khi rơi vào nước thì công năng hô hấp vẫn còn tồn tại. Do đó, chỉ cần phát hiện thi thể chết đuối có xì ra thứ bọt này, về mức độ nào đó có thể chứng minh người đó còn sống trước khi rơi xuống nước, hay nói cách khác, người đó chết là do bị ngộp nước. Dĩ nhiên là không nhất định như vậy, vì uống một số độc dược, hoặc là nổi cơn động kinh mà chết thì cũng có thể sản sinh thứ bọt giải này."
"Vậy người này rốt cuộc là còn sống bị ném vào trong nước bị nghẹt thở chết hay là chết rồi mới bị ném vào trong nước?"
"Sơ bộ phán đoán, người này là còn sống bị ném vào nước ngộp thở chết." Dương Thu Trì cầm một tay của thi thể lên, ra ý cho Tống Vân Nhi nhìn vào móng tay của người chết này. Tống Vân Nhi nhìn cả buổi mà chẳng thấy gì dị thường, nghi hoặc nhìn Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì nói: "Muội chú ý kẽ ngón tay của y, xem có cái gì?"
Tống Vân Nhi nhìn vào kẽ móng tay, nhíu mày nói: "Ơ...! Người này móng tay dài sao không chịu cắt vậy, huynh xem kìa ở chỗ dưới móng có bùn đen...!"
"Muội nhìn kỹ đi, đó không phải là bùn đen."
"Không phải? Vậy chứ nó là cái gì?"
"Là cát sông, cát ở dưới đáy sông!"
Mắt Tống Vân Nhi sáng lên: "Muội biết rồi, người này nếu như còn sống mà vào trong nước, nếu như bị cột vào đá, sẽ bị kéo đến đáy sông, cát sông chui vào kẽ móng tay mà không chịu rời ra khỏi đó khi bị nước sông cuốn chảy thì nhất định là do trong lúc giãy giụa, dùng lực quào mạnh cát đáy sông cho nên mới tiến sâu vào trong."
"Rất tốt!" Dương Thu Trì khen: "Vân nhi đã biết học cách quan sát tử tế. Để phá án cần phải quan sát tử tế, chỉ như vậy mới tìm được dấu vết tội phạm."
Tống Vân Nhi đắc ý cười, lộ ra hàm răng chỉnh tề. Dương Thu Trì phát hiện, răng của Tống Vân Nhi và đường tỷ Tống Tình của nàng vô cùng đẹp và giống nhau.
Dương Thu Trì tiếp tục nói: "Căn cứ vào bọt nhớt trào ra trên miệng mũi người chết và cát sông trong móng tay, sơ bộ phán đoán là còn sống bị tống vào nước, đương nhiên để đưa ra khẳng định, cần phải kiểm tra thêm 1 bước nữa."
"Kiểm tra thêm một bước nữa?" Tống Vân Nhi kỳ quái hỏi.
"Cái này.... quá phức tạp rồi, sau này sẽ nói cho muội biết." Dương Thu Trì lấp liếm, sau đó tiếp tục kiểm tra thi thể.
Không phải hắn thừa nước đục bỏ cho qua chuyện, mà là hắn không có cách nào nói cho Tống Vân Nhi biết, nhân vì bước kiểm tra kế tiếp là phải giải phẫu thi thể. Kinh qua giải phẫu, nếu như phát hiện trong đường hô hấp của người chết có dị vật hay cây cỏ dưới nước gì đó, hoặc là trong đường hô hấp xuất hiện hiện tượng ho hen kịch liệt tạo thành sự sưng tấy ở lớp niêm mạc, cộng thêm phế quản bị sưng phù đầu nước, hay là trong dạ dày phát hiện nước sông hoặc thậm chí là cát sông tảo rong gì đó, thì có thể tiến thêm một bước phán đoán người này bị chết ngộp.
Bởi vì chỉ có người sống có hành vi hô hấp mới tạo thành loại kết quả này. Người chết không hô hấp, do đó nước chỉ tiến vào đến khoang mũi khoang họng hay đến phần đầu của đường hô hấp, không thể nào đạt đến phế quản, phổi hay trong bao tử.
Ngoài ra, giải phẫu thi thể còn có một nhiệm vụ trọng yếu khác, đó là kiểm tra xem trong nội thể của người chết có tảo cát hay không. Nếu như trong các khí quan nội tạng của người chết phát hiện nhiều phù du sinh vật dạng tảo cát, thì cơ bản có thể khẳng định đó là chết do ngộp nước.
Đương nhiên, ở thời cổ đại không thể tiến hành giải phẫu. Dương Thu Trì không chuẩn bị mạo hiểm, do đó không thể nói cho Tống Vân Nhi biết.
Tuy không thể giải phẫu thi thể, vẫn cần phải tiến hành những biện pháp hóa nghiệm tất yếu. Bước kiểm tra quan trọng nhất trong việc khám nghiệm tử thi bị chết ngộp là phải kiểm tra tảo cát (diatom, thực vật đơn bào, là một dạng phù du sinh vật sống trôi nôi ở sông hồ hay ở biển). Và đây là cứ liệu y khoa tham khảo trọng yếu để truy tìm địa điểm rơi vào trong nước.
Tảo cát là thứ phù du sinh vật mắt người không nhìn thấy được ở trong thủy vực, đa số là thực vật đơn bào, có thể theo nước bị người chết đuối hít vào khí quản và phổi, rồi thông qua sự tuần hoàn trong nội tạng mà phân bố ra toàn thân. Nếu như người chết rồi mới bị quẳng vào trong nước, do người chết không hô hấp, do đó tảo cát trong nước sẽ không tiến nhập được vào cơ thể người. Từ đó, có thể từ việc phát hiện có tảo cát trong nội tạng của con người để chứng minh người này còn sống rồi bị dìm xuống nước chết.
Đương nhiên, đây không phải là tuyệt đối, cũng có tình huống không bị chết đuối mà vẫn kiểm tra được tảo cát trong nội thể, nhân vì tảo cát không những tổn tại ở trong nước, mà còn ở những chỗ đất ẩm ướt, hay không khí ẩm thấp và trong thực vật.
Tiến hành kiểm nghiệm tảo cát còn có một tác dụng trọng yếu khác, là mượn việc này để tìm kiếm địa điểm người chết rơi vào nước.
Tảo cát đại khái có khoảng hơn một vạn năm nghìn loại. Trong một dòng sông, ở những thủy vực khác nhau sẽ có chủng loại tảo cát và số lượng hoàn toàn không tương đồng. Cái mà Dương Thu Trì định làm là nếu tìm được tảo cát trong nội thể của người chết, sẽ tiến hành xác định chủng loại, số lượng đơn vị, sau đó thu mẫu nước ở các vùng khác nhau ở dòng sông này tiến hành kiểm tra, nhằm tìm điểm tương đồng giữa hai bên để xác định địa điểm rơi vào nước.
Hàm lượng tảo cát trong các cơ quan nội tạng của cơ thể con người sẽ khác biệt nhau, chủ yếu tập trung ở phổi, gan, tim và mạch máu, thận, ruột đều có. Nhưng mà, nội tạng khác nhau sẽ có hàm lượng khác nhau, do đó kết quả kiểm tra ra sẽ rất khác biệt. Nếu như ở trong phổi có thể kiểm được 100%, thì ở ruột chỉ có 14% khả năng kiểm tra ra.
Vì thế, lý tưởng nhất là giải phẫu lấy phổi và gan tiến hành kiểm nghiệm. Tuy ở thời cổ đại không thể làm chuyện mổ xác lấy mẫu này, nhưng nó không làm khó được Dương Thu Trì, vì trong răng của người chết đuối vẫn có thể tìm được tảo cát.
Do đó, Dương Thu Trì lấy một cái răng của người chết để tiến hành kiểm nghiệm sau.
Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì không chịu nói, chề môi chép miệng tiếp tục xem Dương Thu Trì kiểm tra thi thể.
Hắn kiểm tra mô mắt của ngươi chết, phát hiện đã vẫn dục trầm trọng, da tay da chân đã trượt ra. Kết hợp với tình huống thi ban và sự hủ bại với thân thể mà phán đoán, thời gian tử vong đại khái cách khoảng hai ngày.
Khi kiểm tra thi cương, phát hiện hiện tượng cương cứng của cơ thể đã bắt đầu thuyên giảm. Vừa rồi phán đoán thời gian tử vong của người chết đại khái khoảng hai ngày, trong khi đó ở mặt đất, hiện tượng thi cương phải đợi đến ba ngày mới hoãn giải. Điều này là do sự khác biệt ở người bị chết đuối: do họ giãy giụa kịch liệt, co giật, các cơ vận động cực độ trong lúc giãy chết, cho nên hiện tượng thi cương sẽ phát sinh sớm hơn, và tương ứng với nó là hiện tượng hoãn giải sẽ xuất hiện sớm hơn.
Kiểm tra vẻ ngoài của thi thể, phát hiện có một dấu vết xây xát rất nhẹ, không đủ dẫn đến sự tử vong của con người, xem ra là trong lúc thi thể trôi trong nước đã va chạm với nham thạch tạo thành. Ngoài ra, trên thi thể còn có một số vết thương nhỏ nhợt nhạt, giống như bị cá nhỏ hay gì đó cắn.
Cổ của người chết có một sợi xích sắt nhỏ, đầu sợi xích này nối vào một khối đá. Dương Thu Trì cẩn thận kiểm tra cổ của người chết.
Tống Vân Nhi chồm tới nhìn, hỏi: "Ca, phát hiện được gì không?"
Dương Thu Trì sờ cằm ngẫm nghĩ, nói: "Cổ người chết tuy có sợi xích sắt ma sát để lại dấu vết xuất huyết dưới da, nhưng không có dấu bóp cổ. Hơn nữa do xích sắt chỉ tròng cổ mà không xiết chặt, nên những vết thương do ma sát này có thể là do lúc người chết giãy giụa cọ vào gây ra, không là nguyên nhân gây tử vong."
"Về biểu hiện, không có dấu vết ngoại thương rõ ràng, chẳng lẽ người này bị người ta cột vào đá dìm xuống nước chết tươi? Hay là y tự sát?" Tống Vân Nhi cũng học theo mô dạng của Dương Thu Trì, sờ cằm trầm ngâm, ra vẻ rất lão luyện.
"Vẫn chưa thể kết luận về khả năng này, nhân vì chí ít bề mặt của thi thể còn có một chỗ nữa chưa kiểm tra, cần phải tiến hành trước rồi nói sau." Dương Thu Trì cẩn thận vạch tóc nạn nhân, đột nhiên dừng phắt lại: "Trên đầu của người chết có vết nứt da!"
"Để muội xem!" Tống Vân Nhi chồm tới nhìn, quả nhiên hậu não của người chết có một vết nứt dài khoảng một lóng tay, mở hoác miệng, có thể nhìn thấy xương sọ trắng hếu.
Dương Thu Trì trước hết ước lượng kích thước của vết thương, sau đó cẩn thận xác định cách tạo thành vết thương, rồi ồ lên một tiếng.
"Sao sao?" Tống Vân Nhi nhìn chằm chằm vào vết thương, nhìn tả nhìn hữu mà không hiểu đó có gì lạ.
Dương Thu Trì nhìn Tống Vân Nhi, bảo: "Vân nhi, muội theo ta lâu như vậy, ta cũng đã dạy qua muội cách xác định vết thương. Muội xem xem, vết thương của người chết này bị cái gì gây ra vậy?"
Tống Vân Nhi đưa đầu lại gần hơn, quan sát một lúc lâu, đáp: "Không giống như bị đao chém."
Dương Thu Trì gật đầu tán thưởng: "Vì sao?"
"Huynh trước đây đã có nói qua, duệ khí thương (vết thương do vật bén tạo ra) thường láng ngọt, bên trong vết thương không bầy nhẩy, trong khi vết thương này đâu có trơn tru gì mấy đâu." Trí nhớ của Tống Vân Nhi rất tốt, những từ ngữ chuyên môn của pháp y trước đây Dương Thu Trì nói qua nàng đều nhớ hết, thậm chí biết ứng dụng vào thực tế nữa.
"Không tệ!" Dương Thu Trì khen: "Vết thưong này đích xác không phải là do vật bén gây ra."
"Vậy thì nó được tạo ra từ cái gì?"
Dương Thu Trì dùng đao giải phẫu cắt da đầu ở hai bên vết thương, lộ ra miệng vết thương, dùng khăn lau lau qua xương sọ, nói: "Chú ý này, ở đây có một vết rạn xương sọ nho nhỏ, vết rạn này không có dấu trầy hai bên. Do xương đầu người có độ cứng tương đương với đồng, hung khí này lại không lưu lại dấu vết gì trên xương sọ, chứng minh độ cứng của nó sẽ phải kém hơn đồng, có khả năng là do gậy gỗ hay gì gì đó tương tự tạo ra."
"Gậy gỗ? Gậy gỗ làm sao chém ra vết thương được?"
"Gậy thường thường tròn, rất khó tạo thành vết thương thế này. Có thể là gậy gỗ này có hình lăng, có góc có cạnh."
"A!" Bấy giờ thì Tống Vân Nhi đã lý giải, nhưng lại hỏi tiếp: "Vậy người này có phải là bị gậy gỗ hình lăng đánh chết không?" Nhưng nàng lại nghĩ ngay đến lời Dương Thu Trì vừa nói, người này là còn sống bị rơi vào nước chết ngộp, sao lại có thể bị gậy gỗ đánh chết được? Cho nên nàng vội cải chính: "Không, xem ra là y bị gậy gỗ đánh hôn mê xong rồi bị cột vào đá để chìm xuống sông ngộp chết, đúng không?"
"Ừ, một cú đánh bằng gậy của hung thủ này dù tạo ra vết rạn xương sọ cho nạn nhân, có thể dẫn đến chấn động não hoặc xuất huyết trong não, nhưng từ tình huống đả kích này mà xét, thì không có khả năng dẫn đến sự tử vong tức khắc cho người chết. Căn cứ vào kiểm nghiệm thi thể vừa rồi mà xét, thì nạn nhân bị ngộp chết, cho thấy sau khi người bị hại bị trúng một gậy, rồi trước khi bị quăng vào nước vẫn còn sống."
"Huynh tìm được manh mối của hung thủ chưa?"
Dương Thu Trì cười khổ: "Muội sao mà gấp thế, ta đâu có phải là thần tiên, làm gì loáng cái mà biết được hung thủ là ai a? Nhưng mà, ta đã có được phương hướng phá án rồi."
"Thật không? Phương hướng gì?" Tống Vân Nhi hỏi gấp.
Dương Thu Trì bước đến cạnh bờ sông, quan sát tốc độ nước chảy, nói: "Tuy cổ người chết có cột xích sắt nối với tảng đá, nhưng tảng đá này không quá nặng, hơn nữa nước của sông Ba này hơi xiết, xem ra thi thể đã trôi xuôi dòng. Hay nói cách khác, địa điểm rơi xuống nước nhất định là chỗ nào đó ở thượng du, nhưng không xa mấy."
Tiếp theo đó, hắn ra lệnh cho bộ khoái men ngược theo bờ sông cẩn thận tìm kiếm coi có huyết tích hay có dấu vết đánh đấu gì đó hay không. Ngoài ra, lại cho người dùng bình lấy nước ở chỗ này cùng nước ở từng đoạn cự li theo đó, và phải ghi chú rõ ràng là lấy được ở chỗ nào.
Tống Vân Nhi kỳ quái hỏi: "Huynh bảo họ lấy nước sông về làm cái gì?"
"Vừa rồi ta chẳng phải nói rồi sao, là kiểm nghiệm thêm một bước nữa a."
"Hả? Kiểm nghiệm thế nào, muội xem được không?"
Dương Thu Trì lắc lắc đầu: "Không được." Lòng nghĩ, đừng nói gì để nàng nhìn thấy mấy cái cốc bê-se (cốc chịu nóng, dùng trong phòng thí nghiệm), ống nghiệm, máy li tâm, các loại thuốc thử, chỉ cần để nàng nhìn thấy kính hiển vi và thế giới thông qua kính hiển vi này, nói không chừng sẽ khiến nàng ta sợ chết, và nói không chừng sẽ khiến thiên hạ đại loạn chứ không chơi.
Dương Thu Trì cười cười, trở lại cạnh thi thể, cúi người xuống quan sát sợi xích sắt mỏng ở cổ người chết, ra chiều suy nghĩ, sau đó tháo gỡ nó cất đi.
Sau khi khám tra xong, Dương Thu Trì cho Kim sư gia giám đốc ngỗ tác điền tả thi cách, rồi cho ngỗ tác vận chuyển thi thể về liệm phòng của nha môn, còn bản thân thì dẫn theo Tống Vân Nhi khởi kiệu về trước.
Trờ về nha môn xong, Dương Thu Trì giam mình trong thư phòng. Giống như ở Thanh Khê huyện, ở nha môn của Ba châu tri châu này, Dương Thu Trì cũng sắp xếp thư phòng thành một phòng công tác pháp y cho mình, ngày thường khóa cửa lại, không cho bất kỳ ai vào.
Tuy hắn đã xuyên việt đến Minh triều gần một năm rồi, nhưng những thuốc thử pháp y không bị tiêu hao bao nhiêu. Và ngoại trừ máy kiểm nghiệm DNA và các thiết bị phân tích độc chất bị cự thạch đè bẹp dí dưới xe ra, những thiết bị khác vẫn còn bảo tồn nguyên vẹn trong tủ hợp kim to tướng của hắn.
Trước khi Dương Thu Trì xuyên việt đến Minh triều, hắn được cử đi phụ trách kiến lập một trung tâm kiểm nghiệm pháp y vật chứng chính quy cho công an địa khu A Lý ở Tây Tạng. Do đó, chiếc xe tải hắn ngồi mang theo một lượng lớn những dụng phẩm khám nghiệm pháp y dễ tiêu hao. Nó đi cùng với hắn đến Minh triều, nếu chỉ đơn thuần dùng cho một người để phá án, thì sử dụng mấy chục năm cũng không hết, hơn nữa do được bao bọc cẩn thận, nên về lý luận thì sẽ không bị hư, chỉ cần hắn dùng theo kiểu cuốn chiếu, tiết kiệm và cẩn thận thế thôi.
Ngoài ra, cùng xuyên việt đến đây còn có máy tính xách tay, trên đó ngoài trừ có nhiều hình ảnh và phim người lớn, thì còn có mấy phần mềm pháp y thường dùng. Hắn còn có một bộ pin tích điện mặt trời công suất lớn vốn được trang bị khi suy xét đến khả năng cung ứng điện không tốt của địa khu A Lý Tây Tạng. Hiện giờ nếu dùng nó để cung cấp điện cho máy tính và sạc pin máy chụp kỹ thuật số thì rõ ràng đủ dư. Còn về vấn đề hư hao, thì dĩ nhiên cẩn thận, sử dụng đúng cách, và cầu cho chất lượng của số máy móc này đúng như lời hứa của các nhà bảo!
Dương Thu Trì kiểm tra răng của người chết, và may mắn phi thường khi hắn tìm được tảo cát trong răng, xác định được chủng loại và số lượng đơn vị.
Bộ khoái trở về, báo cáo là không phát hiện được dấu vết có giá trị gì, chỉ mang về một số bình nước sông.
Kinh qua kiểm tra, Dương Thu Trì thật thất vọng, vì không có chỗ nào có tảo cát tương đồng với thứ tìm được trong răng.
Quái lạ! Chẳng lẽ người chết trôi từ mười dặm xuống đến đó? Không đúng, Dương Thu Trì quan sát thủy lưu của con sông Ba này rồi, cổ của người chết lại có cột đá, trong thời gian hai ngày không thể nào trôi quá mười dặm. Như vậy vì sao kiểm tra phù du sinh vật trong nước vùng này lại không tìm được chỗ tương đồng nào?
Dương Thu Trì hơi trầm ngâm, lập tức biết nguyên nhân, không khỏi bật cười: Con sông Ba này chẳy xiết do đó tảo cát ở thủy vực này không ngừng biến hóa, còn hắn thì đi lấy nước của hôm nay mà đi phân tích tình hình tảo cát của hai ngày trước, chẳng phải là mò trăng đáy nước hay sao?
Thứ so sánh tay này thường chỉ dùng cho những vùng nước tương đối tĩnh, ví dụ như hồ hay ao, từ đó mới xác định được địa điểm rơi xuống nước. Sử dụng ở những dòng nước lưu chuyển thì chẳng có ích gì, hắn không ngờ trong lúc vội vã lại quên một điều rất cơ bản này!
Nghĩ thông đạo lý trên, Dương Thu Trì không vui chút nào. Nếu như không thể tiến hành kiểm tra tảo cát để xác định địa điểm rơi xuống nước, thì làm cách nào tìm được địa điểm đó bây giờ?
Bùn đáy sông! Đầu óc Dương Thu Trì lại chuyển, nghĩ ra biện pháp giải quyết khác. Dùng bùn đáy sông trong móng tay của người chết tiến hành kiểm tra, sau đó lấy mẫu bùn đáy sông trong phạm vi mười dặm tiến hành kiểm tra so sánh, cũng có thể tìm được đại khái địa điểm rơi xuống nước.
Biện pháp đã nghĩ ra, nhưng vấn đề khác lại xuất hiện. Đó là trong tay hắn không có thiết bị kiểm tra bùn đất, thì làm sao mà kiểm tra?
Dương Thu Trì nhíu tít mày, ngẫm nghĩ một hồi, quyết định trước hết tiến hành quan sát bùn đáy sông một chút thông qua kính hiển vi, để xem coi có phát hiện được gì hay không.
Hắn đến liệm phòng, lấy vật còn dính trong kẽ móng tay của người chết, mang trở về tiến hành quan sát dưới kính hiển vi.
Kinh qua quan sát, Dương Thu Trì phát hiện một điểm trăng trắng nhờ, quan sát kỹ hơn, dường như nó không phải là một vụn đá trắng.
Là cái gì nhỉ? Màu trắng khiến Dương Thu Trì nhớ tới một câu cổ thi trứ danh: "Phấn thân toái cốt hồn bất phạ, yếu lưu thanh bạch tại nhân gian" (Thịt nát xương tan lòng chẳng sợ, chỉ lưu trong sạch lại nhân gian). Chẳng lẽ đây là vôi? Dương Thu Trì vội vã lệnh cho bộ khoái đi lấy chút vôi ngâm vào trong nước một đoạn thời gian, rồi lấy một chút để dưới kính hiển vi quan sát, quả nhiên tương tự với điểm trăng trắng nhờ trong kẽ tay của người chết!
Chính là vôi!
Vôi? Chẳng lẽ trên thượng du của dòng sông Ba này có lò nung vôi? Người chết xuống nước ở vùng gần lò nung vôi này?
Dương Thu Trì nhanh chóng gọi các quan phó lên hỏi, quả nhiên biết ở một chỗ không xa có thôn tên là Lục Lý có một lò vôi.
Dương Thu Trì lập tức ra lệnh xuất phát đến lò vôi đó. Tống Vân Nhi kinh ngạc vô cùng, hỏi: "Huynh mới đó mà đã phát hiện ra tung tích tội phạm rồi sao?"
"Không hề phát hiện tung tích tội phạm, chỉ tìm được chỗ mà người chết có khả năng rơi xuống nước. Chúng ta hiện giờ đi tra xét một chút coi có phát hiện được gì hay không."
Dương Thu Trì phân công ngỗ tác mang y phục và chiếc khăn trong túi của người chết theo, rồi mang theo thiếp thân tiểu nha hoàn Sương nhi và Tuyết nhi, Tống Vân Nhi cùng các hộ vệ, bộ khoái dọc theo sông Ba ngược dòng mà tiến.
Đi được năm sáu dặm, quả nhiên nhìn thấy một lò vôi ở cạnh sông. Dương Thu Trì cẩn thận quan sát xung quanh, không hề phát hiện được điều gì dị thường.
Hắn ngước mắt nhìn về thượng du, thấy cách đó không xa có một thôn trang, nhà xây thành quần, trên thôn còn có một rừng trúc xanh rì trải khắp triền núi, thành một biển trúc xanh ngắt hấp dẫn phi thường.
Dương Thu Trì cùng mọi người đi thẳng đến thôn đó, tiến vào cửa thôn đã nghe tiếng nữ nhân khóc lóc thảm thiết liền lệnh cho bộ khoái đi gọi lý chánh của thôn ra.
Lý chánh của thôn này tên gọi là Tô Nhân Phúc, biết là có tri châu đại nhân đến liền vô cùng hoảng sợ, vội vã chạy đến cung thân thi lễ.
Dương Thu Trì hỏi: "Tiếng phụ nữ trong thôn khóc đó là vì cái gì?"
Tô lý chánh thưa: "Nam nhân của ả mấy ngày trước vào thành bán trâu mãi không thấy về, ả mang con vào thành tìm nhưng cũng không tìm được."
Dương Thu Trì bảo Tô lý chánh: "Ngươi đi gọi phụ nhân đó đến đây."
"Dạ!" Tô lý chánh đáp ứng, chuyển thân chạy lúp xúp vào thôn. Chẳng mấy chốc sau, một nông phụ u sầu bi thảm theo Tô lý chánh nhanh chân đi đến, theo sau còn có rất nhiều thôn dân đi xem náo nhiệt.
Phụ nhân đó đến trước mặt Dương Thu Trì quỳ xuống.
"Ngươi tên là gì?" Dương Thu Trì hỏi.
"Dân phụ Ngô thị?" Nông phụ nghẹn ngào thưa.
"Phu quân của ngươi ra ngoài hai ngày chưa về, đúng không?"
"Dạ, dân phụ hỏi chỗ chợ trâu ngựa trong thành, đều nói là có thấy tối hôm kia chàng ấy bán xong trâu rồi, cầm một bao tiền ăn cơm uống rượu xong rồi đi. Nhưng mà cho đến tận bây giờ vẫn chưa về, chỉ sợ... chỉ sợ... hu hu hu."
Dương Thu Trì lấy khăn tay từ chỗ ngỗ tác giơ ra cho Ngô thị xem: "Ngươi xem xem có nhận ra cái khăn này không?"
Ngô thị ngẩng đẩu, nhìn vào cái khăn trong tay Dương Thu Trì, đột nhiên run bắn toàn thân, bước tới cẩn thận tiếp lấy khăn, lật qua lật lại, cuối cùng nhìn vào chữ Lý nho nhở ở góc, run giọng nói: "Là... là của phu quân tôi... Đây là cái khăn do dân phụ thêu cho chàng ấy. Đại lão gia, phu quân của tôi... chàng ấy có phải là có chuyện rồi không?"
Dương Thu Trì quay lại ra dấu cho ngỗ tác, bảo ngỗ tác mang y phục của người chết giao cho Ngô thị. Sau khi Ngô thị xem xong, càng kinh hãi hơn: "Là y phục của phu quân tôi, chàng... chàng ấy rốt cuộc bị sao rồi?"
Dương Thu Trì thở dài, hắn sợ nhất là đem tin buồn báo cho người thân của nạn nhân, hắn sợ thấy ánh mắt tuyệt vọng của họ.
Kim sư gia đáp thay Dương Thu Trì: "Phu quân của ngươi đã bị chết đuối rồi, thi thể hiện giờ đang được lưu giữ trong liệm phong của nha môn, chờ một lát đại lão gia hỏi đầu đuôi mọi chuyện xong, ngươi hãy cùng chúng ta đến nhận."
Ngô thị sửng cả người, hoảng loạn lắc lư, hai mắt trợn tròn, mềm nhũn ngã vật xuống đất ngất đi.
Tống Vân Nhi vội bước đến nới lỏng áo quần của nàng ta, rối bấm huyệt nhân trung một hồi Ngô thị mới mơ màng tỉnh lại, nằm phục dưới đất khóc ròng.
Đến lúc này, từ trong đám người xem náo nhiệt chợt chạy ra hai tiểu hài, cất tiếng gọi mẹ rồi cũng phục xuống đất ôm chầm lấy Ngô thị.
Tô lý chánh đã gọi dân tráng trong thôn khiêng ra một ghế thái sư, đặt ở dưới một cây quế lớn ngay cửa thôn, rối bày ra một bàn trà, khúm núm mời Dương Thu Trì đến ngồi hỏi án.
Mặt trời chói chang trên đỉnh đầu, hai nha đầu Sương nhi và Tuyết nhi đứng sau lưng Dương Thu Trì không ngừng quạt lấy quạt để . Từ khi dự buổi sơn ca ở Miêu trại, Dương Thu Trì mỗi khi ra ngoài đều rất thích mang hai chị em song sinh này theo, lần này đương nhiên không ngoại lệ.
Hắn hiềm quạt của hai chị em còn chưa đủ mát, tự cầm lấy quạt giấy phất lia lịa, nhưng vẫn bị cái oi bức làm cho túa mồ hôi dầm dề. Hiện giờ nghe Tô lý chánh mời thế, hắn nhìn về phía cây Quế, cao hứng gật gật đầu, ra hiệu cho Tống Vân Nhi rồi đi tới ghế thái sư dưới đó ngồi xuống.
Bóng cây quế này quả thật là mát mẻ, Sương nhi và Tuyết nhi thở phào, gạt mồ hôi trên trán, rồi nhẹ quạt tiếp cho Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì thấy Sương nhi vì nắng nóng mà hai má đỏ bừng, mồ hôi không ngừng ứa ra ướt đầm đìa cả trán, liền quay quạt phe phẩy quạt cho cô bé. Sương nhi được thế càng đỏ mặt hơn, hỗ tương nhìn Tuyết nhi, mỉm cười thưa: "Lão gia, ngài đừng có làm như vậy, bọn tiểu nha đầu chúng em không đảm đương nổi đâu."
Dương Thu Trì định nói mấy câu, chợt thấy Tống Vân Nhi đỡ vị nông phụ đang khóc ròng kia bước đến, liền nghiêm mặt lại chuyển thân ra ý bảo Tô lý chánh mang một cái ghế cho nông phụ ngồi.