Ghi chú đến thành viên
Ðề tài đã khoá
 
Ðiều Chỉnh
  #51  
Old 15-07-2008, 02:25 PM
haitc's Avatar
haitc haitc is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: May 2008
Bài gởi: 548
Thời gian online: 1 ngày 15 giờ 54 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 191 Times in 137 Posts
Chương 48
Tin Dữ Đến Trường An


Trường An Thành.
Được xem như là một Kinh sư thứ hai của Trung hoa suốt bao nhiêu triều đại.
Thành Trường An, ngoài đầu não trung khu về binh lực của năm tỉnh miền Tây, còn là một nơi có nhiều danh lam thấng cảnh, nhờ thế, nó cũng là nơi buôn bán làm ăn, khách thương tụ tập, cực kỳ phồn thịnh.
Nhưng trong mấy ngày liên tiếp, thành Trường An bỗng có nhiều chuyện lạ lùng.
Nhiều đoàn kỵ mã, tốp năm tốp ba ruổi về từ phương Bắc, người thì xơ xác, ngựa thì bụi hồng nhuộm đỏ màu lông...
Dân chúng trong thành rất ít ra đường, họ nhìn nhau bằng đôi mắt nghi ngờ sợ sệt, họ dự trữ lương khô, họ cột chặt hành trang như chuẩn bị cho một cuộc thiên cư...
Tiệm ăn quán rượu thì trái lại, khách có lại nhiều hơn, nhưng không phải thứ khách danh thời đến để vui say, họ toàn là người phương xa, phần đông là khách giang hồ.
Họ tụm năm tụm ba xầm xì bàn tán, họ không nói lớn và mắt họ láo liên, không khí vô cùng bí mật đầy hăm doạ.
- Lạ lắm, toàn đạo sĩ, đạo cô...
- Có giống như hôm trước không...
- Y hệt, tiện ngang ngọt xớt. "Tử Kim Đao" mà.
- Không thấy ngoài đường?
- Không, đâu phải như lần trước, lần này chết từng chỗ kín đáo. Đàn ông đàn bà trần truồng như nhộng, đang hú hí với nhau mà!
- Sao bảo là đạo sĩ đạo cô?
- Chớ sao, vậy mới nói.
- Đạo sĩ, đạo cô mà... làm bậy với nhau.
- Trời đất, "Bạch Liên Giáo" mà, đó là chuyện cơm bữa của họ chớ đâu mới mẻ gì!
- Sao nghe nói có áo vàng nữa?
- Thì đám thuộc hạ Lý Tự Thành.
- Họ làm gì bị giết vậy hé?
- Hỏi giả bộ hoài... (giọng người nói càng thấp xuống hơn nữa) thì theo Mãn Châu chứ còn làm gì?
- Vậy còn đám áo trắng?
- Đám Hải Hoàng của "Cúc Hoa Đảo".
- Cũng theo Mãn Châu?
- Ta đã nói thành Trường An này bây giờ tất cả mọi chuyện đều cũng do một gốc ấy thôi.
Người kể chuyện ngó dáo dác rồi xổm tới như muốn kề tai:
- Nè, đừng có bậy nghe hôn, tôi có thằng em họ làm với gián điệp Mãn Châu cho biết hình như người cầm đầu của chúng tại Trường An bị tội...
- Ủa, nghe nói người ấy là một cô gái Hoàng Tộc Mãn Châu tài ba quyền thế dữ lắm mà!
- Người dưới còn người trên chớ. Nghe nói còn một người "cộm" lắm, cũng có mặt tại Trường An rồi, "Cửu Vương Gia" lận nghe.
Như để đáp lại sự tiết lộ "thân tình", người nghe dòm quanh rồi thấp giọng:
- Nè đi rồi.
- Ai?
- Dương Đô Đốc.
- Đi đâu?
- Nghe nói nửa đêm có mật chỉ. Hình như mặt trận miền Bắc nguy lắm. Không biết có giữ nổi Trường An hay không?
- À nè, có biết người cầm đầu gián điệp Mãn Châu bị tội gì không?
- Nghe nói tư thông với một nghĩa sĩ Minh Triều, người đó tên là Lý Đức Uy, con nuôi của “Ngân Bài Lệnh Chủ” Bố Y Hầu, quyền thế dữ lắm, nghe nói Dương Đô Đốc giữ được Trường An và năm tỉnh miền Tây nầy mấy lúc nay nhờ người ấy đó.
- Dương Đô Đốc đi thình lình như vậy ai lo ở đây he?
Cả quán vùng im bặt, bên ngoài vó ngựa khua rập, một tốp kỵ sĩ đổ ngay trước quán.
Tiếng bước chân trên những đôi ủng cao tới gồi nặng nề và những thanh đao sáng loáng bên mình của họ mang theo vào quán một không khí hơi khó thở, thực khách lo đứng dậy trả tiền rồi lật đật bước ra ngay.
Còn lại những người hiếu kỳ, lỳ lợm vẫn ngồi lại, nhưng họ cắm đầu ăn uống, họ làm việc bằng hai lỗ tai.
Đêm đã về khuya, từ phía sau “Cựu Hoàng Cung” nơi mà gai gốc mọc cỏ hoang ngập lối, chợt vang lên nhiều tiếng rú, đàn ông cũng có, đàn bà cũng có, tiếng rú ngắn ngủn nhưng kéo dài từ chỗ này sang chỗ khác y như đường đao bay thật nhanh và “tiện” ngã nhiều người cùng một lúc ở khoảng cách xa nhau.
o O o Dương Mẫn Tuệ đã lau khô nước mắt, thế nhưng mí mắt của nàng hãy còn đỏ hoe.
Lý Đức Uy bước vào, hắn nói bằng một giọng bình tĩnh lạ lùng:
- Dương muội, đói quá rồi.
Tổ Thiên Hương liếc hắn bằng tia mắt vừa cảm thông và kính phục, nàng nói:
- Người làm của tiểu muội đã phân ra cả rồi, để tiểu muội đi làm cơm.
Trầm Ngọc Hà nói:
- Tôi biết làm để tôi phụ với Tổ cô nương.
Hai người đi rồi, Dương Mẫn Tuệ bước lại gần hỏi Lý Đức Uy:
- Sao không tiễn nàng một khoảng xa xa?
Với tay lên kệ sách, cầm lật lật trên tay, Đức Uy đáp:
- Tôi thấy không cần như thế.
Xếp quyển sách lại đặt trở lên kệ, giọng Đức Uy thật thấp:
- Tiểu muội, ngu huynh đâu phải thần thánh gì, nhưng hiện tại trong mình còn trách nhiệm quá nặng nề, không thể nào làm khác hơn được nữa!
Trầm ngâm một lúc khá lâu, Mẫn Tuệ ngẩng mặt lên nói:
- Thật không hiểu tại sao trời lại khiến cho anh đến Trường An, nỗi vui thì ít mà nỗi buồn quá nặng!
Đức Uy làm thinh, hắn qua mình ngồi trở xuống ghế lặng lờ...
o O o Cơm vừa xong là Lăng Phong đến. Người thanh niên ưu tú của “Cùng Gia Bang” mang đến hai tin:
Thứ nhất, đoàn nhân Mãn Châu đã rời Trường An đi về hướng về Tây Nam, hắn đi theo mãi đến tận Hàm Dương mới xác định và trở lại.
Tin thứ hai là chỉ thị từ tổng đàn "Cùng Gia Bang" bảo Phân Đường Trường An phải tìm cho kỳ được "Tử Kim Đao" La Hán để đòi cho xong món nợ mà hắn đã gia hại anh em "Cùng Gia Bang" hôm trước.
Ngồi im lặng nghe Lăng Phong nói, hình như cái tin sau làm Lý Đức Uy chú ý, hắn nói:
- Lăng huynh đệ, chỉ thị của tổng đàn thì do báo cáo trước của Phân Đường, riêng thơ của tôi thì chưa tới nên tổng đàn chưa phúc đáp, vậy Lăng huynh đệ hãy về nói lại, bảo rằng tôi yêu cầu Đào Đường Chủ nán lại vài hôm rồi sẽ thi hành chỉ thị.
Lăng Phong cúi mình:
- Thiếu hiệp đã dặn thế thì nhất định Đào Đường Chủ và anh em đều sẽ tuân theo.
Đức Uy gật đầu:
- Đa tạ Lăng huynh đệ, còn về tin thứ nhất thì huynh đệ thấy thế nào?
Lăng Phong đáp:
- Chuyện trọng đại quá nên tại hạ không dám phỏng đoán.
Mẫn Tuệ vụt hỏi:
- Lăng thiếu hiệp có thấy Thất Cách Cách không?
- Lăng Phong trố mắt:
- Thất Cách Cách?
Biết Lăng Phong không hay việc Thất Cách Cách không chịu ở đây, nên Mẵn Tuệ nói cho hắn biết chuyện nàng cương quyết trở về với Mãn Châu dầu có đền tội chết cũng không chịu ở, vì nàng đã là Hoàng Tộc Mãn Châu mà lại mang trọng trách trong mình, chuyện tư giao giữa nàng và Lý Đức Uy không thể xoá được giới tuyến.
Lăng Phong lắc đầu:
- Không thấy, đoàn người của họ nhiều cổ xe lắm, mà xe nào cũng mui phủ bít bùng, chắc Thất Cách Cách ngồi trên một trong những cổ xe ấy.
Mẫn Tuệ hỏi :
- Các hạ theo đến Hàm Dương?
Lăng Phong gật đầu :
- Qua khỏi Hàm Dương thấy chúng rẽ về hướng Tây Nam và tôi trở lại.
Mẫn Tuệ quay hỏi Đức Uy :
- Lý ca, phải chăng chúng triệt binh?
Đức Uy trầm ngâm :
- Cũng có thể, nhưng có điều lạ là không lẽ chúng lại đi không về rồi, lại buông bỏ Trường An và Tây Ngũ Tỉnh như thế hay sao?
Mẫn Tuệ nói :
- Chúng đã bị thất bại quá nhiều, hao tổn quá nhiều.
Đức Uy nói :
- Cũng mong như thế, tuy nhiên, sự việc trọng đại, chúng ta có những chứng cứ thiệt chắc chắn rồi mới dám quyết đoán.
Tự nhiên là Lăng Phong phải có đủ chứng cứ như Đức Uy vừa nói, vì chính hắn cũng thấy vấn đề trọng đại, hắn từ giã lui ra.
o O o Sáng ngày thứ hai, Lăng Phong lại mang đến hai tin :
Thứ nhất, đã có chỉ thị tiếp của tổng đàn "Cùng Gia Bang", ra lịnh cho Phân Đường Trường An huỷ bỏ hiềm thù với "Tử Kim Đao" La Hán, để cùng chung lo đại sự. Tất cả mọi việc đều phải theo ý kiến cua Lý Đức Uy.
Thứ hai, tất cả người của Mãn Châu quả nhiên triệt thoái, không những trong ngoài thành Trường An mà cho cả những vùng phụ cận chúng cũng không lưu lại một người nào.
Cả hai tin đó đều là tin vui, một là nội bộ của nghĩa sĩ giang hồ không vì chuyện nhất thời bị mê loạn của "Tử Kim Đao" La Hán mà làm cho sứt mẻ, nhất là về tin triệt thoái của Mãn Châu thì lại càng là tin khiến cho bất cứ ai cũng phấn chấn tinh thần.
Cái mối nặng trĩu bên lòng những người ái quốc bấy lâu nay tại Trường An là đoàn quân gián điệp hùng hậu của Mãn Châu mua chuộc đám thế phiệt mạnh nhất trong giang hồ để mưu đồ khuynh đảo, uy hiếp Tây Ngũ Tỉnh, trong khi tại biên thùy miền Bắc đại quân của chúng ào ạt tràn sang. Cái thế "lưỡng đầu thọ địch" đó đã làm cho triều đình và đám nghĩa sĩ giang hồ ăn ngủ không yên.
"Cùng Gia Bang" là số người có khả năng thu lượm tin tức nhiều nhất và chắc nhất, tin của họ đưa ra thì toàn chuyện không hề sai suyển.
Như vậy chuyện nặng như cục đá treo trong tim được xem như đã vứt ra, không biết nó được bao lâu, nhưng cũng như những người làm một công việc nặng nhọc suốt ngày, họ phải có thì giờ xã hơi, nếu không, trên đời chắc chắn không còn ai sống nổi.
Đêm tối đó Tổ Thiên Hương làm một buổi tiệc khá là thịnh soạn.
Là một cô con gái nhà phú hộ địch quốc, nhưng vốn là một người rất chuộng nữ công, bởi thế tuy chưa từng cực khổ, nhưng với một bữa cơm ngon lành nhất định là nàng rất đảm đang, huống chi bên cạnh nàng còn có Trầm Ngọc Hà, Dương Mẫn Tuệ, hai người này không thể một mình làm nên, nhưng vẫn phụ vào công việc lặt vặt mà bất cứ người thợ giỏi nào không thể thành công được một mình.
Trên bàn có thêm một bầu rượu để cho có vẻ gọi là "khánh chúc".
Cả bốn người bây giờ coi như tạm gác bỏ mọi vấn đề ưu tư, họ cùng ngồi vào bàn bằng tất cả vẻ mặt của sự hân hoan ở trong lòng.
Trần Ngọc Hà từ khi lìa Bạch Liên Giáo, được sự thương yêu thật tình của Mẫn Tuệ và Thiên Hương, bao nhiêu cái gì nhơ nhớp của bọn Bạch Liên Giáo tạo ra cho nàng kể như đã hoàn toàn rửa sạch.
Rượu tuy chỉ có một bầu nho nhỏ, nhưng vì không quen uống, phần vì sự vui mừng về tình hình cộng với lòng thương nhớ Thất Cách Cách, đã làm cho Thiên Hương và Mẫn Tuệ cũng có phần chếnh choáng.
Cả hai cùng với Trần Ngọc Hà, sau khi tiệc tàn, cùng đưa nhau vào phía hậu phòng, đó là chỗ dành riêng cho ba người con gái, chỉ có Lý Đức Uy là ở phía ngoài.
Cả một tư dinh của một Đô Đốc, thống lãnh toàn quân vụ miền Tây, bây giờ chỉ có bốn người, chỉ nghe qua cũng đủ thấy là hiu quạnh, nhưng thực sự thì khi còn Dương Đô Đốc ở đây, ngoài những tên cận vệ và đám quân sĩ gìn giữ bên ngoài, trong thơ phòng của ông ta cũng không bao giờ thấy ồn ào, cuộc sống của vị võ quan này thật là đạm bạc, kẻ hầu người hạ không có mấy người, tỳ thiếp cũng không.
Có thể nói là Dương Tông Luân là vị quan có cuộc sống đơn sơ nhứt của triều đại nhà Minh, ngoài một Bố Y Hầu đã lui về ẩn dật.
Giá như trong tay không nắm quyền binh của một Hữu Quân Đô Đốc thì ông ta không khác một vị chân tu là mấy.
Bây giờ thì chỉ có một mình Lý Đức Uy tại thơ phòng.
Hắn không uống rượu bao nhiêu, hơi rượu chưa có gì làm cho buồn ngủ mà hắn cũng chưa muốn ngủ.
Tình hình về ngoại xâm nội loạn tại Trường An đã lắng dịu, nhưng lòng hắn vẫn nằng nặng...
Chuyện tâm tình là một vấn đề làm cho không ai khỏi ray rức về đêm, thêm vào đó, tin tức về Dương Đô Đốc vẫn chưa thấy đưa về.
Bỗng lúc đó có người đưa tin là Lăng Phong bên Cùng Gia Bang sang cần gặp.
Lăng Phong vào gặp Đức Uy, hai người to nhỏ hồi lâu, lâu lâu lại thấy Đức Uy biến sắc.
Lát sau Lăng Phong vừa về thì Mẫn Tuệ bước vào, nàng hỏi:
- Ai vừa đến gặp Lý ca đó?
Đức Uy đáp:
- Lăng Phong vừa tới.
Mẫn Tuệ nhướng mắt:
- Thế mà chúng tiểu muội trên này lại không haỵ..
Đức Uy nói:
- Hắn cho tin bọn Mãn Châu đã đóng quân ở phía Bắc kinh thành, hình như chúng có một mưu định gì đó, thế nên ngu huynh phải thân hành đi xem sao.
Mẫn Tuệ hỏi:
- Lý ca định bao giờ mới khởi hành?
Đức Uy đáp:
- Đi ngay bây giờ.
Mẫn Tuệ ngạc nhiên:
- Sao lại gấp thế? Sáng mai không được sao?
Đức Uy lắc đầu:
- Dụng binh là thần tốc, trong trường hợp này lại càng phải gấp hơn vì sự an nguy chưa có gì bảo đảm, trễ đi nửa giờ là chuyện không thể nào cứu vãn.
Mẫn Tuệ nói:
- Chúng đang đi thì có gì cần phải xem xét, có thể dừng lại để tạm nghỉ, thế tại sao Lý ca không cho anh em "Cùng Gia Bang" tiếp tục theo dõi rồi sẽ định sau?
Đức Uy lắc đầu:
- Cứ theo Lăng Phong, thì không phải như thế, xem tình hình thì không giống có tạm nghỉ chân. Vả lại chúng đột ngột triệt thoái khỏi Trường An đã làm một vấn đề đáng nghi ngờ, nếu không đến tận nơi quan sát thì khó mà đối phó, một khi âm mưu của chúng bung ra.
Nói xong là hắn đứng lên.
Mẫn Tuệ vội hỏi:
- Bao giờ thì Lý ca trở lại?
Đức Uy đáp:
- Tôi cũng định nói để chư muội yên tâm, nếu có phát hiện được gì thì có lẽ mất đôi ba hôm.
Mẫn Tuệ nói:
- Chúng quá đông lại thêm có bọn Cúc Hoa Đảo cùng đi, trong tình thế đó Lý ca phải hết sức cẩn thận mới được...
Đức Uy cười:
- Ngu huynh đã có dự liệu rồi, chuyện đó không ngại lắm, vì đối với chúng, mình chỉ cần dùng trí chớ không dùng sức, vả lại nếu cần thì chạy chớ dại gì lại để cho chúng bắt được hay sao.
Mẫn Tuệ, Thiên Hương và Trần Ngọc Hà cùng cười, thật ra thì họ biết đó là lời nói thật.
Một khi mà Đức Uy định chạy thì nhất định chúng cũng không làm gì được chàng.
Đức Uy trầm ngâm một chút rồi nói tiếp:
- Trường An hiện tại xem bên ngoài thật là yên ổn, ẩn chứa nhiều bất trắc, nhất là không thấy bọn Lý Tự Thành động tịnh, điều đó càng khiến cho mình đáng phải lo âu, khi không có mặt ngu huynh chư muội phải hết sức đề phòng, nếu không có gì cần thì tốt hơn hết là Dương muội nên triệt để áp dụng "Sanh Khắc Mai Phục" để cố thủ Đô Đốc Phủ chớ đừng nên khinh động.
Mẫn Tuệ gật đầu:
- Tiểu muội biết, tại Trường An bây giờ cái yên tịnh có vẻ bất thường lắm, chúng tiểu muội không bao giờ bất ý đâu...
Đức Uy gật đầu:
Thật ra thì chỉ cần đề phòng cho đến mức tối đa, chớ ngay bây giờ thì còn có "Cùng Thần" Mông lão và "Tử Kim Đao" La hán cùng với Triệu Nghê Thường đang bí mật hổ trợ, chuyện ấy xảy ra chắc cũng không đến nỗi gấp trong vòng năm mười bữa gì đâu.
o O o Đồng Quan.
Trải qua không biết bao nhiêu triều đại từ trước đến nay, Đồng Quan vẫn là nơi hiểm địa.
Từ Linh Đài về hướng Tây, Đồng Quan toa. lạc xeo xéo phương Đông, từ Sơn Hào chạy dọc về Tây vòng qua Đồng Tân bao hết phía Nam thì gọi là Hàm Cốc. Cả một vùng rộng lớn như thế mà toàn là địa khu hiểm trở, các nước đánh nhau từ cổ đại đều ngán Đồng Quan, nơi đó vào đã khó, mà ra cũng không phải dễ.
Ngày xưa, Hớn Bát Công đã đánh lần vào Hàm Cốc, mà chỉ đánh Võ Quan, rồi khi từ Quang Trung đánh vào thì lại phá Tam Tần chiếm lấy Hàm Dương, làm cho binh của Hạng Võ đại bại, trong hai trận đó đủ nói lên thế Đồng Quan hiểm địa.
Lý Đức Uy chấp tay sau đít đứng bên bờ phía Bắc, nhìn thẳng ra giang khẩu, quần áo bám đầy lớp bụi đỏ đường xa.
Bên kia bờ là một bến đò nổi tiếng:
Bến Phong Lăng.
Nó là một trong năm bến lớn dọc dãy Hoàng Hà.
Bến "Phong Lăng" là một hợp lưu của Vị Hà và Đồng Thủy, nơi đây có một cái vịnh thật gấp, nước tuôn xoáy mạnh, qua sông thật khó khăn.
Đáng lý những chổ như thế người ta không dựng bến đò, nhưng vì địa thế giữa hai vùng Tân Thiểm quá ư cần thiết nên từ ngày xưa đến nay không ai có thể nghĩ đến thay đổi khác hơn.
Tất cả những người lái đò nơi bến này chỉ cần dũng mãnh, cần giỏi về bơi lội để có khả năng bảo đảm cho khách qua sông, chớ không như ở những bến khác, những khúc sông phẳng lặng mà lái đò là những cô gái xinh tươi để cho thi nhân cảm tác.
Nhìn qua phía bên kia, Đức Uy thấy có phần vắng vẻ, nơi đây, bây giờ chỉ lưa thưa một số thuyền chài lưới và một vài ngôi lều tranh sơ sài dành cho khách qua sông tạm dừng chân giải khát thế thôi.
Quan sát một lúc khá lâu, Đức Uy quay lại hỏi Lý Hoá Nghĩa:
- Tại đây phải không?
Hai người đứng cách bến đò còn độ hơn mười trượng, trên một cái bãi khá sạch, dấu cát phẳng lỳ, có lẽ vì những bàn tay chài lưới và nước dâng lên xuống đã xoá mờ dấu giao tranh chỉ cách đó mấy hôm.
Nhưng thi thể của kẻ chết trong trận này đâu phải ít, không lẽ họ đã bị cuốn theo dòng nước?
Trầm ngâm một lúc, Đức Uy nói:
- Đi, chúng ta lại bến đò xem sao.
Khi còn cách bến chừng vài trượng là đã có hai tên đại hán trung niên đon đả đón mời:
- Nhị vị khách quan, xin mời vào lều ngồi nghỉ chân một lát, thuyền qua sông sẽ trở lại ngay.
Đức Uy lắc đầu:
- Tôi không có qua sông, tôi đến để hỏi thăm một chuyện thôi. Mấy hôm nay nhị vị có ở đây chớ?
Người đại hán chèo đò vội nói:
- Có, có... chẳng hay khách quan muốn hỏi chuyện chi? Hỏi thăm bạn hữu sang sông à?
Đức Uy lắc đầu:
- Không, trước đây hai ngày, tại bến đò này có hai tốp giao đấu với nhau...
Đức Uy chưa nói dứt câu là gã lái đò đã biến sắc, hắn lắc đầu quầy quậy...
- Cái... cái đó thì tôi không được biết, lúc chuyện xảy ra tôi không có ở đây.
Đức Uy nói:
- Không có ở tại đây, nhưng nhị vị có biết chuyện xảy ra từ lúc nào không?
Một tên ngồi ngậm miệng, xem chừng dáng sắc của hắn thật vô cùng sợ sệt, một tên thì có vẻ lém lỉnh hơn, hắn nói:
- Không có mặt ở đây, nhưng... nhưng khi về có nghe người nói lại.
Đức Uy hỏi:
- Nhị vị nghe như thế nào?
Tên lái đò nói:
- Người thuật chuyện ấy đã qua sông rồi, sợ bữa nay hắn chưa trở lại... hắn thuật cũng không rõ lắm... Khách quan nghĩ coi, chúng tôi nhờ vào bến đò này mà độ bồ khẩu, sống cơ sống cực, chuyện giang hồ đâu có dám nghe, dám biết.
Đức Uy điềm đạm mỉm cười:
- Các người khéo nói thì thôi, chúng tôi là người của công môn, hôm rồi đám giang hồ đánh nhau có làm hại đến một vị quan nhân, chúng tôi đến đây để điều tra tự sự, theo tôi thấy thì tất cả người sống trên khoảng sông này, bất cứ nghề gì cũng khó mà tránh khỏi quan nha.
Tên lái đò càng xanh mặt:
- Oan lắm... tội nghiệp chúng tôi, xin quan nhân rộng xét, chúng tôi là bá tánh thiện lương, suốt đời ông đến đời cha, đều sống nhờ vào khoảng sông này...
Đức Uy chận hỏi:
- Đã là thiện lương bá tánh thì không bao giờ che dấu cho bọn đạo tặc phải không?
Tên lái đò phát run:
- Nhị vị quan nhân rộng xét... thật tình chúng tôi không biết.
Đức Uy nói:
- Tôi tin các người, chỉ có điều tôi vốn là công sai, tôi cũng sống nhờ công môn, cũng như các người sống nhờ vào bến đò này vậy, vì thế chúng tôi không thể không đưa các người về phủ đường, vậy có gì cần kêu oan, thì xin các người chờ về đến phủ đường rồi sẽ tính.
Và quay qua Lý Hoá Nghĩa, Đức Uy ra lịnh:
- Dẫn họ đi.
Biết đó là cách doa. cho họ nói, nên Lý Hoá Nghĩa càng làm hùm làm hổ bước tới chụp lấy vai tên lái đò một cái thật mạnh...
Tên lái đò vội quì thụp xuống nói lia:
- Tôi nói... xin để cho tôi nói....
Đức Uy dịu giọng:
- Nói đi, nói rồi ta sẽ tha cho.
Tên lái đò nói:
- Hôm đó, sau khi chuyện xảy ra một chút, có một người áo vàng đến đây dặn nếu có người đến hỏi thì bảo vào thành, đến ngay khách điếm Vân Tập hỏi người họ Đinh.
Đức Uy hỏi:
- Có thấy bọn áo vàng đó đi về đâu không?
Tên lái đò đáp:
- Không thấy, chúng tôi sợ đến muốn ngất xỉu thì làm sao thấy họ đi đâu...
Có thể đó là câu nói thật.
Đứy Uy bảo:
- Thả hắn ra.
Biết không thể hỏi gì hơn nữa được vì tên lái đò cũng chỉ biết đến mức đó thôi nên Đức Uy dẫn Hoá Nghĩa vào thành.
o O o Con đường lớn phía Đông thành Đồng Quan quả đúng như người ta đồn đãi, đó là khoảnh đất đã làm nghiêng ngữa toà thành.
Gần như mọi tiệm buôn lớn, quán rượu lớn và nhà giàu lớn đều tập trung vào con đường đó.
Gần ngoài đầu đường, tiệm thuốc "Phục Thái", cách đó một khoảng là hiệu buôn "Đồng Thịnh", chính giữa khoảng đó là một khuông đất trống, cây cỏ um tùm.
Trên khoảng đường được gọi là "giàu có" giữa thị thành mà lại có khoảng đất bỏ trống cho cỏ xanh lên như thế thật quả là lạ mắt, thế nhưng không có một ai cho là lạ vì chính giữa khoảng đất trống ấy còn có một cây hoè thuộc vào hàng cổ thụ, dưới gốc cây hoè lớn đó lại có một cái lổ khoét sâu vào nửa thân cây, thường thường người ta gọi đó là bộng cây, nhưng bộng cây này rất đặc biệt, không phải đặc biệt vì hình thù quái mà là đặc biệt về nguồn gốc của nó.
Thường thường những cổ thụ dể có bộng, vì cây lâu đời bị khô, bị sâu cây ăn thủng một chổ nào đó, rồi nước mưa thấm mục lần thành bộng, còn bộng cây hoè này thì không phải như thế. Người ta truyền thuyết rằng thời Tam Quốc phân tranh, hồi "Mã Siêu Phục Hận" đã rượt Tào Tháo chạy đến đây, Tào Tháo chạy lanh quanh xung quanh cây hoè và mũi thương của Mã Siêu đâm trúng gốc cây, nhờ đó mà Tào Thừa tướng được một phen chết hụt, cởi áo, vứt râu chạy tuốt.
Nhưng đó thuộc về truyền thuyết, ngoại sử cũng có ghi, ai cũng có nghe biết, nhưng văn và chuyện có hay không thì không một ai dám chắc. Người ta gọi cây hoè đó là "Hoè Thương", vì... nghe đâu sau khi về tới chỗ an nhàn, Tào Thừa tướng đã hạ sắc chỉ phong cho cây hoè lên ngang hàng vua chúa.
Khách điếm "Vân Tập" cách "Hoè Vương" chừng một đỗi, chỗ tương đối rất là dễ kiếm.
Vừa ngoặc qua đầu đường lớn của phía Đông thành thì đã thấy bảng hiệu.
Lý Đức Uy và Lý Hoá Nghĩa vừa bước vào chỗ quày hàng vừa hỏi:
- Tôi muốn kiếm người họ Đinh?
Tên tiểu nhị đứng kế bên không đáp, nhưng sau lưng hắn có người lên tiếng:
- Họ Đinh đây.
Lý Đức Uy quay lại thấy nơi dãy hành lang có một gã trung niên cao ốm, hắn có bộ mặt dài như mặt ngựa, đôi mắt ti hí nhưng sáng ngời ngời, nơi lưng hắn, bên trong chiếc áo choàng có một vật ló ra cồm cộm, hình như đó là binh khí.
Lý Đức Uy nhìn hắn thật nhanh và hỏi lại:
- Các hạ họ Đinh?
Gã mặt dài cũng quan sát Lý Đức Uy thật nhanh và trả lời:
- Họ Đinh là họ của tôi, nhưng không biết nhị vị tìm người họ Đinh có phải là tôi không thôi?
Đức Uy nói:
- Cái đó lại càng cần xem các hạ Ở đây đợi người từ đâu đến?
Gã mặt dài gật đầu:
- Đúng, nhị vị từ đâu đến?
Lý Đức Uy đáp:
- Trường An.
Gã mặt dài cười:
- Như vậy là đúng rồi, chính tôi cũng đang đợi người ở Trường An. Xin mời, mời ra ngoài đây nói chuyện ổn hơn.
Nói xong hắn bỏ đi thẳng ra phía sau dọc theo dãy hành lang.
Không một chút do dự, Lý Đức Uy bước theo ngay.
Dọc theo dãy hành lang là những phòng nối tiếp nhau, gã mặt dài bước đến gian đầu ở phía trong.
Chủ khách vừa vào xong là gã mặt dài đóng ngay cửa phòng lại và hỏi:
- Nhị vị cho biết quý danh?
Lý Đức Uy đáp:
- Chúng tôi đều là họ Lý, Đô Đốc đại nhân có bình yên không?
Như không nghe câu hỏi, gã mặt dài cười nói:
- À... thì ra nhị vị cũng họ Lý, nhưng chẳng hay nhị vị thuộc nha môn nào ở Trường An?
Lý Đức Uy đáp:
- Chúng tôi đều là Hộ Vệ tại Đô Đốc phủ.
Gã mặt dài lại "a"ø một tiếng nữa:
- Nhị vị là "Hộ Vệ" Đô Đốc phủ? Hừ như vậy xem chừng tôi đã uổng công chờ đợi.
Thật là thất vọng!
Đức Uy hỏi:
- Các hạ chẳng phải đợi người ở Trường An đến sao?
Gã mặt dài đáp:
- Tự nhiên là đợi người ở Trường An, nhưng không phải đợi "Hộ Vệ" của Đô Đốc phủ.
Đức Uy điềm đạm mỉm cười:
- Ý của các hạ tôi biết, nhưng tôi có thể cho các hạ biết rằng chức "Hộ Vệ" của tôi không giống như những Hộ Vệ khác, vì tôi có quyền đại diện Đô Đốc đại nhơn để giải quyết mọi việc, không phân biệt chuyện lớn hay nhỏ. Nghĩa là tôi có thẩm quyền hạ "Tướng Lịnh".
Gã mặt dài cười:
- Các hạ nói hình như hơi "lớn", tôi chưa bao giờ nghe một "Hộ Vệ" lại có quyền hành như thế.
Đứy Uy nói:
- Chắc người của chư vị biết trong Đô Đốc phủ có một người mang "Ngân Bài Lịnh" chớ? Người đó là tôi.
Gã mặt dài bắt đầu chú ý, nhưng hắn vẫn không có vẻ tin, hắn nói:
- Thật thế sao? Tôi không thấy có chút gì đáng gọi làm tin được cả.
Móc “Ngân Bài Lệnh” đưa ra, Đức Uy nhướng mắt:
- Có thể tin được chớ?
Gã mặt dài hơi đổi sắc, môi hắn điểm nụ cười gian xảo:
- Đúng, đúng, như vậy là được rồi, các hạ mang “Ngân Bài Lịnh” thì tôi tin rằng chắc chắn có quyền, tôi tin các hạ có quyền thay mặt Dương Tông Luân để bàn mọi sự.
Xin thỉnh ngồi chơi một chút, tôi sửa soạn xong là mình sẽ lên đường.
Nói xong, hắn đứng lên bước lại phía bên giường.
Đức Uy đưa tay cản lại:
- Khoan, chúng ta sẽ đi đâu?
Gã mặt dài cười hì hì:
- Tại hạ chỉ là kẻ vâng lịnh ở đây để đón người, nhiệm vụ chỉ có thế thôi, không có tư cách nào để nói bất cứ chuyện gì, tôi sẽ đưa các hạ đến người có thẩm quyền nói chuyện, có thẩm quyền quyết định.
Đứy Uy nói:
- Tại đâu?
Gã mặt dài lại cười:
- Đừng vội, chờ đến nơi là biết ngay.
Đức Uy làm thinh không nói nữa. Hắn biết nói thêm là vô ích vì rất khó lòng chủ động.
Tên mặt dài bước lại bên giường sửa soạn, hắn cho hành lý vào một gói quảy ngược lên vai cười nói:
- Đi, tại hạ xin dẫn đường.
Hắn bước nhanh ra cửa.
Lý Hoá Nghĩa đưa mắt hỏi ý. Đức Uy nói nhỏ:
- Bây giờ khó có hành động nào khác được, chúng trong tối, mình ngoài sáng. Đô Đốc đại nhơn lại còn trong tay chúng, mình không thể hành động khác được.
Vừa nói vừa đi theo ra cửa.
Hai người ra khỏi cửa thì thấy gã mặt dài đứng bên một cỗ xe ngựa, trên xe có một gã đánh xe mặt thẹo.
Gã mặt dài nói:
- Nhị vị lên xe sẽ được đưa đến nơi. Đến đây là hết nhiệm vụ của tại hạ, Tại hạ xin cáo lui.
Hai người lên xe thì cổ xe lao đi vùn vụt. Một hồi lâu sau cổ xe dừng lại dưới chân một quả núi.
Từ xa có hai người áo vàng bước lại.
Hai người ấy đến sát bên xe là Lý Đức Uy vụt nhớ đến Lệ Tam Tuyệt và vị “chủ nhơn” của hắn. Hai người này có lẽ cũng trong hàng “Đệ Nhất Kiếm Sĩ” của Lý Tự Thành.
Xe ngừng vững lại là tên mặt thẹo đánh xe nhảy xuống. Hắn nhảy thật gọn và bộ pháp đó cũng không phải là bộ pháp của những gã chuyên đánh xe mướn ở thị thành mà người ta thường thấy. Những tên đánh xe chở mướn thông thường, chỉ giỏi về đánh xe chớ không thể có được bộ pháp cao như thế ấy.
Hắn nhảy xuống xe, mặt hắn hất về phía Đức Uy, giọng hắn cũng lạnh băng:
- Đã đến nơi. Ở đây sẽ có người khác tiếp, hai người hãy xuống xe.
Câu nói có tánh cách thật dứt khoát. Hắn muốn tỏ ra rằng hắn không còn nhiệm vụ và cũng không muốn ai hỏi đến hay nói gì thêm.
Lý Đức Uy và Lý Hoá Nghĩa xuống xe.
Hai tên áo vàng chỉ dòm qua rồi quay mình đi trở vào trong núi không nói một tiếng nào.
Gã đánh xe lại nói:
- Hãy theo nhị vị ấy, người mà các người muốn gặp ở trong đó.
Không biết có trường hợp đối với hạng người nào, hoặc vợ hoặc con, hắn có giọng nói khác hơn hay không thì không biết, chớ từ khi bắt đầu lên xe cho đến bây giờ, hắn chỉ nói gần như “cố gắng” cho đủ ý thế thôi.
Thật họ “sắm” ra những con người dị kỳ.
Đức Uy khẽ vòng tay:
- Đa tạ.
Hắn ra hiệu cho Lý Hoá Nghĩa theo mình.
Tiến vào sơn khẩu, hai tên áo vàng cũng chẳng hề quay lại, họ đi song song với nhau, họ đi dáng đi thật nhẹ nhàng, thật vững, họ đi thẳng lên dốc núi.
Đức Uy tăng thêm cước bộ bám riết theo sau.
Lý Hoá Nghĩa bước trờ tới ngang hàng hỏi nhỏ:
- Lý gia, chắc có Đô Đốc đại nhân ở tại đây sao?
Đức Uy lắc đầu:
- Không thể chắc được, nhưng cũng mong thế. Cho dầu có chắc hay không, hoặc ở nơi khác, ta cũng cố tìm cách gặp mặt cho được.
Hai tên áo vàng đi càng nhanh, Đức Uy và Lý Hoá Nghĩa bước nhanh, chỉ trong khoảnh khắc họ đã lên tới lưng chừng núi và hai gã áo vàng rẽ vào một con đường hẹp quanh co. Cứ quanh qua lộn lại một lúc lâu, trước mặt, là trước một vách núi chắn ngang có một ngôi nhà mát cất theo lối Bát Giác Đình.
Nơi đây, đất bằng và rộng, chung quanh ngôi nhà có trồng hoa kiểng trông rất tao nhã.
Trong nhà mát đã ngồi sẵn một người, một lão già áo vàng, thân hình ốm nhách, mắt sáng mày dài, nhìn qua đã thấy lộ ngay cơ trí đầy trong óc lão.
Sau lưng lão già áo vàng này còn có hai tên ăn vận giống nhau mà cho đến khí sắc trầm trầm cũng y như đúc.
Hai tên áo vàng dẫn đường đứng vòng tay cúi đầu trước sân đình, họ cùng nói rập lên:
- Khải bẩm Tướng gia, người Trường An đã đến.
Bằng tất cả dung cách kiêu ngạo nhất trên đời, lão già áo vàng ừ nho nhỏ trong miệng, nhưng lão ta không hề nhướng mắt lên.
Lý Hoá Nghĩa bấm nhỏ:
- Thật là lớn lối.
Đức Uy “suỵt”:
- Đô Đốc còn trong tay chúng, mình phải hết sức ẩn nhẫn.
Chờ cho Đức Uy tới gần, tên dẫn đường quay lại nói:
- Hãy đến bái kiến, đây là Thừa Tướng của ta.
Đức Uy bước tới vòng tay:
- Trường An “Đô Đốc phủ” Lý Đức Uy xin tham kiến Thừa Tướng.
Lão già áo vàng nhìn Đức Uy bằng tia mắt nghiêng nghiêng:
- Ngươi là người chấp chưởng “Ngân Bài Lịnh”?
Đức Uy đáp:
- Phải, tôi đang chấp chưởng “Ngân Bài Lệnh”.
Lão già áo vàng nói:
- Để gọi là có nghĩ đến “Ngân Bài Lịnh” ta cho ngươi có một chổ ngồi, ngồi đi.
Đức Uy vòng tay:
- Đa tạ Thừa Tướng.
Hắn bước vào ngôi nhà mát, ngồi đối diện chủ nhân.
Lão già dừng tia mắt ngay mặt Đức Uy, giọng lão từng nhát một:
- Ta không thích dài dòng và chắc ngươi cũng đang sốt ruột, vậy thì ta nói thẳng, trước hết, ta hỏi, ngươi có đủ tư cách thay mặt Dương Tông Luân để giải quyết vấn đề không?
Đức Uy đáp:
- Bất luận lớn hay nhỏ, bằng vào “Ngân Bài Lịnh” tôi có đủ toàn quyền.
Lão già áo vàng gật đầu:
- Tốt, ta nói, hãy dâng hiến Thiểm Tây, ta sẽ thả Dương Tông Luân.
Đức Uy nói:
- Thừa Tướng, Dương Đô Đốc là một vị đại thần được “thác thổ phong cương”.
Lão già áo vàng chận ngang:
- Ta biết, và chính vì thế nên ta mới dụ hắn ra khỏi Trường An để bắt.
Đức Uy nhướng mắt:
- Thừa Tướng dẫn dụ?
Lão già nhếch môi:
- Ngươi không tin à? Chắc ngươi cho rằng chuyện “mật chiếu” là chuyện thật? Ta cho ngươi biết, tên Thái Giám Tào Hoá Thuần là do người của ta giả dạng, còn họ Tào thật chưa hề ra khỏi Kinh Sư.
Đức Uy nhướng nhướng mắt định nói một câu chắc khác, nhưng hình như hắn đổi ý nói ngay:
- Vâng, tôi tin chớ, là người trong giang hồ, tôi biết thuật hoá trang nhiều chổ rất cao minh và chuyện này khiến cho cả Đô Đốc đại nhân cũng không nhận ra, chứng tỏ còn cao minh hơn nữa.
Lão già áo vàng chớp mắt:
- Ngươi không tin?
Đức Uy đáp:
- Không, tôi tin chớ, tôi tin trong giang hồ thừa sức để làm chuyện ấy.
Lão già áo vàng cười nhạt:
- Như vậy là tốt, bây giờ hãy lo chuyện dâng hiến Trường An, nếu không ta sẽ cho tiến quân và đầu của Dương Tông Luân sẽ được bêu làm hiệu lịnh, ta bảo cho biết trước, nếu để quân ta tiến vào Trường An thì một con đỏ cũng không còn. Về đi mà lo liệu.
Đức Uy vẫn ngồi yên:
- Thừa Tướng đã nói xong, bây giờ tôi cũng có lời.
Lão già áo vàng hỏi:
- Ngươi nói gì?
Đức Uy đáp:
- Tôi chấp chưởng “Ngân Bài Lịnh” tự nhiên có toàn quyền giải quyết mọi chuyện, nhưng từ Trường An đến đây không phải chỉ để cùng quý vị đàm phán không thôi.
Lão già áo vàng hỏi:
- Ngươi muốn gì?
Đức Uy nói:
- Tôi đến đây chủ yếu là để gặp mặt Dương Đô Đốc, sẵn đó sẽ hỏi ý kiến về vấn đề mà ông nêu ra.
Lão già áo vàng cười nham hiểm:
- Được, ta sẽ cho ngươi gặp hắn.
Lão vổ tay một tiếng, hai người áo vàng khi nãy xuất hiện. Lão chỉ họ và nói:
- Hai người này sẽ cùng đi với các hạ để dẫn đường.
Đức Uy thấy có hai người cùng đi nên cũng an tâm phần nào nhưng chàng nói:
- Chỉ một mình tôi đi thôi. Còn vị huynh đài này sẽ trở về báo tin.
Lão già áo vàng gật đầu đồng ý.
Lão hướng dẫn cả bọn đi đến một hang núi, hang này có vẻ bí ẩn lạ lùng.
Đức Uy quay lại nói:
- Hoá Nghĩa, ngươi quay về được rồi.
Hoá Nghĩa gật đầu rồi quày quả xuống núi. Chờ cho Lý Hoá Nghĩa đã xuống núi khuất dạng, lão già áo vàng lên tiếng:
- Bây giờ thì ngươi yên lòng rồi chớ?
Đức Uy lắc đầu:
- Không, tôi còn chờ hắn đi lâu hơn chút nữa rồi mới đi vào.
Lão già áo vàng cười lạt.
Lão cũng khá là trấn tĩnh, lão không nói thêm một tiếng.
Đức Uy cứ đứng như thế độ nguội một chén trà, lúc bấy giờ có lẽ Lý Hoá Nghĩa đã ra đường cái để trở lại Đồng Quan, hắn độ chừng như thế và quay mật bước vào cửa động.
o O o Bên trong cửa động rộng hơn ở ngoài nhiều lắm.
Vừa bước vào là Đức Uy đã cau mày, trong lòng hắn rúng động.
Không có gì cả, cảnh trí bên trong thật nhã, thật u tịnh, nhưng cũng thật là hiểm yếu.
Bên trong tuy rộng nhưng nó lại giống như một cái ống thông hơi trong một cái hầm, chung quanh vách núi bao bọc và cao thấu mây xanh, đứng dưới mà nhìn lên muốn trật ót.
Vách núi trơn như gọt, rêu đóng xanh um, cho dầu loài vượn khỉ cũng không mong gì trèo lên được.
Bốn bên độc chỉ có cửa vào nhỏ hẹp, ngoài ra không còn ngỏ nào khác nữa.
Cửa đó mà bị bít lại thì người bên trong kể như bị khép kín trong một cái quan tài, khác chăng là cổ quan tài này khá rộng, có khe nước và có lổ thông hơi.
Vách núi bên trái có một ngọn nước nhỏ. Nhỏ mà nước đổ thật mạnh, ngọn nước đổ vào miệng giống như một cái đầm, cũng nhỏ. Thác nước nhỏ, khoảng cách xa, thế nước thật mạnh, nghe thấy tiếng đổ của nó cũng đã đủ lạnh người.
Không có một ai.
Một linh cảm bất tường nảy ra thật nhanh, và cũng thật nhanh Đức Uay quay mình phóng ngược trở ra cửa động.
Hai gã áo vàng đã đứng khít vào nhau, giữa cửa, chắn hẳn lối ra, hai thanh kiếm sáng ngời chĩa vào trong động.
Một trong hai tên lên tiếng:
-Họ Lý, đã chậm mất rồi, đáng lý người đừng dại dột vào đây mới phải.
Đức Uy nhướng mắt và nói từ tốn:
- Nhị vị có thể cản được ta chăng?
Tên áo vàng bên trái nói:
- Chúng ta chỉ cần kéo dài với ngươi được mười chiêu là kể như đã thành công.
Đức Uy hỏi:
- Nhị vị muốn nói là sau mười chiêu thì ta sẽ không còn ra được nữa?
Tên áo vàng nói:
- Tướng gia của chúng ta đã chôn sẵn thuốc nổ kế bên đây, khi ngòi dây đã được cháy vào tới chỗ thì cũng không đến mười chiêu, cho dầu ngươi là thiên tiên, cho dầu ngươi có cánh cũng không mong gì thoát khỏi.
Đức Uy hơi rúng động, hắn hỏi:
- Thế còn nhị vị? Làm sao thoát được khi thuốc nổ phát lên?
Tên áo vàng bên phải cười, vẻ mặt của hắn có phần thê thiết:
- Chúng ta đều được Sấm Vương tiếp đãi trọng hậu, vì thế ta phải báo đáp, vì nếu không có chúng ta dẫn đường thì ngươi làm sao chịu vô.
Đức Uy nghiến răng nhưng hắn cố giữ bình tĩnh:
- Thế còn Dương Đô Đốc ở đâu? Người đã...
Tên áo vàng lắc đầu:
- Không cần phải hỏi, bây giờ ngươi lo cho ngươi cũng đã không xong, hỏi đến người khác làm chi.
Ngay lúc đó chợt nghe tiếng xèo xèo nổi lên từ phía bên ngoài.
Tên áo vàng nói:
- Ngòi dẫn hoa? đã cháy rồi. Ngươi chỉ có dược chừng mười chiêu, trong thời gian đó, nếu giết được chúng ta trước thì coi như ngươi đã có cơ hội tốt.
Quả thật, Đức Uy làm sao dám chậm trễ, chỉ chậm một giây là đầy hiểm hoạ, hắn rút thanh Ngư Trường Kiếm và lao tới thật nhanh.
Ba thanh kiếm chạm vào nhau một lượt và bây giờ thời Đứy Uy mới thấy hết cái nguy hiểm bên mình.
Hai tên áo vàng này, so với tên chủ nhân Lệ Tam Tuyệt không hơn không kém.
Tuy không có đủ thì giờ, nhưng Đức Uy cũng thoáng nhận ra lối "thí quân" không tiếc của đám Lý Tự Thành, đào tạo được hai tay kiếm như thế đâu phải là dễ, thế mà chúng vẫn thí như không vì muốn giết Lý Đức Uy, họ đã liều hai con một đắc giá.
Bị một kiếm đầu của Lý Đức Uy, hai tên áo vàng cùng lui một bước, và không để chậm trễ một giây, Đức Uy không dám để cho họ có thì giờ giữ bước chân ổn lại, hắn lao tới đánh luôn nhát kiếm thứ hai. Và cũng không để cho họ kịp xuất chiêu, kiếm thứ ba của hắn dồn hai tên áo vàng sát vào vách đá.
Hai tiếng khua thật nhẹ, thật êm, trên vai của hai tên áo vàng máu phún ra nhuộm đỏ nửa thân áo, khi Đức Uy vung đến kiếm thứ tư và tiếng rú lên khủng khiếp, tên áo vàng bên phải gập mình xuống, xương sống của hắn đứt ngang, chỉ còn mảnh da bụng nối liền hai khúc thân chồng lên, máu tuôn òng ọc.
Tên áo vàng còn lại, trên ngực mang ba vết kiếm, hắn loạng choạng thối lùi ra cửa động, Lý Đức Uy như một con cọp đứng sát bên cửa nọ, hắn lao tới bầng tất cả sức mạnh và trớn của đường kiếm trên tay và tiếp theo là mộttiếng khua chát chúa, nhiều tia lửa bắn lên.
Thanh kiếm của tên áo vàng bị tiện làm đôi, hắn dội ngược vào vách đá và ngồi bệt xuống.
Tay chân hắn đã run bần bật, nhưng hắn vẫn cười ngây dại:
- Họ Lý, ta không còn chống nổi, ngươi hãy đi đi, kịp hay không vẫn là số mạng.
Bây giờ thì mùi khói thuốc đã nồng nặc rồi, chứng tỏ thuốc đã cháy vào tới ổ, lý Đức Uy không còn nghe trọn câu nói của tên áo vàng, vì khi đối phương té ngồi xuống vách núi thì chân hắn cũng đã nhún mạnh bắn vọt người lên, bắn từ cửa động thẳng tuốt ra ngoài như một mũi tên xé gió.
Cũng ngay trong lúc đó, ngay trong lúc câu nói của tên áo vàng vừa dứt thì một tiếng nổ đã vang lên.
Không ai nghe trọn tiếng nổ đó vì tên áo vàng đang ngồi nơi cử động, hắn chỉ thấy lửa nhoáng là hắn đã đứt hơi, Lý Đức Uy khi phóng vọt khỏi xa hơn nhưng hắn cũng nghe tiếng nổ phát lên, chỉ nghe phát lên thôi, chỉ nghe khói thuốc hắt vào mũi, chỉ nghe hơi gió tạt thật mạnh, rồi sau đó không còn biết gì nữa cả.
o O o Bất cứ một người bịnh nặng nào khi bị một giấc mê man, bất cứ người nằm mộng nào, khi giật mình tỉnh dậy cũng đều cảm thấy như mình đang ở một thế giớ nào xa lạ.
Đức Uy khi có được cảm giác là hắn ở trong trạng thái đó, nặng hơn một bậc, hắn nghe toàn thân ê ẩm, đầu nặng, ngực thở không ra hơi.
Hắn nghe môi mình đóng cứng, hắn đưa tay quẹt ngang chất nước nhầy với bụi cát, hắn đưa ra trước mặt:
máu!
Bây giờ thì hắn đã rõ rồi, sức dội của tiếng nổ vì địa lôi đẫ hất người hắn vào váchưa Thất Cách Cách vào hậu đường, Mẫn Tuệ nhìn Đức Uy bằng con mắt có đuôi:
- Từ sáng đến giờ tiểu muội nghe trong lòng như lửa cháy, nhưng bây giờ thì...
người ngọc đã được yên lành, tiểu muội và thư thư xin khánh chúc lương duyên.
Đức Uy nói:
- Hiền muội đừng đùa như thế, tuy Thất Cách Cách đã được bình yên, nhưng đây chỉ lo việc cứu người...
Đưa Thất Cách Cách vào phòng và tự nhiên câu chuyện về Trần Ngọc Hà được Mẫn Tuệ và Thiên Hương dễ dàng thông cảm, họ xoắn xít hỏi han làm cho nàng cảm động rơi nước mắt:
- Lý thiếu hiệp nói rất đúng, có lẽ câu nói khi nãy thiếp sẽ ghi nhớ trọn đời, người tốt không bao giờ bị cô đơn...
Mẫn Tuệ nói:
- Trần đại tỷ cứ việc ở đây, tiểu muội và Tổ thư thư rất cần bầu bạn, bây giờ thì Trần đại tỷ hãy yên tâm, bọn giáo đồ Bạch Liên Giáo cho dầu biết Trần đại tỷ ở trong này, chúng cũng chỉ đứng ngoài chứ không làm gì được đâu. Xin Trần đại tỷ hãy cứ xem đây như nhà của mình vậy.
Bây giờ thi Trần Ngọc Hà không phải rơi nước mắt mà nàng đã khóc lên thành tiếng:
- Dương cô nương, chắc trọn đời Ngọc Hà này không làm sao trả được ân sâu...
Một con người từ trong vũng sình tội lỗi bò lên, cái họ mong không phải được đãi ngộ mà là thông cảm và tha thứ, đó là sự an ủi hữu hiệu nhất trong đời.
Chính vì lẽ ấy cho nên nhiều người sắp chết, chỉ cầu xin hai tiếng “tha thứ” của người khác để rồi mỉm cười nhắm mắt.
Trần Ngọc Hà đã được sự tha thứ ấy và nàng coi như đã chết mất rồi bây giờ sống lại.
Giả như Trần Ngọc Hà làm một chuyện giả dối, mang chiếc mặt nạ lừa người để thâm nhập vào đây mưu toan ám hại người lanh, thái độ chân thành và sự khoan dung đó nhất định sẽ làm cho nàng hồi tâm tỉnh ngộ.
* * * Vẻ mặt tiều tụy của Thất Cách Cách bây giờ phủ thêm lên một lớp kinh hoàng, sau khi huyệt đạo được giải khai, mắt nàng vừa hé ra là đã tròn xoe hớt hải...
Tổ Thiên Hương và Dương Mẫn Tuệ nhìn nàng bằng tia mắt dịu dàng và giọng nói nàng thật dịu dàng:
- Thất Cách Cách!
Thất Cách Cách bàng hoàng:
- Sao... sao tôi lại ở đây?
Mẫn Tuệ nói:
- Đô Đốc phủ Trường An, mà cũng là nhà của tôi.
Thất Cách Cách biến sắc kêu lên:
- Trường An Đô Đốc phủ?
Nàng lóp ngóp ngồi lên bằng dáng cách kinh hoàng, nhưng Mẫn Tuệ đã dịu dàng vịn lấy vai, nàng nhỏ giọng:
- Thất Cách Cách hãy ngồi nghỉ cho khỏe, chúng ta bây giờ là bạn chứ đâu phải là thù...
Thất Cách Cách cau mặt:
- Nhưng sao tôi lại ở đây?
Mẫn Tuệ liếc về phía Đức Uy:
- Thất Cách Cách hãy hỏi Lý ca.
Thất Cách Cách quay nhanh lại:
- Lý giạ..
Đức Uy cố gắng bình tĩnh:
- Tôi đã nói trước rồi, nếu Thất Cách Cách vì Tổ cô nương mà liên lụy, thì bất cứ bằng giá nào tôi cũng phải gỡ cho xong. Nhưng thật sự thì không phải một mình tôi làm được chính có người đã giúp tôi đưa Thất Cách Cách về đây.
Thất Cách Cách hơi biến sắc, nhưng rồi nàng hòa hoãn lại ngay:
- Đa tạ sự thương tình chiếu cố của chư vị, nhưng tôi cũng đã có nói trước rồi. Gia có gia nghiêm, quốc có quốc pháp, tôi đã phạm vào quốc pháp mà cũng phạm gia nghiêm, tội đã đáng lắm rồi, xin cho tôi trở lại.
Đức Uy mím môi, hắn có vẻ vừa ngạc nhiên vừa thông cảm:
- Sao? Thất Cách Cách định về sao?
Thất Cách Cách gật đầu:
- Vâng, tôi là một Hoàng Tộc Mãn Châu, giữa chúng ta tuy có tư giao thâm hậu, nhưng lập trường đối địch vẫn là bất biến, tôi ở tại Đô Đốc phủ của Mình Triều là nghĩa lý làm sao?
Mẫn Tuệ nói:
- Có phải Thất Cách Cách vẫn còn đang phiền muộn về tôi lắm đó không?
Thất Cách Cách lắc đầu:
- Không, tôi hiểu rõ dụng tâm của Dương cô nương, nhưng nói càng mà nghe cho vui, nếu có giận chăng thì cũng chỉ là chuyện riêng tự..
Mẫn Tuệ hỏi:
- Thất Cách Cách quả thật muốn về sao?
Thất Cách Cách gật đầu:
- Vâng tôi phải về.
Mẫn Tuệ lắc đầu:
- Tôi không thể để cho Thất Cách Cách đi về như thế. Đừng nói đến chuyện Lý đại ca vì Thất Cách Cách mà liều mình vào hang cọp, thập tử nhất sinh mới cứu được Thất Cách Cách về đây, chỉ riêng một việc Tiểu Hỷ đã thoát từ trong cái chết, mang trọng thương chạy đi kiếm người cầu cứu, nội một sự hy sinh lớn lao đó, Thất Cách Cách cũng không thể đi về.
Thất Cách Cách kinh ngạc:
- Sao? Tiểu Hỷ đã chạy ra? Nó đâu?
Chỉ vào gian phòng bên cạnh, Mẫn Tuệ nói:
- Bên đó, Thất Cách Cách có cần vào thăm nàng không?
Thất Cách Cách đứng lên, thân hình nàng lảo đảo...
Nàng là người giỏi võ, đã từng lên ngựa cầm cương, bây giờ cũng không mang thương tích, thế nhưng bao nhiêu nỗi ma chiết trong lòng đã làm cho nàng khốn khổ, sự dằn vặt tâm tư khiếân cho nàng yếu đuối...
Mẫn Tuệ lật đật bước tới đỡ lấy nàng và dịu giọng:
- Thất Cách Cách, hãy bảo trọng...
Thất Cách Cách nở nụ cười khô héo:
- Đa tạ Dương cô nương, không sao đâu...
Nàng bước vào gian phòng nhỏ và thấy ngay Tiểu Hỷ.
Cô nữ tỳ đang ngủ trong mệt nhọc, da mặt hãy còn xanh.
Thất Cách Cách không lộ một vẻ gì trên mặt, nhưng tay chân nàng run run cố dằn cơn xúc động quay lại hỏi Mẫn Tuệ:
- Bây giờ Tiểu Hỷ có được khá không, Dương cô nương?
Mẫn Tuệ nói:
- Tôi không có ý kể công, nhưng nói để Thất Cách Cách biết thương thế của nàng chính tôi đã phải hao tổn suốt ba tiếng đồng hồ chân khí...
Thất Cách Cách tặc lưỡi:
- Tôi cảm thấy như chính bản thân tôi đã được hấp thu chân khí ấy, xin đa tạ Dương cô nương.
Nàng nhìn vào mặt Tiểu Hỷ và hỏi:
- Không biết bây giờ Tiểu Hỷ đã có thể cử động được chưa?
Vốn rất sáng trí, Mẫn Tuệ đáp ngay:
- Chắc cũng phải mất thêm đôi ba ngày dưỡng sức.
Nàng nghĩ rằng Thất Cách Cách định mang cả Tiểu Hỷ về, nên nói như thế để cầm chân Thất Cách Cách, không ngờ Thất Cách Cách lại nói:
- Như vậy thì tôi không thể đợi nàng, nàng có thể không cần phải về, nhưng tôi thì không về không được. Nàng về là chết, nhưng tôi thì không sao...
Nói xong, nàng cúi mặt trở ra ngoài.
Mẫn Tuệ nói:
- Thất Cách Cách, tình hình như thế mà Cách Cách trở về, chúng tôi làm sao chịu nổi!
Thất Cách Cách nói:
- Đa tạ cô nương, tôi là kẻ địch của chư vị, chư vị không có cách nào lại quan tâm đến sự an nguy của tôi được.
Mẫn Tuệ nói:
- Thất Cách Cách, bản tính của con người vốn là hiền lương, giữa người với ngươi trời sinh ra không phải để cừu hận.
Thất Cách Cách nói:
- Bất luận ra sao tôi vẫn là Hoàng Tộc Mãn Châu, tôi cần phải giữ cho được lập trường của tôi, đổi lại nếu Dương cô nương là tôi, thì Dương cô nương có thể ở lại nơi này không?
Mẫn Tuệ cười buồn:
- Thất Cách Cách lời lẽ sắc bén quá, tôi không thể nói như thế...
Thất Cách Cách nói:
- Như thế là phải rồi, chư vị có lòng thương, tôi nguyện ghi tạc vào lòng, nhưng nếu chư vị thật tình thương tôi thì đừng để tôi phải bất trung, bất hiếu, bất nghĩa.
Lời lẽ của Thất Cách Cách quả thật là chí lý, bất cứ người nào cũng không thể nói làm sao hơn, tự nhiên, Dương Mẫn Tuệ cũng thấy rằng thật không có lý nào để lưu nàng lại.
Tổ Thiên Hương hỏi:
- Thất Cách Cách có vui lòng cùng tôi nói một vài câu chuyện riêng chăng?
Thất Cách Cách nói:
- Chúng ta là người quang mình chính đại, không có chuyện gì phải nói mà không dám cho người khác nghe cả.
Câu nói của nàng hơi nặng, nhưng Thiên Hương hình như không muốn để ý về chuyện nặng nhẹ đó, nàng cười:
- Tôi vì Thất Cách Cách đó mà.
Thất Cách Cách lắc đầu:
- Tôi không có một việc gì đáng giấu ai cả, có chi cô nương cứ nói trước mặt mọi người.
Thiên Hương cười:
- Như vậy cũng được, vậy xin mời ra bên ngoài ngồi nói chuyện cho thong thả.
Thất Cách Cách bước đi, mặt nàng lạnh băng băng.
Đi sau Thất Cách Cách, Thiên Hương đưa mắt ra hiệu cho Đức Uy và Mẫn Tuệ rồi bước theo ra.
Ra đến bên ngoài, Thất Cách Cách quay lại hỏi:
- Sao họ không ra?
Thiên Hương cười:
- Không lẽ Thất Cách Cách lại sợ một người trói gà không chặt như tôi sao?
Thất Cách Cách cười nhạt:
- Cho đến bây giờ, tôi chưa từng nói đến tiếng sợ là gì. Cô là phu nhân của một vị Hoàng Thân Mãn Châu, có mai mối có hôn lễ đàng hoàng, thế mà bây giờ cô lại bỏ đến ở đây, như vậy cô không thấy đối với chồng là thất tiết hay sao:
Thiên Hương nói:
- Thất Cách Cách quá nặng lời, Thất Cách Cách mắt thấy tôi bị Nam Cung Nguyệt cướp đi, được Lý thiếu hiệp và Dương cô nương cứu về đây, chứ đâu phải tự tôi ly khai Phúc An? Như vậy là sao có thể gọi là tôi thất tiết? Còn về hôn lễ có mai mối đàng hoàng mà Thất Cách Cách vừa nói, chẳng qua là một chuyện mua bán, chứ đâu phải theo ý nguyện của tôi? Tôi có đến ở nhà Phúc An, nhưng thật thì đâu có làm lễ thành hồn, đâu có làm lễ tơ hồng, luôn cả danh xưng chồng vợ cũng chưa bao giờ dùng đến, như thế thì làm sao Thất Cách Cách lại trách tôi?
Thất Cách Cách hình như không có lời nào nói lại, nàng làm thinh một chút rồi cười nhạt:
- Tôi biết cô giỏi nói chuyện lắm, cô muốn nói chuyện với tôi phải không, nói đi.
Thiên Hương nói:
- Tôi và Dương cô nương bây giờ là vị hôn thê của Đức Uy, ở đây vốn là nhà của chúng tôi, vì thế chúng tôi làm sao dám thất lễ với khách, xin Thất Cách Cách hãy ngồi.
Thất Cách Cách biến sắc, da mặt nàng tái mét, nàng ngồi xuống và nói ngay:
- Thật tôi không ngờ từ một phu nhân Hoàng Tộc Mãn Châu, cô chỉ lắc mình một cái trở thành vị hôn thê của Công Môn Ưng Khuyển Minh triều, thảo nào người ta lại chẳng nói lòng dạ đàn bà thường hay tráo trở.
Câu nói của nàng thật nặng, nhưng vốn hiểu xứ cảnh và tâm tình của người đối diện nên Thiên Hương không giận, nàng chỉ nghiêm mặt cho đúng theo ý nói của mình:
- Thất Cách Cách, tôi không tráo trở, tôi chỉ đem thân gửi cho người mình yêu thương, tôi chỉ tìm đến một chỗ về vốn được thuộc của tôi mà thôi. Một người con gái, trọng yếu nhất trong đời là chỗ gởi gắm tấm thân theo đúng ý nguyện của mình, đem chung thân gửi đúng vào người mình yêu, đó là hạnh phúc tối đại của người con gái, có lẽ Thất Cách Cách cũng phải thấy như thế chứ?
Thất Cách Cách cười nhạt:
- Bất luận cô nói thế nào chúng tôi vẫn xem cô là phu nhân của một vị Hoàng Tộc Mãn Châu. Lý Đức Uy lại đi cần một người đàn bà trốn chồng như thế thì hắn cũng là người chẳng ra gì.
Thiên Hương vẫn thản nhiên:
- Vấn đề Thất Cách Cách nói ra có hai phần, thứ nhất, tôi cần xác định thái độ nói chuyện giữa chúng ta, tôi muốn là thân con gái với nhau, cần phải thành thật, tôi không dùng lời lẽ của một người địch thủ, dùng lối ăn nói trả miếng với Thất Cách Cách mong Thất Cách Cách cũng đừng nói với tôi như thế. Bây giờ bình tâm mà nói, Thất Cách Cách là người chủ hôn giữa tôi và Phúc An, Thất Cách Cách có thấy đó là lương duyên hay là cuộc “hôn nhân chính trị”, nói là một sự kén rể đông sàng hay là vì sự tham lợi của cha tôi? Phúc An cưới tôi vì tình ái hay là muốn cưới một vấn đề “cấu kết”? Tôi không yêu cầu Thất Cách Cách giải đáp, tôi chỉ muốn chúng mình hiểu rõ lòng nhau, thế thôi.
Nàng ngưng lại và Thất Cách Cách cũng làm thinh.
Sau cùng, Thiên Hương tặc lưỡi lắc đầu:
- Còn phần thứ hai, tức lànói về Đức Uy, nếu Thất Cách Cách nhận vấn đề như thế thì tôi không làm được.
Thất Cách Cách hơi sửng sốt:
- Cô muốn nói với tôi chuyện gì?
Thiên Hương kéo ghế lại cho thật đối diện với nàng và nói bằng tất cả sự nghiêm trang:
- Thất Cách Cách, trong tận đáy lòng của tôi và Mẫn Tuệ, mong muốn Thất Cách Cách lưu lại, trong tận đáy lòng chúng tôi muốn có được một người muội muội như Thất Cách Cách.
Thất Cách Cách tái mặt, hình như nàng bị ai đó chạm đúng vào vết thương đang rỉ máu, mặt nàng đanh lại:
- Tổ Thiên Hương, cô muốn nói gì?
Mặt của Thiên Hương thật vô cùng bình thản, cái bình thản của con người đã thấy hết cái gì sâu kín nhất của đối phương:
- Thất Cách Cách, tôi và Mẫn Tuệ đã dùng hết cái thành thật trong tâm khảm của mình.
Thất Cách Cách lặng đi một lúc, như đang có sự giằng co dữ dội trong lòng, cuối cùng nàng hất mặt lên cười lạt:
- Như vậy hắn mạo hiểm cứu tôi cũng chỉ vì một chút ấy... Các người đã biết rõ thân danh của tôi, tôi đường đường là một Hòa Thạc Cách Cách của Hoàng Tộc Mãn Châu, còn hắn chỉ là một Công Môn Ưng Khuyển của Minh triều...
Thiên Hương hỏi:
- Cách Cách quyết bảo vệ lập trường của mình?
Thất Cách Cách lạnh lùng:
- Tự nhiên, sao? Tôi không thể có một người chồng sao? Cho dầu tôi chỉ có thể có một người chồng là phu xe của Mãn Châu, chứ tôi không thể có một người chồng vốn là Công Môn Ưng Khuyển của nhà Minh như thế.
Thiên Hương nói:
- Thất Cách Cách quả xứng đàng với hai chữ trung nghĩa.
Thất Cách Cách hất mặt lên:
- Đương nhiên, nếu một chuyện tầm thường như thế mà tôi cũng chẳng biết...
Thiên Hương chặn nói:
- Nếu vậy tôi xin hỏi, đối với một người trong công môn của đối phương Thất Cách Cách đã tiết lộ cơ mật quân trung đã từng lắm phen giúp người đó để cuối cùng mang danh là một phản quốc, cái trung cái nghĩa của Thất Cách Cách ở tại đâu?
Thất Cách Cách tái mặt lặng thinh một lúc lâu mới hỏi lại được:
- Như thế nào gọi là tiết lộ cơ mật quân trung?
Thiên Hương nói:
- Qúi quốc bức bách truyền nhân của Tử Kim Đao giết Lý Đức Uy, thế mà Thất Cách Cách lại đem cả sự tình, cái mà quí quốc không bằng lòng tiết lộ nói cho Đức Uy biết, khiến cho vị truyền nhân của Tử Kim Đao không còn bị không chế bởi quí quốc, chẳng lẽ như thế không đáng gọi là cơ mật quân trung hay sao?
Toàn thân Thất Cách Cách run lên ngó thấy, nàng nói ngập ngừng:
- Đó là... tại vì tôi muốn hai nước giao tranh phải quang minh lỗi lạc mà đừng dùng... thủ đoạn không đẹp đó thôi...
Thiên Hương chặn ngan:
- Chủ tướng Mãn Châu kéo quân xâm lấn biên cương phía bắc, Thất Cách Cách mang đạo quân gián điệp ngấm ngầm lẻn vào năm tỉnh miền tây, như thế là thủ đoạn quang minh lỗi lạc hay sao?
Thất Cách Cách vụt đứng lên, giọng nàng run rẩy:
- Tổ Thiên Hương, cô bất quá là kẻ trốn chồng, cô không xứng đáng nói chuyện với ta, ta cho cô biết là dầu lời cô nói ra vàng ngọc, miệng cô có nở thành hoa, cũng không khi nào cải biến được ta đâu.
Thiên Hương vẫn ngồi bất động, nàng nhìn Thất Cách Cách và nói thật dịu dàng:
- Thất Cách Cách, tục ngữ thường nói:
“không ai nỡ đánh kẻ đang cười”, tôi và Mẫn Tuệ lấy thiện tâm thành ý đối với Cách Cách, thế thì Cách Cách nỡ đâu lại đối xử với tôi như thế?
Thất Cách Cách cười nhạt:
- Có gì mà không được? Cô bất quá là kẻ trốn chồng...
Tổ Thiên Hương cười tha thứ:
- Thất Cách Cách mắng tôi hơn thế nữa cũng được miễn Thất Cách Cách gật đầu ở lại thì tôi được yên lòng.
Thất Cách Cách lạnh lùng:
- Không khi nào, người Mãn Châu của chúng ta máu có thể chảy, đầu có thể rơi nhưng ý chí không khi nào thay đổi.
Thiên Hương nói:
- Thất Cách Cách, dầu gì Cách Cách cũng là con gái, cũng phải có chồng, tại làm sao lại không chọn một chỗ gởi gấm cho đúng theo ý nguyện của mình, tại sao lại không gởi gắm cuộc đời cho đúng người mà mình yêu thương? Thất Cách Cách là người trí tuệ, làm sao lại không được sự cảnh của mình, đáng lý phải thấy hơn ai hết về hậu của chuyến đi này, Thất Cách Cách đã lấy sự trung nghiõa làm đầu, cuối cùng mang lấy tội danh phản quốc, lại đoạn tống cả hạnh phúc của đời mình, thử hỏi Thất Cách Cách vì một cái gì?
Thất Cách Cách run rẩy đôi môi nhưng Thiên Hương đã nói luôn:
- Giá như trong chỗ sấu kín nhất trong lòng của Thất Cách Cách mà không có Đức Uy thì chắc chắn tôi không bao giờ nói, chắc Thất Cách Cách cũng biết rằng tôi đâu đến nỗi như kẻ bất thông lý sự, vì thế cho nên tôi thấy Thất Cách Cách phải vì hạnh phúc chung thân mà quyết tâm chọn lựa, vì thế cho nên tôi và Mẫn Tuệ đem cả lòng thành lưu giữ Cách Cách.
Thiên Hương nói được phân nửa câu thì Thất Cách Cách cúi đầu, cho đến khi dứt câu thì nàng ngồi trở lại...
Không khí vụt như ngưng đọng, không ai nói một lời nào, cả hai đều cúi mặt, trong lòng của cả hai hình như đã dốc hết những gì u uẩn.
Thật lâu, Thất Cách Cách ngẩng mặt lên, màn sương lạnh trên mặt nàng tan mất nhường chỗ những gì thiểu não nhất trên đời, nàng nói:
- Tổ thư thư, lòng tốt của thư thư, tôi biết, chúng ta đều là thân con gái, làm sao lại chẳng hiểu nhau. Tôi cũng không có gì xấu hổ, cũng không có gì cần phải giấu, tôi có thể nói hết những gì tôi mang nặng trong lòng... Tổ thư thư, đối với chàng tôi đã sớm bị lọt vào lưới tình không làm sao vùng thoát, nhưng vì hoàn cảnh vì lập trường hai bên xa thẳm, tôi cắn răng cam chịu, có nhiều lúc lời nói đã ra đầu lưỡi, tôi đành nghẹn ngào nuốt trở vào lòng...
Nàng ngưng, Thiên Hương cũng làm thình, hình như bây giờ im lặng là quí báu...
Hồi lâu, Thất Cách Cách nói tiếp:
- Tôi hiểu đâu là nơi gởi gắm đúng theo ý nguyện cua rmình, tôi cũng hiểu như thế nào là trao thân về cho kẻ thật sự thương yêu, tôi cũng hiểu đó là tâm nguyện lớn nhất, hạnh phúc chung thân của một người con gái, tôi biết hạnh phúc chung thân của tôi đang được quyết định ngay trong chuyến đi hay ở này đây, tôi cũng biết khi đi về tôi sẽ đối diện với một cái gì, thế nhưng Tổ thư thư, hay cùng thương nhau mà xét, tôi không thể nào làm thế được đâu... tôi đành phải chui đầu vào cái bi thảm trọn đời... Chư vị thư thư thương, nhưng chắc chắn chư vị thư thư không bao giờ có một người muội muội bất trung bất hiếu, bất nghĩa...
- Cách Cách...
Tiểu Hỷ ở trong phòng bên lao ra, nàng quì xuống gục đầu lên chân của Thất Cách Cách khóc rống.
Đức Uy, Mẫn Tuệ, Trần Ngọc Hà cũng bước ra theo, ai cũng đều cúi mặt nặng nề.
Đáng lý Trần Ngọc Hà không can dự, nhưng chữ tình buông lụy kẻ hồng nhàn, tuy không đồng hội nhưng vẫn là kẻ đồng thuyền, nàng không thể cầm được nước mắt.
Thất Cách Cách đưa bàn tay run rẩy vuốt tóc Tiểu Hỷ, một trong bốn tỳ nữ mà nàng đã xem như chị với em, nàng cười nụ cười cay xé lòng người:
- Tiểu muội muội, đừng làm như thế, lớn rồi, không sợ các chị cười sao?
Tiểu Hỷ nức nở:
- Cách Cách... không nên về, Cách Cách không nên về...
Thất Cách Cách ngẩng mặt nhìn Mẫn Tuệ:
- Dương thư thư, tình của thư thư đối với tôi, tôi sẽ ghi khắc trọn đời, thế nhưng tôi có cái khổ trong lòng tôi, mong Dương thư thư hãy lượng thứ.
Mẫn Tuệ run run:
- Thất Cách Cách, tôi mong hãy vì mình vì người, Cách Cách nghĩ lại mà đổi thay tâm ý...
Thất Cách Cách nói:
- Dương thư thư, đổi thay tâm ý thì dễ lắm nhưng khí tiết thì không làm sao đổi được. Đổi thay tâm ý là chuyện nhỏ, nhưng đổi thay khí tiết, để thành kẻ bất trung, bất hiếu, để thành thiên cổ tội nhân thì không thể xem là chuyện nhỏ, phải không?
Mẫn Tuệ cúi đầu, tất cả cúi đầu...
Thất Cách Cách quay qua, mắt nàng vừa chạm vào mắt Đức Uy là nàng vụt cúi đầu, những cũng thật nhanh, nàng ngẩng mặt lên. Nàng nhìn hắn, cái nhìn nhự.. tử biệt:
- Đức Uy, đáng lý chúng ta không nên sinh ở hai chủng tộc, đáng lý hai chủng tộc Hán, Mãn đừng có chiến tranh nhưng Đức Uy, bây giờ kiếp này đã thế rồi, đành hy vọng kiếp lai sinh!
Mắt nàng ráo hoảnh, nàng để cho nước mắt chảy về tim...
Nàng quay mặt ra, nhưng nàng đứng y một chỗ. Qua một lúc lâu nàng bước ra khỏi cửa.
- Cách Cách...
Tiểu Hỷ nhào ra ôm lấy chân nàng...
Thất Cách Cách đứng khựng, nàng chậm chậm quay mặt lại:
- Đúng rồi, tôi quên. Chư vị thư thư, xin chư vị thư thư chiếu cố cho Tiểu Hỷ, từ một nơi xa, tôi vẫn cảm thấy như đây là sự chiếu cố cho tôi. Tiểu Hỷ, ở lại với các chị đi em.
Nàng quay bước đi ra.
Tiểu Hỷ đứng phắt lên, nước mắt nàng ràn rụa nhưng giọng nàng rắn lại:
- Không, Cách Cách, tiểu tỳ cùng về với Cách Cách, có tội cùng chịu với Cách Cách, có chết cùng chết với Cách Cách.
Thất Cách Cách quay lại. Mặt nàng tái mét, thân nàng run rẩy nhưng môi nàng vẫn hé nụ cười:
- Cũng... phải, được rồi, Tiểu Hỷ, chúng ta cùng đi.
Mẫn Tuệ vụt kêu lên:
- Lý ca, hãy tiễn Cách Cách một đôi đường.
Lý Đức Uy bước tới.
Thất Cách Cách đưa tay cản lại:
- Đừng, đưa nhau ngàn dặm rồi cũng phải chia taỵ..
Mẫn Tuệ bước lên:
- Thất Cách Cách, cách biệt nhau lần này biết năm tháng nào gặp lại, Thất Cách Cách không để cho Lý ca nhìn thêm Thất Cách Cách đôi lần sao?
Thất Cách Cách cố hết sức nuốt vào nhưng nước mắt vẫn cứ trào ra:
- Dương thư thư, khổ như thế để làm chi!
Nàng dắt tay Tiểu Hỷ bước ra, nàng không dám quay lại.
Đức Uy chầm chậm bước theo.
Trong thư phòng, Mẫn Tuệ gục xuống bàn khóc ngất.
Tổ Thiên Hương bước lại đặt tay lên bờ vai run rẩy của cô gái họ Dương, nàng định nói lên một câu an ủi trong cơn xúc động thế nhưng nàng vừa hé miệng thì tiếng khóc cũng bật theo.
* * * Thất Cách Cách kéo tay Tiểu Hỷ im lặng bước đi.
Đức Uy im lặng theo sau, hắn cảm thấy như có một thoi đá ngàn cân đè lên lồng ngực.
Hắn nghẹn ngào, tức tối, hận vì không thể bật lên một tiếng kêu thật lớn cho vỡ tung lồng ngực, cho sụp một góc trời.
Từ thư phòng ra đến cửa chính, bình thường cũng khá dài, nhưng không biết tại sao bây giờ bỗâng nhiên như bị thu ngắn lại...
Đã tới cửa rồi, Đức Uy gom hết nghị lực bước nhanh tới kéo cánh cửa ra, từ trong hai hàm răng cắn chặt của hắn bật ra câu nói:
- Thất Cách Cách, tôi ở lại!
Thất Cách Cách lắc đầu:
- Đừng đưa nữa, đưa đến đâu rồi cũng phải chia tay.
Đức Uy nói:
- Thất Cách Cách hãy bảo trọng lấy mình!
Thất Cách Cách nhìn thẳng vào mặt người yêu, ánh mắt của nàng tan nát, đoạn trường.
Thật lâu, nàng nói qua hơi mỏng manh:
- Chàng cũng phải gắng mà bảo trọng.
Tiểu Hỷ vụt quì thụp xuống dập đầu về phía Đức Uy:
- Lý gia, tiểu tỳ xin bái biệt!
Đức Uy cúi xuống:
- Hỷ muội hãy đứng lên, rán mà lo cho Cách Cách.
Vành môi của Thất Cách Cách run run:
- Đức Uy, kiếp này vô vọng, kiếp sau thiếp nguyện theo chàng.
Đức Uy nghẹn ngào:
- Cách Cách...
Thất Cách Cách mấp máy môi nhưng rồi nàng vội bước nhanh ra khỏi cửa.
Đức Uy bước tới một bước, nhưng rồi đứng lại.
Trong khoảnh khắc, Thất Cách Cách bỗng như mất hẳn thăng bằng, nàng bước loạng choạng, tay nàng bấu chặt vào vai Tiểu Hỷ.
Đức Uy vùng khép ngay cửa lại, hắn không dám nhìn theo.
Từ xa xa, vó ngựa rập rền, hình như từ biên khu đổ lại...
Ngoài cổng, phía đông thành Trường An, bụi vụt cuốn lên...Đức Uy lắc đầu:
- Tôi tin Cô nương, nếu không thì tôi không chấp nhận, không cần phải làm như thế.
Tài sản của haitc

  #52  
Old 15-07-2008, 02:26 PM
haitc's Avatar
haitc haitc is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: May 2008
Bài gởi: 548
Thời gian online: 1 ngày 15 giờ 54 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 191 Times in 137 Posts
Chương 49
Binh Dậy Lửa Trường An


Vừa ngồi lên, Đức Uy bỗng nghe xương sống mình lành lạnh, hắn ngạc nhiên, đưa tay mò ra sau, quần áo phía trước đã khô nhưng dưới lưng hãy còn âm ẩm...
Nhìn xuống giường chỗ hắn vừa ngồi dậy, nơi đó vạt giường còn ướt nhiều hơn.
Đức Uy hiểu rất nhanh.
Hắn đã được người vớt lên từ dưới nước, nhưng không được người thay y phục, vì thế, thân trước nhờ hơi ẩm trong nhà, nhờ gió nên khô, còn bên dưới thì vẫn ướt.
Hắn hiểu như thế và chính cái hiểu đó làm cho hắn giật mình.
Có thể nằm trên giường này cho đến khô quần áo, nhất định phải trải qua một ngày, vì khi hắn rơi xuống nước thì đã quá ngọ rồi, người vớt hắn lên mà không thay dùm quần áo thì trong buổi chiều đến giờ không thể khô quần áo được.
Như thế hắn đã nằm ở đây suốt một ngày nữa rồi sao.
Cây đèn trong gian nhà tranh này phải có người đốt, vậy người đốt đèn đó ở đâu?
Hắn định thần và kêu nho nhỏ:
- Có ai đây không?
Bốn phía lạnh như tờ. Hắn gọi lớn hơn:
- Có ai ở đây không?
Chỉ có tiếng của hắn dội lại.
Bốn phía vẫn im rơ.
Người đi vì bận việc, hay là vì cứu không được hắn, thấy hắn chết nên sợ bỏ đi?
Cho dầu thế nào, trong nhà không người phải là chuyện mà cây đèn được đốt lên.
Đức Uy bước xuống giường, người hắn nhẹ, đầu hắn nặng, nhưng vẫn còn đi được.
Hắn vừa xuống giường thì ngọn đèn trên bàn nhỏ lại. Càng lúc càng nhỏ lại. Có thể đã cạn dầu.
Đèn cạn dầu là tắt, khoảng thời gian chợt thấy lu và đến tắt rất nhanh.
Đức Uy chưa bước lại gần bàn thì ngọn đèn tắt ngấm. Cách tắt của ngọn đèn quả đã hết dầu, hết lần rồi tắt.
Bây giờ thì bóng tối đã bao trùm.
Gian nhà tranh tuy nhỏ, nhưng vẫn có “tiền đường“, chổ Đức Uy nằm là gian buồng nhỏ, bước ra cửa là đụng “tiền đường“, cũng có thể gọi là “khách thính“ vì gian nhà nhỏ quá và trước nữa là đụng sân.
Trời tối, trong buồng càng tối, nhưng bước qua “khách thính“ nhờ sát cửa sân nên bóng tối loãng dần và chính vì bóng tối loãng ra nên Đứa Uy mới thấy bên ngoài tương đối rõ, hắn giật mình khựng lại.
Vầng trăng đầu tháng mập mờ rọi vào cửa trước, ánh sáng ngoài sân tràn vào, hắn thấy có một người nằm dưới đất. Nằm ngay trước cửa.
Người đó là người đàn ông trạc bốn mươi, mình mặc áo vải, tay xoắn vào trong, một vết dao từ đầu vai xả xéo vào tận ngực, toàn thân người đàn ông đầy máu, máu đọng vũng dưới đất.
Đức Uy đứng lại, định thần và bước tới.
Nhờ vào ánh sáng lờ mờ của vầng trăng, Đức Uy thấy màu da của người đàn ông xạm đen, hai bàn tay kịch cợm, chứng tỏ con người lao lực phong sương, một con người mưu sống bằng tay chân, bằng sức mạnh.
Vết thương khá nặng, đó là vết của một thanh đao, từ chót và chạy xéo một đường thật ngon vào giữa ngực, chứng tỏ hung thủ cầm cây đao vừa bén vừa nặng, sức mạnh cũng không phải tầm thường.
Người chết mắt vẫn trợn trừng, cách chết hãi hùng.
Căn cứ vào vết thương, căn cứa vào xác diện người chết, Đức Uy đoán ra người chết trong trường hợp bất phòng, trong khi nhận được nguy thì không còn thời gian tránh đỡ.
Người chết đó là ai?
Phải chăng là chủ nhân căn nhà này, phải chăng là người đã cứu mạng Đức Uy?
Căn cứ cách ăn mặc, người chết tương chứng là chủ nhân căn nhà nhỏ hẹp này, mà đã là người chủ gian nhà thì chín phần mười đúng là người đã cứu mạng hắn.
Người cứu mạng chưa kịp nghe kẻ được cứu nói tiếng tạ Ơn thì đã chết rồi. Lý Đức Uy bỗng nghe lòng mình chua xót.
Bằng vào dáng sắc, bằng vào cách ăn mặc đó, người chết đúng là một bá tánh thiện lương, hàng ngày sống vào sự lao lực của mình không tranh phân thiên hạ, thế nhưng vẫn chết một cách thê thảm, y như người trong giang hồ đã kết thù gây oán!
Không, người ấy chết vì đã cứu Lý Đức Uy.
Nhưng tại sao mình không chết?
Lý Đức Uy chỉ thắc mắc thoáng qua thôi, chính ra hắn đã chết rồi, hắn chỉ là một cái thây ma thì còn ai dư công đâu đểø cho thêm một đao cho mất thì giờ.
Thế nhưng hắn lại không chết, sức hắn, công lực của hắn không thể chết vào một tai nạn tầm thường như thế.
Đức Uy bước tới ngồi cạnh thây người đàn ông, da ông ta đã xám, máu đã đen và đông cứng.
Bằng vào sự lão luyện giang hồ, Đức Uy biết ngay lão này chết ít nhất cũng phải quá một ngày rồi.
Đúng, Đức Uy bị rơi xuống nước vào xế chiều, bây giờ là tối, hắn đã phải ở đây một đêm một ngày và cho tới đêm nay.
Như vậy có thể người này chết từ tối hôm qua.
Đúng rồi, bây giờ mới tối, ngọn đèn lại cạn dầu, nhất định ngọn đèn đã được đốt lên từ tối hôm qua.
Và như vậy, cái chòi tranh này ở trái ngõ đường, đã suốt một ngày rồi không có khách đi qua.
Đức Uy phải tự biết về công lực, về thời gian học võ của mình, nhưng đến bây giờ hắn mới chứng minh:
sức nổ phá núi không làm hắn chết, bị đuối dưới sông không làm hắn chết.
Nhưng giá như con người "sát nhân" này cẩn thận, cho hắn một đao trong lúc hắn hôn mê, có phải thật là oan uổng không?
Lý Đức Uy nhìn ngược về phía xa xa, hắn nhận ra nơi quen thuộc:
Bến Phong Lăng.
Như vậy tiếng nước chảy mà hắn nghe khi nãy không phải do dòng thác trong núi mà là tiếng nước sông Hoàng Hà.
Như vậy thì vị ân nhân này đã vớt hắn lên từ con sông Hoàng Hà tại Đồng Quan.
Tính ra từ khi rời Trường An đến bây giờ là đã quá ba ngày.
Lý Hoá Nghĩa đã về đến báo tin chưa?
Bọn Lý Tự Thành đã có thừa cơ công chiếm Trường An?
Đám Đào Đường Chủ và anh em Phân Đường Trường An và Dương Mẫn Tuệ, Tổ Thiên Hương có vì nóng lòng mà liều chết đi tới vùng núi mà hắn lâm nạn hay không?
Bao nhiêu nỗi lo dồn dập làm cho sức mạnh của Đức Uy trở về thật lẹ, hắn không nghe mệt mỏi, ê ẩm gì nữa cả, hắn đã có thể phi thân...
o O o Sau khi mai táng vị ân nhân ngay trước sân nhà của ông ta, Đức Uy đi nhanh về hướng bến đò.
Đồng Quan bây giờ thật là yên tịnh, cũng có thể còn cách thành hơi xa, vả lại giờ này thì trên đường làm gì có người đi?
Nhưng khi gần đến cửa thành, một việc đã làm cho Đức Uy khựng lại.
Tập tục của Đồng Quan, mà cũng là nghiêm luật của thành này, cứ đỏ đèn là các cửa thành đều đóng kín, mãi đến gà gáy mới mở ra, nhưng bây giờ, bây giờ mới tối chưa bao lâu, bây giờ có lẽ khoảng chừng canh một, thế mà cửa thành mở hoát.
Quả là một biến cố cực kỳ quan trọng.
Nhà không đóng cửa, có thể có nhiều lý do, nếu có thể để cửa suốt đêm cũng không phải là điều quan trọng, có thể nhà đó có cái đám ma, đám cưới, nhưng cửa thành thì quả là điều to tát.
Mang theo cả một tâm tình nóng như lửa đốt, Lý Đức Uy lao mình một mạch là tới cửa thành.
Tuy vẫn còn có ánh lửa, ánh đèn, nhưng khác hơn cửa thành, dân chúng nhà nhà đều đóng cửa.
Thành thì mở hoát, mà nhà thì cửa đóng im lìm, đúng là chuyện bất thường.
Tất cả dân chúng thành Đồng Quan rút cả trong nhà.
Mỗi nhà, cửa đóng kín và cài then cẩn thận.
Tại làm sao? Tại làm sao lại có chuyện dị kỳ như thế?
Trong óc Lý Đức Uy xoáy vần câu hỏi, nhưng làm sao có được sự giải đáp, nếu không có kẻ trả lời.
Thình lình tia mắt Đức Uy dán đứng vào một chổ.
Ngay một ngã ba, gần ngoài đầu đường có một bóng đen đen.
Bằng tia mắt giang hồ, Đức Uy nhận ra ngay đó là một lão già tóc bạc phơ phơ, dáng sắc thật tiều tuỵ đang ngồi bó gối bên đường.
Oâng ta khoảng ngoài sáu mươi, cách ăn mặc không tệ lắm, nhưng bây giờ thì từ đâu đến chân bụi cát đã phủ đầy, ông ta đang ngồi dáng như ngủ gật.
Một lão già ăn mặc tử tế như thế, tại sao lại có vẻ phong trần, tại sao không về nhà mà ngồi ngủ gật ngoài đường như người hành khất?
Bằng vào cách ăn vận đó, không những lão già này không đến đỗi không nhà, mà lão phải còn có nhà thật khang trang, dáng lão là hạng phú ông chớ không phải là dân ngủ đường ngủ sá.
Lý Đức Uy đằng hắng và lên tiếng:
- Lão trượng.
Lão già giật mình ngước mặt lên mở mắt, đôi mắt thất thần, đôi mắt kinh hoàng mỏi mệt.
Dáng cách của lão thật là kỳ cục, trông nét mặt lão hình như giá mà chân tường có lổ chui vào là lão cũng sẽ chui vào ngay.
Lý Đức Uy dịu giọng:
- Lão trượng đừng sợ, tôi chỉ là kẻ qua đường.
Lão già nhìn vào mặt Lý Đức Uy, đôi mắt của lão chuyển sang vẻ ngạc nhiên, lão ấp úng:
- Tôi... tôi chạy nạn.
Đức Uy cau mặt:
- Lão trượng từ đâu tới?
Lão già đáp:
- Trường An.
Như tiếng sét đánh bưng tai, Lý Đức Uy hỏi lại:
- Lão trượng, Trường An đã... làm sao?
Lão già bây giờ đã hơi vững lại, lão nói:
- Trường An đã khởi binh đao, nghe nói là người của Sấm Vương tràn đến, Chết nhiều lắm, nhà tôi mười mấy người chạy thoát chỉ một mình tôi, đã hai ba ngày trời không ăn không uống...
Lão vùng ôm mặt khóc rống, nhưng giọng khóc của lão bây giờ cũng không còn đủ hơi, thứ khóc tức tưởi đứt quảng nghe càng đứt ruột.
Lý Đức Uy toàn thân lạnh toát, hắn run giọng hỏi:
- Lão trượng, còn... binh của triều đình?
Cũng may hai lần thọ nạn, thắt lưng của Đức Uy vẫn còn nguyên trong người, hắn móc ra một đính bạc ném nhẹ xuống chân lão già và tung mình ra cửa ải...
Lão già sửng sốt nhìn theo, cho đến khi lão giật mình phát hiện Đức Uy nhắm về hướng Trường An, lão mới vụt kêu lên:
- Không được... tráng sĩ... Trường An không đến được...
Nhưng bây giờ thì Đức Uy còn tâm tình đâu nữa để mà nghe thấy...
Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn biết rằng Trường An binh lửa đã dấy lên, quân của "Sấm Vương" Lý Tự Thành đã tràn vào tàn sát bá tánh, binh triều đã đại bại... Và Trường An mà mất năm tỉnh miền Tây, phân nửa giang sơn sẽ không còn.
Bây giờ thì cái gì hắn cũng đã rõ rồi, bây giờ thì chuyện của thành Đồng Quan bỏ trống, bá tánh đóng kín cửa rút ở trong nhà...
Tất cả đều vì Trường An đã mất.
Hắn không còn màng gì nữa cả, hắn phải có mặt tại Trường An.
Hy vọng mà nghĩa phụ hắn đã ký thác trong tay hắn bây giờ coi như mất hết!
Lão già đã kêu khan giọng, nhưng hắn không còn nghe nữa.
Lão già lại co mình run rẩy vào chân tường, lão đưa bàn tay lật bật ra cầm lấy nén bạc miệng lão lầm thầm:
- Trời cao, xin hãy phù hộ cho những kẻ có lòng... Xin trời phù hộ kẻ có lòng...
o O o Đã là một người bằng xương bằng thịt, cho dầu công lực cao thâm cách mấy cũng vẫn phải sống nhờ ăn nhờ uống.
Ngót hai ngày rồi không một miếng gì vô bụng, lúc tại Đồng Quan khi hay tin dữ, Lý Đức Uy không còn nhớ gì hơn là nhớ chuyện Trường An thất thủ, nhưng bây giờ, sau một lúc tận dụng sức lực để phi thân, hắn bỗng nghe thấy tay chân bải hoải.
Khát, đói, mệt nhọc, càng đói khát sự mệt nhọc càng lại đến thật mau, trong bao tử đã trống không thì lộ đồ càng dao viễn.
Khi ra đi, hắn cũng định sẽ tìm ăn ở dọc đường, nhưng trải qua Hoa Aâm, Hoa Huyện, Vị Nam, rồi Lâm Đồng, từ những tửu điếm lớn, cho đến những quán ăn nho nhỏ, không một nơi nào mở cửa, cho đến những quán cóc cũng hầu như đã dẹp luôn.
Không qua một chuyện là không biết thêm một điều hay, giữa lúc binh hoang mã loạn, giữa lúc khói lửa tung hoành này, trong mình có vàng thoi bạc nén cũng kể như sỏi đá.
Trong cơn đao kiếm rộn ràng, lo cho thân mình còn không thể, làm sao nghĩ đến chuyện bán buôn cho người khác. Một thoi vàng bình thường có thể tạo được nhà cao cửa rộng, nhưng trong thời khói lửa cất cao này, đổi lấy một bát cơm thiu chưa chắc đã ra.
Mới ngày nào "Bá Kiều" rộn ràng tài tử giai nhân, bây giờ giữa ban ngày đứng cả buổi không thấy bóng người qua lại, không khí trông đến lạnh người.
Đức Uy đã từng ngồi uống rượu tại cái quán đồ sộ là "Lều cỏ" ở đầu cầu, từng tại nơi đây giết bọn "Hán gian", từng tại nơi đây chứng kiến cảnh "ngựa xe như nước", thế nhưng bây giờ gần như một bãi đất hoang vu những mấy trăm năm, không một dấu chân người.
"Lều" hãy còn đây, nhưng mái đã sụp nghiêng, bàn ghế còn đây, nhưng mặt trầy chân gẫy nằm xiêu vẹo, bếp bồi, chén bát hãy còn đây, nhưng mỗi thứ một nơi sứt mẻ lăn lóc, bụi đất bám đầy...
Nhìn xa xa về cửa thành Trường An, lá cờ vàng trên vọng lâu bay phất phới, Trường An đã mất màu cờ, lòng của Đức Uy như vạn mũi kim châm.
Người trong thành của Trường An đã ra sao? Những ức vạn sanh linh của Tây Ngũ Tỉnh đã ra sao?
Giữ trong mình "Ngân Bài Lịnh" với nhiệm vụ bảo vệ Trường An, bảo vệ Tây Ngũ Tỉnh không cho rơi vào tay bọn Mãn Châu, ngày nay Mãn Châu chưa thấy mà Trường An đã mất vào tay bọn phản loạn Lý Tự Thành.
Làm sao nhìn lại "Ngân Bài Lịnh", làm sao đối với phân nửa giang sơn, làm sao đối với hàng ức vạn bá tánh Tây Ngũ Tỉnh?
Lòng Lý Đức Uy chợt nghe như lửa đốt, mồ hôi đổ dầm mình...
- Lý Gia!
Tiếng kêu thảng thốt vang lên làm cho Đức Uy giật mình quay lại, bên kia "Bá Kiều" dưới lùm cây rậm, một gã thiếu niên ăn mày đưa tay vẫy vẫy:
"Tam Tuấn" Lăng Phong.
Chỉ hai cái nhún chân là Đức Uy đã đến sát bên, hắn chụp lấy tay người thiếu niên khất cái và dồn dập hỏi:
- Làm sao? Lăng huynh đệ? Làm sao bọn Lý Tự Thành lại lấy được Trường An? Làm sao? Binh mã Tây Ngũ Tỉnh ở đâu? Tại sao?
Lăng Phong vụt nghẹn ngào:
- Lý gia, nơi này không thể nói chuyện lâu, chúng ta hãy tìm chỗ khác.
Đức Uy hỏi:
- Ở đâu?
Lăng Phong nói:
- Lý gia hãy theo tôi.
Vừa nói hắn vừa quay mình đi vòng theo những bụi um tùm, ven theo dòng sông đổ xuống hướng Tây.
Đức Uy bám sát theo sau.
Đi như thế gần trăm trượng, Lăng Phong vạch lau lên khỏi bìa sông và đi vào một đám rừng chồi.
Trong một bụi cây, hắn lôi ra một chiếu rách trải lên một lớp rơm khô.
Đúng là "chổ ở" của Lăng Phong.
Vừa ngồi xuống là Lý Đức Uy đã hỏi:
- Đào Đường Chủ và anh em ở đâu?
Lăng Phong đáp:
- Khoan hỏi, Lý gia, hãy nghỉ một chút đã.
Quả thật, Lăng Phong nhìn đã rõ rồi, Lý Đức Uy quả đã mệt lắm rồi.
Hắn ngồi dựa vào gốc cây thở dốc.
Lăng Phong lôi trong bọc ra một mớ lương khô, bánh khô, hắn nói:
- Lý gia, có sẵn thức ăn, bây giờ xin Lý gia hãy bớt nóng lòng, công việc thong thả rồi mới tính được.
Đức Uy gật đầu:
- Lăng huynh đệ cứ để đó đi, tôi chưa ăn vội bây giờ đâu.
Lăng Phong nói:
- Sự tình đã đến mức mà mình có muốn gấp cũng không làm gì hơn được, nó đã trở thành chuyện lâu dài. Phải thật tình mà nói, trong hoàn cảnh của tôi còn gấp hơn Lý gia nhiều lắm, mỗi ngày cứ ra bên ngoài đầu cầu đứng trông Lý gia, một phút trong tình trạng này bằng một năm ở những lúc bình thường, có nhiều lúc tưởng mình sẽ điên lên được...
Đức Uy thở ra:
- Tôi về thật trễ...
Lăng Phong lặng đi một lúc để trấn ép cơn xúc động rồi mới hỏi:
- Tại sao mãi đến hôm nay Lý gia mới về?
Đức Uy nói:
- Tự nhiên là phải nói cho Lăng huynh đệ biết, nhưng Lăng huynh đệ hãy nói cho tôi biết tình hình, Đào Đường Chủ và anh em ở Phân Đường Trường An...
Lăng Phong nhếch môi, hắn cười như gom cả sự đau thương vào câu nói:
- Chỉ còn một mình tôi, mà chính vì cần phải có người đủ khả năng báo cáo tình hình cho Lý gia, nên Đào Đường Chủ buộc tôi phải rời Trường An trước, chớ nếu không thì cũng không thể còn lại...
Hắn nghẹn ngang như nấc cục...
Đức Uy cũng không cần phải nghe thêm. Hắn biết cả rồi và hắn cảm nghe lồng ngực như chực nổ tung, hắn hỏi:
- Toàn do đám Lý Tự Thành phải không?
- Khi Trường An bị mất thì tôi đã đi khỏi thành rồi, sau khi mất, tôi mới tìm cách trở về, thì tất cả, Đào Đường Chủ và anh em nằm trước Đô Đốc Phủ, không còn một người nào toàn vẹn thi hài...
Đức Uy nghiến răng:
- Thật là ác, thật là độc!
- Trong thành bây giờ phòng thủ khá nghiêm mật, tôi tìm hết cách vẫn không làm sao đưa được chư vị ra ngoài, đành phải trơ mắt nhìn và để y nơi đó! Đó là chuyện của ba hôm trước, còn bây giờ không biết đã ra sao.
Lý Đức Uy chắc lưỡi:
- Chỉ tại vì tôi, tại vì một con người của tôi mà hư tất cả, tại vì tôi mà Trường An bị mất, Tây Ngũ Tỉnh không còn, tại vì tôi mà sanh linh trong phân nữa giang sơn này đồ thán...
Lăng Phong lắc đầu:
- Không phải như thế và cũng đừng nên nói như thế, Lý gia, đó là số kiếp, đó là mạng vận, giữ nhà, giữ nước, không phải chuyện của một cá nhân, nếu cần quy trách nhiệm thì phải nói thẳng rằng triều đình bất lực, từ chuyện này nối tiếp chuyện kia, chớ không phải vì một vấn đề. Chúng ta cố lo phòng bọn Mãn Châu, thế mà không ngờ bọn Lý Tự Thành lại thừa cơ nổi loạn.
Lý Đức Uy chắc lưỡi:
- Xin Lăng huynh đệ cho tôi hỏi về Dương tiểu thơ và nhị vị cô nương họ Tổ, họ Trần?
Lăng Phong lắc đầu:
- Chỉ tìm thấy đủ thi hài của Đào Đường Chủ và anh em Phân Đường Trường An, ba cô nương không thấy mà cũng không nghe tin tức.
Đức Uy cau mặt:
- Ba người ấy đi đâu...
Lăng Phong lắc đầu:
- Không thể biết được, vì khi thành mất thì tôi không có mặt, nhưng Dương tiểu thơ là người cơ trí, có thể ba vị đã bình yên thoát đi sớm rồi...
Đức Uy làm thinh như chết lặng, một lúc sau hắn mới thở dài:
- Cũng mong như thế... Dương tiểu thơ là người duy nhất còn lại của một vị lão thần, Tổ Thiên Hương và Trần Ngọc Hà trung trinh lưu giữ Đô Đốc Phủ, hai người được xem là ký thác vào một tay tôi, tôi không thể bảo vệ được Đô Đốc Phủ là một tội không sao đền đáp được...
Lăng Phong nói:
- Người lành trời giúp, tôi tin rằng ba vị cô nương ấy đã bình yên thoát nạn.
Đức Uy hỏi:
- Còn đám Mãn Châu và vây cánh của hai thế lực của nhà họ Tổ, họ Nam Cung có thấy động tịnh gì không?
Lăng Phong lắc đầu:
- Lúc thành loạn, không thấy chúng lộ diện, thành bị mất trong mấy ngày nay cũng không thấy chúng động tịnh. Sự thật thì trong những ngày nay, trong thành người vắng đến mức thấy mà đau lòng, có thể nói trừ tôi vá Lý gia thì không có bóng người lai vãng.
Đức Uy cau mặt:
- Lý Tự Thành là con người ra sao, làm sao hắn có được lực lượng hùng hậu như thế ấy?
Lăng Phong đáp:
- Điều đó thì tôi đã điều tra tương đối rõ ràng, Lý Tự Thành là người ở Mễ Dương, tên chữ là Hoàng Lai, sau cải là Hồng Cơ, sau này tự xưng là Lý Tự Thành còn Hồng Cơ lấy làm hiệu. Trong cơn loạn binh Mãn Châu từ biên cương hắn theo làm đội trưởng dưới trướng của Tổng Binh Cam Châu, sau đó hắn thông đồng với Tổng Binh Vương Tu đoạt lấy Kim Huyện, lại liên kết với Cao Ngang Tường chiêu binh mã, thanh thế ngày một lớn lên, những ngày gần đây, hắn vung vàng bạc mua chuộc đám thủ hạ của Đông Chỉ Huy Sứ Thiểm Tây, bọn thuộc hạ lại tâng nịnh Đô Chỉ Huy Sứ Trần Kỳ Du, có lẻ vì Dương Đô Đốc hồi kinh làm cho Trần Kỳ Du đâm sợ nên bằng lòng liên kết để cho bọn áo vàng Lý Tự Thành được tự do đi lại trong Trường An, vì thế chỉ trong một đêm, chúng làm thế nội ứng ngoại hiệp lấy thành trong nháy mắt...
Đức Uy chắc lưỡi:
- Trần Kỳ Du thật hồ đồ, nhưng không lẽ chuyện như thế hắn lại không tham khảo ý kiến Dương tiểu muội?
Lăng Phong lắc đầu:
- Chuyện cấu kết với Lý Tự Thành, cho chúng tự do đi lại trong Trường An nhất định Dương tiểu thơ không biết, vì Trần Thừa Du thừa hiểu Dương tiểu thơ nhất định không khi nào bằng lòng cho nên hắn đâu lại đem ra bàn bạc. Nhất là khi mà ngọc vàng châu báo được bọn Lý Tự Thành dâng đến tay rồi, chúng tự nhiên phải ngậm miệng làm thinh, chỉ tội một điều là những kẻ ấy mất thành rồi cũng không còn sống sót.
Đức Uy nghiến răng:
- Đúng là triều đình tin dùng bọn tham ô cho nên nước loạn...
Lăng Phong gật đầu:
- Thêm vào đó lại trùng hợp chuyện Đô Đốc đại nhân thọ nạn, Lý gia thì về trễ...
Đức Uy sực nhớ hỏi:
- Thế còn hộ vệ Lý Hoá Nghĩa? Tôi đã cho về trước phi báo...
Lăng Phong lắc đầu:
- Không thấy Lý Hoá Nghĩa, nếu có tin thì cũng chưa chắc đến nổi này.
Đức Uy thở ra:
- Như vậy Lý Hoá Nghĩa chắc chắn không thoát khỏi độc thủ của Lý Tự Thành ở dọc đường...
Lăng Phong e dè hỏi:
- Lý gia, nếu như thế thì chắc Đô Đốc đại nhân...
Đức Uy run giọng:
- Tôi không dám đoán định,nhưng nếu vạn nhất mà Đô Đốc đại nhân có mệnh hệ nào, Lý Tự Thành phải được phân thây vạn đoạn...
Lăng Phong lắc đầu:
- Hắn đâu biết tội là gì, nếu không thế thì hắn đâu tạo phản.
Đức Uy nghiến răng:
- Nhưng kẻ đáng giết trước hết là Tào Hoá Thuần. Tuy bọn Lý Tự Thành cố tìm cách che đậy, nhưng tôi biết không phải chúng giả mà là do Tào Hoá Thuần thông đồng và chúng tôi đã thấy Tào Hoá Thuần tại Đô Đốc Phủ hắn là con người thật chớ không phải người khác giả trang.
Lăng Phong nói:
- Thế nhưng từ trong Kinh lại không có tin cho biết hắn đến Trường An.
Đức Uy nói:
- Tào Hoá Thuần mới có thể lén đóng Ngọc Tỷ để mạo mật chiếu, chỉ có hắn mới làm được chuyện ấy, hắn đã đem phân nửa giang sơn này mà dâng cho Lý Tự Thành.
Ta phải giết hắn trước.
Lăng Phong cau mặt:
- Lý gia định hồi Kinh?
Đức Uy nói:
- Trường An mất, phân nửa giang sơn miền Tây kể như không giữ được, phải trừ Tào Hoá Thuần để tránh thêm những tai hại mà hắn có thể tiếp tục diễn ra, thứ hai là phải phòng Lý Tự Thành thừa cơ hội đánh phá Kinh Sư, trong khi lực lượng triều đình còn phải chống đỡ Mãn Châu về mạn Bắc.
Lăng Phong nói:
- Bọn Lý Tự Thành không thể khuấy nhiễu Kinh Sư sớm được đâu!
Đức Uy hỏi:
- Làm sao có thể đoán quyết?
Lăng Phong nói:
- Hiện tại Lý Tự Thành đang “lập quốc” tại Trường An, nghe đâu hắn lấy niên hiệu khai nguyên bằng chữ “Thuận”, hắn đang lo thiết lập cung điện, sửa soạn khoa cử để mưu chọn kẻ tài năng trục lợi, hắn đang có trong tay tất cả kho tàng của Trường An, nên cố rãi ra để chiêu binh, để chọn tướng, bao nhiêu công việc như thế, chắc chắn hắn chưa thể tính chuyện đánh lên Bắc Kinh.
Lý Đức Uy hỏi:
- Lý Tự Thành hiện có mặt tại Trường An không?
Lăng Phong lắc đầu:
- Điều đó thì không thể biết, chỉ nghe nói đến binh lực chớ chưa ai nghe thấy tận mặt Lý Tự Thành...
Đức Uy cau mặt trầm ngâm không nói...
Tài sản của haitc

  #53  
Old 15-07-2008, 02:27 PM
haitc's Avatar
haitc haitc is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: May 2008
Bài gởi: 548
Thời gian online: 1 ngày 15 giờ 54 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 191 Times in 137 Posts
Chương 50
Đột Nhập Trường An


Ngẫm nghĩ hồi lâu, Đức Uy nói:
- Về chuyện này thì không thể không phòng, chúng có thể giương đông kích tây, giả tính chuyện xưng vương tại Trường An để rồi âm thầm điều động nhân mã đánh về Kinh sư...
Lăng Phong hỏi:
- Lý gia thấy chúng có thể làm như thế hay không?
Đức Uy đáp:
- Không dám đoán chắc như thế nào cả, nhưng nếu có chuẩn bị thì cũng sẽ khỏi lo hậu hoạn, đề phòng trước vẫn là hơn. Vì theo tôi biết dưới tay của Lý Tự Thành có nhiều mưu sĩ lắm, chúng ta không thể khinh thường.
Lăng Phong ngẫm nghĩ rồi nói:
- Nếu đã thế thì tại sao mình lại không thể vào thành để dọ thám cho chắc hơn?
Đức Uy gật đầu:
- Chính tôi cũng đang muốn như thế ấy.
Vừa nói là hắn vừa đứng dậy.
Lăng Phong lật đật kéo tay Đức Uy, chỉ cái gói lương khô và nói:
- Khoan, dầu gì cũng phải ăn, phải no mới có sức. Tôi biết mấy ngày nay Lý gia đói lắm, phải gắng ăn mới đủ tinh thần hành sự.
Đức Uy ngồi xuống cười gượng:
- Thật sự thì mấy ngày không ăn uống gì cả, nhưng giờ đây lòng nóng như lửa đốt, cho dầu sơn trân hải vị chắc cũng khó nuốt trôi.
Lăng Phong nói:
- Con người không phải sắt đá, dầu gì Lý gia cũng cần phải bảo trì sức khỏe vì công việc hãy còn dài...
Quả thật, một khi bụng trống rồi thì chẳng những thể lực không thể giữ được mà tinh thần cũng sẽ lụn bại theo và thể lực đều không còn phấn chấn thì mọi việc kể như đình trệ.
Đức Uy biết Lăng Phong nói phải và cũng biết mình không thể không ăn, hắn ngồi xuống tiếp lấy gói bánh khô và nói:
- Đúng rồi, Lăng huynh đệ, chúng ta chia hai.
Lăng Phong lắc đầu:
- Tôi đã có ăn rồi, Lý gia hãy ăn đi.
Đức Uy bẻ hai cái bánh trao cho Lăng Phong phân nửa nói:
- Ăn thì ăn cả, không thì nhịn cả, Lăng huynh đệ hãy ăn đi, thứ bánh khô này no dai lắm, ăn phân nửa đã là nhiều lắm rồi đó.
Lăng Phong cẩm nửa cái bánh cho vào miệng cắn một miếng rồi ngồi thẩn người một lúc khá lâu vẫn chưa nhai và đôi mắt hắn vụt đỏ hoe...
Hắn nói nghe nghẹn đặc:
- Gói lương khô này, khi tôi lìa khỏi thành trước ngày bị mất, chính Vân Phân Đường Chủ đã chuẩn bị dành sẵn cho tôi...
Đức Uy chợt nghe như mình đang cắn vào khối đá, hắn ngồi lặng một hồi rồi ngẫng mặt lên nói bằng một giọng cương nghị lạ lùng:
- Lăng huynh đệ, chúng ta phải nhớ đến người đã chết, chúng ta đừng phụ lòng Vân Phân Đường Chủ, ăn đi. Ăn rồi lo chuyện báo thù.
Lăng Phong tiếp tục ăn, hắn làm thinh và cố ăn cho hết.
Lý Đức Uy nói đúng. Phải ăn, phải uống để vận dụng sức lực và trí óc của mình, để vì người chết mà phục thù. Không phải riêng một Văn Tiêu, mà là bá tánh, không phải riêng bá tánh của Trường An, của Tây Ngũ Đỉnh mà bá tánh Trung Nguyên.
o O o Hoàng hôn đã phủ kín màu đen.
Trường An thành im lìm trong màu đen tối, thứ im lìm đầy dẫy cạm bẫy và chết chóc.
Cửa thành mở thoát, nhưng người ra vào không thấy một ai, luôn cả chó mèo cũng không thấy dạng, thật đúng với câu “binh hoang mã loạn, kê khuyển bất văn”! Đến cả chó gà cũng không còn nghe tiếng.
Cứ theo tình hình này thì tại Khai Nguyên Tử, nơi phồn thịnh nhất của Trường An chắc chắn bây giờ cũng không có người nào.
Bây giờ thì lá cờ vàng trên vọng gác cửa thành đã thấy rất rõ nét, chữ “Lý” màu đỏ ngay chính giữa lá cờ vàng.
Nhìn chăm vào hai ngọn đèn lồng ở hai bên cửa, Lăng Phong cau mặt:
- Mới hôm qua cửa thành còn đóng chặt không cho ai ra vào, thế sao hôm nay lại mở toát ra thế này?
Đức Uy mím môi:
- Hay là chúng đã biết tôi về?
Lăng Phong nhướng mắt:
- Đúng rồi, họ có người biết mặt Lý gia mà!
Đức Uy gật đầu:
- Biết, nhưng không nhiều lắm. Không biết trong bóng tối như thế nào, chớ chạm tận mặt thì chỉ có bảy tên, trong đó đã chết hết hai.
Lăng Phong chỉ vào cửa thành, vào mấy tên lính mang đao đi qua đi lại và nói với Đức Uy:
- Nếu chúng đặt một tên biết mặt Lý gia giữ cửa đó, thì chuyện mình đi vào chắc chắn sẽ có chuyện phiền phức xảy ra ngay.
Đức Uy gật đầu:
- Lăng huynh đệ nhắc tôi mới nhớ, hay là chúng ta đừng vào cửa mà tìm cách khác có lẽ ổn hơn.
Lăng Phong đảo quanh đôi mắt:
- Phải rồi, Lý gia hãy theo tôi, nhảy vào đầu tường là nguy hiểm, vì bên trong chúng canh phòng cẩn mật lắm, tôi có biết một chỗ mà chúng không bao giờ chú ý.
Hắn quay mình đi ngược xuống hướng Đông.
Đi được chừng bốn năm mươi trượng, Lăng Phong dừng lại nói:
- Chỗ này!
Đức Uy theo tay hắn chỉ, nhìn xuống chân tường thấy nơi đó có một chỗ trống chừa cho nước từ trong thành thoát ra, nhưng bây giờ thì nước chảy rất ít. Người muốn vào thì phải khom mình bò mới có thể lọt được.
Chung quanh chỗ để thoát nước nhờ đất ẩm nên cỏ mọc xanh rì sầm khuất, đúng là chỗ mà không ai để ý.
Đức Uy hỏi:
- Nơi này còn có những chấn song sắt đó thì phải làm sao?
Lăng Phong đáp:
- Mấy ngày trước tôi đã vào rồi, những song sắt đó tôi đã làm hỏng chân, bây giờ thì chỉ cắm hờ, lấy lên rất dễ.
Vừa nói, hắn vừa ngồi xuống lắc lắc mấy song sắt kéo ra và nói:
- Tôi vào trước, xin Lý gia ẩn nhẫn vì đây là chuyện phải tòng quyền.
Không có cách nào hơn nữa, Lý Đức Uy cũng đành phải khom mình chui xuống theo.
Vào trong rồi, Lăng Phong lại cắm mấy song sắt vào chỗ cũ, hắn làm việc thật gọn và thật nhanh và khi đứng lên, hắn hỏi:
- Lý gia, chúng ta nên đến đâu trước?
Lý Đức Uy nói:
- Tôi muốn đến Đô Đốc Phủ.
Lăng Phong gật đầu:
- Lý gia hãy theo tôi.
Tuy ở lại Trường An lâu không bằng Đức Uy, nhưng cái nghề thu lượm tin tức đã làm cho Lăng Phong phải rành đường, nhứt là những con đường tránh mắt thiên hạ, vì thế, khi được hắn dẫn đi, Đức Uy mới cảm thấy nếu mà theo bóng tối thì thật mình không bằng hắn.
Vừa kinh nghiệm mà cũng nhiều lịch duyệt, còn cách Đô Đốc Phủ chừng hơn mười trượng, Lăng Phong vội ẩn ngay vào bóng tối.
Biết ý Lăng Phong, Lý Đức Uy cũng vội theo vào, hắn đưa mắt quan sát, đúng y nhưng lời Lăng Phong đã nói, Đô Đốc Phủ bị diệt hoàn toàn.
Một trong hai cánh cửa đã bị ngã xiêu qua bên trái, dọc theo tường nhiều chỗ bị sụp, cột cờ trước phủ hãy còn nhưng không có lá cờ nào, xâu đèn lồng cũng còn đong đưa trước gió, tự nhiên là không có ngọn nào cháy cả.
Nhìn xuyên vào những chỗ sụp của tường, bên trong không thấy một bóng người nào, cũng không nghe tiếng động.
Trước sau chỉ có mấy ngày, Đô Đốc Phủ thay đổi thật mau.
Ngôi lầu phía sau, nơi Dương Mẫn Tuệ, Tổ Thiên Hương và Trần Ngọc Hà trú ngụ cũng vẫn còn, nhưng chắc chắn là lầu trống. Bất giác Đức Uy bỗng nhớ bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu “Người xưa cỡi Hạc mất đi rồi, lầu cũ còn trơ chốn ấy thôi...” hắn bật tiếng thở dài trong bóng tối.
Có phải cả ba người con gái đã thoát vòng vây hay là ngộ nạn?
Đức Uy bần thần ray rứt...
Lăng Phong hỏi nhỏ:
- Lý gia, chúng ta có nên vào đó hay không?
Đức Uy gật đầu:
- Vào.
Không đợi đến tiếng thứ hai, Lăng Phong đã tung mình theo bóng tối vượt thẳng vào trong.
Lý Đức Uy gật gù và phóng theo sau.
Hắn nhìn rõ lối vào của Lăng Phong, quả xứng danh là “Tam Tuấn” của Tổng Đường Cùng Gia Bang, thân pháp của hắn đã vững vàng mà khả năng phòng vệ của hắn cũng hơn người.
Hai người kẻ trước người sau tiến vào Đô Đốc Phủ một cách hết sức nhẹ nhàng.
Hình như rất biết tâm ý của Lý Đức Uy nên Lăng Phong đi thẳng vào hậu viện.
Nơi đây không có dấu vết giao tranh, từ dãy hành lang, đến ngôi nhà mát, tàng cây, bụi cúc, tất cả còn nguyên, chỉ có điều im lặng vắng tanh.
Nhìn cảnh cũ mới mấy ngày trước đây mà Lý Đức Uy cảm thấy như xa vắng tự bao giờ, lòng hắn vô cùng chua xót.
Lăng Phong hỏi:
- Có cần xem xét khắp chỗ hay không?
Đức Uy lắc đầu:
- Không.
Hắn chỉ đáp một tiếng thôi, hình như sự chua xót trong lòng đã làm cho hắn không còn có thể nói gì hơn nữa...
Lăng Phong nhìn quanh và áo não:
- Thi thể Đào Đường Chủ và tất cả anh em đều không thấy...
Đức Uy nói:
- Cũng có thể họ đã chôn rồi.
Một giọng nói vụt phát lên từ góc lầu sau trong bóng tối, giọng nói ồ ề:
- Chết nhiều lắm, họ đâu có thèm chôn, chỉ có bạn mới cố gắng làm chuyện đó mà thôi.
Lăng Phong biến sắc, hắn bước lên đứng án sau lưng Lý Đức Uy:
- Vị cao nhân nào ẩn thân nơi đó?
Có tiếng trả lời:
- Làm gì dám nhận là “cao nhân”? Lão già “Cùng” đây mà, một thứ với chú bé đó.
Đức Uy buột miệng kêu lên:
- Mông lão!
Từ trong bóng tối phía sau, thoáng ra một người, đúng là “Cùng Thần” Mông Bất Danh.
Mông Bất Danh vẫn là Mông Bất Danh, nhưng so với trước đây hoàn toàn đổi khác.
Con người từ thái độ đến sắc thái, coi trời không bằng cái vung ngày nào bây giờ không còn nữa, bây giờ là một lão già trầm trọng, thần thái nặng nề.
Lăng Phong bước tới vòng tay:
- Tiểu sanh xin bái kiến Mông tiền bối.
Mông Bất Danh khoát tay:
- Nơi đây đừng giữ lễ, thi thể Đào Nhứt Thọ và tất cả anh em Phân Đường Trường An, ta đã đem chôn phía sau lầu, chú hãy bớt lo một chút đi.
Đức Uy cúi đầu:
- Đa tạ Mông lão!
Mông Bất Danh nói:
- Lý Tự Thành công hãm Trường An, hắn đoạt tất cả công khố và tài sản dân gian và cử người trấn thủ nơi dây, còn chính hắn thì cử binh qua sông đánh ngược lên hướng bắc, chúng đã chiếm những phủ thành từ dãy Lâm Chữ thẳng đến Tô Châu. Nghe đâu hắn cũng gởi điệp văn vào Kinh hẹn mồng mười tháng ba sẽ nhập kinh.
Đức Uy nắm cứng hai tay rít giọng:
- Thật là cuồng vọng.
Mông Bất Danh nói:
- Đó là mới để Lý Tự Thành, còn Trương Hiến Trung nữa. Hắn là một tên tham ô dâm loạn, đào vọng ra miệt Quang Trung năm xưa. Mấy năm trước đây có một tên gọi là Vương Gia Dận tác loạn, hắn nhờ vào phe đó và tự xưng là “Bát Đại Vương”, sau được Hồng Thư Trừ phủ dụ, nhưng sau khi Hồng Thừa Dụ bị Mãn Châu bắt thì hắn lại nổi loạn trở lại, tiếm hiệu là “Tây Vương” tại Võ Xương. Hắn chiếm cả Tây Xuyên, bây giờ đã thông đồng với Lý Tự Thành mưu đánh Bắc Kinh.
Đức Uy gần như chết sững, thật lâu, hắn mới vòng tay:
- Đa tạ Mông lão, chuyện đó thật tình tôi không biết.
Mông Bất Danh khoát tay:
- Bây giờ không còn là chuyện lạ hay không lạ, họa vô đơn chí, phước bất trùng lai, triều đình bây giờ nội loạn ngoại xâm, trong triều gần như toàn thứ mãi quốc cầu vinh, mạng vận của Đại Minh triều ngày nay thật như chỉ mành treo trước gió.
Đức Uy cắn răng bật nói:
- Mông lão, tôi sẽ về kinh ngay.
Mông Bất Danh nói:
- Vận nước hiện nay, một người coi như vô lực vãn hồi, “độc mộc nan chi đại hạ”, một tòa lâu đài sụp đổ, chỉ còn một cột thì thê thảm biết bao nhiêu! Nhưng thôi, cũng cứ phải hết sức mình hãy tấu trình tất cả tự sự, về Kinh đi.
Đức Uy vòng tay:
- Đa tạ Mông lão, tại hạ kiếu từ.
Mông Bất Danh gật đầu:
- Đi đi, nếu có tin gì về Dương, Tổ nhị vị tiểu thơ thì ta sẽ cho họ biết hướng đi của ngươi, không chừng rồi chúng ta sẽ hội kiến nhau tại Bắc Kinh.
Lăng Phong từ phía sau lầu, từ những ngôi mộ chư vị “Cùng Gia Bang” đi ra, hắn quì thụp xuống bái tạ Mông Bất Danh và mang nước mắt đi theo họ Lý.
Đứng nhìn theo bọn hai người, Mông Bất Danh thở dài lẩm bẩm:
- Quốc phá gia vong, anh hùng mạc lộ... rất mong đó chỉ là giấc chiêm bao!
o O o Trường An thành trăng xế về tây.
Trường An hôm nay thật là vắng lặng, không khí bao trùm khủng bố.
“... Dao lâu tiểu nhi nữ, vị giải ức Trường An, hương vụ vân mẩn thấp, tranh huy ngọc tý hàm...” Lời thơ của Đổ Phủ sao mà thê lương đến thế!
Tội nghiệp cho người con gái xa xôi kia biết bao nhiêu, nàng mong hay chuyện Trường An, nàng nhớ ngóng tin lành... Sương đêm hay nước mắt đã làm cho tóc mai nàng đẫm ướt, cánh tay ngà ngọc lạnh tê trên khung cửa.
Đêm đã khuya rồi.
Trường An vẫn còn có người băng mình trong nguy hiểm gió sương.
Bất cứ nơi nào trong thành Trường An đều mang dấu vết xác xơ của binh loạn, chỉ có một tòa trang viện rộng lớn ánh đèn tương đối sáng về phía trước là tạm gọi “huy hoàng”.
Nhưng cũng chỉ huy hoàng so với những nơi “tối tăm” khác trong thành thôi, vì có đèn, có sạch sẽ, nhưng không khí vẫn trầm trầm, đó đây, từ những chậu kiểng, từ những bụi cây từ những hòn non bộ, chỗ nào khuất bóng là đều có một tên áo vàng đeo kiếm mang đao đứng y những bóng ma bất động.
Sự canh phòng này khá nghiêm trọng.
Bên sau tòa trang viện đồ sộ này cũng có một ngôi lầu nhỏ, trên lầu cũng có ánh đèn, ánh đèn đó nhỏ, bóng lu hơn tiền viện.
Trường An Thành ở vào bất cứ nơi nào cũng phảng phất máu tanh vì chiến sự của mấy ngày trước đó, nhưng ở đây thì hoàn toàn không có, ở tòa trang viện này hoàn toàn thanh nhã y như không phải tọa lạc nơi đã xảy ra chiến họa vừa rồi.
Nếu không có bọn áo vàng cầm kiếm cầm đao đứng trong những bóng tối, thì không khí nơi này khá là trang nhã.
Thình lình có mấy tiếng động nhỏ vang lên, lúc đầu là tiếng động thật nhỏ, nhưng giữa đêm vắng một con dế đập cánh cũng nghe thấy rất rõ ràng.
Những tên áo vàng đứng trong bóng tối bắt đầu động đậy.
Ba ngọn đèn lồng phía nam ở hậu viện tắt cùng một lượt.
Bốn tên áo vàng đứng vào những chỗ khác nhau cũng tuốt đao nhảy phóc tới chỗ ba ngọn đèn vừa tắt.
Lại thêm bốn tên khác nữa tung mình ra bốn phía.
Ngay trong lúc ấy từ hậu viện, một bóng người lại nhoáng lên.
Tự nhiên bọn áo vàng phát hiện một cách dễ dàng. Chúng quát lên và hai tên lao vút theo bóng đó.
Bốn bên áo vàng từ hướng đông nam, nơi vừa tắt ba ngọn đèn cũng nhún chân lao vút theo sau.
Chỉ còn lại bốn tên đứng bốn góc tòa trang viện vẫn thủ chặt vị trí chớ không động hình.
Từ hướng đông bắc hậu viện, một bóng người nữa lại vút lên.
Bóng này quả đúng là một bóng ma, thật nhẹ nhàng, thật nhanh nhẹn phóng lên ngôi nhà nhỏ.
Sau đó, từ trong gian phòng nhỏ dẫy đầy hơi rượu, hương tình êm ấm xuất hiện một người:
Lý Đức Uy!
Hắn đứng lặng im trước một chiếc giường trải gấm thêu hoa và bên dưới mép giường có hai đôi giày, không phải là một người mà là hai người song song bên gối...
Nhưng đôi mày của Đức Uy bỗng nhướng lên, hắn quát khẽ:
- Thật là gian hoạt!
Chân hắn nhún nhẹ và thân mình tung ra khung cửa sổ, cánh cửa bật ra và Đức Uy đã rơi đúng giữa bên dưới trung ương tòa viện.
Bốn tên áo vàng đứng bốn góc nhà cùng tuốt kiếm lao vào một lượt, vây Lý Đức Uy vào giữa.
Thanh Ngư Trường kiếm được tung ra, y như một dải lụa có hào quang bức lui bốn tên áo vàng giạt ra, vòng vây nới rộng.
Cho thanh Ngư Trường kiếm trở vào mình trong thế xốc kiếm uy nghi, Đức Uy nói giọng lạnh lùng:
- Ta tìm Lý Hữu.
Phía tây hậu viện, nơi không có ánh đèn trong một gian phòng không có trang hoàng, một giọng nói như chuông gióng vọng lại:
- Như vậy thì các hạ đã đi lầm, Lý Hữu ở đây.
Cánh cửa bật mở, một gã trung niên áo vàng bước ra.
Hắn, gã trung niên áo vàng, với đôi mắt ốc nhồi, với đôi mày chổ xuể, với khổ mặt xương ngang, với hàm râu quai nón và nhứt là với vóc thân cao lớn dình dàng, một con người uy thái hừng hừng.
Đức Uy nhìn vào hắn, áo hắn bung ra, tay hắn xoắn lên, nơi nào cũng quấn quít lông đen, đúng là một nhân vật hào tướng của Lý Tự Thành.
Hắn, Lý Hữu, tay phải cầm một thanh đao, cũng như những thanh đao khác, nhưng sống đao rất dày, lưỡi đao rất mỏng, ánh thép choáng lên màu xanh biếc, chấp chóa hoa mắt.
Lưỡi đao chúi động xuống nền gạch, chân hắn bước lên, từng bước, chắc nịch, ánh mắt hắn như muốn xoi thấu Lý Đức Uy:
- Ngươi muốn kiếm ta?
Đức Uy trầm giọng:
- Ngươi là Lý Hữu?
Đối phương gật đầu, giọng hắn thật rổn rảng:
- Sấm vương giá tiền, đại tướng quân Lý Hữu là ta, ngươi kiếm ta có chuyện gì?
Cho tay vào lưng, chìa “Ngân Bài Lịnh” đến trước mặt, Đức Uy hất hàm hỏi:
- Ngươi nhận ra vật này không?
Lý Hữu chớp mắt:
- A... truyền nhân của “Ngân Bài Lịnh” là người đã phá nát cơ mưu của Mãn Châu và hai nhà họ Tổ và Nam Cung Nguyệt, khá lắm, mạng ngươi kể như thế là quả còn dài.
Câu nói sau cùng, chứng tỏ hắn rất biết chuyện Lý Đức Uy ngộ nạn.
Đức Uy thu “Ngân Bài Lịnh” và hỏi ngay:
- Dương Đô Đốc ở đâu?
Lý Hữu rùn vai:
- Ngươi hỏi cái lão già ngu muội đó à? Hừ tiền bạc vàng ngọc, chức tước gì cũng không chịu, lão đã làm cho ta nổi nóng chém đầu rồi.
Lý Đức Uy nghiến răng:
- Ngươi bảo ngươi đã giết Dương Đô Đốc?
Lý Hữu ưỡn ngực:
- Đúng là ta giết! Ta giết nhiều nữa chớ đâu phải riêng một Dương Tông Luân.
Đức Uy trầm giọng:
- Ngươi có biết sát hại lương đống của triều đình trong khi ngoại xâm Mãn Châu đang tràn lan lấn biên cương là tội như thế nào không?
Lý Hữu cười lớn:
- Luôn cả triều đại nhà Minh kia ta còn tiêu diệt thì sá gì những tên tướng ấy chớ?
Đức Uy cố gằn từng tiếng:
- Kể về lớn thì Dương Đô Đốc là cột trụ triều đình, luận về nhỏ thì người là đầu não phân nửa giang sơn Tây Ngũ Tỉnh, tại sao ngươi lại...
Giọng cười của Lý Hữu càng bật lớn hơn thêm nữa:
- Đối với triều Minh, Dương Tông Luân quả thật là một cây trụ đá chống trời, đúng là kẻ mà vạn dân nương cậy, cũng đáng gọi là một tên quan tốt, thế nhưng đối với bọn ta, lão lại là trở ngại lớn lao, bọn ta không giết lão thì giết ai chớ?
Đức Uy lại cố dằn:
- Sát nhân phóng hỏa, di hại dân lành, quốc phá dân vong, những kẻ làm ra chuyện này trong khi không màng giặc ngoại xâm đang tiến sang biên giới, tội của các ngươi ấy chết cũng còn thừa...
Thanh Ngư Trường kiếm phóng ra, ánh sáng lóe lên chóa mắt.
Hai tên thuộc hạ áo vàng thét rập lên và vung đao tràn ra chận lại.
Đang cơn vừa đau đớn vừa căm hờn, thanh Ngư Trường kiếm trên tay của Đức Uy gia tăng sức mạnh hơn bao giờ hết, chỉ một cái vung lên, hai tên áo vàng biến thành bốn khúc văng tuốt ra ngoài xa.
Hắn vẫn không ngừng, cả người lẩn kiếm lao thẳng vào Lý Hữu.
Viên kiện tướng của Lý Tự Thành biến sắc, hắn rống lên một tiếng vung thanh đại đao, hơi gió cuốn vù vù...
Đao nặng cộng thêm sức mạnh, đà đao bay tới nặng đến ngàn cân.
Không dại gì đối kháng với một con người như thế, Đức Uy tràn ngang sang bên phải và ngay khi ấy, hai tên thuộc hạ áo vàng thình lình nhào tới, cả hai thanh kiếm của chúng cũng phóng thẳng một lượt vào lưng của Đức Uy!
Như có thêm một con mắt phía sau lưng, đang đà tràn sang bên phải, Đức Uy vụt phóng vút lên trên và sà xuống phía sau.
Vừa tránh xong cú đánh lén là Đức Uy đã hạ xuống sau lưng hai gã áo vàng, hai tiếng “hự, hự” lại rập lên, hai thân hình gập về phía trước, hai đường xương xống của hai gã áo vàng bị đứt tiện ngang lưng quần, cả hai chỉ dính mảng da trước bụng. Ruột gan trào ngược ra phía sau lưng.
Chỉ trong nháy mắt, bốn tên thuộc hạ thân tín của Lý Hữu đã ngã xuống và đều bị tiện ngang khoảng lưng quần, thanh Ngư Trường kiếm chém sắt như chém bùn, cộng thêm sức mạnh của Đức Uy làm cho những tên khác dang ra ngoài thủ thế chớ không dám liều vô nữa.
Tròng mắt của Lý Hữu trợn muốn lọt ra ngoài, hắn gầm lên như một con sư tử, vung thanh đao nặng phạt ngang.
Bây giờ thì Đức Uy không tránh nữa, hắn im mình đứng, ghim thẳng mũi kiếm vào giữa thanh đao.
Tiếng thép khua lên, nhiều tia lửa choáng lên, thanh Ngư Trường kiếm của Lý Đức Uy vẫn nguyên vẹn nhưng thanh đao của Lý Hữu đã bị bạt ngang.
Là một kiện tướng của Lý Tự Thành, Lý Hữu quả hơn người ngồi trên lưng ngựa với thanh đại đao của hắn quả thật trăm người khó địch, nhưng khi đứng dưới đất giao thủ theo lối cao thủ giang hồ thì hắn có mạnh những vẫn cứ bị lâm vào thế hạ phong.
Thanh đại đao bị mũi kiếm điểm trúng giạt ra, tiền điện của Lý Hữu bị bỏ ngỏ, Đức Uy nhanh như chớp hất ngược thanh kiếm trở lên.
Một vật đen dài dài bay theo đà kiếm, cánh tay phải của Lý Hữu bị tiện ngang tới nách.
Cả thanh đao và cánh tay văng lên và rơi xuống, một dòng máu xối ra. Lý Hữu tay trái bụm lấy vết thương té ngồi xuống đất.
Lý Đức Uy bước lên một bước, mũi kiếm sát yết hầu của hắn và gằn giọng:
- Di thể của Dương Đô Đốc nơi nào?
Quả xứng là một viên hổ tướng, da mặt của Lý Hữu đã tái, mồ hôi trên trán hắn đổ xuống như từng hột đậu rơi, thế nhưng hắn vẫn cắn răng không nói một lời, không rên một tiếng.
Lăng Phong từ bên ngoài vút vào nói với Lý Đức Uy:
- Lý gia, không có.
Đức Uy trầm giọng:
- Không cần, ta buộc hắn phải khai.
Mũi kiếm nhoáng lên, gò má bên trái của Lý Hữu lại thêm một vết dài, máu tuôn ướt ngực.
Bây giờ thì hắn mới “hự” lên một tiếng và né qua bên phải, thế nhưng hắn vẫn làm thinh.
Lăng Phong nhướng mắt, môi hắn nhếch như cười như oán hận thấu xương, bàn tay phải của hắn chụp ngay vào vai trái của Lý Hữu.
Toàn thân Lý Hữu run bần bật, thế nhưng hắn vẫn cắn răng.
Lăng Phong cười lạt:
- Khá lắm, cố mà cứng.
Bàn tay như sắt của gã thiếu niên mà căm hờn đã làm tăng thêm dữ tợn, hắn nhích thêm một chút nữa, nhiều tiếng răng rắc nổi lên...
Những ngón tay của Lăng Phong lún sâu vào da thịt xương bả vai của Lý Hữu và bể ra...
Thình lình, Lý Hữu tung thẳng lên và chân phải tống ngay vào hạ bộ của Lăng Phong.
Là một thiếu niên ưu tú nhứt trong Tổng Đường “Cùng Gia Bang” đặc phái đến Trường An, thêm vào đó, bao nhiêu cao thủ anh em của Lăng Phong đều vong thân trong đám loạn quân của Lý Tự Thành, lòng căm hận đó đã làm cho hắn trở thành hung ác, hắn trầm mình xuống và gạt mạnh bàn tay phải...
Bựt!
Chân phải của Lý Hữu, ngang từ bắp vế gãy lìa.
Hắn rơi xuống đất và bật ngửa ngất luôn.
Lăng Phong cười gằn:
- Đừng có giả chết với ta!
Tay hắn giơ lên, nhưng Đức Uy ngăn lại và quay qua hỏi lớn:
- Ai nói với ta về thi thể của Dương Đô Đốc?
Đám đại hắn áo vàng đứng tái mặt không tên nào lên tiếng...
Tài sản của haitc

  #54  
Old 15-07-2008, 02:28 PM
haitc's Avatar
haitc haitc is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: May 2008
Bài gởi: 548
Thời gian online: 1 ngày 15 giờ 54 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 191 Times in 137 Posts
Chương 51
Sơn Tây Ngộ Cố Nhân


Thanh Ngư Trường kiếm nhấc lên, Đức Uy tiến lên một bước.
Đám đại hán áo vàng run rẫy thối lui.
Đức Uy lạnh băng băng:
- Đừng để kiếm ta vấy máu thêm.
Đám đại hán áo vàng run lẩy bẩy và một tên trong bọn vùng la lớn, giọng hắn nghe như người điên loạn vì quá khủng khiếp:
- Tôi nói... tôi nói, thây của Dương Tông Luân đã bị chủ tướng tôi ném xuống một cái vực trong núi Chung Nam giữa một bầy chó sói.
Toàn thân Lý Đức Uy lạnh buốt và từ phía bên trái một tiếng “bựt” vang lên...
Bàn chân của Lăng Phong lút sâu vào ngực của Lý Hữu, hai tròng mắt của viên hổ tướng lòi ra ngoài, máu từ trong họng hắn trào ra òng ọc...
Một cảnh tượng thật lạnh mình...
Sự căm hờn tột độ đã khiến cho con người không còn ngăn nổi hành động có tính chất dã man, cái chết của Lý Hữu thật đáng, nhưng cảnh chết trông vô cùng khủng khiếp.
Đôi mắt của Lăng Phong đỏ hoe, chân hắn vẫn để yên trong lồng ngực còn hấp hối của kẻ thù.
Lý Đức Uy cố ngăn dòng nước mắt và quay lại đám áo vàng hỏi:
- Ngươi nói thật phải không?
Tên áo vàng khi nãy nói:
- Chính mắt bọn chúng tôi chứng kiến, không tin ông cứ hỏi những người đó.
Lý Đức Uy vùng rống lên một tiếng, thanh Ngư Trường kiếm nhoáng lên.
Nhiều tiếng rú nghe đứt đoạn, đám áo vàng rạp xuống, tên nào cũng bị tiện ngang giữa lưng quần, gan ruột chúng trào búng ra lênh láng.
Lý Đức Uy chỏ mũi kiếm xuống đất để chống lấy thân mình, tay chân hắn run lẩy bẩy.
Cái chết của Lý Hữu và đám thuộc hạ của hắn trông thật là thê thảm, nhưng trước mắt của Đức Uy và Lăng Phong bây giờ không phải cảnh đó mà họ đang thấy, họ lại cái cảnh thi hài của vị tướng lãnh yêu nước thương dân bị ném xuống vực sâu...
Một tên áo vàng còn sót lại đứng sững như mất hồn, hồi lâu, hai chân hắn vùng khuỵu xuống trước mặt Lý Đức Uy và ôm đầu khóc rống.
Đức Uy nhìn hắn bằng đôi tròng đỏ trọc, thật lâu bật nói:
- Đi đi, bảo Lý Tự Thành hãy dọn mình mà đợi chờ ta.
Tên áo vàng đứng lên ngơ ngơ như người mất trí và vụt quay đầu lủi mất vào bóng tối.
Đức Uy đứng cúi đầu, tay chân hắn vẫn còn run.
Bựt!
Bàn chân của Lăng Phong rút ra và đá thân mình Lý Hữu ra xa, dội vào vách tường rớt xuống như đống thịt!
- O O o - Bóng mặt trời rọi xuống vùng cát bụi đỏ nóng như thiêu.
Thỉnh thoảng một trận gió cuốn lên, mang theo từng vùng bụi đỏ mù trời.
Bụi đất cũng như sương mù, tốc lên và lâu lắm mới dứt. Những người đi được cách khoảng nhau không nhìn thấy, đến chừng đám bụi rơi xuống thì ai nấy bất cứ mặc áo gì cũng đều ngả màu vàng.
Lý Đức Uy đi trong vùng bụi cát, thế nhưng hắn không phải che áo, cũng không đưa tay bịt mũi, hắn đi chầm chậm như người dạo cảnh.
Mặt hắn trơ trơ gần như đờ đẫn.
Trong mấy ngày nay, hắn gần như biến thành một con người khác hẳn.
Hắn đi có một mình, không biết Lăng Phong đã đi đâu.
Đây là một con đường giữa Tiêu Sơn và Lữ Đương Sơn, nó là con đường lớn mà hai bên đều là rừng núi.
Khoảng này thuộc vùng đất đỏ, những tàng cây hai bên đường, bất cứ cây nào cũng biến màu lá đỏ, con người đi trên đường này cũng đỏ luôn.
Dọc theo con đường này trải qua rất nhiều thị trấn, từ Lâm Đồng, Hồng Động, Hiếu Nghĩa, Phần Dương, Thanh Nguyên, Tấn Nguyên dẫn đến Thái Nguyên đều phải đi bằng con đường này chớ không có con đường nào khác nữa.
Đi ngang một ngôi từ ở Trần Sơn Tây, chợt nghe tiếng khóc vọng ra.
Tự nhiên, chắc chắn đó là tiếng khóc của người còn sống sót trong cơn quốc phá gia vong, cốt nhục phân ly, từ chỗ xa xôi chạy về trú ẩn.
Lý Đức Uy vừa đi nhanh qua đó, hắn nghe lòng hắn nát tan giống như sự đau thương của tiếng khóc đêm trường.
Hắn không có đủ khả năng cứu trợ, hắn cũng không còn lời an ủi, sự an ủi bằng lời nói bây giờ không còn giá trị.
Và đâu phải một người, đâu phải một đôi làng, nó là sự tang thương của non nước, sự đau khổ của hàng vạn ức con người, lời lẽ nào đủ để sớt chia.
Hắn cũng không dám dừng chân lại, hắn muốn đi qua khỏi chỗ đó cho mau.
Hắn không sợ gì cả, chết chóc lửa binh, đối với hắn đó là sự tự nhiên rồi, cá nhân hắn cũng đã thừa chết thiếu sống rồi, hắn còn gì nữa mà phải sợ nhưng hắn không đành lòng, hắn không đủ can đảm để nghe thấy thêm nữa.
Nhưng khi hắn bước ngang qua sân đền để đi về phía trước thì hắn chợt nghe...
- Đã quyết đuổi cùng giết tận thì đừng có lúp ló gì cả, vô đi, mẹ con ta đang đợi chết đây.
Tiếng của người con gái.
Tiếng nói từ tiền điện của ngôi đền và tự nhiên là nói vọng ra sân, nói với “tiếng bước chân” của hắn.
Vì bên ngoài, bây giờ, trừ Đức Uy ra, không còn có một ai.
Hay là...
Phải rồi, trong ngôi đền có người ẩn nấp, đó là nạn dân, đó là kẻ sống sót trong chiến họa từ một nơi nào.
Lý Đức Uy sững sốt và đứng dừng lại.
Tiếng người con gái trong tiền điện lại rít lên:
- Đừng có ẩn nấp, mẹ con ta chẳng sợ các người đâu, giết thì giết đi...
o O o Có nhiều người không cần thấy mặt, chỉ xa thấy vóc dáng là nhận được vẻ gì trên con người của họ.
Một thanh niên, một cụ già, chỉ cần thấy thân hình thẳng, vai rộng, tay chân săn chắc to lớn là biết ngay con người sức lực cũng như chỉ cần thấy vóc dáng khoan thai, bước đi tha thướt, thân thể đều đặn, người ta biết đó là một cô gái dễ coi.
Cũng có những cô gái, từ vóc mình đến tay chân, không chỗ nào không đẹp nhưng chỉ có gương mặt thì lại xấu xa, trường hợp đó có nhưng rất ít.
Trước thềm của ngôi đền “Tấn Từ” bây giờ có thêm một người.
Trong bóng tối nhưng lờ mờ đủ thấy đó là người con gái tuy không thấy rõ mặt nhưng bằng vào vóc dáng, đủ thấy đó là một cô gái đẹp.
Nàng vận bộ quần áo màu lục, bóng đêm đã biến một màu đen chỉ có trên tay nàng là trắng, ánh sáng ngời ngời của ngọn chủy thủ.
Nàng nói, giọng nàng rắn rỏi:
- Ta đã ra đây, muốn đuổi cùng giết tận thì hãy giết ta trước rồi hãy hại mẹ ta.
Nàng nói với Lý Đức Uy.
Tự nhiên đó là một chuyện hiểu lầm.
Đức Uy vội nói:
- Cô nương, không phải đâu, tôi chỉ là kẻ qua đường.
Cô gái hình như sững sốt:
- Ủa, ông là.. người qua đường?
Lý Đức Uy gật đầu:
- Phải, cô nương đã hiểu lầm.
Cô gái “à” nho nhỏ trong miệng và giọng nàng dịu lại:
- Xin lỗi, tôi đã có lời thất thố.
Dứt tiếng, nàng quay bước trở vào.
Đức Uy gọi lại:
- Cô nương...
Người con gái quay mình nhưng không bước tới.
Đức Uy nói:
- Nếu phải là kẻ giặc, kẻ thù họ đến không phải một người đâu, lần sau cô nương không nên rời lịnh đường để đi ra một mình như thế, trừ phi lịnh đường có võ học tương đương tự vệ.
Cô gái lại hơi sững sốt, nàng thấp giọng vì cảm động:
- Đa tạ, nhất thời rung động, tôi đã quên mất điều quan trọng ấy.
Đức Uy do dự nhưng rồi cũng nói:
- Người ta thường bảo rằng “lập chí báo thù ba năm vẫn chưa là muộn”, tôi không biết kẻ thù của cô nương là ai nhưng căn cứ vào hoàn cảnh hiền mẫu tử phải tránh trong đền này phải là mạnh lắm, lợi hại lắm, trong khi hiền mẫu là phận nữ lưu, đao mỏng sức mềm, theo tôi thì nên tạm thời ẩn nhẫn xem xét.
Nói xong, hắn quay lưng bướt đi.
Cô gái vụt kêu:
- Quan nhơn, xin cho tiểu nữ...
Đức Uy dừng lại.
Người con gái nói:
- Quan nhơn, có lòng khuyên dặn, mẹ con tôi cảm kích vô cùng, chỉ có điều... chỉ vì...
Nàng hơi ngưng lại và ngập ngừng hỏi tiếp:
- Hướng đi của quan nhơn hình như là đến... Thái Nguyên?
Đức Uy gật đầu:
- Vâng, tôi đến Thái Nguyên.
Cô gái kêu lên:
- Thành Thái Nguyên đã bị phá rồi, giặc đã chiếm rồi...
Đức Uy nói:
- Đa tạ cô nương, tôi biết.
Cô gái ngạc nhiên:
- Quan nhơn đã biết?
Đức Uy gật đầu:
- Thật không dám giấu cô nương, tôi đang đi tìm giặc, trên khoảng đường nầy chính tôi đã theo dấu chúng mà đến đây.
Cô gái kinh ngạc:
- Người bồng bế nhau chạy giặc, còn quan nhơn...
Đức Uy nói:
- Người vầy, người khác, nếu ai cũng chạy không thì giặc tràn hết cõi bờ, biết bao giờ dân chúng mới được yên!
Cô gái lầm bầm:
- Quan nhơn là người giết giặc cứu dân...
Đức Uy đáp:
- Cũng có thể tạm nói là như thế.
Cô gái ngập ngừng:
- Nhưng... nhưng quan nhơn chỉ có một mình?
Đức Uy nói:
- Binh đông, giải quyết theo binh đông, một người cũng có cách giải quyết theo phương pháp của một người. Muốn cho người ngã thì phải bắn vào ngựa, muốn cho giặc tan thì phải hạ tên chủ tướng, tôi không thể trừ được thiên binh vạn mã, nhưng tôi có thể giết Lý Tự Thành, giết Lý Tự Thành thì thế giặc phải tan.
Cô gái thở ra:
- Quan nhơn là một con người đầy tâm huyết, thật không ngờ chạy loạn đến Tấn Từ, mẹ con tôi lại gặp được một người như thế... Tôi đã nghe, có nghe trong lịch sử nhiều bậc hiệp sĩ trọng nạn dân hơn sinh mạng, tôi đã có nghe đến con người liều chết của Kinh Kha...
Đức Uy mỉm cười:
- Cô nương quá khen, tôi chỉ là kẻ giang hồ tầm thường nhưng tôi nghĩ quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách... Tôi chỉ cố sức mình chớ đâu dám sánh như bật hào kiệt Kinh Kha.
Cô gái nói:
- Quan nhơn quá khiêm cung, trong cơn dầu sôi lửa bỏng nầy, phần đông chỉ lo cho bản thân thì những kẻ quên mình để gánh vác chuyện thiên hạ phải là bậc anh hùng.
Đức Uy lắc đầu:
- Lời của cô nương đã sơn cho con người tầm thường của tôi một lớp màu danh dự, tôi vừa mừng mà cũng vừa hoảng sợ.
Cô gái vụt nói:
- Tôi là người Thái Nguyên, họ Phó, chẳng hay quan nhơn...
Đức Uy dừng tia mắt ngay mặt cô gái hỏi lại:
- Cô nương họ Phó?
Cô gái đáp:
- Vâng, tôi họ Phó!
Đức Uy hỏi:
- Cô nương có quan hệ bà con gì với Phó Thanh Chủ tiên sinh ở Thái Nguyên không?
Cô gái trố mắt:
- Cha tôi... Quan nhơn có biết cha tôi sao?
Đức Uy nói:
- Chắc cô nương có biết trong hàng cố giao của lịnh tôn có một người gọi là “Ngân Bài Lịnh Chủ” Bố Y Hầu...
Cô gái nói:
- Đó là tri kỷ bình sanh của cha tôi, quan nhơn là...
Đức Uy chận đáp:
- Bố Y Hầu là nghĩa phụ của tôi, tôi là Lý Đức Uy!
Cô gái mở to đôi mắt:
- Quan nhơn... anh là... là Tiểu Hắc?
Đức Uy sững sốt:
- Sao cô nương lại biết cái tên thuở nhỏ của tôi?
Cô gái đáp:
- Có một bận, lão bá bá Bố Y Hầu đến thăm cha tôi, tôi có nghe người nói đến Lý huynh. Chẳng hay lão bá bá có mạnh khỏe không?
Đức Uy nói:
- Cám ơn cô nương có lời thăm hỏi, nghĩa phụ tôi vâng chiếu Cần Vương, hiện đang ở kinh sư.
Cô gái có vẻ xúc động:
- Lão bá bá vì nghĩa Cần Vương, Lý huynh lại mang kiếm đi diệt giặc... đội ơn trời phật còn ngó lại cơ nghiệp Minh Triều.
Đức Uy nói:
- Cô nương đã quá lời, cha con tôi chỉ hết sức mình để đền ơn tất đất ngọn rau.
Cô gái nói:
- Đã là người nhà với nhau, xin Lý huynh đừng khách sáo nếu không gấp lắm thì xin thỉnh Lý huynh nán lại vài giây.
Đức Uy nói:
- Chính tôi cũng đang có ý muốn cầu kiến Phó phu nhơn.
Cô gái nói:
- Xin Lý huynh hãy theo tôi.
o O o Thật xứng danh là một ngôi đền cổ của Sơn Tây, ngôi “Tấn Từ” chẳng những chu vi Mất trang - của Quyển Chương Im lặng ngồi nghe và cuối cùng bà ta không ngăn được dòng nước mắt:
- Trời đất có linh sao lại không bảo hộ kẻ trung can, Dương Đô Đốc là rường cột của triều đình, là trụ đá của giang sơn, là linh hồn của Tây Ngũ Tỉnh, là người vạn dân nương cậy... Lý Tự Thành tội đáng phân thây.
Nghiêm Sương nghiến răng:
- Lý Tự Thành chết vẫn còn thừa, tên đại gian đại ác đó tôi thề phân thây muôn mảnh...
Một người con gái, nhưng có lẽ nàng sanh trong nhà võ, giọng nói của nàng có vẻ nam nhi.
Đức Uy thở ra:
- Dương Đô Đốc thọ hại, triều đình gãy mất một nhơn tài chống đỡ giang sơn, bây giờ, lửa họa đã tràn lan, tiếng kêu khóc của lê dân chắc cũng đã thấu trời.
Phó phu nhơn hỏi:
- Có lẽ bây giờ Lý hiền điệt đến Thái Nguyên tìm tên giặc đó phải không?
Đức Uy gật đầu:
- Vâng, bá mẫu, hiền điệt không có tư thù, nhưng vì triều đình, vì lê thứ, nhất định phải giết cho kỳ được Lý Tự Thành bất cứ bằng giá nào. Đối chiến, nghinh địch, phải do binh mã triều đình, cháu chỉ có thể tiêu diệt tên chủ tướng theo phương cách giang hồ của cháu mà thôi.
Lão phu nhơn nói:
- Nghĩa khí của cháu động đến cao xanh, bá tánh sẽ không bao giờ quên ơn của cháu, chỉ có điều Lý Tự Thành đã biết gây tội ác tày trời, nên chúng canh phòng vô cùng cẩn mật, tư dinh của giặc vệ sĩ hằng hà, muốn giết được hắn thật không phải là chuyện dễ.
Thần sắc của Đức Uy hừng hừng sát khí, hắn nói:
- Tiểu điệt cũng biết đó là chuyện thiên nan vạn nan, nhưng nếu được thủ cấp của Lý Tự Thành để tạ tội cùng thiên hạ thì có chết tiểu điệt cũng không từ.
Tài sản của haitc

  #55  
Old 15-07-2008, 02:31 PM
haitc's Avatar
haitc haitc is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: May 2008
Bài gởi: 548
Thời gian online: 1 ngày 15 giờ 54 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 191 Times in 137 Posts
Chương 52


Tiếng chó sủa không dừng một chỗ, tiếng chó kéo từ xa vọng đến gần dần...
Không, không phải chó sủa, đó là tiếng chó tru.
Thường thường, chó sủa khi thấy bóng người, nghe tiếng động, còn chó tru thì ngược lại, khi nào cảnh vắng quá, vắng người, vắng chủ, chó ngồi chóng tó ngay trước cửa cái, ngoài sân, ở ngã ba đường, hốc mỏ lên tru.
Cũng từ thanh âm từ trong miệng chó mà ra, nhưng khi nó sủa thì ồn ào, náo động đến dữ dằn, nhưng khi nó tru thì thanh âm thê thiết kéo dài nghe rợn lạnh.
Năm sáu tên áo vàng dừng lại, không khí ồn ào vụt lặng thinh.
- Mẹ, đâu có phải sủa, đúng là khóc cha khóc mẹ nó!
- Tổ cha nó, trong đời tôi ghét nhứt là chó tru, cứ nghe tiếng nó tru lên là bao nhiêu hứng bay cha nó hết, không còn muốn chơi mẹ gì nữa.
- Đồ thỏ đế, suốt ngày nầy qua ngày khác liếm máu trên lưỡi đao, giậm đạp lên xác chết, thế mà lại sợ chó tru. Mẹ họ, đi về chun vô mền cho vợ úm cái cho rồi.
- Cái con khỉ mốc, nếu có vợ có con thì chẳng đi như thế này.
- Đi như vậy có phải sướng hơn không? Nay chỗ này, mai chỗ khác, thấy con nào vừa mắt thì xáp vô, chán thì kiếm con khác, thay đổi hoài hoài, có phải sướng cái đời không?
Sau câu nói coi như là “có duyên” nhứt đó, không khí om sòm trở lại, chúng lại xúm nhau cười hô hố.
- Tôi hỏi nghe, anh nói thật coi từ ngày anh biết mặc quần tới bây giờ đã rờ được mấy con nớ rồi?
- Mẹ họ, bây giờ mà đếm luôn cả mấy đầu ngón chân nữa cũng chưa chắc đủ để mà đếm, ông nội ai nhớ nổi.
Tiếng cười vang lại cất lên.
- Mà lão nhị nè, có ăn thịt chó chưa hè?
- Nhiều phải nói là quá nhiều, nhứt là cái năm Thiểm Tây bị lụt, lúa gạo trôi mất mẹ hết, đụng cái gì sực cái nấy, chỉ thiếu có món thịt người.
M - Hèn gì mà anh lại chẳng sợ chó tru. Mà lão nhị nè, anh có nghe chuyện nầy chưa?
Chó rất sợ những người ăn thịt chó, y như rắn rít sợ người ăn ngủ độc vậy. Nhưng nếu khi mà thời vận bất tề, thì người ăn thịt chó lại thường nghe tiếng chó tru, chó tru cũng chưa quan hệ, nhưng chú ý sẽ nghe tiếng kêu đòi mạng của nó đó.
- Khỉ mốc, chó mà biết đòi mạng?
- Ủa, có gì lạ đâu, chó cũng có mạng chó chớ. Nhứt là trong thời loạn lạc nầy, từ sáng đến chiều chạy rong ngoài đồng nội, ăn thây ma, gặm xương người, thứ chó đó càng có tánh linh hơn là người nữa đó nghe.
- Dẹp anh đi, đừng có hù.
- Há, hù anh mà được cái lỗ nào chớ? Không nghe à, tiếng chó mỗi lúc một gần đó nghe.
Quả thật, hắn không đùa.
Tiếng chó mỗi lúc mỗi gần hơn. Từ phía nam thôn dẫn tới tây thôn.
- Mẹ họ, nói chơi mà coi chừng thiệt đó nghe, coi chừng nó réo Mã lão nhị thiệt đó.
Tên mặt rổ vụt ngồi ngay lại.
Bao nhiêu hơi rượu hừng hừng hồi nãy bây giờ hình như bay mất.
Hắn bắt đầu có vẻ bất an.
Gã mặt dài như ngựa liếc xéo hắn và cười hì hì:
- Mã lão nhị, có cần tôi dạy cho một đạo bùa hộ mạng không nào?
Gã mặt rổ trề môi:
- Bùa gì? Bộ anh là thầy pháp à?
Gã mặt ngựa đáp:
- Tuy không là thầy pháp, nhưng có bùa hộ mạng vậy thôi. Nếu anh chịu nhường cái con nhỏ ở đầu thôn cho tôi thì tôi sẽ cho anh đạo bùa đó liền.
Gã mặt rổ hơn lựng khựng hồi lâu, rồi gã vụt đập bàn nói lớn:
- Đúng rồi, chó mà đòi mạng cái con khỉ, anh muốn cái con nhỏ đó nên anh kiếm chuyện hù tôi, thôi đi cha, đừng có bày đặt.
Cả bọn cười ồ.
Đang lúc cười, tên lùn trong bọn bỗng nhìn ra ngoài lẩm bẩm:
- Ai cà?
Tên mặt rổ thụi vào hông hắn một cái và gắt:
- Thằng quỷ nầy nữa, hù hoài.
Tên lùn nghiêm giọng:
- Thật mà, nhìn ra coi, có người thật mà.
Quả thật, có một người không cao không thấp, không mập không ốm, đi từ phía xa xa tiến lại. Dáng đi thơ thái an nhiên.
Tên mặt rổ nói:
-Người mình mà.
Tên lùn gặn lại:
- Sao anh biết là người mình?
Tên mặt rổ hứ một tiếng:
- Con mắt anh bộ chun vô quần áo ai rồi à? Không thấy quần áo đó sao?
Đúng, nhãn quang hắn kể cũng tinh, người đi ngoài xa mà hắn đã nhận ra bộ quần áo màu vàng.
Tên mặt ngựa lại “hứ”:
- Mẹ, tính làm chuyện rờ mu lãng nhách. Trong thiên hạ không còn ai mặc đồ vàng hết à? Bộ chỉ có tụi mình mặc đồ vàng không chắc?
Tên mặt rổ hất hàm:
- Cá đi!
Tên mặt ngựa gật đầu:
- Cá liền. Cá cái gì?
Tên mặt rổ đáp:
- Nếu người đó không phải là người của bọn mình thì con nhỏ trên đầu thôn tôi nhường đứt cho anh đó. Nhưng nếu phải thì sao?
Tên mặt ngựa đáp:
- Dễ, nếu phải thì đêm nay tôi sẽ đứng bên giường hầu cho anh ngủ cho tới sáng đó.
Tên mặt rổ vung tay:
- Dẹp mẹ anh đi. Đứng suốt đêm bên giường thì ai còn làm ăn cái con mẹ gì nữa?
Tiếng cười hô hố của bọn họ lại vang lên.
Cái bóng người đi bên ngoài thấy hình như rất là chậm nhưng không hiểu tại sao vụt cái đã gần tới bên sân. Và cũng chỉ thoáng cái, hắn đã đứng ngay giữa cửa.
Hắn không phải mặc đồ màu vàng, hắn mặc áo trắng, nhưng bụi đất đỏ của miền sơn cước đã làm cho trắng biến ra vàng.
Vì thế, ở xa, ai trông cũng tưởng hắn mặc áo vàng.
Con người ấy quần áo đầy bụi đất, cả mặt hắn cũng bám bụi một lớp dầy, thế nhưng lớp bụi đường xa vẫn không che được vẻ khôi ngô và rắn rỏi trên gương mặt hắn.
Khôi ngô, rắn rỏi và lạnh lùng.
Hắn đứng chấp tay sau lưng, mặt hắn không bộc lộ một vẻ gì, mắt hắn nhìn chăm chăm vào sáu gã áo vàng.
Tên mặt ngựa hất hàm nói:
- Ngươi là ai, đến đây xấc láo vậy?
Người vừa đến mỉm cười mỉa mai nói:
- Ta đi kiếm các ngươi đây!
Hắn vung tay tới, một thanh kiếm cổ đã nằm gọn trong tay hắn. Thanh kiếm lượn qua lượn lại như rồng bay, đồng những lúc đó, những cột máu văng lên, những tiếng la thét rân trời.
Hắn dừng tay, chỉ còn một tên áo vàng đang đứng run lẩy bẩy. Hắn nói:
- Ta tha cho ngươi sống để về nói với Lý Tự Thành là Lý Đức Uy sẽ đến kiếm y.
Tên áo vàng quay lưng bỏ chạy.
Đức Uy vội cúi xuống đở lão già và nói:
- Tiểu điệt đến trể nên Phó bá bá bị hại.
Thấy lão già còn ngơ ngác, Đức Uy nói luôn:
- Cháu là nghĩa tử của Bố Y Hầu.
Phó Thanh Chủ mừng rở ôm chầm lấy Đức Uy:
- Lão Hầu gia có một nghĩa tử thật sáng lạng.
Đức Uy nói:
- Phó phu nhân và Nghiêm Sương đang gấp chờ, để tiểu điệt đưa bá bá đi gặp.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện.
Đức Uy nói:
- Hiền sĩ như lão bá mà triều đình không biết sử dụng, thật phí biết bao!
Ông ta chắc lưỡi thở dài:
- Bây giờ gian nịnh chuyên quyền, triều đình đâu có chỗ cho ta chen chân? Nếu không vì gian nịnh lấn quyền thì những hiền sĩ hơn ta thập bội đã chẳng trơ mắt nhìn đất nước lâm nguy!
Đức Uy làm thinh.
Hắn biết lời lẽ của vị hiền sĩ Thái Nguyên không phải là vô lý.
Từ ngàn xưa, trung lương, gian nịnh không bao giờ có thể đứng chung. Một khi mà thế gian mạnh, kẻ sĩ đều phải ẩn mình và lúc đó chính là lúc mà thế nước bắt đầu đi xuống.
“Minh triết bảo kỳ thân” một khi mà các bậc hiền sĩ đã thành cây đinh trong mắt, cái gai trên lưng của những kẻ có quyền thì sớm muộn gì cũng sẽ bị nhổ quăng đi, đó là định luật muôn đời khi mà quyền lực quốc gia còn trong tay chuyên chế.
Lặng đi một lúc khá lâu, Phó Thanh Chủ lại ngậm ngùi:
- Tâm não của lão ca, ta không dám sánh, khi công thành, anh phú quí không màng, khi thân cô, trước sau vẫn vì quốc gia mà lo nghĩ... Thật ta không biết nói làm sao, giá như những kẻ có trọng quyền ở triều đình đều được bằng phân nửa của lão ca thì giang hồ nầy, kẻ ngoại xâm, quân nội loan đừng mong gì léo hánh!
Đức Uy lại làm thinh.
Hồi lâu, Phó Thanh Chủ hỏi:
- Bố lão ca tại Kinh, sao hiền điệt lại đi Thái Nguyên?
Đức Uy lại phải kể hết cho ông ta nghe về chuyện biến loạn Trường An, về chuyện Dương Tông Luân thọ hại...
Phó Thanh Chủ lặng nghe, nỗi căm hờn hiện lên khóe mắt:
- Lý Tự Thành đáng chết... Hiền điệt, ta là kẻ trói gà không chặt, ta không có sức giết giặc nhưng ta có thừa lòng giết giặc, nơi đây, ta có một địa đồ chỉ nơi chôn giấu ngọc vàng muôn học, tự nhiên đó là của tiền nhơn chớ không phải của ta, hiền điệt hoặc dâng cho triều đình hoặc giữ lấy khi cần thiết, có thể nuôi binh, có thể cứu tế lê thứ, bất cứ chuyện gì ích nước lợi dân thì dùng vào nó, ta trao nó cho hiền điệt để ta tỏ chút lòng của ta đối với triều đình lê thứ.
Ông ta lần vào lưng lấy ra một cuộn da báu mỏng như giấy, trao cho Đức Uy rồi nói tiếp:
- Cũng may là chúng chưa đụng vào người của ta, nếu không thì kho tàng nầy đã giúp cọp thêm vây và ta cũng mang lỗi với trời.
Đức Uy trang trọng hai tay nhận lấy và nói:
- “Tấn Từ” đã trước mặt kia rồi, hiền điệt không dám để mất thì giờ hơn nữa, xin bá phụ cho cháu kính lời vấn an bá mẫu và Sương tiểu muội.
Phó Thanh Chủ dừng lại gật đầu nói:
- Cháu đi được rồi, ta không dám cầm vì vận nước đang nghiêng ngửa, cánh tay nghĩa sĩ không thể dừng một phút nào.
Đức Uy đứng lại vòng tay:
- Xin bá phụ bảo trọng.
Phó Thanh Chủ bước lên bực thêm “Tấn Từ” và quay lại mỉm cười nói:
- Hiền điệt hãy an lòng, ta có cách bảo toàn.
Không nghe thấy Đức Uy trả lời và có tiếng của Nghiêm Sương từ trong hấp tấp chạy ra:
- Cha... Lý đại ca đâu?
Phó Thanh Chủ đáp:
- Đi rồi, còn nhiều việc trọng đại, Lý ca con không thể chần chờ.
Nghiêm Sương dậm chân:
- Lý đại ca thiệt...
Phó Thanh Chủ vuốt tóc con:
- Đường hãy còn dài, lo chi sau nầy con sẽ có nhiều cơ hội.
Nghiêm Sương làm thinh, đôi mắt đỏ hoe.
Phó Thanh Chủ nhìn con thật sâu:
- Con đã biết võ rồi, cha sẽ gởi con theo Lý đại ca của con, cha biết lòng con lắm, cha cũng mong con sẽ hữu dụng cho đất nước sau nầy. Bây giờ hãy đưa cha vào gặp mẹ con đã.
o O o Đức Uy quả thật không dám bước trở vào “Tấn Từ” lần nữa.
Hắn đã nhìn thấy nhiệt tình của Nghiêm Sương, dầu sao, nàng cũng hãy còn nhỏ quá, hắn không phải sợ vướng vào vòng vây quyến luyến của nàng, nhưng hắn vẫn sợ chạm mặt với nàng, cứ hể nhìn mặt nàng, hắn lại nhớ Dương Mẫn Tuệ và nhớ Tổ Thiên Hương.
Lòng căm hận Lý Tự Thành như lửa đốt, nhưng Đức Uy thừa biết bây giờ có những chuyện “dục tốc bất đạt”, hắn không đi lên hướng Thái Nguyên mà quay lại Địch Thôn.
Hãy còn bên ngoài chớ chưa vào hẳn phần đất của Địch Thôn, một cảm giác vụt nổi lên trong tiềm thức, Đức Uy dừng chân lại...
Hắn nghe tiếng cười lạt từ trong cửa cổng vào làng, tiếp theo là giọng nói khàn đục:
- Cũng chẳng có bản lĩnh hơn người, hắn cũng vào vòng như con chồn sa rập.
Đức Uy thấy từ trong cổng song song bước ra bốn tên áo vàng đeo trường kiếm.
Không cần nghe họ xưng tên, xưng chức phận như Lý Hữu, chỉ bằng vào dáng đi chắc nịch vững vàng, đều đặn của họ, Đức Uy biết ngay bốn tên này hơn hẳn những tên kiếm sĩ hộ vệ Lý Hữu cả chục lần.
Chắc chắn họ là những tên trong đoàn kiếm sĩ thượng thặng của Lý Tự Thành. Họ có thể kém hơn Lý Hữu về dõng lực, nhưng họ là kẻ giang hồ lịch duyệt hơn nhiều.
Không quay mặt lại, nhưng Đức Uy vẫn nghe bên phải, bên trái phía sau lưng mình đều có tiếng động cùng một lúc và hắn có thể hội ngay câu nói vừa rồi của đối phương.
“Như một con chồn sập bẫy”, Đức Uy biết mình đã lọt vào vòng vây sắp sẵn của chúng rồi.
Họ là những tay kiếm sĩ đắt giá của Lý Tự Thành.
Những kiếm sĩ của Lý Hữu thì Đức Uy đã biết rồi, nhưng những kiếm sĩ bên cạnh Lý Tự Thành nhất định phải khác hơn.
Không phải đó là chuyện định chừng, sự thật thì Đức Uy đã thấy không kể những điểm khác, chỉ bằng vào bước chân ổn định, chắc nịch mà đều đặn của bốn tên áo vàng trước mặt, đủ thấy cao hẳn hơn những tay kiếm sĩ của Lý Hữu quá nhiều rồi.
Huống chi, bây giờ là giữa vòng vây.
Tên áo vàng bên trái lên tiếng:
- Ngươi là Lý Đức Uy?
Đức Uy gật đầu:
- Đúng, các ngươi biết ta à?
Tên kiếm sĩ áo vàng cười lạt:
- Mười ba tên đặc phái của bọn ta tại Địch Thôn, ngươi đã giết chết hết mười hai, phải không?
Sực nhớ tên ốm cao mà mình chỉ điểm vào trái cổ cho ngất đi chờ chết trong gian nhà giam Phó Thanh Chủ, Đức Uy gật đầu:
- Đúng mười hai tên.
Tên áo vàng hỏi:
- Tại Trường An, giết đại tướng Lý Hữu cũng là ngươi?
Đức Uy lại gật đầu:
- Đúng, nhưng Lý Hữu chết mà vẫn chưa hết tội.
Tên áo vàng lại hỏi:
- Vừa rồi, giải thoát cho Phó Thành Chủ cũng là ngươi?
Đức Uy nghiêm giọng:
- Phó tiên sinh là một hiền nho danh sĩ, không thể để cho bọn ngươi xúc phạm.
Tên kiếm sĩ áo vàng, vùng nghiêm giọng:
- Sau khi biết chuyện nầy, Sấm Vương sẽ nổi cơn thịnh nộ.
Đức Uy gặn lại:
- Nhứt là vì biết ta đã giết Lý Hữu?
Tên kiếm sĩ áo vàng đáp:
- Lý tướng quân là bực kiêu dõng thiện chiến, người ngồi trên lưng ngựa sức địch vạn phu, người là dõng tướng dưới cờ của Sấm Vương, là một cánh tay của Sấm Vương.
Đức Uy mỉm cười:
- Mất đi một Lý Hữu, Lý Tự Thành biết cái khốn đốn của hắn, thế nhưng hắn có biết thiên hạ bá tánh mất đi một cột trụ là Dương Đô Đốc hay không? Hắn có nhìn thấy cảnh quốc gia phá vong, có nghe thấy tiếng kêu lên ngút tận trời cao của lê thứ lầm than vì khói lửa hay không?
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Đó là vì Sấm Vương muốn cứu bá tánh thoát khỏi sự áp bức do tham quan ô lại của triều đình, thứ triều đình của hôn quân nhu nhược.
Đức Uy cười lạt:
- Ngươi cho ta là đứa trẻ lên ba hay sao? Những đứa trẻ lên ba cũng vẫn biết được tội ác Lý Tự Thành.
Tên kiếm sĩ áo vàng tái mặt:
- Triều đình hôn quân nhu nhược, gian nịnh lộng hành, bên ngoài chọc giận cho Mãn Châu có cớ xâm lấn biên cương, bên trong đàn áp lê thứ, nhơn tâm ly tán, họ Chu sắp diệt, họ Lý đang lên...
Đức Uy chận nói:
- Thừa lúc có họa ngoại xâm để nổi loạn làm cho lê thứ mang tai ương, làm cho quốc gia thêm suy yếu, đó là tội của bọn giặc cỏ.
Tên kiếm sĩ áo vàng nhướng mắt:
- Chúng ta được lịnh dung cho ngươi...
Đức Uy cười gằn:
- Các ngươi không cần có thái độ giả tạo đó, chánh tà như nước với lửa, nước lửa không thể tương dung, ta không thể dung cho tên giặc Lý Tự Thành, thì hắn cũng không dung cho ta được.
Tên kiếm sĩ áo vàng lắc đầu:
- Không, Sấm Vương cầu hiền như người khát nước, người sẽ lấy lễ mà đãi sĩ.
Đức Uy chận ngang:
- Tên giặc loạn đừng có học theo lời lẽ sáo cũ mà trống rỗng ấy, ta rất thẹn là đồng họ với hắn, chớ đừng nói tới chuyện có thể sống chung.
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Nếu ngươi bằng lòng bỏ ám đầu minh, lập công chuộc tội thì Sấm Vương chẳng những không truy cứu lỗi lầm mà lại còn trọng đãi.
Đức Uy cười lớn:
- Cám ơn, nhưng ta từng là kẻ đọc sách thánh hiền, ta rất biết đâu là đạo lý còn đâu là phản loạn.
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Người đọc sách thánh hiền, đáng lý ngươi phải thông “thức thời vụ mới là tuấn kiệt, biết tiến thoái mới là cao nhơn”, ngươi há chẳng biết “lương cầm trạc mộc phi thê”.
Đức Uy cười lớn:
- Thánh hiền mà biết các ngươi lạm dụng những lời răn dạy ấy chắc chắn hiềân thần bút thánh cũng phải trở thành lợi khí để băm vằm chúng bây thành trăm mảnh.
Ta không thể làm chuyện bất trung bất hiếu, bất nhơn bất nghĩa, bá tánh đang lâm loạn lạc trong khói lửa, các ngươi lại dụng sách vở thánh hiền để ru ngủ bọn ngu si, tội của các ngươi có sống cũng không thể thành người, có chết cũng phải vào tận cùng địa ngục.
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Lý Đức Uy, ngươi đã lầm rồi, như thế nào gọi là trung hiếu nghĩa? Đâu có thể trung với một tên hôn quân, thời thế tạo anh hùng, triều đình đã bất lực không bảo an cho bá tánh thì ai cũng có quyền làm lại những gì thối nát. Sấm Vương chiêu tập hiền tài để tế thế an bang đó là thuận lòng trời.
Đức Uy nói:
- Ta có thể lầm, nhưng ức vạn bá tánh không lầm, người ta hận vì chưa ăn thịt được Lý Tự Thành, tiếng oan đã thấu trời xanh, chính hắn đã đẩy lê thứ vào vòng chết chóc.
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Không có một cuộc dựng nghiệp nào mà không đổ máu, phá đi cái mục nát, dựng lên cái mới mẻ, tự nhiên là phải có một sự hủy hoại.
Đức Uy cau mặt:
- Đừng có vịn vào lý luận hàm hồ, Tần là tàn bạo đó, Hạng Võ đánh Tần là diệt bạo tàn đó, nhưng diệt bạo tàn để dựng lên một cái gì chớ đâu phải để dựng lên một Hạng Vương, một Tây Sở Bá Vương hung hăng hiếu sát? Huống chi, bây giờ đâu phải là đời Tần, nhà Minh có tham quan ô lại điều đó ta không chối cãi, nhưng không thể vịn vào đó để di hại cho dân lành, để nổi loạn cướp của giết người, tàn hại lương dân.
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Trong cơn loạn lạc làm sao cho khỏi chuyện thành cháy vạ lây...
Đức Uy chặn ngang:
- Đúng rồi, nhưng ta hỏi các ngươi, binh tướng của Lý Tự Thành phải chăng đã cướp của người lành? Phải chăng đã sát hại bá tánh? Phải chăng đã cưỡng dâm đàn bà con gái, chính các ngươi, trong bọn các ngươi đây đã chuyên làm chuyện ấy kia mà!
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Cái điều đó...
Đức Uy nói:
- Ta không có thì giờ để nói chuyện với lũ không biết nghe phải trái như bọn ngươi đâu.
Tên kiếm sĩ áo vàng gật đầu:
- Được rồi, kể như ta nói chuyện với nhau, bây giờ ta hỏi, ngươi mang Phó Thanh Chủ đi giấu nơi đâu?
Đức Uy nói:
- Các ngươi không cần phải kiếm ông ta, vì ông ta không khi nào đi nghe lời lừa dối của các ngươi đâu.
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Dưới trướng của Sấm Vương hiền tài mọc lên như nấm, ai cần gì đến cái lão già đó làm gì, trước kia vì mến tài, nhưng lão đã ngoan cố thì thôi, ai ép.
Đức Uy hỏi:
- Thế các ngươi hỏi vị hiền sĩ Thái Nguyên ấy làm gì?
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Cho ngươi biết cũng không hại gì. Sấm Vương đã nghe Phó Thanh Chủ có tấm bản đồ tàng bữu ba đời. Sấm Vương đang hưng sư vì chánh nghĩa và vì để cứu nước cứu dân, người truyền trưng dụng kho tàng ấy để nuôi quân.
Đức Uy bật cười:
- Tưởng gì chớ tấm bản đồ hiện đang ở trong tay ta.
Nói xong hắn rút tấm bản đồ cuộn tròn lại đưa ra và nói tiếp:
- Các ngươi có giỏi thì giật lấy tấm bản đồ này về dâng cho Lý Tự Thành.
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Như thế thì lời cho chúng ta quá, mà trong đời, ai biết lại không làm, có phải thế không nào?
Đức Uy gật đầu:
- Phải, nhưng các ngươi đã có nghĩ đến chuyện bất lợi hay chưa? Chẳng hạn như chẳng những các ngươi không làm gì ta được, trái lại, ta sẽ làm cho các ngươi ngủ mãi nơi đây cho đến ngàn đời?
Tên kiếm sĩ áo vàng nói:
- Có thể tám người bọn ta không thể đoạt được tấm bản đồ trong mình ngươi, nhưng nếu tám người của bọn ta mà hợp lực để bảo toàn thì chắc là thừa sức. Còn chuyện chết chóc thì lại không thể, nếu trong bọn ta mà có người chết, bảy người còn lại cũng không bao giờ đưa ngươi đến yết kiến Sấm Vương.
Đức Uy nói:
- Chuyện chưa tới thì không nói được, bọn ngươi muốn thử thì cứ thử đi cho biết.
Hắn nói vừa xong thì bốn tên áo vàng tuốt kiếm ra một lúc, động tác của họ rất nhanh mà lại còn rất nhịp nhàng.
Tự nhiên, phía sau lưng Lý Đức Uy, bốn tên áo vàng khác cũng tiến lên cùng một lúc.
Đức Uy lập tức chuyển cuộn địa đồ sang tay trái, tay phải hắn rút thanh Ngư Trường kiếm.
Bốn tên kiếm sĩ áo vàng phía trước hơi biến sắc, chúng bỗng xốc bổng thanh kiếm chĩa mũi ra ngoài đứng yên một chỗ.
Đức Uy thừa biết, bốn tên kiếm sĩ áo vàng phía sau cũng đang làm như thế.
Hắn lại càng biết rõ hơn nữa là, trước sau, tám mũi kiếm của chúng đang nhắm đúng vào trọng huyệt trong người mình, chỉ chờ khi cùng một lúc ra tay thì đúng là lúc ngàn cân treo sợi tóc...
Tài sản của haitc

Ðề tài đã khoá

Từ khóa được google tìm thấy
cầu bại vnthuquan, cổ long vn thu quan, co gai man chau 4vn, co long vnthuquan, giámsung vangdanh, , vnthuquan, vntq.co gai man chau, ,


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™