Sau đó, khi Hàn Khuông Tự chết. Tiêu quân như bị chặt đứt cánh tay. Tiêu Thát Lầm cũng bị thương, tất cà quân chủ lực hoặc bị giết hoặc bị bắt, diệt thương gần bảy phần, lúc này cũng có thể coi như là toàn thắng rồi. nhưng Tống quân vẫn không chịu buông tha. Tiêu Thát Lâm thống soái bôn bộ thoái lui khỏi trận chiến, dựa vào thời gian quý báu mà những binh sĩ trên chiến trường dốc hết sức dành được để nhanh chóng thoái lui, nhưng âm hồn Đồng Vũ không tiêu tan cứ bám mãi không buông.
Liêu quân lui được mấy mươi dặm. đến một quả núi nhỏ. tên là Dương Giác sơn. dựa vào ưu thế cao của nó để chống lại sự công kích của Tống quân. Đồng Vũ hoàn toàn không chút sợ hãi. xông thẳng lên núi nghênh địch, một trận huyết chiến lại diễn ra. ép cho Liêu quân phải vứt bỏ Dương Giác sơn, tiếp tục thoái lui. Chỉ trong một ngàv chúng đã phải liên tiếp vứt bỏ bốn trận địa. mà Đồng Vũ lại luôn cắn chặt lấy chúng, chiến đấu mãnh liệt.
Cuối cùng, Tiêu Thát Lâm chỉ còn hơn ba trăm quân chạy thoái từ trong sơn cốc ra. tất cả những binh sĩ yểm hộ cho chủ tướng thoát thân đểu trở thành tù binh của Tống quân. Tiêu Thát Lâm dẫn hơn ba trăm kị tàn binh bại thoát về u châu. Tiêu Xước nghe được tin thì lập tức nổi giận lôi đình, toàn bộ quân chủ lực kị binh này bị tiêu diệt sẽ làm tổn thương nghiêm trọng tới sĩ khí quán Liêu. Lần đại chiến này quân Liêu đã hoàn toàn bại. thảm bại, thiết kị mà quân Liêu luôn lấy làm kiêu ngạo giờ đã không còn là lợi khí đê khắc chế người Hán nữa. không khí bi quan từ trên xuống dưới của Liêu quân chỉ cần nghĩ cũng biết.”
Trong lúc lòng người hoang mang, trên dưới bất an thì Dương Hạo lại dẫn bộ quân chủ lực ngày đêm chạy về dưới thành u châu, đến trước rất nhiều các đội quân cứu viện của u châu, tiến hành bao vây u châu thành, hình thành một hình thế hoàn toàn giống với Triệu Quang Nghĩa trước đây: Tống quân vây thành, viện quân vây Tống.
Nhưng lần này Tống quán còn có thể bị bại sao?
Đại quán vây chặt lấy thành, nhanh chóng cắm doanh trại Dương Hạo đích thân tuần tam quân sắp xếp tình báo. thông tấn, tập kết. bố trí. ngăn trận, tập kích và lương thảo, quân y. hậu cần...
Trên đầu thành u châu. Tiêu Xước cũng đích thân tuần tam quân, cổ vũ sĩ khí. ở bên trái nàng có một viên hô tướng đi cùng, đây chính là Da Luật Hưu Ca. Tuần thị đến thành đông. Tiêu Xước liền đừng bước lại. giương cung lên chĩa xuống dưới thành, ngắm vào trận doanh cách xa thành mười dặm. phóng tên, tiếng người ngựa kêu thảm.
Đột nhiên, ánh mắt Tiêu Xước bị thứ gì đó thu hút. Lọng vàng ô che, đó là nghi trượng của hoàng đế. Dương Hạo. hắn đang ớ dưới lọng vàng ô che đó. nhất định là Dương Hạo. Hai hàm răng trắng muốt của Tiêu Xước lập tức nghiến chặt lại. khuôn mặt xinh xắn như thủy ngọc Quan Âm lập tức đằng đằng sát khí.
Chiếc võng lọng dưới thành đột nhiên cũng đừng lại. từ xa xa có thể nhìn thấy một tướng lĩnh mặc giáp bạc từ từ đi ra, đi về phía trước mấy bước, đứng lại. nhìn lên đầu thành.
Hai bên khoảng cách rất xa nhau, không nhìn rõ được ngũ quan điện mạo. nhưng hai người hình như đểu có thể nhìn rõ được đáng vẻ đối phương, cứ đứng nhìn một lúc lâu như vậy. dường như vô số binh sĩ của hai bên cũng đêu cảm giác được sự giao thiệp vô hìrih giữa hai vị quân chủ. cả chiến trường đột nhiên vên tĩnh lại. chi có tiếng gió thổi vù vù. làm rung bay là đại kì. còn có mấy con ngựa không biết thời thức thỉnh thoảng lên kêu lên.
Hai ánh mắt vượt qua quân doanh, vượt qua chiến hào, vượt qua tường thành, đan xen vào nhau, dao động, nhìn nhau rất lâu. Tiêu Xước đột nhiên phất tay. ném chiếc cung trong tay xuống đây. quay người bước đi.
"Quyết tuyệt với quân, chỉ có chiến mà thôi, không còn gì để nói!"
Chiến tranh, vì lợi ích mà nổi lên.
Khi chiến tranh dưới thành u châu đang căng như dây đàn thì ở thượng kinh Liêu quốc lại một trận chiến vì lợi danh nổi lên.
"Đại sự nếu thành thì các người sẽ đều trờ thành đại thần khai quốc. Da Luật Lưu Lễ Thọ ta không phải là kẻ keo kiệt, những người ở đâv đểu sẽ được phong thưởng. Xưng vương hay là xưng hầu chi còn xem mọi người có thể lập được bao nhiêu đại công cho bổn thế tử mà thôi."
Trong phủ Lưu Lễ Thọ. Lưu Lễ Thọ mặt mày đỏ lựng, phấn chấn triệu tập hơn một tràm gia tướng tâm phúc, khảng khái nói. rồi hạ lệnh động viên trước trận chiến cuối cùng. Ngồi bên cạnh là Vương Quan Vũ đầu đội khôi giáp, uy phong bát diện.
Da Luật Lưu Lễ Thọ khó khăn lắm mới kết thúc được buổi diễn thuyết. quay sang nói với Vương Quan Vũ: "Vương tướng quân, mời."
Vương Quan Vũ thận trọng gật đầu. đứng dậy. tiến lên trước một bước, trầm giọng nói: "Kế hoạch hôm nay là như thế này, mã quân chỉ huy sứ Trình Thiên Hạo sẽ phụ trách đánh vào nha môn lưu thủ thượng kinh của Trừ Trất. giết chết Trừ Trất. đoạt lấy binh phù. không chế cung vệ quân thủ thượng kinh. Bộ quân chi huy sứ cẩu Ác Duy phụ trách khống chế hai nghìn cung đình nữ vệ..."
Cẩu Ác Duy vừa nghe đã mừng ra mặt. hai nghìn cung đình nữ vệ đều là thân tín của Tiêu thái hậu. những nữ binh này đa phần là xinh đẹp trẻ tuổi. với binh thế hổ lang của hắn thì trận chiến này không biết sẽ đoạt về được bao nhiêu mỹ nữ kiều nương. Chưa cần nói đến việc phong thưởng, chỉ dựa vào điều này đám binh tướng dưới trướng còn không nhao nhao lên đòi làm tiên phong sao? cẩu Ác Duy vừa lo lắng bàn tính: "Ta cũng không cần quá nhiều . từ trong đám đó tuyên ra ba mươi người là được. Không, năm mươi mĩ nhân là được, tham quá không tốt, những cô nương còn lại để cho đám huynh đệ hưởng vậy" vừa khom người lĩnh mệnh.
Vương Quan Vũ lại nói: "Phó đô chi huy sứ Lý Kiếm Bạch và hán quân đô ngu hầu úy Trì Phong và Chu Nghệ đang khống chế quản quân, lúc này chưa tói được, có điều việc nên làm ta đã dặn dò xuống dưới, phó đô chi huy sứ Lý Kiếm Bạch thống quân đánh hoàng cung, nhất định phải khống chế hoàng cung . hán quân đô ngu hâu Trì Phong và Chu Nghệ phụ trách khống chế bắc thành và tâv thành, còn về nam thành và đông thành..."
Vương Quan Vũ mỉm cười: "Nam thành và đông thành vốn đang nằm dưới sự khồng chế của bộ lạc ta, không cần phải suy nghĩ nhiều. Điều ta muốn nói rõ một chút là một số nhân mã của bộ Bạch Can cũng sẽ tham dự hành động nàv. bọn họ phụ trách việc tạo hỗn loạn ở khắp các nơi trong thành khi sự biến, tùv ý tấn công phủ nha các nơi. châm lửa gây loạn khắp nơi. khi đó một số bộ tộc của các đại thần quyền quý có liên lạc với thế từ cũng sẽ hành động ngoại tuyến nhanh chóng tập kết ở thượng kinh, còn Thất Vĩ và Nữ Chân cũng sẽ đồng thời xuất binh, dụ chư binh biên quan, không để cho chúng về cứu viện thượng kinh. Chư vị. chúng ta đánh từ trong nội bộ làm cho chúng không kịp trở tav. tam lộ phía tây có Tống quân kìm hãm. đông bắc và tây bắc có Nữ Chân và Thất Vĩ hô ứng. đại sự tất sẽ thành."
"Đại nhân, chúng ta cần phải làm những gì?"
Một gia tướng tâm phúc của Lưu Lê Thọ tay nắm chặt đao. khí thế hung hãn hỏi.
Lưu Lễ Thọ đứng ra nói: "Các ngươi sẽ cùng bổn thế tử đi đánh thiên lao. cứu vương gia. sau đó nhanh chóng đuổi đến đông cung, bao vây lấy hoàng thất, tông thân, chi võ bách quan ở lưu thủ thượng cung, phụ giúp phụ vương ta đăng cơ."
Chúng tâm phúc vui ra mặt. rầm rầm đáp tiếng. Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ quay sang nhìn nhau, phất tay. hô lớn: "Xuất phát!"
Da Luật Hưu Lễ Thọ đẫn hơn trăm danh tướng đi cùng hơn nghìn thân binh của hán quân đô chi huy sứ Vương Quan Vũ xông tới thiên lao. trong lúc đó. các nơi trong thành cũng đã phát động, khắp nơi là những màn chém giết thảm khốc. Thủ thiên lao chỉ là một số ngục lại ngục tốt. bọn họ cũng nghe thấv những tiếng chém giết kêu khóc từ trong thành truyền đến. lại không biết rốt cuộc là xảy ra chuyện gì.
Đang lúc hoang sợ bất an thì Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ thống binh đuổi giết tới, những ngục tốt thủ thiên lao này nào có thể đối kháng lại. thiên lao nhanh chóng bị công phá. Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ để lại một bộ phân quán binh thủ môn. nhanh chóng chém giết vào bên trong.
Bọn họ không những muốn thả Tống vương ra mà còn muốn thả tất cả những ngựời bị nhốt trong đó ra. những người đó tất sẽ trở thành người kiên quyết bảo về tân chính quyền.
Thông đạo sâu hút. Lưu Lễ Thọ trong lòng thương nhớ phụ thân, chân bước như bay, những phạm nhân hai bên lao phòng đã phát giác ra sự khác thường, người nào người nấy đều hưng phấn mà đập liên tục vào cửa lao. trong lúc hưng phấn cũng không biết đã gào thét những gì. Vương Quan Vũ đi sát theo hắn. trong lòng cũng đập loạn nhịp. Nếu như đã muốn ủng hộ Tống vương lên làm đế đương nhiên cần phải cứu Tống vương ra. việc này quả thực rất trọng đại. có điều hắn chủ động xin đến cứu Tống quân là vì còn có lí đo khác không muốn cho người khác biết.
Phó chi huy sứ Lý Kiếm Bạch đánh hoàng cung tất có thể ăn được đầy túi. cướp được vô số kì chân dị bảo. cẩu Ác Duy đánh vào nữ quán tất sẽ chiếm được mĩ nữ, nhưng làm sao có công lớn bẳng cứu giá. Tuy nói công lao của hắn đã không thể chạy đi đâu được, nhưng đích thân xuất hiện trước mặt Tống vương thì chắc chắn sẽ để lại được ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng Tống vương, con đường làm quan của hắn đều sẽ trở nên bằng phẳng.
Đang tiến vào trong thì phía sau đột nhiên vang lên tiếng kêu thét. Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ vẫn không để tâm. chỉ nghĩ là mấy tên ngục tốt tàn dư đang ngoan cố chống lại. nhưng lập tức có người vội vã chạy tới. từ xa đã hô thất thanh: "Thế tử. đại tướng quân, đại sự không hav rồi. bên ngoài... bên ngoài có rất nhiêu binh mã cung vệ. có...có..."
Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ đại kinh dừng bước, quay đầu nhìn thì thấy gia tướng đó vừa vội vã chạy tới trước mặt thì lập tức ngã xuống đất, trên lưng cắm ba lợi tiễn, sâu khoảng nửa thước, thật không ngờ hắn còn có thể chạy xa đến vậy.
Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ quay sang nhìn nhau, không còn bận tâm tới việc nhanh chóng đi vào nơi sâu nhất đại lao để cứu Tống vương nữa mà lập tức quay người chạy đi như bay.
ở cửa thiên lao. cấm quán cung vệ Liêu quốc sát khí đẳng đằng, đứng chặn phản quân ngay ở cửa. một vị tướng quán nhấc chiếc đại đao đẫm máu lên. từ từ bước tới phía thông đạo. máu trên đao cứ chảy tong tong xuống dưới đất. Bên cạnh hắn là một tên béo lùn với cái đầu đặc biệt to. trong tav tên béo lùn cầm một chùm chìa khóa lớn bước đi. "leng keng" mấv tiếng, hắn cắm chiếc chìa khóa vào trong chiếc cửa sắt lớn nặng nề thứ nhất, sau đó là chiếc cửa thứ hai, chiếc cửa thứ ba. cuối cùng là cửa lớn. lục đục trên góc tường một hồi, "rầm rầm rẩm" những tiếng động lớn vang lên. một hàng rào sắt từ trên không hạ xuống, cắm chặt chặn trước cửa. hàng rào đó mỗi tharih đều to chừng cô tay. nặng cà nghìn cân.
"Tướng quân, đã xong rồi. cho dù chúng có thật sự là một bày sư tử thì cũng đừng hòng thoát ra khỏi đây. trừ phi chúng biến thành con ruồi."
Đại đầu coi ngục cười hi hi. nói. Vị tướng quân mặt lạnh như tiền cũng nhếch mép cười, nói: "Tốt, đợi khi thái hậu hồi kinh phong thưởng xuống tất sẽ có phần của ngươi!"
Đại đầu cười bồi nói: "Đây đều là công lao của đại nhân, tiểu nhân không dám tham công."
Tướng quân mặt lạnh, vui vé vỗ vào vai hẳn. rồi chậm rãi quay đầu lại nhìn thì thấy Lưu Lễ Thọ và Vương Quan Vũ đứng cách sau bốn tấm cửa. sắc mật trắng bệch, hai tay nắm chặt lấy song sắt, hét lớn: "Chuyện gì thế này? Chuyện gì thế này?"
Tướng quàn mặt lạnh cười lạnh lùng, cao giọng nói: "Phụng mệnh lệnh của lưu thủ Trà Trất đại nhân tập kích bắt phản loạn, các ngươi... cứ ờ vên trong đó mà đợi đi."
"Không thể nào. Trà Trất sao có thể biết tiên tri? Hắn sao còn nhiều binh mã để điều động như thế?"
Vương Quan Vũ mặt trắng bệch, kêu lên như bị điên. Tướng quân mặt lạnh, cười khẩy một tiếng, hai tay chắp sau lưng nói: "Việc nàv à. ngươi nên cảm ơn phó đô chi huy sứ của ngươi mới đúng, ngươi cho rằng bên cạnh ngươi thái hậu lại hoàn toàn không có một tâm phúc nào mà lại có thể yên tâm như vậv sao?"
"Lý Kiếm Bạch? Lại là tên cẩu tặc Lý Kiếm Bạch hại ta."
Vương Quan Vũ gào lên. rút đao ra điên cuồng chém, ánh lửa tóe ra. trường đao đứt đôi nhưng cửa sắc hoàn toàn không động. Tướng quân mặt lạnh xua tay hạ lệnh: "Phóng tiễn."
"Vù vù vù..." Hàng loạt mùi tên bắn đi. phản quân trong lao chạy loạn tìm chỗ trốn, hoàn toàn không còn chút kiêu ngạo nào nữa.
Phản loạn ở thượng kinh đã trở thành một trò khôi hài, phó đô chỉ huy sứ Lý Kiếm Bạch là nội gián mà Tiêu Xước đã bố trí bên cạnh vị thống lĩnh Hán quân Vương Quan Vũ. toàn bộ kế hoạch mưu phản này đã bị bại lộ. Tuy nói thượng kinh lưu thủ Trừ Trất trong tay binh lực có hạn. cũng không kịp thông báo cho Tiêu Xước để lại điều binh tới. nhưng dựa vào bản lĩnh tiên tri tiên giác, lại có nội ứng của Lý Kiếm Bạch, nên vẫn có thể nhanh chóng tiêu điệt đuợc phản loạn, thành thượng kinh là là một bãi chém giết sực mùi máu tanh, trừ lúc vừa mới bắt đầu Hán quán phát động trước, đã chiếm được ít nhiều thế thượng phong, nhưng ngay sau đó lại bị rớt ngay vào trận chém giết tàn khốc.
Đặc biệt là hai nghìn nữ binh, người nào người nấy đều là những đại cô nương yểu điệu, nhưng giết người lại không chút mềm tay. còn hăng hơn so với nam nhân, cẩu Ác Duy phấn chấn tiên phong xông vào không doanh, đầu tiên là phóng hỏa khắp nơi. sau đó là lùng sục tìm kẻ địch, nhưng ngay sau đó hai nghìn con hổ cái ùn ùn kéo ra. bao vây lấy cẩu Ác Duy và đám thân tín của hắn. rồi cắn tan nát không chừa một kẻ nào.
Phản loạn đã thành công được một nửa, hành động trọng nội thành thượng kinh tuy nhanh chóng đã bị dập tắt. nhưng Thất Vĩ và Nữ Chân vẫn kịp thời phát binh, chỉ có điều đã có sự nhắc nhớ trước của Trừ Trất. hành động của chúng không nhận được kết quả lớn lắm. Cùng lúc đó. những chấn động ở thượng kinh tuy đã nhanh chóng dẹp. nhưng quân phản loạn cầm đâu là những kẻ quyền quý do đích thân Lưu Lễ Thọ liên lạc, kẻ thì vì cuộc chiến Tống Liêu mà bất mãn với Tiêu Xước, kẻ thì muốn đoạt được lợi từ trong nguy hiểm, lại hừng hực khí thế nổi dậy.
Bây giờ binh lực ở bình diện thượng kinh đã trống không, trận này vốn rất dễ có thể bình loạn, nhưng lại để lỡ mất thời cơ tốt nhất tiêu diệt chúng, làm cho chúng nhân dịp trào lên. vùng đất tâm phúc của Đại Liêu vốn đã không ổn lập tức rơi vào sự rung chuyển cực độ.
Lúc này. hơn mười chiến thuyền đã từ đông lộ Sơn Đông Tống quốc xuất hải tới quản hạt Liêu Dương Phủ Đông Kinh thuộc Liêu quốc, rồi lên đất liền, đại quân tập kết. tiến vào Liêu Dương, nơi binh lực đang bị trống nghiêm trọng...
Mười sáu châu Yến Vân. Dương Hạo cả đường tiến công, cả Doanh châu đã lần được vào tav Tống quốc, sau khi Dương Hạo vây binh ớ thành u châu, đầu tiên là đánh mấy trận đại chiến với viện quân ngoại vi. sau khi ép được viện quân rời xa một chút liền phái birih cắm chốt ờ những yếu đạo giao thông của u châu, điểm này lại chính là điểm mà lúc trước Triệu Quang Nghĩa không làm được.
Triệu Quang Nghĩa muốn mô phòng cách đánh vây thành đánh viện của Lý Thế Dân, nhưng lại còn tự tin hơn nhiều Lý Thế Dân. Lúc trước Lý Thế Dân đánh Vương Thế Sung ở thành Lạc Dương, thì đâu tiên đã diệt sạch các châu hu vện xung quanh Lạc Dương, chiếm lấy yếu lộ mà viện quân tất phải đi qua. lại dùng thời gian một năm mới ép được Vương Thế Sung vào đường cùng, đành phải dẫn thái tử của hắn quân thần cùng hơn hai nghìn người mở thành đầu hàng, còn Triệu Quang Nghĩa lại bỏ qua việc nắm giữ các quan ải hiểm yếu xung quanh, để mặc cho viện quân Liêu quốc ra vào. cuối cùng đến trận ớ Cao Lương Hà đã trúng kế đại bại.
vết xe đổ. Tống quân phất cờ trở lại sao có thể mắc lại những sai lầm đó. Dương Hạo vừa đến dưới thành u châu thì không đánh vội. việc đầu tiên mà hắn làm chính là diệt sạch các châu huyện xung quanh, chiếm mấy nơi yếu địa chiến lược, chỉ dùng lượng binh lực ít. dựa vào địa thế hiểm yếu để ngăn cản bước tiến của viện quân, hoàn toàn không đê cho chúng tiến sát được tói thành u châu. Thủ quân u châu ngay cả một bóng viện quân cũng không thấy, điều này đã đả kích lớn tới mức nào đối với lòng tin kiên thủ của họ chỉ cần nghĩ cũng biết.
Lập tức. Lưu Đình Nhượng và Đồng Vũ áp vận khí giới công thành đuổi tới. hơn nữa những người thợ trong quán cũng đã nhanh chóng chế tạo ra một bộ phận vũ khí. đủ để phát động cuộc chiến công thành.. Dương Hạo lúc nàv mới bắt đầu chính thức dụng binh với u châu.
Lúc này. trời đông giá rét sắp đến. gió lạnh, gào thét, tuyết rơi lất phất, cả một màn trời u ám.
Vì tam châu Doanh, Mạc. Trác đã vào tay Tống quân, hơn nữa dùng một lượng lớn xe trượt tuyết để vận chuvển nên việc cung cấp lương thảo không thành vấn đề. thời tiết mùa đông tuy lạnh giá nhưng chủ lực Tống quân được tồ họp thành từ binh Hà Nam. binh Hà Bắc và binh Hà Tây. cũng có thể đủ sức chịu đựng với cái giá lạnh, hơn nữa Tống quán ngàv đêm công thàrih. thủ quân trong thành chi có thể luôn túc trực kiên thủ trên đầu thành. không thoải mái bằng Tổng quân, hai bên đều rất gian khổ nhưng vẫn có thể chống đỡ được.
Năm mới. quốc quân Tống quân Dương Hạo đón một năm mới trong đại doanh đối điện với địch. Vây thành đã hon hai tháng, qua tết Nguyên Tiêu. Dương Hạo liền bắt đâu chia binh đánh các châu, bộ tốt công thành, kị binh tập kích viện quân. Qua hơn một tháng. Thuận châu. Đàn châu liên tiếp vào tay một cách đễ đàng. Cứ như thế. sáu trong số bảy châu có giá trị chiến lược hiểm yếu nhất trong mười sáu châu Yến Vân thuộc hai cánh đông tây dãy Thái Hành Sơn đã vào tay Dương Hạo. Dương Hạo đã cắm chốt chặt được ớ sơn khẩu Thái Hành, thành u châu đã trờ thành cô thành.
"Tây lộ quán đã đánh tới úy châu. Da Luật Tà Chần tập kết các lộ cung vệ quân. Tộc Trướng quân, Bì Thất quân, Kinh Châu quân, phản công toàn điện. Tào tướng quân nhận lệnh của quan gia. đã thu lại công thế. có điều binh mã Nam Viện Bắc triêu đã bị dẫn dụ ỡ bên ngoài Nhạn Môn. không còn có sức cứu viện u châu."
"Mấy nơi hiểm ải quan trọng của con đường từ Thái Hành thông tới đông thành đã nằm hết trong tay chúng ta, bây giờ quân viện trợ duy nhất của Liêu quân chỉ có thể đến từ bắc lộ, chiến cục trước mắt đang có lợi với chúng ta. Có điều. Lý Thế Dân ngày trước có thể vây thành Lạc Dương trong vòng một năm. nhưng chúng ta không thể làm vậv."
Phan Mỹ cười khổ nói: "Triệu tể tướng và Lô tể tướng trong thư có nói hi vọng quan gia có thể nhanh chóng kết thúc chiến sự ớ bắc cương thực ra đã suy nghĩ rất kĩ tới nhiêu mặt.
Thời của Lý Thế Dân. thiên hạ vô chủ. chư hầu tự lập. Lý Thế Dân chiếm được Quan Trung, lại có Lý Uyên tọa chấn hậu phương, triều Tùy lại tích trữ lượng lớn lương thực, quốc khố dồi dào, dùng cho tới cuối năm Trịnh Quan cũng không hết.
Còn chúng ta bây giờ lại không thể bằng được như thế, con dân Đại Tống hơn nghìn vạn, quốc sự phức tạp. nền tảng còn kém xa so với triều Tùy. Lũng Hữu mới quy phục, cần phải đốc sức gây đựng buôn bán; Ba Thục chiến tranh nhiều năm. chính kinh mục nát. cần phải khôi phục nguyên khí; quan lại các địa phương trong triều, cần phải được tiến hành điều chính trong hoàn cảnh chính cục ổn định. Có thể nói vây giờ nhìn thì như giang sơn đã ổn định, nhưng thực ra vẫn còn rất nhiêu vấn đề cần phải giải quvầ. bâv giờ vì trận đại chiến nàv mà tạm thời có thể bị áp chế. nhưng nếu những vấn đề này không nhanh chóng được giải quvết thì một khi có bất kì điêm nào xảy ra vấn đề lớn hơn thì tất cả các mầm họa ngầm khác cùng sẽ bị bộc phát."
Dương Hạo chậm rãi gật đầu. Ý kiến của Triệu Phổ và Lô Đa Tốn không chỉ đại biểu cho ý kiến của hai người họ. đó là kết luận được hai vị tê tướng kiệt xuất phân tích, cùng với việc kết hợp nhiều ý kiến về tình hình của cả thiên hạ đưa ra. Trận bắc phạt này nếu như thắng lợi thì rất nhiều những vấn đề cần rất nhiều thòi gian, hao tốn rất nhiều tinh mới có thể giải quvá được đều có thể thuận lợi giải quyết nhờ thắng lợi to lớn trên mặt quán sự. một khi xuất hiện điều ngoài ý muốn thì tất cả sẽ rất khó giai quvết.
Gia tăng các mâu thuẫn, đợi đến khi tất cả những mâu thuẫn này tự nhiên bộc phát thì tất cả sẽ không thể cứu vãn được.
Lúc này. mục tiêu chiến lược của hắn sắp đạt được rồi việc tiến công với u châu trước mắt vẫn chưa có tiến triển gì. u châu là nam. kinh của Liêu quốc, lại là noi ờ của người HáĩỊ khu nông canh, lương thực của u châu vài ba năm cũng không có vấn đề gì. hơn nữa đây lại là địa bàn của Liêu quốc, lòng dân vẫn hướng về Liêu quốc, chưa cần nói người Hán Liêu quốc vốn đã không có cảm tình gì với quân Tống mà chính những dân chúng bình thường của Trung Nguyên cũng không có chút hứng thú nào với việc bắc phạt này.
** *
Bây giờ vẫn còn khá tốt. chiến tranh nếu như biến thành tác chiến trường kì. thì sẽ tiêu hao lượng lớn tài lực, vật lực và quân lực, lượng lớn tướng sĩ tử thương. Khi không lập tức nhìn thấv hiệu quả lợi ích thực tế. thì gánh nặng của bách tính trong nước càng lúc càng nặng nề. người thân chết càng nhiều, đâu tiên bọn họ sẽ chán ghét chiến tranh, phản chiến, từ đó dần dần làm cho cả xã hội tầng tầng lóp lớp chống đối chiến tranh một cách tiêu cực.
Cái gì mà vương soái bắc định Trung Nguyên, cái gì mà cuộc sống người Hán Bắc quốc đang ở trong lúc nước sôi lửa bỏng mong chờ vương sư giải cứu. Đích thân trải qua thòi đại này, chính mắt nhìn thấv. chírih tai nghe thấv tất cả đã làm cho Dương Hạo sớm đã hiểu được tiếng lòng của bách tính: Bách tính bình thường sẽ không bận tâm xem ngươi có võ công thập toàn hay không, giang sơn của ngươi có thống nhất, hay cương vực có mở rộng hay không, điều họ muốn chỉ là có thể sống một cách bình an, cuộc sống đầy đủ đây mới là hoàng đế tốt nhất trong lòng họ. chứ không phải là dùng mô hôi và máu của chính mình để nuôi ngươi.
Dương Hạo cũng không hi vọng phải đốc hết binh lực để gây chiến, gây đến mức bách tính Liêu quốc ùn ùn kiến lập nghĩa quân, phất cờ kháng Tống, bách tính Tống quốc dùng đủ mọi cách để chống lại cuộc chiến mà triều đình phát động một cách tiêu cực, thậm chí là gây hỏa khắp nơi. đương cao nghĩa kì.
Trong kế hoạch lúc đầu của hắn hoàn toàn chưa từng muốn tiêu diệt Liêu quốc. Giết một nghìn địch, tử tổn thương tám trảm binh mình, nếu thư đại thương nguyên khí mà có thể diệt được Liêu quốc thì cũng thôi, nhưng trên thực tế mục tiêu này không thê thực hiện được, thực lực của Liêu quốc không đễ làm cho người ta coi thường. Liêu quốc lần này địa bại một là do Tống hợp nhất, thanh thế lớn mạnh, làm cho Liêu quổc trở tay không kịp. trong giai đoạn đầu của chiến tranh hoàn toàn rơi vào thế bị động.
Thứ hai là trên mặt chiến thuật cụ thể Tống quân vẫn đùng chiến thuật đánh nhanh để tập kích u châu, tập trung ưu thế binh lực, năm hướng thành một trảo, rồi đánh thăng vào nơi yếu hiểm, còn Liêu quân lại phản ứng chậm chạp, chiến tuyến bị kéo đài. nguồn binh bị phân tán.
Thứ ba là công tác tình báo của Tống quân phát triển, có thể làm được việc biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng. Bất luận là động hướng của Liêu quân hay là địa hình tác chiến. Tống quân đều có được sự hiểu biết rõ ràng, ngược lại. quán Liêu ngay cả tình hình nội gián, thám mã đêu không có cách nào nắm bắt rõ được, không bại mói là lạ.
Nhưng những mặt này chỉ cần Tiêu Xước có thể kiên trì cố thủ u châu thì có thể lợi dùng thời gian mà từ từ xoay chuyển tình thế. đặc biệt là sĩ khí lòng quán Liêu quốc, từ từ có thê bình tĩnh lại. Dương Hạo cũng đã có ý đàm phán từ trước, nhưng thời cơ chưa đến lúc phải đàm phán thì hoàn toàn chưa cần thiết, như vậy chỉ có lãng phí thời gian, mà lại không thê đạt được mục đích của mình. Liêu quốc sẽ. không đưa ra bất kì sự nhượng bộ nào trong thời gian đó. còn bây giờ...
Bây giờ Thất Vĩ và Nữ Chân phải chăng đã đúng hẹn xuất binh? Hải quân của ta phải chăng đã xuất hiện sau địch? Những điều này là nhân tốt mấu chốt nhất trong việc đàm phán của ta.
---oo0oo---
Dương Hạo chắp tay nhìn về phía xa xa, thở đài một hơi. sương mù mờ ảo tà tà bay. làm ẩn hiện thần sắc của hắn.
Hải quán Tống quốc đã từ Tam Sơn Phổ lên bờ. bắt đầu tiến tới Liêu Dương Đông Kinh Liêu quốc, chủ lực Liêu Dương lúc này đã chạy về cứu viện cho u châu, ở phía đông bắc và chính bắc, lại là người Nữ Chân và người Thất Vĩ đang ngo ngoe nổi đậy. người Khiết Đan nghe tin xong vô cùng hoảng sợ.
Đội Tống quân này là quân đội hỗn hợp cấu thành từ cấm quân Biện Lương và thủy sư nguvên Nam Đường, số người chưa tới ba vạn. vì vận birih trên biển và kị binh không nhiều nên Dương Hạo cũng chưa từng hi vọng bọn họ có thể tấn công đoạt được thành, thật sự chiếm linh đại hậu phương của người Liêu, cần phải biết rẳng người Liêu nam nữ già tré đểu thiện cưỡi ngựa bắn tên, bây giờ lực lượng to lớn đó vẫn chưa thực sự được phát động. Một khi người Liêu nhận thức được nguy cơ vong quốc đang ớ trước mặt thì lực lượng đáng sợ đó sẽ biến thàrih một con sóng che trời cực lớn. Liêu quân sẽ nharih chóng bổ sung được đội quân tràn đầy sinh lực.
Dương Hạo xuất binh ở phía sau địch, tiến vào Liêu Dương, quán động dụng tuy là quân đội nhưng mục đích của hắn lại là muốn rải rác tin hiệu quốc gia sắp vong, tứ phương sớ ca cho Liêu quân ở u châu trong, đê cho bọn họ hoàn toàn tuyệt vọng, duy chi có như vậy mói có khả năng đàm phán. Còn có gì có thể làm cho bọn họ chấn động hơn việc quân đội của nước khác xuất hiện ờ nơi mà bọn họ nghĩ rằng tuyệt đối sẽ không thê xuất hiện được?
Yên Vân mười sáu châu là nơi tụ cư của người Hán. rất nhiều người Khiết Đan truyền thống vẫn sống du mục ở trên thảo nguyên nhưng không coi nơi đây là vườn nhà của mình, đây cũng chính là nguyên nhân rất nhiều quý tộc Khiết Đan đã kiến nghị vứt bỏ u châu khi Triệu Quang Nghĩa bao vây u châu, trờ về tự thủ nguvên cố. chứ không phải vì Triệu Quang Nghĩa vâv thành u châu, thoắt cái đã làm hù dọa được lá gan của tất cả người Liêu.
u châu bị vây, đối vói rất nhiều quý tộc truyền thống Khiết Đan mà nói còn không có được cảm giác đau như cắt vào thịt, mà hoàng đế và thái hậu vẫn thủ ớ u châu, chi cần một khi u châu chưa bị phá thì bọn họ tuy đối sẽ không tuyệt vọng. Nhưng bây giờ. nếu như có một đội quân Tống đột nhiên xuất hiện ỡ phía sau lưng họ. nơi mà họ cho rằng đó là thạch bàn không thê phá vỡ, bức chắn tâm lí lập tức bị phá vỡ. giai cấp thế lực nòng cốt nàv sẽ bị lung lay. đám đại quv tộc bát thị Khiết Đan sẽ rơi vào khủng hoảng, mà sự đao động và khiếp sợ của chúng sẽ trực tiếp ảnh hướng đến quvết định của Tiêu Xước.
Dương Hạo biết thiếu phụ xinh đẹp như hoa anh đào này vô cùng quyết đoán, đã quyết định thì sẽ không thay đổi. so với vô số hán tử còn dũng mãnh hơn nhiều, nếu như không phải làm lay động đến căn cơ của nàng, làm cho nàng cùng lúc phải chịu áp lực cả trong lẫn ngoài thì nàng tuvệt đối sẽ không khuất phục hắn. Nàng là loại nữ nhân nếu như hẳn rơi vào tay nàng, nàng thà chính tay một đao kết thúc tính mạng hắn. sau đó dùng cả đời để thương nhớ và đau khổ cũng quyết sẽ không khuất phục tình cảm. về điểm này thì nàng còn kiên cường hơn cả Chiết Tử Du.
Đông kinh Liêu quốc lưu thủ hoang mang phái người truyền tin tới thượng kinh, thành viên trong hoàng thất ở thượng kinh nhận được tin này vô cùng hoang mang thất sắc. từ trong tấu báo của đông kinh lưu thủ. bọn họ không có cách nào hiểu hết được tình hình cụ thể không biết Tống quân có tổng cộng bao nhiêu người, đã chiến được bao nhiêu nơi. bọn họ chi biết lão gia nhà mình gia viên bao đời nhà mình bây giờ cũng đã xuất hiện bóng hình của Tống quân.
Tây kinh khói lừa liên miên, đông kinh khói cũng ngút trời, nam kinh thập điện mai phục, thượng kinh dư âm phản loạn vẫn còn khắp nơi. họa trong họa ngoài, nước không còn là nước nữa.
Đám quyền quý. thủ lĩnh, hoàng thất, tông thất thượng kinh, đặc biệt là những thành viên gia tộc Tiêu thị từ trước luôn kiên trì ủng hộ hoàn toàn đối với tất cả những quyết định của Tiêu Xước giờ cũng đã phải hạ giọng. Cuối cùng thượng kinh lưu thủ Trừ Trất đã đích thân chọn ra đại tướng tâm phúc, phi ngựa như bay đến u châu. Mệnh lệnh duy nhất mà vị đại tướng này nhận được chính là: Bổn lưu thủ thay mặt cho bát thị Khiết Đan, chư vương thượng kinh cùng tất cả văn võ đại thần giao cho ngươi hô phù kim tiễn, ngươi có thê điều động bất kì lộ binh mã nào cắm chốt ở ngoài u châu, chi cẩn có thê đột nhập được vào u châu, quân đội của ngươi có thể chết, ngươi cũng có thể chết, nhưng quân tình đông kinh và ý kiến của chư vị hoàng thất, tông thân, thủ lĩnh, quyển quý ở thượng kinh nhất định phải đưa đến được tay thái hậu."
Bộ Bộ Sinh Liên Tác giả: Nguyệt Quan
-----oo0oo-----
Quyển 16: A Na Ngã Từ Si
Chương 143: Giảng Hòa (1+2+3)
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn: Vip Van Dan
Share by: Mộng Hoa Trang
Binh mã trong thành U Châu vẫn đủ để bảo vệ cho thành này, lương thực trong thành U Châu cũng đủ để dùng trong ba năm. Nhưng trong ngoài ngăn cách, cái cảm giác bị dày vò vì không thể nhìn thấy bóng viện quân quả thật làm cho người ta có khó thể chịu được. Đặc biệt là hoàng đế và thái hậu đều ở U Châu. Nếu như một kẻ thống trị đế quốc ba năm trời không thể bắt được bất kỳ mối quan hệ nào với đám thần liêu trong đế quốc của hắn, thì thiên hạ này còn có thể khống chế trong tay hắn không?
Tiêu Xước đang bị bao vây ở thành U Châu thực ra không hề lo lắng tới chiến sự trước mắt. Tống quân tuy kiêu dũng, nhưng U Châu thành với thân phận là nam kinh Liêu Quốc, lại có nàng và hoàng đế ở đây. Thêm nữa còn có Da Luật Hưu Ca, tuyệt đối không dễ dàng bị công phá, điều nàng lo bây giờ là ngoại tuyến, đế quốc mất đi kẻ thống trị có lẽ không cần tới ngoại địch cũng đã bị tan vỡ từ bên trong.
Nam viện có văn thần Quách Tập, ở Vũ Tương có Da Luật Tà Chẩn, bắc viện có Thất Phưởng, đây đều là những thần tử đáng để nàng tin cậy. Nhưng sự phục tùng của thần liêu đế quốc đối với họ cũng sẽ bắt nguồn từ sự tín nhiệm của mình đối với họ, khi mình và cả đế quốc mất đi sự liên lạc, thì bọn họ rất khó có thể chấn an thần liêu, đặc biệt là... Đặc biệt là con chấu tông thất. Trong gia tộc Da Luật có rất nhiều nam nhi hổ lang, bọn họ vốn đã không phục tiểu hoàng đế. Nàng đã dùng toàn bộ công sức, máu và mồ hôi của mình mới có thể giữ vững đường chính quyền và quân quyền của đế quốc này, một khi bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài thì chưa cần tới ba năm, chỉ cần một năm đám hoàng thất tông thân nhất định sẽ nảy sinh lòng khác, ủng hộ lập tân chủ, vứt bỏ nàng và hoàng nhi.
Vì thế Tiêu Xước vô cùng lo lắng.
Nhìn lên bầu trời đầy sao sáng, Tiêu Xước buồn bã thở dài.
Đêm vắng lặng, không gió, trên không trung lại là vô số các vì sao. Nàng không hận Dương Hạo, nàng là một kẻ thống trị ngồi ở vị trí của nàng, nàng biết lập trường của Dương Hạo, cũng biết tại sao hắn cần phải làm như vậy. Nếu như đổi nàng vào vị trí của hắn, nàng cũng sẽ đưa ra sự lựa chọn như vậy. Nhưng, cái dạ dày của Dương Hạo rốt cuộc là lớn đến đâu, cuộc chiến tranh này sẽ không đánh đến mức không thể cứu vãn được chứ?
“Mẫu thân...”.
Lao nhi dụi đôi mắt buồn ngủ chạy đến, phía sau còn có mấy cung tỳ đi theo. Tiêu Xước vội đi tới, bế nó lên, dùng áo choàng choàng lên người nó, sẵng giọng nói: “Không chịu ngủ cho ngoan, chạy ra đây làm gì. Nhìn con này, ngủ mà ra cả mồ hôi, mùa đông lạnh thế nào phải làm sao đây?”.
Lao nhi làm nũng nói: “Mẫu thân, Lao nhi muốn ngủ với mẫu thân”.
Tiêu Xước cốc vào trán nó một cái nói: “Lao nhi, con là hoàng đế của một nước, không giống như những đứa trẻ bình thường khác, mẫu thân còn có rất nhiều chuyện phải làm, con phải ngoan một chút”.
“Vâng”. Lao nhi ngoan ngoãn đáp một tiếng, chớp chớp đôi mắt long lanh nghĩ ngợi, lại hỏi: “Mẫu thân đang nghĩ phải đánh bại Dương Hạo bằng cách nào ạ?”.
Tiêu Xước mệt mỏi thở dài một hơi, Lao Nhi lại suy nghĩ tỉ mỉ một chút, tức giận nói:
“Mẫu thân, tên đại ác nhân đó tại sao lại đánh chúng ta? Hắn thích đánh nhau sao?”.
Tiêu Xước ôm lấy nó, chậm rãi đi xuống hành lang, những ngọn nến chiếu lên khuôn mặt của nàng, lúc ẩn lúc hiện: “Lao nhi, không có ai thích đánh nhau cả, có những lúc giống như nước chảy dần thành biển, phát triển đến một thời khắc nào đó đương nhiên sẽ phải đánh. Hôm nay hắn không đánh chúng ta thì một ngày nào đó ta sẽ đánh hắn, đây không phải là điều mà cá nhân đế vương có thể quyết định được”.
“Đế vương, phúc có thiên hạ, quyền khuynh tứ hải, nắm trong tay sinh mạng của tất cả mọi người, duy ngã độc tôn, nhưng cái giá mà một hoàng đế phải trả là rất cao. Những chuyện người bình thường nghĩ không ra, nhìn không thấy con phải nghĩ ra và nhìn thấy. Con phải luôn đứng ở chỗ cao hơn những người khác, nhìn ra xa hơn, bước tới trước mặt con dân phải đại biểu cho lợi ích của họ, con mới có thể trở thành người mà mọi người đều ủng hộ. Nếu không, sẽ có một ngày, con hoặc người kế thừa của con sẽ bị bọn họ vứt bỏ.
Giang sơn lung lay, đế quốc hưng vong, nói thẳng ra thực ra chỉ có nguyên nhân này, sau lưng lập trường bất đồng của người nắm quyền chính là ngọn núi tập đoàn lợi ích bất đồng. Nếu như con quay lưng lại với tập đoàn lợi ích của mình thì ngọn hậu sơn này sẽ lập tức biến thành lực lượng đè nát con, con sẽ rơi từ trên đỉnh núi xuống vực sâu thăm thẳm. Phải thuận ứng với lập trường của giai cấp mình, hoàng đế mới có thể muốn làm gì thì làm, những người khác cho dù có rơi vào thảm cảnh thì cùng lắm sẽ trở về cảnh áo vải, nhưng hoàng đế, chỗ đứng của hoàng đế quá cao, cho nên không có đường thoái lui”.
Đạo lý này với một đứa trẻ như Lao nhi đương nhiên sẽ không hiểu lắm, nhìn vào đôi mắt ngây thơ trong sáng của con trai, Tiêu Xước lại thở dài, đêm nay rất yên tĩnh, thủ quân tuy rất mệt mỏi, nhưng chắc rằng Tống quân bên ngoài thành sẽ càng khổ sở hơn, đêm nay có lẽ sẽ không có chiến sự, ngủ với con trai một tối cũng được.
Tiêu Xước nghĩ ngợi, nhẹ hôn lên trán đứa con trai, đang muốn ôm nó về phòng, thì đột nhiên nghe thấy hàng loạt những tiếng kêu gào chém giết, phá tan sự yên tĩnh của đêm đông.
Tiêu Xước dừng bước, thầm thở dài: “Lại bắt đầu công thành rồi”.
Đang muốn đưa con trai cho cung nữ, quay về đầu thành để xem xét, nàng đột nhiên phát giác ra đêm nay có gì đó khác thường, tiếng chém giết chỉ truyền đến từ phía bắc thành, ba phía thành khác vẫn yên tĩnh vô thanh, điều này hoàn toàn khác với cách tấn công cùng lúc tứ thành của Tống quân.
Trong lòng Tiêu Xước đột nhiên nhất động: “Tình hình này có chút cổ quái, chẳng lẽ... Chẳng lẽ có viện binh tới, hơn nữa... Đã đột phá được phòng tuyến ngoại vi của Tống quân, tiến công tới thành U Châu?”.
Vừa nghĩ đến đây, Tiêu Xước liền đưa con cho thị tì, vội vã chạy ra tiền đình.
“Mẫu thân”.
Lao nhi vẫn nuối tiếc gọi, Tiêu Xước hoàn toàn không còn tâm sức để ý, nàng ấn tay vào chuôi kiếm, một trận gió lại thổi qua tiền đình, tiếng chém giết đã làm tỉnh thị vệ trong phủ. Chiến mã sớm đã ở phía sau, Tiêu Xước quay người lên ngựa, phủ môn mở rộng, một đoàn người cùng cuồng mã phi ra, phi thẳng về phía bắc thành.
Dưới bầu trời đầy sao, mặt đất ẩn hiện một màu xám, từ đầu thành nhìn xuống có thể nhìn thấy rõ từ phía xa đang có một đội quân đốt đuốc sáng như ngân hà đang áp sát về thành U Châu, từ những tiếng gào thét và những ngọn đuốc lay động có thể đoán ra một nửa sự kịch liệt của trận chiến. Da Luật Hưu Ca đứng ở lỗ châu mai lo lắng nhìn đội quân, thầm cầu khẩn cho bọn họ có thể đột phá được phòng tuyến Tống quân.
Hắn không phải là không muốn mở thành tiếp ứng, những khối đã chắn cổng thành, đại gỗ phong môn sớm đã được chuyển đi, hơn ba nghìn thiết kỵ đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng đêm tối như thế này hắn không thể chắc chắn rằng ra thành có mắc bẫy của Dương Hạo hay không? Thái hậu và hoàng đế đều ở trong thành, hắn phải cẩn thận hơn nhiều.
Thiết kỵ bên ngoài thành đang không tiếc hy sinh, để dựa sát vào thành U Châu, đao vung tứ phương, máu tuôn không ngừng, liên tục có những người ngã ngựa, có điều, lúc này mạng người chỉ như con chó, ai còn để ý đến sự sống chết của người khác. Một binh sĩ Liêu quân vừa khua đao chém tay một tên Tống quân thành hai đoạn thì lập tức một thanh trường mâu chém nhanh như chớp tới, đâm thẳng vào ngực của hắn, cho dù thần tiên cũng không thể cứu được.
Những cảnh như thế này diễn ra ở khắp nơi, đao gươm khua điên cuồng tứ phía vô tình chém đứt tay gãy xương như cắt rau. Một người ngã xuống liền có nhiều người dẫm đạp lên, trở thành một thi thể không toàn vẹn.
Sự hy sinh to lớn đổi lại là từng bước tiến gần hơn, tới thành U Châu, đội quân Liêu Quốc này giống như những con thiêu thân không biết sợ hãi, đạo nghĩa không thể chùn bước.
Họ là tử sĩ, khi rời khỏi thành thượng kinh, thượng kinh lưu thủ Trừ Trất đã vinh danh họ vào trong hoa danh sách, sau đó còn tập hợp toàn bộ gia quyến của họ lại.
Cho dù tất cả bọn họ đều chết ở đây, nhưng chỉ cần dùng phương thức bắn thư tín lên đầu thành, đem tình hình bên ngoài thông báo cho thái hậu nương nương biết tình thế cấp bách bây giờ ở đế quốc thì bọn họ người nào người đấy đều trở thành liệt sĩ. Hơn nữa còn là những liệt sĩ lập công bất thế với đại Liêu Quốc. Chỉ cần ngày nào Đại Liêu còn tồn tại thì con cháu hậu thế của họ đều có thể nhận được sự phụng dưỡng của triều đình, đây là lời thề trời đất của Trà Trất đại nhân và chư vị tông thân hoàng thất thương kinh, vương gia các lộ, thủ lĩnh các vùng. Còn nếu như bọn họ thất bại, cho dù là đã dốc hết sức lực thì toàn gia quyến đều bị xung nô, tuyệt đối không tha.
Vì vậy, mỗi người đều dốc toàn mạng để đột tiến, công thế hung mãnh, tình hình này không hề thua kém lúc Dương Kế Nghiệp thống lĩnh tám nghìn tử sĩ xông tới đột kích Tống doanh, giết Triệu Quang Nghĩa. Những nơi Liêu quân đi qua, người ngựa chết ngổn ngang, đứt đầu lìa thân, máu tươi hòa với bùn đất, khắp mặt đất là màu máu, khó có thể nhận ra nổi địch ta, sự hy sinh to lớn cùng với dũng khí vong mạng này làm cho bọn họ càng tiến tới sát thành U Châu.
“Chuyện gì vậy?”. Tiêu Xước chạy lên đầu thành, Da Luật Hưu Ca liền nói: “Thái hậu, dưới thành...”.
Tiêu Xước lướt mắt nhìn, lại nói: “Tại sao không xuất thành tiếp ứng?”. Da Luật Hưu Ca khom người nói: “Tống quân giảo hoạt, thần sợ...”.
Nói đến đâ, một Liêu quân đột phá vòng vây, chạy điên cuồng tới chân thành, mồm dùng tiếng Khiết Đan hét lớn. Vừa nghe rõ nội đung người đó hét, Da Luật Hưu Ca nhảy bật lên, quên mất cả việc kiến lễ với Tiêu Xước: “Mở cổng thành, tiếp ứng!”.
Nói rồi hắn chạy như bay xuống thành, nhảy lên lưng ngựa, nắm chắc đại thương trong tay.
Dưới thành Liêu quân sớm đã chuẩn bị ứng chiến, cổng thành vừa mở lập tức tiếng rầm rầm vang lên, cây cầu bắc sang bờ cũng từ từ hạ xuống, Da Luật Hưu Ca làm tiên phong, thống lĩnh thiết kỵ xông ra ngoài.
Tên Liêu quân dưới thành chỉ kịp hét mấy tiếng liền trúng ngay một tiễn của Tống quân, ngã gục xuống đất. Da Luật Hưu Ca dẫn quân phi như tên bắn ra ngoài, một vài người khiêng tên lính lúc nãy về thành, còn những người khác thì nhanh chóng đi theo Da Luật Hưu Ca, xông tới trận doanh Tống quân.
Đại doanh trung quân Tống quân, Dương Hạo một thân áo nhung, yên lặng đứng trên vọng lâu nhìn.
Xa xa, đoàn quân Liêu Quốc giống như lưu huynh từ từ tụ hợp với binh mã tiếp ứng, Dương Hạo thầm thở phào.
Cuộc chiến vây thành, nếu như duy trì quá lâu, đối với hắn cũng là gánh nặng không thể gánh nổi. Hắn mới tiếp nhận giang sơn Tống Quốc, hắn cần phải có một bước tiến để cùng cố đế vị, nhưng không phải là một trận chiến trường kỳ làm cho trời oán người than có thể làm lay động căn cơ của hắn. Bước nhảy lớn này có thể làm cho người trong cả nước hãnh điện, nhưng chiến tranh cũng có cái vốn của chiến tranh. Nếu như giống như Hán Vũ Đế trước kia, đem toàn bộ tích lũy mà hai đời tổ phụ khổ tâm gây dựng tiêu tốn sạch, đem nhân số cả nước chia ra bốn, năm phần, làm cho dân chúng phải bán vợ bán con, lưu lạc khắp nơi. Cái vốn bỏ ra là ruộng đồng của dân tộc, du mục của dân tộc.
Vội quá không được, chuyện gì cũng phải có tốc độ ổn định.
Thời Hán Vũ, giang sơn đã phải bỏ ra cái giá đáng kể. Tuy chiến tranh của ông ta làm cho dân linh lầm than, tiếng kêu oan khắp trời nhưng trí ít không có ai có thể lật đổ được sự thống trị của ông ta, còn Dương Hạo bây giờ thì rất khó nói.
Nên kết thúc rồi, hy vọng... Lúc này sẽ không giống như một nữ nhân bình thường, tình cảm sẽ chiến thắng lý trí, cố chấp ngọc nát đá tan.
Không, nàng sẽ không làm vậy.
Vì... Nàng là Tiêu Xước.
Nữ trung hào kiệt, nàng nhất định sẽ đưa ra sự lựa chọn sáng suốt nhất.
“Rầm!”. Cánh cửa nặng nề đóng lại, Da Luật Hưu Ca máu me đầy người, giành được hơn một trăm tàn binh Liêu vội vã về thành.
Những tiếng dao động dần dần bị dập tắt, rất nhanh trở về trạng thái yên tĩnh bình lặng, trên thành và dưới thành chỉ còn lập lòe những đốm sáng.
Tin tức tín sứ thượng kinh chạy tới rất nhanh truyền đến khắp đường lớn ngõ nhỏ với một tốc độ truyền đạt không thể tưởng tượng nổi, quân tốt và bách tính trong thành không ai không biết. Đêm nay cũng không biết có bao nhiêu người hoàn toàn mất ngủ, yên lặng chờ.
Mong tin tức, chờ mong tín sứ có thể mang tới tin tức tìm ra một con đường đưa họ thoát khỏi cảnh tuyệt vọng bây giờ.
Dương Hạo đứng trên vọng lâu rất lâu rồi mới bước từ từ xuống.
Hắn vừa xuống thì có một người chạy vội vượt qua cả mặt đám tướng lĩnh Tống quân, cung kính đỡ lấy hắn như sợ hắn sẽ ngã xuống vậy, ân cần tới mức làm cho người ta thấy lạnh cả người.
Người này chính là đường thúc Ô Lâm Đài của thủ lĩnh An Xa cốt Châu Lý Chân của tộc Nữ Chân, chính là người đã nhờ Chiết Tử Du hiến kế. Dương Hạo mỉm cười, không phải vì sự ân cần của hắn mà cảm thấy dương dương tự đắc hay cảm thấy có gì đáng ghét vô sỉ.
Bọn họ chính là như vậy, khi sợ ngươi, cần ngươi thì có thể cung kính trước ngươi, có thể cung phụng ngươi lên làm khả hãn, khi thực lực kém xa ngươi, bọn họ có thể thuần phục sát đất. Giống như người Nữ Chân đối với người Khiết Đan, người Mông Cổ đối với người Nữ Chân, nếu như nói về khả năng chịu đựng khuất phục thì bọn họ mới là truyền nhân chân chính của Câu Tiễn, bọn họ chỉ tôn trọng thực lực.
“Quan gia muốn nghị hòa với người Liêu, tất nhiên sẽ phải suy nghĩ sâu xa, tiểu nhân không dám vọng nghị, có điều người Liêu không thể chịu nổi một kích trước thiên binh của quan gia. Nhưng đối với chúng thần mà nói chúng vẫn là kẻ địch không thể chiến thắng. Đến lúc đó người Liêu quay ngược nổi giận với Nữ Chân thần, vậy phải làm như thế nào mới tốt? Nữ Chân chúng thần phải thật tâm đầu hàng quan gia”.
“Ngươi yên tâm...”. Dương Hạo mỉm cười: “Các ngươi phản lại Khiết Đan đương nhiên người Liêu sẽ gây áp lực để không thể sinh tồn. Nhưng trên đường trẫm bắc phạt, các ngươi đã xuất lực tương trợ, trẫm sao có thể bỏ mặc các ngươi, để cho các ngươi đối mặt với sự báo thù của người Liêu chứ? Ha ha ha, trẫm đã tính toán ổn thỏa cho các ngươi rồi, bây giờ thất châu Sơn Tiền trừ U Châu ra thì tất cả đã vào tay trẫm, sau khi nghị hòa thành công trẫm sẽ cho quân đến trấn thủ...”.
Ô Lâm Đài do đự nói: “Chỉ sợ là... Nước xa không cứu được lửa gần”.
Dương Hạo cười nói: “Trẫm vẫn chưa nói hết, các ngươi nếu đã bỏ Liêu theo Tống, nếu các ngươi bị người Liêu ức hiếp há chẳng phải là chém vào mặt trẫm hay sao? Trẫm bây giờ cho binh thẳng tiến vào Liêu Dương, sau khi nghị hòa sẽ không về nữa. Trẫm sẽ cho người trấn thủ ở khu vực biên cảnh giữa các ngươi và người Liêu, nếu như người Liêu có ý ức hiếp, trẫm sẽ tăng binh gần đó, các ngươi hoàn toàn không phải lo lắng về sự an toàn của mình”.
Dương Hạo vừa đi vừa nói: “Trẫm đã lệnh cho triều đình căn cứ vào tình hình ở chỗ các ngươi mà điều chỉnh lại lượng cống vật mỗi năm. Các ngươi sinh tồn cũng không dễ, sẽ hết sức miễn giảm cống vật, bắc châu và Hải Đông Thanh thì miễn...”.
Ô Lâm Đài vui ra mặt. Cảm kích vô cùng, tạ ơn liên hồi.
Dương Hạo vỗ vỗ vào vai hắn, cười ha ha không nói.
Phạm vi phân bổ của chư tộc Nữ Chân đa phần là ở Bột Hải quốc, cũng chính là vùng tỉnh Sơn Đông của hậu thế, nối liền với tộc Thất Vĩ. Nhiều năm qua, Nữ Chân tuy có dần dần quật khởi lên, nhưng dưới sự ức hiếp và có ý phân hóa của Liêu Quốc luôn không thể lớn mạnh nổi. Bọn họ đến bây giờ vẫn phải đau đầu vì việc ăn cho no mặc cho ấm, hoàn toàn không có khát vọng hay giác ngộ đối với quyền lực. Vì vậy việc Tống quốc cho đóng binh ở gần đó căn bản cũng không có ý đồ sâu xa gì.
Nữ Chân Hoàn Nhan thị đã bị An Xa cốt thị tiêu diệt. A Cốt Đả Hoàn Nhân cũng mãi mãi không thể xuất thế, nhưng thời thế tạo anh hùng, anh hùng theo đó mà sinh ra, không có A Cốt Đả, chỉ cần hoàn cảnh này không đổi, tiến triển lịch sử không đổi, khi thời vận đã đầy đủ đương nhiên sẽ có người khôi phục lại tất cả những gì A Cốt Đả nên làm. Nhưng bây giờ chưa đến lúc đó, Dương Hạo chỉ cần ban chút ân huệ thì đã có thể kéo bọn họ lại rồi.
Trong phủ Nam kinh lưu thủ U Châu đèn vẫn còn sáng rực, nhưng sắc mặt của tất cả các vị tướng soái đang ngồi ở đó lại còn ảm đạm hơn màn đêm bên ngoài phủ.
Họ giống như một đoàn du khách bị lạc vào cô đảo, không thể nói rõ được ngày nào cơn sóng thần sẽ trào lên, cuốn bọn họ xuống đáy đại dương. Ngày mong, đêm mong, cuối cùng mong đợi được một chiếc thuyền đến, nhưng không ngờ chiếc thuyền đó lại còn nguy hiểm hơn cô đảo họ đang đứng. Vì... Nó đang dần dần chìm xuống.
Thái hậu và hoàng thượng bị vây ở U Châu, cách tuyệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, đã mất đi sự khống chế với đế quốc của họ. Phái chủ hòa, phái đầu hàng ở thượng kinh đã chiếm được thế thượng phong, đây chính là điều đáng sợ nhất, so với dã tâm của đám quyền quý hoàng thất muốn nổi dậy còn đáng sợ hơn. Vì mấu chốt giải vây cho U Châu chính là nằm ở viện quân, mà viện quân cùng khinh trọng đều chịu hạn chế từ thượng kinh, thượng kinh một khi đổi hướng gió...
Tiêu hậu mặt tái mét, trái tim như đóng băng, nàng vốn là người luôn tỉnh táo bình tĩnh, nhưng lúc này cũng không nghĩ ra được gì.
Da Luật Hưu Ca đứng lên, tay nắm chặt bội kiếm, cánh tay gân xanh nổi lên như những con giun, nặng nề thở dốc. Lại đặt mông ngồi xuống tiếp, sắc mặt lo lắng bất định một lúc. Rồi dứt khoát đứng dậy, cắn răng một hồi. Lại ngồi xuống, cứ như thế năm lần bảy lượt. Đám tướng lĩnh trong đình đều kinh ngạc nhìn hắn, ngay cả ánh mắt của Tiêu Xước cũng quay về phía hắn.
Lúc đầu, ánh mắt Tiêu Xước cũng có chút kinh ngạc, nhưng nhìn một hồi, mắt nàng lại như hiện lên một tia tỉnh ngộ, lại tiếp tục ảm đạm.
Điều nàng đã đoán không sai, Da Luật Hưu Ca quả thật muốn bảo vệ nàng và Hoàng Thượng vứt bỏ U Châu, thoát ra khỏi vòng vây. Nhưng điều đó nguy hiểm như thế nào chỉ cần nghĩ cũng biết, số lượng tử sĩ chỉ cần nghĩ cũng đoán ra được.
Chính vì vậy, Da Luật Hưu Ca suy đi tính lại, lại phủ quyết quyết định trong lòng mình. Hắn không sợ chết, nhưng hắn không thể gánh nổi trách nhiệm nếu như thái hậu và hoàng thượng có chuyện gì bất trắc. Nếu như hắn xuất hiện bên ngoài thành hắn còn có thể lợi dụng quyền lực để khống chế quân Tống rồi nghĩ cách tiếp, nhưng bây giờ hắn lại cũng đang ở trong thành. Đây chính là hổ lạc vào bình địa, rồng rơi xuống vũng bùn, nhưng cục thế ngoại tuyến đã hung hiểm đến mức này rồi, đã không thể kéo dài thêm được nữa.
Nước, không thể một ngày không có vua, thái hậu và hoàng đế lại bị giam hãm ở đây mấy tháng rồi, hoàn toàn không có hy vọng thoát ra, so với việc nước mất đi vua có gì khác biệt?
Rất lâu rất lâu, Da Luật Hưu Ca giọng trầm trọng nói: “Da Luật Tà Chẩn và Quách Tập đang ứng phó với Tống quân ở Phủ Châu và Nhạn Môn Quan, không thể giúp được cho phía bắc, Hán quân ở kinh sư mưu phản, đã phát hiện được tung tích của Tống quân ở đông kinh, thủ lĩnh bát thị Khiết Đan đã dần có ý rút lui thủ ở địa mạc, Thái hậu, U Châu chúng ta tuy nguy hiểm, nhưng nguy hiểm của thượng kinh quả thực giờ còn nghiêm trọng hơn U Châu. Thái hậu nếu còn không kịp thời trở về thượng kinh, nắm lại quyền thống trị thì việc Đại Liêu tan vỡ e là không thể tránh nổi”. Hắn đừng một chút, lại khó khăn nói: “Thái hậu, hay là thử cùng người Tống... Nghị hòa...”.
Tiêu Thát Lẫm đứng bật dậy, phẫn nộ nói: “Đây là biện pháp tốt mà ngài nghĩ ra sao?”.
Da Luật Hưu Ca lạnh lùng nhìn hắn, nói: “Đại nhân có cao kiến gì?”.
Tiêu Thát Lẫm vung cánh tay nói: “Viện quân không thể đến thì chúng ta xông ra ngoài”.
“Xông ra ngoài? Dễ như thế sao?”. Da Luật Hưu Ca cũng tức giận, đứng phắt dậy: “Bộ đội chủ lực dưới thành U Châu chủ yếu là nhắm thẳng vào trong thành, độ khó của việc đột vi từ trong ra ngoài tất nhiên cũng sẽ tăng mấy lần. Khinh kỵ đột vi và bảo vệ thái hậu cùng hoàng đế sẽ vô cùng khó khăn. Quan trọng nhất chính là một lượng lớn viện quân đều bị vây bên ngoài mấy đạo quan ải. Xông vào U Châu tuy là khó, nhưng một khi đã vào thành thì sẽ dựa vào thành kiên trì mà được an toàn, còn nếu từ trong đột phá ra ngoài, chưa cần nói đến việc có thể đột phá thành công hay không, mà cho dù thật sự có thể thành công thì có thể thoát khỏi vòng vây truy đuổi cả chặng đường của Tống quân sao? Cần phải biết bây giờ thất châu Sơn Tiền trừ U Châu thành ra thì tất cả đều đã nằm trong tay Tống quân, hơn nữa bây giờ Tống quân cũng có một lượng lớn kỵ binh, chúng ta không có khả năng nhanh chóng thoát ra khỏi quân địch”.
Tiêu Thát Lẫm mặt lúc xanh lúc đỏ, lúc tức giận, lúc muốn nói lại không nói, rất lâu, rất lâu, cuối cùng lại ngồi xuống.
Luận về thân phận, Tiêu Thát Lẫm là tộc huynh của thái hậu, tuyệt đối tâm phúc, luận về võ dũng, hắn cũng là một trong tam đại hổ tướng của Đại Liêu, có thể ngồi ngang hàng với Da Luật Hưu Ca và nam viện đại vương Da Luật Tà Chẩn. Tiêu đại tướng quân không nói nữa thì những văn võ khác đương nhiên cũng không thể nói gì.
Tiêu Xước mặt lạnh như nước mùa đông, trầm mặc rất lâu, mới hơi nheo mắt lại nói: “Tống quân binh phong chính nhuệ, bọn họ... Sẽ đồng ý nghị hòa sao?”.
Lời này vừa nói ra, chúng văn võ trong lòng lập tức hiểu rõ, thái hậu vì áp trong ngoài đã thông qua ý định, đàm phán giải quyết chiến tranh rồi, thái hậu nếu đã định ra phương hướng thì dễ làm rồi. Trong đám thần tử dù sao cũng có nhiều kẻ ở trên cao, nhưng chiến hay hòa lại không phải là vấn đề mà họ có thể quyết định được, những loạn ngôn trước khi thái hậu chưa có thái độ rõ ràng về chiến hay hòa khó tránh sẽ trở thành cái thóp cho người ta, trong tương lai một khi bị người ta phản công thì sẽ vô cùng bất lợi.
Bây giờ thái hậu đã thể hiện rõ thái độ, chúng thần liêu lập tức hoạt bát lên, ta nói ngươi nói, năm bảy cái miệng cùng ào ào thể hiện thái độ. Chỉ đáng tiếc đa phần những ý kiến đó chỉ như phẩy quạt, thực chất không có ích lợi gì.
Tiêu Thát Lẫm là một viên tướng thuần túy, để cho hắn đánh trận thì được, còn những chuyện như thế này hắn hoàn toàn không phải người trong nghề, hắn chỉ có thể ngồi yên căng mắt nhìn mọi người bàn tính, càng nghe càng không hiểu.
“Dương Hạo sẽ đồng ý nghị hòa”. Một âm thanh như một cái trùy đập tan những âm thanh hồn tạp đang ba vây nội đình, người nói chính là Da Luật Hưu Ca.
Hắn bình tĩnh nói: “Thực hư của Tống Quốc chúng ta không hiểu rõ lắm. Nhưng từ hành động của Dương Hạo có thể đoán biết ra một chút. Theo vô số hành động để lại vết tích của hắn, có thể thấy người này quen với kiểu đầu cơ trục lợi, có thể dùng sự hy sinh nhỏ nhất để giải quyết vấn đề thì hắn sẽ không bỏ qua. Nói cho hay thì đây là hắn luôn vì bách tính dân sĩ, nói tồi một chút thì chẳng qua là do xuất thân và sự trải nghiệm của hắn quyết định, trừ phi đến lúc sinh tử tồn vong, nếu không tên thương cổ này tuyệt đối sẽ không bỏ ra toàn bộ vốn liếng tiền bạc của hắn”.
Ai sẽ là người hiểu rõ một người nhất? Kẻ địch của hắn, nếu như kẻ địch này đồng thời còn là tình địch của hắn thì quả thật có thể thành tri kỷ rồi.
Da Luật Hưu Ca nói: “Tống Quốc vừa thông qua thủ đoạn truyền nhượng đến tay, hắn sao có thể rời xa trung tâm quyền lực của mình để đi du phạt ngoại quốc? Nếu như Dương Hạo không nhanh chóng kết thúc chiến tranh thì hắn sẽ không chịu nổi tổn thất, cả chiến cục sẽ bị thay đổi, chỉ là...”. Da Luật Hưu Ca hé ra một nụ cười khô: “Chỉ là chúng ta không có cách xác định hắn còn có thể chống đỡ bao lâu, còn chúng ta thì đã không thể chống đỡ được nữa rồi”.
Cả đại đình đột nhiên trầm xuống, rất lâu, rất lâu, Tiêu Xước mới mở lời: “Mặc Thủy Hàn, sáng sớm ngày mai đến Tống doanh thỉnh kiến, bàn về chuyện nghị hòa”.
*
* *
Dương Hạo được Phật sống Đạt La nhận định là Kim Cương Cống Bảo chuyển thế. Cái danh hiệu này đối với việc hắn thống trị chư bộ Tây Bắc và đoạt lấy sự ủng hộ của thế lực tông giáo có hiệu quả vô cùng to lớn. Cho nên Dương Hạo luôn cố tình tuyên truyền cho cái danh hiệu này. Nếu như quan gia đã là hộ pháp Phật gia, thì thủ hạ có người nào lại không ngoan ngoãn nghe theo, đương nhiên sẽ không có bất cứ hành động nào phá hoại tới chùa miếu. Vì thế những ngôi đền chùa đã từng bị binh họa tây kiếp một lần coi như sẽ không bao giờ gặp nạn kiếp lần hai.
Đặc sứ Liêu Quốc Mặc Thủy Ngân bước vào tự miếu dưới sự dẫn đường của thị vệ cấm quân, trong miếu tuy trống không nhưng lại rất sạch sẽ, mặt đất được quét sạch, khắp các cửa sổ đều chăng rèm chinh tề, đi qua chung lâu liền tới một viện lạc vuông vắn, chính diện là Đại Hùng bảo điện, hai bên là tám đại kim La Hán.
Liêu sứ Mặc Thủy Ngân được đưa vào một gian bên trái điện, trong điện này có bản tượng La Hán bị kéo đổ từ lần Tống quân bao vây U Châu để làm nơi nghỉ đêm cho đám thị vệ. Bây giờ đã được Dương Hạo cho người dọn dẹp sạch làm nơi nghỉ ngơi cho mình. Trong điện đốt mấy chiếc lò sưởi, hơi nóng tòa ra khắp gian phòng, vô cùng ấm áp như mùa xuân.
Mặc Thủy Ngân đi từ ngoài vào, trên người vẫn mặc chiếc áo da chồn, đầu đội mũ da đuôi cáo, chân đi đôi giày da, trang phục quý giá, bước chân vững chắc, thần thái ung dung, hoàn toàn không nhìn ra vẻ thành U Châu đã rơi vào trạng thái tiến thoái lưỡng nan. Nhưng nếu như đã chủ động đến xin hòa thì thái độ có biểu hiện ung dung đến đâu cũng sao có thể che lấp được sự quẫn bách của họ?
Dương Hạo nhìn thấy thần thái hắn, bất giác mỉm cười.
Dương Hạo lúc này đang mặc thường phục, trông vô cùng tư văn nho nhã, phong độ công tử, hoàn toàn không nhìn ra đây là một kẻ thống trị Trang Nguyên, một vị quân chủ nắm trong tay mấy mươi vạn đại quân. Lúc này trong tay hắn chỉ cầm một chén rượu, ngồi bên cạnh chiếc sa bàn, yên lặng nhìn, thỉnh thoảng chi chỉ điểm điểm nói một hai câu thì có người đi tới, cắm một chiếc cờ nhỏ vào chỗ hắn chỉ, hoặc rút một chiếc cỡ nào đó ra.
Mặc Thủy Ngân bước vào, lén lướt mắt nhìn, nhận ra đó là sa bàn địa đồ U Châu, lập tức giật mình, nhưng xung quanh có vô số con mắt đang nhìn chằm chằm vào hắn nên hắn không tiện nhìn kỹ. Đột nhiên thấy Dương Hạo nhìn hắn, hắn liền vội vã tiến lên kiến lễ, nói: “Ngoại thần Mặc Thủy Hàn kiến giá hoàng đế Tống Quốc bệ hạ”.
Dương Hạo liếc nhìn hắn một cái. Cười nói: “Mọi người đều là lão bằng hữu, hà tất phải khách sáo như vậy, đến đây đến đây, ngồi xuống”.
Mặc Thủy Hàn đáp một tiếng, rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện hắn, nhân cơ hội nhìn trộm một chút sa bàn. Mắt thấy trên đó có hai loại cờ nhỏ màu đỏ và xanh, từ chỗ phân bố mà nói màu đỏ đại diện cho quân Tống, cờ xanh đại điện cho quân Liêu, nhìn thấy tứ diện U Châu tất cả các quan ải dày đặc đều cắm cờ đỏ, cũng chính là nơi viện quân Liêu Quốc đang bị vây. Cờ đỏ còn ẩn hiện ở một số nơi xuất hợp vi, Mặc Thủy Ngân bất giác toát mồ hôi hột.
Dương Hạo mỉm cười: “Tiêu hậu phái ngươi đến, có chuyện gì muốn nói với trẫm sao?”.
Mặc Thủy Ngân cả kinh, vội thu lại cái nhìn, quay sang nói về mục đích chính khi đến đây.
“... Tần Thủy Hoàng phái Mông Điềm bắc kích Hung Nô, người Hồ không dám nam hạ nuôi ngựa, sĩ không dám cầm cung mà oán trách, kết quả thì sao? Hán Cao Tổ không phải là cũng gặp phải vòng vây Bạch Đăng giống như thế sao? Đến thời Hán Vũ Đế, dốc toàn lực đất nước, đem tất cả tiền bạc tiêu sạch, thì có thể làm gì chứ. Tùy Văn Đế hùng tài đại lược, chỉ cần thi triển một tiểu kế đã làm cho Đột Quyết đông tây phân cách, nội hao không ngừng, đến đời Đường lại đánh lại kéo, khó khăn lắm mới vùi dập được Đột Quyết, người Khiết Đan lại quật khởi...
Bệ hạ trước mắt tuy đã chiếm thế thượng phong, nhưng muốn diệt được Liêu Quốc lại là chuyện tuyệt đối không thể làm được. Thảo nguyên đại mạc dù sao cũng là thiên hạ của người du mục. Ngoại thần cũng là người Hán, tuy làm thần tử của Liêu nhưng tuyệt đối không có ý làm kẻ thù với Trung Quốc. Theo ngoại thần thấy Tống Liêu láng giềng hòa hảo sẽ có lợi cho sự phát triển của cả hai nước...”.
Thật là làm khó cho vị Mặc đại nhân này, hắn thao thao bất tuyệt hơn nửa canh giờ. Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa giảng một mạch đến tam hoàng ngũ đế, Từ Vũ định Cửu Châu lại giảng đến Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ. Mặc Thủy Hàn vừa khảng khái trần thuật vừa cẩn thận quan sát sắc mặt của Dương Hạo. Như thế có thể đoán biết một chút tâm ý của hắn, dựa theo đó mà thay đổi lời nói, cố gắng đả động hắn, thỉnh thoảng còn có thể tranh thủ liếc nhìn sa bàn, xem xem bố trí tường tận của Tống quân, hết sức ghi nhớ lại, nhất tâm tam dụng.
Dương Hạo ngồi nghe, chốc chốc lại nhấp một ngụm rượu, không tỏ thái độ gì, chỉ lạnh nhạt một cách tự nhiên, rất khó có thể đoán biết được hắn đang nghĩ gì từ sắc mặt của hắn.
Kỳ thật Dương Hạo cũng đang trông mong đàm phán hòa bình, bây giờ cố tình ra vẻ lạnh nhạt cũng chỉ là để có thể tranh được sự chủ động trong đàm phán mà thôi.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên Tác giả: Nguyệt Quan
-----oo0oo-----
Quyển 16: A Na Ngã Từ Si
Chương 144: Bảo Quang Chi Minh (1+2)
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn: Vip Van Dan
Share by: Mộng Hoa Trang
Sự thắng bại trên chiến trường trong rất nhiều lúc thực sự có thể được quyết định bởi một nhân tố nào đó ngoài chiến trường. Dương Hạo cố tình để cho tín sứ của thượng kinh vào thành chính là vì để tăng khả năng đàm phán của mình. Bây giờ Tiêu Xước đang bị nhốt trong thành, hệ thống tình báo Liêu Quốc cũng còn xa mới bằng được Phi Vũ của hắn. Không có cách nào nắm vững được chính xác tỉ mỉ tình hình Tống quốc, điều này cũng là để Dương Hạo có thể nắm chắc khả năng ra điều kiện khi đàm phán.
Trên thực tế, Dương Hạo cũng không có cách nào duy trì quá lâu. Sự tiêu hao của mấy vạn quân lớn tới mức không thể tưởng tượng được, chưa cần nói hắn là thụ thiền đương quốc, cho dù là tử kế phụ nghiệp, truyền thừa đại thống, thì vừa mới đăng cơ đã dốc toàn bộ tích lũy của đế quốc cũng là một chuyện vô cùng nguy hiểm, hắn không có khả năng tiếp tục mở rộng nữa, nhưng hắn vẫn muốn hết sức có thể bảo đảm được lợi ích trận chiến.
Trận chiến này hắn đã lợi dụng lúc người Liêu chuẩn bị chưa được đầy đủ, nhanh chóng chiếm lĩnh và khống chế thất châu Sơn Tiền, sĩ khí và lòng dân đều phấn chấn, uy vọng cá nhân hắn cũng lên tới nguy phong, quyền uy tân triều càng được cùng cố, thông qua chiến tranh khống chế toàn bộ quyền lực vào trong tay. Đối với quan lại trong nước cũng thuận thế điều chỉnh một chút, ý đồ chính trị đã đạt được thì cũng đã đến lúc thu trận rồi.
Đợi khi Mặc Thủy Hàn nói xong, Dương Hạo liền đặt chén rượu xuống, nghiêm mặt nói: “Nếu như thái hậu đã có thành ý hòa giải thì trẫm sao có thể từ chối, đàm phán hòa bình cũng được, mọi việc đều có thể nói, nhưng trẫm có một điều kiện, đây là điều kiện tiền đề để trẫm chấp nhận đàm phán, điều kiện này nếu không làm được thì tất cả miễn bàn”.
Mặc Thủy Hàn nghiêm nghị đứng dậy nói: “Bệ hạ xin mời nói”.
Từ ngày hôm nay Tống quân bắt đầu dừng sự tiến công với thành U Châu.
Vừa đánh vừa nghị hòa là một cách, đình chiến mà nghị hòa cũng là một cách, dùng cách nào cũng có ý đô riêng của nó. Theo như Dương Hạo, sớm để cho quân dân U Châu đang rơi vào cảnh tuyệt vọng nhìn thấy một tia hy vọng càng dễ để cho họ đưa ra sự nhượng bộ.
Sứ giả hai bên bắt đầu liên tục qua lại, chỉ có tầng lớp cao nhất của hai bên mới biết được họ đang đàm phàn những gì. Viện quân Liêu Quốc ở ngoại tuyến cũng đã biết việc quân chủ hai bên đang đàm phán, cả đế quốc Liêu từ đông đến tây, từ nam tới bắc toàn bộ đều bước vào trạng thái ngừng chiến, tất cả mọi người đều đang theo dõi về U Châu, đợi kết quả cuối cùng.
Điều kiện đầu tiên của Dương Hạo chính là Liêu Quốc phải chính thức đóng dấu văn kiện cắt thất châu Sơn Tiền mà Tống quân đã chiếm lĩnh được, bao gồm cả U Châu đang nằm trong tay Liêu quân cho Tống Quốc, đây là đại tiền đề của cuộc đàm phán, điều này nếu như không làm được thì tất cả miễn bàn.
Liêu Quốc lại đưa ra những điều kiện khác, Liêu Quốc có thể xưng thần với Tống, thực hiện các nghĩa vụ cống nạp với Tống, nhưng Tống Quốc phải lui ra khỏi lãnh thổ Liêu Quốc mà Tống đang chiếm giữ.
Dương Hạo đã từng xưng thần với Tống Quốc, đối với việc thần phục hoàn toàn không có ý nghĩa này hiểu một cách sâu sắc hơn bất kỳ người nào, sao hắn có thể đồng ý? Dương Hạo không nói một lời, căn bản cũng không có gì để thương lượng, Mặc Thủy Hàn ấm ức quay về.
Trải qua mấy lần thảo luận, Liêu Quốc lại đưa ra một phương án mới, hoàng đế Liêu Quốc có thể xưng nhi hoàng đế với hoàng đế Tống Quốc, hai nước vĩnh viễn kết phụ tử chi quốc và có thể đưa người của hoàng tộc tông thất đến Tống quốc để làm con tin, chư châu gần Liêu Quốc vĩnh viễn không đóng quân. Dương Hạo biết được điều này liền bật cười, cái gì mà phụ tử chi quốc, tiểu hoàng đế Liêu Quốc vốn là cốt nhục của hắn. Cái danh này nghe ra cũng được, nếu truyền đi khắp nơi thì có lẽ dân chúng Trung Nguyên sẽ vui vẻ phấn khởi, đủ để làm cho sĩ tử văn nhân Trung Nguyên kích động đến rơi nước mắt, đủ để tạo ra hào quang mà trước đây chưa từng có, nhưng nó nào có chút ý nghĩa thực tế nào?
Lãnh thổ mà Thiên Khả Hãn đã từng thống ngự bây giờ ở đâu? Tử dân ở đâu? Thiền Vu, Khả Hãn những kẻ đã từng xưng Thiên Khả Hãn với hoàng đế Trung Nguyên đến khi Trung Nguyên vừa suy yếu lập tức quay lại, biến thành con lang con hổ, cắn cho Trung Nguyên một cái. Cái xưng hiệu này có lẽ đổi lại là một vị hoàng đế khác chắc sẽ cảm thấy vô cùng động lòng, nhưng đối với Dương Hạo mà nói nó so với cái mông cũng chẳng bằng.
Da Luật Long Tự là con ruột của hắn, đây là sự thật vĩnh viễn không thể nói ra, như vậy đám hoàng đế tương lai của Liêu Quốc cùng với văn võ, tử dân sẽ mãi mai coi cái xưng hiệu “Nhi hoàng đế” này là một nỗi sỉ nhục vô cùng nặng nề, có cơ hội chúng nhất định sẽ lại khiêu chiến, rồi mỗi một kẻ lên kế vị của Liêu Quốc, từ lúc lập vị đến cuối đời, có lẽ ý nguyện lớn nhất của hắn chính là đánh bại Tống quốc, xóa bỏ đi cái xưng hiệu ô nhục này.
Một đời kiêu hùng nào có kẻ nào không phải là người biết co biết duỗi chứ. Bọn họ có thể chịu đựng tất cả mọi nỗi ô nhục, nếm mật nằm gai để chờ đợi cơ hội phục thù. Câu Tiễn ngay cả việc vợ mình cũng phải đưa lên giường của kẻ thù, mình còn phải ăn phân của kẻ thù mà còn làm được, kết quả cuối cùng là gì? Đồng ý điều kiện không có chút ý nghĩa nào, chẳng qua chỉ là giúp người Liêu xác lập lên một mục tiêu vĩnh viễn coi người Tống là kẻ thù mà thôi.
Đương nhiên, Tiêu Xước lại đưa ra điều kiện mà rất nhiều người thà vứt bỏ tính mạng cũng không chịu đồng ý này một mặt là có thể chịu được điều mà người ta không thể. Mặt khác cũng có thể là vì nghĩ rằng tình phụ tử sẽ làm động lòng hắn, hoặc cũng là muốn để cho đôi phụ tử không thể nhận nhau này có một thân phận để gặp nhau, cũng chưa chắc đã có ý định lâu dài như vậy.
Nhưng Dương Hạo lại nhìn rất rõ, đáp ứng điều kiện này không khác gì xác định mối huyết hải thâm thù giữa hai nước.
Đất tổ tông bị mất nếu như không thể lấy về được thì tử tôn hậu thế có thể mắt nhắm mắt mở, giả vờ câm điếc, nhưng nếu trực tiếp gắn vào mình cái danh hiệu “Nhi hoàng đế”, ngươi nói xem bọn họ sao có thể trốn tránh được? Sao có thể nhẫn nại được? Chỉ có loại cực phẩm Thạch Kính Đường mới có thể vô sỉ tới mức ấy.
Sự qua lại giữa hai bên ngày càng nhiều, Tiêu Xước lại không chịu đưa ra thêm chút nhượng bộ nào, Dương Hạo cảm thấy cần phải dùng vũ lực để thúc đẩy một chút, làm cho triều đình Liêu Quốc vẫn đang còn tồn tại hoang tưởng phải tỉnh ra. Rồi một ngày, Dương Hạo lại phát binh tiến công với U Châu, ngoại tuyến cũng đồng thời phát động tiến công, Phan Mỹ đích thân chỉ huy, tiêu diệt một lộ viện quân Liêu, U Châu đại kinh, cuối cùng cũng bắt đầu xem lại điều kiện đàm phán mà lúc đầu họ cho không thể làm được: cắt đất!
*
* *
Ngày mùng ba tháng ba là ngày gì?
Ngày mùng ba tháng ba là ngày Nhân Tổ. Nghe nói ngày này là ngày Phục Ni và Nữ Nãi thành thân, nhân loại từ đây được sinh sôi nảy nở, vì thế Phục Ni được tôn xưng làm “Nhân Tổ Gia”, ngày này cũng trở thành ngày thiện nam tín nữ kỷ nhiệm Nhân Tổ.
Ngày âm lịch mùng ba tháng ba cũng là ngày thọ đản của Chân Vũ đại đế đạo giáo, Chân Vũ đại đế sinh vào thời thượng cổ Hiên Viên, là chính thần chủ quản quân sự và chiến tranh của đạo giáo, vì thế này này cũng là ngày trọng đại của đạo gia.
Ngày mùng ba tháng ba cũng là ngày thượng tị. Vào ngày này quan dân đều phải tắm rửa sạch sẽ, diệt trừ sâu bọ.
Ngày mùng ba tháng ba cũng là lễ tình nhân của người Trung Nguyên, mùng ba tháng ba thời tiết trong lành, bên bờ nước Trường An có rất nhiều người ăn mặc sặc sỡ, áo xanh áo đỏ đi lại.
Mùng ba tháng ba năm nay làm cho người ta vui mừng hơn những năm trước, vì hôm nay Liêu Tống hai nước cuối cùng cũng đạt được hiệp nghị, hai nước sẽ đến thành nam Bảo Quang Tự ký kết quốc thư.
Trước một ngày, Tống quân bao vây thành đã lùi lại cắm doanh cách đó hai mươi dặm. Vừa sáng sớm, Tiêu Thát Lẫm và Dương Kế Nghiệp đã thống soái đội binh tinh nhuệ đến Bảo Quang Tự để phòng bị, chuẩn bị tốt tất cả cho buổi ký kết.
Đến đúng giờ ngọ, nghi trượng của Dương Hạo và thái hậu, hoàng đế Liêu Quốc mới tiến vào Bảo Quang Tự.
Trước cửa Bảo Quang Tự đã sắp xếp một cao đài để tiến hành tế cáo thiên địa, bước vào bên trong, đi thẳng tới trước chính diện sẽ thấy dưới đất đều được phủ thảm đỏ, ở cuối chính diện đặt một chiếc trà kỷ, tứ bảo văn phong, đầy đủ mọi thứ.
Dưới sự bảo vệ của trọng thần thân tín, thủ lĩnh hai nước đi từ hai bên điện ra, bước vào hội trường.
Dương Hạo liếc nhìn tiểu hoàng đế Liêu Quốc Da Luật Long Tự đang nắm tay Tiêu Xước. Tiêu hoàng đế mặc một bộ bào phục hoàng đế, còn nhỏ tuổi mà đã phải làm ra vẻ rất uy nghiêm, chỉ có điều... Dù sao nó vẫn chỉ là một đứa trẻ, thần sắc tức giận không thể che lấp được, quốc gia đại sự nó vẫn chưa thể hiểu, nó chỉ biết rằng cái kẻ trước mặt nó đã ức hiếp mẫu thân nó, làm cho mẫu thân nó lâu lắm rồi chưa nở một nụ cười.
Dương Hạo nhìn nó, đột nhiên mỉm cười, tiểu hoàng đế lại trừng mắt lên nhìn hắn một cái, hừ một tiếng, rồi hất cằm lên.
Dương Hạo lại mỉm cười, ánh mắt hơi hướng lên thì nhìn thấy Tiêu Xước.
Tiêu Xước mặc một bộ y phục màu xanh lá cây, đai đeo bội kiếm, đầu đội mũ phượng, cao quý, kiều diễm. Thấy Dương Hạo đang nhìn mình, ánh mắt Tiêu Xước đột nhiên lóe lên sự hận thù, nàng hất mũi lên, dáng vẻ chẳng khác gì con trai bảo bối của nàng.
Dương Hạo thầm cười khổ, thật sự hắn đã đắc tội với đôi mẫu tử này rồi. Đối với Tống Quốc mà nói vùng đất U Yên là tấm chắn phương bắc, có được vùng đất này rồi thì hệ thống phòng ngự hổ lang trên thảo nguyên sẽ được gia tăng, đối với quốc gia Trung Nguyên mà nói là quan trọng nhất, đối với bách tính đặc biệt là bách tính Giang Nam mà nói họ lại không lạc quan với việc triều đình thu phục U Yến. Vì nguyên nhân thủy thổ và khí hậu, phương nam luôn giàu có hơn phương bắc, cho nên thuế má của phương nam cao hơn phương bắc. Giang Nam giống như một nguồn cung ứng lương thực cần thiết dồi dào không dứt cho Biện Lương đông kinh và phương bắc. Nếu như cương vực lại mở rộng về phía bắc thì gánh nặng của họ lại nhiều hơn, tuy nói như vậy nhưng Giang Nam vẫn giàu có hơn phương bắc, có điều ai lại sợ tiền cắn vào tay chứ?
Còn đối với Liêu Quốc mà nói, ý nghĩa của mười sáu châu Yến Vân lại không chỉ nằm ở mặt quân sự. Mười sáu châu Yến Vân là vùng nông canh chủ yếu của Liêu quốc, nó có tác dụng nông canh khá giống như tác dụng của Giang Nam với Tống Quốc, đồng thời mười sáu châu Yến Vân còn là khu vực tiếp giáp với Tống Quốc. Đây là con đường quan trọng để người Liêu hấp thụ văn hóa Trung Nguyên, dung nhập kinh tế Trung Nguyên. Nếu như mười sáu tỉnh Yến Vân tuột khỏi tay thì người Liêu sẽ lại quay trở lại cuộc sống du mục dựa vào nước, cỏ mà sống, chính thể đế quốc phong kiến cũng sẽ rất khó để duy trì. Lập quốc đã sáu mươi năm, nước Liêu vừa mới có chút hưng thịnh trên mặt kinh tế và văn hóa từ đây lại dẫm lên con đường xuống dốc.
Mười sáu châu Yến Vân giống như huyết mạch kinh tế và nền tảng chính trị của Liêu Quốc, bây giờ Dương Hạo nhân lúc chính đàn Liêu Quốc dao động, quân sự thất bại, thái hậu và hoàng thượng bị nhốt để cứng đầu ép nàng nhượng lại thất châu Sơn Tiền, trong lòng Tiêu Xước sao có thể không hận. Thứ duy nhất nàng giành lấy được chính là về việc thần phục của Nữ Chân và Thất Vĩ, Dương Hạo đã chịu nhượng bộ. Trong kế nghị lúc đầu, Thất Vĩ và Nữ Chân đều nạp vào thần tử hạt hạ của Tống Quốc, sau đó sẽ phái binh đến đóng, người Nữ Chân không nhìn ra thâm ý trong đó, nhưng Tiêu Xước lại có thể nhìn thấy. Cuối cùng Dương Hạo cũng chịu nhượng bộ một bước, ước định Nữ Chân sẽ xưng thần với Tống, do Tống đóng quân, Thất Vĩ xưng thần với Liêu, do Liêu quản chế. Chia cắt người Nữ Chân và người Mông Cổ, theo như Dương Hạo nghĩ chỉ là để tránh bọn họ hợp lực quá lớn, còn đối với Tiêu Xước mà nói đây chính là sự bố thí duy nhất của hắn đành cho nàng.
Nàng ngẩng đầu lên, ngăn cho những giọt nước mắt không trào ra, khi lại nhìn Dương Hạo, đồng tử của nàng đã có chút đỏ lên.
Nhìn thấy dáng vẻ bị uất ức vô cùng nhưng vẫn tỏ ra kiên cường, Dương Hạo quả thật rất muốn bước tới, nắm lấy đôi vai gầy gò của nàng, thấp giọng an ủi mấy tiếng, nhưng... Nhưng hắn chỉ có thể cố gắng kìm chế trái tim, cười cười, chắp tay nói: “Xin mời ngồi”.
Tất cả sớm đã nghị định rồi, ngay cả nội đung quốc thư đều đã được hai bên cẩn thận xem qua từng câu từng chữ, không cần phải bàn bạc nữa, chỉ cần cầm ấn dấu của đế vương hai bên đóng dấu vào là được rồi.
Thứ Dương Hạo muốn là thất châu Sơn Tiền. Mười sáu châu U Vân, Thất châu Sơn Tiền, Cửu Châu Sơn Hậu, mười sáu châu này hợp lại tính ra khoảng mười hai vạn dặm. Thất châu Tiền Sơn dựa vào Yến Sơn và Thái Hành Sơn bắc chỉ là một lộ trường thành, ước tính nghìn dặm, phía bắc còn giới hạn với đại sơnm, trở thành một bức chắn thiên nhiên tác địa khu Hán tộc Trung Nguyên với địa khu dân tộc du mục bắc phương, vị trí chiến lược vô cùng quan trọng.
Lúc này năm mới đã qua, Dương Hạo tuy vẫn chưa hoàn đô, nhưng niên hiệu đã định và ban bố khắp thiên hạ, năm nay là năm Vĩnh Hòa Nguyên, buổi hòa nghị lần này cho Tống Quốc chỉ đạo, vì thế hòa ước lấy niên hiệu Tống Quốc làm chuẩn, tất cả từ ký tên, đóng dấu, giao đổi quốc thư đều dùng cách của Tống Quốc. Mắt thấy đứa con trai bé nhỏ khó nhọc nâng chiếc ngọc tỷ nặng nề, dưới sự giúp đỡ của thị tì để đóng chiếc dấu đỏ lớn lên quốc thư, Tiêu Xước cảm thấy mũi cay cay, cuối cùng cũng không nhịn được mà lén rơi giọt lệ...
Quốc thư đã ký xong rồi, vì hoàng đế Liêu Quốc tuổi còn nhỏ nên sẽ do thái hậu nhiếp chính lên tế trời. Dương Hạo và Tiêu Xước mỗi người dâng lên hòa ước của mình, từ từ đặt lên cao đài bằng đất, ca đài này còn cao hơn cả Hùng Bảo Điện một cái đầu, dãy bậc thang bên trái đều là thị vệ Liêu Quốc, còn bên phải là thị vệ Tống Quốc. Trên cao đài đặt một hương án, thảm đỏ trải hết mặt đất, trên đó ngoài hai người ra thì không còn một người nào khác, văn võ đại thần hai bên đều đứng cung kính dưới đài.
Tiêu Xước tay dâng hòa ước, sắc mặt tái nhợt, đưa mắt nhìn một lượt tất cả, rất nhanh thôi, nơi đây sẽ mang họ Tống rồi. Nàng phải chấm dứt chiến tranh rồi dẫn thần dân của mình rời khỏi đây, có lẽ... Sẽ không có cách nào trở lại nữa.
Dương Hạo hắng nhẹ một tiếng, nói: “Thái hậu, không đọc lời thề sao?”.
Tiêu Xước cười lạnh, nói: “Dương Hạo, hôm nay ngài đã hoàn thành tâm nguyện, chắc là vui lắm nhỉ?”.
Hai người dâng hòa ước, đặt trước hương án, thần sắc lạnh lùng, không thèm nhìn nhau.
Dương Hạo trầm mặc một lúc, sâu kín thở dài nói: “Nếu như Tống Liêu đổi chỗ cho nhau, thái hậu sẽ làm thế nào?”.
Tiêu Xước đúng là nhân kiệt một đời, nghĩ một lát trong lòng liền nhẹ đi nhiều, chỉ buồn bã nói: “Ngài dẫn binh thừa lúc ta khó khăn, ép ta cắt đất, người Trung Nguyên chẳng nhẽ có quyền được sống sung sướng, còn con cháu ta lại phải ăn gió nằm sương, dựa vào cỏ cây mà sống, đời đời nghèo khổ sao?”.
Ánh mắt Dương Hạo hướng về phía mái hiên rộng lớn của Đại Hồng Bảo Điện, cũng không vui nói: “Ta có thể nói gì đây? Chúng sinh bình đẳng sao? Ngay cả trong mắt Phật tổ, một vị thần linh luôn nói rằng chúng sinh bình đẳng cũng có tam đạo thiên, nhân, A Tu La, tam ác đạo súc sinh, ác quỷ, địa ngục, trong đạo thiện ác lại có ba loại thượng trung hạ, huống hồ ta chỉ là một đế vương phàm trần? Ai có thể có đại thần thông để lo cho tất cả mọi người chứ? Ngay cả Tống Quốc ta, con dân nam bắc, con dân tây đông, con dân thành trác sơn thôn, họ đều là con dân Đại Tống, nhưng đâu phải ai cũng được hưởng cuộc sống ấm no đầy đủ, vinh hoa phú quy đâu?”.
Dương Hạo thở dài một tiếng, lại nói: “Ta không muốn... Nhưng ta biết, hôm nay nếu như ta không lấy U Yến, thì đến một ngày nào đó Liêu Quốc quyết sẽ không thỏa mãn với U Yến. Nếu như không có U Yến thì Tống Quốc sẽ là vùng đất bằng phẳng, không có nơi hiểm yếu nào có thể chiếm cứ, cho dù tất cả dân nghèo có tòng binh, tiêu hao mười lần lực cũng không thể tự thủ được”.
Tiêu Xước cười lạnh: “Lý do rất hay, ngài đoạt thức ăn của ta để nuôi miệng ngài đó lại là chuyện thiên kinh địa nghĩa sao?”.
Dương Hạo cười nhạt, nói: “Ta từ trước đến giờ chưa từng nghĩ như vậy, ta cũng chưa từng có ý định lo cho bản thân mình. Nhưng tộc người Khiết Đan một khi gặp thiên tai, không còn sinh kế, liền muốn xâm nhập Trung Nguyên, đây là sự thật, đứng ở vị trí này ta phải tính trước cho mình một bước, là một đế vương ta cần phải làm vậy”.
Tiêu Xước chỉ cười lạnh.
Dương Hạo liếc nhìn nàng, hỏi: “Nàng... Đã từng nghe câu chuyện Hòa Trạch bao giờ chưa?”.
Tiêu Xước hơi ngạc nhiên: “Hòa Trạch gì?”.
Dương Hạo chậm rãi nói: “Đây là câu chuyện mà Phật tổ Thích Ca Mâu Ni đã giảng cho đệ tử của người nghe. Truyện kể rằng rất lâu về trước có một quốc gia rất lớn, trong một thôn trang gần quốc đô vương thành có một người rất giàu có, nhân đinh vô số, con cháu đầy đàn, điền ruộng thênh thang, phòng xá vô kể. Có một hôm trạch tự bị bén lửa, nhưng con cháu trong nhà hoàn toàn không biết, vẫn ở trong đó chơi đùa.
Có một người chạy tới nói cho họ biết nhà đang cháy, nhưng họ hoàn toàn không tin, vẫn chạy khắp nơi trong phòng chơi đùa. Người này bất kể nói như thế nào cũng không có ai tin hắn, vì vậy hắn liền nghĩ ra một cách, hắn bảo với những đứa trẻ rằng ở cổng thôn có người mang đến rất nhiều những động vật nhỏ trông cực kỳ kỳ lạ, còn có rất nhiều đồ chơi, nếu như không mau ra xem thì người đó sẽ mang đi mất.
Những đứa trẻ đó nghe thấy vậy liền vội vã đi theo hắn. Khi bọn họ chạy ra ngoài trang viên thì cả trang viên đều cháy thành tro bụi, nhưng những đứa trẻ đó đều không bị thiêu chết, ở cổng thôn đương nhiên chẳng có con vật kỳ lạ nào, cũng chẳng có đồ chơi, người đó đã lừa những đứa trẻ, nhưng tính mạng những đứa trẻ đó được bảo toàn”.
Tiêu Xước nhìn hắn, lạnh lùng nói: “Có ý gì vậy?”.
Dương Hạo nói: “Ý của ta là, thủ đoạn không quan trọng, kết quả mới là quan trọng. Nàng đừng chỉ nhìn xem thủ đoạn của ta có tốt hay không, sẽ có một ngày nàng sẽ hiểu được nỗi khổ của ta”.
Tiêu Xước nhíu mày: “Có nỗi khổ gì sao?”.
Dương Hạo vẫn nói tiếp: “Ta chỉ là một phàm nhân, phàm nhân không thể làm được việc chúng sinh bình đẳng, đối với người sẽ luôn xảy ra những bất hòa, ta không có một cách nào hoàn mỹ để cho tất cả mọi người tuyệt đối hài lòng, nhưng ta sẽ cố gắng... Ta muốn sống, cũng muốn để người khác được sống...”.
Tính nhẫn nại của Tiêu Xước hoàn toàn đã hết sạch, ánh mắt như ngọn lửa nguy hiểm căng lên, giọng căm giận nói: “Rốt cuộc ngài đang nói cái gì?”.
Dương Hạo nhíu mắt cười, nói: “Bây giờ ta có nói nàng cũng sẽ không tin... Nhưng sẽ có một ngày nàng sẽ hiêu”.
“Sao cơ?”.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên Tác giả: Nguyệt Quan
-----oo0oo-----
Quyển 16: A Na Ngã Từ Si
145: Đại Kết Cuộc (Thượng + Hạ)
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn: vip van dan
Share by: Mộng Hoa Trang
Đại Tống vĩnh hòa năm năm.
Dương Hạo đương quốc, trải qua năm năm phát triển, Kim Lăng lại khôi phục lại cảnh tượng phồn hoa thịnh vượng, hơn nữa còn giàu có hơn trước. Hai bờ Tần Hoài thuyền bè tấp nập, đêm xuống đèn chăng dọc hai bờ, thỉnh thoảng có tiếng thiếu nữ gần đó ngân nga một khúc nhạc, hòa với tiếng buôn bán nhộn nhịp.
Trên đường cái dù các cửa hàng bán vải, bán trang sức, khăn trùm đầu, túi... Tiệm nào tiệm nấy dựng sát nhau thành hàng, đầy vẻ sung túc. Các cửa hàng cũng mọc lên như nấm theo những ngành nghề sản xuất mới hưng, Kim Lăng trăm nghiệp hưng vượng, sức sống bừng bừng.
Lấy ngay tiệm bán vải cực lớn trước mặt này làm ví dụ, trong năm năm đã có tới ba lần mở rộng, vẫn cung không đủ cầu, tơ lụa ở đây đều là những loại cực phẩm quý giá, đa phần đều là để bán ra nước ngoài, bán cho phía bắc, Đại Lý ở phía nam, Giao Chỉ cũng cần, lượng khách lớn nhất có hai nơi, một là ở đông, một là ở tây.
Phía tây là đại thương nhân họ Lý ở Diêm Châu Hà Tây, vị Lý công tử này xây dựng điểm buôn bán ở Kim Lăng, nhiều năm thu mua, những tơ lụa, gốm sứ qua tay hắn nghe nói đưa qua Thiên Trúc, Đại Thực, Đại Tần thậm chí là những quốc gia Tây phương, trong một năm lượng hắn thu mua rồi bán ra đạt đến một con số kinh người.
Một đại khách hàng khác là đến từ phía đông, đi qua phía bên kia bờ biển là Nhật Bản, vị đại khách thương này họ Bích, khẩu âm Biện Lương, có điều thân phận thật sự của hắn luôn không có ai biết được, có người nói hắn là đại hải tặc cực giỏi, lý do là vì có rất nhiều lão đại ăn chặn trên biển hay mấy con sông đều phải cung kính trước mặt hắn.
Lại có người nói hắn là con rể của một đại thủ lĩnh thuộc nước Nhật Bản, được thiên hoàng lệnh làm chư hầu, thế lực ở thượng quốc rất lớn, vì thế hắn mới có thể buôn bán được nhiều cực phẩm như vậy. Lý do là vì từng có hải thương nhìn thấy hắn dáng vẻ uy phong bát điện ở nước Nhật Bản. Còn có người nói con người này thực tế là tổng quản nội thị trong hoàng thất Đại Tống, lý do là vì hắn không có mọc râu, hơn nữa có người từng nhìn thấy hắn ra vào hoàng thành Đại Tống.
Mọi người nói qua nói lại rất nhiều, cũng không biết rốt cuộc hắn có thân phận gì, kệ hắn. Người này tuy lai lịch bất minh nhưng vàng bạc của hắn không phải là giả. Theo sự phát triển hưng thịnh mấy năm nay của Đại Tống, thứ trên thị trường thiếu thốn không phải là vật tư mà là tiền mặt, tuy vàng bạc Tây Vực và Nam Dương không ngừng chảy vào, nhưng vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu lưu thông vật tư, mà người này ở khắp các địa phương của Đại Tống đều có bạn làm ăn, khi giao hàng hóa đều dùng vàng bạc chi trả, vì thế hắn là người khách được quan phủ địa phương và thương gia hoan nghênh nhất.
Buôn bán tơ lụa hưng vượng, theo đó mà các ngành trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, nhuộm vải, thêu thùa, may y phục... Cũng không ngừng mở rộng, huống hồ quan gia đã liệt Hàng Châu vào danh sách năm cửa khẩu thông thương mậu địch lớn nhất. Thuyền đại hải do Đường gia chế tạo mỗi ngày không ngừng ra ra vào vào. Đâu chỉ có tơ lụa, gốm sứ mà ngay cả lá trà, trang sức, đủ các loại thương phẩm bây giờ đều cung không đủ cầu. Nghề nghiệp thủ công cũng tăng nhanh, mấy phường nhuộm vải của Thôi gia ở Giang Nam mỗi nơi chiêu mộ nhân công không dưới mấy nghìn người.
Phường Kê Lung phồn vinh nhất Kim Lăng, một hàng bốn người đang chậm rãi đi, nhìn đông nhìn tây, xem ra có vẻ hết sức nhàn nhã, nhìn dáng vẻ bọn họ có lẽ là một đôi phu phụ và một đôi nô bộc. Đi phía trước là một nam tử khí độ ung dung chừng ba mươi tuổi, mặt như quan ngọc, mặt mày anh tuấn, nhìn qua cũng có được cảm giác khí phái.
Bên cạnh hắn là một nữ tử xinh đẹp mặc bích la sam, thân dài ngọc lệ, eo nhỏ như liễu, đang đúng vào độ phong tình dung mạo thành thục nhất. Khuôn mặt có che một chiếc mạng mỏng, nhưng ngũ quan xinh đẹp lúc ẩn lúc hiện càng làm lộ vẻ kiều mỹ của nàng.
Đi sau hai người là đôi nam nữ mặc thanh y, nam tử khoảng trên dưới hai mươi tuổi, mặc trang phục nô bộc, trên vai đeo một cái túi, dáng đi chân tay rất hiên ngang. Người nữ tử mặc thanh y trên mặt cũng che một chiếc mạng mỏng, bước đi nhẹ nhàng, thân hình uyên chuyển, tuy quấn tóc kiểu nô bộc nhưng dáng vẻ của nàng trông còn cao quý ưu nhã hơn nhiều thiên kim khuê tú đại hộ.
Bách tính Kim Lăng đã từng nhìn thấy nhiều quan viên, vừa nhìn thấy khí chất của bốn người này liền biết đó là người thuộc đẳng cấp tôn quý. Nhàn rỗi không có việc gì làm nên đi đạo phố phường, cho nên những người buôn bán hay lôi kéo khách cũng không dám chạy tới quấy rầy, bốn người cứ như thế mà đi, vô cùng tiêu diêu tự tại.
Cả chặng đường chỉ thấy những cửa hàng đủ màu sắc sáng rực cả đường, mãn cả nhãn.
Mỹ nhân mặc bích la sam đi sát bên cạnh quý nhân khoảng tam tuần, tươi cười bình phẩm những tiệm hàng bên đường: “Từ khi quan nhân cho mở các khoa khai công, lý khoa, nhân tài bách nghiệp có thể làm quan thì mấy năm nay cuộc sống của Đại Tống ta thay đổi không ngừng, mới mẻ thêm tầng tầng lớp lớp. Người qua người lại, nhà cửa mọc lên như nấm sau mưa. Quan nhân, chàng xem, chủ nhân cửa hàng này vừa mới chế ra một loại trang sức cực phẩm, hoa văn tinh xảo, tuy giá cả cực cao nhưng vẫn cung không đủ cầu”.
Quý nhân tam tuần mỉm cười gật đầu, mỹ nhân liền che tay cười: “Thật là tốt, cuộc sống sung túc đường hoàng, tuy không sánh bằng sự trang nghiêm của Trường An, nhưng sự phồn hoa lại không hề kém, đặc biệt có phong vị Giang Nam, chuyến này đi quá không uổng”.
Đôi mắt xinh đẹp của nàng chuyển chuyển con ngươi, cười khúc khích: “Đáng tiếc, Tử Du tỷ tỷ lại có mang rồi, không có phúc khí theo quan gia đi tuần thiên hạ. Hi hi, Tử Du tỷ tỷ thật là biết sinh, năm năm sinh ba đứa con trai, cứ như thế này mà sinh tiếp thì hai nhà Chiết Dương cộng lại thì người ta phải trố mắt mà nhìn rồi”.
Quý nhân đó ho nhẹ một tiếng, cười khổ nói: “Cái này... Tử Du... Ha ha ha, Tử Du cũng thật quá biết sinh một chút. Thôi, sau này nên dùng song tu pháp nhiều một chút, nếu không cả đời này nàng ngay cả cung môn nhi cũng không được đâu”.
Đôi nam nữ thanh y phía sau nghe thấy, không nhịn nổi mà trong mắt cũng lộ ra một ý cười. Bốn người tuần hành này đương nhiên chính là Dương Hạo, Trúc Vận, Mục Vũ và Mã Diệc.
Trúc Vận cười nói: “Nhưng trong nhà phò mã lại liên tiếp sinh hai nữ nhi, làm cho La lão đầu buồn tới mức râu cũng rụng một nửa rồi. Muốn nạp thiếp cho phò mã, nhưng lại sợ chàng không vui”.
Dương Hạo cười nói: “Nhà lão La con cháu đầy đàn, Khắc Địch không sinh con trai cũng không sao chứ? Ta thấy lão La cũng không buồn bực lắm như nàng nói. Khắc Địch nhậm chức lưu thủ U Châu kiêm quản chế binh mã ở Nữ Chân mới có ba năm, lão La cả ngày đi theo ta to nhỏ, muốn điều Khắc Địch về Trường An, nói ông ta muốn có thêm tiểu tôn nữ rồi”.
Trúc Vận hừ một tiếng nói: “Lão La chi nói miệng thế thôi, đúng rồi...”.
Nàng đột nhiên dừng bước, cười như không cười nhìn Dương Hạo: “Theo như thiệp biết, vị công chúa Da Luật Nhã đến bây giờ vẫn chưa gả cho ai, phò mã vừa đến U Châu là nàng ta lại tìm đủ cớ chạy tới, quan nhân phái phò mã đến thủ U Châu, nhưng chắc là không có ý định gì khác chứ?”.
Dương Hạo xoa xoa mũi, cười khan nói: “Muội tử của ta là Đại Trường công chúa, cho dù Khắc Địch có thật sự nạp thiếp thì thân phận đối phương cũng không thể quá thấp, phải không? Việc này à, để xem duyên phận đi, tiếp theo như thế nào ta không quản được”.
Trúc Vận bĩu môi, hừ nhẹ một tiếng, mắt thấy phía trước đã là ngã tư, Trúc Vận lại dừng bước, nói: “Quan nhân tuy đã lệnh cho nghi trượng đi từ từ ở sau, có điều tính đến thời điểm này có lẽ cũng nên tới rồi, chúng ta bây giờ về cung sao?”.
Dương Hạo lắc đầu nhẹ, đứng trầm ngâm trong chốc lát nói: “Nàng về cung trước đi, nhiều năm không đặt chân đến Kim Lăng rồi, ta muốn đi một mình một chút”.
Trúc Vận vâng một tiếng rồi xoay người đi, một đám người sớm đã đứng ở một góc, ăn mặc như văn sĩ từ đi tới nghênh đón. Trúc Vận lên xe, vừa vào bên trong ngồi xuống đột nhiên lại vén rèm cửa sổ lên, thò đầu ra ngoài, cười ranh mãnh nói: “Quan nhân, A Cổ Lệ sắp đến Kim Lăng rồi, chàng định... Làm gì người ta?”.
“Cái gì mà làm gì?”.
Trúc Vận hừ nhẹ một tiếng nói: “Tâm tư của người ta đối với chàng đến cả kẻ mù cũng nhìn ra, chàng biết mà chúng thiếp không biết sao? Người ta thay chàng củng cố Lũng Hữu, ổn định Cam Châu, bây giờ công đức đã viên mãn, lại giao đại quyền lại, tùy cho chàng phái đi làm quan. Một nữ nhi gia có thể có bao nhiêu tuổi xuân cơ chứ? Đông Nhi, Tử Du, còn có cả mấy tỷ muội Diễm Diễm đều đã gật đầu rồi, còn nếu như Dương đại quan nhân chàng thật sự có lòng dạ sắt đá thì coi như thiếp chưa nói gì đi”.
Trúc Vận buông rèm xuống, một đoàn thị vệ bảo vệ xe ngựa rời đi, Dương Hạo lắc đầu cười, quay lại nhìn Mục Vũ, trầm giọng hỏi: “Việc ta giao cho khanh làm thế nào rồi?”.
Mục Vũ liền tiến lên một bước, vừa đi vừa nói: “Tuân dặn dò của quan gia thần đã đưa thái tử và thái phó tiên sinh đến U Châu trước rồi. Thái tử rất thích nơi đó, trước khi ra khỏi Quan Trung thái tử còn khóc quấy cả ngày, nói là nhớ quan gia và hoàng hậu nương nương, bây giờ đã tốt hơn rồi. Ăn được, ngủ được, phò mã đã tặng cho thái tử một con ngựa nhỏ, thái tử tuổi tuy nhỏ nhưng về khả năng săn bắn lại không hề nhò”.
Dương Hạo cười vui vẻ: “Thật là tốt, đọc trăm vạn cuốn sách cũng không bằng hành tẩu ngàn dặm được, tuyệt đối không thể để thái tử ở trong thâm cung quá lâu, nuôi dưỡng thành một kẻ đần độn như Tấn Huệ đế. Các hoàng tử khác sau này cũng sẽ làm như thế, mỗi một thái phó mỗi năm phải thay nhau đưa một hoàng tử đi, nửa năm sống trong cung, nửa năm ở bên ngoài, tạo thành một thông lệ”.
Mục Vũ nói: “Vâng, sau đó thần đã đến thượng kinh, theo như lời quan gia dặn dò, dâng lên quốc thư và tư thư cho Tiêu hậu nương nương, có điều... Có điều dặn dò của quan gia, thần mới chỉ hoàn thành một nửa”.
Dương Hạo nhíu mày, ngạc nhiên nói: “Hoàn thành một nửa, nghĩa là sao?”.
Mục Vũ cười khổ nói: “Quan gia hẹn Tiêu hậu nương nương hội ngộ, thương lượng việc hai nước tiến thêm một bước mở rộng giao thương, thay đổi luật pháp mậu dịch, Tiêu hậu nương nương đã đồng ý rồi. Có điều thứ mà quan gia sai thần đưa cho Tiêu hậu nương nương, nương nương chỉ nhận một nửa”.
“Sao cơ? Chỉ nhận một nửa?”.
Mục Vũ nói, rồi lấy ra một hộp cẩm. Dương Hạo nhận lấy, mở ra nhìn, nhìn thật kỹ rồi lại nghĩ ngợi, dần dần lộ ra một nụ cười hiểu ý, lòng như đã mở cờ nói: “Khanh giữ hộp cẩm này cẩn thận, đợi khi trẫm hội ngộ với Liêu hậu nhất định phải mang theo”.
Mấy năm nay, Tống Quốc hoàn toàn mở các thị trường giao thông buôn bán, bỏ hết chướng ngại ảnh hưởng tới việc giao thông hàng hóa, biên cảnh hai nước ngày càng hưng thịnh, chiếm một phần năm tổng lượng mậu địch của Tống Quốc, còn bên Liêu Quốc thậm chí còn đạt đến một phần hai.
Lá trà, nồi sắt, vải... Lưu thông không chút chướng ngại, quan thuế rất thấp, hơn nữa Dương Hạo còn hết sức giúp đỡ cho bắc triều phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp. Tuy nói bắc triều trong mười năm cần phải cống nạp cho Tống triều đầy đủ số lượng ngựa, dê, nhưng ở mặt nào cũng có ưu đãi rất nhiều.
Cửu Châu Sơn Hậu của Liêu Quốc là nơi tụ cư của người Hán, cũng là vùng nông canh lớn nhất của Liêu triều, bọn họ là những người thu hoạch lớn nhất về mặt trồng lương và kỹ thuật canh tác, đồng thời do xu thể phát triển biên cương ngày càng hưng thịnh mà bọn họ cũng là nhóm người được hưởng lợi nhiều nhất. Mấy năm nay, người Hán bắc triều với hoàn cảnh sống được cải thiện lớn cũng những bách tính chư tộc khác cũng đã có thiện cảm hơn nhiều đối với Tống Quốc, không còn lạnh lùng nhìn như kẻ địch nữa. Cho dù lúc trước hai nước là kẻ địch không độ trời chung, tình hình này có quan hệ rất mật thiết với những ngày tháng tốt đẹp ở hậu thế.
Mục đích của Dương Hạo rất đơn giản, hắn muốn sống nhưng cũng muốn người khác được sống, nếu không mọi người dùng mong thái bình.
Dương Hạo biết, dân tộc thảo nguyên phương bắc là những người bất khuất bất phục, giống như những người trên thảo nguyên ở Âu châu, hoàn cảnh sinh tồn khó khăn, chỉ có thể dùng cây cỏ và nhu phẩm, thịt động vật để đáp ứng nhu cầu sinh tồn. Họ chỉ có thể liên tục chuyển tới các vùng thảo nguyên khác để kiếm ăn khi thời tiết thay đổi.
Bọn họ đã chinh phục được thiên nhiên, đồng thời cũng trở thành nô lệ của hoàn cảnh thiên nhiên. Khi đến lúc thiên nhiên khắc nghiệt khó có thể bảo toàn tính mạng thì bọn họ duy chỉ có con đường thông qua chiến tranh để đoạt lấy. Vậy có thể đến cướp đoạt ở đâu? Là nơi bắc cực nghèo khó và hoang vu sao? Đương nhiên là phải huy quân nam hạ, khách quan mà nói dân tộc thảo nguyên đã có tiền lệ từ lâu. Họ không ngừng xâm chiếm về phía nam, nhân tố chủ yếu quyết định không phải là dã tâm cá nhân của kẻ thống trị mà là quyết định của ông trời.
Cho nên bọn họ hiếu chiến hơn người Trung Nguyên, thiện chiến hơn người Trung Nguyên, cũng không tính toán nhiều đến cái giá của chiến tranh như người Trung Nguyên, còn có cái giá nào quan trọng hơn sự sinh tồn chứ?
Dương Hạo hy vọng việc văn hóa đồng hóa, kinh tế thẩm thấu, kỹ thuật nông canh được truyền bá có thể làm cho hoàn cảnh sinh tồn của bắc triều sẽ không thảm khốc như khi chiến tranh. Nếu như đã không có cách nào diệt được lang thì chi bằng biến lang thành cừu. Đối lập và áp chế không thể giải quyết được vấn đề, hy vọng có thể dùng những thủ đoạn khác để giải quyết chúng, ít nhất cũng giảm thiểu lượng lớn bắc nhân xâm phạm phương nam. Nếu như có một ngày con cháu hậu thế thật sự hủ bại, triều đình trở thành con quỷ chỉ biết nuốt mỡ dân hút máu dân thì triều đại thay thế ít nhất cũng sẽ là nhóm người văn minh, còn hơn là để một bầy người dã man kéo cả Trung Quốc thụt lùi lại.
Đương nhiên, chiếm lĩnh được thất châu Sơn Tiền, không chế những yếu địa chiến lược, văn hóa kinh tế cùng lúc xâm lược và đồng hóa, đó là vì sự vững chắc của quốc gia sau này, nhưng việc nội bộ ổn định vẫn quan trọng hơn tất cả. Điểm này không thể xem thường.
Một lượng lớn vật tư sự sinh sống được chuyển vào bắc triều, đã cải thiện hoàn cảnh sống của họ. Bất kể thứ nào vừa được ra đời và phát triển ở Trung Nguyên thì rất nhanh đều được lưu hành đến cả bắc triều. Sự chấp nhận văn hóa, cải thiện kinh tế đang dần làm thay đổi tập tục, thói quen và tính cách của người bắc triều. Đồng thời, Tống Quốc đã cho cải cách lại trị, khoa cử, quân chế, mở rộng biển thông thương, giao du vạn quốc, dần dần xóa bỏ được những hủ tục tiêu cực, bảo thủ trong văn hóa.
Đây là công trình trường kỳ, hoặc có thể phải cần có sự nỗ lực của mấy thế hệ, nhưng tác dụng của nó cực lớn. Dựa vào sự thông minh tài trí của người Trung Quốc, trong tương lai có thể tích cực mở rộng và phát triển tiếp tục. Cho dù một ngày hắn không còn nữa, cho dù một ngày con cháu hắn bất hiếu làm mất đi giang sơn. Thì người bị suy sụp chỉ có một họ một nhà hắn, còn dân tộc này vẫn sẽ ngày càng phát triển, sẽ không biến thành một hũ tương hỗn tạp.
Liêu Quốc tuy mất đi thất châu Sơn Tiền, nhưng hoàn cảnh nội bộ quốc gia lại thay đổi rõ rệt, mỗi người đều cảm nhận được nó. Cho dù là mục dân bình thường cũng cảm thấy sự thay đổi cực đại sau khi kết hòa bình với Trung Nguyên, bọn họ cũng không còn đáng thương đến mức cái nồi sắt sứt cũng coi như gia bảo nữa.
Vì mảnh đất Hà Tây và thất châu Sơn Tiền đã vào tay nên ngựa, bò dê Liêu Quốc không còn là thứ cầu cũng không được nữa, vì thế có thể vận chuyển vào với giá cả phải chăng, Trường An bắt đầu hưng vượng ngành nghề này, Quan Trung cũng bắt đầu phát đạt hơn.
Đây là chuyện có lợi cho cả hai bên, Dương Hạo tin rằng với sự thông minh của Tiêu Xước có thể hiểu rõ được lợi và hại của chiến với hòa, có thể hiểu được nỗi khổ tâm của hắn, để đủ có thể giải được nối hận thù với hắn, thậm chí... Khụ khụ... Cả thứ trang sức mang trả lại một nửa này nữa, nàng ấy hy vọng... Mình sẽ chính tay đeo cho nàng ấy sao?
Nhất thời Dương Hạo không nén nổi cảm khái mà thở dài.
Mục Vũ khom người ho khan một tiếng, liếc nhìn thần sắc của Dương Hạo, lại nói: “Trên đường trở về thần đã đến Sùng Hiếu am, bí mật hội kiến Vĩnh Khánh điện hạ ở hậu am...”.
Dương Hạo vội hỏi: “Nàng ấy nói sao?”.
Mục Vũ nói: “Thần đã làm theo những gì quan gia đặn dò, khổ công khuyên điện hạ để tóc hoàn tục. Nhưng... Nhưng điện hạ không chịu, điện hạ nói chỉ nguyện làm thanh đăng cổ phật cho tới cuối đời để cầu phúc cho vạn dân trong thiên hạ. Điện hạ nói bây giờ người sống rất tốt, lòng rất thanh thản, Vĩnh Khánh công chúa đã báo được đại thù, giang sơn đã truyền lại, nên Vĩnh Khánh trước kia đã chết thật rồi, người bây giờ chỉ là một ni cô tiềm tâm tĩnh tu. Bảo chuyển lời tới quan gia về sau đừng phái người đến làm phiền người tĩnh tu nữa”.
Dương Hạo trầm mặc một lúc, lại thở dài.
Rồi họ lại đi tiếp, đi tới một thư viện Giang Nam, bây giờ đang là thời gian tổ chức khoa cử mùa xuân, ngũ đô đồng thời mở khoa khảo, chẳng trách sĩ tử trong thiên hạ đều lặn lội đường xa, tập trung hết ở Trường An. Sĩ tử ở mảnh đất Kim Lăng này cũng không ngoại lệ, họ ùn ùn kéo nhau đi ứng thi, người đông như trẩy hội.
Dương Hạo thấy tình cảnh tấp nập như vậy không khỏi mỉm cười.
Hắn đột nhiên nhớ tới cái ngày khi mới đến Biện Lương, chính là ngày hắn gặp Thôi Đại Lang, một ngày rất khó quên.
Bây giờ Thôi gia trải qua sự tranh đấu ngầm với Trịnh gia, lực lượng ẩn nấp đã hoàn toàn bị bại lộ, qua sự truy tìm của mật vụ Phi Vũ, cộng thêm sự nổi dậy của Đường gia, Lý gia, lực lượng ngầm của Thôi gia đã hoàn toàn không còn tác dụng, không thể gây nổi cơn sóng nào nữa. Dương Hạo căn bản không có ý chèn ép Thôi thị, chỉ là hắn giờ đang đứng ở chỗ rất cao, khi nhìn thấy rộng hơn thì sẽ tiến hành tu chỉnh và thay đổi những lực lượng kinh tế đang làm lũng đoạn thị trường. Khi quốc gia cường thịnh, những thế lực đó sẽ trợ lực cho sự phát triển của quốc gia, nhưng khi quốc gia bên bờ diệt vong, thì nếu như không có chúng, quốc gia sẽ thoát được vận mệnh diệt vong.
Đường gia, Lý gia, Thôi gia, thậm chí trong thất tông ngũ tính của Kế Tự đường bây giờ đều đã được bày lên đài, trở thành những kẻ nổi bật trong công thương nghiệp Tống Quốc, làm ăn thậm chí còn vươn ra cả hải ngoại, thông qua sự dẫn dắt của chính sách, Dương Hạo đã thành công biến những âm mưu gia thành xí nghiệp gia, dưới cờ của bọn họ đã có rất nhiều công xưởng cực lớn. Có lẽ sẽ có một ngày bọn họ trờ thành nguồn thu thuế lớn trụ cột của Đại Tống, thậm trí là những đại công ty liên doanh, trở thành những công ty có thể chế kinh tế, chính trị như các công ty Mỹ. Dương Hạo rất hy vọng chúng có thể phát triển một cách toàn diện, có thể lột xác hoàn toàn.
Trong đám sĩ tử, nhân gia, nô bộc, tiểu thương đang thì thầm to nhỏ, kẻ buồn người vui, có một tên ăn mày lưng còng đang chú ý quan sát tinh thần của đám sĩ tử. Kẻ nào mặt mày ù rũ, đau thương thì đương nhiên hắn sẽ không đến xin xỏ, nhưng chỉ cần thấy có kẻ mặt mày hớn hở là hắn lập tức mò tới, tươi cười chúc mừng, nịnh bợ vài câu. Người ta vui sẽ không để cho hắn đi với hai bàn tay không, ít nhiều cũng cho một chút gì đấy.
Đột nhiên quay đầu lại, thấy Dương Hạo đang nhếch môi cười, tên ăn mày đó mắt sáng lên, vội vàng chạy tới, khi cách khoảng tám thước liền cúi đầu xuống, mở mồm cao giọng nói: “Chúc mừng lão gia, chúc mừng lão gia, kim bảng đề tên, ngư vượt long môn”.
Mục Vũ vừa bực mình vừa buồn cười, bước lên một bước, mắng: “Cái đồ mắt mù, lão gia nhà ta...”.
“Thôi, thôi”. Dương Hạo đẩy Mục Vũ ra, thấy tên ăn mày quần áo rách nát, mặt mày lấm lem, sau lưng có cái gì đó nhô lên. Hình như cột sống bị dị dạng, cho dù hắn có đứng thẳng cũng như đang cúi cung kính vậy, trông dáng vẻ rất đáng thương, Dương Hạo liền lấy trong áo ra một xâu tiền, đưa tới nói: “Cầm lấy đi”.
Người đó vừa ngẩng đầu lên thì nhìn thấy một xâu tiền ánh vàng rực rỡ, không khỏi mừng rỡ như phát điên, khấu đầu nói: “Đa tạ đại gia. Đa tạ đại gia. Tiểu nhân chúc đại gia ngài...”.
Hắn vừa nói vừa đưa tay ra nhận tiền, đột nhiên nhìn rõ mặt Dương Hạo, bất giác sắc mặt đại biến, như nhìn thấy quỷ, liền lùi lại, kêu mấy tiếng rồi như muốn bỏ chạy.
Thấy ánh mắt khác thường của hắn, thị vệ ngầm trong đám đông sớm đã có sự cảnh giác, hắn vừa động một cái thì mấy đại hán mặc thường phục từ trong đám đông liền nhảy ra, vây chặt hắn ở giữa. Dương Hạo tay vẫn cầm xâu tiền, nhìn chằm chằm vào cái tên ân mày đang cúi gằm đầu xuống đất, ánh mắt như đang muốn lẩn tránh kia, ánh mắt Dương Hạo cũng dần dần ngưng trọng lại.
Hắn đứng thẳng dậy, từ từ đi lại trước mặt tên ăn mày, trầm giọng nói: “Ngẩng đầu lên”.
Tên đó run cả người lên, cằm dí sát xuống ngực, vì có cái bướu nên cơ thể như cong lại, nhìn rất giống một cái đầu hỏi không được tiêu chuẩn cho lắm.
Dương Hạo lớn tiếng quát: “Ngẩng đầu lên”.
Cơ thể hắn lại run lên, hai đầu gối nhũn ra, đột nhiên quỳ phục xuống đất, đầu liên tục đập xuống đất: “Đinh... Dương Hạo... Hoàng... Đại gia tha mạng, tha mạng. Nhìn tiểu nhân rơi vào bước đường này rồi, quý nhân ngài giơ cao đánh khẽ, tha cho cái mạng chó của tiểu nhân. Tiểu nhân khấu đầu với ngài, khấu đầu với ngài, xin thứ tội... Xin thứ tội, là tiểu nhân đã sai, tiểu nhân đã gặp báo ứng, đại gia tha mạng...”.
Tên đó khóc rống lên, khấu đầu đến nỗi chảy cả máu nhưng lại không dám dừng lại. Đám sĩ tử xung quanh hoảng sợ thất sắc, không biết tên ăn mày kia là ai, lại có quan hệ gì với vị công tử khí độ bất phàm kia.
“Ngẩng đầu lên!”.
Tên ăn mày không dám trái y hắn nữa, từ từ ngẩng đầu dậy, Dương Hạo nhìn hắn một lúc lâu mới thở dài một tiếng, từ từ bước lên phía trước hai bước, cái tên ăn mày bộ dạng giống như con chó kia sợ hãi nhưng không dám lùi lại. Dương Hạo nhẹ nhàng đặt xâu tiền lên vai hắn, lạnh lùng nói: “Người mà ngươi có tội nhất thực ra không phải là ta, mà là Nhạn Cừu”.
Dương Hạo xoay người bước đi, đám sĩ tử đang há mồm trợn mắt đứng nhìn vội vàng tránh đường, đợi khi Dương Hạo và đám người thân cận rời đi, tên ăn mày đang quỳ dưới đất mới từ từ ngẩng đầu lên.
Hắn ngẩn ra một hồi lâu, mới lắc lắc người, ánh mắt có chút mờ mịt.
Khuôn mặt hắn bây giờ gầy guộc lấm lem, cáu bẩn và tang thương. Nếu như là người cực kỳ thân thuộc với hắn, lại biết rõ thân phận thật sự của hắn có lẽ còn có thể thấp thoáng nhìn ra dáng vẻ phong lưu năm đó của nhị công tử Đinh Thừa Nghiệp của Đinh gia Bá Châu.
“Nhạn Cừu?”.
Đầu hắn đã cứng nhắc, khó khăn lắm mới nhúc nhích được cái đầu, rồi dần dần nhớ đến cái tên cẩu nô tài ngày xưa đã từng ở bên hắn: “Nhạn Cừu? Sao ta lại có lỗi với Nhạn Cừu chứ?”.
Gió thổi nhẹ nhẹ qua, Đinh Thừa Nghiệp vẫn đứng đó, đứng rất lâu, rất lâu, đột nhiên sống mũi cay cay, trong cơn gió, một hàng nước mắt chợt tuôn rơi...
Dương Hạo không ngờ Đinh Thừa Nghiệp năm đó bị trúng tên sau lưng, rơi xuống hố phân lại không chết, nhưng đối mặt với tên ăn mày tàn phế này hắn thật sự không ra tay nổi, kết cục như thế này còn đau đớn hơn là giết chết hắn.
Dương Hạo trầm mặt xuống, đi về phía trước, thấy thần sắc không vui của hắn, ngay cả Mục Vũ và Mã Diệc cũng không dám nhiều lời. Thư viện này thật lớn, khắp nơi đều là sĩ tử đang ngồi, Dương Hạo lần này đi cũng là muốn đến Tĩnh Tâm am. Tĩnh Tâm am là nơi tĩnh tu năm đó của Tĩnh Thủy Nguyệt. Từ sau khi Triệu Quang Nghĩa gặp thích khách, Bích Túc cũng lưu lạc không rõ nơi đâu. Cách đây không lâu, Dương Hạo đột nhiên nhớ tới Tĩnh Tâm am, liền phái người đến vùng lân cận dò hỏi, mới biết được am này đã đổi thành Tự Khố miếu. Tự danh vẫn là Tĩnh Tâm tự, còn Bích Túc đã xuất gia ở đây, lần này tuần Giang Nam, hắn cũng muốn thăm cố nhân một chút.
Bước lên cây cầu gỗ Tần Hoài, người qua lại khá ít nhưng ở phía trước lại có rất nhiều sĩ tử tụ tập ở một chỗ, thỉnh thoảng lại có mấy giọng nói vang lên, xem lên tiếng léo nhéo của nữ tử.
Dương Hạo hơi nhíu mày, từ từ đi tới, thị vệ sớm đã đi trước một bước, đẩy người ra, mở đường đi cho hắn.
Đến phía trước đám người thì thấy có một thư viện, ngói xanh tường trắng, cánh cửa đỏ thắm, phía trên giữa cửa có một tẩm bảng viết: “Liên tử thư ngụ”.
Dưới cửa có ba bậc đá, đứng sát cửa có một tiểu cô nương mặc áo màu phi thúy, mặt mày như tranh vẽ, khuôn mặt xinh xắn ửng đỏ, hai tay chống eo, tức giận trừng trừng nhìn đám sĩ tử trước mặt.
Một lão hủ trong đám sĩ tử đó dung mạo thanh sáng, mái đầu đã đầy tóc mạc, tinh thần rất không vui. Ông ta mặc một trường bào thêu hoa văn hình mây, dáng vẻ làm cho người ta thấy cũng phải cung kính. Lão tiên sinh này vuốt râu, khinh thường nói: “Quan gia xướng đạo nữ học là có nỗi khổ trong lòng, Lục mỗ đương nhiên không dám phi lễ. Chỉ là Phật gia có câu ‘nhân văn giải nghĩa, tam thế phật oan’, quan gia xướng đạo nữ tử học chữ học văn, để giải ngu muội, chứ không phải thật sự muốn đám nữ nhân cô nương được lập triều đường như nam tử.
Biết chữ cũng được, học văn cũng được... Những những nữ tử thông văn biết chữ mà có thể làm một đại nghĩa giả, hiên đức lại không nhiều, những người khác lại được khơi dậy dã tâm, thậm chí là nghĩ ra đủ mọi thứ, làm ra rất nhiều chuyện xấu, ngược lại chẳng bằng những kẻ không biết chữ. Cái này gọi là nam tử có đức là có tài, nữ tử vô tài mới có đức.
Nhưng tiên sinh nhà cô nương lại đang dạy cái gì chứ? Hừ! Chính lược quốc sách cũng kệ thôi, nhưng ngay cả mấy điệu hát dân ca, tạp kỹ cũng đều dạy, thật là hoang đường. Trong ngũ luận, nam nữ có sự khác biệt, nam là trời, nữ là đất, nam nữ ai cũng nên về chỗ của người ấy, nam có tài mới làm nên nghiệp lớn, còn nữ chỉ cần thủ phụ đạo là được, đây mới là đạo lý.
Nhưng tiên sinh nhà cô nương lại dạy toàn thứ linh tinh, đã làm mê hoặc dân chúng lại còn dám nói tương lai quan gia tất sẽ mở nữ khoa, lấy điều này để lừa gạt thế dân, lão phu quyết vì chính nghĩa, vì giới sĩ lâm Giang Nam quét sạch tà vọng”.
Lão đầu này dẫn dắt những luận chứng luận cứ, thao thao bất tuyệt, đám chúng sinh nghe đều gật gật đầu. Dương Hạo lướt nhìn lão đầu, suýt nữa bật cười, đó chính là Lục Nhân Gia, cái lão già này nhiều năm không gặp, hóa ra lại đã khởi dạy ở Giang Nam, khó trách sĩ lâm Giang Nam không biết chuyện hắn ở Biện Lương bị mắng cho phun cả máu.
Tiểu cô nương tức khí dậm chân: “Phì phì, lão bất tu, mồm thì nói có vẻ đường hoàng, nhưng một bụng lại toàn là thứ rác rưởi, ngươi biết tiên sinh nhà ta mỹ sắc hơn người, nên dùng đủ mọi thủ đoạn rắn mềm đều có, dùng hết rồi cũng không đoạt được nên mới quay lại báo thù”.
Khuôn mặt già nua của Lục Nhân Gia liền đỏ lên, thẹn quá thành giận nói: “Nói bậy, nói bậy, lão phu là một người luôn hiển minh trong giới sĩ lâm Giang Nam. Tiểu cô nương như cô lại đám nhục mạ lão phu, sao lại có cái lý đó, mọi người xem xem, xem xem, một tiểu mữ tử rất ngoan ngoãn đã lại bị tiên sinh vô lương đó dạy hư rồi”.
Đám sĩ tử đứng cạnh đều gật đầu, cho là đúng.
Dương Hạo thấy cảnh này không khỏi thầm than: “Không biết tiên sinh của thư viện này là ai mà lại có tuệ nhãn nhìn ra việc ta xướng mở trưởng nữ là để một ngày nào đó sẽ mở nữ khoa, để cho nữ tử cũng sẽ dốc sức vì quốc gia như nam tử. Chỉ là xem tình hình này tuy thời Đường Tống, nữ tử đã tự do hơn nhưng muốn thay đổi quan niệm của mọi người vẫn là một việc khó khăn và lâu dài”.
Hắn lại thở dài một tiếng nữa, đứng thẳng người đậy, bước ra nói: “Theo ta thấy những lời vị tiểu cô nương này nói rất có lý. Lục tiên sinh là có tiền khoa, nếu ngài thấy tiên sinh nhà người ta sắc nước hương trời thì mang đại vọng vong đại nghĩa, sẽ tìm đủ mọi cách để đoạt được, ta thấy đây đúng là bản chất làm người của ngài rồi”.
Đúng lúc này, từ trong viện phát ra một giọng nói: “Lê Hương, đóng cửa vào đi, không cần phải để ý đến đám tục nhân đó nữa”.
Đi theo giọng nói đó, một nữ tử yểu điệu đi khoan thai từ trong viện ra, nữ tử này mặc một bộ sa la y màu trắng bạc, dáng người thon thả trông như ngọc nhân bích thủy.
Dương Hạo bước từ trong đám người ra, cười nhìn Lục Nhân Gia, nhưng vẫn chưa quay sang nhìn dáng vẻ nữ tử ấy. Nàng ấy vừa bước ra khỏi cửa đã nhìn thấy Dương Hạo, bất giác như sấm đánh ngay trước mặt, cả người cứng đơ lại, tay chân run run, rõ ràng là rất sợ hãi.
Lục Nhân Gia nghe được có người đang chế nhạo mình, vô cùng tức giận quay đầu lại, vừa nhìn thấy Dương Hạo lập tức mặt biến sắc. Dương Hạo, kẻ ngày trước đã hại hắn thân bại danh liệt, bây giờ đã làm đương kim thiên tử. Hắn đương nhiên biết hôm nay Dương Hạo đứng ở đây chính là đang mặc thường phục vi hành, trong nhất thời vừa kinh vừa sợ. Cũng không biết nên quỳ xuống bái lễ, làm cho thân phận của hắn bị bại lộ hay là vờ như không biết. Nhưng bất kể như thế nào, giờ Dương Hạo ở đây thật sự ép hắn vào đường cùng, làm cho hắn không biết làm thế nào mới tốt.
Những sĩ tử này vốn ồn ào quát lớn, đột nhiên nhìn thấy thần thái cổ quái của Lục tiên sinh, hình như đang sợ hãi cực độ. Liền ngậm mồm vào, kinh ngạc nhìn, Dương Hạo cười nói: “Những lời tiểu cô nương nói chắc là có chứng cớ. Với nhân phẩm của Lục tiên sinh có lẽ là có thể làm ra được ra những chuyện này, Lục tiên sinh, ngài còn gì để phản bác không?”.
Lục Nhân Gia như gặp quỷ mị, thụt lùi vài bước, đột nhiên kêu lên mấy tiếng kỳ lạ rồi bỏ chạy. Thật không hổ danh hắn, tuổi đã lớn thế rồi mà lại chạy nhanh như thế, hồn bay phách lạc không biết chạy về hướng nào. Hắn chạy xông qua đám sĩ tử, đẩy ngã một người đang cầm một rổ đựng giấy, bút và nghiên mực, làm mọi thứ rơi xuống tung tóe.
Dương Hạo cười lớn ha ha, tiến lên cúi người xuống nhặt giấy và bút lên, giọng trầm trầm nói: “Tiểu Vũ, đến đây, làm thư án cho ta”.
Mục Vũ đáp một tiếng rồi cúi người xuống, Dương Hạo đặt tờ giấy lên lưng hắn, nhấc bút chấm mực, rồi như nghĩ ngợi gì đó.
Tiểu cô nương Lê Hương đứng trên bậc thềm thấy vị công tử này chỉ mắng có một câu mà cái tên Lục tiên sinh kiêu căng đã phải sợ chạy bán sống bán chết, nên vô cùng kinh ngạc, nói: “Vị công tử này, ngài là ai, tại sao người họ Lục đó lại sợ ngài như vậy”.
Dương Hạo cười nói: “Vị họ Lục đó ăn uống đánh bạc, nợ của ta rất nhiều ngân lượng, đương nhiên vừa thấy ta sẽ phải bỏ chạy rồi”.
Hắn cười dài rồi nói, ánh mắt hơi di chuyển, đột nhiên nhìn thấy nữ tử bạch y đứng ở tiểu viện, thần sắc ngẩn ngơ, nữ tử đó biết hắn đã nhìn thấy mình liền nhích người một cái như muốn bỏ trốn, nhưng cuối cùng đánh miễn cưỡng đi về phía hắn.
Tiểu cô nương ngây thơ kia vẫn chưa phát giác ra vị công tử này và tiên sinh nhà mình đang nhìn nhau, liền do dự gật đầu nói: “Hóa ra là như vậy, nếu như đã nợ người ta khoản lớn mà không trả được thì đành phải chạy thôi”.
Dương Hạo cười lớn, nâng dịch giấy vừa viết bốn chữ lớn: “Kim Lăng nữ giáo”.
Vừa rồi thấy hắn chỉ dùng một lời đã làm cho Lục lão tiên sinh, vốn được coi là một bậc đạo đức văn chương phải chạy mất dép, đám sĩ tử đó vừa kinh lại vừa nghi ngờ, không biết vị công tử khí độ bất phàm này có tài kinh thiên gì, lại làm cho dũng khí của Lục tiên sinh hoàn toàn biến mất khi đối diện với hắn. Thấy hắn muốn động bút, đám sĩ tử liền nín thở, mang tâm trạng kính nể yên lặng đợi hắn.
Không ngờ bốn chữ Dương Hạo viết ra này lại hoàn toàn không có chút tài hoa nào, xấu đến mức người ta chẳng muốn nhìn, chúng sĩ tử suýt chút nữa ngã ngửa. Ngay cả tiểu cô nương này trên mặt cũng tỏ ra ngượng ngùng, có lòng muốn khen hắn mấy câu nhưng quả thật lương tâm không cho phép.
Dương Hạo lại không bận tâm, hắn viết xong bốn chữ to dùng, liền nghiêng đầu thưởng thức, cười tự đắc, lại nói: “Tiểu Diệc”.
Mã Diệc đáp một tiếng, lấy trong người ra một chiếc hộp vuông vức, mở ra, cầm ngọc ấn màu xanh ngọc bích, đóng một cái lên tờ giấy đó.
Những thư sinh đứng bên cạnh liếc mắt nhìn, rõ ràng đó là “Vĩnh Hằng ngự bút”, họ không khỏi giật mình sợ hãi, lùi lại mấy bước, một lúc lâu mới kêu lên.
“Soạt soạt soạt...”. Đám sĩ tử đã lấy lại phản ứng, vội vã quỳ xuống, mồm năm miệng mười hô lên, người có công danh thì xưng làm tiểu thần, người không có công danh thì xưng là thảo dân, ào ào bái thiên tử.
Dương Hạo lại chỉ nhìn vào bạch y nhân đang đứng trong viện, Liễu Đóa Nhi hít một hơi, cố gắng trấn áp tim mình, rồi mới từ từ đi ra. Nhìn vào bốn chữ, trong mắt ẩn hiện một nụ cười: “Chữ của người... Vẫn xấu như vậy...”.
Dương Hạo cũng mỉm cười nói: “Còn con người nàng lại hao gầy đi nhiều”.
“Đại thúc, có mấy chữ viết này thì có thể đảm bảo sẽ không có ai đến quấy rầy bọn họ nữa phải không, còn có thể hưng chấn việc nữ tử hướng học phải không?”. Mã Diệc ngây thơ hỏi.
Dương Hạo cười nói: “Việc đó là đương nhiên, nữ tử Giang Nam vốn có truyền thống học hành, huồng hồ đó còn là ngự bút do đích thân đại thúc viết. Lời của hoàng thượng chính là kim khẩu ngọc ngôn, không cho phép bất kỳ ai làm trái cho dù bản thân hoàng đế cũng không dễ dàng thu lại được thánh mệnh, nếu như có thêm bút tích thì càng được coi trọng, nhất ngôn cửu đỉnh, không có gì có thể làm trái được”.
“Ừm”. Mã Diệc gật đầu, trong mắt đột nhiên lóe lên, không biết là đang nghĩ cái gì nữa.
Đáng tiếc Dương Hạo đi ở phía trước nên chưa phát hiện ra, vẫn trầm ngâm nói: “Đúng vậy, luận về phong khí thói quen, Tây Bắc là một khối ngọc lớn, tùy cho ta điêu khắc, phổ biến dễ dàng. Còn trong những nơi khác thì Giang Nam là nơi phong khí mở cửa nhất, nên nếu muốn phát triển việc học, khoa khảo, chính vụ nghiệp của nữ tử thì nơi đây sẽ là nơi bắt đầu dễ dàng nhất. Ừm... Hãy giao việc này cho Liễu Đóa Nhi. Tiểu Diệc, ghi lại việc này, khi trở về gặp Kim Lăng lưu thủ thì gọi Liễu cô nương đến, ta muốn nàng ấy đồng ý gánh vác việc này”.
Mã Diệc cắn cắn môi, mắt lại lóe lên, không biết đang nghĩ cái gì nữa, nghe Dương Hạo dặn dò liền vội vã gật đầu đáp tiếng, sau đó lại nhỏ tiếng hỏi Mục Vũ chuyện gì đó.
Phía trước là Tĩnh Thủy am rồi, Tĩnh Thủy am trải qua chiến hỏa tàn phá giờ đã được tu sửa lại, chỉ là trên cửa am đổi chữ am thành chữ tự.
Dương Hạo dừng bước, nhìn vào trong ngôi tự miếu không nói gì, một thị vệ liền nhẹ nhàng đi tới, bẩm báo nói: “Trụ trì tự này đang ở bên trong, có cần đuổi hết thiện nam tín nữ lui ra hết để quan gia gặp đại sư không ạ?”.
Dương Hạo lắc lắc đầu: “Không cần kinh động, trẫm... Tự đi vào”.
Trên đại điện, rất nhiều tín đồ phật gia đang chắp tay nghe giảng kinh, trên chiếc đệm hương bồ phía dưới tượng Phật Tổ có một vị tăng nhân cụt một tay đang ngồi khoanh chân, dùng giọng nói thanh thoát trong trẻo niệm kinh.
Dương Hạo đứng yên lặng nhìn tên trộm năm xưa bây giờ đã hoàn toàn khác. Hắn cứ đứng đó nhìn, yên lặng lắng nghe, đôi mắt dần dần nhòa đi.
Bích Túc cao giọng tuyên pháp, trong nháy mắt đã nhìn thấy Dương Hạo đang đứng ở một bên điện, hắn không kinh ngạc cũng không sợ hãi, không vui không buồn, chỉ cúi đầu làm lễ với Dương Hạo, rồi tiếp tục giảng kinh.
Dương Hạo cũng chắp hai tay kiến lễ lại hắn, rồi từ từ lui ra, trong tai hắn như vẫn văng vẳng tiếng kinh trong trẻo thanh cao của Bích Túc...
“Ừm” một tiếng, nhưng mỹ nhân vẫn chưa tỉnh giấc, chỉ vì chiếc gối dễ chịu dịch đi một chút nên trong lúc ngủ mơ mới phát ra một tiếng.
Dương Hạo lật người ngồi dậy làm cho mỹ nhân có chút không thoải mái, hai hàng mi thanh tú của Trúc Vận nhíu nhíu lên, uể oải xoay người, cuốn chăn lại vào mình, chỉ để thò đầu ra. Dương Hạo mỉm cười vỗ một cái vào mông nàng, rồi lắc lắc đầu đứng dậy.
Đêm nay sau khi uống mấy chén rượu và hoan lạc một trận, Trúc Vận thỏa mãn ngủ tiếp, nhưng hắn vẫn muốn tiện một chút nên đã khoác áo bào vào, rồi buộc hờ chiếc đai, bước ra ngoài bức bình phong.
Nơi đây là hành cung của hắn, được tu sửa từ hoàng thất của nguyên Đường quốc, tẩm cung rất rộng, rất tiện để làm tiền hiên thiên điện.
Trên vách tường cung có nhưng ngọn đèn hoa mai tỏa ra ánh sáng ấm áp. Dương Hạo mới ngủ dậy nên mắt vẫn mơ màng, vừa mới bước qua bức bình phong, chưa đi được mấy bước thì trước mắt đột nhiên xuất hiện một bóng người, hắn thấp thoáng thấy được người đó có khuôn mặt trái xoan, kiều diễm ướt át như một trái chín.
Dương Hạo giật nảy người, vội buộc chặt đai áo lại, che đi hai chiếc đùi, giật mình nói: “Tiểu Diệc, đêm hôm khuya khoắt ngươi không ngủ chạy đến đây làm gì?”.
Cẩu Nhi đã trưởng thành rồi, ít nhất là nó tự cho rằng mình đã trường thành. Một đại cô nương mười tám tuổi còn gì không hiểu chứ? Trước đây nó chỉ cần được ở bên đại thúc là được rồi, nhưng bây giờ... Thân làm thị vệ thân cận của Dương Hạo, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Từ nhỏ nó đã bắt đầu nghe lén những âm thanh đó, nhưng tiếng thở dốc đó, những tiếng kêu đau đớn nhưng đầy hoan lạc. Thậm chí... Nó còn nhìn trộm cảnh hai người quấn vào nhau, nghe nói đó là yêu tinh đánh nhau.
Cẩu Nhi dần dần lớn lên, mỗi lần yêu tinh đánh nhau khiến cho ý loạn tình mê, nó rất hy vọng mình có thể là người nữ tử đang nằm trên giường và bị đại thúc ức hiếp đến chảy cả nước mắt nhưng lại vô cùng hoan lạc kia, nhưng... Nhưng đại thúc chưa bao giờ coi nó là một nữ nhân.
Quan âm hợp thập, sở bái hà nhân? Cầu nhân chi bằng cầu mình.
Cẩu Nhi quyết định chính mình sẽ động thủ, cơm no áo ấm, quyết định, đạp đổ đại thúc.
Hành động ngay ngày hôm nay.
Cẩu Nhi cắn răng, không để ý gì mà xông lên trước: “Hôm nay Cẩu Nhi thấy đại thúc đã rất... Phóng khoáng... Viết chữ cho Liễu cô nương, Cẩu Nhi... Cẩu Nhi cũng muốn đại thúc viết ký một cái tên...”.
Lồng ngực Cẩu Nhi như nổi trống, hơi thở dồn dập, nhưng vẫn nói được hết câu, sau khi nói xong nó liền cầm bút và một tờ giấy được che một nửa bằng một miếng gỗ lại chạy tới.
“Không phải chứ? Đang làm gì vậy?”. Dương Hạo vẫn chưa hết buồn ngủ, có điều cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng Cẩu Nhi đã nhanh chóng thúc giục.
“Ký một chữ thôi mà, cho dù thể nào Cẩu Nhi vĩnh viễn cũng sẽ không thể hại mình đâu”.
Dương Hạo cười bất đắc dĩ, lắc đầu bất đắc dĩ, nhận lấy bút, rất chăm chú viết tên mình lên nửa tờ giấy.
“Đại thúc!”.
Vừa nhìn thấy Dương Hạo ký tên xong, Cẩu Nhi vui mừng chảy nước mắt, đột nhiên nhảy lên, ôm chặt lấy Dương Hạo, rồi liếm vào mặt hắn như một con chó nhỏ. Đây là hành động mà Mã Diệc đã âm thầm học tập, người ta gọi đó là hôn nồng nhiệt.
Dương Hạo ngẩn ra tại chỗ, để mặc cho cái lưỡi nhỏ của Cẩu Nhi liếm vào mặt mình, kinh ngạc nói: “Chuyện gì thế này? Xảy ra chuyện gì thế này?”.
Cẩu Nhi nước mắt lưng tròng, nhưng sau đó lại phá lên cười, nó nắm chặt lấy cánh tay Dương Hạo, tay kia bỏ tấm gỗ ra, dương đương đắc ý giơ ra trước mặt hắn. Dương Hạo vừa nhìn lập tức hết buồn ngủ, tỉnh cả rượu, há mồm trợn mắt nhìn.
Tờ giấy trong tay Cẩu Nhi lại là một tờ “hứa hôn văn thư” được in hoa văn uyên ương.
“Cẩu Nhi, ngươi... Ngươi lại dám lừa đại thúc... Ngươi...”.
“Nếu như đại thúc thấy không vui thì có thể đánh vào mông người ta mà”.
Cẩu Nhi đắc ý cười, khuôn mặt dưới ánh đèn lập lòe càng trở nên xinh đẹp hơn, rõ ràng là một tiểu nữ nhân quyến rũ vô cùng.
Dương Hạo đột nhiên phát hiện Cẩu Nhi, người luôn đi sát mình như hình với bóng, thật sự đã trường thành, trở thành một đại cô nương rất đáng yêu rồi.
o O o
~o~o~ HẾT TRỌN BỘ ~o~o~