A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ BA: Thả phóng ca đạp thanh xuân chính hảo
(Cứ cất cao giọng hát mà bước qua tuổi thanh xuân)
...:::...
Chương 85: Thể diện
Thất doanh cách đại doanh quân quân Giang Bắc chỉ vài đỉnh núi, cỗ ngựa của Đường Thiệu Nghĩa cho nàng vốn là một con ngựa tốt, hơn nữa A Mạch lại thúc ngựa phóng như điên, trời chưa tối đã về đến quân doanh. A Mạch xuống ngựa từ ngoài cổng quân doanh, binh sĩ gác cổng thấy là nàng, nhất thời vừa mừng vừa sợ, vội vàng tiến đến định thay A Mạch dắt ngựa. A Mạch cười xua tay, một mình dắt ngựa đi vào trong doanh, cách giáo trường một quãng xa đã nghe thấy giọng của Lý Thiếu Hướng, thanh âm như hét ra lửa: “Cẩn thận một chút! Cái đồ vương bát đản[1] , nói ngươi đấy, ngươi nhẹ nhàng một chút! Ta nói ngươi nhẹ nhàng một chút!”
[1]. Vương bát đản: thằng khốn nạn.
Vương bát đản – là một câu chửi thường được dùng trong dân gian. Trên thực tế vốn là do đọc chệch từ “vong bát đoan” – 忘八端. Thời cổ “bát đoan” gồm có “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, khiên, sỉ”, “bát đoan” này là cái gốc làm người, quên đi “bát đoan” tức là quên đi cái căn bản để làm người, người quên đi “bát đoan” bị mắng là “vong bát đoan”. Có lẽ là do “Vương bát đản” càng thông tục dễ hiểu hơn so với “vong bát đoan”, sau này, câu tục ngữ “vong bát đoan” đã biến thành “Vương bát đản”.
Trong lòng A Mạch buồn bực, dắt ngựa chuyển qua hướng đó, thấy quang cảnh trên giáo trường vô cùng náo nhiệt, mấy chục chiến mã ở trên mặt đất hoặc chạy hoặc đứng, Lý Thiếu Hướng đang ở bên cạnh chỉ vào một kỵ sĩ cách đó không xa lớn tiếng mắng: “Ngươi nhìn gì ta? Mắng ngươi, ngươi không vui cái nỗi gì? Ngươi còn dám đánh ngựa của ta, xem ta có dám đánh ngươi không!”
Vương Thất cưỡi một chiến mã có vóc dàng như một thần tuấn từ xa tiến lại, nhìn thấy Lý Thiếu Hướng vẫn đứng bên cạnh giáo trường nhắc tới nhắc lui không ngừng, nhịn không được mắng: “Ta nhổ vào, lão Lý ngươi có khép cái miệng phiền toái của ngươi lại cho yên tĩnh một chút được không, ngươi hù dọa gì ai! Cưỡi ngựa mà không luyện thì làm sao mà cưỡi được? Con mẹ nó, chúng ta đây là thám báo, thám báo đấy! Ngươi có hiểu không? Chứ không phải là bọn công tử cưỡi ngựa xem hoa, không chạy nhanh để làm mồi cho địch à?”
Lý Thiếu Hướng vốn đã đầy một bụng hỏa, nghe xong mấy lời này của Vương Thất thì lửa giận bốc lên đến cực độ, xoa xoa thắt lưng chửi: “Cút mẹ ngươi đi! Còn làm thám báo cái nỗi gì, nhìn con ngựa của người xem giờ có khác gì con khỉ không! Ngươi phải biết ta khó khăn đến thế nào mới có được số chiến mã này chứ, nếu không phải ta đánh liều tính kế mượn thể diện của đại nhân chúng ta, ngươi cho là Đường tướng quân có thể cho chúng ta ngần đấy chiến mã chắc? Thế mà ngươi lại dung túng cho tân binh gây họa, nếu khiến ngựa bị thương thì làm sao bây giờ? Ngươi định ăn thua với ta chắc!”
Vương Thất lập tức cúi người, cười nói với Lý Thiếu Hướng: “Bị thương thì bị thương, ngươi lại đi xin Đường tướng quân chứ sao, với thể diện của đại nhân chúng ta, tiếp tục xin Đường đại nhân tám mươi hay một trăm thớt nữa thì có vấn đề gì!”
“Thể diện của ta không lớn như vậy!” A Mạch đột nhiên sắt giọng nói.
Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng đều sửng sốt, hai người nhất tề quay đầu lại, thấy A Mạch dắt ngựa đứng bên cạnh, khuôn mặt tuấn tú sắc lạnh. Lý Thiếu Hướng sửng sốt một lúc mới kịp phản ứng lại, vội vàng hạ tay xuống, nhìn A Mạch nở nụ cười lấy lòng: “Đại nhân, ngài đã trở về rồi sao, sao không cho người đưa tin trước để thuộc hạ cho người đi đón.”
Vương Thất cũng phi ngựa chạy vội đến, xoay người nhảy xuống, hét lên: “Đúng thật là, sao lại về có một mình?”
A Mạch hừ lạnh một tiếng, không buồn để ý tới hai người, ném dây cương vào lòng Lý Thiếu Hướng rồi xoay người đi thẳng.
Lý Thiếu Hướng nhìn theo bóng dáng A Mạch, thì thào hỏi Vương Thất: “Ngươi nói xem đại nhân chúng ta vừa rồi nghe được bao nhiêu?”
Vương Thất chu môi nói: “Chắc là nghe hết cả rồi.”
Lý Thiếu Hướng thấp giọng thở dài: “Xong rồi, thê là chọc giận đại nhân rồi, ngươi nói xem có phải ta quá oan uổng không, đi tìm Đường tướng quân cũng đâu phải chủ ý của ta.”
Vương Thất liếc mắt nhìn Lý Thiếu Hướng, hơi có chút xem thường, nói: “Được rồi, ngươi trong sạch!”
A Mạch bình tĩnh đi về doanh trướng, chưa tới cửa, đã thấy Trương Sỹ Cường bưng chậu nước từ trong trướng vội vàng đi ra, lao thẳng về phía A Mạch, may mà A Mạch phản ứng nhanh chóng, lắc mình một cái đồng thời đẩy Trương Sỹ Cường sang hướng khác, Trương Sỹ Cường lảo đảo thiếu chút nữa thì ngã quỵ, chậu nước văng ra tung tóe, trên người A Mạch cũng bị ướt không ít.
“Trương Nhị Đản! Ngươi làm cái quái gì thế?!” A Mạch quát.
Trương Sỹ Cường thấy là A Mạch, nhất thời vừa mừng vừa sợ, cũng không nhặt chậu nước lên, chỉ lắp bắp nói: “Đại… đại nhân, ngài đã về?!”
A Mạch gật đầu, cúi nhìn những vệt nước bắn lên người, lại liếc mắt nhìn cái chậu, nhíu mày hỏi: “Ngươi vừa bê cái gì?”
“Nước rửa chân?” A Mạch trợn mắt, đang muốn hỏi lại, lại nghe trong trướng truyền đến một âm thanh sắc nhọn: “Trương Sỹ Cường, ngươi còn chưa đổ xong nước sao? Mau lấy khăn lau chân cho lão phu.”
A Mạch hồ nghi đưa mắt nhìn Trương Sỹ Cường, rồi xoay người vén màn trướng tiến vào trong trướng, thấy Từ Tĩnh đang mê mẩn xem quyển sách cầm trong tay, hai chân vẫn giơ lên, nghe thấy tiếng vén rèm, còn tưởng là Trương Sỹ Cường đã trở lại, ánh mắt vẫn không rời khỏi cuốn sách, liền nâng chân lên, nói: “Nhanh lên, lau khô cho lão phu đi, chân lão phu đã lạnh cóng lại rồi!”
A Mạch không nói gì, chỉ cầm khăn lại gần, ngồi xổm xuống rồi lẳng lặng lau khô chân cho Từ Tĩnh, đợi đến khi hai chân đều đã được lau khô, lúc này mới nhẹ giọng hỏi: “Tiên sinh sao lại ở trong doanh của ta?”
Từ Tĩnh kinh hãi nhảy dựng lên, quyển sách trên tay thiếu chút nữa thì hất văng ra ngoài, ngẩng đầu thấy A Mạch vẫn còn ngồi xổm cạnh giường, vội vàng thu chân về, cả kinh nói: “Ngươi, tiểu tử này, về khi nào vậy? Định hù chết lão phu chắc!”
A Mạch cười cười, đứng dậy, cởi áo khoác trên người xuống, đáp: “Hôm nay vừa về đến đại doanh, không lưu lại đó mà vội trở về luôn.”
Trương Sỹ Cường tiếp lấy áo khoác từ trong tay A Mạch, lại giúp nàng bỏ áo giáp trên người xuống. Từ Tĩnh xỏ giày bước xuống giường, đi quanh A Mạch hai vòng, quan sát đánh giá một phen, vui tươi hớn hở nói: “Xem ra ngươi rất hợp với thủy thổ Thịnh Đô, chỉ đi một chuyến trở về liền trổ mã ra không ít.”
A Mạch cười một cách bất đắc dĩ: “Tiên sinh chớ cười ta.”
Trương Sỹ Cường lại từ bên ngoài bưng nước vào cho A Mạch rửa mặt, A Mạch lúc nãy vừa bị té nước bẩn vào người, nay lại thấy vẫn là cái chậu ấy, dùng tay vốc nước lên mà không cách nào dám đưa lên mặt.
Từ Tĩnh là loại người nào, sao lại không nhìn ra lý do vì sao A Mạch không dám rửa mặt, liền hắc hắc cười nói: “Trong trướng của ngươi chỉ có một chậu này thôi, lão phu dùng không khách khí đâu, nhưng ngươi yên tâm, lão phu ít khi dùng để rửa chân lắm, phần lớn là dùng để rửa mặt.”
Tay A Mạch run lên, nước trong tay cơ hồ đều chảy hết xuống, không rửa mặt nổi nữa, thầm nghĩ như thế thì có gì khác với việc ngươi ngày nào cũng rửa chân đâu! Trương Sỹ Cường thấy A Mạch vẫn trố mắt nhìn, vội vàng buông thêm một câu: “Đại nhân, ta đã rửa lại chậu rất cẩn thận rồi.”
A Mạch dở khóc dở cười, đành làm bộ như không có chuyện gì mà hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh còn chưa nói vì sao lại ở trong doanh của ta, vừa rồi ở đại doanh chỉ nghe Trương Sinh nói ngài đã đi rồi, cũng không biết đi đâu.”
Từ Tĩnh theo thói quen đưa tay vuốt mấy sợi râu trên cằm, đáp: “Ta đúng là đã đi rồi, nhưng thời thế loạn lạc, ta chỉ là một lão già trói gà không chặt thì biết chạy đi đâu, nên chỉ có thể đến đây nương tựa chất nhi[2] của ta mà thôi!”
[2]. Chất nhi: cháu trai.
A Mạch sửng sốt, lập tức liền nghĩ tới trước đây, khi hai người đang chạy tới Thanh Châu, bị thám báo của Thương Dịch Chi bắt, lúc ấy đã thương lượng với Từ Tĩnh giả làm chú cháu, mà hai người bọn họ khi ấy, một kẻ là tú tài vừa mới xuất sơn, một kẻ là vô danh tiểu tốt, đừng nói giả làm chú cháu, mà có giả làm cha con thì cũng không ai nói gì, nhưng hiện nay thân phận bọn họ đã khác xưa rất xa, nếu bảo là chú cháu, thế này rõ ràng là lừa người mà thôi!
Thấy Từ Tĩnh dương dương tự đắc, A Mạch hơi có chút bất đắc dĩ hỏi: “Tiên sinh, ngài họ Từ, ta họ Mạch, ngươi thấy có chú cháu nào có họ khác nhau như thế sao?”
Từ Tĩnh bị hỏi thì ngẩn ra, quay đầu nhìn A Mạch.
A Mạch vô tội nhìn ông ta, khóe miệng trễ xuống.
Từ Tĩnh vuốt râu cân nhắc nửa ngày, lại quay đầu thử hỏi: “Nếu không thì là cháu rể vậy?”
A Mạch vẻ mặt bình tĩnh nhìn Từ Tĩnh, hỏi: “Nhưng ngài có chất nữ[3] để gả cho ta sao?”
[3]. Chất nữ: cháu gái.
Từ Tĩnh nơi đó còn chưa tiếp lời, Trương Sỹ Cường đã bật cười thành tiếng. Từ Tĩnh nheo mắt nhìn Trương Sỹ Cường, rồi quay đầu trầm giọng nói với A Mạch: “Cứ coi như là có đi!”
Chỉ một câu “Cứ coi như là có đi!” của Từ Tĩnh, A Mạch lập tức từ người đàn ông độc thân liền thăng thành người có vợ, những tướng lĩnh trong doanh khi nghe được tin tức này từ Trương Sỹ Cường, trên mặt ai nấy cũng ra vẻ bừng tỉnh đại ngộ, thầm nghĩ khó trách Mạch đại nhân ngay từ ban đầu đã được quân sư Từ Tĩnh coi trọng như thế, thì ra người ta là thân thích a! A Mạch sao lại nhìn không tâm tư của mọi người, nhưng để Từ Tĩnh có thể danh chính ngôn thuận ở lại trong doanh, cũng đành phải chấp thuận.
Sau ba tháng, A Mạch quay về doanh, công việc trong doanh đều tiến triển tốt, huấn luyện quân sự do Hắc Diện đảm nhận tiến hành đâu vào đấy, mảng hậu cần quân tư cũng được Lý Thiếu Hướng lo liệu chu toàn, thậm chí ngay cả chiến mã vốn luôn thiếu giờ số lượng cũng đã tăng lên đáng kể.
A Mạch nhìn những chiến mã béo tốt này mà thở dài, chỉ cần không buồn nghĩ đến chúng nữa thì trong lòng sẽ vô cùng vui vẻ, nhưng cứ nghĩ đến số ngựa này đều do Lý Thiếu Hướng mượn thể diện của mình chạy đến xin Đường Thiệu Nghĩa, nàng lập tức lại thấy bực mình. Vì thế, Lý Thiếu Hướng liền đến gặp A Mạch để giải thích, đơn giản là cái gì mà không hề trực tiếp xin, chẳng qua chỉ vô tình nhắc tới trong lúc chuyện phiếm, còn số chiến mã này thực ra đều do Đường tướng quân phái người chủ động đưa đến… Có điều, anh ta cứ nói thêm một câu, mặt A Mạch lại đen thêm một phần. Đến cuối cùng, Lý Thiếu Hướng cực kỳ không có nghĩa khí mà đổ hết trách nhiệm cho người khác, nói tất cả đều là chủ ý của Từ tiên sinh, thấy Đường tướng quân bảo nói gì thì cũng là do Từ tiên sinh đã nói trước một câu rồi.
A Mạch đen mặt rời đi, Lý Thiếu Hướng không khỏi thở phào nhẹ nhõm, vui vẻ lại đi tìm Từ Tĩnh thương thảo diệu kế, xem nên làm như thế nào để có thể tiếp tục đem thêm ít ngựa nữa trở về. A Mạch vô cùng giận dữ, lại bị buổi nói chuyện của Từ Tĩnh dập tắt lửa giận.
Từ Tĩnh cực kỳ vô sỉ nói: “Những thứ thể diện này nọ không cần lãng phí, hơn nữa,” Ông ta vuốt râu, lại không nhanh không chậm nói: “Chỉ có trang bị tốt cho đội thám báo bây giờ, năm sau ngươi mới có cái mà dùng.”
A Mạch nghe vậy thì ngẩn ra, theo bản năng hỏi: “Sang năm có phải sẽ có chiến sự?”
Từ Tĩnh thần bí cười cười, nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi thấy thế nào?”
A Mạch cân nhắc một lát, đáp: “Vệ Hưng mới đến, lúc này trên núi lại đang có tuyết rơi, năm nay chắc chắn sẽ không có động thái gì, nhưng sang năm sợ là sẽ có sự bố trí, nhưng lần trước Đường tướng quân đốt cháy hết lương thảo của Chu Chí Nhẫn mà cũng không thể dụ thát tử tây tiến, vậy thì còn cách nào khác hay sao?”
Từ Tĩnh cười cười, nói: “Ngươi cũng biết tính tình của Vệ Hưng?”
A Mạch lắc đầu nói: “Không biết, ở trên thuyền gặp qua vài lần, nhìn như người có chút tâm cơ, song ở ngoài thành Thái Hưng anh ta từng cùng Thường Ngọc Thanh so tài cao thấp trong tiễn pháp, cũng là nhất thời muốn tranh khí phách quá mức.”
Từ Tĩnh cười nói: “Ngươi đã nhìn ra điểm ấy, ngươi nghĩ anh ta còn có thể tình nguyện nằm ở núi Ô Lan này mà chờ thát tử vào sao?”
A Mạch giật mình nói: “Chẳng lẽ anh ta muốn ra khỏi núi Ô Lan?”
Từ Tĩnh vuốt râu nói: “Cứ chờ xem, cùng lắm là sang đến năm sau thì sẽ có tin tức.”
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ BA: Thả phóng ca đạp thanh xuân chính hảo
(Cứ cất cao giọng hát mà bước qua tuổi thanh xuân)
...:::...
Chương 86: Chui đầu vào lưới
A Mạch biết tính nết Từ Tĩnh, thấy ông ta nói vậy biết có hỏi tiếp cũng không hỏi được gì, nên cũng không hỏi lại, chỉ lẳng lặng gia tăng cường độ huấn luyện trong doanh.
Binh lính trong doanh mỗi ngày đều phải luyện tập mệt đến chết, muốn oán giận nhưng cũng không cách nào oán giận nổi, bởi Mạch tướng quân vẫn là tấm gương tốt, cùng luyện tập chung với mọi người, bản thân nếu chỉ là một tiểu binh thì có thể nói gì? Có ai đã từng thấy vị tướng quân nào cùng tham gia thao luyện cùng binh lính chưa? Chưa chứ gì? Vậy là được rồi, luyện tiếp đi! Lại nói có một tên lính trong đội thứ tư, ngũ thứ tám đem kinh nghiệm mà mỗ ta từng học suốt nửa năm giảng lại cho binh lính, nào là tướng quân chúng ta huấn luyện mọi người không khác gì huấn luyện chó, khi ra trận chiến đấu sẽ không khác gì chó hoang, mỗi lần chạy đều không khác gì tế cẩu, đến tối khi buổi huấn luyện kết thúc quay trở lại trướng liền chẳng khác gì chó chết.
Lúc ấy, đội trưởng đội bốn Vương Thất đang ở cách đó không xa, nghe xong liền cho tên lính kia một cước, mắng: “Ăn nói mất dạy, những lời này mà ngươi cũng dám nói, cũng may tướng quân chúng ta là người tốt tính, nếu là người khác, thì cái mông của ngươi đã nhừ đòn rồi!”
Tên lính kia ôm mông vội thành thành thật thật đi luyện tập tiếp, Vương Thất quay lại giải thích với người đồng đội kia: “Ngươi không phải ở trong đội bốn của chúng ta nên không biết, nhớ ngày đó đại nhân chúng ta vẫn là đội trưởng đội bốn, ngài nói với chúng ta rằng khi tham gia vào quân ngũ thì thứ quan trọng nhất chính là hai cái đùi. Thắng, chúng ta có thể truy đuổi thát tử, đuổi kịp mới có thể giết địch; Bại, thát tử đuổi chúng ta chạy, chúng ta chỉ có chạy nhanh thì mới có thể bảo toàn được tính mạng.”
Người đồng đội kia nghe xong lập tức gật đầu nói phải.
Vẻ mặt Vương Thất lại trở nên nghi hoặc mà lẩm bẩm: “Mụ nội nó, ngươi nói xem hắn ta làm sao biết được đại nhân chúng ta chạy giống tế cẩu vậy?”
Lần này, người đồng đội không dám gật đầu nữa.
A Mạch bán mạng như vậy, quả thật khiến cho quan quân trong doanh không thích ứng nổi, tuy biết đại nhân nhà mình nhờ liều mạng mà thành danh, nhưng dù sao cũng là chủ tướng của một doanh, nói gì thì cũng phải chú trọng tới hình tượng của mình chứ, đâu đáng để cả ngày đi theo đám tân binh múa đao lộng thương rồi lại ra ngoài chạy việt dã như thế?
Nhìn A Mạch trên giáo trường múa đại đao vù vù, Vương Thất không thể không tiếc hận thở dài: “Ai, thật đáng tiếc đại nhân chúng ta lại phụ lại thân thể nho nhã của mình.”
Lý Thiếu Hướng lại không để những lời đó của Vương Thất trong lỠvào tai, chỉ nhìn Hắc Diện đang cởi trần trùng trục cùng đám lính thao luyện phía xa xa, tự nhủ: “Nếu như tất cả đều không sợ lạnh giống như anh ta thì tốt biết mấy, ta đỡ phải tốn bao nhiêu là vải bông a.”
Từ Tĩnh đang chắp tay đứng phía sau hai người, nghe bọn họ nói chuyện theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia như thế, hừ lạnh một tiếng nói: “Hai tên tiểu tử này, không thao luyện cho tốt, lại nhàn rỗi đứng ở chỗ này mà tốn hơi thừa lời!”
Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng vội vàng quay đầu lại, thấy là Từ Tĩnh, đều toét miệng cười nói: “Từ tiên sinh.”
Từ Tĩnh ngạo mạn khẽ gật đầu, vẫn nhìn A Mạch trên giáo trường ở đằng xa, nói: “Yến tước an tri hồng hộc chi chí!” [1]
[1]. Yên tước an tri, hồng hộc chi khí: Yến: chim én. Tước: chim sẻ. An: làm sao? Tri: biết. Hồng hộc: chim hồng và chim hộc, hai loại chim rất khỏe, bay cao và xa. Chí: chí khí.
Câu trên có nghĩa là: Chim én và chim sẻ làm sao biết được cái chí khí của chim hồng và chim hộc.
Ý nói: Kẻ tiểu nhân làm sao biết được chí khí của người quân tử anh hùng.
Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng nhìn nhau, Lý Thiếu Hướng láu cá, hạ thấp người hướng Từ Tĩnh cười cười, có chút ngượng ngùng nói: “Trong trướng của ta vẫn còn vài thứ chưa tính toán xong, ta phải đi kiểm tra lại một chút, Từ tiên sinh, ta đi trước!”
Vương Thất há hốc miệng nhìn bóng dáng Lý Thiếu Hướng vội vã rời đi, nhất thời nói không ra lời, qua một lúc lâu đột nhiên nhảy dựng lên, kêu lớn: “Ai nha! Đại nhân giao nhiệm vụ cho ta phải thay đổi tiếng lóng cho đội thám báo, thế mà ta lại quên mất, Từ tiên sinh, ta đi trước đây!”
Vương Thất nói xong, cũng vội vàng lỉnh mất.
Khi A Mạch cùng Trương Sỹ Cường trở về, bên giáo trường cũng chỉ còn lại một mình Từ Tĩnh vẫn chắp tay đứng nhìn như trước. A Mạch luyện tập xong, đầu đầy mồ hôi, dùng khăn lau qua trên mặt, rồi tiện tay ném ra phía sau cho Trương Sỹ Cường, tiến lên hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh đến tìm ta?”
Từ Tĩnh khẽ vuốt râu, xoay người cùng A Mạch quay về hướng doanh trướng, nói: “Đại doanh vừa tới đưa tin, Vệ Hưng lệnh cho chủ tướng các doanh ngày hai mươi hai tháng chạp tề tụ tại đại doanh để nghị sự.”
“Đi đại doanh sao?” A Mạch dừng chân một chút, kinh ngạc nói: “Mọi người không phải mới từ đại doanh trở về sao? Sao đã lại cho gọi vậy? Chúng ta ở gần thì không nói làm gì, nhưng có những doanh cách đại doanh đến vài trăm dặm, đang giữa mùa đông lạnh như thế này lại ép nhau đi lại như vậy! Vệ Hưng rốt cuộc muốn làm gì?”
Từ Tĩnh thản nhiên nói: “Mặc kệ Vệ Hưng muốn làm gì, ngươi cứ đi là được.”
A Mạch cười tự giễu: “Đương nhiên, ta chỉ là chủ tướng nho nhỏ của một doanh, nào dám không đi.”
Từ Tĩnh nhướn mắt nhìn A Mạch một cái, do dự một chút rồi dặn dò: “Lần này ngươi đi đại doanh, ngàn vạn lần không được lén đi tìm Đường Thiệu Nghĩa.”
A Mạch cười nói: “Tiên sinh quá lo, chớ nói lần này ta không được tìm anh ta, mà từ lần trước ta đã không lén đi tìm rồi.”
Vệ Hưng vốn kiêng kị Đường Thiệu Nghĩa, A Mạch sao lại không biết điều này, hơn nữa, thấy Trương Sinh đến tìm nàng uống rượu mà Đường Thiệu Nghĩa lại chưa từng đến, thì có lẽ trong lòng anh ta cũng đã hiểu rất rõ rồi.
Từ Tĩnh vuốt râu không nói, sau một lúc lâu đột nhiên nói: “A Mạch, ngươi khá lắm,” Ông ta ngừng một chút, lại nhắc lại: “Khá lắm.”
A Mạch khẽ giật mình, lập tức cười nói: “Đa tạ tiên sinh khích lệ.”
Từ Tĩnh thản nhiên cười cười, không nói tiếp nữa.
Ngày hai mươi mốt tháng chạp, A Mạch mang theo Trương Sỹ Cường xuất phát đi đại doanh. Một ngày trước, tuyết rơi rất nhiều, trận tuyết lớn như phủ lên dãy núi Ô Lan một chiếc áo pha lê trong suốt, vô cùng tráng lệ. Đường núi bị trận tuyết lớn phủ kín, may mà A Mạch cùng Trương Sỹ Cường đều cưỡi ngựa, mặc dù không thể phi nhanh, nhưng dù sao vẫn còn hơn là đi bộ.
Trương Sỹ Cường cưỡi ngựa đi bên cạnh A Mạch, nhìn con đường bị tuyết lấp kín, không hiểu vì sao lại nghĩ tới chuyện cũ ở thành Dự Châu, cũng là ngày này năm trước, cũng một trận tuyết lớn như vậy, hai người trên đường đi Dự Châu, sinh tử khó liệu.
“Đại nhân, ngài nói ở thành Dự Châu tuyết cũng lớn như vậy sao?” Trương Sỹ Cường đột nhiên hỏi
A Mạch nghe vậy ngẩng đầu, khuôn mặt trầm tĩnh nhìn về phía xa xa, nơi những ngọn núi chồng chất, hồi lâu không nói gì. Trong lòng Trương Sỹ Cường âm thầm hối hận, tự trách mình nói chuyện lung tung, đang yên đang lành tự nhiên nhắc đến thành Dự Châu làm gì, nhưng A Mạch đã quay đầu lại nhìn anh ta khẽ cười nói: “Tuyết trong núi xem ra lớn hơn ở thành Dự Châu một chút.”
Dự Châu, cũng vừa sau một trận tuyết lớn.
Trong thành, ngã tư đường là một màu trắng thuần khiết. Trong phủ Thôi Diễn, lớp tuyết đọng đã sớm được quét tước sạch sẽ, một thị nữ mặc áo xanh ôm một chiếc áo choàng lông chồn từ xa đi đến, gấu váy hất tung trên nền đá không lưu lại chút dấu vết. Thị nữ áo xanh đi thẳng ra ngoài vườn, chỉ khẽ gật đầu với thị vệ rồi lập tức đi thẳng vào trong vườn, khi đến trước cửa một gian phòng mới dừng lại một chút, đổi chiếc áo choàng sang tay khác, rồi vén rèm cửa lên.
Trong phòng, Thôi DiễnThường Ngọc Thanh đang diễn tập đối chiến trên một sa bàn nhỏ. Thôi Diễn nghe thấy tiếng động, liền ngẩng đầu lên, thấy thị nữ áo xanh kia ôm áo khoác từ bên ngoài tiến vào, liền trầm giọng phân phó: “Cứ để sang bên cạnh, khi nào Thường đại ca rời đi thì sẽ mặc.”
Giọng của Thôi Diễn rất khàn, một đao của A Mạch mặc dù không thể kết liễu tính mạng của anh ta, nhưng lại đả thương đến cổ họng. Về sau, mặc dù vết thương đã lành, nhưng vốn là một giáo úy thiếu niên vô cùng hăng hái, giờ trên cổ lúc nào cũng buộc một cái cái khăn màu đen, nói cũng ít đi rất nhiều.
Thị nữ khẽ đáp “Vâng”, rồi cúi đầu đứng sang một bên.
Sắc mặt Thường Ngọc Thanh sau khi bị thương vẫn còn tái nhợt, tầm mắt từ trên sa bàn khẽ nâng lên, nhìn lướt qua áo khoác trên tay thị nữ, không chút để ý hỏi: “Đang yên đang lành mang áo khoác cho ta làm gì?”
Thôi Diễn ngắn gọn đáp: “Trời lạnh.”
Thường Ngọc Thanh không khỏi bật cười, lại khiến phổi khẽ đau, nhịn không được bật ra vài tiếng ho.
Thôi Diễn thấy thế vội vàng kêu lên: “Từ Tú Nhi, nhanh lên…”
Không kịp đợi anh ta nói hết lời, thị nữ áo xanh kia đã bưng chén trà nóng đến, đưa cho Thường Ngọc Thanh, nhẹ giọng nói: “Tướng quân mau uống ngụm trà nóng đi.”
Thường Ngọc Thanh lại không tiếp trà, chỉ khoát tay cho Từ Tú Nhi lui ra, trấn áp cơn ho khan quay lại nhìn Thôi Diễn cười nói: “Chẳng lẽ cứ trời lạnh là lại bọc hết áo này áo nọ cho ta mỗi khi ra ngoài, chẳng hóa ra lại khiến cho người khác chê cười.”
Thôi Diễn oán hận nói: “Nếu ta gặp được Vệ Hưng, chắc chắn sẽ không cho anh ta được chết tử tế!”
Thường Ngọc Thanh nghe vậy cười, nói: “Nếu ngươi gặp được Vệ Hưng, nhất định phải cẩn thận, người này một thân nội gia công phu không thể khinh thường.”
“Thế thì sao?” Thôi Diễn không phục nói,“Có địch nổi hàng ngàn, hàng vạn thiết kỵ của chúng ta không?”
Thường Ngọc Thanh khóe miệng hơi nhíu lại, cúi đầu nhìn sa bàn không nói gì.
Thôi Diễn lại nói: “Đại ca, năm sau chúng ta sẽ đi Thái Hưng. Nguyên soái đã an bài…”
Thường Ngọc Thanh đột nhiên đưa mắt nhìn Thôi Diễn, khiến nửa sau câu nói của Thôi Diễn mắc lại trong cổ họng. Thôi Diễn quay đầu nhìn về phía Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi không đợi anh ta phân phó, liền khẽ cúi đầu, khụy gối thi lễ với Thôi Diễn cùng Thường Ngọc Thanh rồi khẽ khàng lui ra ngoài.
Đợi nàng đi khuất, Thường Ngọc Thanh mới nhẹ giọng hỏi: “Nàng đó là thị nữ do Thạch Đạt Xuân đưa tới cho ngươi?”
Thôi Diễn gật đầu nói: “Đúng vậy, lúc ấy ta bị thương nặng không thể cử động, nguyên soái sợ thân binh tay chân thô kệch không làm được việc liền sai Thạch Đạt Xuân tìm một thị nữ cho ta, Thạch Đạt Xuân liền đem tặng nàng đến đây, người cũng thông minh linh hoạt, biết tâm tư người khác.”
Thường Ngọc Thanh thản nhiên nói: “Biết tâm tư người khác cũng là người Nam Hạ, không thể không đề phòng.”
Thôi Diễn gật gật đầu, nói: “Ta nhớ kỹ.” Anh ta ngừng lại một chút, lại nhịn không được hỏi: “Đại ca, Vệ Hưng có giống như lời nguyên soái nói là sẽ tấn công Thái Hưng sao?”
Thường Ngọc Thanh khẽ cười cười, nói: “Nếu như là Thương Dịch Chi trước đây, sợ là sẽ không, nhưng đổi lại là đại tướng quân Vệ Hưng mới được sắc phong bây giờ, thì có đến tám chín phần mười là có. Lương thảo ở Bào Mã Xuyên bị thiêu cháy, anh ta coi thường Chu lão tướng quân không có lương thực, lại muốn tăng thể diện trước mặt người khác mà yên ổn tồn tại trong quân Giang Bắc, nên e rằng muốn làm anh hùng cứu viện Thái Hưng.”
Thôi Diễn lo nghĩ, ngữ khí kiên định nói: “Lúc này đây, nhất định phải khiến cho quân Giang Bắc có đi mà không có về, một kẻ cũng không thể lưu lại!”
Nghe anh ta nói như vậy, trong đầu Thường Ngọc Thanh lại đột nhiên thoảng hiện lên một bóng dáng cao cao, gầy yếu, đuôi lông mày nhịn không được khẽ nhướn lên, cười nhạo nói: “Chưa hẳn!”
Thôi Diễn sửng sốt, có chút khó hiểu nhìn về phía Thường Ngọc Thanh, Thường Ngọc Thanh cũng không nói toạc ra, chỉ khẽ nhếch khóe miệng cười cười, nói: “Chỉ cần nhớ rằng nếu gặp lại Mạch Tuệ chớ để xảy ra chuyện là được!”
Thôi Diễn yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, đột nhiên hỏi: “Nếu ta giết nàng, đại ca có trách ta không?”
Thường Ngọc Thanh ngẩn ra, lại nhìn vẻ mặt thành thật của Thôi Diễn, bật cười nói: “Ngươi không giết nàng, chẳng lẽ muốn bắt giam nàng?”
Thôi Diễn nghe Thường Ngọc Thanh nói như thế liền nhẹ lòng, không khỏi cũng bật cười nói: “Ta còn sợ đại ca có ý với nàng, chẳng may nếu trên sa trường gặp nàng, thì giết hay không giết đây!”
Thường Ngọc Thanh chậm rãi thu lại ý cười, nghiêm mặt nói: “A Diễn, ngươi phải nhớ cho kỹ, ta là quân nhân, trên sa trường chỉ có hai quốc gia đối địch, chứ không có tư tình!”
Thôi Diễn nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, nặng nề mà gật đầu.
Những điều Thường Ngọc Thanh đoán quả nhiên đúng, Vệ Hưng năm trước triệu tập chủ tướng các doanh quân Giang Bắc tề tụ tại đại doanh là để thương thảo kế hoạch giải cứu thành Thái Hưng trong năm sau. Nhậm chức đại tướng quân Giang Bắc sau khi Đường Thiệu Nghĩa tập kích bất ngờ vào đại doanh tích trữ lương thảo của quân Bắc Mạc, Vệ Hưng quả thật rất cần một chiến công hiển hách để chứng minh chính mình.
Nam Hạ, tháng hai, năm thứ tư theo lịch Thịnh Nguyên, Vệ Hưng không để ý đến phản đối của đám người Đường Thiệu Nghĩa, hạ quân lệnh đại tướng quân, lệnh cho quân Giang Bắc phân bố ở núi Ô Lan lặng lẽ qu tụ tại phía đông nam của núi Ô Lan.
Tháng ba, các bộ binh doanh của quân Giang Bắc, cung nỏ doanh cùng kỵ binh doanh của Đường Thiệu Nghĩa, tổng cộng hơn tám vạn người tụ tập lại, vượt qua Liễu Khê, Hán Bảo thẳng tiến cứu viện thành Thái Hưng.
Thành Thái Hưng, bị Bắc Mạc vây khốn gần hai năm, rốt cục đã nghênh đón một đội quân chi viện lớn nhất.
Quân coi giữ thành Thái Hưng là hơn ba vạn người, cùng hơn tám vạn quân Giang Bắc, tổng cộng lên đến mười một vạn quân, trong ngoài giáp công đại quân Bắc Mạc có thể sẽ đem lại một hiệu quả rất lớn. Mà tám vạn đại quân Bắc Mạc của Chu Chí Nhẫn, lương thảo đã bị Đường Thiệu Nghĩa thiêu sạch, gần nửa năm nay đều trong tình trạng thiếu lương, chỉ trông cậy vào sự điều phối lương thảo của các thành trì khác mà Bắc Mạc chiếm đóng để miễn cưỡng duy trì, chỉ cần cắt đứt lương thảo của ông ta, như vậy, đại quân Bắc Mạc không cần tấn công cũng tự loạn.
Có vẻ như hết thảy mọi việc thoạt nhìn đều giống như Vệ Hưng đang làm một cuộc mua bán hàng giả mà không phải lo lắng chuyện bồi hoàn, không biết rằng, phía trước đang có một tấm lưới rất lớn đang giăng sẵn chờ quân Giang Bắc nhảy vào, mà Trần Khởi, người giăng võng thật sự đã chờ từ lâu lắm rồi.
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ BA: Thả phóng ca đạp thanh xuân chính hảo
(Cứ cất cao giọng hát mà bước qua tuổi thanh xuân)
...:::...
Chương 87: Phân ly
Ngày mười bảy tháng ba, quân Giang Bắc rời núi Ô Lan hành quân tới thành Hán Bảo. Thịnh Nguyên năm thứ hai, sát tướng Bắc Mạc Thường Ngọc Thanh lĩnh quân tấn công thành Hán Bảo, sau đó từng hạ lệnh đồ thành, trong thành, quân dân Nam Hạ hầu như chết hết không còn một ai, từ đó, Hán Bảo biến thành một tòa thành trống. Vệ Hưng lệnh cho đại quân trước mắt đóng quân trong thành Hán Bảo, đồng thời phái thám báo tìm hiểu quân tình thành Thái Hưng.
Thất doanh của A Mạch được giao nhiệm vụ cảnh giới cho đại quân, phụng mệnh đóng quân ở phía Bắc thành Hán Bảo. Đợi đến khi an bài xong doanh vụ, mặt trời đã lặn tự bao giờ, A Mạch một mình cưỡi ngựa lên sườn dốc của thành bắc, yên lặng nhìn Hán Bảo đến xuất thần. Từ nơi này đưa mắt nhìn xuống, bức tường phía bắc thành Hán Bảo chỉ còn lại một nửa, ngày đó, nàng đã từng đứng trên bức tường thành thấp bé này, tay nắm chặt cây gậy gỗ, nhìn quân Bắc Mạc đông nghìn nghịt dưới thành mà phát run. Nhắm mắt lại, những tiếng kêu gào như tê tâm liệt phế ấy tựa hồ vẫn còn vang vọng ở bên tai, nàng vẫn nhớ rõ đó là một ngày mặt trời chói chang, nhưng cả không trung lại phấp phới một màn mưa bụi màu đỏ tươi.
Trương Sỹ Cường đợi nửa ngày không thấy A Mạch đâu, liền đi tìm nàng, thấy A Mạch vẫn xuất thần đứng đó cũng không dám quấy rầy, chỉ yên lặng đứng đợi phía chân dốc, đến khi trời tối đen mới thấy A Mạch dắt ngựa từ trên sườn dốc chậm rãi đi xuống.
A Mạch nhìn thấy Trương Sỹ Cường cũng không hỏi gì, chỉ thản nhiên nói một câu: “Đi thôi!”
Trương Sỹ Cường dắt ngựa đi đến, thấy A Mạch vẫn trầm mặc cũng không dám nói gì, chỉ yên lặng đi theo. Đến khi đến địa phận của doanh trại, A Mạch mới quay đầu nhìn Trương Sỹ Cường, đột nhiên hỏi: “Trương Sỹ Cường, ngươi năm nay bao nhiều tuổi?”
Trương Sỹ Cường sửng sốt, lát sau mới đáp: “Mười tám !”
“Mười tám……” A Mạch thấp giọng lặp lại, ánh mắt bỗng trở nên xa xăm, nhẹ giọng nói: “Còn nhớ khi ở thành Dự Châu, ngươi mới chỉ mười sáu, thoáng chốc mà đã hai năm trôi qua, ta cũng đã hai mươi mốt tuổi rồi.”
Hai mươi mốt tuổi, ở độ tuổi này, người con gái sớm đã lập gia đình và sinh con đẻ cái. Đột nhiên, trong lòng Trương Sỹ Cường cảm thấy đau xót, cặp mắt có chút nóng lên, vội vàng ép nước mắt không cho chảy xuống.
Hai người yên lặng bước đi, phía trước đột nhiên có tiếng vó ngựa truyền đến, A Mạch theo ánh trăng nhìn lại, nhận ra đó là Đường Thiệu Nghĩa đang một mình cưỡi ngựa đến gần, khi đến trước mặt A Mạch mới dừng lại, gọi: “A Mạch.”
A Mạch khẽ cười cười, kêu lên: “Đại ca.”
Trương Sỹ Cường ở phía sau cũng cung kính chào một tiếng “Đường tướng quân”, Đường Thiệu Nghĩa nhìn kỹ anh ta một lúc mới nhận ra, không khỏi cười nói: “Là Trương Sỹ Cường sao? Đã tráng kiện lên không ít, thiếu chút nữa thì ta không nhận ra.”
Trương Sỹ Cường hơi cảm thấy ngượng ngùng, cũng không biết nên ứng đối như thế nào, chỉ cong khóe miệng nở một nụ cười hồn nhiên với Đường Thiệu Nghĩa, lại quay đầu nói với A Mạch: “Đại nhân, ta về doanh trước.”
A Mạch gật đầu, đợi Trương Sỹ Cường phi ngựa đi khuất, rồi mới tiến lên hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca tìm ta sao?”
Đường Thiệu Nghĩa giục ngựa đi song song cùng A Mạch, một lát sau mới trả lời: “Đến thăm ngươi.”
A Mạch tâm tư thông minh, nghe vậy đã đoán ngay được vì sao đang lúc đêm khuya mà Đường Thiệu Nghĩa lại đến đây gặp mình, không khỏi hỏi: “Vệ Hưng an bài, sắp xếp cho đại ca đi đâu?”
Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch hỏi thế, biết trong lòng nàng đều đã nhìn thấu, trong mắt không khỏi lộ ra vẻ vui mừng cùng thần sắc kiêu ngạo, cười cười, nhẹ giọng nói: “Ngày mai xuyên qua khu vực rừng núi, lĩnh kỵ binh doanh lên phía bắc, chặn đánh kỵ binh thát tử, tuyệt đối không để cho thiết kỵ của thát tử Dự Châu lọt qua.”
A Mạch nghe vậy thì vô cùng chấn động, trên mặt không khỏi lộ ra vẻ kinh ngạc, kỵ binh doanh của Đường Thiệu Nghĩa hiện tại cùng lắm cũng chỉ hơn năm ngàn người, mà kỵ binh Bắc Mạc tại Dự Châu không dưới mười vạn. Giữa Thái Hưng và Dự Châu là lưu vực sông Bình Nguyên, cả ngàn dặm đồng không mông quạnh, không hề có vật gì che chắn, ẩn không thể ẩn, nấp không thể nấp, vậy mà lại dùng năm ngàn kỵ binh đi chặn đánh mười vạn thiết kỵ Bắc Mạc, thế này thì có khác gì lấy trứng chọi đá!
“Đại ca!” A Mạch không nhịn được kêu lên, “Huynh…”
“A Mạch!” Đường Thiệu Nghĩa ngắt lời, thản nhiên nói: “Quân lệnh như sơn.”
A Mạch nuốt lại câu nói chưa kịp thốt ra vào trong miệng, yên lặng nhìn Đường Thiệu Nghĩa một lát, rồi quay đầu nhìn về phía trước không nói gì. Đường Thiệu Nghĩa cũng không nói, chỉ im lặng đi ở bên cạnh A Mạch. Hai người trầm mặc được một lúc, A Mạch đột nhiên lên tiếng hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Huynh đã có đối sách gì chưa?”
Đường Thiệu Nghĩa lắc đầu nói: “Vẫn chưa có, Vệ Hưng lệnh cho ta chỉ cần giữ chân kỵ binh thát tử mười ngày là được.”
“Mười ngày?” A Mạch cười lạnh, giận dữ nói: “Anh ta nói nghe nhẹ nhàng quá nhỉ, huynh lấy cái gì để giữ chân thát tử mười ngày cho anh ta? Năm ngàn kỵ binh trong tay huynh cho dù thành thạo cưỡi ngựa bắn cung thì thế nào? Có thể ngăn được thát tử sao?”
Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch như thế, lại nở nụ cười, nói: “Có thể giữ chân chúng được mười ngày hay không ta không biết, nhưng ta sẽ gắng hết sức để các ngươi có thể tranh thủ được thời gian, sớm tiêu diệt được đại quân vây thành của Chu Chí Nhẫn, một khi tiến vào thành Thái Hưng rồi, kỵ binh thát tử có muốn đến cứu viện cũng không thể.”
A Mạch nghĩ ngợi rồi hỏi: “Đại ca, vì sao không bố trí thêm quân số của bộ binh doanh đi cùng huynh?”
Đường Thiệu Nghĩa cười, nói: “A Mạch, ngươi chưa từng ở kỵ binh doanh, nên có lẽ không hiểu rõ kỵ binh rồi. Ở Dã Lang Câu còn có thể lợi dụng địa hình để hạn chế khả năng tấn công của kỵ binh, khiến cho bọn họ không thể đánh sâu vào mặt trận của bộ binh ta, nhưng ở lưu vực sông này thì không thể hạn chế tốc độ cùng khả năng linh hoạt của kỵ binh được, kỵ binh muốn tan hay hợp đều rất dễ dàng, tốc độ thay đổi phương thức tấn công vượt xa tốc độ thay đổi phương thức phòng thủ của bộ binh, một khi kỵ binh thát tử lọt vào mặt trận của bộ binh, quân ta chắc chắn sẽ bị xé nhỏ.”
A Mạch nghe xong khẽ nhíu mày, nhưng cũng không nghĩ ra biện pháp gì, từ xưa đến nay bộ binh đối kháng với kỵ binh đều dựa vào tường thành, chiến lũy mà phòng ngự, lợi dụng cung nỏ mà sát thương quân địch, đó mới là chiến thuật tối ưu nhất, rất hiếm khi bộ binh đối trận trực tiếp cùng kỵ binh.
Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch chau mày, không khỏi khuyên giải: “Đừng quá lo lắng cho ta, chính ngươi cũng phải cẩn thận, trong tay Chu Chí Nhẫn là tám vạn tinh binh, trận chiến lần này tại thành Thái Hưng cho dù có thắng, thì quân Giang Bắc chúng ta e là cũng phải trả một cái giá rất lớn.”
A Mạch tất nhiên biết điều này, nhịn không được hỏi: “Đại ca, ta thật không hiểu Vệ Hưng sao lại làm vậy, cho dù giải cứu được thành Thái Hưng thì thế nào? Một khi tiến vào trong thành, đại quân thát tử lại kéo đến, không phải cuối cùng vẫn là bị nhốt trong thành sao?”
Sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa ngưng trọng, nghĩ một lát rồi đáp: “Chu Chí Nhẫn vừa vây thành Thái Hưng vừa huấn luyện thuỷ quân, một khi thuỷ quân huấn luyện thành công tất sẽ tiến công Phụ Bình Giang Nam, đến lúc đó Thái Hưng, Phụ Bình đều bị Chu Chí Nhẫn hạ, thát tử liền thuận thế hạ Giang Đông, Giang Nam dễ như trở bàn tay.”
“Cho nên, phải giải vây cho thành Thái Hưng?” A Mạch hỏi.
Đường Thiệu Nghĩa gật đầu: “Không sai, giải vậy cho thành Thái Hưng quan trọng ở chỗ phá hủy thủy quân của Chu Chí Nhẫn, giải trừ sự uy hiếp đối với Phụ Bình, Thái Hưng được giải vây. Chỉ có điều…” Đường Thiệu Nghĩa nhìn về phía A Mạch, nói: “Thời cơ chưa tới, sợ là khó có thể thành công, Vệ Hưng quá nóng vội.”
A Mạch cũng gật đầu, thấp giọng nói: “Sự nóng vội của anh ta đánh đổi bằng hàng ngàn, hàng vạn tính mạng của tướng sĩ quân Giang Bắc!”
Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc, thần sắc trở nên u ám. Hai người đều không nói gì, đi được một lát, doanh trại của A Mạch đã không còn xa, Đường Thiệu Nghĩa dừng ngựa, quay đầu nhìn về phía A Mạch, nói: “Ngươi về doanh đi, ta sẽ không vào đó đâu.”
A Mạch biết anh ta sợ có người nhìn thấy lại chọc cho Vệ Hưng nảy sinh nghi kị với mình, lập tức gật đầu nói: “Được, đại ca, huynh phải bảo trọng!”
Đường Thiệu Nghĩa yên lặng nhìn A Mạch, đột nhiên nói: “A Mạch, ngươi nhất định phải còn sống!” Nói xong tầm mắt lại lướt qua hai lượt trên khuôn mặt A Mạch, rồi lúc này mới kéo mạnh dây cương, quay ngựa trở về. Chưa đi được bao xa lại nghe thấy A Mạch ở phía sau gọi: “Đại ca”, Đường Thiệu Nghĩa vội dừng ngựa, quay lại nhìn A Mạch.
A Mạch thúc ngựa đuổi theo, nhìn Đường Thiệu Nghĩa gằn giọng nói từng tiếng một: “Đại ca, không phải huynh nhất định phải còn sống, cũng không phải ta nhất định phải còn sống, mà là chúng ta, là chúng ta nhất định phải còn sống!”
Đường Thiệu Nghĩa lẳng lặng lắng nghe, đột nhiên nở nụ cười, lộ ra hàm răng sáng bóng trên trên khuôn mặt ngăm đen, gật đầu, nói: “Được! Chúng ta! Chúng ta nhất định phải còn sống!”
Ngày mười tám tháng ba, quân Giang Bắc từ Hán Bảo bắt đầu hành quân tới thành Thái Hưng. Vượt qua khu vực rừng núi phía đông thành Hán Bảo, Đường Thiệu Nghĩa lĩnh kỵ binh doanh đi từ hướng đông sang hướng bắc, chặn đường cứu viện của kỵ binh Bắc Mạc từ Dự Châu.
Ngày mười chín tháng ba, quân Giang Bắc cách phía bắc thành Thái Hưng năm mươi dặm, đại quân hạ trại, đồng thời lệnh cho bộ binh thất doanh và bát doanh cùng một doanh cung nỏ, tạm thời do chủ tướng thất doanh Mạch Tuệ thống lĩnh, tiếp tục theo hướng đông ngăn chặn viện quân đông lộ của Bắc Mạc.
Phía đông thành Thái Hưng không giống với thành bắc, là vùng đồi núi, có nhiều đỉnh núi và khe núi chật hẹp, mặc dù không hiểm trở bằng dãy núi Ô Lan, nhưng so với vùng đất bằng phẳng của lưu vực sông Bình Nguyên thì tốt hơn rất nhiều, có nhiều địa hình có thể tiến hành phục kích được. Không phải trực tiếp ở trên chiến trường chém giết, mà đến phục kích viện quân, kỳ thật điều này xem như may mắn. A Mạch nghe thấy Vệ Hưng ra quân lệnh này thì vô cùng sửng sốt, thầm nghĩ từ khi nào mà mình lại có được vận khí tốt như thế này? Đợi chủ tướng ba doanh tề tụ, tới khi thấy tham quân Lâm Mẫn Thận cũng đi theo, A Mạch mới bừng tỉnh đại ngộ, thì ra là thế.
Lâm Mẫn Thận cũng mặc một bộ áo giáp trên người, tương phản với bộ dáng lúc nào cũng cười hì hì mọi ngày, chờ ba doanh tướng trịnh trọng chắp tay chào A Mạch xong, mới nghiêm sắc mặt nói: “Đại tướng quân lệnh cho Lâm mỗ cùng ba vị tướng quân đi trước ngăn chặn đường tiến quân của viện binh thát tử từ hướng đông, Lâm mỗ mới vào trong quân, nhiều điều còn không hiểu, mong ba vị tướng quân chỉ giáo cho!”
Thấy Lâm Mẫn Thận đứng đắn như thế, A Mạch nhất thời không quen, không khỏi nhìn anh ta chăm chú, thầm nghĩ chẳng lẽ anh ta lại là một Thương Dịch Chi thâm tàng bất lộ khác nữa? Ai ngờ khi hai gã doanh tướng vừa mới xoay người rời đi, trên mặt Lâm Mẫn Thận lại khôi phục bộ mặt cười hì hì, ghé sát vào A Mạch, trơ mặt ra nói: “Từ biệt từ năm trước đến nay đã mấy tháng, đại tướng quân không cho ta đi tìm ngươi, ngươi vì sao cũng không chịu đến thăm ta?”
Trên mặt A Mạch bất động thanh sắc, chỉ thản nhiên nói: “Lời này của Lâm tham quân nói ra thật kỳ quái, ta là chủ tướng của một doanh, ngươi là tham quân dưới trướng của đại tướng quân, đã mang quân vụ trong người há có thể kết giao thân thiết, những chuyện như thế này về sau không nói vẫn hơn.”
Lâm Mẫn Thận nghe xong không cho là đúng, cười cười đang muốn mở miệng, A Mạch cũng không chờ anh ta lên tiếng liền lạnh giọng nói: “Lâm tham quân, Mạch mỗ có câu muốn hỏi.”
Lâm Mẫn Thận không khỏi hỏi lại: “Là câu gì?”
A Mạch hỏi: “Diễn tuồng quá mức sẽ không thể quay trở lại đời thường được, nếu đến một lúc nào đó tham quân không muốn diễn nữa, thì làm thế nào để có thể tẩy sạch được son phấn vẽ trên mặt?”
Lâm Mẫn Thận sửng sốt, nhìn A Mạch không nói ra lời.
A Mạch nhẹ nhàng nở nụ cười, không hề để ý tới Lâm Mẫn Thận, xoay người đi phân công doanh vụ, đợi ba doanh xuất phát, Lâm Mẫn Thận mới từ phía sau đuổi theo, chỉ hỏi A Mạch: “Ngươi định phục kích thát tử ở đâu, trong lòng đều có xắp xếp rồi chứ?”
A Mạch thấy thái độ anh ta thay đổi cũng không lấy làm lạ, chỉ đáp: “Ta cũng chỉ vừa lĩnh mệnh đại tướng quân đông tiến, thì làm sao biết được chỗ nào có địa hình thích hợp để phục kích chứ.”
Lâm Mẫn Thận nghe xong ngẩn ra, không khỏi hỏi: “Quân sư trong doanh của ngươi đâu?”
A Mạch đoán anh ta muốn nói đến Từ Tĩnh, chỉ có điều Từ Tĩnh sớm đã không còn giữ thân phận quân sư nữa, cho nên lần này không đi theo đại quân mà vẫn lưu lại núi Ô Lan, hiện nghe anh ta hỏi như thế, liền cố ý làm ra vẻ ngạc nhiên, nói: “Tham quân chê cười ta sao, ta chỉ là một bộ binh doanh nhỏ bé, làm gì có chức vụ quân sư?”
Lâm Mẫn Thận khẽ biến sắc mặt, quả nhiên hỏi: “Từ tiên sinh hiện ở nơi nào?”
A Mạch cười nói: “Ồ, thì ra tham quân muốn nói đến gia thúc a, gia thúc không phải người trong quân đội, há có thể tham gia vào việc quân, hiện giờ đương nhiên là ở trong núi Ô Lan rồi.”
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ BA: Thả phóng ca đạp thanh xuân chính hảo
(Cứ cất cao giọng hát mà bước qua tuổi thanh xuân)
...:::...
Chương 88: Mai phục
Lâm Mẫn Thận nhất thời nói không ra lời, chỉ nhìn A Mạch chằm chằm, nhìn một lát thấy vẻ mặt A Mạch không giống như đang nói dối, cuối cùng cũng đành phải tiếp nhận tin tức Từ Tĩnh không ở trong quân là sự thật.
A Mạch cũng lẳng lặng nhìn Lâm Mẫn Thận, muốn xem anh ta sẽ phản ứng như thế nào, ai ngờ anh ta sau một lúc nhìn mình, phút chốc đã nở nụ cười, cảm thán thốt ra vài câu “Hay”, rồi lại vỗ tay cười nói: “Mạch tướng quân, nói như vậy, trận phục kích lần này chỉ dựa vào hai chúng ta!”
A Mạch cũng thản nhiên cười theo, nói: “Được!”
Vẻ tươi cười trên mặt Lâm Mẫn Thận khẽ đông cứng lại, liếc A Mạch một cái, rồi kéo ngựa tránh sang bên đường, nói: “Mạch tướng quân đi trước đi.”
A Mạch cũng không khách khí, giật dây cương mà đi. Lâm Mẫn Thận một mình ở phía sau, đợi bóng dáng của A Mạch dần dần đi xa, lúc này mới giục ngựa chậm rãi theo sau.
Từ thành Thái Hưng đi về hướng đông, đường hành quân mới đầu đều là bình nguyên bằng phẳng, nhưng dần dần, địa thế bắt đầu nhấp nhô, càng đi về phía đông, sự thay đổi của địa thế càng lớn, tốc độ hành quân cũng chậm lại, cứ như vậy được mấy ngày thì tiến gần đến một khe sâu, A Mạch lệnh cho đại quân dừng bên ngoài khe bí mật hạ trại, lại phái thám báo đi về hướng đông tìm hiểu tin tức, xem ra tựa hồ đã quyết định phải mai phục ở nơi này.
Hai ngày này, Lâm Mẫn Thận luôn nghiên cứu bản đồ địa hình của Thái Hưng và Thanh Châu, thấy A Mạch đột nhiên hạ trại ở nơi này, không khỏi tìm đến hỏi: “Vì sao lại phục kích ở đây, phía trước vẫn còn địa điểm phục kích tốt hơn rất nhiều mà?”
A Mạch đang giao nhiệm vụ cho Lý Thiếu Hướng phân phát đồ ăn đủ dùng trong ba ngày cho quân sĩ, nghe Lâm Mẫn Thận hỏi, thuận miệng đáp: “Có lẽ có.”
Lâm Mẫn Thận nghe vậy thì sửng sốt, nhìn A Mạch mà cảm thấy bất khả tư nghị[1], lặp lại: “Có lẽ có?”
[1]. Bất khả tư nghị: không thể suy nghĩ, bàn luận được.
A Mạch không để ý tới anh ta, chỉ dặn Lý Thiếu Hướng mấy ngày sau cũng không được cho binh lính nổi lửa, bất luận là bếp lớn hay bếp nhỏ. Lý Thiếu Hướng nghe vậy đều nhất nhất gật đầu, lĩnh mệnh rời đi. A Mạch lúc này mới xoay người lại nhìn Lâm Mẫn Thận, đáp: “Từ đây đi về hướng đông còn hơn hai ngàn dặm nữa mới đến Thanh Châu, ta lại không đi qua đường này, làm sao biết được phía sau có địa điểm phục kích tốt hơn hay không, chẳng lẽ Lâm tham quân biết?”
Lâm Mẫn Thận bị A Mạch hỏi thì nghẹn họng, thiếu chút nữa không thể thở nổi, phải hít một hơi thật sâu mới có thể nói tiếp: “Đại tướng quân lệnh cho ta chờ ở phía đông ngăn chặn viện binh của thát tử, mà Thường gia lãnh binh đông tiến đến Thanh Châu, khoảng cách đâu chỉ ngàn dặm! Ngươi hành quân cùng lắm cũng mới có năm ngày, cách Thái Hưng chỉ khoảng hơn hai trăm dặm đã cho mai phục, cho dù viện binh thát tử hiện giờ đang chạy đến Thái Hưng, lúc này ngươi còn phải đợi thát tử bao lâu? Huống chi nơi này không phải là địa điểm mai phục tốt nhất, vậy mà ngươi vẫn chọn, Lâm mỗ thật sự không thể gật bừa, còn mong Mạch tướng quân giải thích cho Lâm mỗ một đôi lời.”
A Mạch lẳng lặng nghe, đến khi Lâm Mẫn Thận ngừng nói mới bình tĩnh hỏi: “Lâm tham quân nói xong rồi?”
Lâm Mẫn Thận không nói, gật đầu.
A Mạch khẽ cười một tiếng, nói: “Nếu Lâm tham quân hỏi, ta đương nhiên phải trả lời, chẳng qua ta có mấy vấn đề muốn hỏi Lâm tham quân trước.”
Nghe A Mạch nói như thế, Lâm Mẫn Thận tuy có chút nghi hoặc, song vẫn thản nhiên nói: “Mạch tướng quân cứ hỏi.”
A Mạch không vội, không gấp hỏi: “Lâm tham quân là tham mưu quân sự dưới trướng đại tướng quân, vậy xin hỏi nhân số cả ba doanh của chúng ta hiện có bao nhiêu người? Trang bị loại nào? Lương thảo bao nhiêu? Từ đây đến Thanh Châu cách bao xa, địa hình như thế nào? Đi theo đường nào? Có bao nhiêu địa điểm thích hợp để phục kích? Quân ta đi tới đó mất mấy ngày? Thời gian đi từ nay đến đó thời tiết sẽ như thế nào? Cần dùng hết bao nhiêu lương thảo? Quân sĩ như thế nào? Thát tử có đến cứu viện Thái Hưng không? Sẽ đến bao nhiêu người? Bộ binh hay kỵ binh nhiều hơn? Ai cầm binh? Khi nào thì xuất phát? Bao lâu thì tới địa điểm phục kích?” A Mạch cười cười, thấy Lâm Mẫn Thận chỉ há miệng nói không ra lời, lại đùa cợt nói: “Lâm tham quân, những vấn để này trong binh thư có nói qua không?”
Lâm Mẫn Thận bị A Mạch hỏi vốn đã giật mình, lại nghe nàng châm chọc, trong mắt rốt cuộc không dấu được một tia buồn bực xấu hổ.
A Mạch cười nhạo một tiếng, còn nói thêm: “Tiểu hoàng đế thát tử vẫn còn ở tại Dự Châu, thiết kỵ thát tử nơi đó không dưới hơn mười vạn, mà Dự Châu cách Thái Hưng cùng lắm tám trăm dặm, Lâm tham quân tự mình có thể tính được kỵ binh thát tử cần bao nhiêu ngày sẽ đến được Thái Hưng. Lại nói Lâm tham quân ở dưới trướng của đại tướng quân, tất nhiên biết đại tướng quân cho Đường tướng quân định hạn là bao nhiêu, mười ngày, cùng lắm chỉ mười ngày, trong vòng mười ngày này, phải phá tan được đại quân của Chu Chí Nhẫn, nếu phá không được, đại tướng quân chúng ta cũng chỉ có thể nhượng lại bao hạt giống cho người ta mà thôi. Lâm tham quân nói năm ngàn nhân mã này của chúng ta nên tiếp tục đi về hướng đông mấy ngày nữa thì mai phục? Đi xa, ngươi còn có thể trở về được sao?”
Lâm Mẫn Thận bị A Mạch hỏi thì á khẩu không trả lời được, chỉ nhìn A Mạch chằm chằm, ngay cả ánh mắt cũng trở nên mê muội.
A Mạch lười không muốn nói nhiều lời với anh ta, xoay người phân phó Trương Sỹ Cường mời chủ tướng hai doanh kia đến nghị sự, lại sai mấy tên quan quân bố trí phục kích. Lâm Mẫn Thận thấy bản thân mình đứng đó cũng không có gì thú vị, muốn đi, nhưng lại muốn nghe A Mạch rốt cuộc bố trí phục binh như thế nào, đành phải ra vẻ lạnh mặt đứng yên ở cửa trướng một hồi, chờ mọi người nhất nhất lĩnh mệnh rời đi, lúc này mới lại tiến lên, ngập ngừng một lát rồi mới mở miệng hỏi: “Những lời ngươi vừa nói lúc nãy đều do Từ tiên sinh giảng cho hay sao?”
A Mạch bị hỏi thì ngẩn ra, cười đáp: “Cứ cho là vậy đi.”
Trong lòng Lâm Mẫn Thận nhất thời nhẹ hẫng, dáng vẻ như thư sinh không khỏi thở dài: “Từ tiên sinh quả thực như người thần vậy.”
A Mạch nhìn Lâm Mẫn Thận, khóe môi nở nụ cười, nói: “Phải, ông ta là người thần, trong triều chỉ cần nuôi được vài người thần như ông ta vậy thì thát tử đã tự mình chạy về nhà rồi, còn cần gì phải nuôi binh nữa!”
Lâm Mẫn Thận nhận ra A Mạch đang bỡn cợt mình, có chút khó hiểu nhìn A Mạch, đang muốn hỏi lại, thì màn trướng lại được vén lên, chủ tướng hai doanh kia đã theo Trương Sỹ Cường đến. Hai người kia thấy Lâm Mẫn Thận cũng ở đó, chỉ nghĩ anh ta cũng được A Mạch mời đến nghị sự, nên không để ý lắm, A Mạch cũng không nhiều lời, chỉ cùng bọn họ thương lượng nên mai phục trong khe sâu như thế nào, Lâm Mẫn Thận vẫn yên lặng lắng nghe, đến khi nghị sự chấm dứt cũng không chen vào câu nào.
Đợi khi hai viên tướng rời đi, Lâm Mẫn Thận cũng theo ra ngoài, khi đến cửa trướng lại dừng lại, quay người nhìn về phía A Mạch còn đang cúi đầu xem sa bàn, lên tiếng hỏi: “Mạch tướng quân –”
A Mạch nghe tiếng ngẩng đầu, nhìn về phía Lâm Mẫn Thận.
Lâm Mẫn Thận do dự một chút, mới hỏi: “Không biết vấn đề vừa rồi, có thể cho Lâm mỗ biết đáp án được không?”
A Mạch nhướn mày, hỏi: “Vấn đề gì?”
Lâm Mẫn Thận nói: “Thát tử có cứu viện Thái Hưng không? Sẽ đến bao nhiêu người? Bộ binh hay kỵ binh nhiều hơn? Ai cầm binh? Khi nào thì xuất phát?”
A Mạch cười cười, nói: “À, này đó ta cũng không biết.”
Lâm Mẫn Thận nhất thời không nói gì, chỉ nhìn A Mạch.
A Mạch vừa cười vừa nói: “Ta cũng không phải là hoàng đế của thát tử, làm sao biết được? Chờ khi chúng đến đây, tự nhiên sẽ biết.”
Lâm Mẫn Thận lúc này mới phát hiện mình lại bị A Mạch giỡn, rốt cuộc không tiếp tục duy trì được vẻ mặt hoàn hảo nữa, hừ lạnh một tiếng nói: “Đa tạ Mạch tướng quân chỉ giáo, Lâm Mẫn Thận xin nhận!”
Lâm Mẫn Thận nói xong xoay người bỏ đi.
“Quay lại!” A Mạch đột nhiên quát.
Thân ảnh Lâm Mẫn Thận ngừng lại một chút, quay người, tựa tiếu phi tiếu nhìn A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân còn có gì chỉ giáo?”
A Mạch lẳng lặng nhìn Lâm Mẫn Thận một lát, nghiêm mặt nói: “Ba ngày, chúng ta chỉ có thể chờ ở đây ba ngày, ba ngày sau, mặc kệ là có thể phục kích thát tử được hay không cũng phải quay về Thái Hưng, đại tướng quân nếu đánh tan đại quân của Chu Chí Nhẫn mà vào Thái Hưng, cũng sẽ bị viện quân thát tử tiến đến bao vây. Kỵ binh thát tử tuy rằng không thể đánh hạ thành Thái Hưng, nhưng lại có thể chXiết chúng ta, nếu chúng ta không thể vượt trước bọn họ tiến vào Thái Hưng, cái chờ đợi chúng ta chỉ có… bị tiêu diệt toàn bộ.”
Lâm Mẫn Thận rùng mình, yên lặng đứng đó một lúc lâu, xoay người hất bức màn trướng đi ra ngoài.
Đợi đến sáng sớm ngày thứ hai, A Mạch lĩnh quân tiến vào khe sâu mai phục, theo kế hoạch đã định, phân chia nhân lực của ba doanh bố trí phục kích bên trong hai bên sườn núi, truyền lệnh nghiêm cấm binh lính tùy ý lên tiếng, đi lại. A Mạch tự mình chọn một vị trí cao có tầm quan sát tốt nhất trong khe, cũng không bố trí doanh trướng, chỉ mang theo Trương Sỹ Cường và vài thân vệ yên lặng ngồi dưới tàng cây, trong tay cầm một nhánh cây vẽ nghuệch ngoạc trên mặt đất.
Phục kích như vậy được hai ngày, trong khe sâu đều không hề động tĩnh, chỉ thỉnh thoảng có thám báo cưỡi khoái mã từ ngoài khe sâu chạy về, tin tức mang đến đều là chưa phát hiện ra quân đội của thát tử. A Mạch nghe xong cũng không hề vội vàng dao động, yên lặng ăn lương khô, quấn áo choàng quanh người rồi dựa vào thân cây ngủ. Trương Sỹ Cường sợ nàng bị lạnh, vội vàng lấy áo choàng của mình đắp cho nàng.
A Mạch từ từ nhắm hai mắt lại, ném trả áo choàng trên người cho Trương Sỹ Cường, thấp giọng nói: “Không cần, ngươi cùng bọn họ thay ca nhau mà ngủ đi.”
Trương Sỹ Cường yên lặng cầm lấy áo choàng, ngồi xuống một bên, nhưng lại không ngủ, chỉ lấy bội kiếm xuống, dùng góc áo chậm rãi lau.
Đợi cho đến khi trời tờ mờ sáng, khi Lâm Mẫn Thận lại đến tìm A Mạch, A Mạch vẫn quấn áo choàng ngủ dưới tàng cây. Lâm Mẫn Thận thấy nàng ngủ say, chần chờ đứng lại một lát rồi mới nhẹ nhàng bước lên, chưa kịp đến trước mặt A Mạch, thình lình nghe Trương Sỹ Cường ở một bên nhẹ giọng gọi: “Lâm tham quân.”
Lâm Mẫn Thận dừng lại, quay đầu thấy Trương Sỹ Cường đã từ bên cạnh đứng lên hành quân lễ với anh ta rồi nhỏ giọng nói: “Ngài lại đây.”
Lâm Mẫn Thận xoa cằm, đến khi quay đầu lại thì thấy A Mạch đã ngồi ngay ngắn, chỉ ngẩng đầu nhìn mình, trong mắt không một chút nhập nhèm, chỉ hỏi: “Chuyện gì?”
Lâm Mẫn Thận đến ngồi xổm trước mặt A Mạch, yên lặng nhìn nàng chăm chú, chậm rãi nói: “Hôm nay đã là ngày thứ ba rồi.”
A Mạch không nói, chỉ là lẳng lặng nhìn Lâm Mẫn Thận.
Lâm Mẫn Thận lại thấp giọng nói: “Nếu như hôm nay không thấy thát tử đến, chúng ta có quay về Thái Hưng thật không?”
A Mạch nhíu mày, ánh mắt không khỏi lóe lên vẻ âm hiểm, âm thanh lạnh lùng nói: “Chẳng lẽ Lâm tham quân cho rằng ta hay nói giỡn lắm sao?”
Lâm Mẫn Thận nhìn A Mạch một lúc lâu, khóe miệng đột nhiên nhếch lên, nói: “Tốt lắm, ta sẽ chờ ngươi một ngày!” Nói xong liền đứng dậy, nhưng cũng chưa rời đi, chỉ đi cách A Mạch vài bước, rồi cũng ngồi xuống dựa vào gốc cây, ngẩng đầu yên lặng nhìn bầu trời.
Thấy anh ta phản ứng như thế, A Mạch lại thấy có chút buồn cười, nhất thời cũng không để ý tới anh ta, chỉ tiếp tục dựa vào gốc cây nhắm mắt dưỡng thần. Cứ như vậy lại đợi thêm nửa ngày, Vương Thất đột nhiên khẽ khàng chạy đến bên người A Mạch, thấp giọng dồn dập nói: “Thám báo vừa báo về, cách hướng đông bốn mươi dặm xuất hiện đại đội binh mã của thát tử, soái kỳ đúng là có một chữ ‘Thường’!”
Đuôi lông mày của A Mạch lập tức nhướn lên, còn chưa kịp mở miệng, đã thấy cách đó không xa, Lâm Mẫn Thận lập tức ngồi ngay ngắn dậy, hai mắt sáng như đuốc nhìn sang bên này. A Mạch thản nhiên đưa mắt nhìn anh ta một cái, trầm giọng ra lệnh cho Vương Thất: “Rút thám báo ngoài cốc về, ngàn vạn lần không được để cho thát tử phát hiện.”
Vương Thất cúi đầu tuân lệnh rồi vội vàng rời đi.
A Mạch lại phân phó viên quan phụ trách liên lạc bên cạnh: “Truyền lệnh xuống, từ giờ phút này, binh lính phục kích các nơi tuyệt đối không được gây nên bất kỳ tiếng động nào, trái lệnh, chém!”
Viên quan phụ trách liên lạc đi đến một bên vẫy vẫy tay, mấy tên lính thông tin canh giữ bên ngoài liền nhanh chóng chạy lại, viên quan phụ trách liên lạc thấp giọng công đạo vài câu, những binh lính này liền rất nhanh biến mất trong rừng cây.
Lâm Mẫn Thận vẫn chú ý quan sát A Mạch, thấy nàng chỉ phân phó hai câu này rồi lại nhắm mắt dựa vào thân cây, trong lòng bất giác có chút nôn nóng, muốn đi sang hỏi lại sợ A Mạch chê cười, đành phải cố gắng kiềm chế tâm tình, yên lặng ngồi ở một bên. Ai ngờ cứ đợi như vậy cho đến khi trời tối, cũng không thấy tin tức thát tử vào cốc, Lâm Mẫn Thận cuối cùng không nhịn được, lên tiếng hỏi A Mạch: “Rút hết thám báo ngoài cốc về, chúng ta chẳng phải sẽ thành người mù sao? Như thế thì làm sao biết được động tĩnh của thát tử? Ngay cả thát tử lúc này ở đâu cũng không biết?”
A Mạch thản nhiên liếc nhìn anh ta một cái, không chút để ý đáp: “Thát tử không vào cốc, tất nhiên là ở ngoài cốc hạ trại, thế thì còn dùng thám báo để làm gì?”
A Mạch vừa dứt lời, một bóng người lặng lẽ từ dưới đi lên, đến gần mới nhận ra là Vương Thất, chợt nghe anh ta thấp giọng nói: “Thát tử ở ngoài cốc hạ trại, thám báo thát tử không ngừng vào cốc dò đường, chúng ta cũng không dám tiếp cận quá cần, từ xa quan sát thấy có vẻ như nhân số cũng không ít.”
A Mạch nhẹ nhàng gật đầu, đảo mắt thấy Lâm Mẫn Thận vẫn chăm chú nhìn mình, cười nhạo một tiếng nói: “Lâm tham quân vẫn nên ngủ một giấc cho ngon đi, sau trận chiến ngày mai có được ngủ nữa hay không khó mà nói được.”
Lâm Mẫn Thận biết rõ A Mạch giễu cợt mình nhưng cũng không giận, trong lòng thầm nghĩ tình hình trận đánh ngày mai sẽ thế nào, không biết thát tử đã có đề phòng gì chưa? Có thể tiêu diệt toàn bộ bọn chúng hay chỉ là gây thiệt hại nặng mà thôi? Nghĩ ngợi chán đâm ra lại oán hận A Mạch vì đã rút toàn bộ thám báo ngoài cốc về, khiến cho hiện giờ không thể biết được thát tử có bao nhiêu binh mã, lại nhớ ra A Mạch chỉ thương nghị cùng chủ tướng hai doanh, trong khi bản thân anh ta là một tham mưu quân sự thế mà ngay cả những thứ ngoài lề cũng không được tham gia bàn bạc, bất giác có chút cáu giận, muốn ngày mai lao xuống khe sâu giết chết thát tử, ít ra cũng được một chữ “Dũng”…
Một đêm này, Lâm Mẫn Thận ngàn suy vạn nghĩ, mà A Mạch lại chỉ là nhắm mắt dưỡng thần.
Đợi cho đến hừng đông ngày kế tiếp, quân Bắc Mạc đóng bên ngoài cốc cuối cùng cũng nhổ trại mà đi, kỵ binh đi tiên phong tiến vào trong cốc đầu tiên, sau khi đi qua rồi mới đến bộ binh cùng lá cờ thêu chữ “Thường” đi tiếp theo sau. Lâm Mẫn Thận biết A Mạch đã đem binh lực chia làm ba bộ phận, chỉ đánh thọc sườn, chặn đánh, đánh chốt đuôi, giờ vẫn không thấy A Mạch ban mệnh lệnh tấn công, không khỏi sốt ruột, nhịn không được lên tiếng nhắc nhở: “Thát tử đã vào cốc rồi, lúc này không đánh còn đợi đến khi nào?”
A Mạch trầm mặc nhìn tình hình hành quân của thát tử trong cốc, rồi cũng không để ý tiếp.
Lâm Mẫn Thận tuy rằng trong lòng vội vàng xao động cũng đành bất đắc dĩ, đi lòng vòng tại chỗ vài vòng, rồi cũng nhìn về phía trong cốc, đợi đến khi lương thảo cùng đồ quân nhu của Bắc Mạc cũng đã tiến vào trong cốc rồi, anh ta không còn nhẫn nại được nữa, đi vài bước đến bên cạnh A Mạch, cả giận nói: “Đổ đầu đầu dĩ quá, trảm yêu yêu dĩ tẩu[2], hiện giờ ngay cả cái đuôi của thát tử cũng đã đi qua rồi, chẳng lẽ Mạch tướng quân cứ như vậy mà thả cho thát tử ra khỏi cốc sao?”
[2]. Đổ đầu đầu dĩ quá, trảm yêu yêu dĩ tẩu: đổ xúc xắc, xúc xắc đã trượt mất, chém yêu, yêu đã chạy. Tức là làm việc gì cũng bỏ lỡ.
Tầm mắt A Mạch vẫn hướng vào trong cốc, nghe Lâm Mẫn Thận nói như thế, cũng không tranh cãi với anh ta, chỉ lạnh giọng phân phó tả hữu: “Đem Lâm Mẫn Thận trói lại cho ta!”
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ BA: Thả phóng ca đạp thanh xuân chính hảo
(Cứ cất cao giọng hát mà bước qua tuổi thanh xuân)
...:::...
Chương 89: Phục kích
Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, mấy thân binh bên cạnh A Mạch đã đánh khẽ vào người anh ta, Lâm Mẫn Thận theo bản năng trầm bả vai xuống, đưa một tay lên bả vai của mình, ngón tay nhanh chóng nắm lấy cổ tay của người nọ, đang muốn phát lực thì lại thay đổi chủ ý, vội dấu dấu diếm diếm buông lỏng bàn tay, tránh né tượng trưng vài cái rồi để mặc cho mấy thân binh kia trói anh ta lại, ngoài miệng vẫn thấp giọng cả giận nói: “Mạch Tuệ! Ngươi muốn làm gì!”
A Mạch không quay đầu, chỉ thấp giọng quát: “Bịt nốt miệng hắn lại cho ta!”
Thân binh lại tiến lên tùy ý tìm một mảnh vải bố nhét vào miệng Lâm Mẫn Thận, Lâm Mẫn Thận chỉ thấy trong miệng tràn đầy vị tanh tưởi, khiến anh ta thiếu chút nữa thì lăn ra hôn mê bất tỉnh.
A Mạch vẫn chăm chú nhìn vào khe núi, đến khi đội quân vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu đều ra khỏi khe núi cũng không phát lệnh tấn công. Cứ như vậy, đừng nói là Lâm Mẫn Thận, mà ngay cả những người khác cũng cảm thấy vừa sợ vừa nghi, thầm nghĩ chẳng lẽ A Mạch muốn thả thát tử ra khỏi khe núi. Nhưng đội quân thát tử này cùng lắm chỉ mấy ngàn người, còn chưa bằng nhân số của ba doanh, A Mạch sao lại phải úy kỵ như vậy.
Mọi người còn đang nghi hoặc, chợt thấy dưới chân dốc ầm ầm chấn động, chưa đầy một lát sau, âm thanh chấn động này không những không giảm mà ngược lại còn tăng lên, khiến cho cả khe núi đều rung chuyển. Mọi người vừa sợ vừa nghi hoặc, nhất tề nhìn về phía A Mạch. A Mạch chỉ lẳng lặng quan sát, sắc mặt cũng có chút tái nhợt, ngay cả thần sắc cũng phai nhạt ba phần, hai con ngươi tối đen lại càng thêm sâu thẳm.
Khuôn mặt Vương Thất tràn đầy sự kinh hãi từ phía đông chạy tới, thở không ra hơi nói: “Thát, thát tử, lại có kỵ binh vào khe núi !”
Kỳ thật không cần anh ta nói, mọi người đều đã nhìn thấy thiết kỵ Bắc Mạc dồn dập nện vó tiến vào trong khe khiến bụi tung mù mịt, che kín cả bầu trời, trong khoảng thời gian ngắn, tất cả mọi người đều sửng sốt. Phải biết nguyên tắc hành quân của đại quân đều là đội tiên phong đi trước mở đường, kỳ vệ đội đi giữa, còn đội lương thảo và đồ quân nhu đi cuối cùng. Mọi người thấy lương thảo của thát tử đã đi qua, đều nghĩ rằng số lượng của thát tử chỉ có thế, ai ngờ phía sau lại xuất hiện một đại quân kỵ binh lớn như thế!
Kỵ binh Bắc Mạc tuy tiến vào khe sâu song vẫn duy trì đội hình tác chiến, trình tự bố trí các cánh quân rất trật tự, năm ngựa thành một hàng ngang, sáu hàng thành một nhóm, hai nhóm thành một dãy, cứ như vậy theo khoảng cách từ ngoài mà tiến vào khe núi.
Đội vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu Bắc Mạc phía trước mặc dù quá nửa đã ra khỏi khe núi, nhưng lối ra chật hẹp, không thuận tiện cho việc di chuyển, nên tốc độ thập phần chậm rãi, khi đội quân tiên phong thiết kỵ Bắc Mạc tới lối ra, thì đội vận chuyển lương thảo vẫn còn gần một nửa chắn ở đó, khiến đại đội kỵ binh phía sau cũng bị chặn lại.
Kỵ binh tụ lại càng lúc càng nhiều, đội hình tác chiến cũng có chút tán loạn, ban đầu vốn giữ khoảng cách hơn một trăm bước giữa các nhóm, thì lúc này khoảng cách càng lúc càng bị thu hẹp lại, nhanh chóng tụ thành một khối.
A Mạch một mực yên lặng, trầm mặc quan sát, lúc này mới quay người đi đến ngồi xổm trước mặt Lâm Mẫn Thận, bình tĩnh nhìn anh ta, trầm giọng nói: “Kỵ binh thát tử không dưới ba vạn, chúng ta đánh hay không đánh?”
Miệng Lâm Mẫn Thận bị bịt kín không nói được, chỉ có thể trợn to mắt mà nhìn A Mạch.
A Mạch trông có vẻ như là tới hỏi ý kiến của Lâm Mẫn Thận nhưng lại không gỡ bỏ mảnh vải bố trong miệng anh ta ra, chỉ bình tĩnh đối diện với Lâm Mẫn Thận, ngón tay theo bản năng khẽ gõ vào đầu gối. Sau một lát, A Mạch nhẹ nhàng nở nụ cười, đứng dậy, hướng về phía Trương Sỹ Cường phất tay nói: “Cung tên!”
Trương Sỹ Cường đưa trường cung cho A Mạch, rồi lại lấy một mũi tên đặt vào tay nàng. A Mạch hít sâu một hơi, cài mũi tên vào dây cung, mím môi, dùng hết toàn lực kéo căng dây cung. Đồng tử của Lâm Mẫn Thận mở trừng trừng, chưa kịp phản ứng, mũi tên trong tay A Mạch đã bay vút đi, mang theo tiếng thét dài vang vọng đến thấu trời.
Nhất thời, tiếng thét vang lên chấn động trong khe sâu, tiếp đó, tiếng kêu hưởng ứng khắp nơi cùng đồng loạt vang lên, ngay sau đó, hai đầu lối ra vào của khe núi rầm rầm chuyển động, vô số tảng đá lớn từ hai bên sườn lăn xuống khe sâu, chỉ trong chốc lát đã bịt kín hai lối ra lại. Một trận mưa tên từ trên trời giáng xuống, kỵ binh Bắc Mạc nhất thời đại loạn, muốn lao ra khỏi khe, nhưng xung quanh đều là người ngựa của quân mình, nửa tấc cũng không thể dịch chuyển, may mà thiết kỵ Bắc Mạc vốn có kỷ luật sắt, sau lúc chấn động ban đầu, chỉ một lát sau liền trấn định lại, một mặt bố trí nhân lực nhanh chóng làm giải tỏa sự bế tắc nơi lối ra, một mặt cho kỵ sĩ trên lưng ngựa dùng cung tên phản kích.
Đội quân của A Mạch nấp sau đám cây cối rậm rạp, lại chiếm lợi thế ở trên cao, những mũi tên này sao có thể đả thương được bọn họ. Mà dưới khe núi, tình thế của kỵ binh Bắc Mạc lại hoàn toàn đối lập, bởi kỵ binh vốn không giống với bộ binh là lúc nào cũng mang theo thuẫn giáp làm lá chắn, nên đối với trận mưa tên từ trên trời giáng xuống này cũng chỉ có thể trơ mắt mà hứng chịu.
Khổ sở chịu đựng được một hồi, trận mưa tên không những không chấm dứt, mà trái lại, lại biến thành trận mưa hỏa tiễn lao xuống vun vút. Kỵ binh Bắc Mạc mặc dù được rèn luyện bằng kỷ luật sắt, nhưng những con ngựa họ cưỡi dù có được huấn luyện đến mấy thì vẫn là giống súc sinh, sợ nhất là lửa, mà xung quanh khe núi lửa lại bốc lên khắp nơi, khiến những con ngựa không còn nghe theo sự khống chế, điều khiển của người cưỡi nữa, chúng nhảy dựng lên, chạy hỗn loạn về bốn phía. Trong phút chốc, khắp trận địa của kỵ binh đều là cảnh người ngã ngựa đổ, người ngựa giẫm đạp lên nhau, chết vô số, thậm chí còn chết nhiều hơn cả những người bị tên bắn trúng…
Một trận chiến như vậy liên tục cho đến tận đêm, cửa ra khỏi khe tuy rằng đã được quân Bắc Mạc từ bên ngoài mở ra, nhưng ba vạn kỵ binh Bắc Mạc trong khe sâu, mười phần thì đã chết hoặc bị thương mất tám, chín phần. Người Bắc Mạt không dám ham chiến, cuống quít dẫn số kỵ binh may mắn còn sống sót chạy ra khỏi khe núi, suốt đêm chạy chối chết về hướng tây.
“Thật đáng tiếc !” A Mạch dùng mũi chân đá đá lên một con chiến mã vẫn còn hơi run rẩy, nhịn không được thở dài, nếu như sườn phía tây cũng có phục binh, hoặc là trong tay nàng có kỵ binh để truy kích, như vậy nhất định sẽ bắt được toàn bộ thát tử.
Lý Thiếu Hướng ở phía sau chỉ nghĩ rằng nỗi tiếc hận của A Mạch là với những chiến mã, không khỏi liên tục gật đầu, vô cùng đau lòng nói: “Nhiều chiến mã thượng phẩm như vậy, có tìm khắp trong quân Giang Bắc cũng chẳng có a!”
Mọi người nghe được không nói gì, yên lặng nhìn nhau, tất cả đều trầm mặc, chỉ cung kính đứng sau A Mạch.
Lâm Mẫn Thận đã được Trương Sỹ Cường cởi trói, cũng không phủi bụi đất bám trên người, mà trước hết cất giọng gọi A Mạch, trong thanh âm đầy sự kích động, hỏi A Mạch: “Ngươi làm sao biết phía sau đội quân vận chuyển đồ quân nhu là kỵ binh chủ lực của thát tử?”
A Mạch thản nhiên liếc mắt nhìn anh ta mà không trả lời, chỉ tùy ý nhìn ra xung quanh.
Lâm Mẫn Thận cũng không bỏ qua, theo sát phía sau A Mạch tiếp tục truy vấn: “Mạch tướng quân, ngươi không phải đã sớm biết thát tử an bài đội hình hành quân như thế rồi đấy chứ?”
A Mạch như trước vẫn không để ý tới anh ta.
Lâm Mẫn Thận lo nghĩ, trong giây lát chợt thất thanh kêu lên “Ai nha” một tiếng, thất kinh hỏi: “Chẳng lẽ từ trước lúc phục kích, ngươi đã biết rằng kỵ binh thát tử hôm nay sẽ đi ngang qua đây hay sao?”
A Mạch cuối cùng không nhịn nổi nữa, quay đầu lại buồn cười nhìn Lâm Mẫn Thận, nói: “Lâm tham quân, Mạch mỗ chỉ là một người trần mắt thịt, không phải thần tiên.”
Nghe A Mạch trả lời như thế, Lâm Mẫn Thận hiểu rằng A Mạch cũng không biết trước, nhưng trong lòng vẫn nghi nghi hoặc hoặc, may mà tiếp theo A Mạch lại lên tiếng giải thích: “Thát tử từ phía đông đến, soái kỳ lại thêu một chữ “Thường”, tất nhiên là đội quân do Thường gia lĩnh quân đông tiến. Nếu như nói vì chúng ta cứu viện Thái Hưng nên dẫn dụ bọn họ tới đây xem như cũng không phải là không có lý, chỉ có điều Thường gia ở cách xa đây hơn ngàn dặm, từ khi nhận được tin tức đến lúc lĩnh quân quay về phía tây, thì đã mất rất nhiều ngày rồi, đâu thể chỉ vài ngày sau mà đã đến đây được, trừ phi,” A Mạch ngừng lại một chút, bước qua thi thể một kỵ binh Bắc Mạc dưới chân, lại chậm rãi nói tiếp: “trừ phi thát tử sớm đã có sự chuẩn bị từ trước, lúc chúng ta rời khỏi núi Ô Lan cũng chính là lúc đội quân này đồng thời hành quân về phía Tây. Cho nên, Lâm tham quân, chúng ta có thể phục kích bọn họ ở đây chỉ là đúng dịp mà thôi.”
Lâm Mẫn Thận vẫn nhìn chằm chằm A Mạch không rời mắt, hỏi: “Nói như vậy ngươi cũng không biết thát tử hôm nay thì sẽ đi ngang qua đây?”
A Mạch cười cười, đáp: “Ta vốn nghĩ sẽ đợi ở đây ba ngày, hết ba ngày sẽ đưa quân quay trở về Thái Hưng. Ai ngờ đến hôm nay lại may mắn đụng đầu với thát tử.”
Lâm Mẫn Thận lại hỏi: “Vậy ngươi làm sao biết kỵ binh thát tử sẽ đi sau lương thảo?”
A Mạch cảm thấy anh ta hỏi rất buồn cười liền cười, nói: “Tham quân, chẳng lẽ ngươi từ ngàn dặm xa xôi lại chỉ phái mấy ngàn viện binh quay trở về để cứu viện thôi sao?”
Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, trong lòng nhất thời minh bạch, đúng là thát tử sớm đã có đề phòng, đâu thể có chuyện chỉ cho mấy ngàn binh lính không quản cực khổ từ xa quay về cứu Chu Chí Nhẫn, trong thâm tâm Lâm Mẫn Thận đã hoàn toàn tin phục vào phân tích của A Mạch, nhưng ngoài miệng lại vẫn không chịu nhận như vậy, chỉ hỏi: “Nếu như tất cả chỉ có mấy ngàn viện quân thì sao? Chẳng lẽ ngươi sẽ để cho bọn họ đi qua?”
A Mạch tựa tiếu phi tiếu nhìn anh ta, nói: “Nếu chỉ có ngần ấy nhân mã, sao lại phải tha cho chúng đi? Bọn họ sau khi vượt qua khe núi hiểm trở này, tất nhiên phòng bị sẽ lơi lỏng, đến lúc đó ta ở phía sau thừa dịp đêm xuống sẽ tập kích doanh trại, tiêu diệt bọn họ có gì là khó?” A Mạch thấy Lâm Mẫn Thận vẫn há miệng, không đợi anh ta hỏi, lại nói tiếp: “Tham quân đừng hỏi ta làm sao biết được phía sau lương thảo sau mới là kỵ binh chủ lực của thát tử, tất nhiên là nhìn số lượng lương thảo mà suy đoán ra, chẳng lẽ chỉ với ngần ấy binh mã mà lại cần đến nhiều lương thảo như vậy sao, huống chi đã đi được hơn nửa lộ trình rồi, mắt thấy sắp đến thành Thái Hưng, vì lý do gì mà vẫn còn nhiều lương thảo như thế?”
A Mạch nói xong nhẹ nhàng quay gót, xoay người nhìn binh lính thu dọn chiến trường. Lâm Mẫn Thận sớm đã kinh ngạc đến ngây người, thất thần sững sờ đứng ở nơi đó.
Kỳ thật trong lòng A Mạch còn có một nguyên nhân khác không thể nói ra, đó là khi nàng còn ở thành Hán Bảo đã từng chứng kiến cách bày binh bố trận của kỵ binh Bắc Mạc, đưa mắt nhìn lại chỉ thấy một đoàn quân vô cùng trật tự, đó là một ấn tượng không thể xóa mờ trong trí nhớ của nàng, cho nên đâu thể nào bây giờ lại biến thành một đội kỵ binh tiên phong rời rạc như thế này! Trừ phi là kế sách của địch mà thôi!
Tạm không đề cập tới việc dọn dẹp chiến trường của A Mạch, chỉ nói về tàn quân Bắc Mặc suốt đêm chạy trốn theo hướng tây, đó quả thật chính là đội quân do Thường gia lĩnh quân đông tiến từ Thanh Châu, trước tiên được Bắc Mạc nguyên soái Trần Khởi ra lệnh bí mật đi theo hướng Tây, cầm quân chính là người con thứ mười một của Thường gia, Thường Ngọc Tông, đường đệ của “Sát tướng” Thường Ngọc Thanh.
Một đường từ Thanh Châu đi về hướng tây, Thường Ngọc Tông vốn vẫn rất cẩn thận, thời gian chuẩn xác, chủ lực kỵ binh cũng không nóng vội, luôn cách xa một đoạn sau đội quân vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu, trên đường đi vốn vô cùng thuận lợi, để che mắt người khác hơn nữa viện quân cũng chưa từng bị tập kích, hết thảy khiến cho sự đề phòng của Thường Ngọc Tông khó tránh khỏi có phần lơi lỏng. Mắt thấy sắp tới thành Thái Hưng liền không khỏi đẩy nhanh tốc độ hành quân, bất tri bất giác[1] khiến cho kỵ binh chủ lực thu hẹp khoảng cách với phía trước. Lần này lại thấy đội quân vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu đều đã vượt qua khe sâu, nên nghĩ là trong khe núi an toàn rồi nên mới cho kỵ binh chủ lực phía sau theo vào, ai ngờ ở trong khe sâu phút chốc đã có sự biến đổi lớn! Ba vạn kỵ binh giờ chỉ còn chưa đầy bốn ngàn đi ra, chính anh ta cũng là do đội cận vệ liều chết cứu hộ mới có thể thoát ra khỏi khe núi, tánh mạng suýt nữa thì đã để tại trong khe, một trận này, Thường gia thất bại vô cùng thê thảm.
[1]. Bất tri bất giác: Có hai nghĩa:
- Thuận theo lẽ tự nhiên mà không cần dùng đến ý chí.
- Không có tư tưởng kế hoạch sẵn mà thình lình bị động trong một thời gian.
Thường Ngọc Tông một mặt thu thập tàn quân tiếp tục chạy về phía tây, một mặt sai người đem tình hình trận chiến cấp báo về Dự Châu.
A Mạch đợi chiến trường thu dọn xong đã là quá giờ ngọ ngày hôm sau, ba vạn kỵ binh Bắc Mạc hao tổn suýt soát chín phần, xác kỵ sĩ cùng chiến mã cơ hồ phủ kín toàn bộ khe sâu, mà thương vong bên phía A Mạch lại chưa đến một ngàn người, trong đó có không ít là do bị ngã xuống khe núi mà bị thương. Tỷ lệ thương vong giữa địch và ta cách xa nhau thể hiện một cục diện trái ngược với địa vị thông thường trên chiến trường giữa kỵ binh và bộ binh, hiện giờ, chính là bộ binh dồn kỵ binh vào chỗ chết. Khe núi này vốn chẳng có tiếng tăm gì, giờ theo trận đánh đó cũng thành nổi danh, người đời gọi là Bạch Cốt Hạp[2].
[2]. Bạch Cốt Hạp: Bạch cốt: xương trắng; hạp: cái hộp. Hiểu nôm na thì tên Bạch Cốt Hạp này có nghĩa là khe xương trắng.
Chư tướng thủ hạ của A Mạch nhờ chiến tích này mà chí lớn dâng lên mãnh liệt, lập tức đều chờ lệnh truy sát tàn quân thát tử đang trốn chạy về phía tây, lại bị một câu “Giặc cùng chớ đuổi” của A Mạch nhẹ nhàng thổi bay. Trải qua trận đánh vừa rồi, trong quân bất luận giai phẩm cao hay thấp đều đối với A Mạch tin phục vô cùng, nếu nàng đã nói không truy sát, thì tất nhiên là có đạo lý của việc không truy sát, chẳng qua tướng quân nhà mình vốn kiệm lời, cho nên không nói hết ra với mọi người mà thôi. Vương Thất lại nói trắng ra, là trong lòng đại nhân chúng ta có chín chín tám mươi mốt cái chuông nhỏ, những kẻ thô lỗ đâu thể rung được?
A Mạch chỉnh đốn quân đội xong, cũng theo hướng tây mà đi phía sau quân Bắc Mạc, nhưng không hề đuổi giết, chỉ cách phía sau một quãng xa. Lâm Mẫn Thận thấy vậy, trong thâm tâm lại khó tránh khỏi nảy sinh nghi hoặc, hỏi A Mạch: “Nếu thát tử sớm đã có mưu tính, vậy thì đại tướng quân dẫn quân cứu viện Thái Hưng chẳng phải là trúng gian kế của chúng sao? Như vậy thì chúng ta càng nên gấp rút trở về Thái Hưng ứng cứu, đồng thời đem gian kế của thát tử báo cho đại tướng quân biết, thế mà ngươi lại không vội không gấp như thế?”
A Mạch lại hỏi lại: “Ngươi có biết Trần Khởi giăng bẫy như thế nào không?”
Lâm Mẫn Thận khẽ giật mình, lo nghĩ hồi lâu rồi vẫn là lắc đầu, nói rất thực rằng: “Không biết.”
A Mạch cười nhạo nói: “Ngươi cũng không biết anh ta giăng bẫy như thế nào, vậy thì vì sao còn nóng lòng nhảy vào bẫy của anh ta?”
Lâm Mẫn Thận bị vặn lại như thế thì không có cách gì để chống đỡ, lại nghe A Mạch nói: “Ngươi và ta may mắn ở ngoài cái bẫy ấy, vậy thì cứ ở ngoài quan sát xem thế nào rồi hãy nói sau!”
Trong lúc A Mạch đang nói thì cục diện cuộc chiến đã âm thầm biến hóa.
Ngày hai mươi ba tháng ba, quân Giang Bắc cùng đại quân vây thành của Chu Chí Nhẫn tiếp chiến ở phía bắc thành Thái Hưng. Cùng lúc, mạn phía nam sông Uyển, thuỷ quân Phụ Bình xuất chiến tấn công vào doanh trại thủy quân của Chu Chí Nhẫn.
Ngày hai mươi tư tháng ba, Chu Chí Nhẫn thất bại lui về ngoài thành Thái Hưng hơn ba mươi dặm.
Ngày hai mươi lăm tháng ba, quân Giang Bắc cùng thuỷ quân Phụ Bình cùng đồng loạt tấn công, bao vậy Chu Chí Nhẫn ở ngoài thành, quân sĩ trong thành Thái Hưng bị nhốt hai năm, giờ sĩ khí nhất thời tăng vọt, mở cửa thành tấn công đại quân Chu Chí Nhẫn từ phía sau, Chu Chí Nhẫn nhất thời lâm vào cảnh hai mặt thụ địch, xem tình hình này cùng lắm chỉ cầm cự được một ngày là tan tác.
Thắng lợi, giống như đã chạm vào bàn tay của quân Giang Bắc.
Nhưng thế sự khó lường, mắt thấy dường như quân Giang Bắc sẽ phá tan đại quân của Chu Chí Nhẫn rồi sẽ hội quân cùng quân sĩ giữ thành Thái Hưng, song phía sau trận đột nhiên bất ngờ đại loạn, một đội kỵ binh tinh nhuệ của Bắc Mạc bỗng từ phía sau xâm nhập, sắc bén thọc sâu vào trận địa của quân Giang Bắc, đi đến đâu, máu chảy đầu rơi đến đó. Cục diện chiến trường nhất thời nghịch chuyển, đội hình của quân Giang Bắc bị phân tán, Vệ Hưng chưa kịp chỉnh đốn lại trận địa thì đã nhận được tin báo động trời, đó là phía bên ngoài trận địa của quân Giang Bắc không biết đại quân thát tử mọc từ đâu ra, đã tạo thành gọng kìm, siết chặt quân Giang Bắc!
Quân coi giữ thành Thái Hưng vừa thấy tình thế không ổn, vội vàng thu binh, nhanh chóng đóng cửa thành lại, không chỉ là nhốt thát tử bên ngoài thành, mà cả đội quân coi giữ thành Thái Hưng đang cùng ngũ doanh quân Giang Bắc xâm nhập vào trận địa Bắc Mạc cũng bị nhốt ở ngoài thành. Một ngàn bảy trăm người của ngũ doanh quân Giang Bắc toàn bộ đều chết trận ở dưới tường thành Thái Hưng, người chỉ huy ngũ doanh là Trương phó tướng dựa lưng vào cổng thành chiến đấu tới kiệt sức mà chết, đến chết cũng chỉ có thể kêu mở cổng thành Thái Hưng!
Chỉ qua có nửa ngày, thắng bại đã hoàn toàn xoay chuyển. Bại quân Chu Chí Nhẫn bỗng bất ngờ phản kích, quay lại tấn công đại quân Giang Bắc như vũ bão, quân Giang Bắc lâm vào cảnh hai mặt thụ địch, dường như toàn quân sẽ bị tiêu diệt, may thay đúng lúc đó, tả phó tướng quân Giang Bắc Đường Thiệu Nghĩa mang kỵ binh doanh từ phía bắc chạy về đúng lúc, liều chết đột phá vòng vây của quân Bắc Mạc mới cứu được đám người Vệ Hưng.
Thì ra Đường Thiệu Nghĩa phụng mệnh đi chặn kỵ binh Bắc Mạc của Dự Châu, sau mấy ngày, Đường Thiệu Nghĩa thấy kỵ binh Bắc Mạc mặc dù từ Dự Châu ra, nhưng không vội hành quân về phía Nam, lập tức trong lòng Đường Thiệu Nghĩa sinh nghi, suy nghĩ nửa ngày liền quyết đoán mang binh quay về phía Nam, quả nhiên thấy ngoài thành Thái Hưng, quân Bắc Mạc đang trong ngoài giáp công quân Giang Bắc.
Đợi Đường Thiệu Nghĩa dẫn kỵ binh che chắn cho Vệ Hưng ra khỏi vòng vây của quân Bắc Mạc, khi chỉnh đốn lại thì tàn quân cùng lắm cũng chỉ còn lại hơn hai vạn người, Thái Hưng đã không thể tiếp tục ở lại!
Hướng tây, con đường trở về núi Ô Lan đã bị đại quân Bắc Mạc phá hủy; Hướng nam, thủy quân Phụ Bình cũng đã đại bại, dòng sông Uyển rộng mênh mông ngăn cách trước mặt; Hướng bắc, là hơn mười vạn thiết kỵ của thành Dự Châu…
Xem ra, chỉ có phía Đông là hướng duy nhất tạm thời không có đại quân của thát tử.