Buổi sớm mai, lối 8 giờ rưỡi, trời nắng chang chang dọi xuống đường tráng nhựa làm bốc hơi nóng nực khó chịu hết sức.
Như Thạch đạp xe máy trên khúc đường từ nhà gare xe điện Bà Chiểu vô nhà việc Bình Hòa xã. Chân đạp nhẹ nhẹ tay mặt nắm xe mà kềm, tay trái cầm một gói ngoài bao giấy trắng. Tuy xe chạy chậm chậm, nhưng vì bị trời nắng nên chàng đổ mồ hôi chảy từ trên mái tóc xuống tới hai bên gò má. Về gần tới nhà việc Bình Hòa chàng nghe phía sau lưng có tiếng kèn xe hơi, nên lật đật ép xe qua phía tay mặt mà tránh.
Xe hơi chạy ngang qua, thì chàng nghe có tiếng kêu tên chàng rồi lại thấy xe thắng lại và ngừng phía trước, cách ít chục thước mà đợi chàng.
Như Thạch đạp xe tới, thấy vợ chồng ông Huyện Khoan ngồi trên xe hơi, thì ngừng xe nhảy xuống mà chào.
Ông Huyện đưa tay ra cửa xe, nắm tay Như Thạch và cười và hỏi:
- Mạnh giỏi hả? Toa đi đâu đây?
- Moa đi về nhà moa.
- Nhà toa ở đâu?
- Ở phía sau rạp hát thầy Cai đây.
- Á. Mấy tháng nay nghe toa về ở trong Bà Chiểu mà có dè toa ờ chỗ nầy đâu Toa mướn nhà mà ở hay là ở phố?
- Ở phố.
- Đằng sau rạp hát có phố hay sao?
- Có phố vách ván nho nhỏ.
- À! Mà bữa nay chúa nhật toa đi đâu đây?
- Ra ngoài Dakao mua thuốc về cho mafemme uống.
Bà huyện nghe như vậy mới hỏi.
- Bà Đốc đau hay sao?
- Thưa phải. Hơn một tháng nay nhà tôi đau rề rề hoài, không ra thăm bà được, xin bà tha lỗi.
- Bà Đốc đau bịnh gì?
- Gần ngày sanh rồi, nên trong mình mệt nhọc ăn ngủ không được. Chiều hôm qua nó đi cho coi mạch thì Đốc-tơ nói trái tim nó yếu lắm, nên phải mệt hoài.
- Khổ chưa! Anh phải ráng lo thuốc men chớ gần ngày sanh mà bịnh như vậy không tốt.
- Tôi lo lắm chớ.
Ông huyện tiếp:
- Mà toa coi bộ cũng không được mạnh, lúc nầy toa ốm hơn hồi trước nhiều.
- Moa mạnh, chớ có đau gì đâu.
- Toa dạy trường Vân Thế mà toa làm việc nhiều hay ít?
- Moa xin dạy nửa chừng, mấy lớp đều có sẵn thầy rồi hết. Ông hiệu trưởng vị tình cho moa dạy phụ mỗi tuần lễ có 6 giờ nên có công việc gì nhiều lắm đâu.
- Trời ơi! Toa dạy một tuần có 6 giờ, rồi làm sao có đủ lương cho toa xài.
- Mỗi tháng chừng bốn năm chục. Có nhiều thì xài nhiều, có ít thì xài ít, không hại gì. Có lẽ chừng khai trường năm tới, ông hiệu trưởng sắp đặt giáo sư lại rồi moa mới dạy nhiều giờ được.
- Moa coi đó không phải là cách sanh hoạt rồi.
- Không, đó cũng là một cách sanh hoạt chớ.
- Theo ý moa, thì toa cũng đứng lập ra một nhà trường của toa, rồi toa làm Cai trường coi mới được.
- Tiền!
- A! Đó là một vấn đề, toa thấy chưa?
- Moa thấy lắm chớ.
- Nếu toa thấy thì toa phải công nhận lời moa khuyên toa hồi trước không phải là lời nói bậy.
- Phải lời toa khuyên đúng lắm chớ, song đúng với người thường, mà không hạp với óc của moa.
Ông Huyện rún vai rồi ngó vợ mà cười.
Bà Huyện nói:
- Bữa nay vợ chồng tôi mắc đi Gò Vấp có chuyện gấp, để bữa nào rảnh tôi sẽ vô thăm hai ông bà. Anh về nói giùm tôi có lời chúc bà Đốc mạnh nghe.
- Cám ơn.
Xe hơi chạy đi, Như Thạch leo lên xe máy đạp mà về nhà.
Mấy tháng nay Như Thạch dạy học tại trường “Vân Thế” vì lương ít nên phải mướn mà căn phố nhỏ, mỗi tháng có 5 đồng mà ở sau rạp hát thầy Cai gần ngả ba đường vô đồng ông Cộ. Nhờ miền ấy cao ráo lại có cây nhiều, nên chỗ ở sạch sẽ mát mẻ, nhưng mà phố chật hẹp quá, lại bữa nào đi dạy, phải đạp xe máy ra tới Tân Định, đường đi xa nên ở trong nhà thì tù túng, còn đi làm việc thì mệt nhọc.
Như Thạch về tới cửa, thì nhảy xuống xe gọn gàng, rồi dắt xe đem vô nhà mà dựng dựa vách.
Cô Nhung đương nằm tại bộ ván dầu nhỏ lót phía sau cái bàn viết, cô thấy chồng về thì cô lồm cồm ngồi dậy, ngó chồng với cặp mắt trõm lơ, song cũng cười mà nói: anh đi nắng mệt nên đổ mồ hôi quá Thằng bé đi chợ chưa về, vậy anh cởi áo đi để em múc nước đặng anh rửa mặt cho mát”.
Như Thạch xua tay mà đáp: “Em khỏi nhọc lòng. Em cứ nằm nghỉ, để rồi anh đi ra sau anh rửa.
Chàng để nón trắng trên bàn viết rồi cầm gói thuốc đưa cho vợ mà nói tiếp:
- Bữa nay em khoẻ hơn hôm qua hay là cũng vậy.
- Em khoẻ ạ.
- Anh coi sắc mặt em cũng mệt quá, chớ có khoẻ dâu. Em mở thuốc mà uống liền đi.
Cô Nhung mở gói thuốc, còn Như Thạch đi vô buồng cởi áo rồi đi thẳng ra sau bếp mà rửa mặt. Chừng chàng trở ra, cô Nhung hỏi:
- Anh mua hết bao nhiêu tiền?
- Ve thuốc tới 3 đồng rưỡi, còn cái hộp đó có một đồng tám.
- Tốn hao nhiều quá! Hôm qua Đốc-tơ coi mạch hết 3 đồng, bữa nay mua thuốc hết 5 đồng mấy nữa.
- Đau thì phải tốn tiền thuốc chớ sao em. Em đừng có lo như vậy, phải để trí bình tĩnh cho khoẻ, chớ em lo thì em mệt, rồi bịnh càng thêm nữa.
- Nhà mình không tiền, em không lo sao được.
- Em để mặc anh lo, em cứ nằm nghỉ cho khỏe đừng lo gì hết, Đốc-tơ đã nói em đau trái tim. Vậy em không nên lo.
- Em trông đẻ cho mau đặng em mướn vú nuôi em nhỏ rồi em đi kiếm công việc làm mà giúp với anh.
- Đẻ rồi em phải ở nhà nuôi con, chớ đi làm giống gì.
Như Thạch rót một ly nước trà bưng lại đưa cho vợ và nói: “Em mở cái hộp lấy một viên thuốc mà uống trước đi. Chừng gần ăn cơm rồi em sẽ uống ve thuốc kia”.
Cô Nhung vâng lời chồng, lấy một viên thuốc mà uống. Như Thạch biểu vợ nằm xuống mà nghỉ, rồi chàng ngồi một bên và nói rằng:
- Anh mới gặp hai vợ chồng anh huyện Khoan hồi nãy đây.
- Anh gặp ở đâu?
- Gặp trước nhà việc Bình Hòa.
- Thế không đi kiếm thăm mình ạ?
- Không. Đi đâu trong Gò Vấp. Gặp hỏi lơ là rồi đi luôn.
- May a! Nếu ghé thăm mình càng khổ.
- Khổ cái gì?
- Nhà mình lôi thôi, nếu Vợ chồng quan Huyện ghé thì em hổ quá.
- Sao mà hổ? Em còn theo thường tình quá! Mình nghèo thì tự nhiên nhà mình lôi thôi. Mà mình không nhơ bẩn, lương tâm mình vẫn thư thái, thì mình dám ngó ngay mọi người, không sợ ai hết, có hổ chi đâu hở em. Họ ở nhà tốt mà chắc gì cái óc họ hơn mình được.
- Vâng.
- Nếu anh chịu làm như họ, thì anh cao sang hơn họ nhiều lắm. Tại anh không thèm làm chớ.
Như Thạch ngó ra lộ thì thấy anh Tự Cường là một vị giáo sư dạy chung một trường với mình, dạy về khoa sử-ký với địa-dư, đương đi thẩn thơ, tay có ôm hai cuốn sách, đi mà cứ dòm vô dãy phố, chàng bèn bước ra cửa mà kêu hỏi: “Chào anh, anh đi vô trong nầy có việc chi?”
Tự Cường niên kỷ có lẽ hơn Như Thạch cũng vài tuổi mà thôi, chớ không lớn hơn nhiều, nhưng mà vóc cao, người mập, trán rộng, da đen cặp mắt có vẻ nghiêm nghị và kiêu ngạo, y phục lôi thôi nên không có mòi chưng diện. Chàng vừa thấy Như Thạch thì nhích miệng cười, giở nón chào rồi thủng thẳng và đi vô cửa nói:
- May có anh ở nhà đây. Tôi đi kiếm anh mà thăm anh và đàm luận chơi.
- À, nếu vậy thì mời anh vô nhà. Tôi rất cám ơn anh có tình chiếu cố. Sao anh biết nhà tôi ở đây?
- Bữa hổm nói chuyện anh có chỉ chừng, nên tôi mới biết mà vô đây chớ.
Tự Cường bước vô nhà. Cô Nhung ráng đứng dậy chấp tay cúi đầu chào.
Như Thạch chỉ vợ mà nói với bạn: “Vợ của tôi”. Tự Cường cúi đầu đáp lễ và nói: “Tôi lấy làm vinh hạnh mà được biết bà và cúi xin bà tín nhiệm cái ý thành kính của tôi”.
Như Thạch day lại nói với vợ: “Đây là anh Tự Cường, bạn đồng nghiệp của tôi đi Pháp học lấy được bằng cử nhân về khoa văn chương hiện đang dạy một trường với tôi”.
Cô Nhung cúi đầu thi lễ và nói: “Chồng em được làm bạn với ông thì em vinh hạnh lắm. Em kính chúc cho ông mỗi ngày một thêm cao sang thêm hạnh phúc. Em xin mời ông ngồi. Vợ chồng em không có nhà tử tế mà tiếp rước ông, thật em ái ngại quá.
Thiệt trong nhà chẳng có vật chi xứng đáng, phía trước ngay cửa thì có một cái bàn viết bằng cây dầu với một cặp ghế bằng mây, dựa vách buồng thì lót một bộ ván dầu nhỏ giá chừng năm đồng bạc, còn trong buồng thì chỉ có một cái giường cây để ngủ.
Như Thạch kéo một ghế để trước bàn viết mời Tự Cường ngồi, chàng cũng ngồi cái ghế để phía trong, rồi cười và nói:
- Thật là nhà cửa lôi thôi lắm, xin anh chớ chấp.
- Tại sao mà tôi chấp? Trước khi vô đây tôi vẫn biết anh không phải là ở nhà lầu, bởi vì nếu anh ở nhà lầu, thì bao giờ anh thèm đi dạy học lãnh lương mỗi tháng có ít chục đồng bạc. Anh có được căn phố mà ở mát mẻ như vầy thì anh sung sướng hơn tôi nhiều quá, tôi không có nhà cửa, phố xá chi hết mới nói làm sao.
- Vậy chớ anh ở đâu.
- Tôi mướn một căn phòng khách sạn tôi ở, mỗi ngày tôi đi ăn cơm quán.
Cô Nhung nghe như vậy thì hỏi:
- Thế thì ông chưa có vợ à?
- Thưa chưa, mà chắc chẳng bao giờ có.
- Em không hiểu sao ông lại nói thế. Thủy chung gì rồi ông cũng phải có gia thất với người ta chớ.
- Thưa không, tôi sẽ độc thân cô lập trọn đời.
- Thế à! Chắc là ông chê phụ nữ đời nay chẳng có ai đáng làm bạn trăm năm với ông.
- Thưa không phải vậy. Phụ nữ đời nào cũng vậy, có kẻ xấu mà cũng có người tốt, tôi đâu dám chê. Tôi tự quyết không lấy vợ là vì tôi thấy nhân tình giả dối, dua nịnh, tham lam thái quá, những việc đáng khinh bỉ thiên hạ lại tranh đua mà làm, những việc đáng tôn trọng thiên hạ lại ngó lơ bỏ dẹp. Nếu tôi lập gia thất thì tôi phải đem thân mà lăn lộn trong cái vòng nhơn tình tanh hôi ấy. Tôi phải buộc mình làm những việc tôi không muốn làm, tôi phải ép trí mà vui với những việc tôi chê tôi ghét, thành ra đời của tôi là đời lại cái(#1), người của tôi là người hai lòng, không có chủ hướng, không có nhân phẩm gì hết, vì vậy đó nên tôi nhứt định không lập gia thất, để một mình đặng hưởng tự do hoàn toàn, muốn thì làm, trái thì cãi, không sợ ai, không vị ai, không dính dấp một chút chi với xã hội hết!
- Té ra ông là người chán đời.
- Không phải tôi chán đời. Tôi muốn giải thoát cái thói thấp hèn của đời chớ.
- Vưng em hiểu rồi, ý muốn thoát tục. Em mong cho ông đạt được cái mục đích cao thượng ấy.
- Tôi rất cám ơn bà.
Thằng Sung là đứa tớ, đi chợ về, tay xách một cái giỏ vô cửa, rồi đi thẳng xuống nhà bếp. Cô Nhung đi theo coi bộ mệt nhọc ột ệt lắm.
Tự Cường ngó theo cô và nói:
- Tôi coi bộ madame mệt nhọc lắm. Anh phải lo thuốc men, chớ có thai nghén mà mệt nhọc như vậy chắc là không tốt.
- Hơn một tháng nay nhà tôi ăn ngủ không được cứ mệt hoài.
- Sao anh không rước Đốc-tơ coi mạch cho madame rồi mua thuốc cho madame uống?
- Chiều hôm qua tôi có đem đi Đốc-tơ. Ổng coi mạch rồi nói nhà tôi đau trái tim.
- Cha chả! Nếu vậy thì anh phải đem vô nhà thương nằm nghỉ, hoặc đem ra mé biển cho hứng gió mới được:
- Tôi cũng muốn như vậy, ngặt vì nhà tôi nó không chịu, nó nói đi nhà thương hay đi hứng gió đều tốn hao lung quá.
- Phải tốn chớ sao.
- Anh cũng biết tôi dạy mỗi tuần có sáu giờ nên số lương ít quá. Tốn hao nhiều tôi chịu sao nổi.
Tự Cường gật đầu ngồi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi nói rằng.
- Phải, anh lương ít quá xài lớn sao đặng... Tôi chắc lúc nầy anh phải chịu khổ tâm lắm.
- Phải tôi khổ tâm lắm, khổ đủ mọi phương diện.
Tự Cường châu mày, ngó ra ngoài sân rồi thở dài nói rằng: “Tại muốn lập gia thất nên mới có những cái khổ ấy. Nếu độc thân cô lập thì có khổ như vậy đâu”.
Như Thạch trợn mắt đáp rằng:
- Không, tuy khổ, song tôi có ăn năn chút nào đâu. Về gia thất thì chí của tôi vẫn còn hăng hái luôn luôn, mà vợ tôi cũng không buồn, không ngã lòng. Vợ chồng tôi mà thương yêu nhau hoài, thì khổ gì cũng không sợ.
- Tôi khen anh lắm, khen cái đức tính của anh về sự bền dai của gia thất.
- Anh chưa có vợ, nhứt là anh chưa có một người đồng tâm đồng chí, nên anh chưa được nếm mùi ngọt bùi trong gia thất. Có khổ cái mùi ấy càng thêm thơm tho, bởi vậy khổ mà tôi vui, chớ tôi không nao núng chi hết.
- Anh nói hữu lý! Nhưng theo tôi nghĩ vì tôi không muốn chịu khổ, mà cũng không muốn nếm ngọt bùi, tôi chỉ muốn trí thơ thới, thân tự do cho khỏi sa vào nhơn tình thế tục.
- Anh tu hay sao?
- Tu làm chi? Tôi có tu đâu, tôi lập chí chớ.
- Nếu anh lập chí, tôi e một ngày kia anh gặp một người đàn bà đồng chí với anh rồi anh cũng phải bước chân vào vòng gia thất như tôi vậy.
- Có lẽ, nhưng mà đàn bà có chí lập gia thất thì nhiều, còn đàn bà có chí tuyệt gia thất thì ít. Tôi tưởng trọn đời tôi cũng chưa gặp ai đồng chí với tôi.
- Biết chừng đâu. Nếu anh có chí đó, thì người khác cũng có vậy chớ. Đàn bà đời nay họ có học thức, họ không triết lý cũng như mình, chứ không phải lù mù như hồi xưa vậy đâu.
- Để rồi coi. Chưa thí nghiệm thì chẳng nên nói quả quyết. Lấy việc của anh mà suy thì đủ thấy gặp người đồng chí không phải dễ. Anh phải ra Bắc mới gặp được.
- Anh nói lầm. Đồng tâm đồng chí không phải dễ kiếm, bởi vậy gặp rồi làm sao mà bỏ được. Tiếc cho cái đời nầy còn có nhiều người không thấu hiểu việc ấy.
- Người ta không đồng chí với anh thì thế nào người ta hiểu được.
Như Thạch gật đầu, ngồi suy nghĩ.
Tự Cường đứng dậy thọc tay vào túi quần, đi tới đi lui, đi một hồi rồi cười và nói: “Quen với nhau đã mấy tháng rồi, vô trường thường hay bàn luận với nhau. Tôi biết ý anh cũng như ý tôi, ghét nhơn tình, khinh thế tục. Nhưng mà tôi không dè chúng ta có chỗ nghịch nhau, là anh ưa gia thất còn tôi ghét gia thất. Trong khi hai đứa mình, ai phải, ai quấy? Ai cũng giành phải hết, không ai chịu quấy. Thôi, chúng ta phải cung kính cái đức tin, chẳng nên cãi với nhau làm chi. Phải hay là quấy để sau có đủ kinh nghiệm rồi chúng ta sẽ thấy. Bây giờ chúng ta nói chuyện hiện tại nghe chơi. Nghe nói hồi trước anh làm giáo sư, dạy trường nhà nước ngoài Bắc Việt anh được một cái địa vị an ổn quá, tại sao anh bỏ đi, rồi về trong nầy dạy trường tư, lương bổng ít mà phải chịu khổ cực như vậy?”
Như Thạch thở dài đáp:
- Việc nhà của tôi kỳ cục lắm. nói ra nghe thêm buồn.
- Thấy chưa? Tại ban đầu anh đi sái đường nên mới có sự kỳ cục làm anh buồn đó.
- Mỗi người có một ý riêng nên đi riêng một đường, chớ nào phải đi sái. Phận anh thì anh khinh bỉ nhơn tình thế tục, anh quyết thoát ra ngoài vòng mà đứng một mình, anh không muốn chung lộn với người đời. Còn phận tôi thì tôi cũng khinh bỉ nhơn tình thế tục như anh, song tôi lại muốn đem thân chung chạ với người đời, chung chạ mà tôi không làm những việc thấp hèn như họ. Trái lại, tôi công kích những việc thấp hèn ấy, tôi nêu một thái độ thanh cao, tôi giữ một cử chỉ chánh trực, làm cho người đời mở mắt mà thấy những thành kiến quấy của gia đình, những phong tục xấu của xã hội, rồi sửa đổi cho đời trở nên vui vẻ cao thượng.
- Khó lắm! Cái mục đích của anh tôi coi khó đạt được.
- Phải làm thử coi, chớ thấy khó rồi do dự không làm, làm sao mà thành được.
- Đời thấp hèn dơ dáy, mình lánh thì hay hơn, mình giữ phận mình cho cao, ai thấp mặc kệ họ, hơi đâu mà lo.
- Nói như anh thì vị kỷ quá.
- Nếu mỗi người đều làm như tôi hết, đời cũng trở nên vui vẻ cao thượng chớ.
- Làm như anh đã không thấy chỗ nào vui, thử hỏi đời vui làm sao được.
- Tại anh không thấy cái vui của tôi. Tôi vui lắm chớ, tôi vui về tinh thần nên người ngoài khó thấy, chớ không phải vui về vật chất như anh mà dễ thấy.
Như Thạch ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi mới đáp:
- Anh nói phải, tôi vui về vật chất, tại vui như vậy nên mới có chỗ buồn.
- À bây giờ anh mới thấy rõ cái chủ nghĩa của anh là một món khí giới hai lưỡi. Nó làm anh vui, mà nó cũng làm anh buồn được.
- Phải. Mà bây giờ tôi không thể bỏ chủ nghĩa hiểm nghèo ấy được. Đã nếm lỡ nước đời rồi thì phải uống cạn ly, chớ không phép thối thoát.
- Thối thoát sao được chớ.
Cô Nhung bưng ra hai tách nước trà mời khách với chồng uống, làm cho câu chuyện đàm luận của hai người phải dứt.
Tự Cường uống nước rồi nói nữa:
- Tôi coi bề của anh khó quá. Phải liệu thế nào, chớ để như vầy không được.
- Tôi nói thiệt với anh, bà già tôi giàu lớn, nhưng vì tôi trái phong tục. Tôi kết hôn tự do, nên bà già tôi giận mà từ tôi. Cái khổ của tôi tự tôi làm ra, chớ nếu tôi quật lụy phong tục thì thân tôi sung sướng lắm.
- A vậy hả? Té ra anh bị hại vì cái phong tục.
- Phải.
Tự Cường không nói chuyện nữa, bước ra cửa đứng ngó mông một hồi rồi từ giã vợ chồng Như Thạch và ôm hai cuốn sách đi về.
Chiều bữa sau Như Thạch đi dạy học về, thấy vợ cũng còn mệt như mấy bữa trước, nhưng mà hỏi thì cô Nhung lại nói khỏe. Chàng thay đồ ra ngồi một bên với vợ mà nói:
- Có một việc kỳ quá, làm cho anh bối rối hết sức.
- Có việc gì xin anh nói cho em biết?
- Hồi chiều nay anh đang dạy học, anh có tiếp được cái thơ của nhà thơ phát, có dán cò hẳn hòi. Anh xé bao thì không có thơ mà lại có cái măn-đa năm chục đồng bạc. Anh coi con dấu đóng ngoài bao thì gởi tại nhà dây thép chính Sài Gòn. Măn-đa cũng mua tại Sài Gòn để tên họ anh rõ ràng song không có biên tên người gởi. Anh không hiểu ai làm việc cắc cớ như vậy. Gởi bạc cho anh làm gì?
- Em tưởng có lẽ má hay cậu Hội đồng gởi cho anh đó chăng.
- Không phải, má với cậu Hội đồng có biết anh ở Sài Gòn đâu mà gởi. Anh nghi anh Tự Cường lắm. Hôm qua ảnh có vô thăm mình. Ảnh thấy em bịnh, mà ảnh lại nghe anh than túng. Ảnh ăn lương tới một trăm rưỡi, mà ảnh không có vợ con. Ảnh xài tiền không hết. Ảnh muốn giúp đỡ mình, song ảnh sợ đưa tiền ra thì mình ái ngại không chịu lấy, nên ảnh làm như vậy chớ gì.
- Thế thì anh đi kiếm hỏi ảnh coi phải bạc của ảnh gởi hay không?
- Hồi nãy tan học, anh có gặp ảnh tại trường. Anh thuật chuyện anh được cái măn-đa kỳ cục cho ảnh coi nữa. Coi bộ ảnh không lấy chuyện ấy làm lạ mà ảnh lại nói: “Bây giờ có biết ai gởi đâu mà trả, thôi cứ lãnh bạc mà xài, chừng nào biết được người gởi sẽ hay”.
- Nếu thiệt anh Tự Cường muốn giúp mình, mà dùng cách kín đáo như vậy thì ảnh cao thượng quá.
- Thiệt lúc nầy em đau, nếu có tiền cho em nằm nhà thương dưỡng bịnh thì tốt lắm. Ngặt vì người ta giúp mình cao thượng như vậy, nếu mình nhận lãnh thì mình thấp hèn.
- Vâng, lãnh thì mình hèn lắm. Mà bây giờ mình biết ai gởi mà trả .
- Hồi nãy đi về dọc đường anh có nghĩ: “Ở Sài Gòn mấy người anh quen nhiều là ông huyện Khoan còn người biết cái khổ của anh trong lúc nầy là anh Tự Cường, ấy vậy hai người đó gởi bạc cho anh, chớ không lẽ người nào khác. Vậy anh kiếm hai người đó mà hỏi gắt, nếu họ từ chối thì anh sẽ đến nhà dây thép xin coi tên người mua măn-đa, tự nhiên phải lòi ra ai gởi.
- Anh tính như thế đúng lắm.
Sáng bữa sau Như Thạch không có dạy học nhưng chừng tan học, thì chàng đạp xe máy đi ra đường đón Tự Cường. Gặp nhau chào hỏi rồi hai người thủng thẳng đi bộ nói chuyện. Như Thạch hỏi:
- Anh phải nói thiệt cho tôi biết coi cái măn-đa tôi đưa cho anh hồi chiều hôm qua đó phải của anh gởi hay không?
- Không, tôi gởi làm chi? Tại sao anh hỏi kỳ cục vậy?
- Gia đạo của tôi duy có một mình anh biết mà thôi, tôi chắc anh muốn giúp tôi nên anh làm như vậy, chớ không phải ai khác. Nếu anh chối thì tôi sẽ xuống nhà dây thép tôi xin coi tên người mua măn-đa rồi tôi trả lại.
Tự Cường nghe Như Thạch nói hơi quả quyết quá thì cười ngất mà đáp:
- Anh lanh quá! Anh làm như vậy thì tôi phải chịu phép chớ chối sao được. Tôi xin anh tha cái lỗi giả dối cho tôi tuy hai đứa mình bất đồng chủ nghĩa nhưng hôm qua tôi thấy chị bịnh n0hiều, còn anh túng rối, tôi chịu không được. Tôi muốn trao tiền cho anh đặng anh đem chị đi nhà thương nằm dưỡng bịnh mà tôi sợ anh ái ngại không chịu lấy, nên tôi làm như vậy đó, chớ không phải tôi giả dối đặng khinh bỉ anh đâu.
- Anh biết thương tôi như vậy, tôi cảm ơn anh lắm. Thiệt lúc nầy vợ tôi đau mà tôi không có tiền. Nếu anh giúp tôi ân nghĩa lớn lắm. Ngặt vì tôi thọ của anh, rồi biết chừng nào mới trả lại cho anh được.
- Ối! Hơi nào mà lo việc đó. Anh còn lo như vậy tức nhiên anh chưa thoát thường tình. Tôi dư, anh thiếu tôi sớt bớt cho anh. Anh cứ lãnh măn-đa đó đi rồi đem đóng tiền nhà thương cho chị nằm, đừng ngại chi hết. Anh ăn lương ít, nếu anh cần dùng, thì mỗi tháng tôi sớt bớt cho anh năm bảy chục đồng bạc được.
- Anh thiệt t0ình đãi tôi, nếu tôi theo thường tình ái ngại hoài té ra tôi xưa quá. Vậy tôi chịu lấy và tôi thay mặt cho vợ tôi mà cám ơn anh, nếu nó hết bịnh ấy là nhờ anh.
- Thôi, thôi, đừng có bắt chước thế tình mà nói những tiếng “Cám ơn” những tiếng “Nhờ cậy” nghe kỳ cục quá. Bọn mình phải nói, phải làm khác hẳn thiên hạ chớ, những câu đặt sẵn từ đời thượng cổ để nói mà chơi chớ không có ý nghĩa gì đọc lại làm chi. Anh đi lãnh măn-đa rồi đem chị vô nhà thương liền đi.
Tự Cường bắt tay từ giã Như Thạch rồi đi tuốt.
Như Thạch đi lãnh măn-đa rồi về thuật lại cho vợ nghe. Cô Nhung cười và nói: “Anh Tự Cường cao quá, mà anh làm ra cho rõ rệt thì anh cũng khỏi thấp”.
Chiều bữa đó Như Thạch đem vợ vô nhà thương Bà Chiểu nằm...
Lối 12 giờ khuya. Như Thạch đứng tại hàng ba nhà bảo sanh Bà Chiểu, tay vịn lan can mắt ngó cửa phòng ngay trước mặt. Vì cửa phòng khép khít nên chàng không thấy được, trong phòng chỉ nghe tiếng cô Nhung rên mà thôi, chàng đứng trân trân không cựa quậy, mặt tái xanh, ngực hồi hộp.
Cách một lát, cửa phòng mở hé rồi một cô mụ lách mình bước ra. Như Thạch chận hỏi: “Sanh rồi hay chưa vậy cô?” Cô mụ lắc đầu mà đáp: - “Cô yếu quá nên không dám cho rặn. Để cho cô nghỉ một chút rồi tôi sẽ cho rặn thử coi, nếu không được thì phải kêu ông thầy, chớ biết làm sao”.
Cô mụ đi rột rẹt rồi xách một bầu nước trở vô phòng, khép cửa lại.
Như Thạch trong lòng lạnh ngắt, day mặt ngó ra sân thấy cây cỏ lờ mờ, còn ngoài đường thì hàng đèn khí nối nhau mà chiếu, song không có dạng người qua lại. Chàng vì lo, vì sợ, vì buồn, bởi vậy trong trí bối rối ngó cây cỏ, ngó đèn mà không để ý đến cảnh vật chút nào hết.
Thình lình nghe trong phòng có tiếng rặn một hơi rất dài. Như Thạch càng thêm bối rối, nên nín hơi lóng tai nghe. Rặn rồi thở hổn hển, thở rồi rặn nữa, rồi lại nghe tiếng con nít oa oa. Như Thạch nửa mừng nửa sợ ngổn ngang mừng con đã sanh, mà lo sợ vợ đuối sức. Chàng nóng nảy, trông cho họ mở cửa phòng đặng vô mà hỏi thăm, nhưng trông hoài không thấy mở.
Cách một hồi rất lâu, một cô mụ già mở bét cánh cửa ra vừa thấy Như Thạch thì nói: “Sanh rồi, con gái. Con nhỏ mạnh lắm tới ba ký lô rưỡi. Còn cô thì mệt quá, để tôi đi kêu thầy điều dưỡng tiêm cho cô một mũi thuốc khỏe cho cô nghỉ. Ông vào mà thăm cô, bây giờ ông vô được”.
Cô mụ nói rồi quày quả đi liền. Như Thạch bước vô phòng, thấy vợ nằm trong giường, mắt nhắm khít, ngực hoi hóp, mặt mét xanh, coi bộ mệt lắm. Chàng nắm tay vợ mà nước mắt rưng chảy. Cô Nhung day mắt ngó chồng, lắc đầu rồi nhắm mắt lại, Như Thạch thấy cô mụ bồng con nhỏ bước lại gần thì chàng đứng nhìn con. Cô mụ nói: “Con nhỏ này chừng lớn nó ngộ lắm”.
Cô mụ già trở vô phòng lại dắt theo một ông thầy điều dưỡng còn ngây ngủ, nên mặt sật sừ. Thầy điều dưỡng tiêm cho cô Nhung một mũi thuốc, rồi bỏ đi ra, không nói mội tiếng chi hết. Hai cô mụ lo sắp đặt cái nôi đặng để em nhỏ nằm.
Cô Nhung thở dài rồi mở mắt ngó chồng, miệng chúm chím cười. Cô mụ già bước lại rờ trán cô và hỏi: “Khỏe rồi hả?”. Cô Nhung gật đầu đáp nhỏ: “Em khỏe. Em cám ơn hai cô”.
Hai cô mụ bước ra ngoài rồi khép cửa phòng lại.
Như Thạch nhắc một cái ghế đem để bên cạnh giường ngồi và nói chuyện với vợ:
- Em mệt nhọc quá! Vậy em ngủ một chút cho khỏe. Để anh ngồi đây anh coi chừng con cho.
- Bây giờ em khỏe rồi.
- Hồi nãy anh sợ quá.
- Thật anh ạ! Hồi nãy em mệt lắm, em tưởng đã không xong rồi.
- Em muốn uống nước hay không?
- Xin anh làm ơn rót cho em một chén.
Như Thạch rót nửa ly nước trà bưng lại cho vợ uống, rồi vén tóc, bao mền cho vợ, bộ lo lắng lắm.
Bây giờ cô Nhung thiệt khỏe nên cô nói:
- Em chưa trông thấy mặt con. Nghe nói con gái phải không?
- Con gái. Em muốn anh bồng con cho em coi hay không?
- Em muốn lắm, song sợ anh không quen bồng rồi anh đánh rơi con.
- Anh bồng được. Để anh bồng con lại cho em coi. Mặt dễ thương quá.
Như Thạch bước lại giở cái nôi mà bồng con nhỏ đem để nằm một bên mình vợ.
Cô Nhung day qua nhìn con, Như Thạch cũng đứng một bên mà ngó. Con nhỏ mở mắt rồi nhắm mắt lại một lát nó quơ hai tay, làm cho cha mẹ nó vui vẻ vô cùng.
Như Thạch nói:
- Gương mặt con giống hệt mặt em.
- Đây là dấu tích của vợ chồng ta, có con tình vợ chồng ta càng thêm khắng khít.
- Để ngày mai anh sẽ đi khai sanh cho con. Em muốn đặt tên gì?
- Em không dám. Việc ấy tự ý anh định.
- Anh muốn đặt con là Thanh Nguyên, vừa ý em hay không?
- Tên ấy tốt lắm ạ.
- Thanh Nguyên nghĩa là nguồn nước trong. Anh không muốn cho con mình nhiễm trần tục chút nào hết, nên anh mới đặt tên ấy.
- Vâng, em bằng lòng lắm.
- Thôi, để anh đem con trở lại nôi, đặng em thong thả mà ngủ một chút.
- Anh để con nằm đây với em được. Em để con nằm một mình trong nôi sợ con lạnh.
- Em muốn như vậy cũng được, song để cho anh bỏ mùng xuống kẻo muỗi cắn con.
Như Thạch bọc mùng kín đáo rồi ngồi ngoài coi chừng cho vợ ngủ.
Cô Nhung sợ chồng mệt nên khuyên chồng về mà nghỉ. Nhưng chàng không nỡ về cứ ngồi đó cho tới sáng, có mấy cô mụ vô phòng rồi, chàng mới chịu từ giã vợ về thay đồ đặng lập tức đi khai sanh cho con.
Mỗi bữa Như Thạch đều có mặt tại nhà bảo sanh mà săn sóc vợ con luôn, trừ ra tới bữa cơm và tới giờ đi dạy học thì chàng mới chịu về.
Cô Nhung nằm tại nhà bảo sanh mười bữa, tuy vậy trái tim của cô vẫn không dứt nên cô hay yếu và mệt, song cô xin chồng đem cô về nhà đặng cô nằm cho thong thả.
Về nhà vợ chồng vui vẻ hết sức, cứ thay phiên nhau mà bồng con, nhứt là cô Nhung thương con quá, nhiều khi chồng đi dạy học, cô ở nhà bồng con ngồi nhìn trót giờ mà không biết mỏi, nhìn rồi cô lại cảm xúc nên ứa nước mắt. Tại cô thấy con là kết quả rõ ràng về cái ái tình của cô mà cô cảm, hay là tại cô thấy con rồi cô lo sợ về cái đời tương lai của con nên cô cảm. Nếu lúc ấy ai cắc cớ hỏi cô như vậy thì cô không biết sao để trả lời, cô chỉ biết rằng hễ cô ở nhà một mình với con, hoặc ban đêm cô thức dậy cho con bú, cô nhìn một hồi thì cô hồi hộp trong lòng, lo sợ buồn thương lẫn lộn.
Vì trong mình đã có bịnh sẵn lại thêm sanh sản, mà cũng vì tiền bạc khiếm khuyết nên thuốc men luốt lát, bởi vậy thân thể cô Nhung ngày một thêm ốm, mặt mày của cô ngày một coi thêm mệt. Tuy cô biết trong mình có bịnh nhiều, sợ không thể sống lâu được nhưng mà cô không dám nói cho chồng biết, trước mặt chồng cô cứ làm ra vui cười luôn luôn.
Tuy vậy Như Thạch vì thương vợ nên không cần vợ nói chàng cũng đã hiểu biết, bởi vậy trong bụng chàng lo sợ lung lắm.
Một đêm cô Nhung để con Thanh Nguyên nằm ngoài ván rồi cô ngồi một bên coi chừng muỗi cho con ngủ. Như Thạch bưng đèn lại gần và chàng ngồi phía bên này ngó con với vợ. Vợ chồng nhìn con rồi nhìn nhau, bỗng sanh trong lòng mối cảm tình nồng nàn thiệt là khó chịu, song nói ra không được.
Cách một hồi lâu Như Thạch day mặt vô vách mà nói:
- Thanh Nguyên còn nhỏ quá mà em bịnh một ngày một thêm nhiều, anh nghĩ tới đường tương lai anh buồn hết sức.
- Anh sợ em chết à? Em không chết đâu, xin anh đừng lo. Em thương chồng thương con, có lẽ nào em đành chết mà bỏ hai cục thương của em đó cho được.
- Sống thác đều tại số mạng, có phải em muốn mà được đâu em.
- Số mạng là gì? Ấy là hai chữ để kẻ yếu trí đặt ra đặng khỏa lấp che đậy thói nhu nhược của họ. Anh phải cương quyết, phải dạn dĩ đặng chống cự với cuộc đời, chẳng nên thấy khổ mà ngã lòng thối chí.
- Không, anh có ngã lòng thối chí đâu, dầu đến chừng nào anh cũng còn can đảm đối phó với nhân tình thế cuộc luôn luôn. Tiếc vì bịnh hoạn mình biết làm sao chiến thắng nó cho được, vì vậy nên anh mới lo sợ chớ.
- Ví dầu em phải chết đi nữa, xin anh cũng cứ vững lòng mạnh dạn bước tới, đừng buồn rầu đừng nhút nhát.
- Không nhút nhát thì được, chớ không buồn rầu sao được! Hai đứa mình đồng tâm quyết chí nắm tay nhau đồng bước trong một đường mới, ví như một đứa ngã, đứa kia bơ vơ không nhớ thương buồn rầu sao được.
- Như em có chết, thì còn con Thanh Nguyên đó nó là dấu tích của em, có lẽ nó cũng đủ làm cho anh vui với sự sống tự do, cứng cỏi, ngay thẳng, trong sạch được vậy chớ. Mà em phải sống đặng giúp anh nuôi con rồi dạy cho nó kế chí của vợ chồng mình, em không chết đâu.
- Anh van vái cho được như lời em nói đó.
Như Thạch ngó vợ ngó con rồi chảy nước mắt.
Tuy cô Nhung nói cứng cỏi như vậy, mà sự muốn không thắng nổi chứng bịnh. Bởi vậy con đẻ vừa đầy mấy tháng thì bịnh cô trở nặng, mỗi ngày mệt đến mấy lần, và mỗi lần mệt thì tưởng cô phải tắt hơi.
Một đêm, biết trong mình cô đã hấp hối, cô bèn kêu chồng bồng con đem lại cho cô hun. Cô nằm một tay ôm con, một tay níu chồng, cô hun con hai ba cái, rồi cô hướng mặt nhìn con và chồng trân trân, giọt lệ tuôn ra chảy ướt hai gò má cô. Cô mệt lắm, song ráng nói nho nhỏ: “Em xin anh tha lỗi cho em... Em đã hứa đi với anh cho cùng đường, mà nay em phải bỏ anh giữa chừng, ấy tại bịnh hoạn nó giết em, chớ không phải em sợ khổ cực hay là thấy sự nguy hiểm mà trốn lánh... Em chết thiệt em tức lắm, tức vì không được tiếp với anh mà phá hủy những chế độ hẹp hòi của gia đình xã hội, tức vì không được dạy cho con biết kế chí của vợ chồng ta...”
Cô Nhung nói đến đó, thì mệt quá, nói không được nữa. Như Thạch đau đớn chịu không được, chàng cúi mặt xuống hun vợ, bốn giọt nước mắt hòa lộn với nhau.
Đến khuya cô Nhung tắt hơi.
Sáng bữa sau Tự Cường hay tin vội vã vô thăm. Chàng chắc Như Thạch túng tiền, nên đưa một trăm đồng bạc cho Như Thạch lo liệu tống táng cho cô Nhung.
Chôn vợ rồi Như Thạch kiếm vú mướn nuôi Thanh Nguyên. May lúc ấy chị Thì ở gần, mới sanh con được ba tháng kế con chết, nên chị mới còn sữa, Như Thạch cậy chị đem Thanh Nguyên về nuôi giùm mỗi tháng trả tiền cho chị 6 đồng bạc.
Vợ chết rồi thì sự sống của Như Thạch chẳng còn một chút gì vui vẻ nữa. Mỗi ngày chàng kêu chị Thì đem Thanh Nguyên lại cho chàng bồng giây lát, đặng nhìn mặt con cho giảm bớt nỗi buồn, té ra ngó con chừng nào thì càng nhớ vợ thêm chớ không giảm được.
Có khi chàng nhớ tới mẹ thì chàng đau đớn về sự chàng làm cho mẹ giận hờn. Nhưng đau đớn về cái lỗi của chàng, lại cũng đau đớn về sự nghiêm khắc của mẹ, nên chàng ôm lòng mà chịu, không tính trở về thú tội.
Vì trong mình đã mang sẵn bịnh lao, nay gặp sự buồn rầu dồn dập, nên bịnh càng ngày càng thêm hoài. Cô Nhung chết chưa được 5 tháng thì Như Thạch ốm như tàu lá, không thể đi dạy học được nữa. Chàng biết không sống lâu được nên một đêm chàng nằm thao thức, trong trí nhớ đường kia nẻo nọ, rồi chàng ngồi dậy đốt đèn viết một bức thơ gởi về cho mẹ mà thưa cho mẹ hay rằng mình sắp chết và xin mẹ tha lỗi. Thơ gởi đi rồi thì bịnh càng nặng thêm hoài. Cách 10 bữa sau, Như Thạch nằm liệt, Tự Cường có đến thăm thì chàng nằm nói chuyện chớ không dậy nổi.
Một buổi chiều, chị Thì bồng Thanh Nguyên lại thăm. Như Thạch ngó con rồi khóc, chớ không bồng con được.
Đêm ấy chàng ráng ngồi dậy rồi đi lại bàn viết lấy giấy viết, ngồi viết trót hai giờ đồng hồ. Viết rồi chàng lấy một cái bao thơ lớn bỏ vô, lại soạn giấy tờ trong tủ lấy 3 tờ khác và đút chung vô đó nữa.
Dán bao thơ kín đáo, lại lấy bánh kiến gắn thêm phía sau cho chắc chắn rồi mới viết mấy hàng chữ ngoài bao.
Chàng viết rồi thì mệt đuối, nên lần đi lại bộ ván mà nằm, để cái bao thơ hồi nãy dựa bên mình.
Qua ngày sau, Như Thạch biểu thằng Sung, là đứa tớ, ra trường “Vân Thế” đón mời Tự Cường vô cho chàng nói chuyện.
Tự Cường mỗi ngày đều có vô một lần đặng lo thuốc men cho bạn, biết bạn không còn sống lâu nữa được, nên được tin mời thì lật đật vô liền.
Như Thạch thấy Tự Cường thì sai thằng Sung đi kêu chị Thì bồng Thanh Nguyên lại.
Tự Cường kéo ghế ngồi một bên Như Thạch và hỏi:
- Bữa nay anh nghe trong mình có khỏe hơn hôm qua hay không?
- Tôi mệt lắm, chắc giờ chết đã gần tới rồi!
- Tôi coi anh còn tinh thần nhiều. Chưa chết đâu. Xin anh hãy vững lòng đừng lo sợ.
- Nếu tôi còn tinh thần nhiều, ấy là vì tôi còn chút nợ đời bận lòng tôi, nên tôi nhắm mắt chưa được.
Như Thạch nói mới mấy câu mà đã mệt, nên nằm yên. Tự Cường thấy vậy không muốn nói chuyện nữa, nên định đứng dậy. Như Thạch khoát tay tỏ ý muốn Tự Cường cứ ngồi đó, chàng nằm nghỉ một chút rồi nói tiếp:
- Tôi mời anh vô đây là vì tôi có một tâm sự cần phải tỏ gấp với anh.
- Anh cứ nói đi, tôi sẵn lòng nghe.
- Khi mới quen nhau tôi có tỏ cho anh biết rằng vì tôi theo cái thuyết tự do kết hôn nên bà già tôi giận, không thèm nhìn tôi là con.
- Phải. Anh có nói với tôi rồi.
- Cách mười bữa trước tôi biết tôi sẽ chết gấp, nên tôi có viết thơ từ giã và xin lỗi bà già tôi. Tôi có nói tôi có một đứa con, như bà già tôi còn nghĩ tình máu thịt, thì cho người lên đem về mà nuôi, chớ hễ tôi chết rồi con tôi nó sẽ bơ vơ, vô gia đình, vô thân tộc... Tới bữa nay mà không thấy tin tức gì hết... Chắc bà già tôi bỏ đứt tôi, mà cũng không thèm nhìn con tôi.
- Sợ thơ lạc, hoặc dưới nhà không biết anh ở đâu mà kiếm.
- Thơ không thể lạc được. lại trong thơ tôi biên chỗ tôi rành rẽ... Chắc bà già tôi còn giận nên tuyệt luôn... Có lẽ xưa nay anh đã thấy rõ thái độ của tôi. Tôi thung dung chờ ngày chết. Chẳng lo sợ chút nào hết. Tôi chỉ buồn có một việc là khi tôi chết đi rồi con Thanh Nguyên của tôi đây rồi tôi bỏ nó cho ai.
- Xin anh đừng thêm lo, đến giờ cuối cùng phải để chí cho bình tịnh. Nếu không ai nhìn nhận con Thanh Nguyên thì tôi lãnh nuôi cho.
Như Thạch mở cặp mắt chỏi hỏi mà ngó Tự Cường rồi cười nói tiếp:
- Tôi cảm tình anh lắm. Nếu được vậy thì tôi chẳng còn chút gì bận lòng nữa. Tôi mời anh vô đây là có ý muốn nói chuyện đó với anh. Hổm nay tôi không nói là vì tôi còn tưởng má tôi hoặc chị tôi lên đem nó về nuôi. Hồi chiều hôm qua chị vú bồng con tôi lại, tôi thấy mặt nó, rồi tôi nhớ ở dưới nhà không ai lên, thì tôi cảm động hết sức. Đêm hồi hôm tôi không ngủ được, tôi ráng ngồi viết một tờ di ngôn mà để lại cho con. Nếu anh sẵn lòng thế cho tôi mà nuôi giùm con tôi, thì tôi giao giấy tờ trong bao thơ nầy cho anh. Xin anh cất giùm, chừng nó được 18 tuổi có đủ trí khôn rồi anh sẽ trao cho nó.
- Tôi hứa chắc với anh rằng tôi sẽ hết lòng nuôi con Thanh Nguyên cũng như anh nuôi vậy. Anh hãy an tâm, đừng lo chi hết.
- Cám ơn anh.
Như Thạch lấy cái bao thơ niêm hồi hôm đưa cho Tự Cường rồi ngoắt chị vú biểu đem Thanh Nguyên lại, chàng với ôm đầu con hun và nói: “Thôi, cha từ giã con, tên con là Thanh Nguyên vậy chừng con khôn lớn con phải trong sạch như nước trong nguồn, đừng nhiễm một chút bụi trần nào hết, tuy cha chết, nhưng mà con đã có cha khác lãnh nuôi con, dạy con, cũng như cha còn sống vậy. Con không đến nỗi thất dưỡng thất giáo đâu mà lo”. Như Thạch nói dứt rồi, bèn xô con lại cho Tự Cường mà nói: “Đây tôi giao con tôi cho anh đây, xin anh lãnh lấy”. Tự Cường đưa tay ra bồng Thanh Nguyên và để cái bao thơ trước ngực con nhỏ mà nói: “Con đừng có buồn, ba sẽ thương yêu con bảo hộ con, cũng như cha đẻ của con vậy”.
Con Thanh Nguyên không hiểu chi hết, nó thấy lộn xộn thì nó ngó Như Thạch rồi ngó Tự Cường ngó quanh quất, rồi lại chành miệng cười hịt hạt.
Như Thạch phỉ tình, nên nằm thơ thới, bộ bớt mệt. Thanh Nguyên đòi bú nên chị vú lãnh lại và bồng đi ra ngoài.
Tự Cường hỏi Như Thạch:
- Anh còn muốn dặn điều gì nữa hôn?
- Còn. Tôi xin anh hai điều này:
1. Hễ tôi chết rồi, thì anh phải giấu con Thanh Nguyên mà nuôi, dầu bà con thân tộc của tôi năn nỉ thế nào anh cũng đừng cho họ lãnh.
2. Nuôi con Thanh Nguyên, thì anh đừng cho nó biết căn nguyên của nó, anh cứ xưng anh là cha đẻ nó, chừng nào nó đúng mười tám tuổi anh sẽ đưa cái bao thơ cho nó. Nó đọc tờ di ngôn của tôi rồi nó liệu định thế nào tự ý nó.
- Tôi sẽ làm y theo lời anh dặn. Còn về cách giáo dục như anh có dặn điều gì chăng?
Như Thạch nằm ngẫm nghĩ một chút rồi mới đáp: “Anh quang thông triết lý, tâm lý học. Vậy dạy dỗ con Thanh Nguyên, tôi ưng để cho anh tự do mà liệu định. Tuy vậy mà tôi xin anh, dầu anh khiến cho nó đi đường nào, anh cũng ra công sửa vỗ cái óc nó cho trong sạch, cho cao thượng, đừng cho nhiễm những thành kiến hủ bại của xã hội”.
Tự Cường gật đầu vừa cười vừa nói: “Tôi khen anh lắm. Đến ngày cuối cùng mà anh không nao lòng không đổi chí. Tôi sẽ ráng sửa chí con Thanh Nguyên giống như chí của anh”.
Như Thạch nghe mấy lời thì hớn hở, tuy hấp hối mà mặt còn tỉnh táo lắm.
Tự Cường không nỡ lìa bạn, nên viết giấy rồi sai thằng Sung đem ra trường xin phép ông hiệu trưởng đặng ở lại đó cho Như Thạch vui lòng.
Đêm đó Như Thạch tắt hơi.
Tự Cường đứng lo tống táng. Chàng cậy ông hiệu trưởng trường “Vân Thế” đứng cáo phó giùm cho thiên hạ hay Như Thạch chết, bởi vậy tờ ai phó nầy không giống với tờ ai phó khác thường không có biên tên cha mẹ, anh em, vợ con.
Nhờ tờ ai phó ấn hành trong nhựt báo, nên ông huyện Khoan hay, bữa tống chung có ông đến dự lễ với ông hiệu trưởng và các giáo sư trường “Vân Thế”.
Hội đồng Quyền ăn cơm trưa rồi thầy ra đứng trước thềm xỉa răng và ngắm cảnh vật. Tên trạm làng đem tờ nhựt trình “Lục tỉnh” lại phát cho thầy.
Thầy lấy tờ nhựt trình rồi thủng thẳng trở vô nhà. Thầy đốt một điếu thuốc rồi kéo ghế ngồi và mở nhựt trình ra coi. Thầy mới coi một chút thì vùng đứng dậy ngó cô Hội đồng đương ngồi trên ván phía trong mà la lớn rằng: “Trời đất ơi! Thằng Thạch chết rồi!”.
Cô Hội đồng chung hửng hỏi rằng:
- Thạch nào?
- Thằng Thạch của chị Cả chớ Thạch nào?
- Úy! Cha chả! Chết hồi nào ở đâu?
- Nhựt trình nói chết tại Bà Chiểu, chết đêm hai tây, qua bốn tây chôn.
- Bữa nay mấy tây?
- Bữa nay năm tây. Chôn hôm qua rồi. Khốn nạn quá!
- Tôi sợ Thạch nào đó, chớ thằng Ba còn nhỏ, lại nếu nó có đau nó cũng cho mình hay chớ.
- Nó mà! Nhựt trình nói rõ rằng: Lý Như Thạch giáo sư trường “Vân Thế” thì là nó chớ ai.
- Bất nhơn dữ hôn! Vậy mà xưa rày tưởng nó giận chị Cả nó trở ra ngoài Bắc chớ.
- Thì lúc nó mới đi, nó có gởi về cho tôi một cái thơ. Nó không có nói nó sẽ đi đâu. Tôi cũng tưởng nó dắt vợ nó ra Bắc, chớ ai dè nó ở trên Bà Chiểu.
- Không biết chị Cả hay rồi chưa?
- Chắc là chỉ chưa hay. Nếu hay lẽ nào chỉ không cho mình hay. Để tôi vô trong chỉ coi.
- Cha chả, chỉ hay đây chắc chỉ rầu lắm.
- Vậy cho sáng con mắt chỉ. Có một đứa con trai mà ở nghiêm khắc với nó quá lẽ.
- Mình đi vô trỏng tôi cũng đi nữa. Vô thăm chỉ một chút.
Thầy Hội đồng không kịp thay đồ. Thầy lấy nón trắng đội lên đầu rồi cầm tờ nhựt trình ra đi. Cô Hội đồng che dù đi theo, cũng không thay áo đổi quần kịp.
Buổi trưa, bà Cả Kim nằm ngửa trên bộ ván dựa cửa sổ phía trước biểu con Tý nhổ tóc ngứa. Hữu Nghĩa ăn cơm rồi dắt vợ con xuống ghe đi vô làng Định Môn thăm ruộng. Tôi tớ đều làm công việc ở nhà sau, nên phía trước vắng teo.
Từ ngày Như Thạch bị đuổi đi rồi, thầy Hội đồng Quyền phiền bà Cả và ghét vợ chồng Hữu Nghĩa nên thầy ít vô. Bữa nay thầy buồn mà lại bực tức nữa, nên bước lên thềm thầy đi mạnh chân, tiếng giày kêu lớn. Bà Cả giật mình lồm cồm ngồi dậy. Bà thấy dạng vợ chồng Hội đồng thì bà mừng nên lật đật bới đầu và nói lớn rằng: “Vô chơi sao mà đi trưa nắng quá vậy?”
Thầy Hội đồng đứng ngó ngay chị mà hỏi: “Thằng Thạch nó chết rồi! Chị hay chưa?”
Bà Cả biến sắc hỏi lại:
- Hả? Chết ở đâu sao cậu nó lại hay?
- Tôi đọc nhựt trình đây tôi mới hay chớ. Để tôi đọc cho chị nghe:
“Ông hiệu trưởng và các giáo sư trường tư thục Vân Thế lấy làm đau đớn báo cáo rằng ông Lý Như Thạch, giáo sư tại trường ấy, đã tỵ trần tại biệt xá của ông, ở Bà Chiểu, trong đêm 2 Janvier 19... hưởng được 25 tuổi.
“Lễ an táng cử hành ngày 4 Janvier 19... đúng 7 giờ sớm mơi tại căn phố phía sau rạp hát thầy Cai”.
Thầy Hội đồng đọc dứt rồi, thầy ngó bà Cả mà nói: “Rõ ràng hay chưa Lý Như Thạch, giáo sư là thằng Ba chớ ai!”
Bà Cả sửng sốt, bà ngồi trân trân, không nói được tiếng chi hết, lõ cặp mắt chao oãu, nhỏ hai giọt nước mắt chảy dài xuống hai gò má.
Cô Hội đồng để cây dù trên ván, rồi cô vén áo ngồi sau lưng chị lấy khăn lau nước mắt, cô cũng không nói được một lời.
Trong nhà nằng nặng chứa đầy không khí buồn thảm, làm cho sự đau đớn ba chị em càng thêm nặng nề khó chịu.
Thầy Hội đồng quăng tờ nhựt trình trên bàn, kéo một cái ghế ngồi ngang đó rồi thủng thẳng nói rằng: “Đã biết mạng số cùng rồi thì ở đâu cũng phải chết. Nhưng mà chết ở đất khách quê người, cha mẹ bà con không được thấy mặt, thiệt tức quá. Chớ chị nghe lời tôi thì đâu có tai họa khốn nạn như vầy!”
Bà Cả thở một hơi dài rồi nói: “Tại tôi, tại tôi nên con tôi mới chết!”.
Thầy Hội đồng thấy chị đã tự hối, thầy không nỡ trách nữa, song trong lòng thầy vẫn còn đau đớn quá, nên thầy hỏi rằng:
- Bây giờ chị tính sao đây?
- Cậu tính làm sao thì tính giùm, chớ tôi còn biết làm sao mà tính.
- Nó chết đã chôn hồi sớm mơi hôm qua rồi... Tuy vậy mà mình cũng phải lên Bà Chiểu, hỏi thăm coi nó đau bịnh gì mà chết, mồ mả nó nằm ở đâu, chớ bây giờ tính bỏ luôn hay sao.
- Đi thì đi. Cậu nó đi giùm với tôi, chớ tôi đi một mình lên trển tôi có biết chỗ nào đâu mà hỏi thăm.
- Vợ chồng thằng Xã đi đâu mà nãy giờ không thấy mặt? Hay tin thằng Thạch chết, ai buồn thì buồn, chớ con Phụng có buồn đâu. Thương yêu gì mà buồn.
- Vợ chồng nó mới đi vô trong đồn điền Định Môn.
Thầy Hội đồng ngẫm nghĩ một chút rồi nói: “Thế nào tôi cũng phải đi. Tưởng có thằng Xã ở nhà, tôi biểu nó đi với tôi. Nó đi khỏi thì thôi. Còn chị đi, tôi tưởng không ích gì. Thôi, chị ở nhà, để tôi đi lên trển tôi hỏi thăm coi công chuyện ra làm sao, tôi tìm vợ nó đặng tôi biểu chỉ mồ mả cho tôi biết, rồi sau tôi sẽ dắt chị lên đặng mướn làm mả cho nó”.
Cô Hội đồng tiếp nói: “Ở nhà em nói phải lắm. Thôi, để ổng đi trước một mình lên hỏi thăm coi, rồi chị sẽ đi. Chừng chị đi, em sẽ đi với chị”.
Bà Cả ngồi lặng thinh một hồi rồi mới nói: “Cậu tính như vậy cũng được. Thôi, đi trước một mình lên trển coi, chớ tôi đi theo, lên đó chắc là tôi không chịu nổi. Cậu phải ráng kiếm giùm con vợ nó mà dắt về đây đặng tôi hỏi thăm cho rõ ràng, chớ chết như vậy thì tức quá”.
Thầy Hội đồng đứng dậy nói: “Thôi để tôi đi thẳng vô chợ Ô Môn mướn một cái xe hơi rồi tôi chạy về nhà thay đồ đặng đi liền”. Thầy Hội đồng đội nón ra đi.
Bà Cả kêu nói:
- Cậu nó lấy bạc bỏ theo lưng đặng trả tiền xe chớ.
- Thôi, tôi có bạc sẵn đây, chị đừng lo.
- Cậu nó đi thì về mau mau, ở nhà tôi trông lắm.
- Bề nào cũng ngày mai tôi về mới tới chớ.
- Nhớ kiếm con vợ nó, nghe hôn.
- Việc đó là việc cần nhứt, quên làm sao được.
Thầy Hội đồng đi rồi, thì cô Hội đồng ở lại đó mà hú hí với chị cho chị bớt rầu. Tôi tớ trong nhà nghe tin chẳng lành ấy thì xì xầm truyền ngôn với nhau, cách một giờ sau chòm xóm hay hết, nên tựu lại hỏi thăm.
Cô Hội đồng ở tới tối, vợ chồng Hữu Nghĩa đi Định Môn về rồi, cô mới chịu về nhà. Sáng bữa sau cô trở vô sớm mà đón chồng về coi công chuyện ra thế nào. Ông Chánh bái Thành cũng lại ngồi đó mà chờ tin.
Đến chiều, thầy Hội đồng về mới tới.
Bà Cả thấy thầy bước vô nhà có một mình, bà chảy nước mắt mà hỏi:
- Nó đau bịnh gì mà chết vậy? Kiếm không được vợ nó hay sao?
- Vợ nó đâu mà kiếm!
- Nó về ngoài Bắc rồi hay sao?
- Nó đã chết năm sáu tháng nay rồi.
- Úy cha chả, vợ nó cũng chết nữa.
- Chớ sao? Công chuyện nghe thảm thiết hết sức, để rồi tôi thuật lại cho chị nghe.
Thầy Hội đồng ngồi tại bàn giữa với ông Chánh bái, kêu sơp-phơ vô trả tiền xe, trong nhà lặng trang, ai nấy đều ngồi im lìm chờ nghe tin tức, duy chỉ có Hữu Nghĩa đi rót một tách nước trà bưng lại để trước mặt thầy Hội đồng.
Sơp-phơ lấy tiền đi rồi, thầy Hội đồng mới nói:
“Hôm qua 4 giờ chiều. Tôi lên mới tới Bà Chiểu. Tôi đi lại dãy phố ở phía sau rạp hát thầy Cai mà hỏi thăm. Họ chỉ căn phố của thằng Ba ở cho tôi coi, mà họ nói chôn nó rồi thì có một ông giáo sư trường Vân Thế chở đồ đạc đi hết rồi trả phố lại cho chủ, nên bây giờ phố bỏ trống. Tôi hỏi thăm vợ nó, thì họ nói cách năm sáu tháng trước vợ nó đẻ một đứa con gái, đẻ được đâu chừng một tháng thì vợ nó đau tim mà chết. Nó mướn một người vú nuôi con nhỏ, người vú tên Thì, hồi trước cũng ở gần đó. Hôm kia chôn nó rồi, thì vợ chồng người vú dọn đồ đi chỗ khác, không biết ở đâu”.
Bà Cả khóc và nói: “Té ra nó có con”.
Thầy Hội đồng gật đầu.
Ông Chánh bái nói: “Vợ chồng nó chết hết, mà nó có con, thì mình phải đem con nó về nuôi chớ. Người vú dọn nhà ở chỗ khác, nên mình ráng hỏi thăm, thì có lẽ cũng phải ra mối. Họ nói có ông giáo sư nào dọn đồ đạc của nó chắc ông cũng lãnh nuôi giùm con nó chớ gì. Sao cậu Hội đồng không kiếm giáo sư đó hỏi rồi đem con nhỏ về cho thiếm Cả.
Thầy Hội đồng đáp: “Tôi có đi kiếm chớ. Nhờ có đi kiếm nên tôi mới biết nhiều việc đáng buồn lắm”.
Bà Cả hỏi:
- Mà thằng Ba tôi nó đau bịnh gì nó chết gấp vậy?
- Đau lâu lắm mới chết, chớ có chết gấp đâu chị? Nó mang chứng bịnh ho lao đã lâu rồi, vì buồn rầu, vì không có tiền uống thuốc, lần lần thân thể gầy mòn nên mới chết chớ.
- Bất nhơn quá! Chớ chi nó đau nó cho mình hay, thì có lẽ nào chết như vậy.
- Có! Nó có cho hay. Để tôi thuật lại hết công chuyện cho chị nghe. Hỏi trong Bà Chiểu rồi tôi trở ra Tân Định kiếm trường Vân Thế. Tôi hỏi thăm thì ông hiệu trưởng nói thằng Ba dạy trường ông hơn 10 tháng rồi.
- Từ ngày nó đi cho tới bữa nay thiệt đã hơn 10 tháng. Té ra lên Sài Gòn rồi nó vô trường đó mà dạy, chớ có trở ra ngoài Bắc đâu.
- Phải, chị đuổi nó thì nó lên đó xin dạy học liền. Tới bây giờ tôi mới hay, chớ xưa rày tôi cũng tưởng nó ra Bắc. Tôi hỏi ông hiệu trưởng vậy vợ chồng nó đau bịnh gì, mà chết hết, còn con của nó, nó có gởi cho ai nuôi giùm. Ông hiệu trưởng nói có ông giáo sư Tự Cường là bạn thân thiết của nó, lúc nó đau ổng săn sóc, lúc nó chết ổng lo tống táng, vậy tôi phải hỏi ông ấy mới rõ được. May lúc ấy mãn giờ học, ông hiệu trưởng bèn cho ông Tự Cường lại phòng khách cho tôi hỏi thăm. Ban đầu ổng dè dặt, tôi hỏi ông nói lơ là, coi bộ không chịu nói rành việc gì hết. Tôi mới nói tôi là cậu ruột của Như Thạch, tôi thương nó lắm, hồi nó dắt vợ nó về Ô Môn, chị rầy rà thì tôi can gián hết sức. Bữa chị đuổi nó đó tôi không hay mà xưa rày tôi vẫn tưởng vợ chồng nó trở ra Bắc, chớ chi tôi hay nó lên Sài Gòn mà dạy học thì tôi đã đem vợ chồng về tôi nuôi, rồi tôi bao bọc cho nó làm ăn. Nghe nói vậy ông Tự Cường mới chịu nói thiệt. Ông nói thằng Ba bị chị đuổi thì nó lên Sài Gòn xin vô trường Vân Thế liền. Vì ăn lương ít nên vợ chồng phải vô ở một căn phố chật hẹp trong Bà Chiểu. Nó nghèo cực lung lắm, vợ nó có nghén mà lại đau tim nữa. Đẻ một đứa con gái đâu được một tháng thì vợ nó chết. Nó phải mướn vú nuôi con, mà nó cũng đã mang bịnh ho mấy tháng trước rồi. Phần buồn việc gia đình, phần không có đủ tiền uống thuốc, nên bịnh càng ngày càng thêm nặng rồi mới chết, nó chết thì anh em đồng nghiệp hùn tiền mà chôn cất nó. Vì không biết bà con nó ở đâu đặng cho hay, nên anh em mới cậy ông hiệu trưởng ấn hành tờ ai phó trong nhựt trình, lại xin chở bàn ghế chút đỉnh đem về trường mà gởi. Như tôi muốn lãnh đồ ấy thì nói với ông hiệu trưởng lãnh về, ông Tự Cường lại dắt tôi vô trong ngã năm Gia Định chỉ mồ mả của vợ chồng nó cho tôi biết, ổng có mướn làm trụ đá cắm trên đầu mả rành rẽ lắm. Bà Cả nghe nói tới đó thì bà khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Ông Chánh bái với vợ chồng thầy Hội đồng cảm động nên cũng chảy nước mắt.
Ông Chánh bái hỏi: “Sao cậu không hỏi ông Tự Cường coi bây giờ con nó ở đâu?”.
Thầy Hội đồng trợn mắt đáp: “À, nãy giờ tôi thuật chuyện lại mà tôi bỏ sót việc ấy”.
- Tôi có hỏi chớ. Ông Tự Cường nói cách 10 ngày trước thằng Ba nó biết nó sẽ chết, nên nó có viết thơ về mà xin lỗi chị Cả. Trong thơ nó có nói chuyện đứa con của nó. Nó đợi hoài, không thấy bà con ai lên hết, nó chắc chị Cả bỏ đứt nó, nên nó phải kêu người ta mà cho đứa nhỏ. Nó cho ai ông Tự Cường không hiểu, nên ông không biết đâu mà chỉ. Ông Tự Cường nói quả quyết với tôi rằng cách mười bữa trước ngày thằng Ba chết, nó có gởi thơ về cho chị Cả. Vậy chớ chị Cả không có được cái thơ đó hay sao?
Bà Cả đáp: “Từ ngày nó ra đi cho tới bây giờ, tôi có được cái thơ nào của nó đâu?”
Thầy Hội đồng châu mày nói: “Không, mới mười mấy bữa rày đây chị không có được thơ của nó hay sao? Thơ nó gởi có lý nào lạc được. Hay là thơ lại, chị không có ở nhà, rồi vợ chồng thằng Xã bỏ dẹp đâu đó chớ gì. Con Hai a, hổm nay có thơ nào gởi lại cho chị Cả hay không vậy cháu. Cháu nhớ lại coi?”.
Cô Phụng đương ngồi phía sau lưng bà Cả, nghe hỏi thì cô đứng dậy nói không có, nhưng mà lời nói nghe yếu xịu, lại bộ tịch bợ ngợ lắm.
Thầy Hội đồng trợn mắt nói:
- Không lý không có, ông Tự Cường nói thằng Ba có trối với ổng, nó nói cách mười bữa trước nó có gởi thơ về cho chị Cả hay nó gần chết và xin chị Cả lên đem con nó về nuôi. Nó đợi hoài không thấy ai hết nên nó phải kiếm người mà cho con nó. Cháu nhớ lại coi, chừng mười mấy bữa rày đây có được cái thơ nào hay không?
- Thưa... cháu không thấy.
- Hứ? Kỳ quá, đâu cháu kêu hết bầy trẻ ở trong nhà ra đây cho cậu hỏi coi, kêu hết ra đây.
Cô Phụng vâng lời kêu con Tý, chú Hưng, chị Thình ra đủ mặt. Thầy Hội đồng hỏi: “Cách chừng mười bữa rày hoặc nửa tháng nay, đứa nào có thấy trạm đem thơ lại đây hay không? Bây nhớ coi”.
Chú Hưng nhanh nhẩu nói: “Thưa có. Hôm trước tôi đứng ngoài cửa ngõ, trạm có đưa tôi một cái thơ. Tôi đem vô nhà, cậu Xã đi khỏi, bà mắc nghỉ trưa nên tôi đưa cho cô Hai”.
Thầy Hội đồng ngó cô Phụng, cô ngó chú Hưng hỏi:
- Đưa hồi nào đâu?
- Cô đương nằm trên võng tôi đưa thơ cho cô đó, cô quên hay sao?
- Ờ ợ? Chuyện đó lâu rồi mà.
- Không, mới chừng mười mấy bữa rày đây mà.
- Ơ ờ. Tôi nhớ rồi, hôm trước cha thằng Nhơn đi khỏi, chú Hưng đưa cho tôi một cái thơ. Tôi bỏ vô trong tủ, tôi tính để cha thằng Nhơn về tôi sẽ biểu đọc coi thơ của ai, hổm rày tôi quên. Để tôi kiếm lại coi cái thơ còn đó hay không.
Cô Phụng đi vô buồng. Hữu Nghĩa ngồi tại bàn viết gục mặt, không nói chi hết.
Thầy Hội đồng nóng nảy ngồi không được, thầy đứng dậy ngó bà Cả mà nói: Chắc cái thơ đó rồi! Ăn ở như vầy thì giết người ta được! Khốn nạn quá!”.
Bà Cả kêu nói: “Hai ạ, lấy đem ra đây cho mau đặng đọc nghe coi. Nếu bỏ trong tủ thì còn đó, chớ ai vô đây lấy”.
Cô Phụng cầm cái thơ đem ra thì thơ đã xé bao rồi. Thầy Hội đồng biểu đưa cho thầy. Thầy cầm coi ngoài bao rồi nói: “Phải rồi chữ của thằng Ba đề bao đây. Mà thơ ai đã xé coi rồi đây mà”.
Bà Cả muốn nghe coi con gởi nói việc gì, nên bà biểu: “Đâu cậu nó đọc thơ nghe coi mà”.
Thầy Hội đồng rút thơ ra đọc:
THƯA MÁ
“Mấy tháng nay con mang một chứng bịnh không thể trị được, là chứng bịnh ho lao. Bịnh đã nặng lắm rồi, nên sự sống của con chắc chẳng còn bao lâu nữa.
Vợ của con cũng đã chết rồi, chết cách năm tháng trước, ấy vậy trong ít ngày nữa đây thì hai đứa ngỗ nghịch dám trái chế độ gia đình, đều phải bị trời phạt không cho ở thế gian nầy mà phản ngược với thành kiến của xã hội nữa.
Trước khi lìa cõi dương trần con viết thơ nầy kính gởi đôi lạy mà từ giã má và cúi xin má tha tội cho con là đứa không kể ơn sanh thành, làm cho má buồn má giận.
Sau nầy con xin thưa cho má hay: vợ chồng con có sanh một đứa con gái, hiện nay nó vừa mới được sáu tháng. Nếu má nhìn nhận nó có một phần máu thịt của má, hoặc là di tích của dòng họ LÝ thì má cho người lên đem nó về mà nuôi dưỡng chớ hễ con chết rồi thì nó sẽ trở nên một đứa vô gia đình, vô thân tộc.
Con cúi đầu vĩnh biệt má, ơn sanh thành con xin để kiếp sau con sẽ đền đáp”.
LÝ NHƯ THẠCH
ở phố phía sau rạp hát thầy Cai
tại Bà Chiểu (GIA ĐỊNH)
BÁI THƠ
Thầy Hội đồng đọc thư rồi thì thầy châu mày đỏ mặt, la lớn rằng: “Phụng, thiệt rõ ràng vợ chồng mầy hiệp nhau mà giết em mầy. Ngày thằng Thạch dắt vợ nó về, chị Cả giận đuổi nó, vợ chồng mầy không có được một lời can gián. Khi nó gần chết, nó viết thơ nói như vầy, mà vợ chồng mầy giấu biệt không cho chị Cả hay. Bây ăn ở như vầy thì khốn nạn quá. Nếu bây cho chị Cả hoặc cho tao hay thì tao lên tao rước em bây về dưới nầy mà nuôi nó, ví dầu nó phải chết đi nữa, thì cũng khỏi chết nơi đất khách quê người, lại con nó cũng khỏi phiêu lạc. Bây giờ biết con nó đâu mà tìm!... Tao hiểu hết. Bây muốn cho thằng Thạch chết mà lại tuyệt tộc nữa đặng bây muốn ăn gia tài cho trọn. Không được đâu, thái độ của bây như vậy trời không cho bây trọn hưởng giàu sang đâu. Tao hứa chắc với bây tao sẽ cản đường bây. Tao sẽ kiếm con của thằng Thạch cho được tao mới nghe. Để tao cất cái thơ nầy đặng ngày sau tao đưa cho con của thằng Thạch nó coi cho nó biết lòng dạ của cô nó”.
Thầy Hội đồng xếp thơ mà bỏ vô bốp phơi, bộ thầy giận lung lắm.
Hữu Nghĩa với cô Phụng mặt mày tái xanh, ngồi nín thinh, không chối cãi một lời nào hết.
Bà Cả cứ ngồi khóc, nước mắt tuôn dầm dề. Bà nói bệu rằng: “Thôi, tại tôi hết thảy. Cậu nó nóng giận rầy rà, bây giờ thằng Thạch cũng không sống lại được. Thôi để giúp tôi mà lo làm mồ mả cho vợ chồng nó hoặc xin lấy cốt đem hết về dưới nầy cho nó nằm một bên cha nó. Tôi cũng còn cậy cậu nó làm sao kiếm giùm cho được con nhỏ đặng cho tôi nuôi. Máu thịt của tôi lẽ nào tôi bỏ cho đành”.
Thầy Hội đồng cười gằn mà đáp: “Chị không cậy tôi cũng làm”.
Dựa bên đường Phú Nhuận lên Gò Vấp gần tới cổng xe lửa, ngó bên phía tay trái thấy một vuông đất cao ráo rộng rãi, chung quanh trồng trúc bao kín mít. Chính giữa miếng đất ấy có một cái nhà ba căn, trên lợp bằng lá vách đóng bằng ván, nhưng nhà nhờ xây cao hơn 5 tấc lại lót gạch, có mấy khuôn cửa thì đóng lá sách lại sơn màu xám tro, nên cái nhà coi mát mẻ lại có vẻ vui và đẹp.
Cạnh hai bên cái nhà ấy, song sụt vô phía trong, lại có hai cái nhà nhỏ lợp ngói cũng vách ván, cái bên phía tay mặt thì là nhà để xe hơi, còn cái bên phía tay trái thì là nhà nấu ăn.
Từ ngoài hàng rào trúc dựa lộ vô tới thềm nhà lá thì có một cái sân rộng lớn, sân xẻ đường ngang đường dọc, dài theo mỗi đường trồng xoài mít xen lộn với nhau, mà sau những hàng cây ấy lại có xây bồn trồng bông đủ màu, đủ thứ, nhờ sẵn nước trong cái giếng ở góc rào, cất lên tưới mỗi ngày hai lần, nên dầu mùa nắng nóng bông cũng thường tươi tốt.
Cái cửa ngõ thì xây hai trụ gạch, lại xây trịch một bên, ngay cửa nhà xe, nên xe hơi ra vô rất tiện.
Cuộc nhà đất nầy là chỗ của ông giáo sư Tự Cường ở với con gái của ông là cô Thanh Nguyên, cha dạy học tại trường tư “Vân Thế” dưới Tân Định còn con đương học lớp triết học tại trường trung đẳng Chasseloup-Laubat dưới Sài Gòn. Ông Tự Cường mua đất cất nhà ở đây đã lâu rồi, nên rào trúc của ông trồng bao chung quanh lên đã cao và dày bịt, mấy hàng cây ông trồng trong sân đã có trái đều hết.
Bữa rằm tháng giêng, lối tám giờ tối, mặt trăng lên cao tỏ rạng, chói ngọn cây sáng hoắc, chói bồn bông long lanh. Gió chướng thổi hiu hiu, tuy bị hàng rào trúc đóng ngăn, song cũng còn có thể làm cho ngoài sân trong nhà đều mát mẻ.
Cô Thanh Nguyên, năm nay đã được 18 tuổi. Nhờ đến trường cô học siêng năng, ở nhà lại có cha dạy thêm, nên năm trước cô thi đậu Tú tài kỳ nhứt, hiện bây giờ cô học triết lý đặng ít tháng nữa thi kỳ nhì. Đêm nay ăn cơm rồi, cô ra ngồi tại cái băng trước sân, dưới gốc một cây xoài lớn, mà xem trăng trong, hứng gió mát.
Còn ông Tự Cường, ông chưa được 45 tuổi, tuy sức ông còn mạnh mẽ, da mặt còn thẳng băng, nhưng tóc của ông đã bạc hơn phân nửa, nên học trò thấy bộ tướng của ông đểu phải kính, phải trọng. Đêm nay cũng như mấy đêm khác, ăn cơm rồi ông nằm trên ghế xích đu, miệng ngậm điếu thuốc, tay cầm nhựt báo coi. Chẳng hiểu ông đọc nhựt báo, hay là ông thấy ngoài sân trăng trong gió mát ông cảm hứng, mà tứ bề đương vắng vẻ, thình lình ông cất tiếng lên ngâm lớn:
Trước lều có bóng nga thấp thoáng
Ngẫm việc đời ngao ngán nhân tình
Mấy ai rõ biết nhục vinh,
Khòm lưng cong gối, lợi danh là gì
oOo
Thú nhàn lạc có chi sánh kịp,
Chí thanh cao sự nghiệp nhà ta.
Ngoài hiên vườn trúc thướt tha,
Ngăn chừng xe ngựa, vẹt xa phong trân
oOo
Ngọn sông quí nào cần sông cạn,
Miễn có rồng ẩn dạng thì linh.
Thấp cao mình biết lấy mình,
Non xanh, nước bích, chung tình năm canh
oOo
Mặc ai trục lợi tranh danh
Ông Tự Cường ngâm tới đó, thì trước sân cô Thanh Nguyên lại cất lên ngâm tiếp:
Ngày xuân với gió xuân man mác
Thêm mùi đời bát ngát thơm tho
Được làm người phước trời cho,
Tội gì mà phải nằm co than thầm.
Mồi chung đỉnh nên tầm mà hưởng,
Thú cao sang há nhượng cho ai.
Phải vui cười phải nhảy bay,
Phải vui với tục, phải say với tình
oOo
Vòng cạnh tranh, lấy mình làm quí,
Kể nghĩa nhơn, luân lý làm chi.
Tìm đường sung sướng mình đi.
Miễn là tới chốn, thị phi mặc dầu
oOo
Đời người gẫm chẳng bao lâu
oOo
Thanh Nguyên ngâm mấy câu, rồi cô cười ngất và bươn bả đi vô nhà.
Nhờ ngọn đèn Manchon treo giữa nhà chói sáng nên bây giờ thấy hình dung mặt mày cô rõ ràng. Cô dong dảy yểu điệu, tướng thanh nhã, bộ nghiêm trang, tuy không dồi phấn thoa son, song tự nhiên da trắng nõn, môi đỏ lòm. Cô mặc bộ đồ pyjama hàng màu cà phê sữa, tóc bới theo điệu bôm bê, hai trái tai đeo hai chiếc bông kiểu tây lòng thòng. Tuy ở trong nhà cô không trang điểm, nhưng nhờ dáng cô dịu dàng, nhờ vóc cô tròn trịa, gương mặt sáng rỡ, nhứt là cô có cái vẻ vô tội, cái vẻ thiên chân, nên tướng mạo cô đẹp đẽ khác thường, lại thêm có duyên nữa nên trai nào thấy cô cũng phải liếc ngó, song ngó rồi khen thầm, chớ ít dám buông lời chọc ghẹo.
Cô Thanh Nguyên vô nhà đứng trước mặt cha vừa cười vừa hỏi:
- Ba nghe con ngâm mấy câu trái hẳn với ý của ba, chắc ba giận con lắm hả?
- Không, ba không giận, làm sao ba giận con cho được. Song ba buồn.
- Tại sao ba buồn?
- Ba buồn vì ba dạy dỗ con, đã mười mấy năm nay, công phu lắm, ba làm cho trí con minh mẫn được, làm cho con biết phân biệt cao thấp, khôn dại, dữ lành, mà ham cái khôn, cái cao, cái lành, và ghét cái thấp cái dại, cái dữ. Còn có một chút nữa, là cái lòng của con, ba không làm cho thoát khỏi lòng thế tục được, ba buồn là buồn chỗ đó.
- Ba muốn cho con thoát tục chi vậy? Con được sanh trong dương thế lại có phước được làm con người, thì con phải làm con người cho hoàn toàn đến 100 phần 100 chớ ba. Ai làm sao con phải làm như vậy, nếu thoát tục, không chịu như thiên hạ thì sự sống của con có vui vẻ gì đây?
- Những việc của thiên hạ làm có chỗ nào cao thượng đâu mà con mong làm theo họ? Những đường của thiên hạ đi có quãng nào sạch sẽ đâu mà con muốn đi theo họ?
- Con nói làm như thiên hạ là con tính chung lộn với họ, rồi tranh đấu hay bay nhảy mà làm cho sự sống của con được sung sướng, đẹp đẽ, vui vẻ mà thôi, dầu họ làm việc đê tiện, dầu họ đi đường dơ dáy thì mặc họ, trí ý của họ có can hệ gì đến con đâu mà ba ngại.
- Lội xuống vũng bùn, làm sao khỏi lấm chân cho được.
- Chớ đứng trên chỗ cao ráo, mà đứng một mình, thì làm sao mà vui được, lại biết lấy chi so sánh mà phân biệt thấp cao, dơ sạch. Con tưởng nên lội xuống dưới bùn với thiên hạ, song giữ gìn đừng để lấm chân, rồi khuyến khích thiên hạ làm như mình, thủng thẳng kéo vớt họ lên trên cao đứng với mình cho đông, được như vậy ở trên cao mình mới vui.
Tự Cường lắc đầu nói: "Hứ! Nói hơi giống rặc".
Thanh Nguyên chúm chím cười và hỏi: “Giống ai vậy ba?”
Tự Cường đáp: "Giống triết lý của phái vật chất".
Thanh Nguyên gật đầu và nói "mà lẽ có cũng giống chủ nghĩa của phái lãng mạn nữa a!"
Cô kéo một cái ghế lại để một bên cha mà ngồi, rồi một tay cô nắm cánh tay cha, một tay cô vuốt tóc của cha luôn mà nói dịu ngọt rằng: "Gió mát mẻ, trăng sáng loà, hoa thơm tho, đời vui vẻ quá. Thiên hạ họ đều đua nhau hưởng những thú sung sướng, những mùi ngọt bùi, tại sao ba không muốn con chung hưởng với thiên hạ?"
Tự Cường lắc đầu rồi thở dài đáp:
- Đó mới thiệt là lãng mạn! Mùi đời có ngọt bùi mà cũng có cay đắng, thú đời có sung sướng mà cũng có cực khổ. Ý ba muốn cho con khỏi chịu cực khổ cay đắng mà thôi chớ. Con còn trẻ tuổi, máu con còn nóng nảy, trí con còn hăng hái, nhứt là con chưa bước chân vào thế đạo, con chưa có kinh nghiện nên con thấy bề mặt của đời đẹp đẽ hớn hở con ham. Chừng một ít năm nữa, con lớn khôn, con nếm đủ mùi của đời, con thấy rõ bề mặt trái của xã hội rồi, con mới thấu hiểu cái lý thuyết của ba không phải dở.
- Tại ba thấy thiên hạ giả dối, không có liêm sỉ, không biết nhân nghĩa nên ba chán ngán, rồi ba không muốn cho con chung chạ với thiên hạ phải hôn?
- Phải, nhứt là con không có mẹ, mà con chung chạ với cái đời như vậy lúc con còn xuân xanh, làm sao mà ba không lo cho được.
Thanh Nguyên nghe mấy lời ấy thì cô ứa nước mắt, ngồi buồn so.
Tự Cường thấy vậy, ông lấy làm ăn năn nên ông nói:
- Bậy quá! Con đương vui, mà ba vô ý làm cho con buồn!
- Không, có bậy đâu. Đó là ba ngăn cản bớt cái hăng hái của con chớ. Huống chi má chết hồi con còn nhỏ mới đẻ nên con không biết má. Lâu ba nhắc lại như vậy đặng con khỏi quên má chớ.
- Mấy lời con nói đủ cho ba thấy tánh con rõ ràng. Con là gái đa sầu đa cảm. Con có cái tánh ấy mà con chung lộn với đời, ba càng thêm lo sợ.
- Con tưởng không hại chi hết. Họ là họ, mình là mình, dầu mình ở chung với họ, mà mình có phải là họ đâu mà ba lo. Đem con gà ba nhốt chung với bầy vịt, thì bao giờ gà cũng là gà, chớ có thành vịt được đâu mà sợ. Huống chi đời cần phải có kẻ dại mới nổi người khôn lên, cần phải có kẻ quấy mới lòi người phải ra chớ. Người khôn, người phải nếu ở riêng một cõi, thì cái khôn cái phải đó ai thấy được.
- Con nói nghe cũng phải, ngặt vì thiên hạ họ không phân biệt dại với khôn, quấy với phải. Đám dại họ cho rằng khôn, đám quấy họ lại cho là phải. Đời trái ngược như vậy mình chen chân vào đó làm gì. Để thiên hạ loi nhoi trong chỗ hỗn độn ấy. Mình lánh xa rồi để chí làm bạn với nước non vui say với trăng gió mà chơi cho sạch thân, cho khoẻ trí.
- Ba nói nghe xưa quá! Sanh về thế kỷ 20 mà lập chí theo thế kỷ 15, thì con sợ e trái mùa quá. Con tưởng không nên lội ngược dòng nước, trái lại, phải lội với thiên hạ mới được.
- Ồ! Con nhiễm theo tâm hồn mới rồi!
- Có lẽ. Mà lỗi không phải tại con. Trái lại tại ba mua sách xã hội ba cho con đọc. Tự nhiên con phải nhiễm theo những tư tưởng của nhà triết học đồng thời chớ sao.
- Ba nuôi con, ba dạy con, ba muốn để cho con tự do hoàn toàn, tự do về phần xác, mà cũng tự do về phần trí nữa. Sự tự do ấy có lợi, mà cũng có hại, vậy con phải coi chừng. Đọc sách để mở trí chớ không phải để lập tánh. Thiệt hồi nãy ba nghe con ngâm mấy câu.
"Vòng cạnh tranh, lấy mình làm chí,
"Kể nghĩa nhân, luân lý mà chi,
"Tìm đường sung sướng mình đi,
"Miễn là tới chốn, thị phi mặc dầu".
Ba nghe mấy câu đó ba sợ quá.
- Mấy câu đó hạp với luân lý của người đời nay lắm chớ.
- Phải. Hạp lắm. Mà vì hạp nên ba mới lo.
Thanh Nguyên cười ngất. Cô đứng dậy lấy gói thuốc với cái hộp quẹt đưa cho cha rồi nói:
- Hôm nọ con đọc quyển sách "Tân xã hội", con lấy làm bực tức, nên con đặt mấy câu ấy để đọc với anh Hữu Nhơn mà cười chơi, chớ nào phải tâm hồn con hư vậy hay sao mà ba sợ.
- Quyển sách "Tân xã hội" luận thế nào mà con bực tức?
- Ba mua hôm tháng trước mà ba chưa đọc hay sao?
- Chưa.
- Tác giả tả luân lý của xã hội đúng lắm. Ba đọc rồi ba sẽ thấy. Tác giả nói đời mới phải luân lý mới. Ở về đời cạnh tranh, phải có luân lý cạnh tranh thì mới khỏi thất bại.
- Luân lý cạnh tranh là luân lý gì?
- Luân lý ấy nói tóm lại trong mấy câu như vầy:
"Ở đời mình phải lo lấy phận mình, bởi vì không ai lo bào chữa quyền lợi riêng của mình cho bằng mình được”
"Mình phải tập cho đủ nghị lực tranh đấu đặng chống cự với thiên hạ".
"Đừng có vì lễ nghĩa mà nhượng bộ, hoặc ái ngại, bởi vì lễ nghĩa coi đẹp mắt, nghe êm tai, mà không có lợi".
Tự Cường nằm chăm chỉ mà nghe. Chừng Thanh Nguyên nói dứt lời, thì ông thở dài và đứng dậy nói rằng: "Người viết như vậy thì hiểu rõ tâm lý của xã hội hiện thời lắm. Nhưng mà con chẳng nên giận lẫy rồi con làm quá hơn thiên hạ nữa. Con biết luân lý của họ như vậy thì con nên lánh xa".
Thanh Nguyên trợn mắt ngó cha và đáp: "Con không lánh họ đâu. Họ có luân lý của họ, con cũng có luân lý của con, con sẽ chen với họ mà hưởng mùi đời, song hưởng mùi ngọt bùi mà thôi, lại lo làm cho nhiều người khác cũng được hưởng như con vậy".
Tự Cường rún vai bước ra ngoài hàng ba, đi qua đi lại mà hứng gió.
Thanh Nguyên ra đứng tại cửa mà nói:
- Con muốn xin phép ba chiều thứ bảy cho con đi ra Vũng Tàu mà hứng gió biển, rồi chiều chủ nhật con sẽ về.
- Con đi với ai?
- Để con rủ anh Hữu Nhơn đi với con. Nếu ba rảnh ba đi nữa thì càng thêm vui.
Tự Cường suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Nếu con muốn, thì ba sẽ đi với con.
- Ba cho phép con mời anh Hữu Nhơn đi không?
- Hữu Nhơn là bạn thiết của con, con muốn rủ đi theo chơi cũng được, có chật xe đâu mà sợ.
Thanh Nguyên mừng rỡ, chạy lại cặp cánh tay của cha rồi đi qua đi lại, nói nói cười cười không dứt tiếng. Cô thấy anh sớp-phơ đi ra đằng cửa ngõ, thì cô kêu mà dặn: "Anh Tư, ngày mai anh đưa ba tôi đi dạy và đưa tôi vô trường rồi, anh về phải coi vô dầu mỡ cho kỹ lưỡng đặng chiều thứ bảy tôi đi Vũng Tàu hứng gió, nhé."
Hữu Nhơn là một người trai, năm nay đã được 23 tuổi nhưng vì chàng nhỏ vóc, lại con nhà giàu, từ nhỏ cứ đi học chớ không làm viêc lao động, mà cũng không tập thể thao, nên gương mặt coi còn non ai cũng tưởng chàng mới 19 hoặc 20 tuổi.
Chàng đã thi đậu Tú tài kỳ thứ nhứt rồi, hiện bây giờ chàng đương học lớp triết học tại trường Chassloup-Laubat như cô Thanh Nguyên. Mấy năm nay chàng với cô học chung một lớp với nhau hoài, nên quen biết nhau nhiều, lại mến nhau mà đàm luận, bởi vậy tuy chàng ở trong trường, song chúa nhựt chàng hay lên Phú Nhuận mà thăm cô, có khi ở chơi đến tối mới vô trường.
Ông Tự Cường dưỡng nuôi và dạy dỗ con, ông để cho con được tự do, lại ông thấy cử chỉ của con còn cử chỉ con nít nên ông không ái ngại về sự trai gái kết niềm bằng hữu.
Vì Thanh Nguyên đã mời trước, Hữu Nhơn xin phép ông hiệu trưởng cũng rồi, nên chiều thứ bảy tan học rồi hai trẻ đi với nhau ra ngoài cửa trường đứng chờ xe của ông Tự Cường lại rước đi Vũng Tàu, hai trẻ đi lên đi xuống dài theo lề đường nói chuyện, cô hớn hở vui cười, chàng bình tĩnh nghiêm nghị.
Chờ gần nửa giờ mới thấy xe ông Tự Cường lại. Xe vừa ngừng thì ông nhảy xuống nói rằng: "Chờ lâu lắm hả? Mắc chạy xuống chợ mua đồ đem theo xe mà ăn, vì sợ ra tới Vũng Tàu khuya quá rồi đói bụng. Thôi lên xe đặng đi cho sớm".
Thanh Nguyên hỏi sớp-phơ có đem cái va-ly áo quần cô giao hồi trưa đó không. Sớp-phơ nói có, cô mới leo lên xe ngồi chính giữa. Tự Cường ngồi bên tay mặt, còn Hữu Nhơn thì ngồi bên tay trái.
Xe chạy khỏi Biên Hoà, Tự Cường bèn trao hai gói bánh mì và thịt hộp cho Thanh Nguyên, và biểu cô mở ra ăn. Cô mở gói bánh mì, lấy một ổ đưa cho cha, rồi lấy một ổ bẻ hai đưa cho Hữu Nhơn phân nửa, còn phân nửa thì cô ăn.
Cô cũng phân phát thịt rồi ăn ngon lành.
Cô vui vẻ khác thường, nói cười ngả ngớn, còn Hữu Nhơn vốn tánh nghiêm chỉnh, mà chàng lại cung kính Tự Cường, nên chàng ngồi im lìm có hỏi chàng mới dám nói, song nói chàng phải lựa lời, chớ không lả lơi vụt chạc.
Vì xe chạy chậm, nên quá 8 giờ rưỡi tối mới xuống tới Vũng Tàu, Tự Cường ghé lại một nhà hàng khách trú mướn hai phòng, một phòng để cho Thanh Nguyên, còn một phòng để ông với Hữu nhơn .
Thanh Nguyên mặc Âu phục, cô vô phòng rửa mặt và trang điểm lại, và xin cha dắt xuống bãi trước hứng gió, cô nói ăn đồ trên xe đã no rồi, không cần ăn cơm nữa.
Tự Cường dắt hai đứa trẻ xuống bãi biển, trên trời mặt trăng tỏ rạng trước mặt thì nước biển mênh mông, lại thêm gió thổi lao rao, trăng dọi nước sáng loà, nước mừng trăng dợn sóng.
Tự Cường ngồi trên một cái băng nhìn trăng xem nước còn Thanh Nguyên với Hữu Nhơn dắt nhau đi dài trên bãi mà chơi, thấy trời nước thì khấp khởi trong lòng, nên bây giờ Thanh Nguyên đứng lại ngó mặt nước lao xao và hỏi Hữu Nhơn:
- Anh ra mé biển như vầy trong lòng anh có vui không?
- Vui.
- Em cũng vậy, thấy biển thì em vui lắm mà biển phải có núi như ở đây, hoặc bên Long Hải hoặc Phan Thiết, Nha Trang em mới chịu chớ bãi biển như bãi Long Thành ở Gò Công, bãi Ba Động ở Trà Vinh thì em không thích. Phải ý anh cũng vậy không?
- Tôi biết Vũng Tàu mà thôi, chớ tôi chưa biết chỗ khác, nên không hiểu tôi có thích mấy chỗ cô nói đó hay không.
- Nhà quê! Anh nói ra mé biển anh vui mà nãy giờ em coi anh ý anh buồn chớ không vui chút nào hết. Tại sao vậy? Hay là tại anh đi chơi với em, nên anh không vui?
Hữu Nhơn châu mày ngó ngay Thanh Nguyên, trăng tỏ soi mặt cô sáng rỡ, lại thêm gió phất tóc cô vướng hai gò má, làm cho cô càng thêm duyên, chàng ngó cô rồi châu mày cúi mặt mà nói:
- Cô nói kỳ quá. Sao đi chơi với cô mà tôi lại không vui? Nếu không vui thì tôi đi làm chi đây?
- Anh vui mà sao từ hồi mới lên xe cho tới bây giờ không nghe anh cười một lần nào hết?
Hữu Nhơn đứng trơ trơ, dường như kiếm không ra lời để đáp.
Thanh Nguyên cười ngất và nói: "Đó rõ ràng anh buồn đó, thấy chưa.”
Hữu Nhơn gật đầu rồi chậm rãi nói nhỏ nhỏ. "Lời cô nói quả đúng như vậy. Không hiểu tại cớ nào, mà gần một năm nay, hễ tôi ngó mặt cô trong lòng tôi có cái gì không biết, nó làm cho tôi khó chịu buồn bực quá".
- Nếu vậy thôi, từ rày sắp lên em không dám cho anh thấy mặt nữa.
- Không phải vậy.
- Chớ sao? Nếu thấy mặt em mà anh khó chịu, cho anh thấy mặt làm gì.
- Bữa nào không thấy mặt tôi lại còn buồn hơn nữa. Như thứ năm, chủ nhựt cô không đi học tôi chịu không được, trông tới sáng cho mau đặng cô vô trường để tôi gặp cô.
- Nói kỳ quá! Thấy mặt thì buồn, mà không thấy cũng buồn, nói như vậy thì làm sao hiểu được.
Hữu Nhơn ngó mông ra biển, mà nói nhỏ nhỏ: "Dễ hiểu lắm, có chi đâu. Tại tôi thương cô, nên lòng tôi mới khó chịu như vậy đó".
Thanh Nguyên đưa hai tay mà xô vai của Hữu Nhơn một cái rất mạnh đoạn cười ngất và nói lớn: "Anh điên hả? Thương thì vui, chớ sao lại buồn. Anh vui đi. Em cấm anh không đựơc buồn nữa".
Hữu Nhơn lắc đầu ngồi bẹp dưới cát và nói: "Tôi nói như vậy cô lại cười, thiệt cô không hiểu gì hết! Cô làm cho tôi càng buồn thêm chớ có vui làm sao đựơc".
Thanh Nguyên cũng bắt chước ngồi bẹp trên cát duỗi hai cái chân ngay trước mặt, chống hai tay phía sau lưng, nẩy ngực, liếc mắt ngó Hữu Nhơn và đáp:
- Em vui lắm, chớ em có buồn đâu mà không cười. Tại sao mà phải buồn?
- Nếu vậy thì tôi thương cô mà cô không thương tôi.
- Em cũng thương anh vậy chớ. Nếu em không thương thì mấy năm nay hễ đến giờ nghỉ học em thèm kiếm anh mà nói chuyện đâu, chúa nhựt em có thèm rủ anh lên nhà chơi làm chi.
- Đó là cô ưa tôi chớ không phải thương.
- Theo tiếng Việt Nam ưa cũng như thương, hai tiếng có một nghĩa.
- Không. Khác nghĩa chớ, mình ưa một người nào nghĩa là mình thấy cử chỉ, hoặc tánh người ấy vừa ý, nên hễ gặp thì mình vui mình muốn tới lui nói chuyện chơi. Còn thương một người nào có nghĩa là mình yêu mến người ấy, muốn gần nhau luôn luôn… muốn làm vợ chồng… hễ xa cách người ấy thì mơ tưởng thương nhớ ăn ngủ không được.
- Ồ! Cái thương anh nói đó là thương về ái tình- chớ gì!
- Phải tôi thương cô là thương như vậy đó. Còn cô thương tôi, phải cô cũng thương như vậy không?
- Không.
- Tôi khốn nạn lắm! Tôi vô phước thiệt! Nếu vậy thì còn học làm gì nữa.
Hữu Nhơn nói xong rưng rưng nứơc mắt. Nhờ trăng tỏ rạng, Thanh Nguyên thấy rõ mặt chàng buồn thảm thì cô động lòng, nên cô đã hết vui cười nữa, mà cô lấy tay đùa cát suy nghĩ.
Trăng vẫn tỏ, gió vẫn mát, núi vẫn chần ngần sau lưng, nước vẫn mênh mông trước mặt, mà hai trẻ vẫn ngồi im lìm, đã không nói chuyện và cũng không ngó nhau nữa. Cách một hồi lâu Thanh Nguyên mới hỏi nhỏ nhỏ.
- Tại sao anh lại thương em mà thương về ái tình?
- Tôi có biết đâu. Có lẽ tại tôi học chung một lớp với cô mấy năm nay, tôi yêu cô mỗi ngày một chút, lần lần rồi tôi mới sanh mối ái tình trong lòng tôi.
- Còn tại sao bữa nay anh nói cho em biết làm chi vậy?
- Tôi muốn nói cả năm nay rồi, mà mỗi lần nói chuyện với cô, tôi tính bày tỏ tâm sự của tôi, thì có cái gì không biết nó khiến cho tôi ngần ngại hoài, mở miệng không được. Hồi tôi ngồi một bên cô trên xe tôi lấy làm khó chịu, nên tôi quyết định ra đây tôi sẽ nói phứt một lần cho rồi, nếu cô không thương tôi, thì tôi quyết định bỏ đi về làm ruộng cho rồi:
- Nếu em không thương anh, thì sẽ có người khác thương, chuyện gì mà phiền đến nỗi bỏ học.
- Tôi nói thiệt với cô, dầu tiên trên trời xuống tôi cũng không thèm nữa. Tôi phải cưới cho đựơc cô làm vợ mà thôi nếu không được chắc tôi buồn tôi phải chết.
- Lửa ái tình nhen nhúm trong lòng anh là tại anh đọc tiểu thuyết nhiều quá. Nếu anh lựa sách xã hội, hoặc triết lý mà đọc như em, chắc anh khỏi bị cái hoạ ấy.
- Phải lắm. Có lẽ tại như vậy mà bây giờ ngọn lửa đã cháy bừng lên rồi, biết làm sao!
- Phải dụi tắt đi. Hai anh em mình còn đương học mà gây ái tình thì học sao được.
- Có hại chi đâu. Không phải tôi tính cưới cô liền bây giờ. Tôi muốn biết trước coi cô có ưng làm vợ chồng với tôi hay không, rồi ít tháng nữa thi tú tài xong rồi tôi sẽ xin cha mẹ tôi lên nói với ông mà cưới cô. Tôi muốn biết trước đặng tôi yên lòng mà học. Cô chịu hứa làm vợ tôi hay không?
Thanh Nguyên châu mày ngồi nín khe không chịu trả lời liền, làm cho Hữu Nhơn bồi hồi trông đợi hết sức. Cách một hồi cô đứng dậy phủi cát trong áo quần. Hữu Nhơn cũng đứng dậy mà nói:
"Tôi xin cô trả lời giùm câu tôi mới hỏi đó"
Thanh Nguyên ngó ngang Hữu Nhơn mà đáp:
- Lấy chồng là điều quan hệ nhứt trong đời của con gái. Thuở nay em mắc lo học, em chưa có để ý đến việc ấy. Anh hỏi thình lình quá, nên em không biết làm sao mà trả lời.
- Cô cần phải suy nghĩ hay sao?
- Cần lắm. Từ hồi nhỏ cho tới bây giờ em tự do, muốn làm việc chi hay là muốn đi đâu, ba em cũng để cho em thong thả luôn luôn. Em sợ lấy chồng em mất tự do hết. Vì vậy nên em cần phải suy nghĩ, phải cân coi cái lạc thú vợ chồng nó có nặng bằng cái lạc thú tự do không chớ .
- Tôi hứa chắc với cô, hễ cô làm vợ tôi thì tôi sẽ để cô được tự do, chớ chẳng bao giờ tôi kiềm chế cô đâu mà sợ .
- Hễ có chồng rồi thì còn tự do gì nữa được đến tên họ cũng còn phải mất nữa ạ. Bây giờ em đi đâu em xưng em là Mademoiselle Thanh Nguyên. Nếu em làm vợ anh, em xưng như vậy nữa sao được, em phải xưng Madame Hữu Nhơn. Mất tên rồi.
- Tại phong tục như vậy biết làm sao. Mà đổi tên nghĩ chẳng hại gì.
- Ý! Hại lắm chớ. Cha mẹ đặt tên cho mình, mình phải quí trọng tên ấy. Mình đem mà đổi tên khác, nghĩ cũng đau đớn lắm chớ.
- Phải, cô nói chớm mà tôi hiểu rồi. Cô sợ đem tên trong sạch mà đổi lấy tên hèn hạ, nên cô ái ngại. Ví dụ đem tên trong sạch mà đổi lấy tên khác cũng trong sạch có lỗ lãi chi đâu mà sợ.
- Mà tại sao anh muốn em làm vợ anh chi vậy? Chớ làm anh em như mấy năm nay vậy không được hay sao?
- Tại, tôi thương cô .
- Thôi, anh đừng thương em, anh thương người khác đi.
- Tôi không thèm ai hết.
- Hứ! Đời bày tục kỳ cục. Thương thì phải kết vợ chồng, thương như vậy thấp thỏm quá, chớ có cao thượng gì đâu. Kết vợ chồng rồi sanh con, rủi chết bỏ chồng, bỏ con như má em vậy, thì khốn nạn quá, có vui sướng chỗ nào đâu.
- Lập gia thất là nghĩa vụ của loài người, dầu trai hay gái cũng phải vậy, cô quên hay sao?
- Bắt chước theo sách, mà lại sách xưa nữa! Anh nói thế ấy, ba em nghe, ba em phiền lắm.
- Ông không muốn cho cô lấy chồng sao?
- Không phải vậy. Ba em nghịch với chủ nghĩa gia đình chớ.
- Ạ! Tại bà mất ông buồn, nên ông mới nghịch.
- Có lẽ tại vậy. Thôi, trở về kẻo ba em trông.
- Khoan xin cô trả lời câu hỏi hồi nãy rồi sẽ về.
- Em đã nói để cho em suy nghĩ rồi em sẽ trả lời.
- Cô làm như thế nầy chắc tôi buồn rầu tôi học không được nữa .
- Chớ phải làm thế nào anh mới vui?
- Cô phải làm cho tôi có cái hy vọng sẽ làm chồng cô được thì tôi mới vui.
- Anh cứ nuôi cái hy vọng ấy đi.
- Phải nuôi chừng nào cái hy vọng ấy mới thành sự thiệt?
- Có lẽ tới chừng chúng ta thi đậu Tú tài kỳ nhì rồi.
Hữu Nhơn vội vã nắm tay Thanh Nguyên vừa cười vừa nói: "Cám ơn. Tôi cám ơn cô lắm, cô làm cho lòng tôi bây giờ phơi phới, trí của tôi bây giờ sáng sủa, mắt tôi thấy tương lai đẹp đẽ xán lạn vô cùng. Tôi sẽ đền bồi cái ơn ấy bằng tấm lòng yêu mến vô hạn. Tôi hứa chắc tôi sẽ đem hạnh phúc rải dài theo đời cô. Tôi sẽ làm cho cái đời của cô là đời tiên nga, đã không ưu sầu, lại hưởng đủ mùi ngọt ngon trong trần thế. Tôi chắc tôi sẽ làm được"
Thanh Nguyên nghe Hữu Nhơn nói thì cô cười. Chừng chàng nói dứt rồi, cô nói: "Lãng mạn quá! Tiểu thuyết quá! Em sợ một ngày kia anh sẽ điên vì tình".,
Hữu Nhơn nói; "Được kết chung tình với cô, dầu phải điên tôi cũng vui lòng".
Hai người kề vai nhau thủng thẳng trở lại chỗ ông Tự Cường ngồi, ngoài biển vẫn mênh mông, trong núi vẫn đồ sộ.