Khi chúng ta ốm và nằm liệt giường, chúng ta không cần phải thất vọng. Chúng ta vẫn có thể hành thiền khi chúng ta nằm trên giường. Chúng ta có thể quan sát tâm và thân chúng ta. Chúng ta có thể giành được bình tĩnh và sức mạnh bằng cách hành thiền hơi thở. Chúng ta có thể quan sát sự hít vào và thở ra, biết chúng ta hít vào và thở ra. Việc này có thể cho chúng ta ấn tượng bình tĩnh. Hay chúng ta có thể quan sát cái bụng phồng lên và xẹp xuống khi hít vào và thở ra. Tâm của chúng ta có thể đi theo sự lên xuống, và hòa nhập với nó. Việc này cũng có thể cho ta sự bình tĩnh. Và từ sự bình tĩnh này, sự hiểu biết có thể phát sinh. Chúng ta có thể nhìn thấy tính chất nhất thời và hủy diệt của tất cả các hiện tượng, và có thể hòa hợp với sự thật về vô thường, bất toại nguyện và vô ngã.
Nếu chúng ta đã học thiền chánh niệm hay thiền Minh Sát[*], thời gian có thể trôi qua dễ dàng. Có nhiều đối tượng chúng ta có thể quan sát trong bất cứ tư thế nào dù nằm, ngồi đi hay đứng. Chúng ta có thể biết tư thế của chúng ta đang ở tư thế nào, và cảm thấy những cảm giác phát sinh trong thân chúng ta. Chúng ta có thể quan sát chúng bằng cái tâm vững vàng và bình thản. Và lẽ đương nhiên, tâm cũng phải là đối tượng quan sát. Cho nên chúng ta có thể quan sát các trạng thái của tâm. Tất cả đều có thể được quan sát – buồn bã, thất vọng, bồn chồn, lo lắng, suy tư – và tất cả chúng phải qua đi nhường bước cho trầm tĩnh, an lạc và trí tuệ. Trạng thái thiện và bất thiện đến rồi đi. Chúng ta có thể quan sát tất cả chúng bằng sự hiểu biết và trầm tĩnh. [*] Thiền Minh Sát tức Tuệ giác thiền hay Chánh niệm thiền. Trong Thiền Minh Sát, hành già dùng chánh niệm để quan sát bản chất hiện tượng tinh thần và thể chất, cuối cùng nhận thấy cái đặc điểm của vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Với sự giới thiệu vào thiền Minh Sát, và sự tu tập một loại thiền khác gọi là từ bi thiền, hay thương yêu-khả ái thiền, xin mời bạn xem "Thiền Minh Sát" và "Kiềm Chế Nóng Giận Trải Rộng Tình Thương", cả hai đều cùng một tác giả và phát hành bởi Trung Tâm Thiền Mã Lai, Penang
Ðôi khi chúng ta có thể biểu lộ lòng thương yêu-khả ái. Lập đi lập lại nhiều lần chúng ta có thể nguyện cho tất cả chúng sinh:
Nguyện cho chúng sinh tất cả đều được khỏe mạnh và hạnh phúc
Nguyện cho chúng sinh đều thoát khỏi tổn hại và hiểm họa.
Nguyện cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau tinh thần.
Nguyện cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau thể xác.
Nguyện cho chúng sinh có thể chăm lo cho chính mình một cách hạnh phúc.
Cũng bằng cách đó thì giờ có thể trôi qua một cách hoàn toàn thích hợp cho dù chúng ta nằm liệt giường. Chúng ta có thể truyền lòng từ bi-khả ái đến các bác sĩ, y tá và các bệnh nhân đồng cảnh ngộ. Chúng ta cũng có thể truyền từ bi khả ái đến những người thân, họ hàng và bè bạn chúng ta. Hơn thế nữa chúng ta có thể thỉnh thoảng suy nghĩ về Phật Pháp, nhớ lại những gì chúng ta đã đọc, nghe hay hiểu biết. Suy nghĩ như vậy, chúng ta có thể đáp lại được khổ đau của chúng ta bằng trí tuệ và trầm tĩnh.
Giáo huấn của Ðức Phật là trau dồi tâm, hành thiền, và làm như vậy cả khi chúng ta bị ốm đau. Thật ra, vào những thời điểm như vậy chúng ta cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để tập trung chánh niệm của chúng ta. Ai biết, Niết Bàn hay trí tuệ tối thượng, có thể đạt được vào lúc trút hơi thở cuối cùng! Trong kinh, Ðức Phật có kể trường hợp một người ốm – bị khổ sở vì cảm giác đau đớn thể xác, buồn bã, đau dữ dội, hành hạ, làm quẫn trí, khó chịu làm tàn lụi cuộc sống. Nhưng con người ấy không ngã lòng. Người ấy cảm thấy samvega - một ý thức cấp bách phấn đấu dù ở vào những giờ phút cuối cùng. "Người ấy đã cố gắng phù hợp" Ðức Phật nói, "Tâm của người ấy kiên quyết vào Niết Bàn, Người ấy đã tự mình nhận thức được chân lý tối thượng, người ấy thấy Niết Bàn bằng cách thâm nhập vào bằng trí tuệ".
Ðúng là, đúng là người chủ hộ bị ốm, thân của ngươi yếu và gây trở ngại. Vì ai mang cái thân này, hỡi này chủ hộ, chỉ muốn sức khỏe chốc lát thì hoàn toàn ngu dại. Hỡi này chủ hộ, vì vậy, ngươi phải tự rèn luyện:
"Dù thân bệnh, tâm tôi không bệnh."
Hỡi này chủ hộ, vì vậy, ngươi phải tự rèn luyện.
Tôi muốn nói với bạn về một hành giả du già can đảm, đã chết êm ả do bệnh ung thư với tiếng "Niết Bàn" trên môi. Tên bà là Kuai Chan và bà ra đi vào ngày 18 Tháng Chạp Năm 1992 tại Kuala Lampur. Bà bốn mươi ba tuổi. Chồng bà, Billy, kể cho tôi nghe bà đã đương đầu với bệnh tình ra sao. Thấy câu chuyện đầy hứng thú, nhất là đối những hành giả du già (tu thiền), tôi xin phép ông được kể lại trong sách này, và tôi cảm ơn ông đã đồng ý cho phép tôi.
Bà Kuai Chan được chẩn bệnh lần đầu tiên với bệnh ung thư vú vào tháng 4 năm 1989. Vào thời gian này bà đã tu tập thiền Minh Sát vào khoảng độ một năm. Bà bình tĩnh chấp nhận bệnh tình. Billy nói, "Vợ tôi chấp nhận bệnh, đó là cái nghiệp của bà" (nghiệp là một định luật tự nhiên của nguyên nhân và hậu quả). Bà không đổ cho ai hay bất cứ cái gì. Bà cũng không cay đắng hay rơi vào tình trạng ngã lòng. Bà hết sức vững vàng và giữ bình thản cho đến lúc chết". Kuai Chan đã trải qua phẫu thuật để loại bỏ vú bị nhiễm. Ba tháng sau bà lại phải giải phẫu lẫn thứ hai khi người ta thấy những tế bào ung thư vẫn còn ở trong khu vực này. Sau đó bà được xạ trị và hóa trị có tác động phụ tối thiểu. Trong suốt thời kỳ chữa bệnh ung thu vú và trong sáu tháng cuối đời khi được chẩn đoán là bệnh ung thư phổi giai đoạn cuối, bà đã từ chối không uống một thứ thuốc giảm đau nào. Billy nói, "Bà không muốn thứ thuốc giảm đau nào". Cả đến khi cơn đau lên đến cực độ bà vẫn từ chối không uống thuốc giảm đau, ngay cả đến một viên Panadol. Bà là một người kiên quyết, rất mạnh mẽ và đáng khâm phục"
Quyết định không chữa trị bằng thuốc giảm đau vì bà muốn giữ tâm bà càng trong sáng và tỉnh táo càng tốt. Bà là hành giả du già, và tất cả những hành giả du già trân quý chánh niệm. Họ không muốn một thứ thuốc nào làm cho tâm họ trì độn và làm hại sự thiền định của họ. Cho nên nếu họ lâm bệnh họ sẽ làm như vậy. Kuai Chan đã sửa soạn đối đầu với cái đau nên bà đã từ chối thuốc giảm đau. Bà chỉ chấp nhận xạ trị - hóa trị cho ung thư vú của bà vì phương pháp này có thể dẫn đến chữa lành bệnh. Nhưng về sau, bà bị ung thư phổi và được cho biết đã ở giai đoạn cuối bà đã từ chối chữa bằng xạ trị-hóa trị mà bệnh viện đề nghị làm cho bà đỡû tức thở. Và khi bác sĩ đề nghị thuốc giảm đau như morphine, bà cũng từ chối.
Billy cho biết khi trong đợt ung thư vú đầu tiên Kuai Chan có một chút khó khăn với cơn đau sau khi giải phẫu. Là hành giả du già, bà đã có thể nhận thấy cơn đau rất rõ ràng và cơn đau sẽ biến đi. Nhưng ung thư phổi là một sự thử thách thực sự với bà. Cơn đau luôn lên đến cực điểm nhưng bà vẫn từ chối không dùng thuốc. Có nhiều lúc bà bị ngất xỉu và ngã sóng soài trên sàn nhà khi cơn đau đột phát. Nhưng bà vẫn bình tĩnh. Bà cũng bị ho dữ dội dai dẳng nhiều ngày đêm. Billy ở bên cạnh bà và khi thấy bà không ngủ được ban đêm ông cố làm bà dịu cơn đau bằng cách xoa dầu, chà sát và những cách chữa trị truyền thống. Billy đưa ba đến các thầy thuốc Trung Hoa và mua nhiều loại thuốc bắc và sắc lên cho bà uống.
Billy nói chính niềm tin tưởng và thiền định đã khiến bà có thể đối đầu với khổ đau với một mức độ thanh thản và tự tại phi thường. Cả hai đều đã hành thiền với Thượng Tọa Sujiva tại một đạo tràng tại Ðài Bắc năm 1988. Sau đó Kuai Chan tiếp tục tham gia thường xuyên các đạo tràng khổ hạnh của Thượng Tọa Santisukharama tại Kota Tinggi, Johor.
Khi được chẩn đoán bị ung thư phổi sau đợt ho vào tháng bẩy năm 1992, bác sĩ cho biết bà chỉ sống được một tháng nữa. Chỉ cho Kuai Chan và Billy hình chụp tia X, ông chỉ rõ ung thư đã lan tràn ra sao khắp cả phổi. Ông cũng rất ngạc nhiên thấy Kuai Chai vẫn đi được và trông rất khỏe mạnh, mặc dù tình trạng ung thư tàn phá phổi của bà. Nhưng bác sĩ không biết là Kuai Chan có một tâm thép. Bà đã sống được sáu tháng nữa. Ðối với bà không phải là một cuộc chiến để sống mà là chết có nhân cách. Khi bà và Billy gặp tôi tại Trung Tâm Trí Tuệ ở Petaling Jaya khi tôi đến thăm nơi đây vào tháng 7, họ hỏi họ có thể làm gì. Tôi bảo họ: Ðiều một hành giả du già có thể làm là thiền định! Nếu tôi là bà tôi sẽ thiền định cho đến lúc cuối cùng. Họ được khích lệ và Kuai Chan kiên quyết dành những ngày còn lại hành thiền tại nhà. Billy nói ông hỗ trợ bà tận tình.
Nhưng bà không cho là cơn đau có thể ghê gớm đến thế. Bà nói bà chưa từng thấy cơn đau nào như vậy. Nhất là ở phần dưới lưng, nóng như đốt và đau như cắt. Bà đã dồn tất cả sức mạnh tinh thần để biết cái đau đớn nhưng bà vẫn không thành công. Nó quá nhiều. Có những lúc bà nằm đó bất lực không nhận biết được cái đau đớn nữa. Bà hơan toàn cam chịu. Nhưng bà vẫn không uống thuốc giảm đau. Bà tham khảo với thầy dạy thiền, Thượng Tọa Sujiva khuyên bà trải lòng từ bi khả ái và tu thiền sổ tức hít thở để giảm thiểu cơn đau khi bà chịu không nổi nữa. Việc làm này khiến cho bà dễ chịu. Từ sự dễ chịu này bà có thể tiếp tục thiền minh sát. Một hôm sau ba tuần chiến đấu với cơn đau dai dẳng, bà có một kinh nghiệm độc đáo. Bà nói với Billy trong khi nhận thấy cái đau như cắt, bà quan sát thấy nó càng ngày càng nhỏ đi cho đến khi nó biến hẳn. Bà nói bà cảm thấy như tất cả giác quan đều bị cắt bỏ, như thể không có danh-sắc (tâm và thân) vào lúc đó tâm và thân đã cùng nhau biến đi với cái đau. Bà nói với Billy bà cảm thấy giống như bà trải nghiệm Niết Bàn, và bà cảm thấy cực kỳ sung sướng. Sau kinh nghiệm này, bà không bao giờ gặp phải loại đau đớn cực độ nữa.
Mười ngày trước khi lâm chung, Billy mang bà vào một bênh viện tư vì bà khó thở. Bác sĩ đặt ống dưỡng khí cho bà. Hình chụp tia X cho thấy những tế bào ung thư đã lan rộng hơn nữa làm trầm trọng sự nghẹt thở. Chữa bằng xạ trị – hóa trị được đề nghị không phải là có thể chữa lành bệnh mà chỉ để giảm nhẹ bệnh tình. Nhưng Kuai Chan không muốn tâm mất sáng suốt nên bà đã từ chối. Sau năm ngày bà đòi Billy đem bà về nhà vì bà cảm thấy không có lý do nào nữa để bà phải ở lại bênh viện. Billy lắp bình dưỡng khí tại nhà, mang bà về nhà và để bà thở qua ống dưỡng khí hầu làm giảm bớt khó khăn về hít thở của bà. Năm ngày sau từ 13 Tháng Chạp đến lúc bà chết ngày 18 Tháng Chạp bà dường như ở trong tình trạng thiêm thiếp ngủ, thỉnh thoảng mới tỉnh dạy. Hai ngày trước khi chết bà vẫn còn nhớ ngày sanh nhật thứ 17 của đứa con gái vào ngày 17 Tháng Chạp. Bà nhắc Billy luộc hai quả trúng cho đứa con gái và cho con gái một bao (lì sì) đỏ, Billy đã làm theo lời bà.
Vào ngày 18 Tháng Chạp, bà tỉnh dạy lúc 9 giờ sáng với một nụ cười. Bà hỏi, "Có phải tôi ngủ không?" Billy trả lời: "Phải đã năm ngày rồi, em biết không?" Bà ngạc nhiên. Bà dường như rất sung sướng và mỉm cười. Bà nói bà không cần uống thuốc bắc nữa. Bà lại nhớ lại ngày sinh nhật của đứa con gái và mặc dầu Billy đã nói cho bà biết là ông đã đưa bao lỳ sì đỏ cho đứa con gái như bà đã dặn, Bà lại nói lần nữa với Billy, "Hãy cho cho đứa con gái một phong bao nữa (bao lì sì khác) nhân danh tôi".
Billy nói, vào khoảng 2 giờ chiều Kuai Chan muốn nói cái gì với ông ta nhưng quá yếu không nói nổi. Billy nhắc bà hãy duy trì tâm trạng vô tư, đừng lo lắng gì về chồng và các con, và cảm thấy tự do để ra đi êm ả. Ông nói, họ đã thảo luận nhiều lần về việc này trước đây, rằng nếu bà có thể lành bệnh thì tốt, và nếu không thể chữa được, thì cũng phải chịu: bà có thể đi một cách thanh tao, hiểu biết nghiệp luật, rằng tất cả chúng ta một ngày đó bắt buộc phải chia lìa.
Vào lúc ba giờ, khi đứa con trai 15 tuổi, đi học về và báo với me: "Mẹ ơi, con đã về", bà hiểu tuy không nói được. Bà gật đầu để ra dấu bà biết.
Vào khoảng ba giờ ba mươi phút, Billy nói, Kuai Chan tận dụng sức lực nói rõ ràng bằng tiếng Quảng Ðông, Woh Yap Niphoon, có nghĩa là "Tôi đã vào Niết Bàn", câu này có ý nói nói là bà tin tưởng bà đã thực hiện hay chứng nghiệm Niết Bàn. Và bà chỉ vào bụng. Ðó là lời cuối cùng của bà, bà ra đi một cách rất êm ả vào khoảng 45 phút sau. Billy nói Kuai Chan, trong lúc hành thiền, thường quan sát sự chuyển động lên xuống của bụng xẩy ra mỗi lần hít vào hay thở ra. Bà thấy sự lên xuống của cái bụng là một đối tượng tốt để đặt tâm vào, và bà thường khuyến khích các hành giả du già nên bám vào đối tượng ấy. Bất chấp hiện tượng nào của thân hay tâm khi ta áp dụng chánh niệm và tập trung vào, cuối cùng ta có thể thấy sự sinh diệt của hiện tượng và đi đến hiểu biết tính chất vô thường, cái bất toại nguyện và vô ngã của chúng. Sự hiểu biết có thể tiến tới đỉnh cao trong việc đạt Niết Bàn, trạng thái chấm dứt khổ đau. Những ô nhiễm của tham sân và si sẽ bị hoàn toàn bị loại bỏ khi chứng nghiệm Niết Bàn đạt được ở trình đô A La Hán[*].[*] Về kinh nghiệm chấm dứt những hiện tượng duyên hợp trong khi thiền định, Niết Bàn có thể đạt được ở bốn bậc thánh quả. Mặc dầu kinh nghiệm của Niết Bàn là chấm dứt những hiện tượng duyên hợp ở tất cả bốn bậc. Niết Bàn chỉ có một vị, đó là vị "an lạc" kết quả về phương diện loại bỏ những ô nhiễm tinh thần tuy nhiên khác biệt ở mỗi bậc của bốn bậc.
Ở bậc thứ nhất Tu Ðà Hoàn (Nhập lưu) tham và sân bị yếu đi nhưng chưa bị loại bỏ hoàn toàn. Hai ô nhiễm này bị yếu đến độ người đắc quả Tu Ðà Hoàn không thể phá năm giới, không giết (cả đến một côn trùng) không trộm cắp hay lùa bịp, không ngoại tình, không nói dối và không uống rượu và không dùng các chất ma túy. Ở bậc thứ hai Tư Ðà Hàm (Nhất Lai), những ô nhiễm bị yếu hơn nữa. Ớ bậc thứ ba A Na Hàm (Bất Lai), lạc thú nhục dục và sân hoàn toàn bị loại bỏ. Nhưng vẫn còn dấu vết của vô minh và ham thích một thiên nhiên không nhục dục, có nghĩa là một ham thích dược tái sinh vào cảnh trời Phạm Thiên không nhục dục. Ở bậc thứ tư A La Hán (Bất Sanh, quả thánh hoàn toàn) tất cả ham muốn/ tham đều bị loại bỏ. A La Hán sống kiếp cuối cùng và không còn bị tái sinh nữa.
Billy nói khi giờ phút cuối cùng sắp tới, mặt của Kuai Chan rạng rỡ, khi bà nói, mắt của bà long lanh và sáng. Vào khoảng 4 giờ 15 chiều, Billy nhận thấy bà đã tắt thở. "Bà trông rất bình thản, thanh thoát. Billy nói, Bà đã ra đi một cách rất an lạc.
Vào khoảng 4 giờ chiều hôm ấy, một người bạn đạo, Lily, cư ngụ ở xa Petaling Jaya 25 cây số, đột nhiên có ý nghĩ trải tâm từ bi-khả ái đến Kuai Chan. Lily ngồi xuống và thiền định, gửi đi tất cả những tư tưởng về từ bi-khả ái đến Kuai Chan. Bà ta nói bà thấy Kuai Chan rất thanh thản trong một ảo ảnh trong suốt như pha lê. Khi bà ngừng thiền, bà ta nhìn đồng hồ lúc đó là 4 giờ 15, cùng lúc Kuai Chan ra đi.
Chết theo cách Kuai Chan đã chết, rõ ràng là một cái chết đẹp đẽ. Cách ra đi nào tốt hơn – với tâm bà tập trung về Niết Bàn. Ai có thể nói cái kinh nghiệm duy nhất nào bà đã trải qua? Chỉ có mình bà biết thôi. Nhưng có một điều chắc chắn là, tâm bà vững vàng vào lúc cuối cùng, hướng về Niết Bàn. Tôi cớ thể nghĩ rằng bà đã đạt Niết Bàn. Nếu bà đã không làm được thế trong đời này, tôi nghĩ rằng bằng tâm vững chắc và cương quyết của bà, bà sẽ trải qua tái sanh lành làm người hay người trời, và sẽ đạt được mục tiêu hằng ấp ủ trong kiếp sống đó.
Là một Phật tử, Bà đã chỉ dẫn cho Billy tổ chức cho bà một tang lễ đơn giản, không có những nghi lễ và nghi thức không cần thiết. Theo ý muốn của bà, Billy đã thu xếp việc hỏa táng vào ngày hôm sau. Một vài nhà sư Phật Giáo, một số hành giả du già và bạn bè tụng kinh Phật. Tang lễ rất giản dị theo lời bà yêu cầu. Billy thu thập tro cốt và đem rắc tại cây bồ đề tại thiền đường sư phụ của họ tại Jahor.
Hồi tưởng lại đời sống cùng nhau, Billy nói Kuai Chan là một người vợ tốt nhất mà ông đã có được: "Chúng tôi lấy nhau đã 22 năm và bà đã sát cánh với tôi qua thăng trầm, qua nhiều thử thách và cực khổ. Bà có một tâm tính vui tươi và hoạt bát. Bà bao giờ cũng thương yêu và ân cần. Ngay cả lúc bà ốm bà vẫn tuyệt vời. Bà không bao giờ phàn nàn. Bà không ngã lòng. Không có giận hờn hay cay đắng nơi bà. Bà vẫn bình tĩnh và vững vàng. Bà vẫn có thể mỉm cười và cười lớn. Bà chấp nhận tất cả khổ đau với thái độ trang nhã. Bà nói thân bà bệnh nhưng tâm bà không bệnh. Tâm bà vẫn sung sức và khỏe mạnh. Sự quan ngại của bà không phải cho chính bà mà cho người khác. Bà nói nếu bà có thể sống thêm 10 năm nữa, bà sẽ thực hành Phật Pháp nhiều hơn. Bà rất quan tâm đến tôi và những đứa con.
"Thực ra bà đã chịu đựng khổ đau tốt hơn tôi. Tôi không thểâ chịu nổi khi thấy bà quá nhiều đau đớn. Tôi cố gắng cho bà uống thứ thuốc bắc tốt nhất hy vọng có thể chữa khỏi hay cho bà được nghỉ ngơi. Ðôi khi tôi hỏi tại sao tất cả việc đó lại xẩy ra cho bà. Và tôi nghĩ: Hãy để cho bà sống thêm mười năm và cuộc đời tôi ngắn đi mười năm. Xin để cho tôi cho bà 10 năm của đời tôi. Nhưng lẽ đương nhiên điều đó không phải là để cho chúng ta nói. Chính nghiệp mới có quyền ăn nói cuối cùng.
"Bà thường nói với tôi: "Ðó là nghiệp của em, Billy à. Cái đó hoàn toàn đúng. Em không biết em đã làm gì trong quá khứ. Em phải chấp nhận nghiệp của em." Ðôi khi bà nói: "Em rất hối hận vì đã đem đến cho anh tất cả khó khăn này, Billy, tất cả cái khổ đau này. Billy biết không em nợ anh rất nhiều trong cuộc đời này." Tôi phải nói với bà xin đừng nói thế. Tôi nói, bà không nợ gì tôi cả. Chúng ta là vợ chồng phải không? – và bà là người vợ tuyệt vời của tôi. Chúng ta cùng trải qua những lúc thăng trầm, và bây giờ là giờ phút cần thiết của bà, tôi sẽ ở bên cạnh bà. Chúng ta sẽ một mất một còn cùng nhau, tôi nói với bà, tôi cam đoan với bà.
"Vào những dịp khác, bà nói với tôi:, Này Billy đây là giáo lý chân chính, con đường thực sự, tôi rất tin điều đó", và bà nhắc tôi đừng lơ là thực tập hành thiền, không nên tự mãn mà phải tu tập chăm chỉ. Chúng tôi đã mất một thời gian tìm kiếm một giáo lý mà chúng tôi có thế hiểu. Và khi chúng tôi tình cờ gặp Phật Giáo và thiền Minh Sát vào năm 1988, chúng tôi đã say mê nó. Ông biết không, chúng tôi thường cùng nhau bàn luận Phật Pháp mỗi đêm bên tách trà. Mối liên hệ của chúng tôi rất tuyệt vời."
Người anh em họ của Kuai Chan, Sati, hỏi liệu bà có sợ bệnh ung thư không, bà trả lời không, bà không sợ bệnh này. Bà sẵn sàng chịu đựng đau đớn mà không dùng thuốc. Bà quả là một hành giả du già can đảm, mặc dù hết sức chênh lệch, mà vẫn kiên trì thực hành Pháp. Bà làm tôi băn khoăn, nếu tôi, một nhà sư mà ở hoàn cảnh như bà, bị ung thư, tôi có thể chịu được nhiều như thế không, có can đảm và chịu đựng như thế không? Bà quả là một tấm gương đầy cảm hứng, một vị thầy làm gương cho tất cả chúng ta. Tôi phải cảm ơn Billy đã đưa ra chuyện riêng tư của mình để chia sẻ với chúng ta câu chuyện truyền cảm này để chúng ta có thể can đảm trong việc tu tập cương quyết hơn nữa và phấn đấu mạnh hơn nữa.
Billy yêu cầu tôi ghi nhận lòng biết ơn của ông đối với Thượng Tọa Sujiva và những nhà sư khác cùng với các hành giả du già về tất cả sự giúp đỡ ân cần mà họ đã cho ông và Kuai Chan. Những bạn hành giả Du già tại Trung Tâm Trí Tuệ Phật Giáo, PJ, đã đặc biệt hỗ trợ tinh thần và khuyến khích Kuai Chan trong suốt thời gian bà bệnh. "Tôi không biết làm sao bầy tỏ lòng biết ơn của tôi đến tất cả mọi người đã giúp đỡ tôi. Xin vui lòng nói với họ, tôi xin cảm ơn tất cả, xin được nói, Cảm ơn quý vị. Cảm ơn quý vị rất nhiều về mọi thứ mà quý vị đã dành cho Kuai Chan."
Phần tốt nhất đó trong đời sống của một
người lương thiện là những hành động nhỏ nhoi không sao
kể xiết bị lãng quên về lòng tốt và thương yêu.
Trước đây tôi đã nói khi tôi nhìn thấy một người bệnh, người sắp chết và người chết, hai quyết tâm phát sinh trong tâm tôi. Một là có thể chịu đựng sự đau đớn và cái chết với một nụ cười, có thể giữ được chánh niệm và tự tại cho đến lúc cuối cùng. Bây giờ tôi muốn nói đến quyết tâm thứ hai. Vâng, khi nhìn thấy con người và thực ra tất cả chúng sinh đang sống, đều phải chịu đau khổ nhiều như vậy, tôi cảm thấy ít nhất chúng ta có thể làm được, trong khi chúng ta còn sống, là đóng góp làm nhẹ bớt khổ đau chung quanh chúng ta.
Nhiều người đang phục vụ nhân loại theo nhiều cách thức phi thường. Mẹ Theresa, chẳng hạn, đã dành cả cuộc đời để săn sóc những người thiếu thốn và cơ cực. Nhiều người và tổ chức đã dấn thân vào làm những công tác xã hội cho người bệnh, người tàn tật, người chết đói, người già, những người sắp chết và nhiều người khác. Tất cả những đạo sư tôn giáo vĩ đại đều kêu gọi các đệ tử hãy nhân từ. Jesus Christ nói: "Hãy thương yêu người láng giềng như chính thân mình" Và Ngài tán dương những người cho người đói ăn, cho người khát uống, cho quần áo người trần trụi, cho chỗ ở kẻ bần hàn, thăm viếng người bệnh và người bị giam cầm. Ngài nói rằng: "Vì các ngươi đã làm thế cho một trong những người anh em của ta, tức là các ngươi đã làm cho chính ta". Có một câu tương tự trong Kinh Koran chỗ nhà Tiên Tri Mohamed nói Thượng Ðế có thể nói trong Ngày Phán Xét:" Ta đói mà các ngươi không cho ta ăn. Ta bị bệnh mà các ngươi không đến thăm. Và khi được hỏi bởi một người hoang mang không hiểu như thế là thế nào, Thượng Ðế trả lời "Như một người xin bánh mà ngươi không cho. Như một người bệnh mà ngươi không đến thăm".
Trong Ðạo Phật, mặc dầu chúng ta không tin vào Ðấng Thượng Ðế Sáng Tạo, chúng ta tin vào điều thiện và hô hào không giết hại cả đến một con vật hay côn trùng. Chúng ta tin vào Nghiệp luật- đó là thiện đem lại thiện, ác đem lại ác. Cho nên chúng ta bao giờ cũng phải bám chặt vào điều thiện: tránh không giết hại, trộm cắp, lừa đảo, tà dâm, dối trá, uống rượu và các chất say. Chúng ta tự rèn luyện để tiến đến chỗ chúng ta làm điều thiện vì lợi ích làm điều thiện và không phải vì sợ hãi địa ngục hay mong muốn được phần thưởng. Chúng ta làm điều thiện vì chúng ta thích làm điều thiện và tự nhiên ngả về điều thiện. Nói một cách khác chúng ta không thể tránh được làm việc thiện. Ðiều thiện với chúng ta là một.
Ðức Phật chỉ thị các đệ tử của Ngài phải nhân từ và quan tâm đến người khác. Ngài nói một chút cố gắng cũng có giá trị khi cho. Cả đến ném một vài mẩu bánh xuống nước cho cá ăn cũng được tán dương bởi Ðức Phật. Một lần, mấy nhà sư không săn sóc một nhà tu bệnh, Ðức Phật đích thân tắm rửa cho vị sư bệnh này và khuyên bảo các vị kia: "Ai săn sóc người bệnh chính là săn sóc ta". Ðức Phật kêu gọi các vì vua hãy trị vì với lòng từ bi. Ngài khuyên các nhà vua nên loại trừ nghèo đói vì đó là một trong những yếu tố góp phần vào sự cướp bóc và các tội khác. Là một người yêu hòa bình, Ngài đã từng ngăn cản được khi hai quốc gia đang sắp sửa lâm vào vòng chiến vì tranh chấp một dòng sông. Ðức Phật hỏi họ: "Cái nào quan trọng hơn – nước hay máu của con người sẽ chảy vì chiến tranh?" Hai bên lâm chiến thấy sự tranh chấp điên rồ của họ đã rút lui không đánh nhau.
Một trong những vị vua nhân từ nhất chịu ảnh hưởng trước những lời Phật dạy là Asoka, trị vì Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ Ba trước Công Nguyên, khoảng 200 năm sau khi Ðức Phật nhập diệt. Nổi tiếng về lòng nhân đạo, sự rộng lượng và lòng tốt cửa Ngài trải đến cả con vật. Ngài được nổi tiếng vì đã lo liệu bác sĩ cho cả người lẫn súc vật. Ngài đã xây công viên, trạm nghỉ ngơi cho khách bộ hành và nhà tế bần cho những người nghèo và người bệnh. Mặc dầu là một Phật tử thuần thành, Ngài cho dân ngài hoàn toàn tự do trong việc thờ phượng và ủng hộ các giáo phái khác. Trong một sắc lệnh nổi tiếng khắc trên đá, Ngài nói Ngài "Chúc mừng những người của tất cả những tôn giáo sống ở mọi nơi trong vương quốc của Ngài ... vinh danh người của tất cả các tôn giáo, thành viên của những dòng tu và cư sĩ, bằng tặng vật và những biểu hiện quý trọng khác". Ngài muốn tất cả các tôn giáo đều được kính trọng vì "bằng cách kính trọng tôn giáo là nâng cao niềm tin của chính tôn giáo mình và đồng thời phục vụ niềm tin của những người khác... Cho nên chỉ có hòa thuận không thôi là đáng khát khao ... (Và Ngài, Asoka) mong muốn người của tất cả các tôn giáo khác hiểu biết học thuyết của nhau và tìm được học thuyết lành mạnh..."
Asoka coi vai trò của Ngài như một người cha nhân từ và coi dân như con khi nói rằng Ngài muốn họ được mọi loại thịnh vượng và hạnh phúc. Ðức Phật nếu có thể chứng kiến triều đại của Hoàng Ðế Asoka, thì Ngài sẽ hết sức vui mừng khi thấy giáo lý của Ngài đã được tôn trọng triệt để một cách chuyên cần bởi vị hoàng đế vĩ đại này. H.G. Wells trong cuốn "Outline of History" (Lịch Sử Ðại Cương) có nói, trong số các vị hoàng đế đã đến và ra đi trên thế giới, "tên của Hoàng đế Asoka sáng chói, sáng chói hầu như một tinh tú không có ai ngang hàng". Chắc chắn tất cả những chính phủ sẽ thành công khi nghiên cứu và áp dụng cách giải quyết nhân đạo của Hoàng Ðế Asoka trong việc trị vì.
Cũng vậy, nếu chúng ta đi theo những lời Ðức Phật dạy, thì chúng ta cũng giống như Asoka, làm việc theo đường lối của chúng ta để giảm bớt khổ đau và trải rộng hòa bình và hạnh phúc. Chính Ðức Phật đã là tấm gương tốt đẹp nhất cho chúng ta soi, Ngài đã dành cả cuộc đời để chỉ cho con người lối thoát khỏi khổ đau. Vâng, Ðức Phật không những quan tâm đến việc làm nhẹ bớt khổ đau, mà Ngài còn quan tâm đến việc loại bỏ nó hoàn toàn. Cho nên sau khi giác ngộ, Ngài đã bỏ cả 45 năm cuộc đời còn lại dạy cho con người con đường loại bỏ khổ đau. Ngài dạy con đường chánh niệm.
Ðức Phật thấy chỉ bằng cách giải quyết triệt để mới có thể loại bỏ được khổ đau. Mặc dù săn sóc người bệnh, chữa lành bệnh tật, cung cấp thực phẩm và các trợ giúp vật chất cho người túng thiếu là một phần thiết yếu trong việc đối phó với khổ đau, Ðức Phật muốn tham gia nhiều hơn là chỉ có những triệu chứng: Ngài muốn tìm cách chữa lành hoàn toàn chứng bệnh khổ đau. Cho nên Ngài đã thiền định toàn bộ câu hỏi đời sống và cái chết. Và Ngài thấy muốn giải quyết vấn đề từ gốc rễ, chúng ta cần phải xem xét lại toàn bộ tâm. Khổ đau thực chất là tinh thần. Khi có đau đớn thể chất, người ta thường phản ứng bằng buồn rầu, sợ hãi và ngã lòng. Nhưng người tu thiền, Ðức Phật dạy, có thể chịu đựng cái đau thể chất mà không có khổ đau tinh thần. Nói một cách khác, người ta không phản ứng bằng buồn rầu, lo lắng, thất vọng, ác cảm, giận hờn vân vân... Thay vì, người ta có thể phản ứng bằng bình tĩnh và thanh thản. Người ta có thể vui và thậm chí an ủi và khuyến khích người khác!
Cho nên Ðức Phật thấy vấn đề thực chất là tinh thần. Nếu chúng ta có thể giải thoát tâm chúng ta khỏi tham, sân và si (thuộc bản chất đời sống) Ðức Phật dạy chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua được và loại bỏ khổ đau tinh thần, như lo lắng và bồn chồn, phiền muộn và than khóc. Về khổ đau thể chất, chúng ta phải thừa nhận không thể tránh khỏi chừng nào mà chúng ta có cái thân này. Tất cả chúng ta đều biết không ai có thể tránh khỏi tuổi già, bệnh và chết. Nhưng Ðức Phật dạy một khi thanh lọc được tâm ra khỏi tất cả những ô nhiễm của tham, sân vân vân thì cái đau thể chất không làm chúng ta sợ hãi nữa. Ta trở nên không lay chuyển. Không có gì có thể làm ta lo ngại nữa, cả đến cái đau cực độ mà những bệnh như ung thư có thể mang lại. Tâm ta vẫn có thể giữ luôn luôn trầm tĩnh. Bởi vậy khi đệ tử của Ðức Phật, Anurudhha, một lần được hỏi làm sao ông có thể giữ bình tĩnh khi ông bệnh nặng, Ngài trả lời đó là vì ông đã có thể làm chủ được tâm ông do tu tập chánh niệm như đã được dạy bởi Ðức Phật.
Cũng để kết luận, Ðức Phật dạy đối với một người hoàn hảo đã bỏ được tham sân si, không còn tái sanh nữa. Khi người ấy chết, đó là kiếp cuối cùng. Người ấy đã đạt được trạng thái Niết Bàn – sự an lạc hoàn hảo. Không phải tái sanh người ấy không bao giờ còn bị tuổi già, bệnh và chết. Ðức Phật nói, chỉ điều đó là chấm dứt khổ đau.
Trong khi phấn đấu để chấm dứt hoàn toàn khổ đau, chúng ta nên, trên con đường tu tập, giúp làm nhẹ bớt khổ đau bằng bất cứ cách nào chúng ta có thể. Vâng, rõ ràng không thiếu gì khổ đau trên thế giới. Nhiều người khổ đau theo nhiều cách khác nhau. Nếu chúng ta đọc báo, chúng ta thấy khổ đau khắp nơi. Người ta tranh chấp, đánh nhau, giết chóc, cướp bóc, nói dối, lừa đảo và gây khổ đau lẫn nhau bằng nhiều cách. Do vô minh chúng làm hại lẫn nhau. Xa hơn nữa, thiên tai, tai nạn, rủi ro, chết đói, bệnh tật khắp nơi. Và bệnh tật tuổi già, và cái chết luôn bám sát chúng ta ở từng bước.
Vâng, thế giới này đầy khổ đau. Tại sao chúng ta lại còn thêm vào nữa? Thay vì phải chăng chúng ta nên cố gắng làm nhẹ khổ đau? Dù chúng ta không làm được nhiều, chúng ta vẫn có thể làm được ít. Mỗi một cố gắng nhỏ nhoi cũng đáng kể. Có người nói: Không ai mắc sai lầm lớn hơn là không làm gì dù chỉ làm một chút. Mỗi người chúng ta đều có thể làm được việc gì đó, theo khuynh hướng và khả năng của mình. Ðể khởi sự chúng ta có thể bắt đầu tử tế hơn. Chẳng hạn chúng ta có thể ngăn chặn nóng giận của chúng ta. Mỗi khi chúng ta nóng giận chúng ta gây nên đau đớn cho chính chúng ta và người khác. Nhưng nếu chúng ta có thể nén được giận của chúng ta và trau dồi khoan dung và kiên nhẫn, thương yêu và từ bi, chúng ta có thể trở nên người tử tế hơn, và đó có thể là một thành công để giúp gieo rắc sự vui vẻ và hạnh phúc .
Nói một cách khác chúng ta phải bắt đầu bằng cách tẩy sạch tâm ta khỏi những chất chứa bất thiện và tiêu cực của tham sân và si. Tương ứng với khả năng kiềm chế các trạng thái bất thiện của ta, tình thương yêu và từ bi sẽ phát triển nơi chúng ta. Chúng ta có thể tử tế hơn trong quan hệ với những người kề cận và chung quanh chúng ta. Chúng ta có thể cố gắng nói năng một cách đáng yêu và nhẹ nhàng hơn, và tránh lời nói thô tục và cục cằn. Chúng ta có thể trở nên ân cần và quan tâm đến người khác nhiều hơn. Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến phúc lợi riêng của chúng ta thì chúng ta không thể thương yêu hữu hiệu. Muốn thương yêu tốt đẹp, chúng ta không nên coi trọng phúc lợi của mình mà phải chú ý đến phúc lợi của người khác. Cho nên chúng ta phải hỏi chính mình. Chúng ta có thương yêu đủ không? Chúng ta có quan tâm đủ không? Nếu không chúng ta không thể hành động để làm nhẹ bớt khổ đau. Chính vì không có thương yêu và từ bi thực sự mà chúng ta có thể hành động.
Một thiền sư từng nói rằng nếu bạn muốn biết bạn đã thực sự yêu thương, bạn nên gần người thân yêu của bạn một ngày, và nhẹ nhàng nắm lấy tay nàng trong tay bạn. Hãy nhìn thẳng vào mắt nàng và hỏi nàng: "Em thân yêu, anh có yêu em đúng mức không? Anh có yêu em đủ không? Anh có làm em hạnh phúc không? Nếu là không, xin em cho biết thiếu cái gì để anh có thể thay đổi và yêu em nhiều hơn?" Nếu bạn hỏi nàng dịu dàng với tình yêu chân thật và quan tâm, thì nàng có thể khóc. Sư trưởng nói, đó là dấu hiệu tốt. Vì nó có nghĩa là bạn đã chạm đến đúng vào tình cảm của nàng. Và rồi ở đấy có thể có sự trao đổi tâm tình giữa bạn và nàng.
Và vì vậy nàng có thể nói với bạn giữa những tiếng thổn thức sao bạn đã không có ý tứ gì rất nhiều lần. Chẳng hạn nàng có thể nói: "Anh không còn mở cửa xe cho em nữa. Anh thường mở cửa xe cho em khi lần đầu anh theo đuổi em và cả đến năm đầu lấy nhau. Anh cũng cẩn thận xem em ngồi ngay ngắn chưa rồi anh mới nhẹ nhàng đóng cửa xe. Bây giờ anh không làm như thế nữa. Anh vào xe trước và cho ngay máy chạy. Em phải tự mở cửa và vào xe thật nhanh. Nếu không anh có thể chạy xe đi trước khi em kịp đóng cửa! Em muốn khóc khi anh sử xự như thế. Cái gì đã xẩy ra cho con người lịch sự và có ý tứ mà em đã lấy?"
Và nàng có thể tiếp tục: "Anh đã không nắm tay em nữa khi qua đường. Anh đi trước và muốn em phải theo anh. Rồi khi chúng ta vào nhà hàng. Anh không mở cửa và mời em vào trước. Anh không kéo ghế cho em ngồi. Anh không hỏi em thích ăn gì mà tự động đặt các món ăn anh thích. Anh không mua những bộ áo đẹp cho em nữa. Anh không mua tặng phẩm gì cho cha mẹ em, ngay cả đến những dịp lễ hội. Và mặc dầu anh có thể nhớ đến việc cho em quà vào ngày sinh nhật, nhưng anh không kèm theo thiệp sinh nhật với những lời tình cảm đẹp đẽ. Nói tóm lại, anh đã không làm những việc nhỏ bé dễ thương mà anh thường làm cho em khi anh theo đuổi em và cưới em. Nếu em biết anh sẽ thay đổi như thế này, có lẽ em đã suy nghĩ lại về việc lấy anh. Em băn khoăn không biết thực sự anh còn yêu em hay quan tâm đến em nữa không?" Và nàng có thể tiếp tục một mạch nêu lên một bản danh sách về những bất hạnh của nàng. Nàng có thể thổn thức to hơn và bạn có thể ngạc nhiên vì bạn không biết nàng đã giữ trong lòng tất cả những thứ đó, nàng đã không nhận ra tất cả những sự việc nho nhỏ dễ thương mà bạn thường làm cho nàng, và nàng đã không hiểu sự bầy tỏ quan tâm và thương yêu tuy nhỏ bé nhưng quan trọng của bạn.
Ðương nhiên, rất có thể bạn cũng có những phiền muộn chính đáng. Cho nên đây là dịp tốt để bạn thổ lộ, nhưng bằng một cách thật dịu dàng. "Ồ, anh xin lỗi về cách sử xự vô tâm và không ý tứ của anh, em thân yêu. Tin anh đi, anh thật tình. Xin tha lỗi cho anh. Từ nay trở đi anh sẽ làm lại cho em. Anh hứa anh sẽ không cẩu thả trong tương lai. Anh sẽ trông nom em thật tốt. Anh sẽ bắt đầu làm trở lại những việc nho nhỏ mà anh đã lơ là làm cho em. Anh không nhận ra được là em đã quá nhớ những thứ đó.
"Nhưng em thân yêu, xin đừng giận dỗi với điều mà anh sắp nói. Vì anh có nhiều lầm lỗi, em cũng nên biết có một số điều em thường làm cho anh mà em chưa bao giờ làm. Chẳng hạn anh thích ăn đùi gà chiên theo lối sambal belacan mà em thường nấu cho anh. Nhưng bây giờ em không còn nấu món ấy nữa, không kể đến những thứ súp cà chua và những món khác. Em biết không, người già nói về cách đi vào lòng con người là qua bao tử hãy còn rất thích đáng.
"Ngày xưa em thường đánh thức anh dạy với một nụ cười và một cái hôn nhẹ nhàng trên má nhưng nay em đâu còn làm như thế nữa. Ðôi khi em còn dạy trễ nên anh phải tự làm để ăn sáng hay ăn tại văn phòng. Em đã thường đợi cửa khi anh đi làm về và hỏi anh ngày ấy ra sao. Em thực tình muốn biết và em tỏ ta rất có tình cảm và an ủi khi anh có chuyện không vui. Nhưng dạo này dường như em không quan tâm đến việc anh sống ra sao nữa, liệu anh có ngày làm vui vẻ hay vất vả không. Em bận xem truyền hình, la các con, hay ở các nơi sửa sang sắc đẹp hay làm cái này cái nọ. Khi anh gọi, "Hello, em thân yêu, anh đã vế", đôi lúc em gắt và nói những thứ đó không thật khả ái, vân vân và vân vân..."
Và như vậy cả hai trao đổi tâm tình. Truyền thông rất quan trong trong quan hệ. Có phải không? Quan hệ sẽ tan vỡ khi không có truyền thông, và cả hai phía đều giữ phiền muộn trong lòng, nuôi dưỡng chúng trong tâm. Nhưng khi có sự truyền thông, sẽ có sự thông cảm. Cởi mở trong lòng cả hai phía sẽ đưa đến thông cảm và thương yêu. Nếu hai người quan tâm đủ và coi trọng quan hệ của họ thì họ sẽ trò chuyện tâm sự. và áp dụng các biện pháp sửa chữa khi cần. Bằng cách ấy, quan hệ sẽ trở nên mạnh mẽ và đẹp đẽ với mỗi ngày qua.
Mỗi một người chúng ta cần phải đóng góp bằng cách riêng của mình, bằng bất cứ đường lối nào mà ta biết ra sao. Trong trường hợp của tôi, là một nhà sư, tôi có thể đóng góp bằng cách chia sẻ chút ít kiến thức về Phật Pháp mà tôi biết, một chút hiểu biết mà tôi có. Tôi có thể khuyến khích người ta tu tập thiền định và hướng dẫn họ một chút trên con đường này. Tôi có thể kêu gọi người ta hãy thương yêu và quan tâm, ân cần và nhẫn nại vân vân... Ðương nhiên chúng ta không hoàn toàn, có những lúc chính chúng ta thất bại không góp phần được. Nói thì thật là dễ nhưng thực hành điều ta thuyết giảng thì thật là khó, điều đó rất đúng. Cho nên tôi phải là người đầu tiên thừa nhận những thiếu sót của tôi và chấp nhận sửa chữa. Trong khi phán xét tôi hay những người khác, tôi cầu mong người ta xem xét giảm nhẹ những yếu tố như ý tốt. Chúng tôi có ý tốt và không có ý làm hại. Nhưng vì những nhược điểm, không khéo léo, không kiên nhẫn, không độ lượng, kiêu ngạo vân vân... chúng ta có thể làm người khác đau đớn mặc dù chúng tôi muốn làm tốt. Nhưng nếu là một người cao thượng, người đó có thể hiểu và tha thứ. Khả năng tha thứ là một đức tính tuyệt vời, cho nên có câu nói, lầm lỗi là con người; tha thứ là siêu phàm, đã được đặt ra.
Hãy tận dụng cơ hội để cho và chính bạn sẽ biết cách tốt nhất để đóng góp. Tất cả chúng ta có những kỹ năng, tài ba và năng khiếu khác nhau, điều kiện và hoàn cảnh cũng khác. Cho nên mỗi chúng ta chỉ có thể đóng góp theo đường lối riêng của mình, tùy theo hoàn cảnh và khuynh hướng. Ðiều quan trọng là cố gắng; chúng ta làm theo khả năng. Như chúng ta đã nói, mỗi chút cũng đáng kể và khi thời gian qua đi, chúng ta sẽ thấy thực tế chúng ta đã làm được một chút gì phải lẽ. Và đó là nguyên nhân cho chúng ta hoan hỉ. Ðương nhiên nó không có nghĩa là chúng ta cứ nghỉ ngơi trên vòng hoa chiến thắng. Còn nhiều việc phải làm. Nên chúng ta phải tinh tấn; chúng ta phải tiếp tục tấn tới.
---*---
Người ấy sống tràn đầy tâm từ ở phương thứ nhất, cũng như vậy ở phương thứ hai cũng như vậy ở phương thứ ba, cũng như vậy ở phương thứ tư, đúng vậy ở bên trên, bên dưới, chung quanh người ấy sống tràn đầy tâm từ cả thế giới, ở khắp nơi, theo mọi cách, tâm từ ấy sâu xa trải rộng, mênh mông, không thù hằn, không ác ý.
Ðức Phật
Hiểu biết mọi thứ là tha thứ mọi thứ
Và lúc ấy sẽ có có tình thương yêu
Muốn chết tốt đẹp chúng ta phải sống tốt lành. Nếu chúng ta đã sống tốt lành chúng ta có thể chết êm ả. Sẽ không còn nuối tiếc. Chúng ta sẽ ra đi một cách an bình, mãn nguyện rằng chúng ta đã làm cái chúng ta có thể, rằng trên con đường mà chúng ta đã gieo rắc cảm thông và hạnh phúc, rằng chúng ta đã sống theo nguyên tắc và lời cam kết trước những lý tưởng về thương yêu và từ bi.
Thương yêu là hiểu biết. Thương yêu không phán xét hay kết tội. Thương yêu lắng nghe và cảm thông. Thương yêu quan tâm và đồng tình. Thương yêu chấp nhận và tha thứ. Thương yêu không biết đến chướng ngại. Nó không phân biệt mà nói: Tôi là Nguyên Thủy, bạn là Ðại Thừa hay Tây Tạng. Nó không nói: Tôi là Phật tử và bạn là Cơ Ðốc, Hồi Giáo hay Ấn Giáo. Hay tôi là người Trung Hoa, bạn là người Mã Lai, người Ấn Ðộ hay người Lai Âu Á. Hay tôi là người Phương Ðông và bạn là người Phương Tây; hay tôi là người Mã Lai, bạn là người Nhật Bản, Hoa Kỳ, Miến Ðiện, Thái và vân vân...
Thương yêu vượt qua tất cả chướng ngại. Thương yêu thấy và cảm thấy chúng ta đều là một giống nòi, một giống người. Nước mắt của chúng ta đều giống nhau; chúng đều mặn, và máu của chúng ta đều đỏ. Khi có loại tình yêu và từ bi này chúng ta có thể có cảm tình với người khác. Chúng ta có thể thấy chúng ta cùng đi trên một con thuyền trong biển dông bão của cuộc đời. Chúng ta là những bạn đau khổ trong luân hồi, cái bất tận xẩy ra trong vòng sinh tử. Chúng ta là anh em và chị em.
Khi chúng ta nhìn thấy và cảm thấy điều này, thì tất cả những chướng ngại về nòi giống, tôn giáo lý tưởng vân vân... sẽ biến mất. Chúng ta có thể vươn tới bằng con tim của tình thương yêu thanh khiết. Chúng ta có thể hiểu và cảm thông với đau khổ của người khác. Từ bi sẽ tăng lên và tràn đầy trong lòng chúng ta. Và trong bất cứ cái gì chúng ta nói hay làm, tình thương yêu và từ bi này cũng sẽ in dấu. Nó sẽ xoa dịu và làm lành. Nó sẽ góp phần vào hòa bình và hiểu biết.
CON NGƯỜI VÀ CON BỌ CẠP
Tình thương đi đôi với từ bi. Khi chúng ta có một trái tim thương yêu, từ bi nảy sinh dễ dàng nơi chúng ta. Bất cứ lúc nào chúng ta nhìn thấy một người khổ đau, chúng ta cảm thấy muốn chìa tay ra làm cho người ấy đỡ đau. Từ bi có đặc tính là muốn loại bỏ khổ đau. Nó có thể đặc biệt được cảm thấy khi chúng ta tự ý hành động để loại bỏ hay làm giảm bớt khổ đau của người khác. Có một câu chuyện làm sáng tỏ vấn đề: Một người trông thấy một con bọ cạp sắp sửa bị chìm trong vũng nước. Ý muốn cứu con bọ cạp đột nhiên nổi lên trong tâm, và không lưỡng lự chìa tay ra nhấc con bọ cạp ra khỏi vũng nước và để nó trên mặt đất. Con bọ cạp đốt người đó. Và muốn qua sang bên kia đường con bọ cạp lại bò đi và đi thẳng vào vũng nước. Nhìn thấy nó quờ quạng và sắp bị chìm lần nữa, người ấy bắt nó lần thứ hai và lại bị nó đốt. Một người khác đến và nhìn thấy tất cả sự việc xẩy ra liền nói với người ấy: "Tại sao bạn ngu đần đến như thế? Bây giờ bạn thấy bạn bị đốt không những một lần mà bị đốt đến hai lần! Thật là ngu dại đi cứu con bọ cạp". Người ấy trả lời: "Thưa Ngài, Tôi không thể chịu được việc này. Ngài thấy, bản tính của con bọ cạp là đốt. Nhưng bản tính của tôi là cứu. Tôi không thể chịu được ngoài việc cố gắng cứu con bọ cạp".
Ðúng, đáng lẽ người ấy có thể dùng trí tuệ và sử dụng một cái gậy hay một thứ gì đó để nhấc con bọ cạp ra khỏi. Nhưng người ấy có lẽ đã nghĩ rằng có thể nhấc con bọ cạp ra bằng tay theo cách ấy mà không bị nó đốt. Hay người ấy có lẽ đã nghĩ rằng con bọ cạp ở trong cơn hoạn nạn khốc liệt như vậy sẽ không đốt mình. Dù sao, tinh thần của câu chuyện là phản ứng tự phát của người ấy trong việc muốn cứu một chúng sinh khác, mặc dầu chúng sinh ấy chỉ là một côn trùng. Câu chuyện cũng cho thấy người từ bi là như vậy mặc dù có thể nhận được sự bội ơn của người mình đã cứu giúp, điều đó không thành vấn đề. Ðó chính là bản tính muốn giúp đỡ và nếu có thể giúp nữa thì người ấy vẫn làm. Người ấy không biết nuôi dưỡng niềm cay đắng hay ác cảm ra sao!
Từ bi là tiếng nói của con tim. Ở vào lúc khi chúng ta bị thúc đẩy bởi tình thương và từ bi, chúng ta chìa tay ra giúp đỡ không phân biệt nòi giống, tín ngưỡng, hay quốc tịch của người khác. Dưới ánh sáng của từ bi, sự nhận dạng về nòi giống, tín ngưỡng vân vân trở thành thứ yếu; chúng trở thành vô nghĩa. Hơn nữa, từ bi như vậy không phải chỉ giới hạn ở con người mà còn trải rộng tới tất cả những vật sống gồm có súc vật và côn trùng. Song hàng với đề tài từ bi như tiếng nói của con tim, tôi muốn kinh gửi quí vị một bài thơ
TIẾNG NÓI CỦA TỪ BI
Ðại Thừa Nguyên Thủy Kim Cang Thừa
Cơ Ðốc Phật Hồi Ấn Ðộ Giáo
Người Mã Hoa Ấn Ðộ Lai Âu Á
Mã Lai Nhật Bản Mỹ Phi Châu
Người Da trắng Da đen Da vàng Da nâu
và vân vân... và vân vân...
như bạn muốn.
Vấn đề đó là gì?
Tiếng nói của từ bi
là tiếng nói con tim.
Khi con tim nói
Ngàn hoa đua nở
Và tình thương tràn ngập
như mặt trời bình minh
ùa qua cửa sổ
Không cần lời
một cái nhìn, một tiếp xúc
đủ
để nói
mà ngàn tiếng không bằng.
Và Từ bi rực sáng
như vì sao sáng lạn
trong bầu trời ban đêm.
Chướng ngại sụp đổ
lay động thành kiến
Giành lại ưu thế
Tình thương và từ bi,
chế ngự mọi sợ hãi, hoài nghi
chữa lành các vết thương,
bao trùm.
Tôi cảm thấy nếu chúng ta cố gắng trau dồi loại tình thương ấy và từ bi ấy, và đến lúc cái chết tới, chúng ta sẽ ra đi an bình. Cho dù chúng ta không thành công 100 phần trăm ở trong tình thương yêu toàn hảo, chúng ta vẫn sung sướng và mãn nguyện rằng chúng ta đã cố gắng. Và chắc chắn chúng ta đã thành công ở một mức độ nào đó.