Babo bảo tôi anh ấy sẽ tìm cách liên lạc với tôi ngay khi có thể. Về lại nhà, tôi nhờ chị Madina bày cách sử dụng điện thoại di động. Gia đình ông Al Koronky sắp trở về, tôi phải dành cả ngày để nấu nướng, lau dọn sạch sẽ và trải các tấm khăn giường mới. Thế rồi điện thoại reo.
Chạy
“Hello”, tôi nói nhưng không có tiếng trả lời. “Hello”, tôi lặp lại. Tôi chợt nhớ ra kế hoạch của mình. “Kenwengjero”, tôi nói. “Mende hả? - một giọng người hỏi - Có phải cô đó không?”. “Anh Babo! - tôi reo lên - Em đây, Mende đây”. “Cô nghe đây. Tôi đã tìm ra được đầy đủ địa chỉ, số điện thoại và mọi thứ. Nếu Koronky và gia đình ông ta còn đang vắng nhà, tại sao bây giờ cô không ra đây để tôi đón cô đi?”.
“Không được đâu. Nếu em chạy trốn bây giờ, anh Omer và chị Medina sẽ bị đổ tội. Em phải chờ cho đến khi gia đình ông Koronky trở lại”. “Thôi được. Nhưng như thế sẽ khó khăn hơn. Tôi sẽ tới vào thứ hai. Đó là ngày duy nhất tôi được rảnh. Đây là những gì chúng ta sẽ làm: cô đem rác ra trước nhà. Hãy kiểm tra cho chắc. Rồi cô chạy thật nhanh ra khỏi ngõ và đừng ngoái lại. Tôi sẽ chờ cô ở đó. Khoảng đầu ngõ. Tôi sẽ ở đó chờ cô từ 3g-3g30 chiều”.
“Dạ được - tôi háo hức đáp - Vậy tôi sẽ gặp cô ở đó - anh Babo nói quyết chắc - Và hãy nhớ đừng mang theo túi xách hay làm bất cứ điều gì trông đáng ngờ”. “Dạ. Cảm ơn anh, Babo! Cảm ơn anh”. “Vậy là được rồi - anh nói khẽ - Nhưng cũng chưa hết. Cô phải mạnh mẽ và dũng cảm lên. Có một người Nuba nữa, anh ấy tên là Monir Sheikaldin. Chúng tôi sẽ cùng đón cô”.
Bỏ điện thoại xuống, tôi vừa sung sướng vừa sợ hãi, vừa phấn khích. Gia đình mụ Hanan về. Đêm đó và đêm tiếp theo tôi không thể ngủ được. Tôi ôn đi ôn lại kế hoạch đào thoát. Buổi sáng ngày thứ hai tôi dậy sớm làm công việc hằng ngày. Nhưng tôi cảm thấy mất tinh thần khi lão Al Koronky không đi làm như bình thường. Lão ở nhà suốt buổi sáng. “Ôi không! - tôi tự nghĩ - Lão không đi. Làm sao mình ra khỏi nhà được?”.
Có một đống quần áo phải ủi, nhờ đó mà có việc cho tôi đến gần 3g30 chiều. Cứ mỗi năm phút tôi lại thấy mình liếc nhìn lên đồng hồ trên tường. Tôi làm rối tung lẫn lộn đống quần áo đang ủi. Lúc 3 giờ tôi vào phòng ăn, đóng cửa sau lưng mình và nhìn ra ngoài sau mấy bức màn xem thử anh Babo đã đến hay chưa, nhưng không thể nhìn xuyên qua cây cối. Tôi toát mồ hôi và lả người vì lo lắng.
Tôi không biết làm sao ra khỏi nhà mà không bị bắt. Uran, “con mèo” đồ chơi nhỏ bé đang nằm trên gối, tôi không thể nào bỏ nó lại được. Tôi đấm cho nó bẹp xuống và nhét vào người. Rồi tôi nghe mụ Hanan gọi từ nhà bếp. “Yebit, tao đi đón mấy đứa nhỏ ở trường đây - mụ bảo - Tao để hai đứa song sinh ở nhà cho mày trông”. Tôi gật đầu, cố tránh đôi mắt của mụ. Mụ đi và gọi lão Koronky: “Đi mình”. “Anh sắp xuống đây”, lão la to xuống.
Mụ Hanan đi mở khóa cửa trước rồi trở lại lấy đôi giày trong tủ để giày dưới cầu thang. “Lạy Thượng đế - tôi nghĩ - họ sắp đi đúng vào lúc mình hẹn anh Babo!”. Cơ may của tôi chỉ còn một phút. Tôi chộp lấy bao rác và chạy thật nhanh tới cửa, người tôi run lên. Khi chạy nhanh qua mụ Hanan đang ngồi trong sảnh buộc dây giày, tôi nghe tiếng lão Koronky đang xuống cầu thang. Tôi ném túi rác vào thùng rác rồi quay nhìn lại ngôi nhà. Vẫn chưa ai ra cả.
Tôi quay người chạy hết tốc lực ra đầu ngõ. Tôi thấy mình phát điên vì hoảng sợ. Khi ra tới ngõ, một nỗi sợ mới ập lấy tôi. Nếu Babo không có ở đó thì sao? Ôi cầu xin Allah cho anh ấy có ở đó! Rồi tôi thấy một người da đen cao to bên kia đường rối rít vẫy tay. “Tới đây! Tới đây! - anh gọi - Chạy! Mende! Chạy!”. Tôi chạy băng qua đường và ngã vào tay anh. “Nhanh lên! Nhanh lên! - tôi hét lên với anh - Họ sắp tới! Chúng ta phải đi ngay bây giờ!”.
Babo nắm lấy cánh tay tôi, chúng tôi chạy ra khỏi con phố. Anh đưa tôi nấp sau một tàng cây xanh nhỏ. Tôi rất sợ hãi và không nín khóc được. “Chúng ta gần họ quá - tôi hổn hển - Họ sẽ tìm thấy chúng ta mất thôi. Họ sẽ theo bắt em lại. Chúng ta phải chạy đi ngay”. “Được rồi. Được rồi - anh Babo vừa nói vừa quàng tay ôm tôi - Đừng lo. Tôi không để họ bắt cô đâu. Cứ nấp ở đây trong khi tôi gọi điện thoại”.
Tôi nghe anh Babo giải thích chỗ chúng tôi đang đứng, và chỉ trong vài giây một chiếc xe chạy tới. Tôi được ấn vào ghế sau và tiếng bánh xe rít trên mặt đường, chiếc xe lao đi. Tôi rúc người vào cạnh anh Babo, cố nép mình để không bị phát hiện. “Họ có đuổi theo chúng ta không? Xin hãy nhìn ra cửa sổ xem. Em sợ quá. Em sợ quá”. “Đừng lo, Mende - anh cười nói - Chẳng có ai theo chúng ta”. “Chào cô Mende - tôi nghe một giọng nói điềm tĩnh từ chỗ người lái xe - Tôi là Monir. Cô hãy nghe chúng tôi và bình tĩnh. Chúng tôi đã giải cứu được cô rồi. Chúng tôi sẽ bảo vệ cô”.
Đây là những người cùng dân tộc với tôi, người Nuba, và tôi biết rằng tôi có thể tin cậy nơi họ. Tôi biết họ nói với tôi sự thật.
Học sống
Tự do là một bảo vật mà dù có được cả thế gian tôi cũng không đánh đổi. Nhưng đối với tôi, sự tự do này còn là một thứ đáng sợ. Tôi bị bắt đi khi còn là một đứa trẻ. Tôi trải qua tuổi thiếu niên và giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành trong cuộc sống nô lệ. Trong tất cả khoảng thời gian đó tôi không có tự do.
Tôi không thật sự hiện hữu. Tôi không có quyết định nào về cuộc sống của chính mình. Tôi nhận ra rằng mình không biết làm bất cứ điều gì. Tôi phải học để biết cách dùng tiền - món trợ cấp nhỏ nhoi hằng tuần được Chính phủ Anh cấp. Tôi phải học cho biết tài khoản ngân hàng là gì.
Tôi phải học cách tự nấu những bữa ăn hằng ngày và ăn uống đúng nghĩa - không phải ăn đồ thừa của người khác. Tôi phải học cách ngồi vào bàn ăn đúng phép tắc. Một trong những điều khó khăn nhất đối với tôi là được người ta phục vụ trong nhà hàng ăn. Tôi phải học đi thế nào cho an toàn trên đường phố mà không bị xe đụng.
Tôi cũng phải học cách kết bạn, cách hiểu khái niệm về tình bằng hữu; rằng một người bạn tốt là kẻ mà mình không phải giấu giếm gì với họ; rằng một người bạn tốt sẽ không bao giờ nặng lời với mình hay đánh mình không vì lý do nào cả; rằng họ sẽ không bao giờ xúc phạm mình để làm trò vui; rằng họ luôn luôn cư xử với mình bình đẳng.
Điều khó khăn hơn hết là tôi phải học để đừng sợ hãi nữa. Nhưng những sự phiền toái cũng theo đuổi. Có nhiều người gọi đến những người đã giải cứu tôi. Một phụ nữ ở Khartoum gọi nói sẽ tìm gia đình tôi và bỏ tù hết. Rồi một người đàn ông ở đại sứ quán Sudan. Cao điểm là một số bộ trưởng trong chính phủ Sudan trực tiếp gây áp lực.
Và tôi nhận được điện thoại từ cha mẹ. Thật không thể nào diễn tả hết niềm vui tuyệt vời lại được nói chuyện với anh Babo, mẹ tôi, cha tôi và chị Kunyant sau nhiều năm xa cách. Thoạt đầu tôi chỉ khóc, khóc và khóc. Nhưng cuối cùng mẹ tôi làm cho tôi cười. Cha tôi bảo ông muốn gặp lại tôi hơn bất cứ thứ gì trên đời.
Cơn ác mộng của những năm tháng nô lệ không chấm dứt sau khi tôi đào thoát. Chỉ có tính chất của sự đau khổ của tôi là thay đổi. Tôi lo lắng nhiều hơn về sự an toàn của gia đình ở Sudan, sự an toàn của những người đã giúp tôi được tự do.
MENDE NAZER - DAMIEN LEWIS (Thiếu Khanh dịch)
__________________
Mende vẫn chưa thực hiện được ước mơ lớn nhất của cô: trở lại Sudan, trở lại núi Nuba. Cô ở lại Anh và làm tất cả để thực hiện thêm một ước mơ: những ai khác còn đang làm nô lệ sẽ được tự do.
Tôi được sự giúp đỡ của nhiều nhóm người, nhiều tổ chức, giới truyền thông. Cuốn sách kể lại câu chuyện của tôi Nô lệ - chuyện có thật của đời tôi (Slave - my true story) được xuất bản lần đầu tiên ở Đức vào tháng 9-2002, vượt ngay lên hàng danh sách mười cuốn sách bán chạy nhất trong nhiều tuần lễ.
Tôi đi tìm tôi
Tôi nhận được nhiều lời mời đi nói chuyện về những trải nghiệm của mình. Tôi được bà Elaine Pearson, một người trong Tổ chức quốc tế chống chế độ nô lệ, đưa sang Thụy Sĩ, nói chuyện tại Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Liên Hiệp Quốc ở Genève, Thụy Sĩ. Từ đó bà Elaine trở thành một người bạn tốt của tôi. Bà Elaine giúp tôi viết diễn văn để đọc tại ILO - chỉ đơn giản là 20 phút trình bày. Tôi sợ chết khiếp khi đến lượt mình bước lên phía trước trong phòng hội nghị khổng lồ và tham dự với ban thuyết trình, tất cả đều có bảng tên, quanh một cái bàn gỗ bóng loáng.
Hai diễn giả trước tôi đều là người da trắng, nhiều tuổi hơn tôi, mặc comlê chững chạc. Khi nhìn quanh, tôi nhận ra mình là người da đen duy nhất trong cuộc hội thảo và là diễn giả trẻ tuổi nhất. Miệng tôi há ra, cổ khô lại với sự sợ hãi đến nỗi tôi thốt không ra tiếng. Chắc chắn cử tọa trong phòng đều thấy tôi run rẩy. Tôi không biết mình nên bắt đầu từ đâu. Tuy vậy, khi tôi bắt đầu, lời nói cứ tuôn ra và tôi thấy mình nói năng trôi chảy và thành thực. Sau ba năm học, vốn tiếng Anh của tôi còn xa mới được gọi là thông thạo, nhưng tôi có thể diễn đạt cho mọi người hiểu cách nói giản dị của mình. Cuối bài, tôi bị tràn ngập với những câu hỏi, rồi mọi người hoan nghênh tôi và cảm ơn tôi đã kể cho họ nghe câu chuyện của mình.
Sau đó tôi nói chuyện với sinh viên tại các trường đại học và với học sinh tại các trường trung học. Mỗi lần nói chuyện như thế tôi càng hiểu rõ thêm mọi người trên thế giới đều thấy sự tồn tại của chế độ nô lệ trong thời hiện đại là điều khủng khiếp. Hầu hết đều không tin ngày nay vẫn còn tồn tại tình trạng nô lệ nhưng họ đã được nghe câu chuyện của tôi.
Mơ ước lớn nhất của tôi là mong được gặp lại gia đình. Khoảng mười năm rồi tôi không được gặp họ. Đôi khi tôi tự hỏi không biết cha tôi còn nhận ra đứa con gái của mình không - đứa con gái nhỏ bị bắt đi khỏi vùng núi Nuba và bây giờ là một phụ nữ trưởng thành đang sống ở châu Âu. Nhưng dĩ nhiên, quốc gia mà tôi không thể đến được bằng thông hành của Anh chính là Sudan. Có thể sẽ phải mất khoảng năm năm để tôi có được quốc tịch Anh và được cấp hộ chiếu của nước Anh. Và ngay cả lúc đó việc tôi mạo hiểm bất chấp rủi ro trở về Sudan vẫn còn là điều có thể gây tranh cãi. Tôi đã tìm nhiều cách giúp tôi gặp lại cha mẹ nhưng tất cả cách đó đều có những bất trắc riêng.
Nhưng tôi sẽ phải kiên nhẫn. Và kiên nhẫn là đức tính mà tôi đã học được rất nhiều khi trải qua những năm tháng trong cuộc đời nô lệ. Kiên nhẫn rằng tôi sẽ vượt thoát, sẽ được làm chủ đời mình và sẽ được tự do. Sự kiên nhẫn sẽ cho tôi được gặp lại cha mẹ một ngày nào đó. Nhiều người bạn mới của tôi ở London vừa có con cái và tôi cũng mơ ước tìm được người yêu thương để lập gia đình. Với tôi đó sẽ là một cách để tái tạo cảm giác về gia đình, về sự yên ổn mà tôi đã bị cuộc sống nô lệ và lưu vong tước mất.
Tôi vẫn cảm thấy còn nhiều điều phải làm để tôi thật sự hiểu cuộc hành trình từ nô lệ đến tự do cuối cùng sẽ đưa mình tới đâu. Còn rất nhiều câu hỏi. Tôi muốn gì ở cuộc đời? Tôi đang đi học tiếng Anh như bất cứ em học sinh nào, nhưng tôi không có gia đình, không có nơi nào cho tôi cảm thấy được sự ấm cúng của nhà mình. Tôi có còn là một cô gái Nuba nữa không? Hay tôi là một tác giả có sách bán chạy? Tôi là một nô lệ đào thoát được tưởng thưởng? Tôi là người Sudan hay là người Anh?...
Tôi chắc chắn mình sẽ tìm được những lời giải đáp. Tôi đang sung sướng thấy thời gian là của mình, thấy mình đang học hành và cải thiện bản thân để trở nên một cô gái thông minh như những năm đầu tiên đi học trong miền núi Nuba. Tôi sung sướng khi mình có thể cầu nguyện với Thượng đế, làm theo con tim mình và làm quen với những người bạn mới trên khắp thế giới. Tôi sung sướng nghĩ rằng một ngày nào đó tôi có thể trở thành một y tá để chăm sóc nhiều người. Tôi sung sướng nghĩ một ngày nào đó tôi gặp được người đàn ông mơ ước của mình, sẽ có con cái, rồi có một túp nhà nhỏ an lành và êm ấm ở đâu đó...
Ghi chú của Damien Lewis
Mende Nazer đào thoát vào một ngày mùa hạ, 11-9-2000, trên đường phố nhiều cây xanh ngoại ô phía bắc London. Tôi hay biết về hoàn cảnh của cô vài hôm trước đó. Một người bạn Nuba gọi điện thoại hỏi tôi có thể giúp cứu thoát cô ấy không. Anh cần có một nhà báo người Anh chứng kiến cuộc giải cứu để sự việc “được ghi vào hồ sơ”. Tôi tham dự từ lúc đó.
Hôm nay, ba năm sau ngày đó, Mende Nazer là một phụ nữ trẻ trung, hoạt bát, rất thông minh với độ tuổi ngoài hai mươi - người Nuba không giữ hồ sơ về ngày tháng năm sinh - đang đặt nhiều hi vọng vào tương lai. Nhưng lần đầu tiên tôi gặp cô ấy vào ngày cô được giải cứu, đó là một người lọm khọm, tê liệt và run rẩy.
Câu chuyện của Mende không làm tôi kinh hoàng lắm; là một nhà báo, tôi đã nhiều lần đến Sudan để tường thuật nhiều, rất nhiều câu chuyện khiếp đảm về tình trạng nô lệ và những sự lăng nhục khác. Tôi ngạc nhiên nhiều hơn với độ sâu sắc của chi tiết sự việc được Mende nhớ lại, nhất là những giai đoạn khi Mende còn thơ ấu.
Phần lớn điều chúng tôi viết ra Mende chưa hề kể với ai trước đó. Trước đó cô chưa hề nói đến những điều khủng khiếp mà cô đã chịu đựng. Trước khi đào thoát cô không có ai để chia sẻ. Có nhiều đau xót và nước mắt khi chúng tôi viết đến những phần khó khăn. Nhưng như chính Mende nhận thấy, có lẽ nói ra hết những điều này là bước đầu trên con đường tiến đến việc chữa lành tất cả thương tổn và khổ đau của cô.
Điều 4 trong Tuyên ngôn chung về quyền con người của Liên Hiệp Quốc như sau: “Không một ai phải bị làm nô lệ hoặc phải hoạt động khổ sai; sự chiếm hữu và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức phải bị nghiêm cấm.” Hơn 50 năm sau khi Liên Hiệp Quốc chấp nhận và thi hành bản tuyên ngôn này vào năm 1948, câu chuyện của Mende cho thấy việc buôn bán nô lệ vẫn còn phát triển “thịnh vượng” ở đây đó.
Mende nói cô phải nói ra vì còn có nhiều phụ nữ, nhiều cô bé và cậu bé đang bị buộc phải làm nô lệ đây đó. Cô biết đích danh vài người trong số đó - Asha, Katuna, Nanu - và họ vẫn là bạn của cô. “Tôi muốn tất cả những người khác còn đang làm nô lệ hoặc chịu khốn khó đều được trả tự do - Mende nói - Làm sao tôi có thể thật sự cảm thấy tự do khi tôi biết tất cả họ vẫn còn bị bắt làm nô lệ”.