Chúng tôi chưa ra tới đường cái để trở về Madras, thì đã có nghe có tiếng chân người theo dõi tôi ở phía sau. Tôi quay lại nhìn thì thấy người Yogi mặc áo vàng ngồi sau lưng tôi ở trong tịnh thất lúc nãy. Y vừa nhìn tôi vừa nhăn răng cười. Y có một cái cười đặc biệt, hai quai hàm xếch ngược lên tận hai mang tai, và cặp mắt nhỏ híp lại thành hai vết nhăn, hình như lúc nào cũng có vẻ đùa cợt. Tôi bèn hỏi:
- Anh muốn nói chuyện với tôi chăng...
- Thưa ông, phải. Y đáp một cách mau mắn, với một tiếng Anh rất giòn. Xin ông có thể cho tôi biết ông làm gì ở xứ này...
Sự tọc mạch của y làm cho tôi do dự, tôi bèn đáp một cách vu vơ:
- Tôi đi du lịch, chỉ có vậy thôi.
- Hình như ông có vẻ chú ý đến những tu sĩ ở xứ này, phải chăng...
- Phải, xem chơi tiêu khiển vậy thôi.
- Tôi cũng là một người Yogi, thưa ông.
Tôi nghĩ thầm sao lại có người Yogi khoẻ khoắng một cách lạ kỳ như vậy. Tôi hỏi:
- Được bao lâu rồi...
- Đã được ba năm. Trước kia tôi cũng có nhập ngũ trong quân đội Hoàng Gia suốt bảy năm.
- Thật vậy sao...
- Thưa ông, đúng vậy. Tôi đã có tòng quân theo đạo binh Ấn Độ trong trận chiến tranh Trung Đông. Sau chiến tranh, nhờ giỏi giắn và thông minh, nên tôi được thuyên chuyển sang Phòng Kế Toán quân đội.
Tôi phải mỉm cười về sự tự giới thiệu đặc biệt của ỵ Y nói tiếp:
- Về sau tôi xin từ chức vì một sự rối rắm trong gia đình và đã trải qua một cõn khủng khoảng tinh thần rất lớn, nó làm cho tôi bước vào con đường tu hành và trở nên một người Yogi.
Tôi đưa cho y một tấm danh thiếp và xin y cho biết quý danh. Y đáp:
- Tôi tên là Subramanya, thuộc dòng dõi Bà La Môn, giai cấp Aiyar.
- Ông Subramanya, ông hãy giải thích về lời nói thì thầm của ông bên cạnh tôi lúc nãy, ở trong am thất của nhà Tu Sĩ tịnh khẩu.
- Chính tôi cũng đợi dịp giải thích cho ông. Ông hãy đến chất vấn Tôn Sư tôi, vì Ngài là một bậc Hiền minh nhất của xứ Ấn Độ; sự minh triết của Ngài còn cao xa hơn của những người Yogi.
- Thật vậy à... Anh đã từng đi hết khắp xứ Ấn Độ hay chưa... Anh đã gặp hết tất cả những nhà đạo sĩ trứ danh hay chưa mà anh dám nói như thế...
- Tôi đã gặp nhiều vị đạo sĩ chân tu, và tôi biết rõ Ấn Độ từ mũi Comorin đến tận dãy Hi Mã Lạp Sơn.
- Sao nữa...
- Bởi vì chính Ngài đã đưa tôi đến để gặp ông. Chính quyền năng của Ngài đã làm cho ông bị thu hút đến xứ Ấn Độ.
Lời tuyên bố đại ngôn này quá sức lố lăng, nó làm cho tôi dội ngược, không thể chịu nổi. Tôi vẫn thường không thích những lời nói phóng đại khoác lác của những kẻ quá khích, và người tu sĩ áo vàng này quả thật là một tay quá khích thượng thặng. Giọng nói, cử chỉ, hình dáng và cốt cách của y biểu lộ điều ấy một cách rõ ràng.
Tôi đáp một cách lạnh lùng:
- Tôi không hiểu anh muốn nói gì...
Y càng trở nên hùng biện và nói nhiều hơn:
- Tôi được gặp Ngài cách đây tám tháng về trước. Tôi được phép sống gần Ngài trong năm tháng trường, và sau đó Ngài dạy tôi hãy tiếp tục cuộc đời khuất sĩ ta bà khắp nơi. Ông sẽ không bao giờ gặp được một người nào như Ngài. Quyền năng của Ngài cao siêu đến nỗi Ngài có thể trả lời những tư tưởng thầm kín của ông trước khi ông thốt ra lời. Ông chỉ cần ở bên cạnh Ngài một thời gian ngắn, cũng đủ thấy trình độ tâm linh cao cả của Ngài là dường nào.
- Anh có chắc rằng Ngài sẽ vui lòng đón tiếp tôi chăng...
- Chắc chắn mười phần, thưa ông. Chính do sự hướng dẫn tâm linh của Ngài, mà tôi đến gặp ông.
- Tôn Sư bây giờ ở đâu...
- Ở tại Arunchala, trên ngọn Đồi Thiêng.
- Đó là ở vùng nào vậy...
- Trong địa phận tỉnh Arcot, ở tận miền Nam. Tôi sẽ dẫn đường cho ông đi đến tận nõi. Thầy tôi sẽ giải quyết mọi sự băn khoăn và thắc mắc của ông, vì Ngài đã đạt tới một trình độ tâm linh siêu đẳng.
- Điều ấy thật là lý thú, tôi nhìn nhận một cách do dự, nhưng tôi rất tiếc là hiện giờ tôi không thể đi được. Hành trang của tôi đã sẵn sàng và tôi sẽ lên miền Đông Bắc nay mai, vì tôi có hai việc quan trọng cần phải thu xếp.
- Rất tiếc rằng chúng ta gặp nhau quá trễ. Tôi đã chuẩn bị mọi việc sẵn sàng và không thể nào thay đổi được nữa. Tôi có thể trở lại miền Nam về sau này, nhưng còn bây giờ thì không thể đi được.
Người Yogi có vẻ thất vọng rõ rệt:
- Ông để lỡ mất một cơ hội tốt, thưa ông, và...
Tôi nhận thấy nói nhiều vô ích, nên tôi đành cắt đứt ngang câu chuyện:
- Tôi phải đi ngay bây giờ. Dầu sao cũng cảm ơn anh.
- Tôi không nhận lời từ chối của ông. Y nói dai như đĩa. Chiều mai tôi sẽ đến nhà ông và tôi hy vọng rằng chừng đó ông sẽ đổi ý kiến.
Đến đây, y bèn quay lưng đi thẳng. Tôi nhìn theo cái bóng người cao lớn mạnh khỏe, khoác áo vàng đi băng qua đường lộ và lần lần mất dạng.
Khi về đến nhà, tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng tôi đã quyết định một cách quá vội vàng... Nếu vị Tôn Sư này chỉ đúng độ nửa phần những lời ca tụng của y, thì cũng đáng cho tôi chịu một phen khó nhọc đi xuống miền Nam. Nhưng tôi đã chán những người đồ đệ quá mê tín, họ luôn luôn ca tụng Thầy họ một cách quá đáng, nhưng đến khi gặp gỡ tận mặt, thì ra đó chỉ là những người đạo hạnh tầm thường, không có gì là đặc sắc. Hơn nữa, những đêm không ngủ và những ngày nóng bức như thiêu đã làm cho thần kinh tôi bải hoải, thân thể rã rời. Bởi vậy, tôi càng lo ngại nhiều hơn lúc thường rằng chuyến đi này lại có thể là một cuộc săn vịt như những lần trước.
Tuy nhiên, sự lý luận đó vẫn không đánh tan được một sự linh cảm từ bên trong nội tâm. Một cái bản năng lạ lùng nhắc nhở cho tôi biết hình như có một cái gì chân thật ẩn dấu đằng sau sự khẩn khoản mời mọc của người khất sĩ. Điều này càng làm cho tôi lưỡng lự và bối rối.
Sau một giấc ngủ trưa vừa thức dậy, đến giờ dùng trà, bỗng có khách đến. Đó là một bạn đồng nghiệp trong giới cầm bút, nhà văn sĩ Manị Tôi được biết y do một bức thư giới thiệu của một người quen trước khi tôi đến Madras. Nhờ có bức thư giới thiệu này mà y biết địa chỉ và đến thăm tôi.
Văn sĩ Mani là một nhân viên Hội Đồng Đại Học Viện của tỉnh Madras, và là tác giả của nhiều áng văn và tiểu thuyết nói về đời sống ở thôn quệ Y là nhà văn Ấn Độ đầu tiên trong tỉnh Madras đã viết sách bằng Anh ngữ và được ban thưởng về những công trình phục vụ văn nghệ. Y viết với một thể văn tao nhã, đã từng được sự khen tặng của thi hào Tagore ở Ấn Độ và Lord Haldane ở Anh Quốc. Văn chương của y chuyên diễn tả những cảnh tượng mơ buồn của những làng mạc hoang vu tẻ lạnh.
Khi y bước vào phòng, tôi để ý nhìn dung mạo gầy gò mảnh khảnh với vẻ mặt trầm lặng, đôi mắt tinh anh và cặp kính trắng của ỵ Đó là đôi mắt của một nhà tư tưởng, một triết gia và một thi sĩ, đôi mắt ấy cũng phản chiếu những nỗi ưu sầu của những người nông dân đau khổ ở chốn đồng quê.
Trong chốc lát, chúng tôi đã nhận thấy có sự thông cảm và đồng quan niệm trên nhiều lĩnh vực. Sau khi chúng tôi bày tỏ tâm sự về nhiều vấn đề, bàn về tình hình chính trị và ca tụng những nhà văn mến chuộng của chúng tôi, tôi cảm thấy cần tiết lộ cho y biết rõ mục đích của tôi khi viếng xứ Ấn Độ. Tôi thành thật nói cho y biết ý định của tôi, tôi hỏi y về các nhà đạo sĩ chân tu ở xứ này; và nói trước cho y biết rằng tôi không cần gặp những nhà tu khổ hạnh ở bẩn hay những nhà làm trò quỷ thuật.
Y lắc đầu nói:
- Ngày nay, Ấn Độ không còn là nơi sản xuất ra những người Hiền Giả chân tu như thế nữa. Với trào lưu vật chất đang lên, sự suy tàn của nền văn minh cổ và sự xâm nhập bởi nền văn hóa không hồn của Tây phương, những bậc Hiền Triết, Thánh Sư mà anh tìm kiếm ngày nay đã biến mất, không còn nữa. Tuy nhiên, tôi tin tưởng rằng một vài người trong số đó còn đang ẩn dật ở những nơi rừng sâu núi thẳm, và trừ phi anh dành trọn đời để đi tìm các Ngài, tôi e rằng anh khó tìm ra được. Khi những người Ấn như chúng tôi muốn tìm Thầy học đạo, ngày nay họ còn phải đi phiêu lưu ta bà khắp nơi, huống chi một người Âu như anh lại càng khó hơn.
- Như vậy, theo ý anh, chắc là không có hy vọng...
- Tôi không dám nói trước, đó là một vấn đề may rủi.
Tôi hỏi thêm:
- Anh có nghe nói về một bậc danh sư hiện đang sống trên một ngọn đồi trong tỉnh Arcot...
Y lắc đầu tỏ vẻ không biết. Chúng tôi quay trở về các vấn đề văn chương. Mani cao hứng thổ lộ tâm sự của y và ca tụng một cách nồng nhiệt những lý tưởng cao siêu của nền văn hóa cổ Ấn Độ mà ngày nay không còn nữa. Y đề cập đến những lý tưởng như một đời sống đơn giản, phụng sự nhân quần xã hội, cùng phát triển tâm linh. Y muốn tảo trừ cái trào lưu vật chất sa đọa đang lên, nó hăm dọa tràn ngập hết xã hội Ấn. Nhưng điều quan trọng nhất đối với y là làm thế nào để giải thoát những vùng làng mạc thôn quê của Ấn Độ đã sắp sửa trở nên những trung tâm tuyển mộ nhân công vào những khu xóm tồi tàn chật hẹp của những thành phố kỹ nghệ Âu Châu, y nhận thấy điều đó sẽ là cái hậu quả chắc chắn của trào lưu hiện tại.
Mani cho biết rằng y sinh trưởng trong một gia đình khá giả, có tài sản ở vùng đồng quệ Y nuôi trong trí những kế hoạch cải tiến tình trạng sinh hoạt của người dân quê, và không thể quan niệm được một hạnh phúc nào ở thế gian nếu đời sống của người nông dân hãy còn lầm than khổ sở.
Tôi lẳng lặng nghe để tìm hiểu quan niệm của ỵ Sau cùng y đứng dậy ra về và tôi nhìn theo bóng y hút mất dạng ở cuối đường lộ.
Sáng ngày hôm sau, tôi ngạc nhiên mà thấy y trở lại viếng tôi một cách bất ngờ. Y hối hả đậu xe ngay trước cửa nhà, vì y sợ rằng tôi có thể đi sớm. Y vừa thở vừa nói:
- Tôi vừa nhận được một bức điện tín hồi đêm hôm cho biết rằng vị đỡ đầu cao cả của tôi sẽ ghé qua tỉnh Chingleput và sẽ ở lại đó một ngày.
Sau khi đã lấy lại được hõi thở và đã bớt mệt, y nói tiếp:
- Đức Tăng Thống Shankara ở tỉnh Kumbokonam là vị lãnh đạo tinh thần của miền nam Ấn Độ. Hằng triệu người tôn sùng Ngài như một vị thánh sống, sứ giả của Thượng Đế ở cõi trần. Ngài đã chú ý đến tôi rất nhiều và khuyến khích sự nghiệp văn chương của tôi. Lẽ tự nhiên, Ngài là người mà tôi trông cậy để dìu dắt tôi về phương diện tâm linh. Người Ấn chúng tôi xem Ngài như bậc Hiền Triết đã đạt tới một trình độ tâm linh cao cả nhất. Nhưng Ngài không phải là một người Yogị Ngài là vị Chủ Tể của Ấn Độ giáo miền Nam, một bậc chân tu mô phạm và một nhà đạo đức uyên thâm. Vì Ngài biết rõ những trào lưu đạo đức tâm linh của thời đại này, và do bởi đạo căn của Ngài, nên Ngài có thể biết được những nhà đạo sĩ Yogi chân chính. Ngài đi châu du khắp nơi từ làng này sang làng khác và từ tỉnh này sang tỉnh khác, bởi đó Ngài biết nhiều về vấn đề này. Bất cứ nơi nào Ngài đi đến, những vị tu sĩ và tăng lữ trong xứ đều đi đến chào mừng Ngài. Ngài có thể cho anh nhiều ý kiến hữu ích. Anh có muốn gặp Ngài không...
- Cảm ơn anh nhiều. Tôi rất muốn gặp Ngài. Chingleput cách đây bao xa...
- Chỉ có ba mươi lăm dặm thôi. Nhưng này...
- Chi đó...
- Tôi bắt đầu nghi ngại không biết đức Tăng Thống có chịu tiếp kiến anh không. Lẽ tự nhiên tôi sẽ hết sức cố gắng để xin Ngài cho anh được vào yết kiến. Nhưng...
- Hay là vì tôi là người Âu chăng... Tôi đỡ lời luôn hết câu cho ỵ À, tôi hiểu.
- Anh có sẵn lòng đón nhận một sự từ chối chăng... Y hỏi một cách hơi băn khoăn, e ngại.
- Tự nhiên là chịu. Thôi chúng ta đi.
Sau một bữa ăn lót dạ, chúng tôi ra xe đi đến tỉnh Chingleput. Tôi hỏi thăm ông bạn đồng nghiệp của tôi về Đại Đức Shankara, nhân vật mà tôi hy vọng được gặp trong ngày hôm đó. Tôi được biết rằng về phương diện cá nhân, Đại Đức sống rất đơn giản, nhưng trong những khi đi tuần du khắp nơi trong xứ, trọng trách của Ngài bắt buộc Ngài phải dùng những nghi lễ oai vệ, lộng lẫy như các bậc vua chúa. Trong những khi Ngài di chuyển, thì trước sau đều có xe cộ, ngựa voi, tiền hô hậu ủng, cờ, quạt, võng, lọng tưng bừng. Dân chúng tấp nập ở nõi nào Ngài đi đến.
Họ đến để cầu xin sự giúp đỡ của Ngài về tất cả mọi phương diện, không những về phương diện tâm linh, mà cũng về mặt tinh thần, vật chất, và thậm chí đến cả sự giúp đỡ về tiền bạc. Không có ngày nào là không có những người giàu sang, quyền thế đến dâng cho Ngài những số tiền khổng lồ, nhưng vì Ngài đã phát nguyện giữ đức thanh bần, nên những số tiền đó đều được đem dùng vào những công việc từ thiện. Ngài nâng đỡ những kẻ khốn khó, trợ giúp tiền cho các trường học, tu bổ các đền thờ, kiến thiết và sửa sang hệ thống đào ao tát nước, dẫn thủy nhập điền, để trừ hạn hán trong xứ mà sông ngòi rất hiếm. Nhưng đó chỉ là những công việc phụ thuộc:
Sứ mạng chính yếu của Ngài là coi sóc hàng triệu tín đồ và giáo hóa họ về mặt đạo đức tâm linh. Bất cứ nơi nào Ngài đi đến, Ngài đều cố gắng dạy dỗ cho dân chúng biết quay về cái thuần phong mỹ tục và đạo đức cổ truyền của Ấn Độ Giáo và gây cho họ một nguồn cảm hứng sâu xa về tinh thần.
Thường khi, Ngài thuyết pháp trong đền chùa của địa phương và sau đó Ngài tiếp khách riêng từng người trong số những khách khứa thập phương đến viếng. Đại Đức là vị kế nghiệp sáu mươi sáu đời của dòng tu sĩ Shankara, mà người sáng lập đầu tiên là Đức Giáo Chủ Shankara Charya, một người Đại Hiền Triết dòng Bà La Môn, đã sống ở Ấn Độ cách đây hai ngàn năm, dường như Ngài sinh ra đời với một sứ mạng.
Vào thời kỳ đó, Ấn Độ Giáo đang hồi suy vong, mọi sinh hoạt tâm linh dường như sắp sửa điêu tàn. Năm mười tám tuổi, đức Shankara Charya chu du khắp nơi trong xứ, thảo luận về Đạo lý với các nhà bác học và các bậc Giáo sĩ. Ngài cũng giảng đạo khắp nơi và thâu phục một số tín đồ càng ngày càng đông. Trí óc thông minh tuyệt vời của Ngài làm cho các nhà bác học trong xứ phải ngạc nhiên. Không bao lâu Ngài được người đương thời kính nể và suy tôn như một bậc tiên trị Ngài có những ý kiến rộng rãi và lên án nhiều sự dị đoan, mê tín, núp bóng dưới hình thức tôn giáo.
Ngài khuyên răn người đời hãy trau dồi những đức tánh tốt và trong những lần thuyết pháp, Ngài chỉ rõ sự vô ích của một tôn giáo chỉ căn cứ trên sự lễ bái, cúng tế, mà không có sự công phu tu luyện. Ngài phá luôn cả luật lệ gia cấp bằng cách chính Ngài hành lễ đám táng của thân mẫu Ngài, điều này làm cho Ngài bị rút phép thông công và bị trục xuất ra khỏi Bà La Môn giáo, vì theo tôn giáo này chỉ có những giáo sĩ mới có quyền hành lễ trong các nghi thức:
Quan, hôn, tang, tế mà thôi. Với hành động phá giai cấp đó, Ngài đã tỏ ra xứng đáng là một người kế nghiệp của Phật Thích Ca, vì chính Đức Phật là người đầu tiên đả phá chế độ giai cấp ở Ấn Độ. Trái với các nhà giáo sĩ Bà La Môn, Ngài dạy rằng mọi người không phân biệt giai cấp hay màu da, đều có thể tham dự vào đời sống tinh thần, và học hỏi Đạo lý.
Ngài không lập nên một tôn giáo mới nào, mà chỉ dạy rằng bất cứ tôn giáo nào cũng đưa con người đến Thượng Đế, miễn là nó được thi hành một cách đứng đắn. Để chứng minh cho lập luận đó, Ngài lập nên một hệ thống triết học hoàn bị và để lại cho đời một cái di sản quý báu về tinh thần, nó vẫn còn uy tín trong những đạo viện khắp nơi trong xứ. Chính những nhà học giả uyên bác Ấn Độ cũng rất sùng mộ công trình về triết học và tâm linh của Ngài.
Đức Giáo Chủ Shankara Charya đi châu du khắp xứ Ấn Độ với chiếc áo màu già và cây gậy hành hương của nhà tu sĩ. Với một chánh sách khôn khéo, Ngài thành lập bốn đạo viện lớn ở bốn phương trời mà một ở Badrinath tại miền Bắc, và một ở Puri tại miền Đông Ấn. Đại bản dinh của Ngài gồm có một ngôi đền và một tu viện được đặt ở miền Nam, nơi đó Ngài bắt đầu đi thuyết pháp. Cho đến ngày nay, miền Nam Ấn Độ vẫn được coi là nơi Thánh Địa chính tông của Ấn Độ Giáo. Những đạo viện đó là những trung tâm tinh thần truyền bá giáo lý của đức Giáo Chủ Shankara Charya lúc còn sanh tiền có hứa với các vị đệ tử rằng Ngài sẽ luôn luôn ở gần bên họ bằng tinh thần, và sẽ phù hộ cho những người kế nghiệp của Ngài ở chức vụ Tăng Thống. Mỗi vị Tăng Thống đều lấy tên là Shankara, và khi gần qua đời thì Ngài chỉ định một đệ tử xứng đáng nhất để kế nghiệp của Ngài, vì người đệ tử này thường được chỉ định sẵn khi còn là một thanh niên trẻ tuổi, nên y được giao phó cho các vị danh sư dạy dỗ và chuẩn bị cho y thực hành chức vụ cao cả của một vị Tăng Thống sau này.
Sự học tập của y không chỉ về mặt trí dục và đức dục mà thôi, nó còn gồm cả những giai đoạn cao đẳng của pháp môn Yoga và sự thực hành môn thiền định. Chương trình giáo dục này được tiếp theo bằng một thời kỳ hoạt động nhập thế của người thanh niên, hoàn toàn hiến dâng cuộc đời để phụng sự nhân loại. Thật là một điều kỳ lạ mà nhận thấy rằng giòng tu này được tiếp tục hành đạo trải qua nhiều thế kỷ mà từ trước đến nay không hề có một vị Tăng Thống nào làm trái với lý tưởng vị tha, giúp đời một cách tuyệt đối trong sạch cao thượng nhất.
Mani còn kể cho tôi nghe nhiều giai thoại về những quyền năng của Đại Đức Shankara thứ sáu mươi sáu. Trong những câu chuyện đó, có sự chữa bệnh cho một người thân nhân, bị bệnh kinh niên:
Đại Đức Shankara dùng tay truyền điện, trong khoảng không đầy ba giờ, đã làm cho bệnh nhân ngồi dậy được, và sau đó ít lâu, Ngài chữa cho y hoàn toàn hết bệnh. Người ta cũng nói rằng Ngài đọc được tư tưởng của người khác.
Chúng tôi đi vào thành phố Chingleput do một con đường hai bên đường trồng cây dừa và đi qua một hệ thống chằng chịt những đường nhỏ hẹp, giữa những nhà quét vôi trắng, nóc đỏ. Trung tâm thành phố náo nhiệt và đông người. Tôi được đưa vào một nhà kia, nơi đó có cả một nhóm thư ký đang bận rộn mở những bức thư chất thành đống được chuyển cho Đại Đức sau khi Ngài xuất hành từ thị trấn Kumbakonam và đi tuần du khắp nơi. Tôi chờ đợi trong một hành lang trong khi Mani nhắn một người thư ký trở ra nói rằng Đại Đức không thể tiếp khách người Âu. Hơn nữa, đã có hai trăm người xin được gặp Ngài, trong số đó, đã có nhiều người xin ngủ lại từ đêm trước để chắc được Ngài tiếp kiến. Người thư ký xin lỗi không ngừng. Tôi chấp nhận việc ấy một cách bình tĩnh nhưng Mani nhất định không chịu thua:
Y cho biết y sẽ cậy ở tình quen biết cố cựu với Đại Đức để xin cho tôi được vào yết kiến. Trong đám đông có những người khác, tuy thế, y dùng sự khéo léo ngoại giao để lọt vào trước và một lúc sau y trở ra với một nụ cười đắc thắng:
Đại Đức sẽ đặc cách ban một ngoại lệ cho anh và sẽ tiếp anh trong một giờ.
Trong khi chờ đợi, tôi dùng thời giờ để đi bách bộ chơi dọc theo những con đường nhỏ rất ngoạn mục đưa đến ngôi đền lớn. Tôi gặp một vài người đầy tớ đang dắt một đàn voi xám và lạc đà đi uống nước. Có người chỉ cho tôi thấy con voi tuyệt đẹp của Đại Đức Shankara, vẫn thường chở Ngài đi tuần du khắp nõi. Ngài dùng nghi vệ xứng đáng với bậc vua chúa. Cái ngai trên lưng voi vàng son lòe loẹt, lót nệm gấm, thêu chỉ vàng coi rất lộng lẫy.
Tôi nhìn theo con voi tiến bước một cách chậm chạp và oai vệ, dường như nó cũng ý thức được cái địa vị cao sang của chủ nó.
Tôi nhớ lại rằng theo phong tục Ấn Độ, khi đến viếng thăm một nhân vật đạo đức chân tu, người ta thường mang theo hoa quả bánh trái làm lễ vật ra mắt. Tôi định đi mua quà biếu, nhưng ở quanh vùng chỉ tìm thấy có hai món, là bông hoa và cam, tôi bèn mua luôn cả hai thứ đem về.
Trong đám đông người chen chúc nhau ngoài cửa ngõ nhà Đại Đức, tôi lại quên cả một phong tục khác, là cởi giày trước khi vào nhà. Mani mau mắn nhắc tôi. Tôi bèn cởi giày bỏ ngoài đường, hy vọng rằng đôi giày sẽ còn nguyên ở chỗ cũ khi tôi ra về.
Chúng tôi đi qua một dãy hành lang và bước vào một gian phòng lớn. Ở cuối phòng, trong một góc thiếu ánh sáng, tôi nhận thấy có một người đứng khuất trong bóng tối. Tôi bước đến gần, đặt mâm lễ vật mọn của tôi một bên, và cúi rạp mình làm lễ. Tôi nhận thấy cái nghi lễ giản dị này có một tính cách lịch sự mà tôi rất thích, ngoài ra sự cần thiết của nó để bày tỏ lòng tôn kính.
Tôi biết rằng Đại Đức Shankara không phải là một vị Giáo Hoàng, vì bên Ấn Độ không có một chức sắc như thế, nhưng Ngài là một vị Giáo Chủ và lãnh đạo tinh thần của một số con chiên và tín đồ rất đông đảo. Toàn thể dân chúng Ấn Độ miền Nam đều kính cẩn nghiêng mình dưới sự bảo hộ của Ngài.
Tôi im lặng nhìn Đức Tăng Thống. Ngài tác người hơi thấp, khoác bộ áo màu vàng sậm của vị tăng lữ xuất gia, và chống gậy tu sĩ. Tôi được biết rằng Ngài mới trên bốn mươi tuổi, nhưng tôi ngạc nhiên mà thấy tóc Ngài đã điểm bạc.
Ngài có một tác phong cao quý, vẻ mặt khiêm tốn, dịu dàng, đôi mắt lớn đen như huyền trông rất đẹp và có vẻ yên tịnh khác thường. Mũi ngắn, thẳng và đều đặn, một bộ râu đen hơn ngắn phủ ở trên cằm, đôi môi khép chặt và nghiêm chỉnh. Gương mặt Ngài giống như của một vị Thánh Gia Tô thời Trung Cổ. Người Tây phương có thể cho rằng cặp mắt đen của Ngài có vẻ quá mơ mộng, nhưng tôi cảm thấy, bằng một cách khó giải thích, rằng ở đằng sau đôi mí mắt đó còn có những cái gì khác hơn là những giấc mơ.
Tôi nói để mở lời vào đề:
- Đại Đức đã quá hạ cố mà tiếp tôi. Thật rất hân hạnh...
Đại Đức Shankara quay lại ông bạn tôi và nói ít lời bằng tiếng bổn xứ nhưng tôi có thể đoán được ý nghĩa. Bạn tôi nói lại với tôi:
- Đại Đức hiểu tiếng Anh nhưng Ngài không nói được, và muốn tôi dịch lại những câu trả lời của Ngài.
Tôi nói qua về những kinh nghiệm đầu tiên của tôi ở xứ này. Ngài muốn biết những cảm tưởng của một người ngoại quốc về người và vật của xứ Ấn Độ. Câu chuyện kéo dài và tôi ngạc nhiên mà được biết rằng Đức Tăng Thống đọc thường xuyên những báo chí của Anh Quốc và biết rõ mọi sự xảy ra hàng ngày ở thế gian này. Tôi sực nhớ Đại Đức Shankara có tiếng là một nhà tiên trị Tôi bèn hỏi ý kiến Ngài về tương lai của Trái Đất.
- Xin Đại Đức cho biết trong tương lai, thời cuộc thế giới có khả quan hơn bây giờ không...
- Tôi không thấy có sự thay đổi trong một ngày gần đây. Đó là một vấn đề thời gian. Làm sao mà có sự thay đổi tình hình trong khi mà các nước đều đua nhau võ trang bằng vũ khí tối tân giết người...
- Người ta từng nói nhiều về vấn đề tài binh. Đại Đức nghĩ sao về vấn đề này...
- Dầu các anh có tháo gỡ những chiến hạm và đem quăng những cỗ đại bác vào đống sắt vụn, điều đó cũng không ngăn cản được chiến tranh. Những dân tộc các anh sẽ đánh nhau bằng gậy gộc nếu họ không còn súng ống để võ trang.
- Bây giờ phải làm sao...
- Điều cần phải thay đổi, chính là cái tinh thần bên trong. Chỉ có hòa hợp tinh thần giữa các nước và mọi giai cấp xã hội, mới gây cho nhau lòng tin tưởng, và tái lập hòa bình, cùng sự thịnh vượng chung.
- Điều đó chắc là còn lâu lắm. Như vậy phải chăng hiện nay chúng ta rất ít có hy vọng...
Đức Tăng Thống chống một tay lên gậy và nói:
- Còn có Thượng Đế.
- Nếu có Thượng Đế thì dường như Ngài ở xa lắm. Tôi bạo gan phản đối.
Đại Đức nói với một giọng dịu dàng:
- Thượng Đế chỉ có một tình thương đối với nhân loại.
Tôi không cưỡng lại được một sự mai mỉa cai đắng nó dâng lên cõi lòng tôi khi tôi thốt ra những lời này:
- Cứ xét qua bao nhiêu sự lầm than đau khổ trên thế gian hiện nay thì Thượng Đế chỉ có một sự dửng dưng đối với nhân loại.
Đức Tăng Thống nhìn tôi một cách lạ lùng. Ngay tức khắc tôi liền thấy hối tiếc về những lời nói vội vàng của tôi.
- Với một ít kiên nhẫn, anh sẽ nhìn thấy xa hơn. Thượng Đế sẽ an bày mọi sự một cách êm thấm vào ngày giờ mà Ngài chọn lựa. Những sự tranh chấp náo loạn giữa các quốc gia, sự đồi trụy tinh thần của dân chúng và sự lầm than đau khổ của hàng triệu người sẽ đưa đến một sự phản ứng, và chừng đó sẽ có một bậc vĩ nhân lãnh sứ mệnh thiêng liêng xuất hiện để cứu độ thế gian. Như thế, nghĩa là mỗi thế kỷ đều có một đấng cứu thế. Điều này đúng như một định luật vật lý học. Thế gian càng vô minh đau khổ đồi trụy bao nhiêu, thì bậc vĩ nhân xuất hiện để cứu độ đời càng cao cả bấy nhiêu.
- Như vậy, Đại Đức nghĩ rằng một vị cứu thế cũng sẽ xuất hiện vào thời buổi hiện tại chăng...
- Vào thế kỷ hiện tại, Ngài sửa lại câu nói của tôi. Lẽ tất nhiên là như vậy. Sự nhu cầu của thế gian rất cấp bách, và sự vô minh ám muội của người đời rất dày đặc, đến nỗi một bậc vĩ nhân sứ giả của Thượng Đế chắc chắn sẽ xuất hiện.
Tôi hỏi:
- Phải chăng Đại Đức nghĩ rằng con người càng ngày càng trở nên sa đọa hơn trước...
- Không, tôi không nghĩ thế. Ngài đáp một cách khoan dung. Một linh hồn cao cả thiêng liêng ngự trong con người và rốt cuộc sẽ kéo y quay trở về Thượng Đế.
- Nhưng ở những thành phố Tây phương của chúng tôi, có những kẻ bất lương hành động chẳng khác nào như có quỷ vương ngự trong lòng của họ. Tôi đáp và nghĩ đến những tay đại bợm, ăn cướp một cách khoa học của thời đại này.
- Chúng ta đừng nên trách người, mà hãy trách những hoàn cảnh xã hội đã đào tạo ra họ. Chính hoàn cảnh chung quanh ở ngoài xã hội đưa đẩy họ vào con đường tội lỗi, dầu ở Đông phương hay Tây phương cũng vậy. Xã hội phải được cải tiến đến một trình độ cao hơn. Chủ nghĩa vật chất phải được thay thế bằng những hoài bão tinh thần và lý tưởng tâm linh. Không có phương thuốc nào mầu nhiệm hơn nữa để chữa cơn bệnh trạng của nhân loại. Những sự khó khăn đau khổ của các quốc gia trên thế giới hiện nay thật ra là những cơn hấp hối nó sẽ đưa đến sự thay đổi nói trên, cũng chẳng khác nào như sự thất bại thường là một bài học hay, nó chỉ cho chúng ta thấy sự lỗi lầm và hãy đổi qua con đường khác.
- Phải chăng Đại Đức muốn cho mọi người đều áp dụng những lý tưởng tâm linh vào công việc xử thế của họ...
- Đúng vậy, điều đó không phải khó làm, bởi vì đó là phương tiện duy nhất để đem lại những kết quả lâu bền mà cứu cánh là sẽ làm thỏa mãn tất cả mọi người. Chúng ta chỉ còn thiếu những người đã giác ngộ tâm linh và sẵn sàng đi truyền bá ánh sáng chân lý. Xứ Ấn Độ có những người ấy và đó là cái vinh hạnh của nó, ở đây, những bậc Hiền Giả được kính trọng biệt đãi, tuy rằng không được như ngày xưa. Nếu tất cả thế giới đều làm giống như thế và tuân theo sự dìu dắt của những người đã có sự giác ngộ tâm linh, thì chừng đó nhân loại sẽ được sống trong hòa bình và thịnh vượng.
Câu chuyện kéo dài, tôi nhận thấy rằng Đại Đức Shankara không chê bai chỉ trích phương Tây để rồi đề cao và tán tụng phương Đông như nhiều người Ấn Độ khác. Ngài nhìn nhận rằng mỗi phương bán cầu đều có những đức tính và khuyết điểm riêng, và như thế, cả hai phương Đông và Tây đều xấp xỉ bằng nhau. Ngài hy vọng rằng một thế hệ khôn ngoan hơn sẽ hòa hợp những ưu điểm của hai nền văn minh Âu Á để tổ chức một cơ cấu xã hội quân bình tốt đẹp và cao thượng hơn.
Tôi qua vấn đề khác và xin phép hỏi Ngài một vài câu hỏi có tính cách cá nhân. Ngài bằng lòng ngay không chút do dự.
- Đại Đức giữ chức vụ này đã được bao lâu...
- Từ năm 1907. Hồi đó tôi có mười hai tuổi. Bốn năm sau khi tôi được chỉ định, tôi lui về ở tại một làng trên bờ sông Cauvery để học tập và tham thiền quán tưởng trong ba năm. Sau đó, tôi mới bắt đầu ra làm việc công ích.
- Hình như Đại Đức ít khi lưu ngụ tại tổng hành dinh ở Kumbakonam...
- Lý do là vào năm 1918, tôi được Quốc Vương xứ Nepal mời tôi đến làm thượng khách của Ngài trong một thời gian. Tôi nhận lời và từ đó tôi vẫn đi từ từ lên miền Bắc để đến Nepal. Nhưng trong những năm đó, tôi không đi xa hơn vài trăm dặm đường, bởi vì truyền thống của chức vụ tôi bắt buộc tôi phải lưu gót ở lại mỗi làng và mỗi thành phố mà tôi đi ngang qua trên lộ trình của tôi, hoặc ở mỗi thị trấn nào mời tôi ghé qua, nếu không cách xa lắm. Tôi phải thuyết pháp ở tại ngôi đền chùa của mỗi địa phương, và phủ dụ dân chúng ở quanh vùng.
Tôi mới nói qua vấn đề tìm Đạo và đức Tăng Thống hỏi tôi về những người đạo sĩ mà tôi đã gặp ở dọc đường. Tôi không giấu diếm gì cả:
- Tôi muốn gặp một người đạo pháp khá cao để có thể cho tôi thấy một vài bằng chứng về đời sống tâm linh. Nhiều nhà tu sĩ ở đây, khi người ta yêu cầu họ chứng minh một cách cụ thể những điều họ nói, thì họ không làm gì khác hơn là tuôn ra một tràng lý thuyết nghe như suối chảy! Hay là tôi đòi hỏi một điều quá đáng chăng...
Đức Tăng Thống vuốt chòm râu ngắn của Ngài và nói:
- Nếu anh muốn nhập môn vào khoa Yoga thượng đẳng, anh không có đòi hỏi quá đáng. Tấm lòng chân thành sẽ giúp đỡ anh, vì tôi cảm thấy anh có một ý chí rất mạnh. Ánh sáng bắt đầu chớm nở nơi anh và sẽ dìu dắt anh đến ngay mục đích.
- Tôi phải làm gì bây giờ...
Đức Tăng Thống đáp:
- Anh hãy tiếp tục công việc tìm kiếm của anh. Xong rồi, anh hãy tưởng đến những nhà đạo sĩ Yogi và những tu sĩ thánh đức mà anh đã gặp. Anh hãy chọn lựa người nào mà anh thấy thích hợp nhất, rồi người đó sẽ dìu dắt anh bước vào cửa đạo diệu huyền.
- Nhưng thưa Đại Đức, nếu tôi không thấy thích hợp với một người nào, thì chừng đó tôi phải làm sao...
- Nếu như thế anh hãy tự tu tiến lấy một mình cho đến khi Thượng Đế giúp nguồn cảm hứng cho anh. Anh hãy tập tham thiền đều đặn, quán tưởng những điều thanh cao và nuôi dưỡng tình bác ái trong lòng, hãy luôn luôn nghĩ đến đời sống tâm linh và sự tiến hóa của linh hồn, cùng những phương tiện dẫn dắt cho con người được tiến hóa mau trên đường Đạo. Thời giờ tốt nhất cho sự tham thiền là buổi sớm mai và buổi chiều. Những giờ đó cảnh vật thiên nhiên đều đắm chìm trong yên lặng, và giúp cho sự tham thiền được dễ dàng hơn.
Lời nói thành thật và tốt bụng của Ngài làm cho tôi cảm động. Tôi đâm ra ao ước sự an tịnh hoàn toàn trên gương mặt Ngài. Không, quả tim này không bao giờ biết những sự thắc mắc băn khoăn nó dầy vò quả tim tôi. Tuân theo một sự thúc giục bên trong nó mạnh hơn ý chí của tôi, tôi hỏi Ngài:
- Nếu tôi không tìm được ai, tôi có thể xin Ngài giúp đỡ được chăng...
Đức Shankara lắc đầu một cách nhẹ nhàng:
- Tôi đứng đầu một cơ quan tinh thần, và thời giờ không phải là của tôi. Nó là của chung cho mọi người. Tôi chỉ ngủ có ba tiếng đồng hồ mỗi đêm từ nhiều năm naỵ Làm sao thâu nhận đệ tử trong những điều kiện đó... Anh hãy tìm một vị đạo sư có thể dành nhiều thì giờ cho anh.
- Tôi nghe nói rằng những vị danh sư rất hiếm, và một người Âu ít có khi may mắn được gặp.
- Thật vậy. Nhưng nếu người ta cố công tìm, ắt có ngày sẽ gặp.
- Đại Đức có thể chỉ dùm cho tôi tìm được chăng...
- Cũng được, nếu anh muốn. Tôi chỉ biết có hai vị danh sư có thể làm cho anh được như ý nguyện. Một vị hiện đang sống ẩn dật tại Bénarès, nhưng ít người có may mắn được ông ta tiếp kiến, đừng nói chi một người Âu lại càng khó hơn. Tôi có thể giới thiệu anh, nhưng tôi sợ Ông ta từ chối.
- Còn vị thứ hai...
- Người kia ở tận dưới miền Nam, đi sâu vào nội địa. Tôi chỉ gặp ông ta có một lần, nhưng tôi biết ngay đó là một bậc danh sự Ông ta ở tại Arunachala, trên ngọn đồi thiêng, trong địa phận Arcot. Người ta thường gọi Ngài là đức Maharichi (tiếng Phạn, có nghĩa là bậc Đại Sư, hay Đại Hiền). Anh muốn biết thêm nữa không...
Những lời nói đó như đem đến cho tôi một tia sáng. Tôi sực nhớ lại người khất sĩ mặc áo vàng đã khẩn khoản mời mọc tôi đến viếng thầy ỵ Tôi không nghe lầm; chính y cũng nói đến ngọn đồi thiêng.
- Cảm ơn Đại Đức! Tôi hiện có một người để dẫn đường đến nơi đạo viện của Ngài.
- Như vậy anh sẽ đi chăng...
Tôi còn do dự:
- Tôi đã sắp đặt tất cả mọi việc để đi miền Bắc.
- Nếu vậy, tôi có một lời yêu cầu anh. Anh hãy hứa với tôi là anh sẽ không rời khỏi Ấn Độ trước khi gặp đức Maharichi.
Cặp mắt Ngài biểu lộ sự thành thật rõ rệt, làm cho tôi hứa ngay không do dự. Một nụ cười đầy hảo ý hiện trên gương mặt Ngài.
- Như vậy anh đừng băn khoăn gì nữa. Điều mà anh đi tìm, anh đã gặp rồi đó.
Lúc ấy, tôi nghe phía ngoài có tiếng ồn ào của đám đông người đã chờ đợi từ lâu. Tôi bèn kiếu từ:
- Tôi e rằng đã quá lạm dụng thời giờ của Đại Đức. Xin kính chào Ngài.
Nhưng đức Tăng Thống rất vui vẻ. Ngài tiễn đưa tôi đến tận hành lang và quay lại nói nhỏ điều gì bên tai người bạn tôi. Tôi chợt nghe thoảng có tên tôi trong đó. Ra đến cửa tôi quay lại chào Ngài một lần cuối cùng. Đức Tăng Thống dặn với tôi một câu:
- Anh hãy nhớ đến tôi luôn luôn, và tôi cũng sẽ không quên anh.
Với những lời bí hiểm đó, tôi từ giã Ngài mà lòng còn luyến tiếc một người đã hiến dâng trọn cuộc đời cho đấng thiêng liêng. Một người không màng đến danh vọng quyền thế ở đời này, và đã từ bỏ mọi sự Ở trần gian để phụng sự nhân loại. Những gì người đời đem dâng cho Ngài, Ngài đều đem bố thí tất cả. Một người hiền giả như thế chắc không khi nào xóa mờ trong ký ức của tôi.
Tôi còn ngao du suốt ngày trong thành phố Chingleput, mà vẻ cổ kính làm cho tôi ưa thích, và còn chiêm ngưỡng đức Tăng Thống một lần cuối cùng trước khi về nhà. Tôi gặp Ngài trong ngôi đền lớn, lúc Ngài đang thuyết pháp trước một cử tọa đông đảo gồm cả nam phụ lão ấu. Giọng nói của Ngài vang rền giữa một sự im lặng hoàn toàn, mặc dầu tôi không hiểu nghĩa, tôi cũng thấy rằng tất cả mọi người đều chăm chú nghe với hết cả tâm hồn, từ nhà bác học Bà La Môn đến người nông phu thất học. Nhờ biết rõ về tâm tính của Ngài, tôi đoán rằng Ngài trình bày những chân lý sâu xa bằng những lời nói rất giản dị, mặc dầu tôi kính phục cái tâm hồn cao quý của Ngài nhưng tôi lại đâm ra thèm muốn cái đức tin đơn giản của những người ngồi nghe Ngài thuyết pháp. Họ không hề biết những nỗi dày vò thắc mắc của sự hoài nghi:
Họ tin và chỉ có thế thôi. Họ không hề biết sự thất vọng não nề cay đắng của một người nhìn thấy thế gian như một trường cạnh tranh xô xát phủ phàng, Thượng Đế chỉ là một điều không tưởng hư vô, và đời người chỉ là một trò ngẫu nhiên tình cờ thoáng qua trong một cái vũ trụ khô khan, không mục đích.
Chúng tôi từ giã Chingleput dưới một vòm trời xanh biếc. Một cơn gió mát đưa những ngọn lá dừa dọc hai bên đường lộ, nghe xào xạc trên đỉnh đầu chúng tôi. Người bạn tôi phá cái im lặng đó trước nhất. Y có vẻ rất hài lòng và nói:
- Anh có thể tự hào là tốt số! Đây là lần đầu tiên mà đức Tăng Thống tiếp kiến một văn sĩ người Âu.
- Thật vậy sao...
- Và từ nay ân huệ của Ngài sẽ theo anh mãi mãi.
Khi tôi về đến nhà, đã gần nửa đêm. Lúc ấy, sao mọc đầy trời, một cảnh tượng mà tôi chưa hề thấy ở góc trời Âu. Khi tôi vừa bước lên hàng ba trước cửa nhà, thì một người từ trong bóng tối hiện ra. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Subramanya, anh làm gì ở đây... Người khất sĩ áo vàng lại nhăn mặt cười một cái cười đặc biệt mà từ nay tôi đã quen mắt.
- Phải chăng tôi đã hứa sẽ gặp lại ông đêm nay...
Trong câu hỏi của y có đượm một vẻ trách móc. Nhưng tôi liền dịu giọng:
- Thầy của anh là đức Maharichi phải không...
- Sao ông biết, ai nói với ông như vậy...
- Điều đó anh không cần biết. Nhưng tôi đã đổi ý kiến. Chúng ta lên đường sáng ngày mai.
- À! Đó là một tin rất vui cho tôi.
- Được! Nhưng tôi chỉ có thể đến viếng thăm đạo viện trong vài ngày thôi, chớ không thể ở lâu...
Đêm đó người khất sĩ nghỉ tại nhà tôi để chờ ngày mai cùng lên đường. Cũng trong đêm ấy có xảy ra một chuyện lạ. Tôi đã ngủ mê được một lúc, thình lình tôi tỉnh giấc; đồng hồ dạ quang chỉ đúng ba giờ mười lăm phút. Chung quanh trời tối đen như mực. Tôi cảm thấy thần kinh bị căng thẳng đến tột độ, dường như có một luồng điện chạy trong bầu không khí chung quanh. Chính trong lúc đó, cặp mắt hé mở, tôi nhìn thấy có một vệt sáng ở dưới chân giýờng. Tôi giật mình ngồi chồm dậy để xem cho rõ. Trước hết tôi nhìn thấy cặp mắt của đức Tăng Thống Shri Shankara, gương mặt và toàn thân của Ngài hiện ra, đó không phải là một ảo ảnh, vì tôi đã hoàn toàn thức giấc.
Tôi nhìn thấy Ngài, không phải như một cái bóng ẩn hiện chập chờn, nhưng là một người thật, bằng xương bằng thịt. Gương mặt Ngài hiện ra trong một vòng hào quang huyền bí như mờ như tỏ, chính cái hào quang đó nó cho tôi cái cảm giác một vật sáng sáng ở dưới chân giường lúc nãy. Thật là kỳ lạ! Không thể có như vậy được! Vì tôi vừa từ giã đức Tăng Thống ở tỉnh Chingleput hồi sớm mai này! Tôi thử nhắm mắt lại. Hình ảnh đức Shri Shankara vẫn còn đó, rõ ràng như khi nãy!
Ngài hiện hình ra với sự hiện diện của một người bạn lành và che chở. Tôi lại mở mắt ra:
Thì thấy gương mặt của Ngài hình như cử động, đôi môi mỉm cười và mấp máy hình như nói với tôi rằng:
"Người hãy khiêm tốn, rồi người sẽ gặp!" Những lời này tôi chỉ nghe tự trong tâm giới vọng ra nhưng tôi chắc chắn rằng đó không phải là một ảo ảnh, mà có một người đứng ở trước mặt và nói chuyện với tôi. Kế đó, cái hình ảnh biến đi một cách bí mật cũng như nó đã hiện ra. Nó để lại cho tôi một niềm an vui hạnh phúc mà không có gì có thể làm mất đi được. Cái hình ảnh đó hiện ra, có ý nghĩa gì... Tôi tự hỏi như thế nhưng không tìm thấy sự giải đáp.
Còn cố nằm ngủ lại đêm ấy, thì nó không thành vấn đề. Tôi thức luôn tới sáng, và hồi tưởng lại cuộc gặp gỡ với đức Tăng Thống Shri Shankara ở tỉnh Kumbokanam, vị đại diện cho đấng Chí Tôn đối với những dân tộc miền Nam Ấn Độ.
Madras của Sở Nam Ấn Hỏa Xa, Subramanya và tôi đổi qua chuyến xe lửa khác trên đường thiết lộ đi Tích Lan. Xe chạy trong nhiều giờ qua những vùng đồi núi và đồng ruộng, phong cảnh thay đổi liền liền. Những ruộng lúa màu xanh lá mạ tiếp theo những ngọn đồi đất đỏ ở chân trời, những vườn dừa cao vút và che bóng mát rượi lại nối theo sau những cánh đồng xanh tươi với những người nông phu đang cấy lúa gieo mạ.
Ngồi trên toa xe nhìn ra cửa sổ, bóng hoàng hôn qua mau phút chốc đã làm cho cảnh vật mờ dần và đắm chìm trong bóng tối. Tôi ngẫm nghĩ về những sự việc lạ lùng đã xảy ra từ khi tôi đeo chiếc nhẫn vàng mà Brama đã tặng cho tôi. Tất cả những chương trình của tôi đều bị đảo lộn. Sự phối hợp ngẫu nhiên của những hoàn cảnh bất ngờ đã thúc đẩy tôi đi xuống miền Nam. Thay vì đi lên miền Đông Bắc như tôi đã dự định. Tôi tự hỏi rằng phải chăng viên ngọc thạch trên chiếc nhẫn có cái quyền năng kỳ bí mà người đạo sĩ đã tin là có thật... Mặc dù tôi cố gắng giữ một thái độ cởi mở, nhưng đối với một người Âu có tinh thần khoa học thì thật khó mà chấp nhận điều đó. Tôi bèn gạt bỏ cái giả thuyết ấy, nhưng tôi vẫn không thể nào dẹp tan sự lưỡng lự phân vân nó lởn vởn trong đầu óc của tôi. Có một cái gì lạnh lùng bí ẩn nó dìu dắt những bước chân của tôi đi đến thâm sơn cùng cốc này. Hai người tu sĩ áo vàng kia phải chăng là những khí cụ của định mệnh để hướng dẫn tôi đến nơi đạo viện của đức Maharichi...
Tôi dùng chữ định mệnh không phải theo cái ý nghĩa thông thường, nhưng tôi không tìm thấy được chữ nào khác. Có ai ngờ rằng đôi khi những sự việc nhỏ nhặt hình như vô nghĩa lại có thể đóng một vai trò quan trọng trong đời của một người...
Khi đoàn xe lửa đến một nhà ga cách thành phố Pondichéry độ bốn mươi dặm, tôi và người khất sĩ cùng xuống và đón chuyến xe lửa khác để đi sâu vào nội địa. Đến một nhà ga nhỏ ở đồng quê, thì trời vừa hừng sáng. Cách đó vài dặm, một ngọn núi nhô lên ở tận chân trời, chân núi rất hùng vĩ, ngọn núi hãy còn khuất dạng trong sương mù ban mai.
Lần theo những tiếng ngáy rất lớn phát ra từ một góc bên cạnh nhà ga, người khất sĩ đưa đường tìm ra được một người đánh xe còn ngủ mê trên một cỗ xe bò nhỏ. Người khất sĩ bèn đánh thức y dậy và cho y biết rằng chúng tôi muốn đi đến đạo viện của đức Maharichị Điều này dường như kích thích sự sốt sắng của người phu xe, nhưng tôi nhìn một cách ngần ngại cỗ xe nhỏ hẹp và mảnh khảnh làm bằng tre đặt trên hai bánh. Tuy nhiên chúng tôi cũng lên xe ngồi trong khi người phu xe chất hành lý ở phía sau. Người khất sĩ cố thu hình vào một gốc để choán thật ít chỗ và nhường chỗ rộng hơn cho tôi, còn người phu xe ngồi phía đằng trước, ở giữa hai con bò, cằm y tựa trên hai đầu gối. Khi mọi người đã ngồi xong một cách tạm yên như thế, thì chiếc xe bắt đầu lăn bánh.
Cỗ xe không đi mau được bao nhiêu mặc dầu những cố gắng của hai con bò trắng mập mạp to lớn. Ở xứ này, loài bò lại hữu ích hơn ngựa ít nhất là để kéo xe, vì chúng chịu đựng dẻo dai hơn và nuôi ít tốn kém hơn. Đời sống ở tỉnh nhỏ và ở thôn quê trong vùng nội địa vẫn trầm trệ, không có tiến bộ nào từ nhiều thế kỷ. Cỗ xe bò này vẫn là loại xe đã từng chở hành khách ở Ấn Độ cách đây trên hai ngàn năm. Người đánh xe với gương mặt rám nắng rất hãnh diện với cặp bò của ỵ Những cặp sừng dài của chúng đều có nạm đồ trang sức bằng vàng, những chuông lục lạc bằng đồng cột vào bốn chân của chúng phát ra một tiếng reo nghe rất vui tai.
Phong cảnh chung quanh rất ngoạn mục, với những đồi núi nối tiếp nhau ở tận chân trời. Đất màu đỏ, rải rác đó đây những bụi cây rậm rạp và ở hai bên đường là ruộng lúa xanh tươi một màu lá mạ. Một người nông phu với vẻ mặt gân guốc, đen xạm, bước chân ra đồng làm việc. Một cô thôn nữ Ấn, một tay vịn một bình nước bằng đồng mà cô đội trên đầu, đi qua một cách dịu dàng, lả lướt. Cô ấy mặc một chiếc Sari bằng vải màu đỏ sậm, quấn chung quanh mình vai để trần, lỗ mũi có gắn một viên ngọc đỏ, cổ tay đeo một cặp neo vàng chiếu lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời.
Các cô gái Ấn miền Nam nước da sậm, vui vẻ hồn nhiên hơn và thích nói chuyện hơn các thiếu nữ miền Bắc, và giọng nói các cô nghe êm tai hơn. Cái nhìn ngạc nhiên của cô thôn nữ làm cho tôi nghĩ rằng sự hiện diện của một người Âu chắc không phải là một việc thông thường ở chốn đồng quê hẻo lánh này.
Cỗ xe chở chúng tôi đã vào thành phố. Thành phố này có vẻ thịnh vượng, với một ngôi đền cổ rất lớn mà những mặt tiền chạy dọc theo nhiều đường lộ. Chúng tôi đi qua một cổng lớn trước đền. Tôi bảo ngừng xe một lúc và bước xuống để xem phía trong đền. Ngôi đền này có một kiểu kiến trúc vừa vĩ đại vừa uy nghiêm. Phía trong đền làm thành một hình bốn góc tầm nhỡn quang của du khách có cái cảm giác như lạc bước vào một nơi bát trận đồ không có ngõ ra. Bốn vách tường rào bên ngoài đã từng chịu đựng sự dãi dầu của thời gian, nung nấu dưới ánh nắng như thêu đốt của mặt trời vùng nhiệt đới.
Đền có bốn cổng lớn, phía trên mỗi cổng đền đều có một ngọn tháp nhô lên với thiên hình vạn trạng những hình tượng điêu khắc tiêu biểu những vị Thần. Phía trong đền có những nơi Tịnh Xá, những dãy hành lang với rất nhiều cột bằng đá chạm trỗ tinh vi, và chung quanh là những chỗ điện thờ tối tăm, thờ rất nhiều hình tượng các vị Thần của Bà La Môn giáo.
Hai con bò lại tiếp tục kéo cỗ xe một cách nhẫn nại, vô tư và một lần nữa lại chở chúng tôi ra vùng đồng quệ Sau khi đã vượt qua sáu dặm đường, cỗ xe đến gần ngọn núi mà tôi đã nhìn thấy từ nhà gạ Sương mù đã tan dần, ngọn núi gồm đất đỏ và đá mầu nâu đứng cô lập một mình giữa ánh sáng trong vắt của buổi sớm mai.
Người khất sĩ kêu to, với một giọng đầy hứng khởi và tôn sùng không thể tả:
"Arunachala! Ngọn Đồi thiêng! " Tôi hỏi:
- Tại sao lại gọi là ngọn đồi thiêng...
Người khất sĩ cho biết:
- Mỗi năm một lần, vào ngày lễ lớn được cử hành trong đền, người ta đốt một ngọn lửa trại rất lớn trên đỉnh núi. Ngọn lửa trại này được đốt lên với rất nhiều bơ và long não và cháy suốt nhiều ngày, có thể thấy rõ từ những vùng chung quanh ở cách xa đền mấy dặm. Khi ngọn lửa bốc cháy lên, thì mọi người ở vùng lân cận đều cúi lạy. Ngọn lửa đó chỉ rằng ngọn núi này là một vùng rất linh thiêng và được sự che chở của một vị Thiên Thần rất lớn.
Chúng tôi đã gần đến nơi. Chiếc xe bò đã rời khỏi đường cái và đi theo một con đường dốc đưa đến một vườn dừa và xoài rất rậm rạp. Qua khỏi vườn cây này là chỗ cùng đường, chiếc xe ngừng trước cửa đạo viện. Người phu xe bước xuống đẩy cánh cửa cổng và đưa chúng tôi vào sân. Đạo viện của đức Maharichi ở dưới chân núi, phía trước có trồng cây và một khoảnh vườn, chung quanh toàn là những hàng rào bằng cây xương rồng. Bên ngoài hàng rào là những rừng, bụi rậm rạp phủ chung quanh đến tận chân trời. Chung quanh không có nhà cửa, xóm làng chi cả. Thật không có chỗ nào hoang liêu, cô tịch hơn nữa, và là một nơi lý tưởng cho việc thiền định suy tư.
Đạo viện gồm có một dãy nhà dài bằng gạch, lợp ngói, cất theo kiểu tân thời, và hai túp nhà tranh ở phía bên trái. Trước dãy nhà dài có một hàng ba, và giữa sân có một cái giếng nước. Một đứa trẻ nhỏ ở trần, nước da đen sậm đang kéo một thùng nước từ dưới giếng bằng một cái tay quay.
Khi chúng tôi vừa đến, thì trong nhà có vài người bước ra sân và trố mắt nhìn một cách ngạc nhiên. Người khất sĩ vừa cười vừa tiến lên và giới thiệu vài câu bằng tiếng Tamoul. Tức thời mọi người đều đổi sắc mặt và nhìn tôi mỉm cười vui vẻ. Tôi cảm thấy tôi đã yêu mến những người dân lành chất phác và hồn nhiên đó.
Người khất sĩ mời "Chúng ta hãy vào trong. " rồi ra dấu cho tôi đi theo ỵ Tôi mới ngừng lại ngoài hàng ba để cởi giày và sắp sửa lại rổ trái cây mà tôi mang theo để làm lễ vật ra mắt vị tôn sư.
Hai mươi cặp mắt đổ dồn vào chúng tôi khi chúng tôi bước vào nhà Tịnh Xá. Họ ngồi xếp bằng theo vòng bán nguyệt trên nền gạch màu đỏ. Cách đó một khoảng, trong góc phòng có một người ngồi trên một chiếc giường gỗ dài lót nệm trắng, đó là đức Maharichi.
Người khất sĩ đưa đường cho tôi tiến đến gần giường và cúi xuống lạy, gương mặt úp vào trong hai bàn taỵ Gần đó có một cửa sổ lớn chiếu vào vị Tôn sư và tôi thấy rõ Ngài từng chi tiết.
Thừa dịp thuận tiện tôi mới đến gần cửa sổ, đặt mâm trái cây ở dưới chân Ngài và lùi lại một bước.
Đức Maharichi lúc đó vào khoảng năm mươi tuổi, tác người cao lớn, nước da ngâm ngâm như đồng bạch, nét mặt đều đặn, tóc hoa râm và cắt ngắn, trán cao và rộng, dấu hiệu của một bộ Óc thông minh khác thường. Chiếc giường của Ngài ngồi lót nệm trắng, chân Ngài đặt trên một tấm da cọp rất đẹp.
Một sự im lặng hoàn toàn ngự trong căn phòng. Đại đức ngồi tĩnh tọa, tuyệt nhiên không cử động. Tôi tự hỏi không biết Ngài có biết chúng tôi đến chăng... Một vị đệ tử nước da sậm, tay nắm một sợi dây kéo cái quạt bằng tre treo trên trần nhà ngay trên đầu đức Tôn sư, để quạt cho Ngài. Tôi bèn nhìn thẳng vào mắt Tôn Sư, hy vọng làm cho Ngài chú ý đến tôi. Cặp mắt Ngài màu nâu sậm, và mở lớn.
Không có dấu hiệu gì chỉ rằng Ngài biết có tôi ở đó. Toàn thân Ngài yên lặng như một pho tượng. Sự yên lặng đó hẳn là một điều phi thường. Không, Ngài không nhìn thấy tôi vì cặp mắt Ngài bận nhìn vào chỗ hư không, huyền bí. Hồi còn ở Âu Châu tôi thường hay đặt cái nguyên tắc là hãy nhìn trong cặp mắt để biết rõ tâm tính của một người. Nhưng trước cặp mắt của đức Maharichi, tôi đã đi lạc hướng và tôi không đọc được gì cả.
Giờ phút trôi qua một cách chậm chạp. Kim đồng hồ treo trên tường đã chỉ qua nửa giờ rồi một giờ, nhưng không ai nhúc nhích cử động, cũng không ai nói năng gì cả. Tôi tập trung hết nhãn lực vào vị Tôn Sư đang ngồi tĩnh tọa trên divan (đi - văng). Mâm lễ vật của tôi vẫn còn y nguyên trên chiếc bàn nhỏ, không có ai để ý đến. Người đưa đường cho tôi không có dặn cho tôi biết trước rằng tôi sẽ được đón tiếp một cách khác thường như thế, nghĩa là không được Ngài chú ý đến mình. Nhưng dầu cho Ngài không nói, tôi cũng hiểu rằng Ngài đang nhập định. Tôi bỗng có một ý tưởng thoáng qua:
Cơn nhập định đó phải chăng là làm cho tâm trí vắng lặng trống không... Nhưng rốt cuộc tôi cũng gạt bỏ ý định đó, vì tôi không thể trả lời được.
Dầu sao có một cái gì ở trong người của đức Tôn Sư, nó hấp dẫn tôi như đá nam châm hút sắt. Tôi hoàn toàn bị thu hút và không thể nào day mặt để nhìn ra chỗ khác. Sự ngạc nhiên của tôi lúc ban đầu cùng sự băn khoăn của tôi đã tiêu tan và lần lần nhường chỗ cho một sự hấp dẫn say mê lạ lùng và mãnh liệt. Hai tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ khi tôi mới bước vào. Tôi bắt đầu nhận thấy có một sự thay đổi huyền diệu, nó đang diễn ra trong người của tôi mà tôi không thể nào cưỡng lại được.
Những câu hỏi mà tôi sắp đặt một cách công phu, tỉ mỉ trên xe lửa để chất vấn Ngài giờ đây biến đi đâu mất. Tôi không màng đưa ra những câu hỏi đó nữa, cũng không màng tìm sự giải đáp cho những nỗi khó khăn thắc mắc nó vẫn dày vò tôi từ bao lâu naỵ Tôi chỉ biết là một niềm an tịnh vô biên đang xâm chiếm lấy tôi, cũng như nó đang tràn ngập bầu không khí trong gian phòng này. Tâm hồn tôi, trí não tôi, từ lâu nay bị dày vò, căng thẳng bởi sự độc đoán của tư tưởng, biện luận, suy tư, có lẽ đến nay mới được nghỉ ngơi đôi chút.
Và những câu hỏi mà tôi đã chuẩn bị một cách rất công phu để hỏi Ngài, nay tôi nhận thấy nó tầm thường, vô vị làm sao. Tôi nhận thấy rằng trí não chúng ta tự tạo ra những sự thắc mắc, khó khăn, để rồi sau đó tự dày vò một cách vô ích để tìm ra sự giải đáp. Nay tôi tự thả trôi theo sự nghỉ ngơi và an tịnh một cách tuyệt diệu đến nỗi hai giờ đồng hồ trôi qua mà tôi không cảm thấy chút nào bực dọc hay khó chịu.
Tuy nhiên lần lần, một câu hỏi mới được nêu ra:
Sự an lạc tuyệt vời nó vừa tràn ngập cõi lòng tôi đó, là từ đâu đến... Hay là nó toát ra từ người của đức Tôn Sư, cũng như hương thơm tỏa ra từ cái hoa...
Tôi không thể trả lời câu hỏi này, nhưng tôi biết rõ những phản ứng của tôi, tôi biết rằng cái niềm an tịnh thiêng liêng nó xâm chiếm tâm hồn tôi lúc đó là do đức Maharichi tạo nên. Ngài tạo ra nó bằng cách nào... Bởi tánh chất phóng quang của linh hồn (Ratio activité de l'âme) hay bởi một phương pháp thần giao cách cảm nào đó chăng... Tuy nhiên, Ngài vẫn ngồi đó, hoàn toàn bất động, hình như không hay biết chi cả về sự có mặt của tôi. Chung quanh bầu không khí vẫn hoàn toàn im lặng như tờ.
Trên mặt hồ phẳng lặng đó, một gợn sóng nhỏ. Có một người bước lại gần và nói nhỏ vào tai tôi:
- Ông muốn hỏi đức Tôn Sư điều chi chăng...
Người bạn đồng cảnh của tôi đã mất sự kiên nhẫn của y chăng... Hay là y tưởng rằng tôi đã kiên nhẫn quá mức, vì chờ đợi đã quá lâu... Nhưng này bạn ơi, quả thật tôi định đến đây để chất vất Tôn Sư của bạn, nhưng vào giờ này tôi đã có được sự an thuận với thế gian và an thuận với chính mình tôi nữa, thì tại sao tôi lại còn bận rộn dày vò trí óc của tôi với những câu hỏi của tôi để làm gì... Thuyền tôi đã xuôi dòng đi trên mặt biển yên lặng thần tiên của chốn non Bồng nước Nhược, mà bạn còn muốn giữ nó lại ở chỗ phong ba bão táp của bến trần ai tục lụy mà tôi vừa thoát khỏi hay sao...
Tuy nhiên, cái gợn sóng nhỏ mà người bạn tôi đã gieo trên mặt hồ phẳng lặng đó, cũng đủ làm gián đoạn cái giờ phút thiêng liêng ấy. Dường như đó là một ám hiệu đã trông đợi từ lâu, chung quanh tôi, mọi người đã đứng dậy, những tiếng nói đã vọng vào tai tôi, và kia, hai mí mắt của đức Maharichi đã chớp vài lần. Ngài day mặt về phía góc phòng và trong giây phút tôi đã lọt vào tầm nhãn quang của Ngài. Ngài vừa thức tỉnh sau một cơn đại định rất dài. Có lẽ người bạn đồng hành của tôi tưởng rằng sở dĩ tôi không trả lời vì tôi không nghe bèn lập lại câu hỏi của y lớn giọng hơn trước. Nhưng trong cặp mắt sáng dịu hiền của Tôn Sư nhìn vào tôi, tôi đọc được một câu hỏi khác:
"Anh còn nghi ngờ gì nữa chăng, trong khi anh vừa cảm giác được cái yên tịnh thâm trầm của tâm hồn, mà tôi vừa ban cho anh cũng như cho tất cả những người kiả" Quả thật, một niềm an tịnh vô biên dâng tràn ngập cõi lòng tôi. Tôi bèn day lại người khất sĩ và đáp:
- Không, tôi không muốn hỏi gì ngay bây giờ. Thôi, hãy để khi khác...
Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng sự có mặt của tôi trong phòng làm cho nhiều người ngạc nhiên, không phải đức Maharichi, mà là những người đang nói chuyện huyên thuyên ở chung quanh tôi. Người bạn đồng hành của tôi cho biết một vài người trong số đó là những đệ tử, những người khác là những du khách viếng thăm đạo viện. Subramanya bèn giới thiệu tôi với mọi người. Y nói bằng tiếng Tamoul với một giọng sôi nổi hào hứng và rất nhiều bộ tịch. Chắc y đã dậm thêm ít nhiều, vì những lời của y được tiếp đón bằng những tiếng kêu ngạc nhiên của những người trong bọn.
Buổi cơm trưa vừa xong. Mặt trời vùng nhiệt đới làm cho mực thủy ngân trong hàn thử biểu vọt lên cao. Tuy thế tôi thấy đời sống ở đây có vẻ hồn nhiên, vì tôi có thể tiếp xúc với đức Maharichi bằng cách mà tôi ưa thích, nghĩa là bằng cách tham dự sinh hoạt hàng ngày của Ngài một cách tự nhiên và không kiểu cách.
Chiều hôm ấy, tôi trở lại Tịnh Xá của đức Tôn Sư và ngồi cạnh dưới chân Ngài. Ngài ngồi dựa bên một chiếc gối lớn, một đứa tiểu đồng cầm sợi dây kéo cái quạt treo trên trần nhà để quạt cho Ngài như thường lệ.
Đức Maharichi cầm trong tay một quyển vở, và viết một cách rất chăm chú. Một lúc sau, Ngài bỏ quyển vở qua một bên và gọi một vị đệ tử đến gần, rồi nói với y vài câu bằng tiếng Tamoul. Người đệ tử đến gần tôi và nói Tôn Sư rất tiếc rằng tôi không thể dùng bữa chung với những người trong Đạo viện, vì họ chưa từng tiếp khách người Âu nên họ không biết rõ cách ăn uống của tôi ra sao. Tôi bèn cảm ơn Tôn Sư và nói rằng tôi sẵn lòng dùng cơm với họ và nếu có thiếu món chi tôi sẽ có thể mua ở ngoài chợ gần bên. Tôi nói thêm rằng đó chỉ là một vấn đề phụ thuộc, và tôi đến đây với một mục đích quan trọng hơn. Tôn Sư chăm chú nghe tôi và với một vẻ mặt thản nhiên, Ngài nói:
- Cái mục đích đó rất đáng khen.
Câu hỏi của Ngài làm cho tôi hứng chí nói tiếp theo.
- Bạch Tôn Sư, tôi đã từng tham khảo triết học và khoa học Âu Tây, tôi đã từng chen vai thích cánh với người đời, tham dự những công việc của thế gian, hưởng những thú vui trần tục, và đã từng để cho những tham vọng của người đời lôi cuốn. Nhưng những điều đó không làm cho tôi quên lãng mục đích tu hành. Tôi đã học hỏi với những bậc Hiền Triết Tây phương, bây giờ, tôi phải nhìn về phương Đông để tìm về ánh sáng.
Đức Maharichi hơi gật đầu, như muốn nói rằng:
"Tôi hiểu. " Tôi nói tiếp:
- Tôi đã nghe nhiều lý thuyết, đọc nhiều sách vở nhưng không có gì làm cho tôi được thỏa mãn. Chỉ có kinh nghiệm bản thân mới có thể làm cho tôi có đức tin. Xin lỗi Ngài, tôi xin thú thật là tôi không có điều mà người ta gọi là tinh thần tôn giáo. Ngoài sự sống của thể xác hữu hình còn có gì nữa chăng... Nếu có, làm sao tôi có thể biết được...
Ba hay bốn người đệ tử chung quanh nghe nói, đều trố mắt im lặng vì ngạc nhiên. Tôi tự nghĩ không biết tôi đã vi phạm một quy luật nào trong Đạo Viện hay đã xúc phạm đến Tôn Sư vì sự nói thẳng của tôi chăng... Không sao, sự cay đắng của nhiều năm mỏi lòng chờ đợi và thất vọng đã làm cho tôi phải thốt ra bằng lời, không còn tự chủ được nữa. Nếu đức Maharichi là người mà tôi tin tưởng, thì Ngài sẽ vượt lên trên những điều thường tình đó, và Ngài sẽ hiểu.
Trong khi chờ đợi, Ngài không trả lời, và dường như theo đuổi dòng tư tưởng của Ngài. Nay vì tôi đã nói ngon trớn, tôi không dễ gì ngừng lại nửa chừng, và nói tiếp luôn:
- Các nhà bác học Âu Tây cũng phải thú nhận rằng họ không biết gì cả về những vấn đề siêu hình. Tôi nghe rằng ở các xứ phương Đông, có những người có thể trả lời về những điều mà khoa học Âu Tây phải chịu bất lực không giải thích nổi. Có phải đúng vậy không... Tôn Sư có thể giúp tôi tìm thấy ánh sáng chăng... Hay đây cũng chỉ là một ảo mộng...
Tôi đã đi ngay vào đề và chỉ còn đợi câu trả lời. Đức Tôn Sư vẫn tiếp tục nhìn tôi. Tôi tự hỏi:
"Hay là Ngài đang suy nghĩ về các câu hỏi của tôi chăng... " Mười phút trôi qua, đôi môi của Ngài mới bắt đầu cử động, Ngài nói với một giọng rất dịu dàng:
- Anh vừa nói:
"Tôi muốn biết. " Vậy cái tôi đó là cái gì...
Lần này Ngài nói thẳng với tôi bằng tiếng Anh và không cần thông ngôn. Tôi lấy làm bối rối vì không hiểu Ngài muốn nói gì. Tôi nói bằng một giọng yếu ớt:
- Xin lỗi Ngài tôi không hiểu.
- Câu hỏi của tôi không rõ ràng sao... Anh hãy suy nghĩ đi.
Tôi suy nghĩ rồi lấy tay chỉ vào tôi và tự xưng danh.
- Anh có thật biết y là ai chăng...
Tôi cười và đáp:
- Suốt cả đời tôi.
- Cái mà anh nói đó, chỉ là cái thể xác của anh, nhưng chỉ có vậy thôi sao... Tôi lặp lại câu hỏi:
"Anh là ai... " Làm sao trả lời được một câu hỏi lạ kỳ như vậy... Đức Maharichi nói thêm:
- Anh hãy cố làm sao biết được cái Tôi đó, anh sẽ biết được Chân Lý.
Tâm trí tôi đã đi lạc hướng, và tôi không dấu diếm được sự ngạc nhiên. Có lẽ Tôn Sư đã cạn vốn Anh Ngữ của Ngài, vì Ngài day lại người thông ngôn và nói ít lời. Người này dịch lại như sau:
- Anh chỉ cần làm một việc:
Hãy nhìn vào nội tâm. Nếu anh làm được như vậy, anh sẽ tìm thấy sự giải đáp cho mọi vấn đề.
- Nhưng tôi phải làm sao để nhìn vào nội tâm...
- Anh hãy suy gẫm về cái chân tướng hay chân ngã của anh bằng sự tham thiền quán tưởng liên tục không gián đoạn. Đó là con đường đi đến ánh sáng.
- Tôi đã suy gẫm về những điều đó mà không thấy tiến bộ chút nào.
- Sao anh biết được... Sự tiến bộ trên địa hạt tâm linh không phải dễ gì nhận biết được như trên địa hạt vật chất.
- Trong sự thiền định, quán xét nội tâm, cần phải có Thầy hay không...
- Thầy chỉ giúp phương tiện, dìu dắt mà thôi. Còn thiền định phải là một vấn đề kinh nghiệm về bản thân.
- Nếu có Thầy dìu dắt, phải mất bao lâu mới tìm thấy ánh sáng...
- Điều đó tùy nơi trình độ riêng của mỗi người. Thuốc súng bắt lửa ngay tức khắc, còn than củi phải cháy lâu hơn.
Tôi có cảm giác rằng Tôn Sư hình như không thích bàn về vấn đề tìm thấy hoặc những phương pháp nọ kia. Tôi hỏi qua chuyện khác:
- Thế giới đang trải qua những cơn khủng hoảng trầm trọng. Xin Tôn Sư dạy cho biết tương lai của nhân loại sẽ ra sao...
- Anh đừng lo gì về tương lai. Anh đã biết cái hiện tại hay chưa... Hãy lo cái hiện tại đi đã, rồi cái tương lai sẽ tự nó quyết định.
Đây cũng lại là một câu khó hiểu nữa. Nhưng lần này tôi không chịu bỏ qua một cách dễ dàng, vì tôi tự nghĩ rằng tôi sống ở cõi thế gian mà những sự đau khổ đè nặng lên vai của người đời, nhiều hơn là ở nơi một Đạo viện êm đềm ẩn trong rừng thẳm. Tôi nói:
- Xin Tôn Sư nói cho biết trong tương lai gần đây thế giới sẽ bước vào một thời kỳ hòa bình hay là sẽ rơi vào một tình trạng hỗn loạn...
Đức Maharichi có vẻ không bằng lòng:
- Có một đấng Tạo Hóa quản trị cõi thế gian, đó là việc riêng của Ngài. Đấng Sáng Tạo ra thế giới càn khôn biết rõ hơn chúng ta về những bổn phận mà Ngài phải làm. Gánh nặng cả thế gian là trách nhiệm của Ngài, không phải của anh.
- Tuy nhiên, nếu người ta để ý quan sát, người ta không thấy có vùng nào trên thế giới là thật sự được hưởng ân huệ tốt lành của đấng Hóa Công.
Tôi không tiến thêm được bao nhiêu, nhưng dầu sao tôi cũng được một câu trả lời:
- Con người như thế nào, thì thế gian như thế ấy. Người đi tìm Chân Lý không cần biết đến những vấn đề đó và phí công vô ích với những chuyện bên ngoài. Anh hãy tìm Chân Lý ở tự nơi anh, rồi anh sẽ thấy Chân Lý ẩn tàng ở cõi thế gian chung quanh mình.
Gian phòng lại im lặng. Người tiểu đồng tiến đến bình lư hương và đốt thêm một cây nhang. Đức Maharichi, sau khi nhìn một làn khói xanh bay lên nghi ngút, bèn cầm lại quyển vở của Ngài và chăm chú viết, làm cho tôi hiểu rằng Ngài tiếp chuyện tôi như thế là đủ. Sự thản nhiên đó làm cho tôi có cảm giác như bị một gáo nước lạnh. Tôi còn ngồi đó thêm một khắc đồng hồ, nhưng tôi thấy rõ là đức Tôn Sư không muốn nói chuyện nữa, làm sao bây giờ, nếu không đứng dậy và chắp tay kiếu từ.
Tối hôm ấy, khi chúng tôi bước vào Tịnh Xá và ngồi xuống sàn gạch, thì hình như cái yên lặng của cảnh vật thiên nhiên cũng đã xâm chiếm cả Đạo viện và thấm nhuần cả bầu không khí chung quanh. Số người nhóm họp mỗi buổi chiều ngồi vòng quanh theo hình bán nguyệt như thường lệ, nhưng không ai thốt ra một lời nào, và tất cả đều giữ im lặng. Đức Maharichi vẫn ngồi trên giường, hai chân xếp bằng, hai bàn tay để trên hai đầu gối.
Gương mặt Ngài nghiêm chỉnh nhưng vẫn không kém nét giản dị và khiêm tốn, cặp mắt đứng tròng của Ngài chỉ nhìn về một điểm duy nhất, ở phía tướng bên kia. Cái nhìn không chớp mắt đó đối với tôi là một sự bí hiểm, nó trụ vào một vật ở ngoại cảnh, hay là Ngài đã đắm chìm trong cảnh hư không, trừu tượng và không thấy gì đang diễn ra ở chung quanh...
Luồng khói hương trầm bay lên và tỏa ra mùi thơm khắp phòng. Tôi thử nhìn ngay vào cặp mắt trống trơn của Ngài, nhưng trong vài phút sau, cặp mắt tôi đã nhắm lại. Tôi đắm chìm trong một cơn mơ màng, như tỉnh như mơ, giữa cái êm như ru của bầu không khí huyền diệu ở chung quanh. Trong giây lát, tâm hồn tôi trở nên trống rỗng, và đến lượt tôi bước vào cái thế giới huyền ảo của cảnh mộng...
Tôi sống trở lại như một đứa bé năm tuổi. Tôi trèo lên một trong những con đường mòn dốc đứng, nó chạy quanh co theo ngọn núi đá đỏ ngoại đạo viện, tay tôi nắm lấy bàn tay đức Maharichi, nhưng tác Ngài cao lớn hơn tôi bội phần. So với tác bé nhỏ của tôi, thì Ngài coi như một người khổng lồ. Chúng tôi cùng đi ra khỏi đạo viện, mặc dầu trời tối Ngài dắt tôi đi một cách vững vàng.
Trăng sao dần dần ló dạng và chiếu xuống một thứ ánh sáng lu mờ. Tôi nhận thấy rằng đức Maharichi dắt tôi tránh những lỗ hang, hầm hố và những tảng đá lớn nhô lên ở phía trên đầu, dường như sẵn sàng đè bẹp chúng tôi. Ngọn núi cao, đường dốc đứng, che khuất trong hang núi, hoặc trong bụi rậm, là những động đá của các nhà tu sĩ, rải rác dọc theo con đường mòn chúng tôi đi. Những tu sĩ này bước ra chào khi chúng tôi đi ngang qua động đá của họ, và mặc dầu họ ẩn hiện như những bóng ma dưới ánh trăng mờ, tôi cũng nhận ra nhiều hạng đạo sĩ Yogị Chúng tôi vẫn tiến bước không ngừng cho tới khi lên tới đỉnh núi. Tại đây, chúng tôi dừng bước và lòng tôi chờ đợi một sự gì quan trọng sắp tới.
Đức Maharichi nhìn tôi, và tôi ngước mặt lên nhìn Ngài. Ngay khi đó, tôi cảm thấy một sự thay đổi huyền diệu đang diễn ra trong người tôi. Những quan niệm và những lẽ sống của tôi trước kia nay không còn nữa. Những tham vọng và dục tình nó hướng dẫn cuộc đời tôi nay đã biến mất. Những sự đố kỵ, sự hiểu lầm, sự lãnh đạm, lòng ích kỷ, nó đi kèm với mọi sự giao tế của tôi với những người trần gian nay đã tiêu tan. Một niềm an vui khôn tả xâm chiếm cõi lòng tôi và bây giờ tôi đã biết rằng không còn có sự gì ở trên đời mà tôi ước mong hơn nữa.
Khi đó, đức Maharichi bảo tôi nhìn xuống dưới chân đồi. Tôi vâng lời và nhìn thấy thế giới Tây phương diễn ra dưới chân tôi. Những đám quần chúng hỗn độn gồm những dân tộc các nước trà trộn lẫn nhau dưới một bức màn vô minh hắc ám, bao phủ cả tinh thần lẫn vật chất.
Đức Tôn Sư nói với tôi:
- Khi con trở về với họ Ở góc trời Âu, con sẽ giữ mãi niềm an tịnh này trong lòng con. Nhờ nó con sẽ gạt bỏ cái ý tưởng cho rằng con là một thể xác, một bộ Óc nhất định. Khi con nhận thấy nguồn an vui tràn ngập cõi lòng, con đã hướng cuộc đời con về theo ánh sáng chân lý...
Khi tôi thức tỉnh và hãy còn bàng hoàng về giấc mộng thiêng liêng đó, thì hai con mắt tôi gặp phải hai con mắt của Tôn Sự Tôi không lầm, gương mặt Ngài lúc ấy đang day về phía tôi, và chính Ngài đang nhìn tôi.
Có một ý nghĩa thâm sâu nào ẩn dấu đằng sau giấc mộng vàng của tôi vừa rồi... Những sự ước mơ, những dục vọng, những nỗi đắng cay của dĩ vãng, tất cả đều tiêu tan như mây khói. Một trạng thái thản nhiên đối với chính mình tôi, và một lòng nhân từ bác ái sâu xa đối với mọi người hãy còn lưu lại trong lòng tôi sau khi thức tỉnh. Làm sao giải thích được điều này... Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng cái ấn tượng đó chỉ tồn tại trong một lúc chớ không kéo dài. Nó đẹp quá, nó chưa phải để dành cho tôi.
Tôi ngồi tại đây từ bao lâu rồi... Nhìn chung quanh, tôi thấy mọi người đã đứng dậy và sửa soạn đi ngủ. Tôi cũng phải đi ngủ chứ, nhưng không khí trong phòng nóng bức vì thiếu gió, nên tôi phải ra nằm ngủ ngoài sân. Một vị đệ tử vóc người vạm vỡ, có chòm râu xám bạc, cầm đến cho tôi một cây đèn lồng và dặn tôi hãy để đèn cháy suốt đêm, vì sợ các thứ rắn độc hoặc thú dữ đột nhập lúc ban đêm. Để đèn sáng, chúng sợ không dám lại gần.
Nằm dưới đất không có nệm lót, tôi thấy khó ngủ. Nhưng tôi không thấy buồn, tôi có đủ đề tài suy nghĩ đêm nay, vì tôi tin rằng rốt cuộc, tôi đã gặp người mà tôi tìm kiếm bấy lâu nay, một người lạ lùng, huyền bí nhất mà định mệnh đã đặt để trên bước đường đời của tôi. Tôi có cảm giác như tôi đang đứng trước một giai đoạn quyết liệt, nhưng chưa biết chắc sự gì sẽ xảy ra. Đó chắc chắn là một cái gì thuộc về địa hạt tâm linh, hoàn toàn xa cách với cõi giới vật chất phàm tục. Trí tôi vẫn tưởng tới cái giấc mộng vừa qua, và tim tôi hồi hộp đập mạnh trước một sự gì huyền diệu sắp đến, tuy chưa rõ rệt, nhưng chắc hẳn là thâm thúy vô cùng.
Trong những ngày kế đó, tôi tìm cách tiếp xúc trở lại với đức Maharichi, nhưng không có kết quả. Ngẫm nghĩ về điều này, tôi nhận thấy có ba lý dọ Trước hết đó là bản tính dè dặt tự nhiên của Ngài, Ngài không thích thảo luận, bàn cãi và hoàn toàn thản nhiên với mọi sự tin tưởng và mọi ý kiến của người đời. Điều chắc chắn là Ngài không màng hoán cải bất cứ một người nào, và không hề có ý muốn kiếm thêm đệ tử.
Lý do thứ hai có vẻ lạ lùng, nhưng tôi cảm thấy rõ rệt. Từ ngày tôi có giấc mộng huyền linh đó, mỗi lần đến trước mặt Tôn Sư, tôi đều cảm thấy một sự tôn kính thiêng liêng. Những câu hỏi mà tôi định đưa ra chất vấn Ngài đều im bặt, tôi cho rằng thật là một điều phạm thượng mà thảo luận một cách bình đẳng, ngang vai với một người đã đạt tới một trình độ siêu phàm như thế.
Lý do thứ ba giản dị hơn. Trong Tịnh Xá lúc nào cũng có người, và tôi không thích phô bày trước công chúng những điều thầm kín nhất của lòng mình. Dầu sao đối với những người ấy tôi cũng chỉ là một người ngoại quốc. Sự bất đồng ngôn ngữ không quan hệ, nhưng cái óc hoài nghi đặc biệt của người Âu, sự hoàn toàn thiếu hẳn tinh thần tôn giáo trong việc trình bày ý kiến của tôi có thể làm trái ý phần nhiều những người chung quanh.
Bởi đó, mỗi lần tôi muốn nói, thì một trong ba lý do trên đây ngăn trở tôi và bắt tôi phải im lặng. Lúc đầu, tôi định viếng thăm đạo viện trong hai ngày cuối tuần, nhưng nay cả một tuần lễ đã trôi quạ Tôi tự hỏi cuộc đàm luận đầu tiên của tôi với đức Maharichi phải chăng cũng là buổi nói chuyện cuối cùng... Ngoại trừ một vài câu nói xã giao thường lệ, một vài tiếng chào hỏi thoáng qua, tôi và Tôn Sư, cả hai người đều dè dặt, không ai mở lời trước. Mười lăm ngày đã qua, càng ngày tôi càng cảm thấy một cách đậm đà thâm sâu, những ảnh hưởng tốt lành của niềm an tịnh thiêng liêng nó bao trùm cả Đạo viện, thậm chí đến cả bầu không khí người ta thở tại đây.
Ngày cuối cùng đã đến, mà tôi không tiến đến gần đức Maharichi được thêm một bước nào. Trong thời gian ở tại Đạo viện tôi cảm thấy có khi vui khi buồn, một trạng thái không chừng đổi nó làm cho tôi thất vọng. Tôi cảm thấy chán nản, phần nhiều những người ở đây đối với tôi lại bất đồng ngôn ngữ, và có sự cách biệt từ phương diện bên ngoài lẫn cả bên trong. Làm sao hy vọng có một sự thông cảm giữa tôi với họ được... Tôi nghĩ đến đức Tôn Sư cũng như con chim đại bàng bay cao vút trên chín tầng mây bạc, và nhận xét đời người dưới một quan điểm cao siêu đến nỗi tôi không hiểu được.
Lẽ tất nhiên, Ngài không giống như mọi người, Ngài không phải thuộc về dòng giống nhân loại như chúng tạ Ngài chẳng khác nào như ngọn núi trơ trọi, độc nhất, nó nhô lên cao ở phía sau đạo viện, như cụm rừng xanh rộng rãi bao la đến tận chân trời, hoặc như vòm trời cao vòi vọi không thể đo lường. Một cái gì vô hình và huyền diệu của Ngọn Đồi Thiêng kia hẳn là đã truyền qua tâm hồn của đức Maharichi.
Người ta nói rằng Ngài ở tại đó đã ba mươi năm nay và không bao giờ rời khỏi ngọn núi ấy dầu là chỉ trong một ngày. Một sự liên đới chặt chẽ như thế hẳn là phải có ảnh hưởng vang dội đến tâm tính của Ngài. Đức Maharichi yêu Ngọn Đồi Thiêng của Ngài, và có người đã dịch lại cho tôi xem một vài câu thơ rất hay và cảm động do chính tay Ngài viết để biểu lộ tình yêu đó.
Cũng như ngọn núi Thiêng một mình tách ra khỏi khu rừng rậm rạp và nhô lên trời, đức Maharichi vươn mình vượt khỏi đám rừng người của thế gian, và sự cao cả của Ngài cũng là độc nhất vô nhị. Một mình Ngài đã vượt bậc tiến tới trước, và những người khác yếu đuối hơn không thể theo kịp Ngài. Cho tới nay, tôi mới gặt hái được có một niềm an vui tự tại trong buổi hội kiến ban đầu, và một giấc mơ huyền diệu nó chói rạng như một ngôi sao trong ký ức của tôi. Thời gian trôi qua, trong mười lăm ngày ở đạo viện, tôi chỉ mới có được một cuộc hội đàm đáng kể với đức Tôn Sư! Gương mặt nghiêm nghị của Ngài cũng đủ làm cho tôi lánh bước không dám lại gần. Tôi tự nghĩ rằng tôi không ngờ đến một sự tiếp đãi như thế, sau khi tôi được thấy những triển vọng tươi sáng về đời sống ở Đạo viện mà người khất sĩ hành hương đã phô bày trước mắt tôi.
Tuy nhiên, chính đức Maharichi, chớ không phải ai xa lạ, là người mà tôi muốn được yết kiến lần nữa để được nghe lời vàng ngọc của Ngài, vì tôi quả quyết chắc chắn rằng trong những người mà tôi đã gặp, thì đức Maharichi là người duy nhất đã giải quyết được các bài toán khó khăn của cuộc đời, và không có một sự đau khổ nào ở thế gian có thể phạm đến Ngài được nữa.
Tôi đã tìm cách gặp Ngài một lần nữa. Tôi đi tìm người đệ tử kỳ cựu, có nhiều thiện cảm đối với tôi ngay từ lúc đầu và nói cho y biết rằng tôi muốn được hội kiến một lần cuối cùng với đức Tôn Sư, nhưng không dám xin Ngài một cách trực tiếp. Vị đệ tử liền thông cảm và mỉm cười. Y liền bước đi ngay và một chặp sau, y trở lại với câu trả lời:
đức Maharichi rất vui lòng tiếp kiến tôi. Tôi bèn trở lại chỗ ngồi trong Tịnh Xá gần kế bên giường. Đức Tôn Sư day lại tôi và làm cho tôi cảm thấy thoải mái tự nhiên bằng cách nghiêng đầu chào tôi một cách rất lịch sự.
Tôi hỏi:
- Những nhà đạo sĩ Yogi nói rằng muốn tìm Chân Lý, người ta phải từ bỏ thế gian và sống ẩn dật trong chốn rừng sâu núi thẳm. Ở các xứ Tây phương, đó là một việc gần như không thể làm được vì cách sinh hoạt của chúng tôi khác hẳn. Tôn Sư có đồng ý với những người Yogi chăng...
Đức Maharichi day lại một đệ tử, một người Bà La Môn rất lễ độ, người này dịch lại câu trả lời của Ngài:
- Sự từ bỏ cuộc đời hoạt động của thế gian không phải là cần thiết. Anh hãy tham thiền một giờ hay hai giờ mỗi ngày và hãy theo đuổi những công việc hàng ngày của anh. Khi anh biết thiền định đúng cách, anh sẽ tự tạo cho anh một nguồn sinh hoạt tâm linh nó sẽ thấm nhuần đến công việc làm hàng ngày. Nói một cách khác, sự hoạt động hàng ngày của anh sẽ tiếp diễn trong một bầu không khí tâm linh do sự tham thiền tạo nên.
- Chừng đó kết quả ra sao...
- Kinh nghiệm sẽ giúp cho anh nhận thấy rằng quan niệm của anh về cuộc đời hoặc về nhân tâm, thế sự, sẽ thay đổi lần lần.
- Như vậy, phải chăng ý kiến của Ngài ít nhất cũng khác những người Yogi về điểm này...
Tôn Sư không muốn trả lời trực tiếp về điểm đó.
- Chính sự ích kỷ cá nhân nó làm cho con người bị trói buộc với thế gian. Vậy con người hãy tự giải thoát khỏi sự ích kỷ đó. Sự dứt bỏ thật sự chính là sự trừ diệt cái bản ngã vì bản ngã của ta vốn là một điều hư vọng và phỉnh lừa.
- Nhưng làm sao có thể trừ diệt được sự ích kỷ khi người ta còn phải sống ở thế gian...
- Vốn không có sự mâu thuẫn giữa đời sống thế gian và sự Minh Triết.
- Phải chăng Tôn Sư muốn nói rằng người ta vẫn có thể tiếp tục làm công việc của mình ở thế gian và đạt được sự minh triết...
- Tại sao không... Nhưng trong trường hợp đó, không phải cái phàm ngã của con người nó tiếp tục sự sinh hoạt hàng ngày nữa vì tâm thức của y đã lần chuyển qua một địa hạt tâm linh ngoài vòng chật hẹp nhỏ nhen của thế tình.
- Tôi thấy điều đó có sự khó khăn, sự sinh hoạt hàng ngày có thể dành cho ta bao nhiêu thì giờ để tham thiền...
Đức Maharichi không băn khoăn vì câu hỏi tầm thường đó:
- Dành một thời giờ riêng cho sự tham thiền là việc làm của kẻ sơ cợ Người đã tiến bộ ít nhiều trên đường tìm Chân Lý sẽ tìm thấy sự an lạc nó là điều thường có đối với chúng tôi, dầu cho y đang bận rộn công việc. Trong khi hai tay của người ấy hoạt động, thì trí óc của y bay bổng trên những cõi giới siêu linh.
- Nhưng phải chăng điều đó không phải là pháp môn Yoga nữa...
- Người Yogi cố gắng đưa tâm trí của y đến mục đích cũng ví như kẻ chăn bò mộng đi trước mặt y, nhưng người chăn bò trước hết phải dụ dỗ con bò với một nắm rơm lúa.
- Tôn Sư muốn nói chi...
- Anh hãy tự đặt câu hỏi:
Tôi là ai... Sự tìm kiếm này sẽ giúp cho anh khám phá, xuyên qua những hang, ngách của tâm thức những gì ẩn dấu đằng sau tâm trí của con người. Khi anh giải quyết được vấn đề căn bản này, anh sẽ giải quyết được tất cả những vấn đề khác.
Tôi cố tìm hiểu câu nói đó. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy ở đằng xa, ngọn Đồi Thiêng dưới ánh nắng ban mai. Đức Maharichi nói tiếp:
- Tôi sẽ nói rõ hơn. Tất cả mọi chúng sinh đều đi tìm hạnh phúc, một cái hạnh phúc thật sự mà họ có thể nắm lấy được và không bao giờ dứt. Cái bản năng đó rất chính đáng. Nhưng anh có khi nào để ý đến sự kiện này là chính họ tự thương yêu mình trước nhất...
- Và sau đó...
- Anh hãy so sánh việc sau này với điều tôi vừa kể trên. Muốn đạt được hạnh phúc, họ cần một phương tiện, có người chọn ly rượu mạnh, có người chọn ái tình, có người thì chọn tôn giáo. Anh thấy chăng, bản tánh thật sự của con người là như thế.
- Tôi không thấy rõ...
Ngài nói tiếp:
- Bản tánh chân thật của con người, tức là hạnh phúc vậy. Hạnh phúc vốn sẵn có nơi Chân Ngã. Sự tìm kiếm hạnh phúc, chính là sự tìm kiếm Chân Ngã, nhưng một cách vô ý thức. Chân Ngã vốn bất diệt, cho nên người nào đã tìm thấy nó rồi, thì đồng thời cũng tìm thấy một cái hạnh phúc trường cửu, vô tận.
- Nhưng có biết bao nhiêu sự đau khổ trên thế gian!
- Lẽ tất nhiên, đó là bởi vì thế gian không hề biết cái bản tánh chân thật của nó. Tuy nhiên, tất cả mọi người, dầu có ý thức hay không, cũng đều đang đi tìm hạnh phúc.
- Kể cả những kẻ khốn cùng, những kẻ tàn bạo, sát nhân...
- Đúng vậy, nhưng họ lầm lạc vì họ tưởng rằng họ có thể tìm thấy bí quyết của hạnh phúc trong những tội lỗi của họ. Cái hoài bão đó là do bản năng thúc đẩy, nhưng vì họ tìm hạnh phúc trong những hành vi bất chính. Sự sai lầm của họ rất là tai hại, vì con người gieo nhân nào phải gặt quả nấy.
- Như vậy, phải chăng nếu chúng ta thực hiện được Chân Ngã của mình thì chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc trường cửu...
Tôn Sư gật đầu cho là phải. Xuyên qua cửa sổ, một tia nắng chiếu vàng gương mặt đức Maharichị Vầng trán Ngài phản ảnh sự an tịnh bên trong, vành môi rõ rệt biểu lộ một sự ung dung tự tại hoàn toàn, đôi mắt Ngài phản chiếu một sự an lạc tuyệt vời. Không có gì trong cái phong độ của Ngài tương phản với những lời Ngài nói.
Những lời nói của Ngài có bao hàm điều gì khác hơn là cái ý nghĩa hình như đơn giản đó chăng... Người thông ngôn đã dịch lại đúng y nguyên văn, nhưng ngoài ra còn có cái gì sâu xa hơn nữa mà y không dịch hết ý chăng... Cái đó, chính tôi phải tự khám phá lấy. Đức Tôn Sư nói không phải như một triết gia, hoặc một nhà biện thuyết, mà lời nói của Ngài phát tự đáy lòng. Hay là Ngài chỉ bày tỏ cái kinh nghiệm quý báu riêng của Ngài chăng...
Tôi hỏi Ngài:
- Sự tìm Chân Ngã có dễ thực hành hay chăng...
- Tự nhiên là dễ. Sự quán xét nội tâm có thể đi ngược trở lại đến chỗ mà Phàm Ngã lần lần tiêu tan.
- Chừng đó thì còn lại cái gì... Con người sẽ rơi vào một trạng thái vô ý thức, hay đần độn chăng...
- Không bao giờ. Chừng đó con người sẽ đạt tới một trạng thái tâm thức bất diệt, và một sự minh triết do bởi sự thức tỉnh của Chân Ngã, tức là cái bản tính chân thật của con người.
- Và cái ý thức về bản ngã phải chăng cũng là do cái bản tánh chân thật đó mà ra...
- Cái ý thức về bản ngã thuộc về Phàm ngã của con người; nó thuộc về phần xác thể và trí óc. Khi con người lần đầu tiên nhận thức được Chân Ngã, thì có một cái gì xuất hiện từ những chỗ thâm sâu bí ẩn của tâm hồn và xâm chiếm lấy ỵ Cái đó vốn là một cái gì trường tồn, vô tận và thiêng liêng. Người ta gọi nó bằng nhiều danh từ khác nhau, chẳng hạn như Cõi Trời, Linh Hồn, Niết Bàn, người Ấn Độ Giáo gọi là Giải Thoát, anh cũng có thể gọi nó là gì tùy ý. Dầu sao, khi điều đó xảy ra, thì con người không phải là mất, mà y tự tìm thấy.
Câu sau này làm tôi nhớ lại những lời nói của đức Jésus, đến ngày nay vẫn còn là một điều bí hiểm đối với nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo:
"Kẻ nào tham sống, thì sẽ chết, kẻ nào ghét sống thì sẽ gìn giữ được sự sống toàn vẹn. " (Celui qui aime sa vie la perdra, et celui qui hait sa vie la conserverạ) Sự tương hợp giữa hai ý tưởng đó thật là rõ rệt, và nhà Hiền Triết Ấn Độ này đã đạt tới cái chân lý đó bằng sự thiền định suy tư, mà không cần đến sự dẫn chứng với câu nói của đức Jésus. Đức Tôn Sư nói tiếp:
- Ngày nào mà con người vẫn chưa bước vào con đường đó thì sự nghi ngờ băn khoăn sẽ còn theo sát một bên y.
Các bậc vua chúa, các nhà chánh trị tưởng rằng họ cai trị thế gian, nhưng nếu họ tự xét mình, họ sẽ phải thú nhận rằng họ chưa biết tự trị lấy mình. Cái quyền năng thật sự là ở trong tay người nào đã tiến sâu vào những chỗ bí ẩn thâm sâu của linh hồn.
Các nhà bác học Âu Tây cặm cụi suốt đời để sưu tầm học hỏi và hiểu biết, sẽ phải cúi đầu khi người ta hỏi họ đã giải quyết được các vấn đề bí hiểm của đời người, và đã tự biết mình hay chưa... Như vậy, tìm biết sự vật bên ngoài thế gian có ích gì, nếu chúng ta không biết gì cả về sự diễn biến trong người chúng ta và không biết rằng chúng ta là ai... Chúng ta thường trốn tránh không muốn nghĩ đến điều đó. Tuy nhiên, có cái học nào là đáng cho chúng ta chú trọng hơn nữa...
- Phải chăng vì đó là một công việc rất khó, hầu như quá sức của con người...
Câu hỏi của tôi làm cho Ngài hơi nhún vai:
- Phải thử rồi mới biết. Sự khó khăn không phải là quá lớn lao như anh tưởng.
- Đối với người Âu như chúng tôi, là những người hoạt động và thực tế, thì sự quán xét nội tâm một cách vô tư đó thật là...
Tôi còn do dự, không biết phải kết thúc câu nói ra sao, Ngài đã nói tiếp:
- Sự hiểu biết chân lý là một hoạt động tâm linh, dầu cho đối với người Ấn hay người Âu cũng vậy. Tôi nhìn nhận rằng nó không phải dễ dàng đối với người còn hoạt động ở thế gian, nhưng trong trường hợp nào cũng vậy, người ta có thể thành công. Điều cần thiết là tạo nên, bằng phương pháp tham thiền, một nguồn sinh hoạt tâm linh mà sau đó người ta chỉ cần duy trì, gìn giữ bằng thói quen và sự thực hành. Khi anh ngẫm nghĩ về câu hỏi:
"Tôi là ai... " khi anh bắt đầu hiểu rằng cái xác thân, hay những dục vọng, không phải thật là ta, thì chừng đó anh sẽ có một thái độ rõ rệt đối với chính mình. Do đó, câu trả lời sẽ xuất hiện tự những chỗ thâm sâu cùng tột của bản thể, nó sẽ hiện ra như một cái phần thưởng, như một sự thực hiện thâm trầm và sâu sắc. Anh hãy tự biết mình, và chừng đó chân lý sẽ chói rạng trong tâm hồn anh như một tia sáng mặt trời. Tâm trí anh sẽ tìm thấy sự yên tịnh, một nguồn an lạc vô biên sẽ tràn ngập cõi lòng anh bởi vì thực hiện Chân Ngã tức là tìm thấy Hạnh Phúc. Hai danh từ đó, Chân Ngã và Hạnh Phúc, vốn đồng nghĩa. Tất cả những sự nghi ngờ của anh sẽ tiêu tan, khi mà anh đạt tới sự thực hiện Chân Ngã một cách trực tiếp.
Nói đến đây, đức Tôn Sư quay đầu lại và nhìn thẳng về một điểm ở đằng xa, ở phía tường bên kia. Tôi hiểu rằng cuộc đàm thoại đã chấm dứt, và Ngài nói như thế đã đủ. Tôi cũng lấy làm hài lòng vì đã được yết kiến Ngài thêm một lần nữa.
Thời gian thắm thoát trôi qua, và ngày vĩnh biệt đức Tôn Sư đã đến. Chiều hôm ấy, tôi bước vào nhà Tịnh Xá, hai giờ trước khi cỗ xe bò đến để chở tôi lên đường và từ giã nõi đạo viện êm đềm ở chốn rừng hoang u tịch này.
Không khí trong phòng phảng phất mùi hương trầm thơm ngát. Đức Maharichi ngồi bán dà trên divan, chăm chú nhìn tôi, không nói một lời. Tôi nhận thấy bên cạnh Ngài cái vò nước bằng đất nung và cây gậy trúc. Đó là tất cả vật sở hữu của Ngài trên mặt đất, nó là sự trả lời hùng biện cho cái bản năng chiếm hữu, cho sự khao khát của cải của người thế gian.
Bỗng nhiên đôi mắt mở lớn của Ngài lại đứng tròng, toàn thân Ngài lại trở nên ngay ngắn như pho tượng, đầu Ngài, hơi thở lắc lư qua lại vài cái trước khi ngừng hẳn. Trong vài phút, đức Maharichi lại chìm đắm trong cơn nhập định mà tôi đã thấy khi mới đến. Có người bước lại một bên tôi và kề tai nói nhỏ:
- Đức Maharichi đang nhập định. Chúng ta không nên nói chuyện.
Chung quanh mọi người đều im lặng, sự im lặng càng trở nên thâm trầm với giờ phút trôi quạ Tôi tự thả trôi theo một sự sùng kính thiêng liêng nó xâm chiếm lấy tôi một cách khó cưỡng lại được, chẳng khác nào như con ong bị hấp dẫn bởi mùi hương của cái hoa. Một mãnh lực vô hình, huyền bí phảng phất trong không khí của gian phòng và tôi không còn nghi ngờ gì nữa rằng nguồn mãnh lực đó là từ đức Maharichi tỏa ra. Đôi mắt Ngài chiếu sáng một cách đặc biệt.
Tôi cảm thấy trong mình tôi có những cảm giác lạ lùng. Cặp mắt sáng rực như tia lửa của Ngài dường như soi thấu vào những chỗ bí ẩn nhất của tâm hồn tôi. Tôi nhận định rằng Ngài nhìn thấy rõ hết tất cả những gì của tôi:
Tư tưởng, tình cảm, dục vọng và tôi hoàn toàn bất lực trước quyền năng của Ngài. Trước hết tôi cảm thấy khó chịu, vì tôi biết rằng không có gì trong cuộc đời dĩ vãng của tôi mà Ngài không nhìn thấy, và tôi không thể dấu diếm che đậy cuộc đời quá khứ của tôi, nhưng tôi cảm thấy một cách mơ màng rằng sự quan sát tỉ mỉ đó sẽ có nhiều ích lợi cho tôi trong tương lai.
Và như vậy, tất cả những sự yếu đuối lầm lạc của tôi trong dĩ vãng, tất cả những ưu điểm và khuyết điểm của tôi đều biểu hiện rõ ràng trước cặp mắt của Ngài. Nhưng đồng thời, tôi cũng được an tâm, vì như thế chắc Ngài cũng sẽ thấy luôn cả tấm lòng mộ Đạo của tôi, nó thúc giục tôi từ giã quê hương, gia đình, lánh xa cuộc đời phồn hoa tục lụy và lao mình vào chốn rừng sâu núi thẳm để tìm những người như Ngài.
Lần lần tôi cảm giác được rõ ràng cái luồng thần giao cách cảm giữa đôi mắt đứng tròng của Ngài và cái nhìn non nớt của tôi, nó như dẫn dụ và mời mọc tâm hồn tôi hãy cùng chia sẻ cái trạng thái an tịnh vô biên và trường cửu của Ngài. Cái niềm an tịnh lạ lùng đó cũng đi kèm với một cái cảm giác nhẹ nhàng lâng lâng và an lạc tuyệt vời không có gì sánh kịp. Thời gian dường như ngừng lại. Tâm hồn của tôi đã trút được cái gánh nặng của những điều thắc mắc ưu phiền. Dường như kể từ nay, tôi đã vĩnh viễn được che chở, không còn bị những nỗi đắng cay của sự thất bại, và nỗi đau buồn của những dục vọng không được thỏa mãn.
Tôi nhận định một cách thâm sâu rằng cái bản năng nó bắt buộc con người hãy ngẩng mặt lên và hãy hy vọng trong sự tuyệt vọng, nó nâng đỡ con người trong những giờ phút tối tăm đau khổ, là một cái bản năng không bao giờ lầm lạc, vì nó vốn thuộc về tánh chất thiêng liêng. Trong cái im lặng thần tiên đó, mà đồng hồ ngừng chạy, thời gian ngừng trôi, mà những đau khổ và lầm lạc của dĩ vãng đã lùi lại vào đúng chỗ của nó, thì hình như toàn thân của tôi hỗn hợp làm một với đức Tôn Sư, hình như tôi đã cảm được sự minh triết đến mức tột độ, và cái nhìn sáng rực của Ngài có cái quyền năng giống như một chiếc đũa thần nó gợi cho ta thoáng thấy một cõi giới siêu linh đầy những sự huy hoàng huyền diệu bất ngờ.
Đã bao lần tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy những đệ tử của Ngài trong nhiều năm sống tại Đạo viện, hàng ngày vẫn cứ đến ngồi dưới chân đức Tôn Sư, cũng chẳng nghe được bao nhiêu lời dạy bảo của Ngài, mà tự bằng lòng với cuộc đời trầm lặng như thế, không có một sự hoạt động nào bên ngoài để tự nâng đỡ hay giải trí. Bây giờ tôi mới bắt đầu hiểu một cách trực tiếp, do kinh nghiệm cá nhân của tôi, rằng mỗi ngày trôi qua đều đem lại cho họ một cái phần thưởng tuyệt diệu.
Sau nhiều giờ ngồi tịnh tâm trong gian phòng im lặng như tờ, có người lẳng lặng đứng dậy và rón rén nhẹ bước đi ra. Một người khác cũng đứng dậy, rồi một người nữa, và trong giây lát, chỉ còn có một mình tôi ngồi đối diện với đức Maharichị Khi đó, kỳ lạ thay, đôi mắt của Ngài cử động, Ngài thu tầm nhãn quang lại giữa đôi mi hé mở.
Tôi cảm thấy dường như thân mình tôi trở nên nhẹ nhàng và cùng với Ngài bay bổng trong không gian vô tận. Đó là một giờ phút quyết liệt. Nhưng tôi do dự, và sau cùng tôi phải gián đoạn trước tiên cái giây phút huyền diệu đó, và tức khắc tôi đã trở về với thể xác của tôi. Cả Tôn Sư và tôi, không ai nói một lời nào. Tôi bèn thu thập tinh thần, nhìn đồng hồ trên vách và lẳng lặng đứng dậy, giờ lên đường đã sắp đến.
Tôi cúi đầu từ giã đức Tôn Sư, Ngài cũng nghiêng đầu đáp lại. Tôi thốt ra vài lời cảm ơn, Ngài nhận lãnh mà không nói gì. Tôi còn do dự bước chân trên ngưỡng cửa nhưng bên ngoài, tiếng reo của chiếc lục lạc đồng trên cỗ xe bò đã vọng đến tai tôi, và tôi chắp hai tay lại một lần cuối cùng để chào vĩnh biệt. Chúng tôi từ giã nhau như thế đó.
Tôi đã có dịp nhận định rằng các nhà tu sĩ ở Ấn Độ gồm một thành phần vô cùng phức tạp. Trong số đó, phần nhiều là những người tốt và vô hại, mặc dầu họ có vẻ rất nghèo nàn về phương diện quyền năng hay minh triết. Có một số gồm những người thất bại ở ngoài đời hoặc là những người lười biếng không muốn làm việc nhọc xác. Một trong những người này đến gần tôi để xin tiền. Đầu tóc rối nùi, thân thể bôi tro và bộ mặt bất hảo của y làm cho y có một hình dáng bề ngoài ghê tởm. Tôi bèn cưỡng lại sự đường đột của y để thử xem kết quả ra sao. Sự chống cự của tôi càng làm cho y đeo lấy tôi như đĩa đói. Sau cùng y thử dùng một chiến thuật mới bằng cách đòi bán cho tôi xâu chuỗi bồ đề của ỵ Đó là một vật coi rất dơ bẩn mà có lẽ y rất quý trọng, vì y đòi bán với một giá rất cao. Tự nhiên là tôi từ chối và quay đi chỗ khác.
Một số ít gồm những người khổ hạnh một cách vô lý và phô trương trước công chúng những sự hành thân hoại thể của họ. Có người đưa một cánh tay lên trời cho đến khi móng tay mọc dài ra đến năm tấc và xoắn tròn. Có người lại đứng một chân suốt nhiều năm ở một chỗ. Không biết rằng họ muốn đạt được những cái gì với những sự phô trương kém mỹ thuật đó, ngoài vài đồng xu mà người ta ném vào cái bát ăn xin của họ.
Một số người khác dường như dùng tà thuật một cách công khai. Họ là những thầy phù thủy hạ cấp của Ấn Độ và hoạt động phần nhiều trong các làng mạc ở thôn quệ Với một số tiền thù lao nhỏ, họ có thể làm hại kẻ thù của bạn, đem đến cho bạn một người đàn bà, hoặc giúp bạn thực hiện lòng tham vọng một cách dễ dàng bằng cách vật ngã kẻ địch thủ của bạn với một vài ám tật hoặc chứng bệnh kỳ lạ. Người ta vẫn thường nghe những chuyện ám muội và lạ lùng về những tay phù thủy Bàn Môn này. Họ cũng tự phụ rằng họ là những người Yogi, hay thuật sĩ (Fakir).
Còn lại một thiểu số những nhà tu sĩ có học thức và văn hóa, những người này đã bỏ ra nhiều năm tìm tòi và khổ công tu luyện, từ bỏ cuộc đời thế gian để bước vào con đường đi tìm Chân Lý. Họ có một cái bản năng nó nói cho họ biết rằng đạt tới Chân Lý tức là đạt được hạnh phúc vững bền. Người ta có thể hoài nghi về tánh cách hợp lý của vần đề này, nghĩa là từ bỏ cuộc đời trần thế để chạy theo một cái viễn ảnh mông lung không có gì thiết thực, nhưng còn cái chí nguyện bên trong nó xui khiến họ dốc lòng tầm Đạo thì điều này vốn là thành thật và không ai nghi ngờ hay chất vấn.
Một người Âu trung bình không có thời giờ để dành cho một cuộc tìm tòi như thế. Người ấy viện một lý lẽ rất tốt để chấp nhận cái thái độ lãnh cảm chung của mọi người:
Y nghĩ rằng nếu y lầm lạc, thì tất cả vùng lục địa ở Tây Bán Cầu đều lầm lạc chung với nhau cả một xuồng, chứ không riêng gì một mình ỵ Trong cái thế hệ vật chất hiện tại, người ta coi sự đi tìm Chân Lý như một điều vô ích, nhưng người ta không ngờ rằng trong khi đó họ phung phí rất nhiều năng lực để theo đuổi những điều, mà xét cho cùng cũng chẳng phải là có ích lợi bao nhiêu và rốt cuộc cũng chỉ là những sự vật phù du giả tạm.
Thưở xưa, một người Tây phương đã từng đến viếng xứ Ấn Độ với một sứ mạng không giống như của tôi, nhưng những nhân vật mà y gặp ở xứ ấy đã làm cho y bị đánh lạc hướng, đến nỗi y suýt nữa đã quên hẳn mục đích đầu tiên của cuộc hành trình. Đó là vua A Lịch Sơn Đại Đế (Alexander The Great), đem binh chinh phục các xứ phương Đông để nới rộng giang sơn bờ cõi. Người đã gần trở thành một triết gia khi rời khỏi xứ này.
Tôi thường phỏng đoán những ý nghĩ của vua A Lịch Sơn khi Ngài ngồi trên chiến xa vượt qua các vùng núi non tuyết phủ và những bãi sa mạc hoang vu trên đường khải hoàn trở về xứ sở. Trong thời gian ở xứ Ấn Độ, vua A Lịch Sơn đã từng bị chinh phục bởi các nhà Hiền giả và Đạo sĩ Yogi mà Ngài gặp ở dọc đường. Ngài đã từng chất vấn và thảo luận sôi nổi với họ nhiều lần suốt nhiều ngày liên tiếp về các vấn đề triết lý. Nếu Ngài có dịp ở lại và sống chung với họ thêm vài năm nữa, có lẽ Ngài đã đưa thế giới Tây phương vào những con đường khác hẳn.
Trong số những nhà tu sĩ ở Ấn Độ ngày nay, vẫn còn có một vài người cố gắng hoạt động để giữ gìn cho lý tưởng đạo đức và ngọn lửa tâm linh của xứ sở họ vẫn luôn luôn bừng cháy. Phần nhiều trong số đó có thể là những kẻ dối trá bịp bợm:
đó là cái hậu quả không thể tránh khỏi của một thời đại suy tàn, nhưng ta đừng quên vì thế mà không biết đến một thiểu số còn lại là những bậc chân tu gương mẫu.
Như trên đã nói, giai cấp tu sĩ gồm một thành phần vô cùng phức tạp và hỗn độn đến nỗi người ta không thể dùng một cái nhãn hiệu chung, dầu là khen hay chê, để gán cho cả toàn thể. Tôi đã hiểu thái độ của những người sinh viên quá khích ở các nơi đô thị khi họ nói rằng tận diệt thành phần "Tu sĩ ăn bám" sẽ là một ân huệ tốt lành cho xứ Ấn Độ. Tôi cũng thông cảm không kém đối với những người đứng tuổi và ôn hòa hơn, khi họ nói với tôi rằng ngày nào mà xã hội Ấn không còn sản xuất nên những bậc Hiền Triết và Đạo sĩ chân tu của họ nữa, thì đó là ngày Ấn Độ bắt đầu suy tàn.
Vấn đề này có một tầm quan trọng riêng đối với xứ Ấn Độ, bởi vì nền kinh tế quẩn bách khó khăn của xứ ấy bắt buộc người ta phải duyệt xét lại giá trị của một vài vấn đề. Người tu sĩ thật ra không có thực hiện một vai trò hữu ích cho xứ sở về phương diện kinh tế. Hằng trăm người mệnh danh tu sĩ chỉ là những kẻ dốt nát và thất học, họ đi ta bà khắp nơi qua các làng và các thành phố trong những dịp hội hè, tế tự Ở các đền chùa.
Họ là những kẻ ăn mày xấc láo và lắm khi làm quấy rầy, phiền nhiễu. Họ là một gánh nặng cho xã hội vì họ không có ích gì cho đời để bù lại những gì họ thụ hưởng. Tuy nhiên, cũng có những tâm hồn cao quý đã từ bỏ địa vị cao sang hoặc bố thí hết tài sản của họ để dốc lòng tầm Đạo. Họ là những tấm gương lành, gây nguồn cảm hứng cho những người chung quanh, ở bất cứ nơi nào họ đi đến. Những cố gắng của họ để tự giác và giác ngộ kẻ khác, chắc hẳn là xứng đáng với mẫu bánh mì hay chén cơm lạt mà họ nhận được của bá tánh.
Tấm màn đêm vừa buông xuống thành phố khi tôi đi dạo chơi quanh quẩn trên những đường phố nhỏ hẹp ở Calcuttạ Tôi vẫn còn nghĩ đến cảnh tượng rùng rợn mà tôi vừa thấy hồi sớm mai. Chuyến xe lửa của chúng tôi chạy qua một khu rừng nguy hiểm đầy những loài beo gấm. Hồi đêm khuya, xe lửa cán nhằm một con beo và khi đến ga Howrah, xác con beo bị nghiền nát và đẫm máu hãy còn dính chặt vào những bánh sắt, và người ta đã phải vất vả khó nhọc lắm mới gỡ ra được.
Chuyến xe lửa này đầy chật hành khách, cũng như hầu hết những chuyến xe lửa chạy đường xa ở Ấn Độ. Trong toa xe mà tôi đã may mắn tìm được một chỗ nằm còn trống, những người bạn đồng hành của tôi gồm một nhóm khá phức tạp. Những người hành khách thảo luận công khai những vấn đề làm ăn kinh doanh của họ, nên chẳng bao lâu mọi người đều biết rõ họ là ai và từ đâu đến. Trong nhóm người này, tôi nhận thấy có một người Hồi giáo mặc áo dài bằng lụa đen, gài nút đến tận cổ và đội một cái mũ tròn cũng màu đen có thêu chỉ vàng rất đẹp.
Có một người thổ dân Mahratti miền Tây với cặp chân mày đậm, một người Marwari bịt khăn vàng thuộc giai cấp lái buôn, làm nghề cầm đồ và cho vay bạc. Sau cùng là một anh chàng tác người vạm vỡ, thuộc dòng Bà La Môn và làm nghề luật sự Tất cả đều là những người khá giả, có địa vị. Khi xe lửa ngừng ở mỗi nhà ga lớn, đều có những người gia nhân, tôi tớ đến săn đón và hỏi thăm những nhu cầu của chủ họ.
Người Hồi giáo, sau khi đã ban cho tôi một cái nhìn im lặng bèn nhắm mắt lại và ngủ một giấc ngủ của người hiền, người thổ dân Mahratti thì còn đang đàm luận sôi nổi với người lái buôn, người Bà La Môn thì vừa mới lên xe và còn chưa ngồi yên chỗ, về phần tôi, thì tôi đang có hứng muốn nói chuyện, nhưng không tìm được người đối thoại. Hình như có một bức rào vô hình ngăn cách tôi với những người hành khách khác, cũng như có nhiều sự cách trở giữa Đông và Tây phương.
Nhưng tôi liền cảm thấy thoải mái dễ chịu khi tôi thấy người Bà La Môn da mặt hồng hào lấy ra một quyển sách với một cái tựa lớn bằng chữ Anh nằm ngang một cách ngạo nghễ ở ngoài bìa "Đời sống của Ramakrishnạ" Tôi bèn nắm ngay lấy cơ hội để vào đề câu chuyện. Phải chăng có người đã nói với tôi rằng Ramakrishna là vị cuối cùng của những bậc siêu nhân ở Ấn Độ mà người ta gọi là các đấng Rishỉ Tôi bèn mở đề câu chuyện về điểm này với người đồng hành của tôi, và y sẵn lòng tiếp chuyện. Chúng tôi thảo luận về các vấn đề triết lý cao siêu, hoặc đề cập đến những khía cạnh thông thường của đời sống ở Ấn Độ.
Mỗi khi y nói đến danh từ Rishi (Chân Sư), thì giọng nói của y xúc động với một lòng kính mến, tôn sùng và một tia sáng hiện rõ trong cặp mắt của ỵ Lòng sùng tín của y đối với vị Chân Sư đã quá vãng này không còn phải nghi ngờ gì nữa. Sau hai giờ đàm luận, tôi được biết rằng người Bà La Môn này có một người Thầy, vị này lại là một trong những vị đệ tử còn sót lại của đức Ramakrishnạ Vị Tôn Sư của y nay đã gần tám mươi tuổi, và không sống ẩn dật ở một nơi hẻo lánh nào, mà ở ngay trung tâm khu bổn xứ của thành phố Calcuttạ Tôi xin địa chỉ của Thầy y thì y liền cho ngay và nói:
- Ông không cần giới thiệu, ông chỉ cần bày tỏ ý muốn gặp Người là đủ.
Chính vì lý do đó mà hôm nay tôi đến Calcutta để đi tìm nhà của danh sư Mahasaya, đệ tử của đức Ramakrishnạ Tôi đi qua một cái sân rộng giáp mặt đường lộ, cuối sân có một cái thang đưa lên một ngôi nhà lớn và có vẻ cổ xưa. Một người trẻ tuổi bước vào và yêu cầu tôi hãy đợi một lát. Sau đó mười phút tôi nghe có tiếng chân người bước vào phòng, tôi không cần có ai giới thiệu nữa. Một bậc kỳ lão đáng kính đã xuất hiện trước mặt tôi, giống như những vị tộc trưởng trong Kinh Thánh hồi thời của giáo chủ Moisẹ Người hơi sói đầu, có một bộ râu dài đã bạc trắng, một cốt cách nghiêm chỉnh, đôi mắt có vẻ trầm tý, đôi vai hơi còng vì gánh nặng của gần tám chục mùa đông; người đó không ai khác hơn là vị danh sư Mahasaya.
Ngài ngồi trên giường và day mặt lại phía tôi. Trước sự hiện diện nghiêm trang và đạo mạo của Ngài, tôi nhận định ngay rằng chỗ này không phải là chỗ nói chơi hay nói đùa. Thậm chí, những lời nói có vẻ hoài nghi hay châm biếm một cách trắng trợn mà tôi thường hay thốt ra một đôi khi, thật là không phải chỗ của nó ở đây. Bất cứ ai cũng có thể đọc được trên gương mặt và phong tư cốt cách của Ngài, một tâm hồn cao quý và một đức tin thuần khiết nơi đấng Thiêng Liêng. Ngài nói với tôi bằng một giọng Anh ngữ lưu loát:
- Tôi rất hoan hỉ mà được gặp ông ở đây.
Ngài bảo tôi xích lại gần và cùng ngồi trên giường với Ngài. Ngài cầm lấy bàn tay tôi trong một lúc. Tôi bèn tự giới thiệu và nói mục đích cuộc thăm viếng của tôi. Khi tôi đã nói xong, Ngài lại siết chặt bàn tay tôi một cách thân mật và nói:
- Một sức mạnh thiêng liêng đã dìu dắt anh đến xứ Ấn Độ và giúp cho anh gặp gỡ những bậc Hiền giả của xứ này. Việc ấy có một mục đích bí ẩn và tương lai sẽ tiết lộ cho anh biết. Anh hãy kiên nhẫn chờ đợi rồi anh sẽ biết rõ.
- Xin Ngài nói cho tôi biết vài điều về Sư Phụ Ngài, là đức Ramakrishna.
- À! Đó là một vấn đề tâm sự mà tôi thích nói nhất. Sư Phụ qua đời đã gần nửa thế kỷ nay, nhưng tôi không thể nào quên được Ngài, hình ảnh của Ngài vẫn luôn luôn sống động và bất diệt trong tim tôi. Hồi đó, tôi hãy còn là một thanh niên mới hai mươi bảy tuổi khi tôi gặp Ngài, và sau tôi vẫn luôn luôn sống bên cạnh Ngài trong những năm cuối cùng trước khi Ngài viên tịch. Kết quả là tôi đã trở nên một người hoàn toàn thay đổi, thái độ của tôi đối với cuộc đời đã đổi hẳn kể từ khi đó. Đó là do ảnh hưởng lạ lùng của đức Ramakrishnạ Ngài gieo một sự xúc cảm tâm linh mãnh liệt cho tất cả những ai đến viếng Ngài. Ngài làm cho họ say mê, ngây ngất. Thậm chí những kẻ nặng mùi vật chất định đến để đùa cợt chế nhạo, đều câm miệng vì ngạc nhiên trước mặt Ngài.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Nhưng làm sao những người đó có thể cảm thấy kính phục trước vấn đề tâm linh, một vấn đề mà họ không hề tin tưởng?
Đức Mahasaya mỉm cười đáp:
- Ta hãy đưa hạt tiêu cho hai người nếm thử. Một người biết rõ và đã quen mùi, còn người kia chưa biết hạt tiêu là gì. Tuy vậy, phải chăng cả hai người cùng nếm một hương vị giống như nhau? Phải chăng cả hai người cùng cảm giác được vị cay của hạt tiêu trên đầu lưỡi? Cũng y như thế, người vật chất phàm tục tuy không biết gì về sự cao cả tâm linh của đức Ramakrishna, nhưng không phải vì thế mà họ không nếm được cái ảnh hưởng tâm linh thấm nhuần nó toát ra từ toàn thân Ngài.
- Như vậy, phải chăng Ngài quả là một bậc Siêu Nhân?
- Đúng thế, và theo tôi tưởng thì Ngài còn cao hơn bực đó nữa. Ramakrishna là một người giản dị, dốt chữ và thất học. Ngài dốt chữ đến nỗi không viết được chữ ký tên, đừng nói chi viết một lá thự Ngài rất khiêm tốn về hình dáng bề ngoài, và còn khiêm tốn hơn nữa về cách sinh hoạt. Tuy thế, Ngài thâu phục được tấm lòng tôn kính sùng mộ của những bậc thượng lưu trí thức đương thời của xứ Ấn Độ. Những người này phải cúi đầu trước cái mãnh lực tâm linh cao cả của Ngài nó tỏa ra một cách thật sự đến nỗi người ta có thể cảm giác được. Ngài dạy chúng ta biết rằng những tiền tài danh vọng, giàu sang, địa vị, quyền tước ở đời này chỉ là những thứ phù vân không đáng kể so với đạo đức tâm linh, và chỉ là những trò hư ảo nó gạt gẫm giác quan con người.
Những ngày tuyệt diệu thưở xưa kia, nay còn đâu. Hồi đó, Ngài thường hay đắm chìm trong những cơn đại định có một tính cách thiêng liêng đến nỗi chúng tôi ngồi chung quanh Ngài trong khi đó cảm thấy Ngài dường như là một vị Thần Thánh chớ không phải là Người. Một điều lạ, là Ngài có cái quyền năng đưa những đệ tử vào cái trạng thái xuất thần nhập định đó với một cái sờ nhẹ bằng bàn taỵ Trong trạng thái đó, họ có thể hiểu những điều huyền diệu thâm sâu về đấng Thiêng Liêng bằng sự linh cảm trực tiếp. Để tôi nói cho anh nghe Ngài đã ảnh hưởng đến tôi như thế nào.
Tôi đã hấp thụ một sự học vấn theo giáo dục Âu Tây và lấy làm tự hào về cái kiến thức của mình. Tôi đã từng làm giáo sư Đại Học ở Calcutta, dạy các môn văn khoa, Anh ngữ, lịch sử và môn kinh tế chính trị. Hồi đó đức Ramakrishna ở tại đền Dakshineswar, cách thành phố Calcutta chừng vài dặm. Tại đó, một ngày mùa xuân mà tôi vẫn nhớ mãi, tôi đã gặp Ngài bày tỏ với những lời lẽ giản dị những ý tưởng về tâm linh do kinh nghiệm trực tiếp của Ngài. Tôi định thử bàn luận vài điều, nhưng tôi không nói được gì cả trước sự có mặt thiêng liêng của Ngài, mà ảnh hưởng đối với tôi quá thâm trầm sâu sắc để có thể thốt ra bằng lời. Từ đó trở đi, tôi lại đến viếng Ngài nhiều lần, và không thể nào ở cách xa Ngài được nữa, cho đến một ngày kia, đức Ramakrishna nói đùa một cách hài hước:
- Có người đem cho con công ăn một liều thuốc phiện. Qua ngày hôm sau, con công lại đến vào đúng giờ như hôm quạ Nó đã say mê mùi thuốc phiện và đến tìm một liều khác.
Quả thật đúng như vậy. Tôi không bao giờ từng được hưởng những giờ phút an lạc tuyệt vời như khi tôi sống gần đức Ramakrishnạ Vì thế, không ai lạ gì mà thấy tôi trở lại với Ngài luôn luôn. Bởi đó, tôi đã trở nên một trong những đệ tử thân tín của Ngài, khác hẳn với những khách viếng thăm qua đường. Một ngày kia, Sư phụ bảo tôi:
- Thầy nhận trong tướng mặt, cặp mắt và chân mày của con có những dấu hiệu chỉ rằng con là một người Yogị Con hãy làm việc hết lòng, nhưng vẫn để tâm trí của con nơi đấng Thiêng Liêng. Gia đình, cha mẹ, vợ con, con hãy sống với họ và nuôi dưỡng họ như những người thế gian. Con rùa bơi lội trên mặt hồ, nhưng tâm trí nó vẫn đặt ở một nơi trên hồ mà nó để trứng. Con hãy làm công việc thế gian, nhưng hãy đặt tâm trí nơi Thượng Đế.
Sau khi Sư Phụ chúng tôi từ trần, phần nhiều các đệ tử tình nguyện xuất gia, khoác bộ áo vàng và đem truyền bá giáo lý của đức Thầy ở khắp nơi trong xứ Ấn Độ. Riêng tôi, tôi không bỏ nghề nghiệp cũ và vẫn tiếp tục dạy học. Tuy nhiên, tôi đã quyết định dứt bỏ cuộc đời trần thế tự trong tâm, mặc dầu bề ngoài tôi vẫn sống như mọi người.
Có nhiều đêm, tôi đi lang thang như kẻ không nhà, và ngủ trên các vỉa hè của thành phố, chung lộn với những kẻ ăn mày hành khất. Điều này đem đến cho tôi cái cảm giác, ít nhất là tạm thời, của một người cùng đinh không tài sản không gia đình.
Ramakrishna không còn nữa, nhưng nếu anh đi châu du khắp xứ Ấn Độ, anh sẽ thấy những công trình cứu tế xã hội, từ thiện, y tế và giáo dục được thực hiện khắp nơi trong xứ dưới sự hướng dẫn của những vị đệ tử của Ngài thưở xưa, mà phần đông nay cũng đã qua đời. Điều mà anh không thấy một cách hiển hiện rõ ràng là những người đã hoàn toàn thay đổi tâm tính và xoay hướng cuộc đời của họ, nhờ ảnh hưởng của đức Tôn Sự Giáo lý của Ngài đã được truyền khẩu qua các vị đệ tử, những vị này về sau lại truyền bá rộng rãi trong dân chúng.
Tôi đã được hân hạnh ghi chép những lời dạy của Ngài bằng tiếng Bengali, những sách vở in ra những giáo lý đó rất phổ thông khắp cả mọi gia đình trong tỉnh Bengale và những bản dịch cũng được phát hành đi khắp các vùng ở Ấn Độ. Như thế, anh thấy ảnh hưởng của Ramakrishna đã bành trướng rộng rãi như thế nào ngoài vòng của nhóm đệ tử thân tín.
Đức Mahasaya ngừng nói và đắm chìm trong im lặng. Tôi nhìn kỹ gương mặt của Ngài và lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng Ngài có những nét mặt và màu da không giống như của người Ấn Độ. Diện mạo và cốt cách của Ngài thật là cao quý đạo mạo tuyệt vời. Lòng hảo tâm, thiện chí, đạo đức, từ bi và thành thật của Ngài biểu lộ rõ ràng. Ngài có cái đức tự trọng của một người đã từng sống một cuộc đời hoàn toàn tuân theo tiếng gọi của lương tri.
Tôi hỏi:
- Không biết đức Ramakrishna sẽ nói như thế nào với một người không thể chỉ sống bằng đức tin mà thôi, mà còn phải thỏa mãn lý trí nữa?
- Ngài sẽ bảo người ấy hãy cầu nguyện. Cầu nguyện là một sức mạnh rất nhiệm mầu. Chính Ramakrishna đã cầu nguyện Thượng Đế hãy gởi đến cho Ngài những người có đạo tâm, và sau đó ít lâu, liền xuất hiện những người dốc lòng tìm đạo, về sau trở nên những vị đệ tử của Ngài.
- Nhưng nếu người ấy chưa từng cầu nguyện bao giờ, thì làm sao?
- Cầu nguyện là cái phương tiện, nó là cái phương sách tối hậu của con người. Khi nào lý trí của y thất bại, thì cầu nguyện sẽ giúp y đạt tới mục đích.
- Nhưng nếu có người nói rằng sự cầu nguyện không thích hợp với bản tính của họ, thì ông sẽ nói sao?
- Nếu vậy, người ấy hãy nên thường giao du, kết hợp với những bậc chân tu đại đức đã từng có nhiều kinh nghiệm về đường tâm linh. Sự tiếp xúc gần gũi với những bậc ấy sẽ giúp cho y khai mở đạo tâm hãy còn tiềm tàng của ỵ Những vị đã tiến hóa cao có thể giúp chúng ta hướng tâm tư ý chí của mình theo về những mục đích cao cả. Trên hết mọi sự, các vị ấy kích thích cho chúng ta có một lòng mong ước mãnh liệt muốn sống một cuộc đời tâm linh.
Bởi vậy, sự tiếp xúc giao thiệp với những bậc đó là một bước đầu tiên rất quan trọng, và nó cũng thường là bước cuối cùng, như Ramakrishna vẫn thường nói. Như thế, chúng tôi thường đàm luận về những vấn đề đạo đức tâm linh trong những ngày tôi còn lưu trú ở Calcuttạ Suốt những buổi chiều, luôn luôn có khách đến viếng cho đến khi gian phòng chứa đầy những người Ấn Độ, đệ tử của đức Mahasaya. Họ đến đều đều mỗi đêm và bước lên thang lầu của ngôi nhà để nghe một cách chú ý mỗi lời nói do thầy của họ thốt ra. Tôi cũng nhập bọn với họ trong thời gian. Tôi đến đều đều mỗi đêm thật ra không phải để nghe đức Mahasaya thuyết pháp, mà là để tẩm mình trong bầu không khí tâm linh sáng lạn do sự hiện diện của Ngài tạo nên. Bầu không khí chung quanh Ngài thật là tốt lành, êm đẹp, dịu dàng và đầy thiện cảm, Ngài đã tìm thấy sự an lạc bên trong và cái an lạc đó tỏa ra chung quanh một cách thật sự, dường như người ta có thể cảm biết được.
Tôi thường không nhớ hết những lời nói của Ngài thốt ra, nhưng tôi không thể nào quên cái phong độ hiền từ, nho nhã của Ngài. Trước kia đức Ramakrishna đã từng hấp dẫn Ngài như thế nào, thì ngày nay Ngài cũng hấp dẫn tôi giống y như thế, và tôi bắt đầu hiểu rằng nếu Ngài là đệ tử mà có một sức thu hút mãnh liệt như thế đối với tôi, thì vị Tôn Sư Ramakrishna còn có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng đến đâu.
Đêm ấy là đêm cuối cùng mà tôi có mặt tại nhà đức Mahasaya. Tôi quên cả thời gian khi tôi ngồi bên cạnh Ngài trên chiếc giường gỗ. Giờ khắc trôi qua một cách mau chóng, sau khi chúng tôi đã dứt câu chuyện, Ngài cầm tay tôi và dắt tôi ra đứng trên nóc bằng để hóng mát. Dưới ánh trăng rằm trong sáng, tôi nhìn thấy những cây kiểng và những khóm hoa đựng trong chậu sắp thành hàng coi rất đẹp. Dưới chân chúng tôi, chiếu muôn ngàn ánh đèn rực rỡ của thành phố Calcuttạ Đức Mahasaya đứng yên lặng cầu nguyện trong một lúc, khi đã xong, Ngài mới day lại, đưa tay lên ban ân huệ và đặt nhẹ bàn tay lên trán tôi.
Tôi cúi đầu một cách khiêm tốn trước mặt Ngài, tuy rằng tôi không có lòng tín ngưỡng tôn giáo. Sau một lúc im lặng, Ngài nói với một giọng nhẹ nhàng:
- Sứ mạng của tôi đã gần chấm dứt. Cái thể xác này đã gần làm tròn công việc của nó trong kiếp hiện tại. Anh hãy nhận lấy ân huệ của tôi trước khi tôi đi.
Ngài đã làm tôi xúc động một cách lạ lùng. Bận về, tôi đi bách bộ thơ thẩn qua nhiều đường phố và quên cả giấc ngủ. Tôi nghĩ rằng nếu ở thế gian này có một người nào có thể làm cho tôi thoát khỏi sự hoài nghi và sống với một đức tin đơn giản, thì người đó không ai khác hơn là vị danh sư Mahasaya.
Bác sĩ Bandyo, giám đốc một bệnh viện tại Calcutta, là một trong những chuyên viên giải phẫu có tài nhất ở thành phố này. Ông đã thực hiện được tất cả sáu ngàn cuộc giải phẫu, và tôi đã có dịp thảo luận với ông về một vài điều hiểu biết về khoa Hatha Yoga mà tôi đã thâu nhập được. Tầm kiến thức rộng rãi của ông về ngành Y học và khoa Cơ Thể Học đã giúp ích cho tôi hiểu thêm về vấn đề Yoga trên một bình diện khoa học.
Bác sĩ nói:
- Tôi hầu như không biết gì về khoa Yogạ Đó là một vấn đề mới lạ đối với tôi. Tôi cũng chưa từng gặp một người Yogi nào, ngoài ra Narasingha Swami, người này đến Calcutta cách đây không lâu.
Tôi hỏi thăm về người Yogi này, nhưng câu trả lời làm tôi thất vọng:
- Narasingha Swami đã đến Calcutta, gây một luồng dư luận sôi nổi, rồi sau đó đi đâu không ai biết. Hình như y đã sống ẩn dật trong vùng nội địa trước khi đến thành phố này, như vậy có lẽ y đã trở về nơi am thất của y.
- Xin bác sĩ cho biết việc gì đã xảy ra?
- Y đã làm cho cả thành phố bàn tán về y trong một thời gian ngắn. Người đã khám phá ra y là bác sĩ Neoghy, giáo sư Hóa học tại trường Đại Học Calcutta, cách độ một hai tháng về trước tại Madhuporẹ Bác sĩ Neoghy thấy y liếm vài giọt của một chất cường toan rất độc, và để than hồng vào miệng ngậm cho đến khi hòn than tắt hẳn.
Bác sĩ lấy làm ngạc nhiên và mời người Yogi đến Calcuttạ Trường Đại Học của thành phố này liền tổ chức một buổi trình diễn công cộng để cho Narasingha biểu diễn quyền năng của y trước một cử tọa gồm toàn là các nhà bác học và y sĩ. Tôi cũng có trong số những người được mời đến chứng kiến. Cuộc biểu diễn được tổ chức tại giảng đường Vật Lý Học. Chúng tôi là một thành phần gồm các nhà khoa học, có một khối óc phê bình chặt chẽ, và như ông đã biết, tôi ít có chú ý đến các vấn đề tôn giáo, Yoga, và những vấn đề tương tự, vì tôi đã để hết thời giờ và tâm trí vào ngành Y khoa.
Người Yogi đứng ngay chính giữa giảng đường, và người ta đưa cho y những thứ thuốc độc lấy trong phòng thí nghiệm hóa học của trường. Trước hết, chúng tôi đưa cho y một lọ lưu huỳnh toan (acide sulfurique). Y rót vài giọt trên lòng bàn tay của y và đưa lưỡi liếm. Kế đó người ta đưa cho y một lọ cường toan Phenol, và y cũng làm như trên. Chúng tôi liền thử với một loại thuốc độc dữ nhất, là chất Cyanure de Potassium, nhưng y nuốt luôn cả thứ này mà vẫn dửng dưng như không.
Sự kiện này thật là lạ lùng và thật không thể nào tin được, tuy nhiên chúng tôi vẫn phải chấp nhận bằng chứng hiển nhiên đang diễn ra trước mắt chúng tôi. Y đã nuốt một liều Cyanure de Potassium đủ mạnh để giết chết một người trong vòng ba phút đồng hồ; tuy thế, y vẫn đứng trơ trơ nhăn răng cười và không suy chuyển tí nào cả.
Sau đó, một chai thủy tinh dầy được đập vỡ ra từng mảnh và tán ra thành bột. Narasingha Swami nuốt luôn cả thứ bột miểng chai này, là một thứ giết người một cách chậm chạp. Ba giờ sau khi y đã nuốt trôi bữa ăn khác thường này, một vị bác sĩ trong bọn liền đặt ống bơm vào bao tử của người Yogi và bơm ra những gì còn lại. Những loại thuốc độc kể trên vẫn còn y nguyên trong bao tử. Qua ngày hôm sau, người ta nhận thấy chất bột miểng chai trộn lẫn với phân của y đi đại tiện ra ngoài.
Cuộc thí nghiệm của chúng tôi đã quá rõ ràng. Người ta thử lại cái cường độ của chất lưu huỳnh toan, thì thấy nó làm tan rã một vật bằng đồng. Trong số những người có mặt trong cuộc trình diễn, có Sir C.V Raman, nhà bác học trứ danh chiếm giải thưởng Nobel, ông này tuyên bố rằng cuộc trình diễn của người Yogi là một sự thách thức lớn lao đối với khoa học hiện tại.
Khi chúng tôi hỏi Narasingha Swami làm sao y có thể bắt thể xác của y chịu đựng được những sự thí nghiệm đó, thì y nói rằng ngay sau khi trở về nhà, y liền ngồi xuất thần nhập định theo phương pháp Yoga, và bằng cách tập trung tư tưởng, y sẽ phá tan ảnh hưởng khốc hại của các thứ thuốc độc.
Tôi được biết rằng Narasingha Swami đã trở lại Calcutta sau đó ít lâu và đi qua Ngưỡng Quang (Rangoon), thủ đô Miến Điện. Tại đây, y cũng trổ tài trong một cuộc trình diễn tương tự, nhưng khi về đến nhà, vì có khách đến thình lình nên y quên ngồi nhập định và xuất thần theo như thường lệ. Kết quả là y đã bị thuốc độc vật ngã một cách mau chóng và chết sau đó.
Tôi bèn hỏi bác sĩ Bandyo:
- Bác sĩ có thể giải thích sự kiện này bằng lý luận Y học được chăng?
Vị bác sĩ lắc đầu:
- Không, tôi không thể giải thích nổi. Việc này hoàn toàn làm tôi ngạc nhiên và không hiểu ra sao cả.
Khi tôi trở về nhà, tôi lục trong mớ tài liệu cất kỹ trong rương ðể tìm quyển sổ mà tôi đã ghi chép những cuộc nói chuyện của tôi với Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar độ nọ. Tôi lật qua vài trang và thấy những dòng tài liệu này:
"Những thuốc độc dầu mạnh đến bực nào cũng không thể làm hại được đạo sĩ đã thực hành giai đoạn Đại Công Phụ Giai đoạn này gồm có sự phối hợp một vài loại tư thế, phép khí công, luyện ý chí và tập trung tư tưởng. Theo truyền thuyết của môn phái chúng tôi, nó làm cho người Đạo sĩ có cái quyền năng nuốt vào bụng bất cứ vật gì, dầu là thuốc độc mà không tổn hại đến sức khỏe. Đó là một phép công phu rất khó và phải được luyện tập một cách đều đặn và thường xuyên, nếu muốn cho có kết quả tốt đẹp. Tôi có nghe nói về một người Yogi sống ở thành Bénarès có thể uống rất nhiều thuốc độc mà không sao cả. Vị Yogi này tên là Trailingya Swami, y rất có tiếng tăm ở thành phố này hồi thời kỳ đó, nhưng y đã qua đời từ nhiều năm naỵ Trailingya là một đạo sĩ có bản lĩnh rất cao cường về môn Hatha Yogạ Y thường ngồi trên bờ sông Hằng suốt nhiều năm, gần như không mặc áo quần gì cả, nhưng không ai có thể nói chuyện được với y, vì y đã phát nguyện giữ tịnh khẩu."
Tôi tưởng rằng sự kiện này thật là không thể tin và không thể có được, thì những lời Brama đã giải thích cho tôi rõ lần đầu tiên về vấn đề này. Đôi khi tôi đã lấy làm thắc mắc về những việc làm không thể tin và không thể hiểu được của những người đạo sĩ Yogị Nhưng biết đâu, có lẽ họ nắm giữ được những bí quyết mà đời sống của người phương Tây đang cố gắng để khám phá bằng một ngàn cuộc thí nghiệm khoa học?
Chuyến xe lửa của tôi vọt lên chiếc cầu sắt lớn bắc ngang qua sông Hằng cổ kính và thiêng liêng, phát ra những tiếng động ầm ầm càng biểu lộ thêm một bằng chứng xâm lăng của thế hệ cơ giới tân tiến đối với một xã hội cổ xưa và bảo thủ. Con sông Hằng linh thánh chắc sẽ không còn linh thánh được bao lâu nữa khi mà những người ngoại chủng vô tín ngưỡng bắt đầu phóng những đoàn hỏa xa gầm thét như sống động vượt ngang dòng nước xám xanh và yên lặng của nó.
Thành Ba Nại La! Sử Ấn Độ chép rằng Ba Nại La là một thành phố đã có từ mười hai thế kỷ trước Tây lịch kỷ nguyên. Người Ấn Độ coi thành phố này như một nơi Thánh Địa. Giàu hay nghèo, sang hay hèn, tất cả mọi người ở khắp mọi nơi trong xứ đều chiêm ngưỡng Thánh Địa Ba Nại La, và cố gắng đi đến đây ít nhất là một lần trong một đời người để được tẩm mình trong bầu không khí linh thiêng. Những kẻ đau ốm, hấp hối cũng tìm mọi phương tiện để có mặt ở nơi đây trong những ngày cuối cùng của họ, vì họ tin rằng chết ở đất Thánh sẽ được vĩnh viễn thăng lên cõi Thiên Đàng và thoát khỏi vòng Luân Hồi Sinh Tử.
Qua ngày hôm sau, tôi đi thẩn thờ qua các đường phố nhỏ hẹp trong thành phố để tìm nhà của một vị pháp sư, mà một người đệ tử ở Bombay đã cho tôi địa chỉ. Tôi đi qua những con đường chật hẹp đến nỗi một chiếc xe không thể chui lọt vào. Tôi đi lần theo những phố xá buôn bán đông đảo tấp nập, tại đây người ta thấy nhiều sắc dân đủ mọi chủng tộc và đủ mọi hạng người trong xã hội chen chúc lẫn nhau. Khu vực này gồm có nhiều đường quanh co khúc khủyu, đi vào đây người ta có cảm giác như đi lạc vào một Mê Hồn Trận. Thêm vào đám rừng người hỗn tạp đó là những con chó hoang chạy rong và những bầy ruồi nhặng bu ở các quầy hàng.
Có những bà lão tóc bạc da mồi, mắt lòa chân chậm, những thiếu phụ còn trẻ, gương mặt nõn nà, mặc những chiếc Sari màu mè sặc sỡ, những người đi hành hương tay lần chuỗi bồ đề, miệng lầm thầm tụng niệm những câu chân ngôn mà họ lập đi lập lại có lẽ đến năm chục ngàn lần. Những tu sĩ khổ hạnh khoác bộ áo vàng, chống gậy lê bước đi chậm rãi, nét mặt trầm tư, và còn bao nhiêu nhân vật khác nữa, tất cả đều cùng chen chúc nhau trên những con đường nhỏ hẹp từ khu mê lộ này đưa xuống tận bờ sông Hằng.
Tôi đi lần theo một khu phố náo nhiệt ồn ào, màu sắc rực rỡ. Vừa qua một khúc quanh, tôi đã đứng trước cổng ngôi Đền Vàng, là một ngôi đền rất được sùng thượng trong các giới tôn giáo chính thống ở Ấn Độ. Có những người tu sĩ hành khất bôi tro đầy mình, ngồi xếp thành hàng ở ngoài cổng đền. Những người hành hương ra vào tấp nập không dứt, có người đem những tràng hoa vào đền, màu hoa tươi sặc sỡ coi rất vui mắt. Những người từ trong đền bước ra kính cẩn cúi đầu rạp xuống, lấy trán đụng vào bực thềm đá trước cổng rồi mới ra đi.
Hai mái bầu tròn, làm bằng vàng khối rất dày, chói lòa dưới ánh nắng mặt trời. Những con két kêu vang bu lại rất đông trên một ngọn tháp gần bên. Ngôi Đền Vàng này thờ thần Shiva, một vị Thần tối cao của Ấn Giáo.
Tôi vẫn tiến bước, đến gần ngưỡng cửa của một ngôi đền khác và nhìn xem người ta đang lễ Thần Krishnạ Người ta đốt chất long não trước một tượng Thần bằng vàng, tiếng chuông trong đền ngân không dứt, tiếng tù và thổi vang tai. Một vị sư tăng gầy gò khắc khổ bước ra và nhìn tôi với cặp mắt dò xét. Tôi liền bước đi chỗ khác.
Tôi đi xuyên qua những con đường tối tăm, chật hẹp, để tìm nhà vị pháp sự Sau cùng, tôi đến một con đường có những tòa nhà to lớn đồ sộ, trước nhà có sân rộng rãi khoảng khoát. Tôi tiến đến một cửa cổng bên ngoài có một tấm bia đá khắc chữ "Vishudha" Tôi bước vào cổng, vì đây là ngôi nhà mà tôi tìm kiếm, và tiến đến gần một người ngồi ở ngoài hàng bạ Đó là một thanh niên có vẻ mặt thông minh lanh lợi. Tôi hỏi thăm vị Pháp Sư và được đưa vào trong nhà.
Trong một gian phòng rộng rãi, tôi thấy có một nhóm người Ấn Độ ăn mặc chỉnh tề, ngồi xếp bằng theo hình bán nguyệt dưới sàn gạch. Một vị trưởng lão có một chòm râu bạc ngồi dựa trên một chiếc divan ở chỗ cuối phòng. Hình dáng khả kính và chỗ ngồi danh dự của người này cũng đủ cho tôi biết rằng đây là người mà tôi tìm kiếm. Tôi chắp tay chào theo kiểu Ấn Độ, hai lòng bàn tay giao nhau đưa lên trước trán, và nói Shànti (chúc Thầy bình an).
Tôi tự giới thiệu là một nhà văn đi du lịch ở Ấn Độ để học hỏi về môn Triết học và Đạo học của xứ này. Tôi cũng biết rõ là người đệ tử mà tôi đã gặp, có giải thích cho tôi biết rằng Thầy y không bao giờ biểu diễn những quyền năng ở nơi công cộng, và dầu cho ở chỗ kín đáo trong tư thất, người cũng không phô trương những quyền năng đó trước mặt những người ngoại quốc. Tuy nhiên, vì lẽ tôi có một sự thích thú sâu xa đối với nền minh triết cổ truyền của họ, tôi yêu cầu họ thông cảm và đối xử với tôi như là một trường hợp ngoại lệ.
Những vị đệ tử giương mắt nhìn nhau, và day lại nhìn Thầy họ, như để chờ đợi câu trả lời. Vishudha có lẽ đã trên bảy mươi tuổi, người có một sống mũi ngắn và một bộ râu dài, đôi mắt lớn và sâu sắc. Trên cổ có đeo một sợi dây Thánh, biểu hiện của giai cấp Bà La Môn.
Người phóng tầm nhãn quang nhìn thẳng vào tôi, chẳng khác nào tôi là một vật thí nghiệm dưới một ống kính phóng đại. Tôi cảm thấy có một cái gì lạ lùng nó là thức động đến tâm hồn tôi, quả thật một mãnh lực huyền bí dường như phảng phất trong gian phòng này.
Sau cùng, vị Pháp Sư thốt ra vài lời bằng tiếng Bengali với một người đệ tử, người này bèn day lại và cho tôi biết rằng Thầy y bằng lòng tiếp kiến tôi, nếu tôi dắt theo bác sĩ Kavir, giám đốc trường Phạn ngữ của chánh phủ, để làm thông ngôn. Bác sĩ Kavir vừa biết tiếng Anh thành thạo, vừa là đệ tử thâm niên của pháp sư Vishudha, và sẽ là một người thông ngôn lý tưởng cho chúng tôi. Pháp sư nói:
- Anh hãy đến vào lúc chiều mai. Tôi sẽ đợi anh vào lúc bốn giờ.
Tôi đành phải ra về. Ra đến đường cái, tôi gọi một chiếc xe ngựa để đi đến trường Phạn ngữ nhưng ông Giám Đốc không có ở đó, có người nói chắc ông ta đã về nhà, tôi bèn ra xe đi thêm một chặng đường gần hết nửa tiếng đồng hồ nữa. Sau cùng tôi gặp ông ta ở một ngôi nhà cao hai tầng. Bác sĩ Kavir ngồi trên lầu, giữa những chồng sách và giấy tờ chất cao như núi ở chung quanh. Ông ta có một gương mặt sáng sủa và thông minh của một nhà học giả. Tôi nói lý do cuộc thăm viếng của tôi, người hơi do dự, nhưng sau cùng người bằng lòng cùng đi với tôi ngày hôm sau. Sau khi đã hẹn chắc tôi bèn kiếu từ.
Tôi đi thẳng xuống bờ sông Hằng, bước lên bực thang bằng đá xây thành một dãy dài và cao đến mấy trăm nấc dọc theo bờ sông để cho những người hành hương bước xuống sông tắm. Trải qua nhiều thế kỷ, những bực đá này cũng đã chịu sự tàn phá của thời gian, nhiều nơi đã sụp đổ và loang lổ. Có những ngọn tháp đã ngả nghiêng và sụp xuống nước. Những đền đài dinh thự nguy nga đồ sộ Ở ven bờ sông chen chúc lẫn nhau cái cao cái thấp dường như tranh nhau một chỗ đứng danh dự trên bờ sông Hằng linh thiêng. Người Ấn Độ rất mực tôn sùng và tượng trưng sông Hằng như một vị Nữ Thần đem lại nguồn sống cho vùng đồng bằng phì nhiêu của miền Bắc Ấn.
Những tu sĩ, tăng lữ, và người hành hương đều có mặt ở khắp nơi. Tôi nhận thấy có vài nhà bác học Ấn đang dạy học trò trong những gian phòng nhỏ và lộ thiên, thầy ngồi giữa trên những tấm nệm, học trò ngồi xếp bằng dưới đất ở chung quanh, đang cố gắng thâu thập những giáo lý từ nghìn đời của tôn giáo họ.
Một nhà tu khổ hạnh râu ria xồm xoàm làm cho tôi chú ý. Hỏi thăm người chung quanh thì nghe nói y đã lăn mình dưới đất đến bốn trăm dặm đường trường, không quản bụi bặm chông gai, mưa nắng dãi dầu, để đến Thánh Địa Ba Nại La, thật là một cách đi hành hương lạ lùng và hy hữu, có một không hai ở trên đời này. Ở một góc kia, tôi gặp một nhân vật khác có cái hình dáng kỳ dị:
Y đã đưa một cánh tay thẳng lên trời từ nhiều năm naỵ Những gân cốt trên cánh tay đã rã rời khô kiệt, còn các bắp thịt thì đã khô và teo lại, da cũng khô như tờ giấy. Làm sao có thể giải thích được những cuộc biểu diễn vô lý và kém mỹ thuật này, nếu không phải là mặt trời vùng nhiệt đới đã làm cho họ bị loạn trí hay loạn thần kinh... Rất có thể rằng sự sống dưới một khí hậu năm mươi độ trong bóng mát đã làm đảo lộn mọi sự thăng bằng trí não của một dân tộc vốn sẵn có máu cuồng tín từ trong huyết quản.
Qua ngày hôm sau, đúng bốn giờ chiều, bác sĩ Kavir và tôi cùng đến nhà vị pháp sư, bước vào gian phòng lớn và lễ phép chào vị chủ nhân. Có độ sáu người đệ tử cũng đang có mặt tại đó.
Pháp sư Vishudha mời tôi ngồi xích lại gần, tôi bèn ngồi xếp bằng cách giường độ vài thước. Người hỏi tôi:
- Anh có muốn xem một vài pháp thuật của tôi chăng...
Tôi mừng rỡ đáp:
- Nếu pháp sư vui lòng cho xem, thì thật là vô cùng hân hạnh.
- Vậy anh hãy đưa cho tôi cái khăn tay của anh. Nếu khăn bằng lụa thì càng haỵ Tùy ý anh muốn có một loại hương thơm nào, thì mùi hương đó sẽ được đem đến cho anh chỉ bằng một cái kính phóng đại và ánh sáng mặt trời dùng làm phương tiện.
Cũng may trong lúc đó tôi có mang theo một chiếc khăn tay bằng lụa, tôi liền đưa cho vị pháp sự Người lấy ra một cái kính phóng đại nhỏ và giải thích rằng người muốn thâu ánh sáng mặt trời, nhưng vì vị trí của mặt trời trong lúc đó bị mái nhà che khuất nên không thể thâu một cách trực tiếp. Tuy nhiên, người có thể vượt qua sự chướng ngại đó bằng cách cho một người đệ tử ra đứng ngoài sân, người này sẽ dùng một mảnh kính thường và rọi ánh nắng vào phòng xuyên qua một cửa sổ.
Vishudha tuyên bố:
- Bây giờ tôi sẽ thâu mùi hương ở trong không khí. Anh muốn thứ hương thơm nào...
- Tôi muốn có mùi hoa lài.
Y cầm cái khăn tay của tôi bên tay trái, và tay mặt cầm cái kính phóng đại đưa lên. Trong khoảng hai giây đồng hồ, một tia nắng rọi lên góc chiếc khăn lụa. Kế đó, người bỏ kính ra và đưa cái khăn cho tôi. Tôi đưa lên mũi ngửi, thì rõ ràng là mùi thơm nồng của hoa lài đượm trên một góc của chiếc khăn.
Tôi xem kỹ cái khăn nhưng không thấy có dấu ướt và không có bằng chứng gì chỉ rằng một thứ dầu thơm lỏng đã được nhểu lên đó. Tôi rất ngạc nhiên và nhìn vị pháp sư với một vẻ hoài nghị Người đề nghị biểu diễn lại một lần nữa.
Lần thứ hai, tôi chọn mùi hoa hường. Tôi chăm chú nhìn cuộc thí nghiệm lần này. Tôi dò xét tỉ mỉ mọi cử chỉ của y, và những gì xảy ra ở chung quanh. Tôi quan sát hai bàn tay và chiếc áo trắng của người đang mặc với cặp mắt tò mò, nhưng không thấy có gì khả nghị Người lập lại cuộc biểu diễn như lần trước, và tạo nên cái mùi hoa hường thõm phức ở một góc khác của cái khăn.
Lần thứ ba tôi chọn mùi hoa tím. Lần này người cũng thành công như những lần trước. Vishudha có vẻ rất thản nhiên với sự thành công này. Người coi cái trò biểu diễn này dường như một việc tầm thường xảy ra hàng ngày, không hề nở một nụ cười.
Thình lình người tuyên bố:
- Bây giờ đến lượt tôi chọn mùi hương. Tôi sẽ tạo nên mùi hương của một thứ hoa chỉ mọc ở bên xứ Tây Tạng.
Người thâu ánh nắng mặt trời lên góc cuối cùng của chiếc khăn taỵ Lần này người tạo ra một mùi thơm thứ tư, mà tôi không biết là mùi hoa gì.
Hơi ngạc nhiên, tôi bèn đút chiếc khăn tay của tôi vào túi. Việc này có lẽ dường như là một phép lạ. Hay là người dấu những loại dầu thơm này trong người chăng... Hoặc trong áo chăng... Nếu như thế, thì chắc người phải dấu tất cả một lô rất nhiều thứ dầu thơm, bởi vì y không thể biết tôi sẽ chọn thứ mùi hoa nào. Chiếc áo dài đang mặc không thể nào chứa đựng hết cả một lô đủ những dầu thơm cần thiết, vả lại người không hề đút tay vào áo một lần nào.
Tôi xin người cho tôi xem cái kính phóng đại. Đó chỉ là một loại kính phóng đại thường, lồng trong một cái khung thép tròn với một cái bàn nhỏ cũng bằng thép. Tôi không thấy có gì khả nghi, ngoài ra, không phải chỉ có một mình tôi dò xét từng cử chỉ của vị Pháp Sự Chung quanh người còn có khoảng sáu người đệ tử. Vị bác sĩ đã cho tôi biết rằng tất cả đều là những người có địa vị, có học thức rộng và chức nghiệp cao. Người dùng thuật thôi miên chăng... Điều này có thể thử biết được, khi về nhà, tôi sẽ đưa cái khăn cho những người khác xem.
Vishudha còn định cho tôi xem một phép thuật khác kỳ diệu hơn, tuy rằng phép thuật này người ít khi nào biểu diễn cho người khác xem, người cho biết thêm rằng, để biểu diễn cái trò thứ hai này sẽ cần có ánh mặt trời nắng gắt. Khi đó mặt trời đã sắp lặn và trời sắp tối. Tôi phải đến lần sau vào lúc giữa trưa của một ngày cuối tuần, người sẽ trổ phép thuật làm cho một sinh vật đã chết tạm thời sống lại được.
Tôi bèn kiếu từ và trở về nhà, tôi đưa cái khăn tay cho ba người xem. Mỗi người đều nhận thấy rằng nó vẫn còn tiết ra những mùi thơm nồng nặc. Như vậy, không có thể nói rằng tôi đã bị thôi miên. Và tôi cũng không thể coi cuộc biểu diễn vừa qua như một trò quỷ thuật.
Tôi trở lại nhà vị pháp sư lần nữa. Người cho tôi biết rằng người có thể làm cho một sinh vật đã chết phục hồi sự sống trở lại được, nhưng chỉ có loài vật nhỏ mà thôi, và thường thì thí nghiệm với một loại chim.
Một con chim sẻ được bóp cổ chết và đặt trước mặt chúng tôi độ một tiếng đồng hồ, để cho chúng tôi thấy rõ là nó đã chết thật. Đôi mắt của nó không còn chớp, toàn thân nó đã cứng đơ không chút cử động, tôi không thấy dấu hiệu gì chỉ rằng nó còn sống.
Vị pháp sư lấy kính phóng đại và rọi một tia nắng mặt trời vào một mắt của con chim. Vài phút trôi qua, không có sự gì xảy ra. Pháp sư chăm chú làm việc, người mở đôi mắt lớn và tập trung nhãn lực vào con chim, nét mặt lạnh lùng và cương nghị. Thình lình, người mở miệng thốt ra những câu thần chú kỳ dị bằng một thứ tiếng nghe rất lạ tai. Sau đó một lát, thân mình con chim đã bắt đầu giật vài cái. Kế đó, cánh và lông của nó hơi giương lên, nó bắt đầu đập hai cánh, đứng dậy trên hai chân và nhảy vài cái trên sàn gạch. Nó đã sống lại, không còn nghi ngờ gì nữa.
Trong giai đoạn kế đó, con chim sẻ đã có đủ sức bay bổng và tìm chỗ cao để đậu. Thật là một chuyện khó tin đến nỗi tôi phải thâu thập tinh thần để biết chắc rằng tôi đang thức tỉnh chứ không nằm mợ Cuộc thí nghiệm diễn ra độ nữa giờ. Thình lình tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy con chim ngã xuống không cựa quậy ở ngay trước mặt chúng tôi. Tôi nhìn kỹ thì thấy nó không thở nữa và đã chết thật. Tôi hỏi:
- Pháp sư có thể kéo dài sự sống của nó lâu hơn nữa được không...
Người đáp:
- Đó là tất cả những gì tôi có thể cho anh xem trong buổi hôm nay.
Vị bác sĩ kề tai nói nhỏ với tôi rằng pháp sư sẽ còn biểu diễn những phép thuật lạ lùng hơn nữa, nhưng chúng ta không nên lạm dụng lòng tốt của người trong lúc này, pháp sư không phải là một nhà làm trò ảo thuật, và tôi hãy thỏa mãn với những gì tôi đã thấy. Điều này càng làm cho câu chuyện trở nên bí mật thêm đối với tôi, và rốt cuộc tôi chẳng hiểu được gì cả.
Tôi cũng được biết rằng pháp sư có thể làm xuất hiện những chùm nho tươi từ trong khoảng không, và làm những viên kẹo ngọt với hai tay không mà thôi. Người chỉ cần nắm trong lòng bàn tay một cái hoa đã héo, cũng đủ làm cho nó tươi tốt thơm tho trở lại như cũ.
Vị pháp sư có cái bí quyết như thế nào... Tôi thử tìm hiểu vấn đề này, nhưng vẫn không tìm ra được câu giải đáp. Sự bí mật vẫn còn đó ở sau cái trán vồ và bí hiểm của vị pháp sư thành Ba Nại Lạ Người chưa hề tiết lộ sự bí mật đó cho ai, chí đến người đệ tử thân tín nhất. Sau một cuộc điều tra kín đáo về cuộc đời của người, tôi đã thu thập được những chi tiết như sau:
Người sinh ở tỉnh Bengale, năm mười ba tuổi bị rắn độc cắn sắp chết. Người mẹ đã tuyệt vọng và muốn cho người đến trút linh hồn ở bờ sông Hằng, bởi vì đối với người Ấn Độ, thì không có cái chết nào tốt đẹp và thiêng liêng hơn nữa. Người ta trầm mình y xuống sông trong khi tất cả gia quyến đều tề tựu trên bờ sông để làm lễ tống táng. Sự mầu nhiệm xảy ra khi đó. Mỗi khi xác y bị trầm mình xuống sông, thì nước sông lại rút xuống dường như sông Hằng từ chối không chịu nhận lãnh xác đứa trẻ trong dòng nước chảy xiết.
Trong khi đó, một người đạo sĩ ngồi trên bờ nhìn thấy việc xảy ra như thế, liền đứng dậy và tiên đoán rằng đứa trẻ này sẽ có một định mệnh lớn lao, vì nó sẽ trở nên một người Yogị Người đạo sĩ liền thoa vết thương của đứa trẻ với một vài loại cỏ thuốc, và liền ra đi. Một tuần lễ sau, người trở lại và nói cho cha mẹ đứa trẻ biết rằng nó đã bình phục. Quả nhiên đứa trẻ hết bịnh và mạnh khỏe như xưa. Nhưng trong tuần lễ đó, một chuyện lạ đã xảy ra:
Tánh tình đứa trẻ bỗng nhiên thay đổi, người chán ngán cảnh sống trong gia đình, và chỉ muốn bỏ nhà ra đi để trở thành một đạo sĩ. Vài năm sau, sau khi đã dày vò mẹ người về ý nghĩ này, người được mẹ ưng thuận chọ Người bèn ra đi để tìm Thầy học Đạo.
Người thẳng đường đi sang Tây Tạng để hy vọng tìm một danh sư trong số những nhà đạo sĩ ẩn dật ở xứ này. Người Ấn Độ vẫn luôn tin tưởng rằng người học đạo chỉ có thể tiến mau trên đường tu luyện bằng cách trở nên đệ tử của một vị danh sư đã có kinh nghiệm trên con đường này. Người thiếu niên Begali sau khi đã tìm tòi lục lạo khắp các nơi non cao động cả, đương đầu với những cơn bão tuyết dữ dội trên miền sõn cước tuyết phủ quanh năm đành chịu thất vọng trở về tay không.
Nhiều năm đã trôi qua mà không làm giảm sút lòng nhiệt thành của người. Người bèn ra đi lần nữa và lần này, đi băng qua những vùng sa mạc bao la ở miền Nam xứ Tây Tạng. Tại đây, trong một chòi tranh ẩn khuất trong động đá của miền núi non hẻo lánh hoang vu mà chân người không hề đi đến, người đã gặp vị danh sư vẫn hằng tìm kiếm. Đến đây tôi nghe một chuyện mà lúc khác có lẽ tôi đã bật cười, nhưng lúc này tôi chỉ nghe mà không phản đối.
Người ta quả quyết với tôi rằng vị danh sư Tây Tạng này đã có trên một ngàn hai trăm tuổi. Họ nói điều này một cách tự nhiên và bình thản cũng như chúng ta nói rằng một người kia đã bốn mươi tuổi. Đây là lần thứ ba mà tôi nghe nói về những người sống lâu. Brama đã từng quả quyết với tôi rằng sư phụ Ở xứ Nepal đã trên bốn trăm tuổi. Một vị tu sĩ khác mà tôi gặp ở miền Tây một ngày kia có cho tôi biết rằng có một ngàn tuổi, và già đến nỗi hai mí mắt trên của ông ta lâu ngày chảy xệ xuống che lấp cả đôi mắt.
Tôi đã gạt bỏ những chuyện trên đây như là những chuyện hoang đường, thì hôm nay người ta lại thuật cho tôi nghe một câu chuyện tương tự, và tin tưởng rằng những vị đạo sĩ già nọ đã tìm ra được thuốc trường sinh.
Vị danh sư Tây Tạng liền truyền dạy cho chàng thanh niên Vishudha học pháp môn Hatha Yogạ Dưới sự chỉ dẫn của Thầy, người thanh niên này lần lần tập luyện và phát triển những khả năng thể xác và tinh thần đến một mực độ phi thường. Trong mười hai năm, không quản thời tiết khắc nghiệt trên miền núi ở Tây Tạng, người gắng công tập luyện dưới sự dìu dắt của vị danh sư đã nắm được cái bí quyết của thuật trường sinh.
Sau thời kỳ huấn luyện, người được Thầy cho xuống núi trở về quê nhà, và đến lượt người trở nên một danh sư của pháp môn Yogạ Người lưu trú một thời gian ở tỉnh Puri và có một biệt thự Ở tại đây.
Những đệ tử của người đều thuộc về thành phần thượng lưu trong xã hội, gồm những tay phú thương, nghiệp chủ, công chức cao cấp, trong số đó có cả một vị vương tước (Rajah). Nếu tôi không lầm thì hình như người ta không khuyến khích sự nhập môn của những kẻ bạch đinh tay trắng.
Thình lình tôi buộc miệng hỏi:
- Pháp sư làm những phép thuật ấy bằng cách nào...
Vishudha thản nhiên đáp:
- Những điều anh đã thấy không phải là thuật Yoga, mà là thuộc về một khoa học huyền bí gọi là khoa Thái Dương Học. Mục đích chính của khoa Yoga là phát triển ý chí và tinh thần, chứ không có dính dáng gì đến khoa Thái Dương Học. Khoa này gồm có những bí thuật mà sự thực hành không cần bắt buộc phải trải qua một sự huấn luyện đặc biệt nào. Người ta có thể học khoa này bằng những phương tiện giống như bất cứ ngành khoa học nào của Tây phương.
Báv sĩ Kavir giải thích cho tôi biết rằng khoa học này cũng gần giống như khoa điện học hay khoa từ điển. Tôi không hiểu được bao nhiêu, thì vị pháp sư lại nói rõ thêm:
- Khoa Thái Dương Học của Tây Tạng thật ra không phải là mới lạ gì. Những nhà đạo sĩ Ấn Độ đã từng biết nó từ những thời đại quá khứ xa xăm nhất, nhưng ngày nay, nó đã bị mai một và thất truyền. Những tia nắng mặt trời có chứa đựng những nguồn sinh lực rất mạnh. Nếu anh có thể chọn lọc và cô lập những nguồn sinh lực đó, anh sẽ làm được những phép thuật mà tôi đã làm. Trong ánh sáng mặt trời, cũng có những mãnh lực thuộc chất dĩ thái, mà người nào biết cách sử dụng sẽ làm được những điều phi thường.
- Pháp Sư có dạy khoa này cho các đệ tử chăng...
- Chưa, nhưng tôi đang chuẩn bị việc đó, tôi sẽ chọn lựa vài người đệ tử để truyền dạy những bí thuật của tôi. Hiện thời chúng tôi đang bận xây cất một phòng thí nghiệm lớn để làm giảng đường dạy về khoa này.
- Nhưng hiện giờ Pháp Sư dạy về môn gì...
- Pháp môn Yoga.
Trong phòng chỉ có vài ba người đệ tử còn ở lại, những người khác đã lần lượt kiếu từ. Bác sĩ Kavir ngồi bên cạnh tôi và chăm chú nhìn Thầy một cách tôn kính. Vishudha nhìn tôi và day mặt qua chỗ khác, gương mặt của người có một vẻ tôn nghiêm khác thường. Tôi thử tìm cách cảm thông với cái nét mặt nghiêm nghị đó, nhưng vô hiệu quả. Tâm hồn của người vẫn khép chặt đối với một người Âu như tôi, chẳng khác nào như Thánh Điện thâm nghiêm của ngôi Đền Vàng ở Ba Nại La! Con ngươi của người toát ra một mãnh lực thần bí của phương Đông, và tôi cảm thấy rõ rệt rằng từ khi mới gặp nhau lần đầu, người ta đã dựng lên một bức rào cách biệt vô hình mà tôi không thể vượt quạ Những cuộc biểu diễn phép thuật mà người đã làm cho tôi xem chẳng qua chỉ là một phép xã giao lịch sự bề ngoài:
ở đây không phải là chỗ của những kẻ tò mò và những người đệ tử Âu Tây.
Bỗng nhiên, Pháp Sư thốt ra mấy lời thật là bất ngờ đối với tôi:
- Tôi không truyền pháp cho anh nếu không có sự chuẩn y của Tôn Sư tôi. Đó là điều kiện cần thiết hơn hết.
Người đã đọc được tư tưởng của tôi chăng, hay là người muốn nói gì... Tôi không hề xin làm đệ tử của pháp sư bao giờ. Tôi cũng không hề có ý muốn làm đệ tử bất cứ người nào. Vả lại, tôi cũng biết rằng một sự yêu cầu như thế chắc chắn là sẽ bị từ chối. Tôi bèn hỏi:
- Nhưng làm sao ông có thể tiếp xúc với lệnh Tôn Sư trong khi người ở cách xa như thế...
- Chúng tôi vẫn giao tiếp thường xuyên với nhau bằng tư tưởng.
Tôi nghe rõ, nhưng tôi không tin tưởng cho lắm. Một câu hỏi khác đến trên môi của tôi:
- Thưa Pháp Sư, làm sao có được sự Bằng An...
- Nếu không thực hành pháp môn Yoga, thì làm sao có được sự Bằng An.
- Tôi nghe nói rằng Yoga là một môn học rất khó nếu không có Thầy dìu dắt. Nhưng tìm Thầy cũng là một việc không phải là điều dễ.
Pháp Sư thản nhiên đáp:
- Nếu người đệ tử sẵn sàng thì Thầy sẽ xuất hiện.
Tôi tỏ sự nghi ngờ về điểm này. Người nói tiếp:
- Anh hãy tự chuẩn bị sẵn sàng, sau đó, dầu là anh ở đâu, Thầy sẽ có ở đó, nếu không phải bằng thể xác thì tất là người sẽ hiện ra trong tâm giới của anh.
- Nhưng trong trường hợp sau này, tôi phải làm sao...
- Anh hãy dành riêng mỗi ngày một ít thời giờ để tập lấy thế ngồi rất giản dị mà tôi sẽ làm cho anh xem. Đồng thời, anh hãy tập chế ngự tánh nóng giận, giảm bớt những xúc cảm và thất tình lục dục.
Vishudha biểu diễn cho tôi xem thế Liên Hoa tọa bộ mà tôi đã quen thuộc. Điều mà tôi không hiểu là người nói rằng nó rất giản dị. Tôi nói:
- Đối với một người Âu đã lớn tuổi, tôi nhận thấy rằng thế ngồi này rất khó thực hành.
- Chỉ khó khi mới bắt đầu mà thôi, anh hãy thử tập mỗi buổi sớm mai và chiều, rồi anh sẽ thấy dễ lần lần. Điều quan trọng là hãy chọn lấy một giờ khắc nhất định rồi cố gắng giữ đúng giờ mỗi ngày. Lúc đầu, tập năm phút cũng đủ, sau một tháng anh hãy tập ngồi mười phút, sau ba tháng ngồi hai mươi phút và cứ tiếp tục như thế. Xương sống phải giữ cho thẳng. Phép ngồi này sẽ giúp cho anh có được sự thăng bằng thoải mái của thể xác, rồi sau đó anh sẽ cảm thấy thần trí được yên ổn vững vàng.
- Chắc là Pháp Sư dạy môn Hatha Yoga (luyện xác thân)...
- Đúng thế, nhưng anh đừng tưởng rằng môn Raja Yoga (luyện tinh thần) là cao hơn. Thể chất và tâm linh là hai khía cạnh khác nhau trong con người và cần phải luyện tập hết cả hai. Xác thể ảnh hưởng đến tinh thần, và tinh thần cũng ảnh hưởng đến thể xác. Về phương diện thực hành, cần phải phát triển hết cả hai khía cạnh đó.
Tôi cảm thấy rằng tôi không còn lãnh hội được thêm điều gì nữa. Cuộc đàm thoại thiếu hào hứng, và tôi định kiếu từ, nhưng tôi còn hỏi thêm một câu cuối cùng:
- Pháp Sư đã khám phá ra thế nào là mục đích của đời người chăng...
Các đệ tử liền quên sự nghiêm trang của họ trong một lúc và mỉm cười về sự quá đơn sơ của tôi. Phải là một người Ấn vô tín ngưỡng và không biết gì cả mới đưa ra một câu hỏi như thế. Phải chăng tất cả những Thánh Kinh Ấn Độ đều nói rằng Thượng Đế nắm toàn cõi thế gian trong tay Ngài và điều khiển nó theo mục đích và ý muốn của Ngài...
Pháp Sư không đáp lại, nhưng đưa mắt nhìn bác sĩ Kavir, người này liền trả lời:
- Tự nhiên là đời người có mục đích, đó là đạt tới sự Toàn Thiện, tức là hợp nhất với Thượng Đế.
Tiếp theo đó là một sự im lặng hoàn toàn. Vishudha lật những trang của một quyển sách lớn viết bằng chữ Bengalị Những đệ tử ngồi yên lặng, dường như đã ngủ hay ngồi thiền. Một mãnh lực vô hình có một ảnh hưởng lạ lùng đã xâm chiếm lấy tôi, tôi cảm thấy rằng nếu tôi ngồi nán lại thêm ít lâu nữa, có lẽ tôi sẽ ngủ gật, hay là rơi vào một cơn nhập định. Tôi bèn thu thập tinh thần, ngỏ lời cảm ơn Pháp Sư và đứng dậy kiếu từ.
Một lần nữa, tôi lại đi bách bộ qua những con đường nhỏ hẹp cong queo của thành phố Ba Nại La màu sắc rực rỡ, trung tâm tôn giáo cổ kính và thiêng liêng hấp dẫn đủ mọi hạng người trong xã hội. Nếu ở đây người hành hương sùng tín, thì người ta cũng thấy không ít những kẻ bất lương, côn đồ và du đảng, không kể những kẻ sống cuộc đời ký sinh, ăn bám ở các đền chùa hoặc sống nhờ của bố thí của khách thập phương.
Tiếng chuông đền ngân vang, báo hiệu những cuộc lễ về đêm. Màn đêm rủ xuống rất mau chóng dưới một vòm trời xám ngắt. Mặt trời lặn đem đến một tiếng vọng khác:
Từ trên đài cao của một ngôi đền Hồi Giáo, các giáo sĩ ngân vang những lời kêu gọi tín đồ cầu nguyện giờ chiều. Tôi ngồi trên bờ sông Hằng linh thiêng nhìn theo cảnh vật và lắng tai nghe theo ngọn gió chiều thổi vi vu xuyên qua các ngọn cây.
Một người hành khất bôi tro đầy mình tiến đến gần tôi. Đây chắc là một người hành hương thuộc về một loại đặc biệt, vì tôi nhận thấy trong cặp mắt của y chiếu một tia sáng lạ thường không phải là của trần gian. Tôi vẫn chưa hiểu rõ tất cả những gì là huyền bí ở cái xứ ngàn năm văn vật này. Tôi vừa móc túi vừa tự hỏi rằng không biết cái hố sâu cách biệt giữa tôi với y có thể lấp bằng được chăng... Y nhận lấy của bố thí của tôi với một vẻ thản nhiên, đưa hai bàn tay lên trán để chào rồi rút lui.
Tôi nghĩ đến vị pháp sư có phép thuật rút hương thơm trong không khí và phục hồi được sự sống cho con chim đã chết. Sự giải thích về khoa Thái Dương Học của người không đủ thuyết phục được tôi. Lẽ tất nhiên, người ta không thể cho rằng khoa học hiện đại đã biết hết tất cả về ánh sáng mặt trời và những khả năng tiềm tàng của nó, nhưng điều này cũng chỉ lùi thêm một bước trong việc làm sáng tỏ vấn đề. Tôi có nghe nói về hai người Yogi cũng đã rút hương thơm trong không khí như Pháp Sư Vishudhạ Cả hai đều đã qua đời vào cuối thế kỷ trước, nhưng tôi có thể tin được chuyện này. Trong cả hai trường hợp, đều có một chất dầu xuất hiện trên lòng bàn tay của người Yogi, hình như là từ trong thân mình họ bài tiết ra, cũng như chất mồ hôi. Chất dầu này có khi khá đặc để có thể tỏa hương thơm ra khắp phòng.
Cái đó cũng chính là cái quyền năng của Vishudha, thì chắc là y đã chuyển hương thơm từ bàn tay của y sang chiếc khăn trong khi y cầm cái kính phóng đại. Nếu như thế, thì việc thâu ánh nắng mặt trời chỉ là một cái mẹo để che mắt người đời. Có một việc xác nhận giả thuyết này, là vị Pháp Sư chưa truyền cái bí thuật này lại cho ai. Nếu vấn đề dùng kính phóng đại để thâu ánh nắng chỉ là một sự phỉnh lừa thì vị Pháp Sư đã dùng phương pháp nào... Có lẽ đó là phép thuật Yoga chăng... Nhưng đây không phải là việc của tôi. Tôi chỉ có phận sự trình bày những sự việc mà tôi đã thấy, chứ không phải là giải thích căn nguyên của mọi vấn đề. Đây là một khía cạnh bí ẩn của đời sống ở Ấn Độ, nó vẫn khép chặt đối với chúng ta, vì dẫu cho vị pháp sư hay một vị đệ tử nào đó sẵn lòng biểu diễn trước công chúng và kêu gọi sự chú ý của các nhà bác học, thì sự bí mật kia cũng vẫn còn đó. Đó là tất cả những gì người ta có thể nói trong lúc này.
Nhưng còn chuyện kia:
Bằng cách nào y đã phục hồi sự sống cho con chim đã chết... Những chuyện về khả năng kéo dài sự sống tùy theo ý muốn của người Yogi có thật không... Phải chăng ở phương Đông có những người đã tìm ra cái bí quyết trường sinh bất tử...
Tôi đành phải bỏ qua những câu hỏi đó và không màng tìm câu giải đáp. Chiều nay, nhìn không gian bao la vô tận, lòng tôi nao nao bồi hồi. Dưới vòm trời đầy sao, mà đêm nhiệt đới càng làm tăng thêm phần tỏ rạng, tôi nhìn xem những tòa đền đài cung điện, dinh thự chùa chiền ở chung quanh cùng với bao nhiêu người đồng loại của tôi đang sống trong đó, mà tự hỏi không biết có mãnh lực vô hình huyền bí nào làm vận chuyển tất cả những thứ ấy trong sự sinh hoạt thường xuyên hàng ngày... Những vật tầm thường nhất đêm nay cũng đượm lấy một màu sắc huyền ảo, những hình người ẩn hiện chập chờn như những bóng ma, những chiếc thuyền câu lấp lánh ánh đèn dầu lướt nhẹ trên sông trong đêm tối, cảnh vật mơ huyền dưới ánh sao khi mờ khi tỏ làm cho người ta có cảm giác thoát ly ra khỏi cảnh đời thực tế để lọt vào cõi mộng. Tư tưởng triết học Ấn Độ cho rằng thế gian chỉ là một trò hư ảo, đã xâm chiếm lấy tâm hồn tôi đêm nay, và càng gây cho tôi cái cảm giác lâng lâng thoát tục. Phải chăng từ nay tôi đã sẵn sàng bước vào một kinh nghiệm lạ lùng nhất trên địa hạt tâm linh như có người đã tiên đoán...
Trong lúc đó, cái âm điệu mơ buồn của một bài ca Ấn Độ do anh lái đò cất tiếng hát văng vẳng trên dòng sông, kéo tôi ra khỏi giấc mơ thoát trần, và lại đưa tôi trở về cái trò hỗn tạp pha lẫn những thú vui giả tạm và những đau khổ bất ngờ mà người ta gọi là Cuộc Đời!
Những mái bầu trên các ngọn tháp chói rạng và phản chiếu ánh nắng mặt trời ban mai, những người hành hương xuống tắm gội dưới sông nô đùa vui vẻ, và cảnh tượng tưng bừng rực rỡ đầy màu sắc phương Đông của thành phố Ba Nại La trên bờ sông Hằng linh thiêng diễn ra trước mắt tôi. Tôi ngồi trên một chiếc thuyền lớn, cái lái thuyền chạm hình đầu rắn hổ mang, thả trôi theo dòng sông, do ba người chèo.
Người bạn đồng hành ngồi kế bên tôi là một thương gia ở Bombaỵ Y cho tôi biết rằng y có ý định giải nghệ về hưu khi y trở về thành phố này. Y là một người rất mộ đạo nhưng cũng là một người rất thực tế. Trong khi y lo lập công bồi đức để tạo một kho tàng tâm linh quý báu, thì tạm thời y cũng không quên dự trữ một số tiền lớn trong ngân hàng. Tôi được biết y từ một tuần nay và nhận thấy rằng y là một người tốt bụng và tánh tình cởi mở. Y giải thích cho tôi nghe:
- Tôi sẽ về hưu đúng vào năm mà Sudhei Babu đã tiên đoán cho tôi biết.
Tôi hỏi:
- Sudhei Babu là ai vậy...
- Ông không biết sao... Y là một nhà Chiêm Tinh giỏi nhất của thành Ba Nại La.
- Có thế thôi à...
Tôi nói với một giọng châm biếm. Vì tôi đã từng thấy hạng người thầy bói ngồi xổm trên lề đường ở khu Maidan tại Bombay, trong những lều quán ở Calcutta, và đón khách qua đường ở những thành phố nhỏ. Phần nhiều là những người có vẻ bẩn thỉu, đầu tóc rối nùi, gương mặt họ lộ vẻ ngu xuẩn và mê tín. Đồ nghề của họ gồm có một vài quyển sách bói cáu bẩn và một cuốn niên lịch chứa đầy những dấu hiệu bí mật, khó hiểu. Họ tự hào là có thể biết rõ và định đoạt vận mệnh sang hèn của người khác, nhưng dường như không nhận thấy rằng họ lại không định đoạt được vận mạng của chính mình.
Tôi nói thêm, với cái giọng của người biết chuyện và khuyên răn kẻ khác:
- Ông làm tôi ngạc nhiên. Một thương gia tại sao lại phó mặc cho các bầu tinh tú điều khiển công việc kinh doanh của mình... Sao lại không dùng cái trí óc suy xét, phân biện, chẳng là hay hơn sao...
Người bạn tôi lắc đầu và mỉm cười một cách khoan dung:
- Nếu vậy, làm sao giải thích được những gì ông ta đã tiên đoán về tôi... Làm sao ông ta có thể biết trước rằng tôi sẽ giải nghệ về hưu vào năm bốn mươi mốt tuổi...
- Có lẽ đó là do sự tình cờ.
- Được rồi, nhưng để cho tôi kể cho ông nghe một chuyện. Mấy năm về trước, tôi gặp một nhà Chiêm Tinh ở Lahore và mở một cuộc kinh doanh theo lời khuyên của ông tạ Hồi đó tôi đang chung vốn với một người khác, nhưng người này cho rằng công cuộc kinh doanh quá mạo hiểm, y không chịu hùn và rút vốn lại. Tôi tiếp tục kinh doanh lấy một mình, việc này thành công bất ngờ và đem lại cho tôi một số tiền lời rất lớn. Tuy vậy, nếu không có lời khuyên của nhà Chiêm Tinh ở Lahore, thì có lẽ tôi đã không dám mạo hiểm lãnh lấy công việc đó.
- Như vậy, ông cho rằng...
Người bạn tôi liền nói luôn hết câu thế cho tôi:
- Đời người là do số mạng định đoạt, mà số mạng của mỗi người, giàu hay nghèo, sang hay hèn, hay hay dở, đều được chỉ định trước bởi vị trí của các ngôi sao.
Tôi nói với một giọng hoài nghi:
- Nhưng các tay thầy bói mà tôi đã gặp đều là những kẻ dốt nát và ngu xuẩn đến nỗi tôi không thể nào tin được những lời bói toán và tiên tri của họ.
- Có lẽ, nhưng ông đừng lầm một nhà Chiêm Tinh lành nghề và xuất sắc như Sudhei Babu với những tay thầy bói kiếm cơm. Ông đã gặp phải những tay bịp bợm rồi. Còn đây là một người Bà La Môn thượng lưu trí thức, y ở riêng một cái biệt thự hẳn hòi. Y đã từng khảo cứu công phu về khoa này từ nhiều năm nay và có nhiều bộ sách rất cổ xưa và rất hiếm.
Dầu sao người bạn đồng hành của tôi cũng không phải là một người ngụ Y thuộc về hạng người Ấn Độ tân tiến, có óc thực tế, và biết sử dụng những phát minh khoa học mới mẻ nhất của Âu Tây. Y còn cấp tiến hơn tôi ở một vài điểm:
Y mang theo lên thuyền một cái máy quay phim chớp bóng rất đẹp, còn tôi chỉ có một cái máy chụp ảnh Kodak bỏ túi. Tên gia nhân của y cầm một cái bình thủy Thermos rót ra cho chúng tôi những ly nước cam mát rượi uống giải khát, làm cho tôi nhớ lại rằng tôi đã quên đem theo một vật dụng rất cần thiết trong khi đi đường. Trong khi nói chuyện, tôi được biết rằng ở Bombay, y thường dùng máy điện thoại nhiều hơn tôi khi còn ở Âu Châu. Tuy thế, y lại tin tưởng nơi khoa Chiêm Tinh, tôi lấy làm ngạc nhiên về những điểm trái ngược và dị đồng trong tâm tính của ỵ Tôi nói:
- Chúng ta hãy tìm hiểu nhau. Ông bạn tin rằng cuộc đời của mỗi người và mỗi cuộc diễn biến trên thế giới đều được định đoạt bởi các bầu tinh tú, cách xa Trái Đất hằng muôn triệu dặm hay sao...
- Phải, tôi tin như vậy. Y trả lời một cách bình thản.
Tôi nhún vai và không biết nói sao. Y nói tiếp:
- Sao ông bạn không đi xem thử một lần cho biết... Tục ngữ xứ ông có câu:
"Muốn biết bánh ngon hay không, hãy nếm thử. " Ông bạn hãy thử nghe lời tiên tri của Sudhei Babu một lần xem nào, chính tôi cũng không tin những anh thầy bói nói dựa, nhưng tôi hoàn toàn tin tưởng nơi tài tiên tri của ông này.
- Tôi rất nghi ngờ những kẻ sống về nghề bói toán hay tướng số. Tuy nhiên, tôi nghe theo lời ông. Vậy ông có vui lòng đưa tôi tới gặp nhà Chiêm Tinh này chăng...
- Tự nhiên là tôi vui lòng. Vậy mời ông bạn tới dùng trà với tôi chiều mai, rồi chúng ta sẽ cùng đi.
Chúng tôi cho thuyền đi từ từ trên dòng sông. Trên bờ, những tòa lâu đài, dinh thự, đền chùa nối tiếp nhau diễn ra trước mắt chúng tôi. Tôi nhìn xem những bực đá dọc theo bờ sông, đầy những người hành hương xuống tắm gội, nhưng trí óc tôi vẫn vơ ở chỗ khác. Tôi nghĩ rằng nếu khoa học có thể tự hào đã loại trừ sự dị đoan mê tín, thì một mặt khác, nó cũng không ngăn cấm sự tìm tòi tọc mạch để tìm hiểu mọi vấn đề. Nếu ông bạn tôi có thể đưa ra những bằng chứng cụ thể về sự thật của khoa lý số, nó làm cho phần đông người Ấn Độ tin tưởng ở định mệnh, thì tôi sẽ nghiên cứu vấn đề này với một tinh thần cởi mở và không thành kiến.
Qua ngày hôm sau, ông bạn của tôi đưa tôi đến một con đường cũ kỹ, chật hẹp, đi xuyên qua hai dãy nhà nóc bằng. Chúng tôi ngừng trước một ngôi nhà cổ xưa xây bằng đá. Y đưa đường cho tôi đi qua một hàng lang tối tăm và thấp, kế đó chúng tôi lên nhiều nấc thang bằng đá, thang này rất nhỏ hẹp, chỉ vừa một người đi lọt. Chúng tôi đi qua một gian phòng nhỏ và kế đó, đến một hàng ba của một cái sân rộng ở chính giữa, ngôi biệt thự xây chung quanh.
Một con chó lớn sủa dữ dội khi nó nhìn thấy chúng tôi đến gần. Những chậu kiểng sắp thành hàng dọc theo hàng bạ Tôi tự hỏi phải chăng nhà Chiêm Tinh chơi kiểng để giải trí sau những giờ phút khảo cứu mệt nhọc về khoa lý số của ông ta...
Ông bạn tôi cất tiếng gọi vào trong nhà, và chỉ được đáp lại bằng những âm hưởng do những vách tường cũ dội lại tiếng gọi của ỵ Chúng tôi đợi thêm vài phút. Con chó lại càng sủa dữ dội hơn trước, trong nhà vẫn im lặng dường như một cái nhà hoang vô chủ. Tôi bắt đầu nghĩ rằng chuyến đi hôm nay chắc là vô ích thì nghe có tiếng chân người từ trên thang lầu bước xuống và tiến về phía cửa phòng chúng tôi.
Một người mảnh khảnh, một tay cầm cái đèn cầy và một tay cầm xâu chìa khóa, hiện ra trên ngưỡng cửa. Sau vài câu chuyện trao đổi qua lại trong bóng tối, nhà Chiêm Tinh lấy xâu chìa khóa mở một cánh cửa khác và chúng tôi cùng bước vào. Y lấy tay kéo hai tấm màn lớn và mở một cái cửa sổ ngó ra sân.
Ánh sáng rọi qua cửa sổ chiếu vào gương mặt của nhà Chiêm Tinh. Đó là một người có cái gương mặt xanh xao, thiếu máu dường như là người ở dưới nấm mồ mới chui lên, chỉ có cặp mắt chiếu sáng ngời, phản ảnh một đời sống nội tâm dồi dào. Cái hình dáng như xác chết, sự gầy ốm khác thường, những cử chỉ rất mực chậm chạp của y, gây nên một cái ấn tượng rất lạ lùng cho người chung quanh. Tròng trắng của y lại nhiều hơn tròng đen, điều này lại càng làm nổi bật thêm cái ấn tượng nói trên một cách rõ rệt.
Nhà Chiêm Tinh ngồi bên một cái bàn lớn, trên bàn tay có rất nhiều tờ giấy. Y nói tiếng Anh khá, và bằng lòng nói chuyện ngay với tôi mà không cần một người thông ngôn. Tôi nói ngay vào đề:
- Xin ông hiểu cho, tôi chỉ là một người sưu tầm, chứ không phải là người tin về khoa này.
- Được, tôi sẽ lấy lá số cho ông và ông sẽ cho tôi biết là có đúng không.
- Tôi phải trả ông bao nhiêu...
- Tôi không có giá nhất định. Những người có địa vị khá thường trả tôi sáu chục rupeẹ Những người khác trả tôi hai chục. Cái đó tùy ông.
Tôi nói cho y biết rằng trước khi nói đến vận mạng tương lai, tôi muốn y nói cái dĩ vãng để thử tài ỵ Y bằng lòng. Trong một lúc, y ngồi tính toán rất tỉ mỉ về ngày sinh của tôi, sau vài phút, y day lại phía sau ghế của y và lục trong giấy tờ và những tài liệu chép bằng bút tự trên lá buông đã trổ màu vàng. Sau cùng, y lấy ra một mớ là buông nhỏ, tròn dài và rất cũ, đã đóng lại hình như một quyển sách và vẽ trên một tờ giấy một bức đồ hình rất lạ:
- Đây là bản đồ các tinh tú trên trời vào đúng giờ sinh của ông. Và những tài liệu chữ Phạn này giải thích ý nghĩa của mỗi phần trong lá số. Bây giờ tôi sẽ cho ông biết các tinh tú nói gì về ông.
Y xem lá số lại rất kỹ, tra cứu tài liệu trong quyển sách lá buông chép bằng bút tự và nói bằng một giọng trầm trầm:
- Ông là một nhà văn từ Châu Âu đến. Có phải chăng...
Tôi gật đầu. Y nói tiếp theo về thưở thiếu thời của tôi và kể thêm vài sự việc quan trọng đã xảy ra trong thời kỳ đó. Trong tất cả bảy điều quan trọng có năm điều đúng, còn hai điều kia hoàn toàn sai.
Như thế, tôi đã có thể xét giá trị của y tới đâu, còn nói về sự thành thật của y thì điều đó đã hiển nhiên, tôi dám chắc rằng y không bao giờ có ý lừa dối ai cả. Một cuộc thí nghiệm đầu tiên với một kết quả mỹ mãn đến bảy mươi lăm phần trăm cũng đủ để kết luận rằng khoa Chiêm Tinh Ấn Độ đáng được người ta sưu tầm, nhưng nó cũng chỉ rằng đó không phải là một khoa học hoàn toàn đúng đắn.
Một lần nữa, Sudhei Babu lại lục trong đống giấy tờ rải rác của y và miêu tả tánh tình của tôi một cách khá đúng. Kế đó, y nói về những khả năng trí thức của tôi nó đã giúp cho tôi theo đuổi nghề văn. Đến đây, y ngẩng đầu lên và hỏi:
- Tôi nói có đúng không...
Tôi phải biểu đồng tình và không thể chối cãi những lời đoán số của ỵ Y lại nhìn vào lá số và nói về tương lai:
- Thế giới sẽ là nhà của ông. Ông sẽ đi du lịch khắp nơi, luôn luôn với cây bút trong tay, và sống với nghề nghiệp văn chương.
Y nói luôn một hồi về những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Nhưng tôi không hề xét đoán những lời này, và hãy để đó, để chờ thời gian xác nhận những điều đã được... Viết trên tinh tú.
Sau khi đã nói xong, y lại hỏi tôi rằng có được hài lòng hay chăng... Những lời y đoán khá đúng về dĩ vãng và tánh tình của tôi đã làm cho tôi định thốt ra trước khi đến đây. Tôi tự hỏi:
"Phải chăng y chỉ nói càn, cầu may mà thôi... Phải chăng y không làm gì khác hơn là phỏng đoán, rồi cứ nói bừa đị" Nhưng tôi phải thú nhận rằng những lời tiên tri của y đã làm cho tôi ngạc nhiên, tuy thế, chỉ có thời gian mới có thể xác nhận những điều đó.
Còn cái thái độ hoài nghi của tôi đối với vấn đề định mệnh, phải chăng lần này nó sẽ sụp đổ dưới chân tôi như một cái lâu đài bằng cát... Tôi có thể nói gì về vấn đề này... Tôi bước đến gần cửa sổ, đứng nhìn ra ngoài một lúc để tìm những câu hỏi mà tôi có thể chất vấn nhà Chiêm Tinh, nhưng y đã nói trước:
- Hay là ông cho rằng các bầu tinh tú ở cách xa Trái Đất bằng một quãng không gian khá lớn, nên không thể có ảnh hưởng gì đối với chúng ta chăng... Nếu vậy, làm sao có thể giải thích ảnh hưởng của Mặt Trăng đối với nước thủy triều lên xuống, ảnh hưởng của mỗi chu kỳ Mặt Trăng đối với cơ thể của người đàn bà, và phải chăng ánh nắng Mặt trời nhiều hay ít cũng ảnh hưởng đến tình cảm vui buồn của con người...
- Đúng vậy, nhưng bấy nhiêu đó cũng chưa đủ để chứng minh cho khoa lý số. Nếu tôi có bị đắm tàu chết đuối hay không, thì việc ấy có ăn thua gì đến Mộc Tinh hay Hỏa Tinh.
Y nhìn tôi với một vẻ mặt thản nhiên:
- Tốt hơn là ông hãy xem các bầu tinh tú như là những biểu tượng ở trên Trời mà thôi, không phải tinh tú có ảnh hưởng gì đến chúng ta, nhưng chính cái dĩ vãng của chúng ta nó ảnh hưởng đến chúng ta vậy. Ông sẽ không bao giờ hiểu các bí quyết của khoa Chiêm Tinh, nếu ông không chấp nhận thuyết Luân Hồi, theo đó con người tái sinh trở đi trở lại nhiều kiếp ở cõi trần và định mệnh của y theo dõi y trong mỗi kiếp. Nếu y thoát khỏi hậu quả của những ác nghiệp của y trong một kiếp, những nghiệp báo đó sẽ theo dõi y trong một kiếp sau; và nếu y không hưởng được phước lành do kết quả của những nghiệp thiện của y trong một kiếp này thì chắc chắn y sẽ gặt hái những kết quả tốt lành đó trong một kiếp khác. Nếu không có định luật Luân Hồi khiến cho linh hồn con người luôn luôn tái sinh trở lại cõi trần để học hỏi kinh nghiệm và tiến hóa cho đến khi trở nên toàn thiện, thì những điều họa phúc xảy đến trong đời người có vẻ dường như là do sự ngẫu nhiên, tình cờ. Một đấng Thượng Đế rất mực công bình và bác ái làm sao có thể dung túng được điều đó... Không bao giờ. Chúng tôi tin rằng khi một người qua đời, thì tánh tình, dục vọng, tư tưởng và ý chí của y vẫn tồn tại cho đến khi y tái sinh trở lại và khoác lấy một thể xác mới của một đứa hài nhị Những hành vi thiện và ác của y đã gây ra trong kiếp trước sẽ được đền bồi, thưởng phạt trong kiếp hiện tại hay trong những kiếp sau. Đó là sự giải thích của chúng tôi về ý nghĩa của chữ định mệnh.
Khi tôi nói rằng có ngày ông sẽ bị đắm tàu và suýt bị chết đuối, thì đó là cái định mệnh mà Thượng Đế, do định luật công bằng ẩn vi và huyền diệu của Ngài, đã dành cho ông đã gây ra trong một kiếp quá khứ. Không phải là những bầu hành tinh nó làm cho ông bị đắm tàu mà chính là hậu quả không thể tránh khỏi của những việc làm ác trong dĩ vãng. Những bầu tinh tú chỉ có cái tác dụng là ghi nhận này thì điều đó tôi không thể nói được. Không có một người nào có thể dùng cái trí phàm của mình để phát minh ra khoa Chiêm Tinh bao giờ. Khoa này được truyền lại cho chúng ta đã từ lâu, do các đấng Thánh Nhân thời cổ tiết lộ cho nhân loại được biết về định mệnh của đời người.
Tôi ngồi nghe những lời nói hữu lý của nhà Chiêm Tinh, mà không biết phải đối đáp ra sao. Theo y thì đời người thật là nối liền với định mệnh, nhưng có một người Âu nào với một khối óc sáng suốt lành mạnh lại chịu để cho cuộc đời của y hoàn toàn lệ thuộc ở định mệnh mà không sử dụng được cái quyền tự do ý chí của mình... Tôi ngạc nhiên mà nhìn nhà Chiêm Tinh gầy gò, lả lướt và khổ hạnh này, y ngồi tính toán tới lui qua lại trong các cung Hoàng Đạo một cách tự nhiên và quen thuộc như đi trong nhà của ỵ Tôi nói:
- Chắc ông cũng biết rằng ở vài vùng dưới miền Nam, các nhà Chiêm Tinh đứng vào hàng quan trọng bực nhì sau các vị Tăng Lữ, và không có một việc làm quan trọng nào được bắt đầu thực hiện mà người ta không dọ hỏi trước ý kiến của nhà Chiêm Tinh. Những người Âu Tây chúng tôi sẽ mỉm cười về điều đó, vì chúng tôi không hề tin tưởng nơi sự bói toán hoặc tiên trị Chúng tôi chỉ tin rằng con người vốn hoàn toàn tự do chứ không phải là những nạn nhân tuyệt vọng của một cái định mệnh bất di dịch.
Nhà Chiêm Tinh nhún vai mà nói:
- Trong một bộ sách cổ của chúng tôi là sách Hitopadesa có nói rằng:
"Không ai có thể chống lại số mạng, nó đã ghi sẵn trên trán của mỗi người. " Chúng ta phải gánh chịu hậu quả của mọi việc làm của chúng ta.
Tôi vẫn lộ vẻ hoài nghị Nhà tiên tri bỏ ghế đứng dậy. Tôi hiểu ý và liền kiếu từ. Y nói nhỏ dường như nói thầm một mình:
- Tất cả đều ở trong tay của Thượng Đế. Không một ai thoát khỏi tay Ngài. Có ai là người hoàn toàn tự dỏ Dầu cho đi tận chân trời góc bể, chỗ nào mà không có Ngài...
Đến ngưỡng cửa, y nói thêm một cách ngập ngừng:
- Nếu ông muốn trở lại đây lần nữa, chúng ta có thể nói chuyện thêm về vấn đề này.
Tôi cảm ơn và bằng lòng nhận lời mời của ỵ Y liền đáp:
- Được. Tôi sẽ đợi ông chiều mai vào khoảng sáu giờ.
Chiều hôm sau, tôi lại đến nhà của Sudhei Babụ Tôi không có ý nhắm mắt nghe theo tất cả những gì y nói với tôi, nhưng tôi cũng không có lý do để bác bỏ tất cả. Tôi đến để nghe, có thể là để học hỏi, nếu những lời nói của y có thể chứng minh được rõ ràng. Tôi không từ chối một kinh nghiệm, nếu tôi nhận thấy rằng nó có đủ lý do vững chắc. Lá số mà Sudhei Babu lấy cho tôi đã đủ thuyết phục được tôi rằng khoa Chiêm Tinh Ấn Độ không phải là một điều dị đoan, và nó đáng được cho ta khảo cứu và sưu tầm cặn kẽ. Cái thái độ của tôi tạm thời là như thế.
Chúng tôi ngồi ngang nhau nơi bàn viết của ỵ Một ngọn đèn dầu chiếu ánh sáng lờ mờ trong gian phòng. Hằng triệu gia đình ở Ấn Độ hiện thời vẫn còn thắp đèn dầu trong nhà ban đêm. Nhà Chiêm Tinh nói với tôi:
- Nhà tôi có tất cả mười bốn buồng, tất cả đều chứa đầy những sách cổ chép bằng bút tự, phần nhiều bằng chữ Phạn. Đó là lý do vì sao tôi cần dùng một ngôi biệt thự lớn, mặc dầu tôi chỉ sống có một mình. Mời ông hãy xem kho sách của tôi.
Y cầm cái đèn treo trên vách và đưa tôi vào một phòng kế bên. Những tủ lớn được sắp thành hàng chung quanh những vách tường. Tôi nhìn xem một tủ thì thấy chứa đầy những sách và giấy tờ. Trên sàn gạch cũng bày la liệt những giấy má, những bộ sách cổ mà bìa đã trổ màu vàng. Tôi cầm lên một bó lá buông nhỏ, mỗi tờ đều viết đầy những chữ khó hiểu và đã phai màu. Chúng tôi đi từ buồng này sang buồng khác và buồng nào cũng đầy những tủ sách giống như nhau. Kho sách của nhà Chiêm Tinh có vẻ như ở trong một tình trạng hỗn độn, thiếu trật tự, nhưng y cho tôi biết rằng y đã quen thuộc với mỗi quyển sách và mỗi tài liệu và biết chúng nằm ở đâu mỗi khi y cần đến. Tôi có cảm tưởng rằng tất cả kho tàng minh triết của Ấn Độ đều tập trung trong ngôi nhà này. Sau khi đã xem khắp các buồng sách, chúng tôi trở về chỗ cũ. Nhà Chiêm Tinh nói cho tôi biết:
- Tất cả gia tài sản nghiệp của tôi đều tiêu dùng để mua những bộ sách và lá buông bút tự này. Nhiều bộ sách trong đó rất hiếm và mua rất đắt tiền. Vì thế mà bây giờ tôi mới nghèo như thế này.
- Sách đó nói về những vấn đề gì...
- Đó là những sách nói về các vấn đề Đạo Lý và Minh Triết cổ truyền, và có nhiều quyển nói về khoa Chiêm Tinh.
- Nếu vậy, ông cũng là một nhà Triết Học...
Y mỉm cười đáp:
- Một người không hiểu về Triết Lý sẽ là một nhà Chiêm Tinh hạng tồi, hay chỉ là một anh thầy bói hạ cấp.
- Xin ông thứ lỗi cho, tôi thấy ông có vẻ mệt mỏi vì đọc sách nhiều quá. Tôi đã ngạc nhiên vì sắc mặt nhợt nhạt của ông khi tôi đến đây lần đầu.
Y thản nhiên đáp:
- Đó không có gì là lạ. Tôi không ăn đã sáu ngày nay rồi.
Tôi tỏ vẻ lo lắng và hỏi han ân cần. Y nói:
- Không, đó không phải là vấn đề tiền. Chị bếp của tôi thường hay đau yếu luôn. Chị ấy nghỉ ở nhà đã sáu ngày nay rồi.
- Vậy sao ông không tìm một người bếp khác...
Y lắc đầu đáp:
- Không, tôi không thể dùng một người đầu bếp thuộc giai cấp hạ tiện. Thà rằng tôi nhịn ăn luôn một tháng còn hơn. Tôi phải đợi đến khi chị bếp của tôi bình phục trở lại, nhưng có lẽ chị ấy sẽ trở lại trong một hai ngày.
Tôi nhìn kỹ thì thấy y đeo ở cổ sợi dây Thánh, tiêu biểu cho giai cấp "Con của Thần Brahmạ" Sợi dây này kết ba sợi dính liền nhau, được tròng vào cổ của mỗi người Bà La Môn từ khi mới sinh ra, và y đeo luôn suốt đời cho đến lúc chết. Tôi hỏi:
- Sao ông lại chịu khổ thân vì một thành kiến giai cấp như thế... Sức khỏe của ông chẳng phải là quan trọng hơn hay sao...
- Đó không phải là một thành kiến dị đoan. Mỗi người đều có phát ra một thứ từ điện, tuy vô hình nhưng nó vẫn có thật, mặc dầu khoa học Âu Tây chưa khám phá ra. Người đầu bếp làm món ăn phóng từ điện của y vào đồ ăn, mặc dầu y không hay biết chi cả. Một người bếp hạ cấp và tánh tình hèn hạ sẽ ô nhiễm thức ăn với loại từ điện xấu của y, nó sẽ chui vào bụng của người nào ăn những thức ăn đó.
- Đó là một giả thuyết rất lạ lùng.
- Nhưng đó là sự thật.
Tôi nói qua vấn đề khác:
- Ông làm nghề Chiêm Tinh kể từ bao giờ...
- Đã mười chín năm naỵ Tôi làm nghề này sau khi tôi lập gia đình.
- À tôi hiểu.
- Không, tôi không phải là góa vợ. Khi tôi lên mười ba tuổi, tôi cầu nguyện đấng Thiêng Liêng ban cho tôi sự hiểu biết, tôi đã học với nhiều Thầy và đọc nhiều sách vở. Tôi hiếu học đến nỗi tôi thường ngồi đọc sách suốt ngày và thức đến khuya. Cha mẹ tôi cưới vợ cho tôi, vài ngày sau đám cưới, vợ tôi nổi giận với tôi và nói:
"Tôi không phải lấy chồng, mà lấy nhầm một quyển sách! " Sau đó đúng một tuần lễ, nó bỏ nhà trốn đi với người phu xe của chúng tôi.
Nói đến đây y ngừng một lúc. Tôi không khỏi mỉm cười vì câu nói trắng trợn của bà vợ, sự bỏ nhà ra đi của bà ấy chắc hẳn đã gây nên dư luận sôi nổi ở một xứ bảo thủ như Ấn Độ. Nhưng đàn bà thường có một tâm địa ngoắt ngoéo và rất khó lường. Y nói tiếp:
- Đó là một sự xúc động rất lớn cho tôi, nhưng sau một thời gian, tôi cũng nguôi ngoai dần và quên hẳn việc đó. Tôi càng đi sâu vào việc khảo cứu khoa Chiêm Tinh và Đạo Lý cổ truyền. Chính lúc đó, tôi bắt đầu tham khảo môn học cao nhất của tôi là bộ sách Brahma Chinta.
- Sách đó nói về vấn đề gì...
- Cái tựa của bộ sách ấy có thể dịch là Minh Triết Thiêng Liêng, hay là Minh Triết của Trời. Bộ sách này có đến mấy ngàn trang nhưng tôi chỉ khảo cứu có một phần. Tôi đã phí mất hai chục năm mới góp nhặt được có bấy nhiêu đó, vì bộ sách ấy chỉ gồm những phần rời rạc, lẻ tẻ, phải đi tìm ở khắp nơi mới mua được đủ bộ. Sách ấy gồm có mười hai phần chính và nhiều chương phụ, và giảng về những đề tài như Triết Học, Chiêm Tinh Học, Yoga, đời sống bên kia cửa Tử, và những vấn đề thâm sâu khác.
- Sách ấy có bản dịch Anh văn hay chăng...
Y lắc đầu:
- Tôi không nghe nói có bản dịch đó. Dẫu cho người Ấn Độ cũng ít có người được biết về bộ sách này. Từ trước đến nay, nó vẫn được giữ gìn bí mật. Nó vốn xuất xứ từ bên Tây Tạng, ở xứ này nó được xem như một bộ sách Thần, và chỉ có những vị môn đồ chọn lọc mới được phép học bộ sách ấy.
- Sách ấy được viết ra từ bao giờ...
- Bộ sách ấy được viết ra từ hàng mấy ngàn năm nay do nhà Hiền Triết Bhrigu, vị này sống vào thời kỳ cổ xưa đến nỗi không ai biết vào năm nào. Sách ấy dạy về một môn Yoga hoàn toàn khác hẳn với tất cả những pháp môn khác tại Ấn Độ. Ông cũng thích khảo cứu về môn Yoga phải chăng...
- Sao ông biết...
Để đáp lại, Sudhei Babu lẳng lặng đưa ra lá số mà y đã lấy cho tôi, và cầm cây bút chì chỉ vào những dấu hiệu lạ lùng, nó chỉ những vị trí các tinh tú và các cung Hoàng Đạo.
- Là số của ông làm tôi ngạc nhiên. Nó thật là khác thường đối với một người Âu, thậm chí nó cũng khác thường đối với cả người Ấn Độ. Nó chỉ rằng ông có khuynh hướng rõ rệt về đường Đạo, và ông sẽ được sự dìu dắt của các bậc Hiền Giả để tiến sâu vào vấn đề này. Tuy nhiên, không phải ông chỉ học Yoga mà thôi, mà còn rất ưu tú về các môn học siêu hình và thần bí khác nữa.
Y ngừng một lúc và nhìn thẳng vào cặp mắt tôi. Tôi có cái cảm tưởng rằng y sắp sửa tiết lộ điều gì về đời sống nội tâm của y.
- Ở đời có hai hạng Hiền Giả:
Những người giữ bí mật những kiến thức của họ một cách ích kỷ, và những người sau khi đã giác ngộ cho mình. Liền chia xẻ sự giác ngộ tâm linh đó cho những người khác. Lá số của ông chỉ rằng ông đã bước đến gần cửa Đạo và bởi đó những lời nói của tôi sẽ không phải là nước đổ đầu vịt. Tôi sẵn sàng chia sớt sự hiểu biết của tôi cho ông.
Tôi lấy làm ngạc nhiên về điều lạ lùng này. Trước nhất tôi đến nhà Sudhei Babu để thử xem khoa Chiêm Tinh Ấn Độ là như thế nào. Tôi đến lần nữa để nghe y bàn rộng thêm về nền tảng và bí quyết của khoa Lý Số, và bênh vực cho những phép đoán số của ỵ Và bây giờ, thình lình y tự nguyện làm Thầy tôi về môn Yogạ Y nói tiếp:
- Nếu ông thực hành những phương pháp của Brahma Chinta, ông sẽ không cần có Thầy. Linh hồn ông sẽ là Thầy của ông.
Tôi liền thấy ngay rằng tôi đã nghĩ lầm và tự hỏi phải chăng y đã đọc được tư tưởng của tôi. Tôi nói:
- Ông làm tôi ngạc nhiên.
- Tôi đã chỉ dẫn cho vài người, nhưng tôi không bao giờ tự nhận là Thầy họ, mà chỉ là một người anh cả hay một người bạn. Tôi không muốn làm Thầy của ông theo cái ý nghĩa thông thường. Cái tinh thần của nhà Hiền Triết Bhrigu chỉ dùng tôi làm cái khí cụ để truyền những giáo lý ấy cho ông.
- Tôi không hiểu bằng cách nào ông có thể phối hợp nghề coi số Chiêm Tinh với việc dạy pháp môn Yoga.
Y đặt hai bàn tay gầy gò của y lên bàn và nói:
- Thì đây. Tôi sống trên thế gian và phụng sự thế gian bằng nghề nghiệp của tôi, tức là nghề coi Chiêm Tinh. Tôi không muốn cho ai xem tôi như một ông Thầy dạy Yoga, bởi vì trong môn phái Brahma Chinta, vị Tôn Sư duy nhất là Thượng Đế. Ngài là vị Thầy duy nhất của chúng tôi mà chúng tôi nhìn nhận. Với tư cách là Đại Thể hay Đại Hồn của Vũ Trụ, Ngài cũng ngự Ở trong tâm chúng ta và sẽ dìu dắt chúng tạ Ông hãy xem tôi như một người huynh đệ nếu ông muốn, nhưng đừng xem tôi như một người hướng dẫn tinh thần.
Những người có Thầy thường hay ỷ lại và nương dựa vào ông Thầy thay vì họ phải tự cường và chỉ nghe theo tiếng gọi của lương tri, tức là chính linh hồn của họ.
- Nhưng ông cũng dùng khoa Chiêm Tinh để hướng dẫn cuộc đời của ông phải chăng...
- Ông đã lầm. Tôi không bao giờ dò xem lá số của tôi nữa, thật ra tôi đã xé bỏ nó từ nhiều năm nay.
Tôi lộ vẻ ngạc nhiên về lời tuyên bố này. Y đáp:
- Tôi đã tìm thấy ánh sáng Chân Lý và không cần đến khoa Chiêm Tinh để hướng dẫn cuộc đời tôi. Khoa ấy chỉ hữu ích cho những kẻ còn lần mò đi trong bóng tối. Tôi đã đặt cuộc đời tôi hoàn toàn trong tay Thượng Đế và đã dẹp bỏ mọi điều lo nghĩ ưu phiền về hiện tại hay tương lai. Bất cứ điều gì xảy đến cho tôi, tôi đều chấp nhận như là ý muốn của Thượng Đế. Tôi đã giao phó vận mạng của tôi cho Ngài, luôn cả thể xác, lý trí, tình cảm và hành động.
- Nếu ông bị một kẻ dữ nó định hãm hại ông, và tánh mạng ông bị lâm nguy, ông có nói rằng đó là ý muốn của Thượng Đế và không làm gì để tự vệ chăng...
- Tôi biết rằng trong khi nguy cấp, tôi chỉ cần cầu nguyện là tôi sẽ được Ngài che chở. Cầu nguyện là điều cần thiết, còn sợ sệt chẳng có ích lợi gì. Tôi vẫn thường cầu nguyện và luôn luôn được che chở. Tuy nhiên, tôi cũng đã trải qua những lúc khó khăn, trong những lúc đó tôi đều ý thức được sự giúp đỡ của Ngài và tôi hoàn toàn đặt đức tin nơi Ngài trong mọi trường hợp. Ông cũng vậy, có ngày ông cũng sẽ bất chấp tất cả mọi sự xảy đến trong đời mình và hoàn toàn thản nhiên đối với tương lai.
Tôi tỏ vẻ nghi ngờ:
- Chắc là tôi phải có một sự thay đổi rất lớn lao trước khi đạt tới mức ấy.
- Sự thay đổi đó chắc chắn sẽ đến với ông.
- Ông có chắc như vậy không...
- Tôi tin chắc. Người ta không thể thoát khỏi định mệnh. Sự cải tạo tinh thần đó là một cái ân huệ của Thiêng Liêng, dầu rằng ta có định tìm nó hay không.
- Những điều ông nói thật là lạ lùng, Sudhei Babu.
Ý niệm về Thượng Đế là một điều tôi luôn luôn nghe nói đến trong những cuộc đàm luận của tôi với những người ở xứ này. Người Ấn Độ là một dân tộc có tinh thần tôn giáo rất mạnh, và tôi lấy làm ngạc nhiên mà nghe họ nói đến Thượng Đế một cách quá thông thường. Họ có thể nào hiểu cái quan điểm của một người Âu có óc hoài nghi, thường thay thế cái đức tin đơn giản bằng cái lý trí phức tạp hay chăng... Tôi thấy rằng không có ích gì mà nêu ra vấn đề Thượng Đế để bàn cãi với nhà Chiêm Tinh trong lúc này. Có lẽ y sẽ nhồi sọ tôi với một tràng lý thuyết siêu hình mà hiện thời tôi không có hứng thú muốn nghe chút nào. Tôi bèn xoay chiều câu chuyện qua những vấn đề khác ít phiền phức hơn.
- Chúng ta hãy nói qua cái vấn đề khác thì hay hơn, vì Thượng Đế với tôi chưa từng gặp nhau bao giờ.
Y nhìn thẳng vào tôi không chớp mắt, cặp mắt tinh anh của y dường như tìm cách soi thấu cõi lòng tôi:
- Lá số của ông không nói sai bao giờ, vì nếu không phải như vậy thì tôi đã không thổ lộ những điều hiểu biết của tôi cho một người chưa chuẩn bị sẵn sàng, nhưng các tinh tú vận chuyển đúng phép không bao giờ sai chạy. Những điều mà ông chưa hiểu rõ trong lúc này sẽ nằm trong tiềm thức của ông một thời gian và sẽ xuất hiện trở lại với mãnh lực tăng gấp đôi. Tôi lặp lại lần nữa là tôi sẵn sàng truyền pháp môn Brahma Chinta lại cho ông.
- Và tôi cũng sẵn lòng muốn học pháp môn đó.
Mỗi buổi chiều tôi đều trở lại nhà của Sudhei Babu để thụ giáo về pháp môn Brahma Chintạ Ngọn đèn dầu leo lét chiếu ánh sáng lập lòe trên gương mặt khổ hạnh và trắng như sáp của nhà Chiêm Tinh, trong khi y giảng giải cho tôi nghe những bí thuật của khoa Yoga Tây Tạng cổ truyền. Y không bao giờ lên mặt kẻ cả hay lên giọng thầy đời, mà trái lại y là hiện thân của sự khiêm tốn, và luôn luôn mở đề mỗi bài giảng với câu:
- Trong pháp môn Brahma Chinta có dạy rằng...
Một hôm tôi hỏi y:
- Cái mục đích rốt ráo và tối hậu của pháp môn này là thế nào...
- Mục đích ấy là đạt tới trạng thái xuất thần nhập định vì chỉ trong trạng thái đó, người hành giả mới nhận định rõ ràng rằng y là một linh hồn. Chừng đó, y mới tách rời trí óc của y ra khỏi những vật ở ngoại cảnh; những sự vật ở chung quanh y lu mờ dần và ngoại giới dường như đã biến mất đối với ỵ Y nhận thấy rằng linh hồn là một điều có thật, và y cảm thấy sự an lạc tuyệt vời cùng quyền năng vô song của nó tràn ngập con người của ỵ Y chỉ cần có một kinh nghiệm duy nhất đó để có đủ bằng chứng cụ thể rằng trong người y vốn có một sự sống thiêng liêng và bất diệt. Sau khi y có cái kinh nghiệm đó rồi, thì y không bao giờ có thể quên nó được nữa.
Tôi hỏi với một vẻ hoài nghi:
- Ông có chắc rằng tất cả những điều đó không phải là một hình thức tự kỷ ám thị chăng...
Trên miệng y thoáng hiện một nụ cười:
- Khi một người mẹ sinh ra một đứa con, có khi nào bà ấy lại nghi ngờ rằng đứa con ấy không phải là thật... Và khi bà mẹ ấy hồi tưởng lại khi lâm bồn, có thể nào bà ấy cho rằng đó chỉ là một sự tự kỷ ám thị chăng... Khi bà ấy nhìn đứa con càng ngày càng lớn, có thể nào bà ấy lại nghi ngờ không tin rằng đứa trẻ vẫn còn sống chăng... Giống như thế, sự giác ngộ tâm linh là một biến cố quan trọng trong đời của một người đến nỗi y không thể nào quên được, vì nó làm cho người ấy hoàn toàn thay đổi và trở nên một người mới. Khi người hành giả bước vào trạng thái xuất thần đại định, thì một sự trống không được tạo ra trong trí của ỵ Khi đó thì Thượng Đế, nếu ông không thích dùng danh từ này, thì linh hồn, hay một quyền năng thiêng liêng chẳng hạn, sẽ tràn vào và chiếm lấy cái khoảng trống không đó. Khi nào việc ấy xảy ra, thì người hành giả cảm thấy tràn đầy một nguồn hạnh phúc vô biên và an lạc tuyệt vời không thể tả. Y cũng cảm thấy tràn đầy một tình yêu bao la rộng lớn và nồng nàn đối với toàn thể chúng sinh trong hoàn vũ. Lúc ấy, người ngoài sẽ nhìn thấy xác thân của người hành giả có vẻ dường như chết, vì mọi sự sinh hoạt đều ngưng hẳn, chí đến hơi thở cũng ngừng luôn, khi y đạt tới điểm cao tột của cơn đại định xuất thần.
- Như thế có nguy hiểm gì không...
- Không. Cơn xuất thần nhập định thường diễn ra ở một nơi hoàn toàn vắng lặng, hoặc một người thâm quyến hay bằng hữu có thể có mặt tại chỗ để canh chừng cho người hành giả. Tôi thường bước vào trạng thái xuất thần và luôn luôn có thể trở về tùy ý muốn. Tôi thường xuất thần như thế mỗi lần từ hai đến ba giờ đồng hồ, và định trước lúc nào tôi sẽ trở về nhập xác. Đó là một kinh nghiệm rất diệu huyền, bởi vì tôi nhìn thấy toàn thể Vũ Trụ bên ngoài bằng cách chỉ nhìn vào nội tâm của tôi, chứ không cần đi đâu cả. Vì thế nên tôi đã nói rằng tất cả những gì mà chúng ta cần học hỏi, đều có thể học hỏi ở tự nơi linh hồn của mình. Sau khi tôi truyền hết pháp môn Yoga Tây Tạng này cho ông, ông sẽ không cần có Thầy, và không cần có một sự dìu dắt hướng dẫn nào từ bên ngoài.
- Còn ông, ông cũng không cần có thầy phải chăng...
- Tôi không hề đi tìm thầy từ khi tôi khám phá được những bí thuật của pháp môn Brahma Chintạ Tuy nhiên, vài đấng Giáo Chủ cao cả thỉnh thoảng cũng hiện đến với tôi, trong khi tôi xuất thần nhập định và trở nên có ý thức trong cõi vô hình. Những đấng Cao Cả đó xuất hiện trước mặt tôi trong những Thể linh diệu của các Ngài và đặt bàn tay lên đầu tôi để ban ân huệ. Bởi đó, tôi lặp lại lần nữa, rằng ông hãy tin cậy ở sự dìu dắt của linh hồn mình, và các đấng Giáo Chủ thiêng liêng sẽ xuất hiện đến với ông trong cõi vô hình.
Nói đến đây, nhà Chiêm Tinh im lặng trong vài phút và có vẻ đắm chìm trong cơn trầm tư mặc tưởng. Kế đó, với một giọng bình thản và khiêm tốn y nói:
- Có lần, trong cơn ðại định, tôi thấy đức Jesus.
- Ông muốn nói đùa tôi chăng...
Nhưng y không màng giải thích câu ấy. Trái lại, thình lình y đảo cặp tròng trắng của đôi mắt y xếch ngược lên một cách lạ thường, làm tôi rất băn khoăn lo ngại. Một phút trôi qua trong im lặng và tôi chỉ cảm thấy dễ chịu và bớt lo khi y đem cặp mắt trở lại trạng thái bình thường.
Một nụ cười bí hiểm hiện trên môi của y khi y nói tiếp:
- Trạng thái xuất thần đại định có một mãnh lực phi thường đến nỗi người hành giả không bao giờ sợ chết. Trên sườn núi phía Bắc dãy Hi Mã Lạp Sơn có những người Yogi đã tu luyện pháp môn Brahma Chinta đến mức tuyệt đỉnh. Họ ẩn mình trong những động đá sâu thẳm để xuất thần nhập định đến một mức độ siêu đẳng. Trong trạng thái đó, mạch máu ngừng nhịp, quả tim cũng không còn đập nữa, và máu huyết cũng ngừng lưu thông trong cái cơ thể bất động. Người ngoài nhìn thấy sẽ tưởng rằng họ đã chết. Nhưng người ta đừng tưởng rằng họ ngủ mê, vì họ vẫn hoàn toàn thức tỉnh như mọi người. Họ chỉ bước vào cõi giới siêu hình, trên đó họ sống trải qua nhiều thế kỷ và đã được vài trăm tuổi rồi.
Một lần nữa tôi lại nghe nói đến những chuyện sống lâu, hình như nó sẽ theo đuổi tôi mãi ở bất cứ nơi nào tôi đi đến dưới cái Mặt Trời phương Đông này. Nhưng còn những vị Thần Tiên bất tử đó, có thể nào một ngày kia tôi khám phá ra được một vị để nhìn xem tận mặt được chăng... Chừng đó, có lẽ Âu Tây sẽ tìm ra và chấp nhận pháp môn huyền bí cổ truyền Tây Tạng như một sự góp phần trên địa hạt khoa học và tâm lý. Biết đâu...
Buổi học cuối cùng của tôi về những lý thuyết dị kỳ của khoa pháp môn Brahma Chinta đã chấm dứt. Tôi thuyết phục nhà Chiêm Tinh kiêm tu sĩ ẩn độn này hãy bước ra cửa đi dạo một vòng, điều mà y ít khi làm vì y không hề rời khỏi nhà, để cho thân thể của y được vận động đôi chút. Chúng tôi đi bách bộ xuyên qua những con đường hẹp và tránh những khu náo nhiệt ồn ào để đi xuống bờ sông. Mặc dầu thành phố có vẻ cũ kỹ, chật hẹp và kém vệ sinh, nhưng Ba Nại La dành cho người du khách những cảnh tượng tưng bừng rực rỡ và thay đổi liền liền, nhìn xem rất ngoạn mục.
Trưa hôm ấy, ông Chiêm Tinh gia của tôi mang theo một cây dù lớn. Hình dáng mảnh khảnh và những cử chỉ chậm chạp có vẻ mệt nhọc của y làm cho tôi e ngại, nên tôi phải đổi lộ trình để thâu ngắn đường đi. Chúng tôi đi qua con đường Hàng Đồng. Ở đây tiếng búa của các bác thợ đồng đập nghe vang tai không dứt, và những đồ vật dụng bằng đồng như nồi, soong, chói bóng loáng dưới ánh nắng mặt trời. Ở đây, người ta cũng thấy trưng bày vô số những hình tượng nhỏ bằng đồng tiêu biểu các vị thần trong Ấn Độ giáo.
Một người hành khất già đi một cách khép nép dọc theo vách tường phía bên kia đường lộ. Y nhìn tôi với cặp mắt dọ hỏi, hình như cử chỉ của tôi làm cho y được yên lòng, y bèn đánh bạo lại xin tiền.
Chúng tôi đi qua đường Hàng Gạo, tại đây người ta thấy các cửa hàng bày những đống gạo và thóc lúc màu đỏ và màu vàng. Người buôn thóc ngồi xếp bằng trước cửa hàng, liếc nhìn chúng tôi với cặp mắt tò mò, rồi lại kiên nhẫn ngồi đợi người muạ Trong những con đường khác, những mùi vị pha lẫn một cách hỗn tạp xông vào mũi thành một thứ mùi đặc biệt. Khi chúng tôi đến gần bờ sông, chúng tôi đi thẳng vào một khu hình như là nơi tập hợp của giới hành khất, những người ăn mày gầy còm lê lết dọc theo con đường đầy cát bụi. Một người trong bọn đến gần tôi và nhìn tôi vào tận mắt như để thăm dò. Y có một vẻ mặt đau khổ, nó làm cho lòng tôi se lại. Cách đó một quãng, suýt nữa tôi đạp nhằm một bà già thân thể gầy ốm chỉ còn da bọc xương. Bà ấy cũng ngước mặt lên nhìn tôi. Trong cái nhìn ấy, tôi không thấy lộ vẻ oán hận hay đau khổ, mà chỉ thấy có sự an phận trong âm thầm. Tôi móc túi lấy cái ví tiền, cử chỉ đó làm nhen nhúm lại một tia sáng trong cặp mắt đã hết tinh thần của bà tạ Bà ấy đưa ra một cánh tay gầy gò và nắm lấy đồng tiền bố thí của tôi một cách sốt sắng.
Tôi lấy làm ngượng thầm mà nghĩ đến số phận tốt lành của tôi và tất cả những gì tôi sở hữu, cơm ăn, áo mặc, nhà ở, và nhiều thứ khác. Khi tôi nghĩ đến những cặp mắt tuyệt vọng của những người bần cùng khốn khổ đó, tôi cảm thấy hình như một sự hối hận. Tôi có quyền gì mà sở hữu bấy nhiêu tiền bạc, trong khi những kẻ khốn cùng kia chỉ có những mảnh giẻ rách che thân... Nếu như do một sự tình cờ của định mệnh, mà tôi lại sinh ra làm một trong những người hành khất ấy, thì sao... Tôi không dám suy tưởng lâu hơn nữa về cái ý nghĩ rùng rợn đó.
Vì lý do nào mà một người lại tình cờ sinh ra trên vỉa hè lầm than cát bụi, trong khi số phận lại đặt một người khác trên nhung gấm ở một tòa lâu đài gần bên... Đời người quả thật là một bài toán bí hiểm.
- Chúng ta hãy ngồi đây.
Nhà Chiêm Tinh nói khi chúng tôi vừa đến bờ sông. Chúng tôi ngồi trong bóng mát và nhìn xuống sông, trên bờ là những bực thang đá nhiều nấc, những nhóm người hành hương lên xuống không ngớt. Cách đó một quãng, hai ngọn tháp nhọn, cao gần đến một trăm thước, nhô lên một cách yểu điệu trên nền trời xanh thẳm. Đó là tháp của ngôi đền Hồi giáo, mà nhà vua Aurangzeb đã xây cất tại đây thưở xưa, khi Ấn Độ bị quân Hồi chiếm đóng.
Nhà Chiêm Tinh có lẽ đã nhìn thấy sự phản ứng buồn bực của tôi đối với những người hành khất, nên y day lại và nói:
- Ấn Độ là một nước nghèo, dân tộc xứ này đã đắm chìm trong sự ngủ mê, bất động. Tuy nhiên, việc thịnh suy của Trời Đất nối tiếp nhau như ngày với đêm, âm dương vận hàng theo định luật Tuần Hoàn. Lịch sử của các nước cũng không ngoài cái định luật đó. Ấn Độ đang hồi suy vong, nhưng có lúc nó sẽ quật cường, khi nào những hoài bão tinh thần cao cả của nó thưở xưa được đánh thức dậy trong lòng người, để mở màn cho một giai đoạn tích cực hoạt động và phục hưng xứ sở.
Ngày nay Châu Âu đang sống mạnh với những hoạt động thực tế, nhưng phong trào duy vật mãnh liệt của nó có lúc sẽ trôi qua và nó sẽ quay đầu trở về những lý tưởng cao cả hơn. Nó sẽ đi tìm những hoạt động tâm linh và những hoài bão tinh thần. Cả nước Mỹ cũng ở trong tình trạng đó.
Tôi lẳng lặng ngồi nghe. Y nói tiếp một cách trịnh trọng:
- Bởi lẽ đó, những giáo lý về triết học và tâm linh của Ấn Độ sẽ tràn qua Tây phương như một luồng sóng mới. Các nhà học giả đã phiên dịch vài bộ sách bút tự Phạn ngữ và Thánh Kinh của Ấn Độ ra các sinh ngữ Âu Tây, nhưng có nhiều sách vở tài liệu vẫn còn giữ gìn trong những thư viện bí mật ẩn trong hang núi, ở những sách vở đó có ngày cũng phải được tiết lộ ra cho thế giới biết. Không bao lâu sẽ đến lúc mà nền Triết Học uyên thâm và Đạo Lý cổ truyền của Ấn Độ sẽ phối hợp với những môn khoa học thực tế của Tây phương. Những điều huyền bí của thời đại cổ xưa phải được phổ biến để ứng đáp lại những nhu cầu của thế hệ này. Tôi mong rằng điều đó rốt cuộc sẽ được thực hiện.
Tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn dòng nước xám xanh của sông Hằng. Dòng nước yên lặng một cách lạ thường, đến nỗi nước sông đứng yên dường như không chảy. Mặt nước phẳng lặng của nó phản chiếu ánh nắng mặt trời như một tấm gương trong.
Nhà Chiêm Tinh lại nói tiếp:
- Mỗi dân tộc sẽ thực hiện định mệnh của nó cũng như số mạng của mỗi người phải được hoàn thành. Thượng Đế vốn Toàn Năng. Các quốc gia cũng như các dân tộc sẽ không thoát khỏi định mệnh mà họ tự tạo nên, nhưng họ có thể được che chở trong những cơn nguy biến.
- Làm sao con người có thể được sự che chở đó...
- Bằng sự cầu nguyện, bằng cách trở lại ngây thơ và hồn nhiên như trẻ con khi người ra quay đầu về đấng Chí Tôn, và bằng cách nhớ đến Ngài luôn, không phải trên đầu môi chót lưỡi, mà ở tự trong tâm của mình mỗi khi người ta bắt đầu làm một công việc nào đó. Chúng ta hãy đón nhận những ngày vui tươi như một phần thưởng và ân huệ của Thượng Đế, và đón nhận những lúc đau khổ như một phương thuốc mầu nhiệm để cứu chữa những điều lầm lạc của mình. Chúng ta không có gì phải sợ sệt, vì Ngài hoàn toàn từ ái đối với chúng sinh.
- Như vậy ông không tin rằng Thượng Đế ở cách xa chúng ta và dửng dưng đối với những đau khổ của thế gian chăng...
- Không, Thượng Đế là một nguyên lý ẩn vị, ngự trong tất cả muôn loài vạn vật cũng như trong con người. Khi ông nhìn thấy cái đẹp trong thiên nhiên, như một phong cảnh đẹp chẳng hạn, ông đừng quên rằng sở dĩ nó đẹp là vì có Thượng Đế ở trong. Ta hãy tập nhìn thấy cái đẹp trong mọi người và mọi vật, đó là cái tinh thần bên trong nó làm chủ động cho mọi hình thức sinh hoạt trên thế gian.
- Ông có một lối đặc biệt là pha lẫn những lý thuyết về định mệnh, tôn giáo và Chiêm Tinh một cách lạ lùng, Sudhei Babu.
- Sao lại lạ lùng... Những lý thuyết đó không phải của tôi đặt ra, mà nó được truyền lại cho chúng ta từ những thời đại xa xăm nhất trong quá khứ. Những dân tộc cổ xưa nhất cũng đã từng biết rõ về những vấn đề định mệnh, về Thượng Đế và về khoa Chiêm Tinh. Họ không phải là những dân tộc dã man như người Âu Tây vẫn lầm tưởng. Như tôi đã nói, trước khi thế kỷ này kết thúc, Tây phương sẽ khám phá và nhìn nhận có những mãnh lực vô hình trong Trời Đất, ảnh hưởng đến sự sinh hoạt của con người và vạn vật.
- Thật không dễ gì mà làm cho người Tây phương từ bỏ cái quan niệm về sự tự do ý chí của con người trong việc điều khiển cuộc đời của họ.
- Bất cứ việc gì xảy đến đều do ý muốn của Thượng Đế, và điều mà ta xem dường như là tự do, thật ra chỉ là hành động với cái quyền năng của Ngài. Thượng Đế trả lại cho người những hậu quả lành hay dữ của những tư tưởng và việc làm của họ trong những kiếp khác. Tốt hơn hết là nên chấp nhận ý muốn của Ngài, và con người sẽ không bị ngã quỵ dưới gánh nặng của nghịch cảnh, nếu y biết hướng về Thượng Đế để tìm cái sức mạnh tinh thần hầu chịu đựng được những nghịch cảnh đó.
- Tôi ước mong rằng ông nói có lý, nếu đó chỉ là để an ủi những kẻ hành khất khốn cùng mà chúng ta vừa gặp khi nãy.
- Đó là điều duy nhất mà tôi có thể trả lời cho ông. Nếu ông áp dụng thuật "Hồi quang nhãn chiếu" để đi sâu vào nội tâm theo pháp môn Brahma Chinta mà tôi đã chỉ dẫn cho ông, thì những vấn đề đó sẽ tự nó giải quyết lấy.
Tôi biết rằng y đã đưa tôi đến cái mức giới hạn của những khả năng tranh luận của y, và không còn gì để nói nhiều hơn nữa. Từ nay tôi phải tự tìm lấy con đường đi của mình.
Nằm trong túi tôi, là một bức điện tín nó gọi tôi hãy đáp chuyến xe lửa sắp tới để lên đường. Tôi yêu cầu nhà Chiêm Tinh hãy cho tôi chụp một bức ảnh kỷ niệm. Y lễ phép chối từ, tôi khẩn khoản mời mọc. Y đáp:
- Để làm gì với gương mặt gầy xấu và bộ quần áo xốc xếch này...
- Tôi muốn có vật kỷ niệm này của ông khi tôi đi xa.
Y đáp một cách dịu dàng:
- Cái kỷ niệm hay nhất là những tư tưởng lành và những việc làm vị tha.
Tôi đành phải chìu lòng y một cách tiếc rẻ, và xếp lại máy ảnh. Khi chúng tôi đứng dậy ra về tôi nhìn thấy gần bên có một vị tu sĩ ngồi kiết dà dưới bóng mát của một cây dù lớn. Y đắm chìm trong một cơn thiền định, và tôi nhận thấy, do bộ áo màu vàng sậm rằng đó là một tu sĩ thuộc về một dòng tu khá cao. Khi chúng tôi đến ngã ba đầu đường, tôi kêu một chiếc xe ngựa và chúng tôi chia tay đôi ngã.
Trong những ngày kế đó, tôi ngồi trên xe lửa. Ban đêm, tôi dừng chân nghỉ ở các lữ quán của chánh phủ dựng lên cho khách đi đường dùng làm nơi tạm trú. Một trong những quán trọ ấy không có tiện nghi gì đáng kể, ngoại trừ một đàn kiến rất đông. Sau hai tiếng đồng hồ thao thức trằn trọc và cố gắng đẩy lui cuộc tấn công của chúng nhưng vô hiệu quả, tôi đành phải bỏ giường và ngồi nghỉ trên một chiếc ghế bành. Thời gian trôi qua một cách rất chậm chạp. Tôi suy nghĩ vẫn vơ và hồi tưởng lại câu chuyện triết lý về định mệnh của nhà Chiêm Tinh thành Ba Nại La.
Đồng thời tôi nhớ lại những hành khất đáng thương, lê lết tấm thân tàn trên con đường đầy cát bụi. Cuộc đời không để cho họ sống, nhưng cũng không để cho họ chết! Chiếc xe ngựa đẹp lộng lẫy của một tay phú thương vừa đi ngang qua, làm văng bùn vào mình họ, nhưng họ chấp nhận điều ấy một cách thản nhiên cũng như chấp nhận cái số phận lầm than của họ, hoàn toàn tuân theo ý muốn của Thượng Đế. Trên dải đất nóng gắt này, chí đến một người phong cùi, phế tật hình như cũng bằng lòng với số mạng. Thuyết định mạng của Ấn Độ chắc hẳn là đem đến cho họ một nguồn an ủi giống như ảnh hưởng của chất ma túy làm xoa dịu những vết thương...
Một người Âu chủ trương sự tự do ý chí không thể nào tranh luận được với một người Đông phương tin tưởng nơi thuyết định mệnh bất di dịch. Đối với người sau này, không hề có vấn đề tự do được nêu ra:
định mệnh cai quản cuộc đời y và cả gia đình y, đó là tất cả vấn đề, không còn gì phải nói nữa. Nhưng có người Âu nào lại chịu nhìn nhận rằng mình chỉ là một vật thụ động, chịu bó tay dưới sự độc đoán của số mạng nó chỉ định và sắp đặt cuộc đời mình với một bàn tay vô hình... Đến đây tôi liền nhớ lại câu nói bất hủ của Nã Phá Luân, khi đạo binh của ông ta mở đường khai núi vượt qua dãy Alpes:
- Danh từ "Bất khả" không có ở trong tự điển của ta.
Nhưng tôi đã nghiên cứu tiểu sử của cuộc đời ông ta, và tôi cũng nhớ cả những hàng chữ lạ lùng mà ông ta đã viết tại Sainte Hélène trong lúc bị đày ra hải đảo:
"Tôi vẫn luôn luôn tin tưởng ở định mệnh. Những gì đã khắc trên tinh tú là đã quyết định rồi! Ngôi sao của tôi đã lu mờ, tôi cảm thấy tôi không còn quyền hành gì nữa, và tôi cũng không làm thế nào được. " Một người có những ý tưởng trái ngược như thế hẳn là chưa giải quyết xong bài toán của định mệnh, nhưng thật ra có ai đã giải quyết được điều bí hiểm ấy... Có thể rằng kể từ khi con người bắt đầu biết dùng bộ Óc để suy gẫm, thì vấn đề cổ lỗ này đã từng được tranh luận ở bất cứ nơi nào trên Địa Cầu. Những người chất phác đơn sơ không màng giải quyết vấn đề đó, còn bậc Hiền Giả thì vẫn luôn luôn do dự không nói dứt khoát giữa bao nhiêu tư tưởng trái ngược.
Vài ngày sau, tôi đã ở cách xa Ba Nại La đến vài trăm dặm, khi tôi được tin cho biết có những cuộc nổi loạn và bạo động xảy ra ở đó. Đó là chuyện xung đột giữa những người Ấn và Hồi giáo, thường bắt đầu bằng những duyên cớ nhỏ nhặt không đáng kể, nhưng có những kẻ bất lương lợi dụng vấn đề tôn giáo để tạo loạn và gây rối hầu có thi hành những thủ đoạn cướp bóc và sát nhân của chúng.
Trong nhiều ngày, thành phố Ba Nại La đắm chìm trong sự hỗn loạn và khủng bố. Người ta thường nghe nói đến những chuyện đầu rơi máu đổ và giết chóc. Tôi lấy làm lo ngại cho sự an ninh của nhà Chiêm Tinh, nhưng không thể nào tiếp xúc được với ỵ Những người đem thư lại quá sợ hãi không dám ra đường, và không có thư từ hay điện tín nào được phát trong những ngày loạn lạc đó.
Tôi đành phải đợi cho đến khi tình hình tạm yên trở lại, và gửi một bức điện tín trong số những bức đầu tiên nhận được ở Ba Nại La sau những ngày khủng bố. Vài ngày sau tôi nhận được thư trả lời cảm ơn của nhà Chiêm Tinh, trong đó y cho biết rằng y được bình yên nhờ sự che chở của đấng Toàn Năng. Và ở trang sau, y cũng không quên chép luôn vào đó mười điều quy luật về sự thực hành pháp môn Yoga của phái Brahma Chinta.