Người ta đưa chúng tôi về sâu trong hậu phương hơn lệ thường, về một trại tân binh, dể bổ sung quân. Đại đội tôi cần bổ sung hơn một trăm người.
Trong thời gian đó, chúng tôi la cà đây đó vì không có công tác gì làm cả.
Hai ngày sau, Himmenxtôt cũng về đến nói. Từ dạo ở chiến hào đến giờ, hắn không dám ngoạc mồm ra nữa. Hắn xin dàn hòa với chúng tôi . Tôi sẵn sàng chấp nhận, vì tôi thấy hắn đã giúp một tay vào việc khiêng Hai Vethut bị gãy lưng. Hơn nữa, hắn ăn nói đã có vẻ thật sự biết điều, nên khi hắn mời chúng tôi ra căng tin, chúng tôi cũng đồng ý thôi. Chỉ có Jađơn là còn nghi ngại và giữ kẽ.
Nhưng rồi chính nó cũng mau xuôi, vì Himmenxtôt cho biết hắn sắp thay chân thầy cai nấu bếp được đi phép. Để tó lòng thành, hắn khuân lại cho chúng tôi hai cân đường, và đặc biệt cho Jađơn nửa cân bơ. Sau đó, hắn lại còn vận động cho chúng tôi được điều về nhà bếp trong ba ngày liền, để gọt khoai tây và củ cải vàng.
Những món ăn hắn cung phụng cho bọn tôi, thật xứng đáng với bữa ăn của sĩ quan.
Ấy thế là chúng tôi tạm thời có hai cái khoái của người lính: ăn ngon và nghỉ khỏe. Nghĩ cho kỹ thì cũng không có gì quá đáng. Chỉ mới vài năm trước đây thôi, chúng tôi rất khinh ghét những chuyện ấy. Nhưng bây giờ chúng tôi gần như lấy thế là thú vị. Cái gì cũng là thói quen cả, cả đến chiến hào cũng vậy thôi.
Sự thích nghi chính là nguyên nhân khiến chúng tôi hình như quên được rất nhanh mọi chuyện. Vừa mới hôm kia, chúng tôi còn sống dưới lửa đạn, thế mà hôm nay, chúng tôi đã đi lêu lổng và sống buông thả.
Ngày mai, chúng tôi sẽ trở lại chiến hào. Thực ra, chúng tôi chẳng quên cái gì cả. Ngày nào chúng tôi còn ở hậu phương, thì những ngày ở hỏa tuyến đã qua, giống như những hòn đá chìm sâu xuống trong con người; chúng nặng nề quá khiến chúng tôi không đủ sức nghiền ngẫm. Nếu chúng tôi cứ nghiền ngẫm, chúng sẽ tiêu diệt chúng tôi ngay, bởi vì, tôi đã nhận xét thấy điều này: những sự kinh khủng có thể chịu đựng được nếu như người ta bằng lòng cúi đầu xuống, trái lại, chúng sẽ giết chết ta, nếu ta nghĩ đến chúng.
Cũng như khi ra mặt trận, chúng tôi trở thành những con vật - vì đó là điều duy nhất làm cho chúng tôi đứng vững được - thì khi về nghỉ ngơi, chúng tôi trở nên những chú hề nhạt nhẽo, và những anh chàng nhác nhớn. Không thể làm gì khác được, hoàn cảnh bắt buộc đúng phải như thế, dù thế nào, chúng tôi cũng muốn sống đã. Vì vậy chúng tôi không muốn vướng vít những tình cảm có thể rất là đẹp đẽ trong thời bình, nhưng ở chỗ này, thì quá là không hợp một tí nào.
Kemơrich chết. Hai Vethut chết. Đến ngày phán xét cuối cùng, khó mà lắp lại được cái thân hình của Han Cramơ đã bị một quả đại bác nghiền nát như tương. Macten cụt cả hai chân, May chết, Mác chết, Bay chết, Hammơlinh chết; một trăm hai mươi người chết rải rác trong các trạm cứu thương, da thịt thủng nát; thật là một điều đáng nguyền rủa, nhưng cái đó có liên quan gì đến chúng tôi bây giờ?
Chúng tôi sống. Nếu chúng tôi có thể cứu được họ, phải, người ta sẽ thấy chúng tôi chẳng ngần ngại hy sinh tính mạng của mình. Chúng tôi có thể lên đường ngay, vì khi cần đến, chúng tôi có một sức bật kỳ dị; chúng tôi không biết sợ mấy, chỉ trừ có sợ chết, nhưng cái đó lại là chuyện khác, chuyện của có thể.
Nhưng các bạn của tôi đã chết, chúng tôi không có cách gì giúp họ được; họ đã yên phận rồi. Ai biết được số phận chúng tôi sẽ ra sao?
Điều chúng tôi mong muốn bây giờ là nằm khểnh ra đó, ngủ và ăn cho đầy tễ, uống rượu bí tỉ và hút, để cho ngày giờ khỏi trống rỗng. Đời người ngắn ngủi.
Sự khủng khiếp ở mặt trận sẽ biến đi, khi chúng ta quay lưng lại nó, chúng tôi đem những chuyện ở mặt trận ra đùa cợt một cách tục tĩu và ác khẩu. Khi một người chết, chúng tôi bảo là hắn đã ngậm đít lại rồi, chúng tôi cứ tếu như thế, chẳng tha cái gì. Nhờ vậy mà chúng tôi không phát điên. Chúng tôi còn nhìn mọi chuyện bằng con mắt ấy là chúng tôi còn đứng vững được.
Nhưng chúng tôi chẳng quên đâu! Điều mà các báo chí chiến tranh nói về óc trào phúng của quân đội, bảo rằng họ lo tổ chức những cuộc khiêu vũ khi vừa ra khỏi khu vực pháo kích, điều đó chỉ là chuyện ngớ ngẩn. Sở dĩ chúng tôi làm như thế không phải tại chúng tôi thích trào phúng, mà là vì nếu không trào phúng thì chết mất. Phần khác cũng chẳng mấy lúc nữa mà cạn tủ, rồi cái trào phúng của chúng tôi mỗi tháng một trở nên chua chát. Và tôi biết rằng, hiện giờ, khi chúng tôi đang đánh trận, tất cả những gì lắng sâu xuống cõi lòng chúng tôi như những tảng đá, sẽ trỗi dậy khi chiến tranh chấm dứt và chỉ lúc ẩy mới giải thích được: cái sống, cái chết.
Những ngày, những tuần, những năm ở mặt trận lúc ấy sẽ sống lại và các bạn đã chết của chúng tôi sẽ trở về và sẽ cùng đi với chúng tôi. Đầu óc chúng tôi sẽ tỉnh táo, chúng tôi sẽ có một mục đích, và cứ thế chúng tôi sẽ đi cùng với các bạn đã chết bên cạnh chúng tôi và, phía sau chúng tôi, những năm ở mặt trận: chúng tôi sẽ đi... chống ai, chống ai?
Trong vùng này, vừa có những buổi biểu diễn của một đoàn kịch mặt trận Trên một hàng rào, vẫn còn thấy dán những tờ quảng cáo sặc sỡ. Cốp và tôi đang trố mắt ra nhìn. Chúng tôi không thể hiểu được sao lại còn có những cái như thế. Này đây, một thiếu nữ mặc áo mùa hạ màu nhạt, với chiếc dây lưng da đỏ thắt quanh người. Một tay nàng đặt trên lan can, tay kia cầm chiếc mũ nan, nàng đi giày trắng và tất trắng, đôi giày cao gót xinh xắn có khóa; phía sau nàng, biển xanh lấp lánh với vài làn sóng tung bọt trắng xóa và bên cạnh một cái vịnh đầy ánh sáng.
Thật là một cô nàng tuyệt đẹp, mũi xinh, môi đỏ, chân dài, sạch sẽ, đỏm dáng không thể tưởng tượng được . Chắc hẳn mỗi ngày nàng tắm hai lần, và không bao giờ có ghét ở móng tay, quá lắm, có lẽ đôi lúc cũng chỉ dính vài hạt cát của bờ biến. Cạnh nàng, có một anh con trai quần trắng, áo vét tông xanh, mũ thuỷ quân, nhưng chúng tôi chẳng để ý đến chàng ta mấy. Cái cô nàng ở cạnh hàng rào ấy chẳng khác gì một phép lạ đối với chúng tôi; chúng tôi đã quên hẳn rằng trên đời này còn có những chuyện như vậy, và ngay đến bây giờ chúng tôi cũng khó tin là chính mắt đã trông thấy thế. Dù sao hàng mấy năm nay chúng tôi cũng chưa hề thấy những điều tương tự; những điều chưa đầy đủ lắm, nhưng đã nói lên biết bao nhiêu là trong sáng, xinh tươi và hạnh phúc.
Đấy mới thật là hòa bình; hòa bình là phải thế, chúng tôi cảm nghĩ như vậy, lòng đầy xúc dộng.
- Cậu hãy nhìn đôi giày nhỏ nhẹ này; khó mà đi nổi một cây số, - tôi nói.
Nhưng ngay lúc ấy, tôi tự thấy buồn cười, vì đứng trước một hình ảnh như vậy mà nghĩ đến chuyện đi thì thật là ngớ ngẩn.
- Nàng độ bao nhiêu tuổi nhỉ? - Cốp hỏi.
Tôi lẩm nhẩm rồi nói:
- Nhiều nhất là hăm hai. Anbe ạ.
- Nếu thế thì nàng lại hơn tuổi cánh mình mất.
- Tớ thì chắc nàng không quá mười bảy.
Chúng tôi rùn cả người.
- Anbe này, thế thì tuyệt quá nhỉ?
Nó gật.
- Ở nhà tớ cũng có một cái quần trắng.
- Một cái quần trắng, đồng ý, - tôi nói, - nhưng một cô gái như thế này . . .
Hai đứa chúng tôi nhìn lẫn nhau từ đầu đến chân. Quả là không có cái gì ra hồn, ngoài một bộ đồng phục đầy cáu ghét, vá chằng vá đụp và bạc phếch. Mọi so sánh đều không hy vọng.
Vì thế, trước hết chúng tôi lột béng ngay cái anh chàng quần trắng ra khỏi hàng rào một cách cẩn thận để khỏi động đến cô thiếu nữ. Thế là được một việc.
Sau đó, Cốp bàn:
- Chúng mình đi bắt rận đi?
Tôi không hoàn toàn tán thành ý kiến ấy vì như thế thì công việc hỏng bét mất; chúng tôi đã bắt rận suốt hai giờ rồi. Nhưng sau khi ngắm lại bức tranh một lần nữa, tôi tuyên bố sẵn sàng theo ý kiến của nó. Và tôi thêm:
- Chúng mình thử đi lùng một cái sơ mi sạch xem sao.
Anbe không hiểu thế nào lại nghĩ:
- Bít tất Nga chắc còn tốt hơn nữa.
- Phải đấy, có lẽ cả bít tất Nga nữa, chúng mình phải cố đi xoay cái gì mới được chứ.
Nhưng kìa, Lia và Jađơn đang phất phơ đi tới.
Chúng nó nhìn thấy tờ quảng cáo và câu chuyện xoay ngay sang cái giọng tục tĩu. Trong lớp tôi, Lia là đứa đầu tiên có một con nhân tình; nó đã tả cho chúng tôi nghe những chi tiết của cái ái tình của nó và làm chúng tôi bị kích thích tợn. Nhìn bức tranh này, nó hứng lên theo kiểu của nó, và Jađơn bắt chước nó một cách hăng hái. Nói của đáng tội, chúng tôi chẳng phải ghét cái đó . Ai không biết nói chuyện tục tĩu thì không phải là lính; có điều, lúc này đầu óc chúng tôi chưa để tất cả vào đấy mà thôi. Vì vậy, chúng tôi cắt đứt câu chuyện và đi về chỗ bắt rận, với cảm tưởng là mình đang đi tới một hiệu thợ may lịch sự.
Những ngôi nhà chúng tôi trú quân, ở gần một con kênh. Ở bờ bên kia, có những cái đầm với những cây bạch dương bao quanh. Bên kia kênh, cũng có cả đàn bà nữa. Phía bên này, dân cư đã tản đi hết, nhưng phía trước mặt, thỉnh thoảng vẫn có bóng người.
Buổi chiều chúng tôi đi bơi. Kìa, có ba người đàn bà đi đến, dọc theo bờ kênh. Họ đi thong thả và không ngoảnh mặt đi, mặc dầu chúng tôi không mặc quần đùi.
Lia cất tiếng gọi; các cô ấy cười và ngừng lại nhìn chúng tôi. Chúng tôi ném sang những câu tiếng Pháp nửa mùa chợt nhớ ra được, bất kể là câu gì, lộn xộn hấp tấp, cốt để các cô ấy không đi mất. Thật tình, đây cũng chẳng phải là những lời lẽ gì tao nhã cho lắm, nhưng chúng tôi moi ở đâu ra được kia chứ?
Đặc biệt có một cô tóc nâu, thân hình mảnh dẻ.
Khi cô cười, hàm răng trắng bóng. Cử chỉ của cô ta nhanh nhẹn, chiếc váy mềm mại rủ xuống chung quanh bắp chân. Mặc dầu nước lạnh, nhưng chúng tôi cũng cố làm cho các cô ấy chú ý đến để các cô ấy đứng lại. Chúng tôi cứ pha trò bừa đi, các cô ấy cũng bắt lời, nhưng chúng tôi chẳng hiểu gì cả. Chúng tôi cười và ra hiệu với các cô ấy. Jađơn khôn hơn, nó chạy về nhà, mang ra một cái bánh lính và giơ lên.
Thế là thu được kết quả rực rõ. Bằng dấu hiệu và cử chỉ, các cô mời chúng tôi sang chơi, nhưng đã có lệnh cấm. Chúng tôi không được phép sang bờ kênh bên kia. Cầu nào cũng có lính gác. Không có giấy tờ hợp lệ thì đừng hòng. Vì thế chúng tôi cố làm cho các cô ấy hiểu là chính các cô ấy phải sang chỗ chúng tôi, nhưng các cô ấy lắc đầu và chỉ những cái cầu; cả các cô ấy cũng không được phép sang. Các cô ấy quay trở lại đi thong thả, ngược dòng kênh và vẫn đi dọc theo bờ. Chúng tôi bơi theo các cô ấy. Được độ vài trăm thước, các cô ấy rẽ khỏi bờ kênh và chỉ cho chúng tôi một ngôi nhà gần đấy, nổi lên giữa đám cây cối và bụi rậm. Lia hỏi eo phải các cô ở đấy chúng. Các cô ấy cười ! Đúng, nhà các cô ấy đấy.
Chúng tôi gào to lên là chúng tôi sẽ sang khi nào tụi lính gác không thể trông thấy chúng tôi. Ban đêm, ngay đêm nay đấy? Các cô ấy giơ tay lên, úp hai bàn tay lại với nhau, rồi để sát mặt và nhắm mắt lại. Các cô ấy đã hiểu.
Cô tóc nâu mảnh khảnh uốn éo đi mấy bước vũ. Cô tóc vàng ỏn ẻn "Bánh ngon. . . bánh thơm. . . " Chúng tôi cam đoan rối rít với các cô ấy là chúng tôi sẽ mang bánh sang. Lại còn nhiều cái khác thú vị nữa cơ. Vừa nói, chúng tôi vừa nhấm nháy và giơ tay làm những dấu hiệu có ý nghĩa. Lia ta suýt chết đuối vì muốn cắt nghĩa là nó muốn mang sang một khúc dồi. Nếu cần, có lẽ chúng tôi hứa với các cô ấy cả một kho lương thực. Các cô bước đi nhưng vẫn còn quay lại nhiều lần. Chúng tôi vào bờ và kiểm tra lại xem có đích là các cô vào cái nhà ấy không, vì có thể là các cô ấy đánh lừa chúng tôi. Rồi chúng tôi lại bơi về chỗ khởi hành.
Không có giấy tờ hợp lệ, không được qua cầu. Vì vậy, ban đêm chỉ còn cách bơi sang thôi. Chúng tôi rạo rực cả người, cái rạo rực không buông tha chúng tôi, làm cho chúng tôi đứng ngồi không yên; chúng tôi đến căng tin, vừa vặn có bia và rượu pơnsơ ( Một thứ rượu pha đường hoặc pha nước chanh. ).
Chúng tôi uống pơnsơ và kể chuyện cho nhau nghe, những câu chuyện ngộ nghĩnh bịa từ đầu đến cuối . Chẳng đứa nào đòi hỏi gì hơn là cứ việc nhắm mắt tin lời thằng cha bên cạnh, và hau háu đợi đến lượt mình lại ba hoa khoác lác một chuyện khác oanh liệt hơn nữa. Chân tay chúng tôi bồn chồn. Chúng tôi hút không biết bao nhiêu là thuốc lá, đến nỗi Cốp nói: "Theo ý mình, chúng ta có thể mang sang cho các nàng mấy điếu thuốc lá nữa". Ấy thế là chúng tôi bỏ thuốc lá vào mũ ca lô và giữ nguyên đấy. Nền trời nhuộm màu táo xanh. Chúng tôi có bốn đứa, mà lại chỉ có ba cô nàng; vì vậy chúng tôi phải làm thế nào rủ được thằng Jađơn ra mới ổn. Chúng tôi ép nó uống rượu rum và rượu pơnsơ cho đến khi nó say mềm ra.
Trời vừa tối mịt, chúng tôi trở về chỗ ở, Jađơn đi giữa ba đứa. Chúng tôi nóng ruột như lửa đốt, lòng tràn đầy ham muốn cái chuyện mới lạ. Cô tóc nâu mảnh dẻ là phần của tôi: chúng tôi đã chia nhau, dứt khoát rồi. Jađơn ngã lăn quay ra ổ rơm, và bắt đầu ngáy; nhưng kìa, nó lại thức dậy, nó vừa nhìn chúng tôi vừa cười khẩy có vẻ ranh mãnh khiến chúng tôi phát hoảng và nghĩ có lẽ nó chỉ giả vờ say rượu, và có lẽ mất toi cái khoản tiền rượu pơnsơ trả cho nó cũng nên; nhưng rồi nó lại ngã xuống và lại ngủ. Mỗi đứa chúng tôi chuẩn bị một cái bánh còn nguyên, lấy giấy báo gói lại . Chúng tôi để thêm vào đấy mấy điếu thuốc lá. Ngoài ra lại có cả ba khúc dồi gan mà chúng tôi vừa lĩnh buổi chiều xong. Thật là một món quà xứng đáng. Tạm thời chúng tôi bỏ tất cả những cái ấy vào những đôi ủng, vì cần phải mang ủng đi để khỏi dẫm phải dây thép gai hoặc mảnh sành khi lên bờ bên kia. Trước hết, vì phải bơi qua kênh, nên chúng tôi không đứa nào phải bận tâm đến cái khoản quần áo, sau nữa, vì là ban đêm và cũng không xa lắm. Chúng tôi khởi hành, tay xách ủng. Chúng tôi nhoài nhanh xuống nước, bơi ngửa, hai tay nâng khỏi đầu đôi ủng với những món nói trên. Chúng tôi rón rén trèo lên bờ kênh bên kia.
Chúng tôi lấy các gói ra khỏi đôi ủng rồi đi ủng vào.
Chúng tôi cắp vào nách những thứ mang theo. Thế là ba đứa bắt đầu đi, ướt như chuột lột, trần như nhộng, tất cả y phục chỉ có mỗi đôi ủng, chúng tôi nhạy thong thả bước một. Chúng tôi tìm thấy ngay ngôi nhà. Nó khuất trong bóng tối của đám bụi rậm. Cát vấp phải một cái rễ cây và xước cả khuỷu tay: "Không hề gì!' - nó nói một cách vui vẻ.
Các cửa sổ đều có ván ngoài. Chúng tôi đi vòng quanh nhà một lượt, và thử nhòm qua những kẽ hở. Chúng tôi đâm ra sốt ruột. Đột nhiên, Cốp có vẻ lưỡng lự:
- Này? Nếu có một cấp chỉ huy đang ở trong ấy thì sao?
- Thì chuồn chứ sao nữa! - Lia cười khẩy.
- Lão ta chỉ việc đọc số hiệu trung đoàn cánh mình ở đây này!
- Anbe vừa nói vừa vỗ vào mông đít.
Cửa ra vào ngôi nhà để ngỏ, ủng của chúng tôi gây ra một vài tiếng động, ,một chiếc bản lề rít lên. Chúng tôi nhìn thấy ánh sáng.
Một cô nàng hoảng sợ rú lên một tiếng. Chúng tôi nói với cô ta bằng thứ tiếng Pháp cố cho thật dễ hiểu: "Này... này... bạn... bạn tết..."
Đồng thời để tranh thủ cảm tình của cô ta, chúng tôi giơ các gói lên.
Bây giờ, chúng tôi trông thấy cả hai cô kia. Cửa mở toang và ánh sáng chiếu vào người chúng tôi. Các cô nàng nhận ra chúng tôi và cả ba cô cười ngặt cười nghẽo về cách ăn mặc của chúng tôi. Các cô đứng trong khung cửa, vặn cả người, gập cả người lại mà cười, gớm cười cười quá thể. Thân hình các cô mới uyển chuyển làm sao.
- Đợi một tí nhé! - Các cô nói.
Các cô biến mất rồi vất cho chúng tôi một đống khăn áo, chúng tôi lấy quấn bừa vào người. Sau đó chúng tôi được phép vào.
Một ngọn đèn nhỏ thắp trong nhà. Có vẻ ấm cúng, lại thoang thoảng mùi nước hoa. Chúng tôi giở các gói ra và đưa cho các cô nàng. Mắt các cô sáng lên, đúng là các cô đang đói.
Sau đó, cả ba đứa đâm ra hơi lúng túng. Lia làm bộ điệu muốn ăn. Thế là quang cảnh lại nhộn lên; các cô đi lấy nĩa và dao rồi sà ngay vào đám đồ ăn.
Đầu tiên trước khi ăn một khoanh dồi gan, các cô lại giơ nó lên, có vẻ thán phục lắm; còn chúng tôi ngồi bên các cô, rất hãnh diện.
Các cô nói huyên thuyên với chúng tôi. Chúng tôi chẳng hiểu gì mấy những điều các cô nói, nhưng chúng tôi cảm thấy toàn là những lời lẽ đáng yêu cả.
Có lẽ các cô ấy cũng cảm cái tuổi trẻ măng của chúng tôi chăng; cô nàng tóc nâu mảnh khảnh vuốt ve tóc tôi và nói với tôi cái điều mà tất cả những người đàn bà Pháp, bao giờ cũng nói: "Chiến tranh... tai hoạ lớn... những chàng trai khốn khổ..." Tôi nắm lấy cánh tay cô nàng, ghì chặt lấy và đặt miệng vào lòng bàn tay nàng. Ngón tay nàng ghì chặt lấy mặt tôi. Phía trên tôi là đôi mắt đầy xúc cảm, là làn da nâu mát rợi và đôi môi đỏ thắm. Miệng nàng nói những lời mà tôi không hiểu. Tôi cũng không hiểu hết được ý tứ của đôi mắt nàng, chúng nói nhiều hơn là chúng tôi mong đợi khi tới đây.
Bên cạnh có nhiều buồng. Tôi vừa bước vào, đã thấy Lia nói bô bô với cô nàng tóc vàng và tiến hành một cách táo bạo. Thực ra nó đã thông thạo cái khoản ấy; nhưng tôi, tôi bị lạc vào một cõi xa lạ, vừa dịu dàng lại vừa mãnh liệt, và tôi cứ thả mình vào đó . Tôi cảm thấy trong tôi có một cái gì vừa khát khao lại vừa chìm đắm. Đầu óc tôi quay cuồng. Ở đây chẳng có gì để bấu víu cả. Chúng tôi để ủng ngoài cửa; các cô đã thay cho bằng những đôi dép ngủ và thế là bây giờ tôi chẳng còn cái gì là tư thế mã thượng và lấc xấc của anh lính nữa: không súng, không thắt lưng, không quân phục, không mũ. Tôi rơi vào chốn lạ lùng này, thôi thì muốn ra sao thì ra, vì dẫu sao tôi cũng hơi rờn rợn.
Cô nàng tóc nâu nhíu đôi lông mày lại, mỗi khi nàng suy nghĩ. Khi nàng nói thì đôi lông mày không động đậy.
Cũng có đôi lúc, điều nàng nói chỉ thốt ra nửa chừng, bị nghẹn lại hoặc lướt nhẹ trên đầu tôi; thật như một cánh cung, một đường đạn, một ngôi sao chổi. Tôi hiểu như thế nào? Những lời lẽ của cái tiếng ngoại quốc mà tôi chỉ biết lõm bõm, ru ngủ tôi, dìm tôi vào một cảnh tĩnh mịch, trong đó căn buồng gần như biến đi cùng với những bóng tối và ánh sáng của nó, trong đó chỉ còn rõ nét, chỉ còn sống có mỗi cái mặt người phía trên tôi.
Thật khó hiểu biết bao, cái khuôn mặt mới một giờ trước đây còn lạ lùng, thế mà bây giờ cúi xuống với một dáng điệu âu yếm, cái dáng điệu không phải tự nó mà có, mà từ bóng đêm, từ vũ trụ, từ dòng máu như đang tỏa ánh sáng trên nó. Những đồ vật chung quanh đều bị ảnh hưởng và biến dạng bởi cái môi trường này, chúng khoác một hình thù đặc biệt và nước da trắng trẻo của tôi gần như gây cho tôi một cảm giác tôn sùng, khi ánh sáng ngọn đèn chiếu vào nó và khi bàn tay nâu và mát rượi vuốt ve nó.
Tất cả cái này khác xa biết bao cảnh nhà thổ lính mà chúng tôi được phép đi, và chúng tôi phải đứng nối đuôi thành hàng dài! Tôi không muốn nghĩ đến chuyện đó nữa, nhưng kỷ niệm ấy vẫn ám ảnh tôi và làm tôi phát khiếp, vì có lẽ chúng tôi không bao giờ có cách gì rũ sạch nó đi được.
Nhưng lúc này tôi cảm thấy đôi môi của nàng tóc nâu mảnh khảnh và tôi vươn về phía đôi môi ấy; tôi nhắm mắt lại và qua đó, tôi muốn xóa bỏ tất cả, chiến tranh, những sự kinh khủng, những sự nhục nhã của nó, để khi tỉnh dậy sẽ trẻ trung và sung sướng. Tôi nghĩ đến hình ảnh cô thiếu nữ ở tờ quảng cáo, và trong chốc lát, tôi tưởng cuộc đời tôi chỉ tuỳ thuộc có một điều: chinh phục được nàng. Tôi càng ghì người vào trong đôi cánh tay đang ôm chặt lấy tôi: có lẽ sẽ xảy ra một sự kỳ diệu chăng... Sau cùng, tôi không hiểu sao cả ba đứa tôi lại trông thấy nhau. Lia có dáng điệu đắc thắng. Chúng tôi chia tay các cô nàng một cách đằm thắm và đi ủng vào.
Không khí ban đêm xoa dịu những tấm thân nóng bừng của chúng tôi . Những cây bạch dương đứng sừng sững và rì rào trong bóng tối. Vầng trăng lấp lánh trên trời và trên dòng nước của con kênh. Chúng tôi không chạy, chúng tôi rảo bước cạnh nhau. Lia nói:
- Cũng đáng một cái bánh lính đấy!
Tôi không biết nói gì; tôi cũng chẳng vui nữa.
Bỗng, có tiếng chân bước, chúng tôi liền ẩn sau một bụi rậm. Bước chân mỗi lúc một gần, và bây giờ đến sát chúng tôi. Chúng tôi thấy một gã trần truồng cũng đi ủng, y hệt bọn tôi nó cắp một gói ở cánh tay và chạy lồng lên. Đúng Jađơn, cu cậu đang vội quá.
Cu cậu đã biến mất.
Chúng tôi cười. Ngày mai thế nào nó chả chửi om lên!
Chúng tôi về ổ rơm, chẳng ai biết tí gì cả.
Tôi được gọi lên văn phòng, viên chỉ huy đại đội chìa cho tôi một cái giấy phép và một tờ giấy đi đường, rồi ông ta chúc tôi lên đường bình an. Tôi nhìn xem được bao nhiêu ngày phép: mười bảy ngày. Mười bốn ngày nghỉ và ba ngày đi đường. Đi đường như vậy thì ít quá. Tôi liền hỏi liệu có xin được năm ngày không. Béctinh ra hiệu bảo tôi nhìn kỹ tờ giấy; tôi nhận ra là sẽ không phải trở về ngay mặt trận. Hết hạn phép, tôi sẽ đi dự lớp học ở trại Lăng.
Nhiều đứa ghen với tôi. Cát mách cho tôi nhiều nước hay, bảo tôi cách xoay xở để có thể lẩn được. "Nếu cậu láu thì cậu sẽ ở lì đấy '.
Nói tình thực, tôi chỉ thích độ tám ngày nữa hãy đi, vì chúng tôi còn ở đây trong suốt thời gian ấy và ở đây thật là khoái. Dĩ nhiên, tôi phải đãi một chầu căng tin. Mấy đứa chúng tôi đều ngà ngà say cả. Tôi đâm ra buồn. Tôi sẽ ở lại hậu phương trong sáu tuần lễ, cái đó hẳn là sướng rồi, nhưng lúc trở lại thì ra sao? Liệu có còn gặp nhau đủ mặt không? Hai và Kemơrich đã không còn nữa; đến lượt ai bây giờ đây?
Chúng tôi uống rượu và tôi lần lượt nhìn kỹ từng thằng bạn của tôi. Anbe ngồi cạnh tôi, hút thuốc và rất vui, hai đứa tôi lúc nào cũng có nhau. Cát ngồi trước mặt, hai vai xuôi thõng, ngón tay cái to bè và giọng nói trầm tĩnh. Rồi đến Muynlơ với bộ răng vẩu và tiếng cười như lệnh vỡ. Jađơn với đôi mắt chuột nhắt. Lia để bộ râu trông đến bốn mươi tuổi.
Trên đầu chúng tôi khói bay đặc sệt. Không thuốc lá, đời thằng lính còn ra sao nữa. Căng tin là nhà an dưỡng của hắn, bia không phải chỉ là một thứ đồ uống, mà còn là dấu hiệu có thể nằm dài, ruồi tay ruổi chân không sợ gì nguy hiếm. Sự thực về mặt này chúng tôi chẳng đứa nào ngại tí gì cả. Chúng tôi nằm thẳng cẳng và khạc nhổ bằng thích ra khắp chung quanh, hẵn tạm nói thế đã! Tất cả những cái này ghi vào lòng kẻ ngày mai ra đi một ấn tượng sâu sắc biết bao!
Đêm ấy chúng tôi còn sang bên kia kênh một lần nữa. Tôi hầu như sợ sệt phải nói với cô nàng tóc nâu mảnh khảnh là tôi sẽ đi và khi trở về, tất nhiên lại ở chỗ khác, và như thế là vĩnh biệt nhau; nhưng nàng chỉ gật gật đầu và không có vẻ cảm động lắm. Đầu tiên tôi không thể nào hiểu được, nhưng sau tôi vỡ nhẽ. Lia nói có lý, nếu tôi ra chiến hào thì người ta còn nói: "Chàng trai khốn khổ!" Nhưng một anh lính đi phép thì còn sơ múi gì nữa, các cô nàng chết tiệt này . Quỷ bắt cô ta đi với cái giọng ỏn ẻn và những lời ăn tiếng nói của cô ta! Cứ tưởng là chuyện kỳ diệu, nhưng rút cục, chỉ có bánh lính.
Sáng hôm sau, bắt rận tinh tươm rồi, tôi đi ra phía đường sắt. Anbe và Cát đi tiễn tôi. Ở nhà ga, người ta nói mấy giờ nữa tàu mới chạy. Hai bạn tôi phải trở lại, vì có công tác; chúng tôi chia tay nhau:
- May mắn! Cát nhé! May mắn, Anbe nhé!
Chúng nó đi khỏi và còn vẫy tôi nhiều lần. Bóng chúng nó nhỏ dần. Mỗi bước di, mỗi cử chỉ của chúng nó đều quen thuộc đối với tôi, từ xa tôi có thể dễ dàng nhận ra chúng nó. Thế là chúng nó đã đi khuất hẳn.
Tôi ngồi trên ba lô và đợi. Đột nhiên, tôi nóng ruột như điên đi.
Tôi đã dừng lại ở nhiều ga; tôi đứng trước nhiều cái nồi để người ta phát súp, tôi đã ngả lưng trên nhiều tấm ván. Nhưng rồi sau đó, phong cảnh những nơi con tàu chạy qua dần dần trở nên xao xuyến lòng người, vừa khơi nỗi ưu tư, vừa đượm tình ruột thịt; phong cảnh lướt trên mặt kính chiều với những đàng mạc - có mái tranh úp chụp xuống những ngôi nhà trát vữa và có vách ngăn, như những chiếc mũ ca lô với những cánh đồng lúa, dưới ánh nắng xiên khoai, lấp lóe như ánh xà cừ, với những vườn cây ăn quả, với thùng kho lúa, với những gốc bồ đề già cỗi.
Tên các nhà ga trở nên những điều làm rung động lòng tôi. Con tàu chạy, chạy mãi, rập rình lúc lắc, tôi ngồi cạnh cửa sổ và tì vào thành tàu. Những cái tên đó chứa đựng cả thời niên thiếu của tôi. Đồng cỏ phẳng lì, đồng ruộng, trang trại. ]Một cỗ xe ngựa cô đơn chạy qua trên nền trời, trên con đường song song với chân trời. Đây kia, một chỗ chắn ngang đường, phía trước chắn có những bác nông dân đứng đợi, những thiếu nữ giơ tay vẫy vẫy, những em bé chơi dọn đường, những con đường chạy về tận thôn xóm, những con đường rất bằng phẳng, không có pháo binh.
Buổi chiều, nếu con tàu không kêu ầm ầm chắc tôi phai hét lên. Đồng ruộng trải ra bát ngát; xa xa bóng những dãy núi xiên ngang một màu xanh nhạt bắt đầu nổi lên. Tôi nhận ra cái nét đặc biệt của đỉnh Đôđenbe lởm chởm, đột ngột buông xuống trên ngọn khu rừng. Chính sau ngọn núi đó, thành phố sẽ hiện ra.
Ánh sáng màu vàng son chảy trên mặt đất và hòa với đất; con tàu chạy vào một khúc lượn, kêu rít lên, rồi lại một khúc lượn nữa, và xa tít, những cây bạch dương thẳng tắp có vẻ hư ảo, mơ hồ, mờ mịt, cây nọ nối cây kia thành một hàng dài như toàn bằng bóng tối, ánh sáng và ưu tư.
Đồng quê từ từ xoay tròn với hàng cây, con tàu lượn quanh chúng, các khoảng cách giảm dần, những bóng cây chập lại chỉ còn một khối và, một lát sau, tôi chỉ còn nhìn thấy một cây. Rồi những cây khác lại xuất hiện sau cây đầu tiên, chúng đứng cô đơn như vậy rất lâu, trên nền trời, cho đến lúc chúng bị những ngôi nhà đầu tiên che lấp.
Đây là chỗ đường sắt chạy ngang phố. Tôi ngồi yên cửa sổ không thể rời ra được. Mọi người sửa soạn hành lý để xuống, còn tôi, tôi thầm thì đọc tên phố đi qua: "Phố Brem, phố Brem Brem.. ." Dưới đường có người đi xe đạp, có xe cộ: có người ta. Đấy là một phố màu xám và một cái cầu chui màu lam, thế mà nó làm tôi cảm động khác nào chính mẹ tôi . Rồi con tàu dừng lại, nhà ga đây rồi, với tiếng ồn náo, tiếng gọi nhau và những bảng yết thị. Tôi nhắc ba lô đeo lên vai, xách khẩu súng trường và bước xuống những bậc tàu, gần như loạng choạng. Đứng trên sân ra, tôi nhìn quanh. Tôi chẳng quen một ai trong đám người đang chen chúc ấy. Một bà Hồng thập tự mời tôi uống. Tôi lảng ra. Bà ta cười với tôi một cách ngớ ngẩn, tưởng mình quan trọng lắm (xem, tôi cho anh lính uống cà phê đây!) Bà ta nói với tôi: "Anh bạn ơi", y như tôi cần đến cái tiếng ấy lắm.
Phía ngoài trước ga, một dòng sông lấp lánh chảy cạnh dãy phố. Ra khỏi cửa cổng của chiếc cầu nhà máy xay, con sông reo lên trắng xóa. Ngọn tháp vuông cổ kính đứng sừng sững ngay gần đó; trước tháp, có cây bồ đề thật to màu sắc rực rỡ, và sau tháp là cảnh hoàng hôn.
Nơi đây chúng tôi thường hay ngồi chơi- ngày ấy lâu quá rồi!
Chúng tôi thường đi trên cầu, ngửi mùi mát rượi và khăm khẳm của mặt nước im lìm. Chúng tôi thường hay cúi xuống ngắm dòng nước bình thản phía bên này cống, nơi bao nhiêu cây leo xanh và rong rêu bám lòng thòng ở chân cầu. và phía bên kia cống, những ngày nóng nực chúng tôi vừa hướng luồng hơi mát rượi của bọt nước bắn tung vừa tán gẫu về chuyện các thầy giáo.
Tôi đi qua cầu, nhìn về phía bên phải và bên trái, nước vẫn đầy rong rêu, vẫn lao xuống ầm ầm làm thành một vòng cung trắng xóa. Trong ngọn tháp cổ, các cô thợ là vẫn như ngày trước, cánh tay trần đứng trước đống quần áo trắng, và hơi nóng bàn là đang tỏa ra ngoài cửa sổ mở tung. Lũ chó chạy lon ton trong phố hẹp trước cửa nhà, có những người nhìn tôi đi qua, bẩn thỉu và tay xách nách mang như một anh phu khuân vác. Trong cái hiệu bánh này, chúng tôi dã uống nước đá và tập hút thuốc lá. Trong dãy phố tôi đang đi, tôi thuộc lòng từng ngôi nhà, từng cửa hàng tạp hóa, hiệu thuốc, hiệu bánh; và đây, tôi đến trước cái cửa màu nâu với chiếc then đã mòn; bàn tay tôi cứng đờ ra. Tôi mở, một luồng không khí mát mẻ lạ lùng đón lấy tôi; nó làm tôi mờ cả mắt.
Cầu thang cọt kẹt dưới gót ủng. Phía trên, một cánh cửa rít lên, có ai nhìn qua lan can. Đấy là cửa nhà bếp vừa mở. Người ta đang rán bánh khoai, mùi thơm bay tỏa khắp nhà. Phải, hôm nay là thứ bảy; có lẽ chị tôi đang đứng trên ấy nhìn xuống. Trong khoảng khắc, tôi ngượng ngùng và cúi đầu. Rồi tôi bỏ mũ và ngước mắt lên. Đúng, đúng là chị tôi: "Pôn! Pôn!", chị tôi kêu lên.
Tôi vẫy. Cái ba lô của tôi đụng phải lan can; khẩu súng sao mà nặng thế !
Chị tôi mở toang cửa và kêu lên: "Mẹ. mẹ, Pôn đây này!" Tôi không bước thêm được nữa. "Mẹ, mẹ, Pôn đây này!" .
Tôi dựa vào tường và run run ôm chặt cái mũ và cây súng, tôi ôm chặt với tất cả sức lực của tôi, nhưng tôi không sao đi thêm được một bước nữa. Trước mắt tôi, chiếc cầu thang mờ đi. Tôi thúc một bảng súng vào chân, tôi nghiến răng lại một cách giận dữ, nhưng không sao cưỡng lại được mỗi một câu nói ấy của chị tôi; không làm thế nào được. Tôi tự dày vò, bắt mình phải cười, phải nói, nhưng không tài nào thốt ra được một tiếng, cứ thế, tôi đứng sững ở cầu thang, khổ sở, bối rối, như bị một cơn biến chứng ghê gớm; tôi cố trấn tĩnh lại, nhưng nước mắt cứ trào ra, ướt đẫm cả mặt. . Chị tôi trở ra. và hỏi: - “Em sao thế ?”
Lúc ấy, tôi cố trấn tĩnh, đi thẳng đến phòng đợi, vừa đi vừa vấp. Tôi dựng khẩu súng vào một góc, đặt ba lô sát tường rồi để cái mũ lên trên. Tôi phải cởi ngay thắt lưng và những thứ móc vào đấy ra mới dược. Rồi tôi nói một cách giận dữ: "Đưa tôi cái khăn tay nào . Chị tôi lấy cái khăn tay trong tủ ra cho tôi, tôi lau mặt. Phía trên đầu tôi, vẫn còn nguyên một cái hộp thuỷ tinh treo trên tường, trong đựng đủ các thứ bươm bướm nhiều màu sắc mà ngày trước tôi sưu tầm. Lúc này, tôi chờ mẹ tôi lên tiếng. Tiếng nói ấy vọng ra từ buồng ngủ. Tôi hỏi chị tôi:
- Mẹ chưa dậy sao?
- Mẹ ốm..., - chị tôi. trả lời.
Tôi bước đến bên mẹ tôi, đưa tay cho mẹ tôi cầm và nói với mẹ tôi bằng một giọng cố hết sức bình tĩnh:
- Con đây, mẹ ạ.
Mẹ tôi nằm im lặng, trong chỗ tranh tối tranh sáng . Mẹ tôi hỏi tôi một cách lo lắng, trong khi ấy tôi cảm thấy như đôi mắt mẹ đang sờ nắn người tôi:
- Con có bị thương không?
- Không, con được về phép.
Mẹ tôi xanh quá, tôi sợ không dám để ánh sáng vào nhiều.
- Thế mà đáng lẽ phải vui mừng thì mẹ lại cứ nằm đây mà khóc, - mẹ tôi nói.
- Mẹ ốm hả mẹ?
- Hôm nay mẹ sẽ dậy một tí. .
Rồi mẹ tôi quay về phía chị tôi, chị tôi cứ chốc chốc lại phải nhảy vào bếp, sợ cháy mất cái món đang làm.
- Mày mở cả cái lọ mứt quất ra nhé. Con thích quất phải không? - Mẹ tôi hỏi.
- Vâng, mẹ ạ, đã lâu con không được ăn quất.
Y như là cả nhà đã biết trước cậu về? - Chị tôi vừa nói vừa cười. - Vừa đúng nhà làm cái món cậu thích, món bánh rán khoai, lại thêm cả mứt quất nữa nhé.
- Nhưng phải nói hôm nay là thứ bảy, - tôi nói.
- Ngồi xuống bên mẹ, con, - mẹ tôi nói. .
- Mẹ nhìn tôi, tay mẹ tôi trắng nhợt, ốm yếu và so với bàn tay tôi thì gầy bé quá. Hai mẹ con nói với nhau rất ít và tôi rất biết ơn mẹ tôi vì mẹ không hỏi gì cả . Vả lại tôi biết trả lời ra sao? Rút cuộc tôi cũng chẳng có gì đáng than phiền vì tôi đã về đây, khỏe mạnh, ngồi cạnh mẹ và trong bếp, chị tôi vừa hát vừa làm bữa ăn chiều . - Con yêu quý của mẹ ơi ! - Mẹ tôi nói khe khẽ.
Gia đình tôi không bao giờ âu yếm nhau một cách lộ liễu quá . Đó không phải là thói quen của người nghèo khổ phải lam lũ vất vả và quá nhiều lo lắng.
Thậm chí họ cũng không hiểu nổi những kiểu cách ấy nữa, và họ không thích nhắc đi nhắc lại những cái mà họ đã biết rồi. Khi mẹ tôi nói với tôi: "Con yêu quý của mẹ ơi", thì cũng có nghĩa như một bà mẹ nói những lời đằm thắm cảm động nhất. Tôi biết lọ mứt quất là lọ mứt duy nhất của nhà tôi đã để từ lâu, mẹ đã để phần tôi, cũng như bánh bích quy mà mẹ đang cho tôi ăn bây giờ, cũng đã để từ lâu.
Chắc hẳn những cái bánh này đã do một sự tình cờ đặc biệt nào mà có, và mẹ tôi đã cất ngay đi để dành cho tôi.
Tôi ngồi xuống cạnh giường mẹ tôi; qua cửa sổ, những cây dẻ trong vườn, cái quán cà phê trước mặt, ánh lên những tia nâu sẫm và vàng rực. Tôi thở hít thong thả, thật thoải mái và tự nhủ: "Mình đang ở nhà, mình đang ở nhà". Nhưng tôi vẫn chưa hết ngượng nghịu, tôi chưa thích nghi được với tất cả những cái này...
Đây là mẹ tôi, đây là chị tôi, đây là cái hộp bươm bướm của tôi, đây là cái đàn dương cầm bằng gỗ đào hoa tâm, nhưng tôi vẫn còn ngơ ngác. Có một tấm màn và một khoảng cách giữa con người tôi với sự vật .Vì vậy bây giờ tôi đi lấy cái ba lô, tôi đặt nó lên cạnh giường, tôi lấy ra những thứ tôi mang về: một cục pho mát Hà Lan còn nguyên mà Cát đã xoay cho tôi, hai cái bánh lính, ba lạng bơ, hai hộp dồi gan, nửa cân mỡ và một túi gạo nhỏ.
- Chắc mẹ và chị dùng được những cái này. . .
Mẹ và chị tôi gật đầu.
- Có lẽ ở đây tiếp tế cũng khó khăn đấy nhỉ?
- Chẳng có mấy tí. Thế ngoài ấy có khá không?
Tôi mỉm cười và chỉ những thứ tôi mang về.
- Không phải bao giờ cũng được thế này đâu, nhưng kể ra cũng tương đối.
Chị Ecna tôi cất những thức ăn đi. Chợt mẹ tôi nắm chặt lấy tay tôi và hỏi bằng một giọng ngập ngừng:
- Ngoài ấy chắc gay go lắm phải không Pôn?
“Mẹ ơi, con biết trả lời mẹ thế nào đây? Mẹ sẽ không hiểu được đâu. Vả lại, mẹ cũng chẳng bao giờ nên hiểu làm gì. Mẹ hỏi có gay go không? Chính mẹ lại hỏi con câu đó sao, mẹ!”
Tôi lắc đầu và nói :
- Không mẹ ạ, chẳng gay lắm đâu. Chúng con ở ngoài đó có rất nhiều bạn bè, và cũng không gay lắm đâu.
– Ờ, nhưng vừa rồi Hăng ri Brêđêmâyơ về đây, nó kể chuyện ngoài ấy bây giờ khiếp lắm, có hơi ngạt và bao nhiêu cái gì nữa cơ mà.
Chính mẹ tôi nói như thế đấy. Mẹ nói: "Có hơi ngạt với lại bao nhiêu cái gì nữa?" Mẹ không hiểu cái mẹ nói là gì đâu. Chẳng qua mẹ lo cho tôi mà thôi.
Tôi có nên kể cho mẹ tôi nghe, một lần chúng tôi đã thấy những kẻ chiếm lĩnh ba chiến hào địch bị chết cứng, khác nào bị sét đánh không? Họ đứng hoặc nằm trên luỹ, trong hầm, ngay tại chỗ họ bị đánh bất chợt, mặt mũi xám ngoét, chết.
- A, mẹ ơi, họ nói thế thôi! Brêdêmâyơ kể những chuyện đó chẳng qua là để làm quà thôi. Mẹ xem đấy con vẫn khỏe và lại béo ra nữa chứ...
Trước sự lo lắng của mẹ tôi, tới lại trở nên hoàn toàn bình tĩnh. Bây giờ tôi có thể đi đi lại lại, nói năng và trả lời, không còn sợ bất chợt phải dựa vào tường vì vũ trụ mềm nhũn ra như cao su và những mạch máu của tôi trở nên khô khốc như bùi nhùi nhóm lửa.
Mẹ tôi muốn ngồi dậy; trong lúc đó tôi vào bếp tìm chị tôi.
- Mẹ làm sao thế ? - Tôi hỏi.
Chị tôi nhún vai:
- Mẹ nằm mấy tháng nay rồi đấy. Nhưng mẹ không muốn nhà viết thư cho cậu biết. Những thầy thuốc đã đến xem cho mẹ. Có một ông bảo có lẽ vẫn là cái bệnh ung thư của mẹ đấy thôi!
Tôi đến phòng quân sự để xin chứng thực vào giấy phép. Tôi đi thong thả qua những đường phố.
Thỉnh thoảng có người chào tôi. Tôi không dừng lại lâu vì không thích chuyện trò nhiều.
Ở trại lính về, tôi nghe có tiếng người gọi thật to.
Tôi quay lại, vẫn mải theo đuổi những ý nghĩ của mình; trước mặt tôi là một viên thiếu tá. ông ta hoạnh:
- Anh không chào ta hả?
- Thưa ngài thiếu tá, xin lỗi ngài, tôi không trông thấy ngài. - Tôi luống cuống trả lời.
Ông ta quát to hơn:
- Anh không thể ăn nói phép tắc hơn hả?
Tôi chỉ muốn tát cho hắn một cái, nhưng tôi kìm lại được, nếu không thì đi đứt cái khoản nghỉ phép.
Tôi cứng người lại theo đúng kiểu nhà binh và nói:
- Báo cáo, tôi không trông thấy ngài thiếu tá!
- Vậy thì coi chừng, - hắn ta xẵng giọng. - Tên anh là gì?
Tôi nói tên.
Cái mặt đỏ gay của hắn vẫn còn bừng bừng tức giận.
- Đơn vị nào?
Tôi trả lời theo đúng quy tắc. Nhưng vẫn chưa đủ đối với hắn.
- Ở đâu?
Nhưng lúc này, tôi đã phát bực và nói với hắn:
- Giữa khoảng Langơmat và Bitsút.
- Hả? - Hắn hỏi có vẻ hơi ngạc nhiên.
Tôi trình bày với hắn là tôi được về phép độ một tiếng đồng hồ, tôi nghĩ rằng hắn sẽ dịu đi. Nhưng tôi nhầm, hắn lại càng cáu hơn nữa.
- À, anh muốn mang cái thói ở mặt trận về đây hả? Nhưng vô ích thôi! Ở đây, nhờ ơn trời, vẫn có trật tự nghe không ?
Hắn ra lệnh:
- Lùi hai mươi bước, bước!
Tôi giận tím người, nhưng không thể nào cưỡng lại hắn được, nếu hắn muốn, hắn có thể tống giam tôi tức khắc . Vì vậy tôi bước lui một cách mạnh mẽ, rồi tôi tiến lên, khi cách hắn độ năm sáu thước, tôi cứng người lên, chào một cách bực bội, rồi giữ nguyên tư thế chào như vậy cho đến khi vượt quá hắn sáu thước.
Hắn gọi tôi lại, ra bộ nhân nghĩa bảo cho tôi biết rằng một lần nữa, hắn đã khoan hồng hơn là áp dụng kỷ luật quân sự đối với tôi. Tôi tỏ lòng biết ơn, theo đúng kiểu cách nhà binh.
- Giải tán! - Hắn ra lệnh.
Tôi đập gót đánh chát rồi đi.
Thế là hỏng cả buổi chiều. Tôi về nhà, vất bộ đồng phục vào một xó; đó cũng là dụng ý của tôi; sau đó tôi lấy bộ quần áo thường trong tủ ra xỏ tay vào.
Tôi không quen mặc thường phục nữa. Bộ quần áo đã ngắn và chật. Ở trung đoàn, tôi đã lớn lên. Đeo cổ cồn và thắt ca vát vào vất vả quá. Cuối cùng chính chị tôi thắt hộ ca vát. Ôi, bộ quần áo mới nhẹ nhõm làm sao. Tôi có cảm tưởng chỉ mặc áo lót và quần đùi.
Tôi ngắm mình trong gương. Thật là một hình ảnh lạ lùng. Một cậu bé chịu lễ lần đầu, da cháy nắng và chóng lớn như thổi, nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên. Mẹ tôi lấy làm hài lòng thấy tôi mạc thường phục. Như thế có vẻ gần gũi mẹ hơn. Nhưng cha tôi lại thích tôi mặc quân phục để đưa tôi đến chơi các bạn; tôi từ chối.
Được ngồi yên một chỗ nào đó thì thật là dễ chịu.
Thí dụ trong khu vườn của quán cà phê trước nhà tôi dưới bóng những cây dẻ, cảnh sân chơi ki . Lá rụng xuống mặt bàn và mặt đất. Đấy chỉ là vài cái lá đầu mùa. Trước mặt tôi có một cốc bia; ở trung đoàn tôi đã đâm nghiện. Cốc đã cạn một nửa. Tôi còn làm được vài hụm thật mát nữa, ngoài ra tôi có thế gọi thêm cốc thứ hai, cốc thứ ba nữa, nếu tôi thích.
Chẳng có điểm danh, cũng chẳng có bánh quét. Lũ trẻ con nhà ông chủ quan cà phê đang chơi ki, và con chó gục đầu lên đầu gối tôi. Trời xanh, qua cành lá, những cây dẻ, chiếc tháp chuông màu xanh của nhà thờ thánh Macgơrit đâm vút lên.
Cứ thế này thì tốt quá, tôi cảm thấy dễ chịu.
Nhưng tôi không thể hòa được với mọi người. Cái người duy nhất không hỏi tôi, là mẹ tôi. Còn cha tôi thì cũng như mọi người khác. Ông cụ bắt tôi kể những chuyện ở mặt trận. ông cụ có những ý muốn mà tôi thấy vừa ngớ ngẩn vừa cảm động. Tôi đâm ra không thực sự thân thiết với ông cụ nữa. Cái điều cha tôi muốn là cứ được nghe tôi kể chuyện, nghe mãi. Tôi thấy cha tôi không hiểu rằng những chuyện như vậy không thể kể ra hết được, vậy mà tôi cũng muốn làm vui lòng cha tôi. Nhưng phải mô tả những cái ấy bằng lời thì thật nguy cho tôi quá; tôi sợ nó bị thổi phồng lên một cách ghê gớm, rồi không thể hãm lại được nữa. Chúng ta sẽ nghĩ gì nếu biết thật rõ ràng những cái gì đã xảy ra ngoài đấy? Vì thế tôi. chỉ kể vài ba câu chuyện lăng nhăng thôi, nhưng cha tôi lại hỏi tôi đã đánh giáp lá cà bao giờ chưa. Tôi nói chưa và đứng dậy đi ra phố. Nhưng ,cũng chẳng hơn gì. Sau khi bị hoảng lên mấy lần vì tiếng tàu điện mà tôi cứ tưởng như trái phá gầm lên, sắp rơi xuống đến nơi, thì có người vỗ vai tôi. Đó là giáo sư dạy tiếng Đức của tôi, ông tíu tít hỏi những câu thường lệ: "Thế nào, ở ngoài ấy ra sao? ghê lắm, ghê lắm phỏng? Ừ, khiếp thật đấy, nhưng chúng ta nhất định phải giữ vững chứ, mấy lại người ta nói ở ngoài ấy ít ra các anh cũng được ăn uống khá. Pôn, trông anh khá đấy. Anh có vẻ khỏe lắm; còn ở nhà tất nhiên không được thế đâu; cũng là lẽ tự nhiên thôi. Ngay cái việc ấy cũng phải như thế; cái gì quý nhất bao giờ cũng phải dành cho chiến sĩ chứ". Ông ta kéo tôi vào quán cà phê, ngồi vào bàn khách quen. Tôi được tiếp đãi long trọng quá. Một ông đeo cái chức giám đốc, chìa tay cho tôi và nói: "A! Anh ở mặt trận về. Tinh thần ngoài ấy ra sao? Tót lắm, tốt lắm phải không?" Tôi tuyên bố là ai cũng muốn về nhà cả. Ông ta cười ha hả: "Anh nói đúng thôi! Nhưng trước hết phải giã cho tụi Pháp tặc một trận nên thân đã chứ. Anh hút nhé! Này, làm một điếu. Bé con, đem một cốc bia cho người chiến sĩ trẻ tuổi của chúng ta nhé?"
Tôi vô phúc đã nhận điếu xì gà; thế là phải ngồi nán lại. Ai cũng tràn ngập lòng tử tế. Chả còn trách vào đâu được Những vì vẫn thấy bực bội nên hút thật nhanh. Nhưng ít ra cũng phai làm một việc gì, tôi vội nốc một hơi hết cốc bia. Người ta mang ngay đến cốc thứ hai. Mọi người đều hiểu mình phải chịu ơn một người lính như thế nào. Họ cãi nhau về chuyện chúng ta phải sát nhập những vùng nào. Vị giám đốc đeo cái dây đồng hồ bằng sắt, tham ăn nhất, ông ta muốn nuốt cả nước Bỉ, những vùng mỏ than của nước Pháp, và những miếng rõ to của nước Nga. Ông ta nêu những lý do xác đáng tại sao phải chiếm. Còn người nào không chịu, ông ta còn cãi cho bằng được. Thế rồi ông ta bắt đầu trình bày cần phải chọc thủng mặt trận Pháp ở chỗ nào, xong đâu đấy ông ta quay về phía tôi: "Này, ngoài ấy các anh phải tiến lên một tí chứ, cứ mãi cái lối chiến tranh trận địa ấy ư. Cứ giã cho cái lũ chó má ấy một trận nhừ tử là chúng mình sẽ có hòa bình".
Tôi trả lời là theo chúng tôi thì không thể chọc thủng mặt trận được, vì đối phương có nhiều lực lượng dự trữ quá để chống đỡ. Ngoài ra, tôi còn nói là chiến tranh không giống như người ta tưởng đâu. Ông ta cãi lại với một vẻ bề trên và chứng minh là tôi chẳng hiểu gì về việc ấy cả. "Dĩ nhiên, về chi tiết thì anh nói đúng”, ông ta nói - "Nhưng điều quan trọng là cái toàn cục, mà cái đó thì anh chưa đủ sức phán đoán. Anh chỉ nhìn thấy khu vực nhỏ bé của anh, cho nên anh không bao quát được tất cả. Các anh làm nghĩa vụ, hy sinh cả tính mạng mình, điều đó xứng đáng được những vinh dự cao quý nhất. Các anh mỗi người phải được huân chương chữ thập sắt mới đáng. Nhưng trước hết phải chọc thủng phòng tuyến địch ở Flăngđrơ rồi sau đó quật cho nó ụp từ nên xuống dưới!" Ông ta thở hổn hển và lau bộ râu.
"Phải quật cho nó từ trên xuống dưới, rồi tiến thẳng đến Pa-ri".
Tôi muốn hiểu ông ta hình dung sự việc ra sao, và nốc luôn cốc thứ ba ông ta lại gọi ngay một cốc nữa. Nhưng tôi đứng dậy, ông ta còn nhét vào túi tôi mấy điếu xì gà, và chia tay tôi bằng một cái vỗ vai thân mật:
- Nhiệt liệt chúc mừng anh . Mong rằng chẳng bao lâu chúng tôi sẽ được nghe nói đến anh một cách thật vẻ vang.
Trước đây tôi đã nghĩ đến chuyện nghỉ phép một cách khác. Đúng một năm trước, nó khác hẳn bây giờ. Có lẽ chính bản thân tôi đã thay đổi chăng. Từ năm ngoái đến nay, có cả một hố sâu ngăn cách. Lúc ấy tôi chưa biết rõ chiến tranh lắm. Chúng tôi chỉ mới đóng trong những khu vực yên tĩnh. Bây giờ tôi không ngờ rằng mình chán chường đến thế. Ở đây, tôi không thoải mái nữa. Cảnh vật như xa lạ đối với tôi . Người này hỏi, người khác không hỏi, và tỏ vẻ kiêu hãnh về thái độ của họ; nhiều khi chính họ bảo rằng không thể nói những chuyện như thế được, cái giọng ra điều ta đây biết đủ mọi thứ, lại còn làm ra bộ trịch thượng nữa.
Tôi chỉ thích ngồi một mình, không muốn ai quấy rầy. Vì lúc nào ai cũng chỉ xoay quanh những chuyện: “Gay lắm phải không? Thế nào, khá chứ?”
Người này thấy thế này, người kia thấy thế khác, và bao giờ họ cũng chú ý đến những gì có liên quan đến bản thân họ. Trước kia, chắc tôi cũng làm như họ, nhưng bây giờ, khác xa rồi. Tôi thấy người ta nói nhiều quá. Họ có những lo lắng, những mục đích, những ham muốn không giống với tôi. Có lần tôi ngồi với một người trong khu vườn nhỏ của quán cà phê và nói cho ông ta hiểu là tôi chỉ muốn được ngồi yên thân một chỗ. Dĩ nhiên, họ cũng hiểu điều đó; họ cũng nhận ra và cũng tán thành nữa, nhưng với họ chỉ toàn là những lời nói, những lời nói suông thôi, cái khác là ở đó . H ọ cũng cảm thấy điều đó, nhưng chỉ một nửa. Còn nửa kia của con người thì bận vào chỗ khác. Chẳng khác gì họ bị chia xẻ. Chẳng ai cảm thấy điều đó với tất cả con người mình. Tôi không thể tự mình diễn tả ra rõ ràng điều tôi suy nghĩ được.
Khi nhìn thấy họ trong phòng riêng, trong bàn giấy, bận công kia việc nọ, thì tôi bị cái cảnh ấy lôi cuốn không cưỡng lại được; tôi muốn được như họ, sống cùng với họ và quên hẳn chiến tranh đi.
Nhưng đồng thời điều ấy cũng làm tôi ghê tởm. Sao mà nó chật hẹp thế. Cứ như thế thì làm sao đầy một kiếp người được. Phải phá vỡ những cái khung ấy đi chứ. Làm sao lại có thể thế được trong khi 'ngoài kia mảnh trái phá rít lên miệng hố và hỏa pháo vọt lên trời? Trong khi những kẻ bị thương bị lôi lên những tấm vải bạt, và bạn bè của tôi núp trong chiến hào?” Ở đây họ là những sinh vật khác hẳn, những sinh vật mà tôi không hiểu lắm, tôi vừa thèm muốn lại vừa khinh bỉ. Tự nhiên tôi cứ phải nghĩ đến Cát và An be đến Muynlơ và Jađơn: lúc này chúng nó đang làm gì? Chúng nó đang ngồi ở căng tin hay đang bơi lội... Chẵng bao lâu, chúng nó lại phải ra tuyến thứ nhất.
Trong căn phòng của tôi, sau cái bàn, có một chiếc trường kỷ bọc da nâu. Tôi ngồi xuống đó. Trên tường có ghim nhiều tranh ảnh dạo trước tôi cắt ở báo ra. Rải rác có những bưu ảnh và những trang mà tôi rất thích.Trong một góc nhà, có một bếp lò nhỏ bằng sắt. Trước mặt, áp vào tường, một cái giá sách.
Tôi đã sống trong căn phòng này trước khi trở thành anh lính. Những cuốn sách này tôi đã mua dần bằng tiền dạy học thêm. Phần nhiều là sách cũ.
Tất cả tác phẩm cổ điển chẳng hạn: “một cuốn giá một đồng hai, đóng bằng vải dày màu xanh. Tôi đã mua toàn tập vì tôi rất khó tính, tôi không tin được mấy ông xuất bản văn tuyển, sợ họ không chọn được những đoạn hay nhất. Vì vậy tôi chỉ mua những loại toàn tập". Tôi đã đọc rất say sưa, nhưng đa số không làm tôi thích thú. Tôi lại càng tha thiết hơn nữa đối với những loại sách khác, những sách mới, dĩ nhiên đạt hơn nhiều. Có những quyển tôi xoay được bằng cách không chính đính lắm, tôi mượn rồi không trả nữa, vì tôi không muốn rời chúng ra.
Một ngăn chứa đầy sách học. Chúng không được giữ gìn cẩn thận và rất là rách nát. Nhiều tờ bị xé, để làm gì chắc cũng dễ hiểu. Bên dưới là những quyển vở giấy má, thư từ buộc thành gói, những bức vẽ và những bài tập sáng tác.
Tôi cố trở lại thời ấy. Nó vẫn còn trong căn phòng, tôi cảm thấy nó ngay. Những bức tường vẫn còn giữ gìn nó. Hai tay tôi đặt trên trường kỷ. Bây giờ tôi ngồi thật đàng hoàng, co cả hai chân lên, tôi ngồi thoải mái như thế trong một góc, giữa những tay vịn của chiếc trường kỷ. Qua chiếc cửa sổ nhỏ mở toang, hiện lên hình ảnh quen thuộc của dãy phố và chiếc tháp chuông vươn lên ở đầu kia. Trên bàn có vài bông hoa. Bút mực, bút chì vài cái vỏ sò chặn giấy, lọ mực, ở đây chẳng có gì thay đổi cả. Quang cảnh sẽ vẫn thế nếu tôi được may mắn, khi chiến tranh kết liễu, và sẽ được trơ về mãi mãi.
Tôi sẽ cứ ngồi cái kiểu thế này, ngắm gian phòng của tôi và chờ đợi . . .
Tôi cảm thấy bứt rứt, nhưng tôi không muốn bứt rứt như vậy, vả lại cũng không nên bứt rứt làm gì. Tôi muốn như trước kia, khi ngồi trước sách vở, vẫn cảm thấy sự hấp dẫn thầm lặng cái tình quyến luyến mạnh mẽ và khó tả. Tôi muốn cái niềm khát vọng trước kia, từ những gáy sách nhiều màu kia lại dâng lên, lại quyện lấy tôi, tôi muốn nó làm chảy tan cái khối chì nặng trĩu trong tôi để đánh thức dậy trong con người lòng nôn nóng về tương lai, cái niềm vui mọc cánh mà thế giới tư tưởng đem đến cho tôi. Tôi muốn nó đem lại cho tôi cái nhiệt tình đã mất đi của thời niên thiếu.
Tôi ngồi đấy và chờ đợi. Tôi nhớ ra là phải đến thăm mẹ Kemơrich và cũng có thể đến thăm Mitenxtat nữa. Chắc nó ở trại lính. Tôi nhìn qua cửa sổ . Sau hình ảnh dãy phố đầy ánh nắng, nổi lên ngọn đồi mờ nhạt, rồi cảnh đó biến thành một ngày thu trong sáng, tôi đang ngồi trước bếp lửa cùng với Cát và An be, ăn khoai lùi.
Nhưng tôi không muốn nghĩ đến chuyện ấy; tôi gạt cái kỷ niệm ấy ra.
Điều tôi thèm muốn là căn phòng này phải nói lên với tôi, phải quấn quít lấy tôi phải giữ lấy tôi. Tôi muốn được rung cảm mối tình ruột thịt đối với chốn này. Tôi muốn nghe giọng nói của nó, để khi trở lại tiền tuyến, tôi biết được điều này: chiến tranh sẽ bị xóa nhòa và biến mất khi ta trở về nhà; chiến tranh sẽ chấm dứt; nó không ray rứt ta nữa, nó chỉ có quyền lực đối với ta ở cái vỏ bên ngoài thôi.
Những gáy sách vẫn xếp cạnh nhau, tôi vẫn nhận ra chúng, tôi vẫn còn nhớ cách thức tôi xếp đặt chúng. Tôi đưa mắt van nài chúng: "Hãy nói với ta đi, hãy chào đón ta đi, hãy giữ lấy ta đi, ôi cuộc đời xưa cũ, cuộc đời vô tư và đẹp đẽ, hãy giữ lấy ta..." Tôi chờ đợi, tôi chờ đợi...
Bao nhiêu hình ảnh lướt qua trước mặt tôi, chúng không có chiều sâu, chỉ là những bóng mờ kỷ niệm. Chẳng có gì, chẳng có gì cả.
Tôi càng lo lắng.
Đột nhiên một cảm giác ghê gớm trỗi dậy trong tôi. Ở đây tôi là một kẻ xa lạ. Tôi không thể tìm lại ở đây chỗ ngồi quen thuộc nữa. Chẳng khác gì người ta ruồng bỏ tôi. Tha hồ cho tôi kêu nài, van vỉ, chẳng có gì rung cảm cả. Tôi ngồi đấy, lạnh lùng và buồn bã như một kẻ bị kết án, và quá khứ quay lưng lại với tôi . Đồng thời, tôi sợ không dám gợi nhiều đến quá khứ, vì tôi không biết cái gì sẽ đến. Tôi là người lính, tôi không thể rời bỏ cương vị ấy được.
Tôi uể oải đứng dậy, và nhìn qua cửa sổ. Rồi tôi cầm lấy một quyển sách, mở ra, cố đọc một vài đoạn, nhưng rồi lại vất xuống, và cầm một quyển khác. Có những đoạn gạch dưới; tôi tìm, tôi lật vài trang, rồi tôi lại lấy những quyển khác. Cạnh tôi đã có một đống sách. Những quyển khác tiếp tục, bồi thêm vào cái đằng ấy một cách vội vã hơn; rồi cả những tờ giấy, những quyển vở, những bức thư.
Tôi đứng lặng người trước cái đống ấy, như trước một tòa án. Không chút can đảm.
Những tiếng nói, những tiếng nói, những tiếng nói . . . Chúng không đến với tôi.
Tôi thong thả xếp sách vào chỗ cũ.
Thế là hết.
Tôi bước ra khỏi căn phòng không một tiếng động.
Tôi chưa từ bỏ nó hẳn. Đành rằng tôi không trở lại căn phòng của tôi nữa, nhưng tôi tự an ủi rằng, vài ngày chưa phải là quyết định. Rồi đây, sau này, tôi sẽ có thời gian hàng năm cho cái việc ấy. Hiện giờ, tôi đến thăm Mitenxtat ở trại lính và chúng tôi ngồi trong phòng của nó. Tôi không ưa cái không khí ở đây nhưng tôi đã quen với nó. Mitenxtat cho tôi biết một tin khiến tôi giật nẩy người như bị điện giật. Nó cho biết là Căngtôrec đã bị gọi nhập ngũ làm dân vệ.
- Cậu tưởng tượng xem, - nó vừa nói vừa rút ra mấy điếu xì gà ngon, - tớ vừa ở nhà thương ra đến đây và tớ rơi đúng ngay vào lão ta. Lão ta chìa tay ra và cứ quàng quạc: "A, Mitenxtat. Thế nào, khá chứ?”
Tớ trợn tròn mắt nhìn lão và trả lời:
- Dân vệ Căngtôrec, việc công thì cứ phép công(Nguyên văn Pháp: việc là việc, rượu là rượu.), tự anh . Anh phải biết điều đó hơn ai hết chứ. Khi anh nói với cấp trên, đứng ngay ngắn lại! Tớ chỉ muốn cậu nhìn thấy mặt lão ta: thật là cứ ngay đuỗn ra (Nguyên văn Pháp: y như dưa chuột, ngâm dấm, trộn với đạn trái phá thối không nổ.)!" Lại một lần nữa, lão ta rụt rè muốn làm thân với tớ . Thế là tớ lại hoạnh cho một trận dữ hơn. Sau đó lão ta dùng đến cái đòn ác nhất, lão ta nói với tớ bằng giọng bí mật: “anh có cần tôi bảo đảm trong kỳ thi vớt không?" Lão ta muốn nhắc tớ là lão vẫn còn một ưu thế đối với tớ, cậu hiểu chưa. Thế là tớ nổi giận đùng đùng, và tớ, tớ căng nhắc lão ta một điều: "Dân vệ Căngtôrec, hai năm trước, anh đã kêu gào bọn tôi nhập ngũ; ngày ấy Jodep Bem không muốn đi. Nó đã bị giết chết ba tháng trước thời hạn chính thức nó bị động viên. Không có anh, nó đã đợi đến thời gian đó. Thôi, bây giờ giải tán? Chúng ta sẽ xét sau.” Tớ xin điều sang đại đội lão ta rất dễ. Việc đầu tiên là tớ dẫn lão ta đến kho quân nhu, xoay cho lão một bộ quần áo thật bảnh. Cậu có thể thấy ngay tức khắc".
Chúng tôi ra sân, cả đại đội đã xếp hàng. Đại đội dàn ra theo tư thế đứng nghiêm.
Mitenxten hô: "Nghiêm", rồi nó nhìn mọi người.
Lúc ấy, tôi tưởng thấy Căngtôrec và phải cắn môi để khỏi phì cười. Lão ta đóng một cái áo có đuôi tôm, màu xanh lơ bạc phếch. Lưng áo và khuỷu tay vá những miếng dạ màu xâm to tướng. Chắc hẳn cái áo này trước phải là của một gã khổng lồ. Chiếc quần chẽn đen, sờn hết cả, ngắn hơn, chỉ xuống đến nửa bụng chân. Đôi giày rộng quá, cũ rích, rắn như sắt, phía trên ống cong tớn và buộc dây bên cạnh. Trái lại, cái mũ ca lô thì lại bé quá, thật là một cái mũ khốn khổ, đáng cho vào sọt rác, bẩn thỉu đến phát khiếp lên. Toàn bộ thật là thảm hại.
Mitenxtat dừng lại trước lão ta: "Dân vệ Căngtôrec, anh đánh bóng những cái khuy áo như thế hả? Có lẽ anh không học làm bao giờ hả? Đồ tồi, bất lực..."
Trong bụng, tôi rú lên vì khoái trá. Thật y hệt hồi ở lớp Căngtôrec mắng Mitenxtat cũng đúng cái tọng: "Mitenxtat, đồ tồi... đồ bất lực...”
Mitenxtat vẫn tiếp tục chỉ trích: "Hãy nhìn Bôtsơyiem; quần áo anh ta thật là gương mẫu, anh phải học lấy anh ta..." Thật không ngờ. Bôtsơ cũng ở đây, chính anh ta, Bôtsơ, người gác cổng bãi tập thể dục của chúng tôi.
Và quần áo anh ta thật gương mẫu! Căngtôrec nhìn tôi như muốn quất lấy tôi. Còn tôi chỉ cười khẩy vào mặt lão ta một cách thản nhiên y như chẳng quen biết gì lão cả. Lão ta đội cái mũ thổ tả và dõng bộ quân phục trông mới ngu độn làm sao. Ấy thế mà hồi trước, bọn tôi sợ xanh cả mắt khi thấy lão chễm chệ trên bục, gạch bút chì vào bài học Pháp văn của tôi về những động từ bất thường - sau đó, lúc ở Pháp những động từ ấy chẳng giúp ích được việc gì cho chúng tôi cả!
Chỉ mới ngót hai năm thôi, thế mà bây giờ dân vệ Căngtôrec đứng đây, chẳng còn tí uy quyền gì nữa, với cặp đầu gối vòng kiềng, với hai cánh tay khuỳnh khuỳnh như quai nồi, với những cái khuy áo không biết đánh bóng, với một tư thế lố bịch, thật là một bức hi họa về người lính.
Tôi không thể nào kết hợp được hình ảnh này với hình ảnh vị giáo sư đang hung hăng ở trên bục và tôi thực sự muốn biết tôi sẽ làm gì nếu một ngày kia cái gã chó chết này dám hỏi tôi, một người lính cũ, những câu hỏi như: “Bao mơ, hãy đọc thì quá khứ của động từ. . .”
Lúc này, Mitenxtat đang chỉ huy tập những động tác dàn hàng của khinh binh. Nó lại có nhã ý chỉ định Căngtôrec làm tiểu đội trưởng.
Cũng có một lý do đặc biệt đấy, tức là lúc dàn thành hàng khinh binh, tiểu đội trưởng bao giờ cũng phải đứng trước tiểu đội mình hai chục bước. Nếu có lệnh: "Đằng sau quay!" thì cả hàng khinh binh chỉ việc quay nửa vòng, còn tiểu đội trưởng lúc ấy đâm ra đứng sau hàng hai mươi bước, phải chạy lên phía trước đứng cách hàng hai mươi bước đúng như điều lệnh quy định, như thế là phải hộc tốc chạy bốn mươi bước tất cả. Nhưng vừa mới yên chỗ thì lại có lệnh "Đằng sau quay?", thế là anh ta lại phải hộc tốc chạy bốn mươi bước nữa theo chiều ngược lại. Cứ như cách ấy thì cả tiểu đội chỉ việc đằng sau quay một cách nhàn hạ, thêm vài bước nữa là cùng, nhưng tiểu đội trưởng phải chạy đi chạy lại như con thoi.
Đó cũng là một trong nhiều phép tủ của Himmenxtôt. .
Căngtôrec không thể đòi hỏi Mitenxtat đối xử khác được, vì cũng mới đây thôi, chính lão ta đã bắt Himmitenxtat phải lưu ban một năm, và nếu Mitenxtat không biết lợi dụng cái dịp may hiếm có này trước khi trở lại mặt trận thì thật là ngốc quá. Dù sao, có thể là người ta chết thỏa mãn hơn khi gặp được một sự may mắn như thế này trong đời con nhà binh.
Trong khi ấy, Căngtôrec lồng từ phía nọ sang phía kia như con lợn lòi phát điên. Một lúc sau, Mitenxtat ra lệnh ngừng cái trò ấy và bây giờ bắt đầu động tác rất quan trọng, bò toại. Tì đầu gối và khuỷu tay theo đúng tư thế quy định, Căngtôrec trườn cái thân hình mỹ miều của lão ta trên cát, ngay cạnh chúng tôi. Lão ta thở hồng hộc và hơi thở của lão là cả một điệu nhạc.
Mitenxtat khuyến khích, vỗ về anh dân vệ Căngtôrec bằng những lời trích dẫn của vị giáo sư Căngtôrec. "Dân vệ Căngtôrec, chúng ta có hạnh phúc được sống trong một thời đại lớn; vì vậy chúng ta phải hòa mình vào thời đại ấy, phải vượt qua tất cả những cái gì cay đắng..." Căngtôrec khạc ra một mẩu gỗ bẩn đã chui vào mồm lão, mồ hôi lão toát ra đầm đìa.
Mitenxtat cúi xuống bên lão và nói giọng thôi thúc:
- Dân vệ Căngtôrec, không bao giờ nên để những cái nhỏ nhen làm mờ sự kiện lớn.
Tôi ngạc nhiên là sao Căngtôrec không nổi điên lên, nhất là lúc này đúng giờ tập thể dục, Mitenxtat bắt chước đúng hệt lão ta: nó túm lấy đũng quần của lão, nhấc bổng lão lên xà đơn, để cho cằm của lão đập thật mạnh vào cái xà ngang, dĩ nhiên là vừa làm nó vừa tuôn ra với lão nhung lời lẽ cao siêu.Ngày xưa, Căngtôrec đã đối với nó đúng hệt như thế. Sau đó, người ta phân phối tạp dịch. "Căngtôrec, Bôtsơ, đi lấy bánh ở xưởng bánh quân đội. Các anh mang xe bò đi".
Vài phút sau, hai chàng đi ra với cái xe. Căngtôrec hằm hằm cúi mặt xuống, còn anh gác cống thì lại hãnh diện vì công việc nhẹ nhàng.
Xưởng bánh quân đội ở tận đầu kia của thành phố. Hai người phải đi qua suốt thành phố hai lần.
- Họ làm thế đã mấy hôm nay rồi đấy, - Mitenxtat cười khẩy. - Lúc này, có nhiều người đang đợi xem họ đi qua đấy.
- Tuyệt quá, - tôi nói, - nhưng lão ta không khiếu nại gì sao?
- Lão cũng đã thử rồi. Nhưng viên chỉ huy của chúng tớ cười bò ra khi ông ta nghe rõ câu chuyện.
Ông ta không chịu được cái bọn thầy giáo. Hơn nữa, tớ cũng đang lơn con gái ông ta mà.
- Lão ta sẽ làm hại cậu trong kỳ thi cho mà xem.
- Tớ cóc cần. - Mitenxtat nói một cách thản nhiên. - Vả lại, lời khiếu nại của lão ta cũng chẳng nước mẹ gì, vì tớ đã chứng minh được rằng phần lớn công việc của lão ta rất là nhẹ nhàng. - Cậu có thể nện cho lão ta một trận ra trò không?
- Như thế thì tệ quá, - Mitenxtat trá lời bằng một giọng hùng hồn và độ lượng.
Nghỉ phép là gì? Là một sự thay đổi làm cho mọi chuyện sau đó trở nên nặng nề gấp bội. Ngay từ bây giờ đã phải nghĩ đến ngày di. Mẹ tôi lặng lẽ nhìn tôi.
Mẹ tôi đếm từng ngày, tôi biết; sáng nào mẹ tôi cũng buồn: lại bớt một ngày, chắc mẹ tôi nghĩ thế. Mẹ tôi đã cất cái ba lô của tôi đi, vì mẹ không muốn nó nhắc nhở điều tất yếu tàn nhẫn.
Thời gian trôi mau, khi người ta nghiền ngẫm nhiều ý nghĩ. Tôi cố giữ vẻ bình thản và đi cùng chị tôi . Chị tôi đến lò sát sinh mua vài cân xương. Mua được là cả một đặc ân lớn; từ sáng sớm, hàng người đã xếp hàng dài dằng dặc. Nhiều người ngã vì nhọc quá. Chúng tôi đen đủi quá, sau khi đợi mất ba tiếng đồng hồ, người nọ thay phiên người kia, hàng người giải tán, chẳng còn gì nữa. May sao, lương thực của tôi được bảo đảm. Tôi lại mang một ít về cho mẹ tôi, cho nên gia đình có cái ăn khá hơn một chút.
Ngày giờ trở nên nặng nề hơn, và đôi mắt mẹ tôi lại càng thêm phiền muộn.
Chỉ còn bốn ngày nữa. Tôi phải đi thăm mẹ Kemơrich mới được.
Không tài nào mô tả nổi cái cảnh ấy: bà cụ run rẩy và nức nở, vừa lay tôi vừa kêu gào: "Tại sao cháu sống mà nó lại chết?" Để nước mắt chan hòa lên cả người tôi, bà cụ nói: "Tại sao những đứa trẻ như chúng mày mà lại phải ra đấy?" Bà cụ ngồi phịch xuống một cái ghế và khóc: "Cháu có nhìn thấy nó không? Lúc ấy cháu có nhìn thấy nó không? Nó chết ra làm sao . " Tôi trả lời là nó đã bị một viên đạn trúng tim và chết ngay tức khắc. Bà cụ nhìn tôi có vẻ ngờ vực.
- Cháu nói dối, bác biết không phải thế đâu, trong thâm tâm bác cảm thấy là nó chết khổ chết sở lắm mà . Bác nghe thấy tiếng nó kêu mà, ban đêm bác mơ thấy nó trăn trở dẫy duạ mà. Cháu nói thật cho bác biết đi, bác muốn biết, bác cần phải biết mà.
- Không bác ạ, - tôi nói, - Cháu ở bên nó, nó chết ngay lập tức, thật đấy.
Bà cụ khe khẽ van vỉ tôi:
- Nói cho bác biết đi. Cần phải nói. Bác biết cháu muốn an ủi bác thôi. Nhưng cháu không thấy rằng cháu làm bác khổ hơn là cứ nói thật hay sao? Bác không thể nào chịu được cái nỗi phấp phỏng như thế này đâu. Nói cho bác biết đầu đuôi như thế nào, dù kinh khủng đến mấy cũng được. Như vậy còn hơn là để bác nghĩ vơ nghĩ vẩn. Không bao giờ tôi kể cho bà cụ nghe câu chuyện đã xảy ra đâu. Thà rằng bà cụ xả tôi ra làm trăm mảnh đi nữa. Tôi thương bà cụ, nhưng thấy bà cụ cũng hơi ngớ ngẩn. Đáng lẽ cụ nên thỏa mãn với những lời tôi nói mới phải, vì dù bà cụ biết hay không biết sự thực, Kemơrich cũng không phải vì thế mà sống lại được. Khi đã nhìn thấy quá nhiều người chết, người ta không thể hiểu nổi sự đau thương quá đỗi như vậy đối riêng với một người. Cho nên tôi nói với bà cụ, giọng hơi sốt ruột:
- Cháu đã nói với bác là nó chết ngay lập tức mà; nó chẳng đau đớn gì cả. Nét mặt nó hoàn toàn thanh thản.
Bà cụ im. Rồi bà cụ thong thả hỏi tôi:
- Cháu có dám thề không?
- Có . Thề trước tất cả những cái gì thiêng liêng đối với cháu chứ?
Trời! Cái gì là thiêng liêng đối với tôi bây giờ? Ở chỗ chúng tôi, những cái ấy thay đổi xoành xoạch.
- Vâng, nó chết ngay lập tức mà.
Cháu có dám thề là sẽ không trở về nữa nếu cháu nói dối không?
- Cháu sẽ không trở về, nếu nó không chết ngay.
Tôi còn thề bồi chẳng biết những gì nữa; nhưng bà cụ đã có vẻ tin tôi.
Bà cụ rên rỉ và khóc rít rất lâu. Bà cụ bắt tôi phải kể cho nghe chuyện ngoài ấy và tôi bịa ra một câu chuyện mà bây giờ chính tôi cũng gần tin là có thực.
Khi tôi ra về, bà cụ ôm hôn tôi và tặng tôi một bức ảnh của Kemơrich. Nó đứng đó, trong bộ đồng phục tân binh, tì tay vào một chiếc bàn tròn, chân bàn bằng cành cây phong, vẫn còn dính cả vỏ cây. Hậu cảnh là một khu rừng vẽ. Trên bàn có một cốc bia.
Đây là đêm cuối cùng tôi còn ở nhà. Mọi người đều trầm lặng. Tôi đi ngủ sớm. Tôi ôm lấy gối, tôi ghì chúng vào người, tôi vục đầu vào đấy. Không biết rồi đây tôi có còn được nằm trên một cái giường êm ấm như thế này nữa không?
Đêm đã khuya, mẹ tôi đến phòng tôi. Mẹ tôi tưởng tôi ngủ, và tôi cũng vờ ngủ thật. Nói chuyện và thức với mẹ thật rất khổ tâm cho tôi.
Mẹ tôi ngồi đến tận gần sáng, tuy mẹ tôi đang đau và thỉnh thoảng người mẹ tôi lả xuống. Sau cùng tôi không thể chịu được nữa. Tôi làm như chợt tỉnh giấc:
- Đi ngủ đi mẹ ơi, mẹ ngồi thế bị cảm lạnh đấy!
- Rồi mẹ ngủ sau cũng được.
Tôi ngồi dậy.
- Nhưng mẹ ơi, con có ra mặt trận ngay đâu, con còn ở trại bốn tuần lễ nữa kia mà. Ở đấy có lẽ, nhân chủ nhật nào đó, con lại về.
Mẹ tôi im lặng rồi thầm thì hỏi tôi:
- Con có sợ lắm không?
- Không mẹ ạ.
- Mẹ muốn dặn con một điều cuối cùng, con phải coi chừng bọn đàn bà bên Pháp, con nhé. Ở cái xứ ấy chúng nó không tốt đâu.
Chao ôi? Mẹ ơi, đối với mẹ, con vẫn là một đứa bé. . .
Tại sao con không thể gục đầu lên gối mẹ mà khóc? Tại sao con cứ phải là kẻ bình tĩnh hơn và cứng rắn hơn. Vậy mà có lần con cũng muốn khóc, và cũng muốn được dỗ dành. Thực ra, con cũng chẳng hơn một đứa bé mấy tí; trong tủ vẫn còn treo những chiếc quần đùi ngắn cũn cỡn của con mà. Cung chỉ mới ngày nào thôi. Tại sao lại là quá khứ rồi?
Tôi cố sức trấn tĩnh và nói:
- Chỗ chúng con đóng, chẳng có đàn bà đàn biếc gì đâu mẹ ạ ! Ở mặt trận phải khôn ngoan lắm mới được, Pôn nhé.
Chao ôi! Mẹ ơi! Mẹ ơi? Sao hai mẹ con ta lại không thể ôm nhau cùng chết?
Đời chúng ta sao mà tủi nhục thế!
- Vâng mẹ ạ, con sẽ khôn ngoan.
- Hàng ngày mẹ sẽ cầu nguyện cho con, Pôn ạ.
Chao ôi! Mẹ, mẹ ơi! Sao hai mẹ con ta không thể đứng dậy, trở về những năm quá khứ, cho đến khi tất cả nỗi khổ cực này phải từ bỏ chúng ta, trở về cái thuở chỉ có hai mẹ con ta với nhau, cả hai mẹ con, mẹ nhỉ!
- Con có thể đóng ở một nơi ít nguy hiểm hơn không?
- Vâng mẹ ạ, có lẽ con sẽ nhận việc làm bếp, rất có thể được.
- Cứ nhận con nhé, ai nói gì mặc người ta.
- Mẹ đừng lo cái ấy, mẹ ạ...
Mẹ tôi thở dài, nét mặt mẹ là một vệt trắng trong bóng tối.
- Bây giờ mẹ phải đi ngủ đi, mẹ ạ.
Mẹ tôi không trả lời. Tôi đứng dậy và lấy chăn quàng lên vai mẹ; mẹ tôi dựa vào cánh tay tôi, mẹ tôi đau khổ. Tôi bế mẹ tôi về phòng. Tôi còn ngồi một lúc bên mẹ.
- Từ giờ đến ngày con trở về, mẹ cố khỏi mẹ nhé.
- Được, được, con ạ.
- Có gì mẹ đừng gửi cho con, mẹ nhé, ở ngoài ấy chúng con có đủ thức ăn rồi. Ở nhà những thức ấy cần cho mẹ hơn.
Khốn khổ biết bao, con người nằm trên chiếc giường kia, con người yêu tôi hơn tất cả mọi thứ trên đời . Khi tôi muốn đứng dậy, mẹ tôi vội vã bảo tôi:
- Mẹ có tìm được cho con hai chiếc quần trong nữa, bằng len tất đấy, con mặc chắc ấm lắm, nhớ bỏ vào ba lô nhé.
Chao ôi! Mẹ ơi! Con biết hai cái quần trong ấy đã làm mẹ tốn biết bao thì giờ và công sức để tìm kiếm, chạy vạy và năn nỉ. Chao ôi, mẹ ơi, làm sao có thể nghĩ được rằng con bắt buộc phải xa mẹ? Ngoài mẹ ra, ai có quyền gì đối với con. Con ngồi cạnh mẹ, mẹ nằm đó, hai mẹ con có bao nhiêu chuyện nói với nhau, nhưng không bao giờ có thể nói với nhau được.
- Mẹ ngủ ngon mẹ nhé.
- Con của mẹ ngủ ngon nhé.
Gian phòng tối đen. Hơi thở của mẹ tôi lên xuống.
Trong lúc ấy chiếc đồng hồ kêu tích tắc. Bên ngoài gió thổi qua cửa sổ. Những cây dẻ rì rào. Trong phòng trước tôi vấp phải cái ba lô đã để sẵn đấy, vì ngày mai tôi phải đi thật sớm.
Tôi cắn chặt gối, hai bàn tay tôi nắm chặt những thanh sắt ở đầu giường. Không bao giờ tôi nên về phép nữa. Ở mặt trận trước kia tôi lạnh lùng và nhiều khi không chút hy vọng, không bao giờ tôi có thể tìm thấy lại điều ấy nữa. Trước đây, tôi là một người lính, nhưng bây giờ tôi chỉ là đau khổ - đau khổ vì tôi, vì mẹ tôi, vì tất cả những cái gì quá nản lòng và quá dai dẳng. Không bao giờ tôi nên về phép nữa.
Tôi nhận ra những cái lán trú quân của trại Lăng: chính nơi đây Himmenxtôt đã huấn luyện cho Jađơn. Ngoài cái đó ra, tôi chẳng thấy mấy ai quen thuộc. Mọi vật đều thay đổi, bao giờ chả thế. Họa chăng chỉ còn vài người ở đây mà trước kia tôi có lần thoáng gặp.
Tôi làm việc như một cái máy. Buổi tối, hầu như bao giờ tôi cũng ở Câu lạc bộ Chiến sĩ; ở đó có báo chí, nhưng tôi không đọc. Nhưng lại có một cái đàn dương cầm mà tôi rất thích chơi. Có hai người đàn bà phục vụ, trong số đó một người trẻ.
Chung quanh trại, có hàng rào dây thép cao. Khi chúng tôi từ Câu lạc bộ Chiến sĩ về muộn, chúng tôi phải xuất trình giấy ra vào. Dĩ nhiên anh nào biết thu xếp với lính gác thì cũng vào được.
Hàng ngày chúng tôi tập những thao tác đại đội trên cánh đồng hoang, giữa những bụi đỗ tùng và những khu rừng phong. Đối với những ai không đòi hỏi gì hơn thì cũng dễ chịu. Cứ chạy về phía trước, lao người xuống đất và để hơi thở làm cong xuống đây đó vài nhánh cỏ, vài đóa hoa. Nhìn gần như thế, sát mặt đất, cát nom trong sáng và tinh khiết như một thí nghiệm do không biết cơ man nào là hạt nhỏ li ti tạo thành. Tự nhiên người ta có ý muốn lạ lùng thọc tay vào đấy.
Nhưng đẹp hơn cả là những khu rừng với rặng cây phong viền bên ngoài. Các khu rừng mỗi lúc mỗi thay đổi màu sắc. Lúc này những thân cây lấp lánh màu trắng rực rỡ nhất và giữa các thân cây, màu xanh lam của cành lá đang rập rờn như một tấm lụa mỏng tang. Một lúc sau, tất cả lại ngả sang màu xanh mắt mèo lấp lánh ánh bạc; từ rặng cây ở mép rừng, màu xanh tràn đi và điểm lên cành lá; nhưng liền sau đó, ở một chỗ, màu sắc tối sầm lại gần như màu đen khi có đám mây lướt qua mặt trời. Rồi bóng đen ấy chạy như một bóng ma dọc các thân cây lúc này trở nên nhợt nhạt, và trải ra khắp cánh đồng hoang cho đến. tận chân trời. Trong khi ấy những cây phong đã vươn lên như những ngọn cờ uy nghi, với những cán cờ trắng muốt mang ánh vàng son của cành lá nhuộm màu.
Tôi thường mê mải với cảnh biến diễn ánh sáng nhẹ nhàng và bóng tối trong trẻo ấy, đến nỗi gần như không nghe thấy hiệu lệnh chỉ huy nữa: những lúc cô đơn, người ta thích quan sát cảnh thiên nhiên và đâm ra yêu mến nó. Ở đây tôi ít quen thuộc, vả lại, tôi cũng không thích có quan hệ với nhiều người.
Người ta hiểu biết nhau quá ít nên ngoài việc chuyện gẫu và buổi tối chơi cờ mười bảy và bôn hoặc đánh bài ram cũng chẳng biết làm gì khác.
Cạnh lán chúng tôi có một trại lớn giam tù binh người Nga ( Tù binh Nga trong Đại chiến lần thứ Nhất -ND). Nói cho đúng, thì trại tù binh cách chúng tôi một hàng rào dây thép, tuy vậy bọn tù binh vẫn sang được chỗ chúng tôi. Họ rất rụt rè và sợ sệt; phần nhiều họ rậm râu và rất to lớn, vì thế nom họ như những con chó xồm bị người ta đánh.
Họ lượn chung quanh lán chúng tôi, và diễu qua những cái thùng đựng nước nhờn. Chúng tạ thử tưởng tượng xem họ tìm được những gì! Chỗ chúng tôi, thức ăn đã chẳng dồi dào gì cho lắm, và nhất là lại tồi nữa; củ cải vàng cắt sáu luộc nước lã, cà rốt còn dính cả đất; khoai sắn đối với chúng tôi đã là một món quý và bữa tiệc ngon tuyệt trần của chúng tôi là món cháo gạo lõng bõng, trong đó lều bều một ít nước gân bò băm nhỏ thì phải. Nhưng lại băm nhỏ quá đến nỗi chẳng ai trông thấy miếng nào. Dĩ nhiên, dù thế, chúng tôi cũng chén tất. Nếu anh nào tình cờ có cái gì ăn, không cần phải liếm đáy cà mèn thì có hàng chục người khác sẵn sàng liếm ngay. Chỉ có những cái thừa mà không xúc được, người ta mới tráng nước và đổ vào chậu nước nhờn. Thỉnh thoảng chúng tôi còn vất vào chậu ít vỏ củ cải, những mẩu bánh mốc và đủ các thứ rác rưởi.
Cái thứ nước bẩn thỉu, đục ngầu và chẳng béo bổ gì ấy chính là cái mà bọn tù binh khao khát. Họ đến múc nước ấy một cách thèm thuồng trong những chiếc thùng gỗ hôi thối, dấu nó vào trong áo khoác rồi mang đi.
Cái cảnh những kẻ thù của chúng tôi, nhìn tận mặt như vậy thật lạ lùng. Họ có những bộ mặt làm ta phải suy nghĩ, những bộ mặt nông dân chất phác, trán rộng, mũi rộng, môi dầy, bàn tay to, tóc rậm.
Dùng họ để cày ruộng, cắt cỏ và hái táo thì tốt biết bao nhiêu. Trông họ còn hiền lành hơn cả những người nông dân của chúng tôi. Thật là đáng buồn khi trông thấy những cử chỉ của họ và cách thức họ xin một tí thức ăn. Tất cả bọn họ đều suy nhược, vì họ chỉ được lãnh một khẩu phần vừa đủ để khỏi chết dói. Đã lâu rồi, chúng tôi ăn uống cũng chẳng ra gì. Họ bị bệnh kiết lị. Với con mắt lo âu, nhiều người trong bọn họ chỉ trỏ một cách lén lút vết máu trên vạt áo sơ mi của họ. Lưng họ run lên bần bật, đầu họ nhìn chênh chếch từ dưới lên khi họ chìa tay ăn xin, mồm lắp bắp vài ba tiếng mà họ biết - khi họ ăn xin bằng cái giọng trầm trầm nhẹ nhàng và êm dịu, cái giọng gợi lên những lò sưởi ấm áp, những căn nhà mà người ta đang sống thoải mái ở tổ quốc.
Có những đứa đá họ ngã lăn xuống đất, nhưng đó chỉ là số ít. Phần đông chúng tôi cứ để mặc họ, khi họ đi bên cạnh. Thực ra, đôi khi thấy họ khốn khổ quá, người ta cũng điên tiết lên và đá cho một cái. Chao ôi ! Giá họ đừng nhìn anh như vậy. ]Xiết bao là tiếng khổ trong hai cái điểm nhỏ bé ấy, mà ngón tay cái đủ che kín cả trong đôi mắt của họ.
Buổi chiều họ đến lán chúng tôi và tìm cách đổi chác. Họ đổi tất cả mọi thứ để lấy bánh. Đôi khi họ cũng đi đến chỗ thuận mua vừa bán với chúng tôi, vì họ có những đôi ủng tất, còn ủng của chúng tôi thì xấu quá . Da ủng cao cổ của họ màu lạ lùng, thực là da Nga chính cống. Trong bọn chúng tôi, có những anh chàng con gia đình nông dân nhận được thực phẩm gửi đến, có thể mua được. Một đôi ủng vào khoảng từ hai đến ba cái bánh lính kèm theo một khúc dồi nhỏ, hun khói và chắc mạch.
Nhưng đã lâu lắm, hầu hết những người Nga đã đánh đổi tất cả những thứ họ có. Bây giờ họ chỉ mặc một bộ quần áo rách rưới thảm hại, họ chỉ còn tìm cách đổi chác những đồ vật chạm khắc nho nhỏ và những đồ vật họ làm bằng mảnh đạn trái phá, bằng những miếng đồng đai đạn. Dĩ nhiên, những vật ấy chẳng mang lại cho họ bao nhiêu; họ đổi lấy vài lát bánh. Những anh nông dân của chúng tôi rất kiên nhẫn và lắm mánh khóe trong cái khoa buôn bán. Họ giơ miếng bánh hoặc khúc dồi ra trước mũi anh người Nga, cho đến khi anh ta thèm rỏ rãi ra, hoa mắt lên, sau đó xem tất cả mọi vật đều là thường cả. Còn họ thì nâng niu cái món quý vật của họ hết sức là thận trọng, họ lấy con dao díp to tướng ra, từ tốn kính cẩn cắt một mẩu bánh, và cứ chén xong một miếng, họ lại nhấm nháp một miếng dồi chắc nịch ngon tuyệt, như để tự thưởng công cho mình. Nhìn chúng nó ăn như vậy thật là khó chịu; chúng tôi chỉ muốn đập lên cái đầu thô lỗ của chúng một trận. Rất ít khi chúng nó cho chúng tôi cái gì; cũng phải nói là chúng tôi không quen chúng nó lắm.
Nhiều lần, chúng tôi đứng gác cạnh trại tù binh Nga. Trong bóng tối, người ta thấy những hình thù của họ động đậy như những con cò ốm, như những con chim to .
Họ đến gần hàng rào, đứng áp mặt vào đấy. Ngón tay họ bíu lấy những mắt lưới sắt. Nhiều khi một số đông tù binh đứng cạnh nhau như thế và thở hít làn gió từ cánh đồng hoang và những khu rừng thổi đến.
Họ rất ít nói và có nói cũng chỉ vài tiếng thôi. Họ có tính chất con người hơn và tôi gần như tin rằng họ thương yêu nhau hơn là chúng tôi đối với nhau ở đây.
Có lẽ vì họ khổ cực hơn chúng tôi chúng . Thế mà chiến tranh đã chấm dứt đối với họ; nhưng phải thấy rằng ngồi mà chờ bệnh kiết lị thì cũng chẳng phải là một kiếp người nữa.
Bọn dân vệ già canh gác họ, kể chuyện là lúc đầu họ hoạt bát hơn, họ cũng giao thiệp với nhau, ở đâu mà chả thế, và hình như nhiều lần cũng có đánh nhau, đâm nhau nữa. Nhưng bây giờ họ đã mòn mỏi và thờ ơ quá đỗi. Đa số chẳng buồn thủ dâm nữa. Họ yếu quá rồi, nếu không, cái việc ấy phổ biến đến nỗi nhiều khi cả trại cùng làm một loạt.
Họ đứng đó, dựa vào hàng rào, đôi lúc một người lảo đảo rồi bỏ đi; chẳng mấy lúc một người khác đã thế chân. Phần đông chẳng nói chẳng rằng; chỉ trừ vài người, xin đầu thuốc lá.
Tôi ngắm những hình thù thiểu não ấy . Râu họ phất phơ trước gió. Tôi chỉ biết một điều về họ: họ là tù binh, và chính điều ấy làm tôi xúc động. Cuộc đời của họ không tên tuổi và không tội lỗi gì cả. Nếu tôi biết rõ số phận họ hơn nữa, nghĩa là họ tên gì, sinh sống ra sao, chờ đợi cái gì, cái gì làm cho họ khổ sở thì mối xúc động của tôi sẽ có một mục đích cụ thể và có thể trở nên tình thương. Nhưng lúc này, ở đây, tôi chỉ cảm thấy qua họ, nỗi đau khổ của con người, cảnh sầu thảm kinh khủng của cuộc đời, và sự thiếu lòng thương xót, đặc điểm của con người.
Một mệnh lệnh đã làm cho những hình thù lặng lẽ ấy trở nên kẻ thù của chúng tôi; bây giờ một mệnh lệnh khác có thể làm cho họ trở thành những người bạn của chúng tôi. Trên một cái bàn nào đó, có những người, mà chúng tôi chẳng ai quen biết, ký vào một bản viết; thế là, trong bao nhiêu năm, cái mục đích tối cao của chúng tôi trở nên cái điều mà trong thời bình người ta phải ghê tởm và phải trừng phạt một cách quyết liệt nhất. Vậy ai có thể tự nhận ra mình trong tất cả những cái ấy khi nhìn thấy ở đây những con người im lìm kia, với bộ mặt trẻ con và bộ râu của các vị thánh tông đồ? Bất cứ thầy cai nào đối với lính mới cũng như bất cứ giáo sư nào đối với học sinh, mà chả là kẻ thù hung ác hơn cả những người này đối với chúng tôi. Thế mà chúng tôi vẫn sẽ bắn vào họ, cũng như họ sẽ bắn vào chúng tôi, nếu như họ được tự do.
Tôi hoảng sợ; nếu cứ tiếp tục suy nghĩ về những chuyện này thì nguy quá. Con đường ấy sẽ đẩy xuống vực mất. Ngày ấy chưa đến. Nhưng tôi không muốn để rớt mất ý nghĩ này, tôi muốn giữ gìn nó, dấu diếm nó một cách cẩn thận cho đến khi chiến tranh kết liễu.
Tim tôi đập rộn: đây là mục đích, mục đích cao cả, mục đích duy nhất mà tôi nghĩ tới trong chiến hào, mực đích mà tôi đã tìm kiếm, xem nó như có thể hướng dẫn đời tôi sau cái tai họa lớn đã giáng xuống tất cả nhân loại này.
Phải chăng trong cuộc sống này của tôi, cái đó sẽ là một công việc xứng đáng với những năm khủng khiếp?
Tôi rút thuốc lá trong túi ra; tôi cấu mỗi điếu thuốc thành hai, và đưa cho những người Nga. Họ cúi mình và châm lửa.
Giờ đây trên mặt họ lóe lên những chấm đỏ. Đó là một mềm an ủi cho tôi; tưởng như đấy là những cửa sổ nhỏ trong căn nhà tối tăm ở vùng quê, những cửa sổ cho biết rằng đấy, phía sau chúng, có những căn phòng niềm nở đón chào.
Ngày lại ngày. Một sáng sương mù, người ta lại đem chôn một người Nga; hồi này gần như ngày nào cũng có người chết. Tôi đứng gác vừa lúc đám ma đi qua. Những tù binh hát một bài thánh ca; họ hát nhiều giọng và cũng chẳng ra giọng hát nữa mà là tiếng đàn đại phong cầm trên cánh đồng hoang.
Việc chôn cất làm rất nhanh.
Buổi tối họ vẫn còn đứng dựa vào hàng rào, gió từ những khu rừng phong thổi vào họ. Những ngôi sao lạnh lẽo. Dạo này tôi quen vài tù binh biết nói tiếng Đức khá. Trong số ấy có một nhạc sĩ. Anh ta nói với tôi rằng trước anh từng chơi vĩ cầm ở Berlin. Khi biết tôi cũng bập bõm chơi được dương cầm anh ta liền đi lấy đàn và bắt đầu kéo. Những người khác ngồi xuống và dựa lưng vào hàng rào.
Anh ta đứng đó mải mê kéo; nhiều lúc anh ta có nét mặt mơ màng của những người chơi vĩ cầm khi họ nhắm đôi mắt; rồi anh ta nhịp nhàng, đu đưa cây đàn và mỉm cười với tôi.
Có lẽ anh ta chơi những bản dân ca, vì những người khác khe khẽ hát theo. Tiếng đàn dồn dập âm thầm, dường như rung lên từ lòng đất. Tiếng vĩ cầm vươn lên như một nàng thiếu nữ mảnh dẻ, nghe trong trẻo và cô đơn. Tiếng hát ngừng lại, nhưng tiếng đàn vẫn tiếp tục, âm thanh phát ra thánh thót trong đêm, tưởng chừng đang run rẩy. Muốn thưởng thức tiếng đàn phải đứng thật gần, giá ở trong một căn phòng thì hay biết mấy. Ở đây ngoài trời, người ta đâm ra buồn bã trước cái âm thanh mơ hồ và cô đơn ấy.
Chủ nhật, tôi không được về phép, do tôi vừa được nghỉ dài hạn xong. Vì thế, ngày chủ nhật trước hôm tôi lên đường cha tôi và chị tôi đến thăm. Suốt hôm ấy, chúng tôi ở Câu lạc bộ Chiến sĩ, còn đến nơi nào khác được? Vì chúng tôi không muốn vào trong doanh trại . Khoảng trưa, chúng tôi đi dạo trên cánh đồng.
Thì giờ trôi qua buồn bã; chúng tôi chẳng biết nói gì với nhau. Vì thế chúng tôi nói chuyện về bệnh tình của mẹ tôi; bây giờ rõ là ung thư rồi; mẹ tôi đã đi nhà thương và sắp mổ. Các thầy thuốc mong rằng mẹ tôi sẽ khỏi, nhưng chúng tôi chưa từng thấy ai chữa được bệnh ung thư bao giờ. Tôi hỏi:
- Mẹ nằm đâu?
- Nhà thương Lui dơ, - cha tôi nói.
- Hạng mấy?
- Hạng ba. Còn phải đợi xem mổ hết bao nhiêu tiền. Chính mẹ con đã muốn nằm hạng ba. Mẹ con bảo ở đấy có người nọ người kia. Vả lại cũng rẻ tiền hơn.
- Như thế là mẹ nằm cùng nhiều người nữa trong một buồng nhỉ. Miễn là ban đêm mẹ ngủ được thôi.
Cha tôi gật đầu. Nét mặt cha tôi trĩu xuống và đầy những nếp nhăn. Mẹ tôi ốm đau luôn, dù vạn bất đắc dĩ mới chịu đi nằm nhà thương, nhưng cũng rất tốn kém, và cũng vì thế, cha tôi phải hy sinh rất nhiều.
- Ấy là chưa biết cái giá tiền mổ là bao nhiêu cơ đấy, - cha tôi nói.
- Cha không hỏi họ sao?
- Cha không dám hỏi thẳng đâu, khó lắm, nếu làm ông bác sĩ mất lòng thì rất phiền, vì dù sao cũng phải để ông ấy mổ cho mẹ con kia mà.
Phải, tôi nghĩ một cách chua chát, đối với chúng tôi là thế đấy; đối với những người nghèo là thế đấy. Họ không dám hỏi giá và họ lo lắng vì chuyện ấy không biết ngần nào; nhưng đối với những người khác mà vấn đề ấy chỉ là phụ, thì việc định giá trước là chuyện bình thường. Đối với người này, bác sĩ chả mất lòng bao giờ.
Lại còn cái khoản băng bó nữa cũng đắt lắm, - cha tôi nói.
- Quỹ cứu tế không cho gì sao?
- Mẹ con ốm lâu quá rồi.
- Thế cha có tiền không?
Cha tôi lắc đầu.
- Không, nhưng cha có thể làm thêm giờ.
Tôi biết lắm, cha tôi ngồi ở bàn cho đến nửa đêm, gấp dán, cắt. Tám giờ tối cha tôi mới ăn một chút cái thức ăn đạm bạc mua theo phiếu. Sau đấy cha tôi uống một ít thuốc nhức đầu, rồi lại tiếp tục làm việc.
Để cha tôi vui, tôi kể cho cha tôi nghe vài chuyện tôi chợt nghĩ ra: chuyện tếu của lính tráng và những loại như thế dính dáng đến các vị tướng hoặc các ngài đội nhất, bị những vố cay bằng cách này hay cách khác.
Sau đó, tôi tiễn cha tôi và chị tôi ra ga. Hai người đưa cho tôi một lọ mứt sệt, một gói bánh khoai rán mà mẹ tôi còn cố làm cho tôi.
Rồi tàu chạy, còn tôi, tôi quay trở lại.
Buổi tối, tôi phết mứt lên bánh rán và tôi ăn. Tôi chẳng thấy ngon lành gì cả. Vì vậy, tôi đi ra, định đem cho những người Nga. Nhưng tôi chợt nghĩ chính mẹ tôi đã làm những cái bánh này, và có lẽ, đứng trước lò lửa nóng rực, mẹ tôi đau lắm. Tôi lại cất gói bánh vào ba lô, chỉ đem cho bọn người Nga hai cái.
Chúng tôi đi xe lửa luôn mấy ngày. Những chiếc máy bay đầu tiên đã xuất hiện trên trời. Chúng tôi vượt những đoàn tàu chở quân nhu. Đại bác, lại đại bác. Chúng tôi chuyển sang đường sắt dã chiến. Tôi đi tìm trung đoàn. Chẳng ai biết nó ở đâu. Ban đêm, bạ đâu tôi ngủ đấy, đến sáng người ta cho ăn và chỉ dẫn một cách mơ hồ. Thế là lưng đeo ba lô, vai khoác súng, tôi lại đi.
Khi đến nơi, chẳng còn một ai trong đơn vị chúng tôi ở lại trong cái vùng đã bị bom đạn tàn phá hết này.
Tôi được biết tin đơn vị chúng tôi đã trở thành một sư đoàn cơ động, chỗ nào gay go là bị điều đến ngay. Cái tin ấy không làm tôi vui mấy. Người ta nói quanh vùng này, đơn vị chúng tôi đã bị thiệt hại nặng nề. Tôi hỏi thăm Cát và An be. Cũng chẳng ai biết gì cả..
Tôi lang thang khắp nơi, tiếp tục tìm kiếm; tình cảm lạ lùng...
Lại một đêm, rồi lại một đêm nữa, tôi cắm trại như một anh da đỏ. Cuối cùng, tôi được tin tức đích xác và đến quá trưa, tôi đến được văn phòng đại đội Viên đội nhất giữ tôi lại. Hai ngày nữa đại đội tôi sẽ về . Không cần thiết phải cho tôi đi tìm họ.
- Thế nào, về nghỉ phép khoái chứ - Anh ta hỏi tôi.
- Tương đối thôi, - tôi nói.
- Phải, phải, - anh ta nói, - giá mà không phải đi nữa nhỉ!
Ấy cái nửa sau bao giờ cũng hỏng bét vì thế đấy . Tôi đi lang thang cho đến sáng thì gặp đại đội trở về, xám ngắt, bẩn thỉu, nhăn nhó và buồn bã. Thế là tôi chồm lên, lao vào giữa hàng quân, đưa mắt sục sạo . Đây là Jađơn, đây là Muynlơ đang xì mũi và đây là Cát và Cốp nữa. Chúng tôi xếp đặt ổ rơm cạnh nhau. Nhìn thấy chúng nó, tôi tưởng như mình có lỗi gì mà thực ra chẳng có gì phải nghĩ như thế. Trước khi đi ngủ, tôi lấy chỗ bánh rán và mứt sệt còn lại ra để cho chúng nó cũng được hưởng một tí.
Hai cái bánh rán dấu ở gối bắt đầu mốc; nhưng vẫn còn ăn được như thường. Tôi giữ lại phần tôi và đưa cho Cát và Cốp những cái nguyên vẹn. Cát nhai và hỏi:
- Bánh nhà cậu làm phải không?
Tôi gật.
- Đúng, cứ ăn là biết ngay, - anh ta nói.
Tôi gần phát khóc. Tôi không nhận ra mình nữa.
Tuy vậy, bây giờ tôi đã ở đây với Cát, với An be và những đứa khác nữa, mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Tôi đã trở về đúng chỗ của tôi.
- Cậu may đấy, - Cốp thì thầm với tôi trước khi ngủ, - người ta nói cánh mình sẽ sang Nga.
Sang Nga! Nếu vậy không phải là chiến tranh nữa.
Phía xa xa, mặt trận gầm rống. Vách lán trú quân rung chuyển.
Mọi người cuống cuồng chải chuốt. Hết loạt điểm danh này đến loạt điểm danh khác. Người ta kiểm tra chúng tôi lu bù. Cái gì rách là được đổi ngay lấy cái lành. Thế là tôi vớ được một cái áo mới toanh, không chê vào đâu được, còn Cát, dĩ nhiên là được cả một bộ trang phục đầy đủ. Có tin đồn là đình chiến, nhưng một ý kiến khác nghe có lý hơn, ấy là chúng tôi sắp được chuyển sang Nga. Nhưng tại sao sang Nga lại phải ăn mặc khá hơn? Cuối cùng sự thật dần dần sáng tỏ.
Hoàng đế Đức sắp đến duyệt binh chúng tôi . Vì thế mới chuẩn bị rối tinh lên như vậy.
Tám ngày liền, người ta ngờ chúng tôi đang đóng trong một trại tân binh, mọi người làm việc và tập tành thật là ghê gớm. Ai cũng nhăn nhó và cáu kỉnh vì sự chải chuốt quá đáng như vậy không thích hợp với chúng tôi, những kiểu đi duyệt binh lại càng không hợp nữa. Chính những cái ấy làm người lính bực hơn cả chiến hào.
Cuối cùng, ngày giờ ấy đã đến. Chúng tôi đứng nghiêm, im phăng phắc và Hoàng đế xuất hiện.
Chúng tôi tò mò muốn biết dáng điệu của ngài thế nào. Ngài đi dọc trước hàng quân và, nói cho đúng, tôi cũng hơi thất vọng: cứ như những bức chân dung tôi thấy, tôi tưởng ngài phải to lớn hơn, đường bệ hơn và nhất là tiếng nói phải sang sảng hơn mới đúng.
Ngài phân phát những huân chương chữ thập sắt rồi nói chuyện với người này người khác. Sau đó, chúng tôi rút lui.
Thế rồi, chúng tôi bắt đẩu bàn tán. Jađơn nói bằng giọng ngạc nhiên:
- Ấy đấy vị thủ lĩnh tối cao đấy. Ai cũng phải đứng nghiêm trước ngài, không trừ một ai? - Nó nghĩ một lúc - Trước mặt ngài, cả đến Hinđenbua ( Thống chế tư lệnh Đức ở mặt trận miền Đông năm 1915.) cũng phải đứng nghiêm chứ?
- Đúng, - Cát nói.
Jađòn chưa nói hết. Nó nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Một ông vua có phải đứng nghiêm trước một vị hoàng đế không nhỉ?
Chẳng ai biết sự thực ra sao, nhưng chúng tôi không tin là như vậy. Cả hai vị đều đã cao cấp lắm rồi, chắc hẳn cái khoản đứng nghiêm chỉnh ấy không thể có được giữa hai vị với nhau.
- Cậu nói những chuyện vớ vẩn gì thế! - Cát nói.
- Cái chính là cậu, cậu phải đứng nghiêm, thế thôi.
- Nhưng Jađơn cứ bị ám ảnh mãi, óc tưởng tượng của nó rất nghèo nàn, thế mà lần này lại phong phú gớm.
- Này, - nó nói, - tớ không thể nào hiểu được một vị hoàng đế mà cũng phải đi ỉa như tớ!
- Ấy, ông bạn của tôi ơi, thế mà vẫn cứ phải đi đấy, cậu có thể cầm chắc như thế. - Cốp vừa nói vừa cười.
- Một thằng gàn cộng với mày thành hai thằng gàn, - Cát thêm vào, - mày đâm ra lẩm cẩm rồi đấy Jađơn ạ, đi ỉa ngay lập tức đi, cho đầu óc mày nó tỉnh táo ra và không ăn nói như bọn trẻ con thò lò mũi xanh nữa .
Jađơn bỏ đi.
- Nhưng tớ muốn biết một điều, - An be nói. - Nếu hoàng đế mà nói không, liệu chiến tranh có thể xảy ra không nhỉ?
- Riêng tớ nghĩ thì vẫn xảy ra, - tôi nói, - người ta nói đâu chính ngài cũng không muốn chiến tranh.
- Phải, có lẽ mình ngài thì chưa đủ, những trên thế giới có độ hai chục hoặc ba chục người nữa, cùng với ngài, đều nói không cả, thì chắc là đủ lắm.
- Có thể như vậy? - tôi nói vẻ nhượng bộ, - nhưng chính cái hai hay ba chục người ấy lại muốn có chiến tranh cơ mà.
- Càng nghĩ càng thấy kỳ quặc, - Cốp nói tiếp. - Chúng mình ở đây để bảo vệ tổ quốc của chúng mình.
- Nhưng tụi Pháp chúng nó cũng ở đây để bảo vệ tổ quốc của chúng nó. Vậy ai có lý?
- Có lẽ cả hai cùng có lý, - tôi nói bừa.
- Cho được đi, - Anbe nói (xem điệu bộ nó, tôi biết nó sắp hỏi tôi một câu hóc búa đây) nhưng các giáo sư của chúng mình, cha cố của chúng mình, các báo chí của chúng mình đều nói rằng chỉ có chúng mình mới có chính nghĩa, và tớ cũng mong là như thế. Còn bọn giáo sư, bọn linh mục và báo chí của tụi Pháp lại nói rằng chỉ chúng nó mới có chính nghĩa. Như vậy thì ra làm sao?
- Mình cốc hiểu gì cả, - tôi nói, - dù sao thì cũng là chiến tranh, và mỗi tháng nó lại thêm vào một số nước nữa tham gia.
Jađơn lại vào. Nó vẫn còn bứt rứt, và nó chen ngay vào câu chuyện, hỏi tại sao chiến tranh lại nổ ra?
- Thông thường, là tại một nước này xúc phạm nặng nề đến một nước kia. - Anbe trả lời với giọng kẻ cả.
Nhưng Jađơn làm ra bộ ngớ ngẩn:
- Một nước ư? Tớ không hiểu. Nhưng một quả núi của nước Đức làm sao lại có thể xúc phạm một quả núi của nước Pháp được, một con sông, một khu rừng, một cánh đồng lúa mì, cũng thế thôi.
- Sao mà mày ngu đến thế, hay là mày muốn khôi hài. - Cốp lầu bầu. - Tao có định nói thế đâu.
- Một dân tộc này xúc phạm một dân tộc kia.
Nếu vậy thì tớ ở đây làm gì - Jađơn đáp lại - Tớ chả thấy bị xúc phạm tí nào cả.
- Người ta lại phải trình với mày với mình nữa hay sao? - Anbe nói với giọng bực tức. - Cái hạng dân ngu khu đen như mày thi ai đếm xỉa đến.
- Nếu vậy lại thêm một lý do nữa để tớ trở về nhà.
- Jađơn nhấn mạnh.
Mọi người cười ồ lên.
- Thật đồ ngu như lợn, đây là một dân tộc nói chung, nghĩa là Nhà nước. - Muynlơ thét lên.
- Nhà nước, Nhà nước (vừa nói Jađơn vừa búng ngón tay một cái ranh mãnh) những bọn xen đầm, cảnh sát, thuế má, đấy Nhà nước của các cậu đấy. Nếu những cái đó làm cho cậu thích thú thì tớ xin bái phục cậu.
- Đồng ý. - Cát nói - Lần đầu tiên cậu nói được một câu có nghĩa lý đấy, Jađơn ạ; giữa Nhà nước và Tổ quốc, quả là có một sự khác nhau.
Nhưng cái này đi đôi với cái kia. - Cốp suy nghĩ.
- Làm gì có một Tổ quốc mà lại không có Nhà nước?
- Đúng! - Cát đáp - nhưng cậu thử nghĩ mà xem, chúng ta hầu hết là con nhà bình dân, và ở Pháp cũng vậy, phần đông là lao công, thợ thuyền và dân làm thuê. Tại sao một anh thợ khoá và một anh thợ giày người Pháp lại muốn đánh chúng ta? Không, đó chỉ là những chính phủ. Trước khi đến đây, mình chưa hề gặp một người Pháp nào, và phần đông người Pháp đối với chúng ta cũng thế thôi. Chẳng ai hỏi ý kiến họ, cũng như chẳng ai hỏi ý kiến chúng mình bao giờ.
- Vậy tại sao lại có chiến tranh? - Jađơn hỏi.
Cát nhún vai:
- Phải có những người kiếm chác được trong chiến tranh được chứ.
- Ấy! tớ không phải cái hạng người ấy đâu nhé! - Jađơn cười khẩy.
- Chẳng phải cậu cũng chẳng phải ai trong số những người ở đây.
- Vậy ai kiếm chác được trong chiến tranh? - Jađơn gặng - Chiến tranh cũng chẳng có lợi lộc gì cho hoàng đế. Ngài đã có đủ mọi thức rồi cơ mà...
- Chớ nói thế. - Cát đáp. - Cho đến bây giờ, hoàng đế chưa làm một cuộc chiến tranh nào. Mà bất cứ vị hoàng đế nào mà chả cần ít ra là một cuộc chiến tranh, nếu không thì làm sao mà nổi danh được. Cậu hãy xem trong những quyển sách giáo khoa thì biết.
- Các vị tướng cũng nhờ có chiến tranh mà nổi tiếng đấy. - Đêtơrinh nói.
- Nổi tiếng hơn cả là những vị hoàng đế ấy nữa chứ? - Cát xác nhận.
- Chắc hẳn đằng sau bọn này còn có những người khác cũng muốn chiến tranh mang lại lợi lộc cho họ chứ? - Đêtơrinh lầu bầu.
- Tớ cho rằng nó là một thứ bệnh phát sốt thì đúng hơn. - Anbe nói. - Thật ra chẳng ai muốn chiến tranh cả, thế mà đùng một cái, nó đến. Chúng mình không muốn chiến tranh, những người khác cũng nói vậy; thế mà một nửa nhân loại đang lăn xả vào đấy.
Nhưng ở phía bên kia, chúng nó nói dối nhiều hơn bên chúng mình, - tôi nói. - Các cậu hãy xem những tờ giấy bắt được trong người bọn tù bình thì biết; chúng nó nói rằng ở Bỉ, chúng mình ăn thịt cả trẻ con... Những thằng khốn nạn viết lách như vậy phải đem mà treo cổ lên. Những thằng ấy là thủ phạm chính cống đấy.
Muynlơ đứng dậy:
- Dù sao thì chiến tranh diễn ra ở đây còn hơn ở bên Đức. Các cậu hãy nhìn những cánh đồng hố trái phá kia kìa?
- Đúng đấy, - Jađơn hoà vào, - nhưng chẳng có tí chiến tranh nào cả thì còn tốt hơn nữa.
Nó đi ra có vẻ tự hào, vì nó đã cho chúng tôi, bọn lính tình nguyện có học thức, một bài học. Ý kiến của nó rõ ràng là điển hình; người ta luôn luôn vấp phải cái ý kiến ấy, mà không có cách nào đối đáp lại cho hẳn hoi, vì cái ý kiến ấy gạt hết tất cả mọi kiểu suy luận khác. Tình cảm dân tộc của anh lính quèn chỉ bao gồm có việc anh ta phải đến đây, chỗ mặt trận này, và nó dừng lại đấy; còn những gì khác thì anh ta nhìn nhận bằng con mắt thực tiễn và phán đoán theo tâm lý của anh ta.
Anbe nằm ườn trên cỏ, có vẻ khó chịu.
- Thôi nói làm quái gì đến cái của khỉ ấy nữa!
- Vả lại nó có thay đổi tí gì đâu. - Cát nói.
Khổ nhất là chúng tôi phải trả lại hầu hết những quần áo vừa được lĩnh, rồi người ta quăng lại cho chúng tôi đống quần áo cũ. Những của tất chỉ dùng cho việc phô trương thôi. Đáng lẽ sang Nga, chúng tôi lại trở ra tiền tuyến.
Dọc đường, chúng tôi đi qua một khu rừng thảm hại với những thân cây bị tiễn gãy xơ xác, và mặt đất bị cày nát lên. Ở vài chỗ, có những cái hố khủng khiếp.
- Mẹ kiếp! Chỗ này nó nã khiếp lắm đây, - tôi nói với Cát .
- Mìn, - anh ta vừa trả lời vừa ra hiệu cho tôi nhìn lên không.
Nhiều xác chết mắc trên cành cây. Một anh lính trần truồng như ngồi xổm trên một cái chạc cây, đầu vẫn đội mũ. Nói cho đúng, trên cây chỉ có một nửa người của anh ta, cái mình thiếu chân.
Tôi hỏi tại sao lại thế
- Cậu ta vừa bị nó lột trần ra đấy mà. - Jađơn lầu bầu.
Cát nói:
- Thật là kỳ quặc, bọn tờ đã nhiều lần nhìn thấy thế . Khi cậu bị một quả mìn, thế là quần áo cậu bị tụt phăng đi đâu mất. Đó là do sức ép của không khí.
Tôi lại nhìn chỗ khác. Đúng như lời anh ta nói.
Chỗ này chỉ móc độc có những mảnh quân phục, chỗ kia dính bết một đống lầy nhầy, máu me, mới đây là những chân tay người. Một thân hình nằm đó với một mảnh quần đùi ở một chân, và cái cổ áo quân phục quanh cổ. Ngoài ra hắn gần như trần truồng, quần áo của hắn rải rác trên một cái cây. Không có hai cánh tay, khác nào chúng bị xoắn lại mà giật ra.
Tôi nhìn thấy một cánh tay cách đó hai mươi bước, trong bụi rậm.
Người chết úp mặt xuống đất. Ở chỗ cánh tay bị giật văng đi, mặt đất đen ngòm những máu. Dưới chân hắn lá bị nhầu nát y như hắn vẫn còn dẫm chân lên.
- Không phải đùa Cát nhỉ, - tôi nói.
- Một mảnh trái phá vào bụng cũng không phải đùa đâu, - anh ta vừa trả lời vừa nhún vai.
- Đừng có cảm động nhé, - Jađơn nói.
Sự việc xảy ra chắc chưa lâu lắm, vì máu hãy còn tươi . Những người mà chúng tôi trông thấy đều đã chết cả; nên chúng tôi không dừng lại mà chỉ báo cho trạm quân y gần đấy. Vả lại chúng tôi có phải làm nhiệm vụ của ngựa cáng đâu.
Có lệnh cử một đội trinh sát xuất phát để dò xét vị trí địch còn được phòng thủ đến mức độ nào. Vừa đi phép về, tôi cảm thấy ngường ngượng trước mặt anh em, nên tôi xung phong vào đội trinh sát. Sau khi bàn bạc kế hoạch hành động, chúng tôi trườn đến hàng rào dây thép gai rồi chia nhau, bò lên phía trước, mỗi người một ngả. Một lúc sau tôi thấy một hố trái phá không sâu lắm, tôi liền tụt xuống. Từ chỗ ấy tôi quan sát khắp chung quanh.
Trận địa bị một hoả lực vừa phải của súng máy quét . Đạn tưới đều bốn phía, tuy không ác liệt lắm nhưng cũng đủ làm cho chúng tôi không dám nhỏm người lên quá cao.
Một chiếc pháo sáng mở tung cái dù ra trên không trung. Mặt đất bị lạnh cứng lại dưới luồng ánh sáng nhợt nhạt ấy. Sau đó bóng tối lại ập xuống, mù mịt hơn nữa. Trong chiến hào người ta cho biết là có lính da đen ở phía trước mặt chúng tôi. Thật là rầy rà, khó mà nhìn rõ chúng, hơn nữa, chúng trinh sát rất giỏi. Nhưng kể cũng lạ, nhiều khi chúng rất dại dột, vì thế một lần Cát và Cốp đang thám thính, đã hạ được những tên phản trinh sát da đen, vì những tên này vừa đi vừa hút thuốc. Cát và Cốp chỉ việc nhắm những chấm đỏ lập loè mà bắn.
Cạnh tôi, một quả đại bác hạng nhẹ rít lên. Tôi không nghe thấy tiếng nó đến, nên khiếp quá. Đồng thời một sự sợ hãi vô ý thức xâm chiếm lấy tôi. Chỉ có mình tôi ở đây và gần như bị chìm ngập trong bóng tối . Không biết chừng từ lâu đã có một đôi mắt ở một hố trái phá đang theo dõi tôi và một quả lựu đạn đang sẵn sàng ném tới, xé nát tôi ra từng mảnh. Tôi cố trấn tĩnh lại. Không phải đây là lần đầu tôi đi trinh sát, hơn nữa, nó cũng không có gì đặc biệt nguy hiểm. Nhưng là lần đầu từ khi nghỉ phép về , tôi đi thám thính và tôi không nắm được khu vực này mấy.
Tôi tự nhủ rằng xúc động như vậy là ngu ngốc quá, rằng trong bóng tối chẳng có cái gì rình mò cả, nếu không hoả lực đời nào lại rời rạc thế. Nhưng vô ích. Những ý nghĩ lộn xộn quay cuồng trong óc tôi: tôi nghe thấy những lời vỗ về của mẹ tôi, tôi trông thấy những người Nga râu phất phơ, đứng tựa hàng rào; trước mặt tôi hiện lên hình ảnh sáng sủa và tuyệt diệu của một căng tin với những chiếc ghế ngồi, hình ảnh của một rạp chiếu bóng ở Valăngxiên; qua trí tưởng tượng nhức nhối của tôi, tôi thấy một họng súng đen ngòm, tàn nhẫn, đang xé địch một cách im lặng, đang đe doạ tôi và theo dõi từng cử động của cái đẩu tôi . Mồ hôi toát ra dầm đìa... Tôi vẫn nằm yên trong hố. Tôi nhìn đồng hồ, mới chỉ có mấy phút trôi qua. Trán tôi ướt, lồng mắt ướt đẫm, tay tôi run lên và tôi thở hổn hển, khe khẽ. Đó chỉ là một cơn sợ, một cơn sợ hãi xấu xa và mãnh liệt làm tôi không dám nhô dầu ra và tiến lên.
Sự hoảng loạn của tôi tràn ra như một nồi cháo đang sôi, làm cho tôi chỉ muốn nằm ì ra đó. Chân tay tôi dính chặt xuống đất; tôi đã toan trỗi dậy, nhưng vô ích: chúng không muốn rời khỏi mặt đất. Tôi nép mình xuống đất, tôi không thể nào tiến lên một bước được, tôi quyết định cứ ở lại đây, nằm dài ra. Nhưng ngay lúc đó, tôi bị một ý nghĩ hổ thẹn, hối hận và có cả cầu an nữa xâm chiếm lấy tôi. Tôi ngẩng lên một tí, để nhìn xem những gì đã xảy ra.
Đôi mắt tôi nóng rực vì trong bóng tối, tôi đã căng mắt nhìn trừng trừng. Một chiếc pháo sáng vọt lên tròi. Tôi lại co rúm cả người.
Trong tôi diễn ra một cuộc đấu tranh hỗn loạn và vô ý thức, tôi muốn bò ra khỏi hố, thế mà tôi vẫn cứ chúi vào đấy . Tôi tự nhủ: "Bổn phận của mình, bạn bè của mình; đây có phải là một mệnh lệnh ngu ngốc đâu .”
Nhưng ngay sau đó. "Làm quái gì tất cả những cái ấy. Chỉ có một đời sống, không được để nó mất đi..." Tất cả những cái này là do kỳ về nghỉ phép dây. Tôi nghĩ một cách cay đắng, như để tự bào chữa cho mình.
Nhưng chính tôi cũng không tin lời bào chữa ấy. Tôi cảm thấy vô cùng rời rã. Tôi từ từ nhỏm dậy, đưa cánh tay ra phía trước, trong khi lưng tôi trườn theo; bây giờ tôi đã nằm nửa người trên miệng hố trái phá. Nhưng tôi chợt nghe thấy cái gì, nên tôi giật mình lùi lại. Mặc dầu tiếng ầm ì của pháo binh, tôi cũng vẫn nhận thấy rõ ràng những tiếng lào xào. Tôi lắng nghe: tiếng động ấy ở phía sau tôi. Đó là người của ta đang vượt chiến hào. Bây giờ tôi lại nghe cả tiếng nói khe khẽ. Trong đám ấy hình như có cả tiếng Cát.
Bất giác, một hơi nóng ấm lạ kỳ tràn ngập cả người tôi. Những lời nói ấy, vài ba tiếng thì thầm ấy, những bước chân trên chiến hào phía sau tôi, đã lập tức lôi tôi ra khỏi cảnh cô đơn khốc liệt của sự sợ chết mà tôi gần như bị vất vào đó. Những tiếng nói ấy còn hơn cả sự sống của tôi. Chúng hơn cả sự có mặt của người mẹ, hơn cả sự khiếp sợ; chúng là một trong những sức mạnh nhất trên dời, che chở hiệu lực nhất cho tôi: - đó là tiếng nói của các bạn tôi.
Tôi không còn là một mảnh đời run rẩy, cô đơn trong bóng tối nữa; tôi gắn bó với họ và họ với tôi; chúng tôi đều có những cái sợ giống nhau và một cuộc sống giống nhau; chúng tôi kết hợp với nhau một cách vừa đơn giản vừa sâu sắc. Tôi muốn vục mặt vào trong những giọng nói ấy, vào trong mấy tiếng thì thầm ấy đã cứu giúp tôi và sẽ còn nâng đỡ tôi mãi.
Tôi trườn ra khỏi hố một cách thận trọng và bò như một con rắn. Rồi tôi đi lom khom; mọi sự yên lành cả; tôi xác định phương hướng, tôi nhìn chung quanh, nhận xét hoả lực pháo binh ra sao để còn lần về . Rồi tôi tìm cách liên lạc với những người khác.
Cái sợ vẫn còn lẩn quẩn trong tôi, nhưng là một cái sợ có nghĩa lý hơn, nó là một sự thận trọng đi đến chỗ quá đáng. Ban đêm, trời nổi gió, những bóng đen hiện lên đây đó khi có tia lửa từ những khẩu trọng pháo phụt ra . Lúc ấy người ta nhìn thấy vừa quá nhiều, lại vừa quá ít. Nhiều lúc tôi sợ cứng người, nhưng vẫn không có gì xảy ra. Cứ thế, tôi tiến lên khá xa, rồi tôi quay lại đằng sau, nhưng theo dường vòng cánh cung. Tôi không gặp một người nào bên mình cả. Mỗi bước nhích lại gần chiến hào nhà, càng làm cho tôi thêm vững tâm; thực tình tôi chỉ mong chóng về đến nơi. Bây giờ mà xơi một viên đạn thì thật là đời khốn nạn.
Nhưng tôi lại đâm hoảng. Tôi không nhận rõ phương hướng nữa. Tôi rón rén ngồi xuống một cái hố trái phá và tìm phương hướng. Đã nhiều lần, có những anh lính khoái trí nhảy bổ vào một chiến hào, nhưng khi nhận ra là chiến hào địch thì đã quá muộn.
Tôi lại nghe ngóng một lúc nữa. Vẫn chưa đúng đường. Đám hố trái phá, chằng chịt, hỗn loạn, làm cho tôi không còn biết đằng nào mà mò nữa, đến nỗi trong lúc hoang mang tôi không biết quay về phía nào. Có lẽ tôi đã bò song song với các dãy chiến hào, nếu vậy bò quanh năm cũng không về đến nhà. Do đó tôi lại bò ngoặt sang một bên.
Những cái pháo sáng chết tiệt kia? Tưởng chừng chúng nó cháy lâu đến một tiếng đồng hồ chắc, không thể làm một cử động gì mà không cảm thấy một viên đạn réo sát bên người.
Tuy vậy, mặc dầu thế nào chăng nữa, tôi cũng phải ra khỏi chốn này. Vừa ngập ngừng, tôi vừa cố hết sức tiếp tục bò đi, tôi trườn lên trên mặt đất như một con tôm, hai bàn tay bị rách nát, vì miết vào những mảnh trái phá sắc như dao cạo.
Đôi lúc tôi có cảm tưởng chân trời hừng sáng lên; nhưng có lẽ dó chỉ là ảo giác. Tuy thế, mỗi lúc tới lại càng thấy rõ những động tác của tôi, quyết định cả sinh mạng tôi.
Một quả đại bác nổ. Rồi hai quả nữa. Này đây, cuộc khiêu vũ bắt đầu. Trận pháo kích đã mở màn.
Súng máy rền rĩ. Trong lúc này, chỉ còn cách nằm bẹp dí xuống và đợi. Hình như đang chuyển sang một đợt tấn công. Hoả pháo vọt lên phía trước. Không ngừng. Tôi nằm co rúm người lại trong một hố trái phá lớn, nước ngập đến bụng. Khi đợt tấn công bắt đầu tôi sẽ dìm người xuống càng sâu càng tốt, mặt úp xuống bùn, miễn không chết sặc là được. Tôi phải giả vờ chết.
Đột nhiên tôi thấy tầm bắn rút gần lại. Lập tức tôi nhấn mình xuống nước, cái mũ đặt trên gáy, và cái miệng chỉ để cao vừa đủ thở.
Rồi tôi hoàn toàn nằm im không cựa quậy, vì quanh đó, tôi nghe thấy tiếng lách cách và những bước chân nặng nề tới gần, tất cả thần kinh của tôi căng cứng lại. Cái tiếng động ấy lướt trên đầu tôi; đợt thứ nhất đã vượt qua chỗ tôi. Tôi chỉ còn mỗi một ý nghĩ, một ý nghĩ ray rứt: mình sẽ làm gì nếu có đứa nhảy vào cái hố này? Lúc này, tôi rút vội con dao găm nhỏ ra khỏi vỏ, tôi nắm thật chặt chuôi dao và dấu lưỡi dao xuống bùn. "Nếu đứa nào xuống, mình sẽ đâm ngay - cái ý nghĩ ấy quay cuồng trong đầu óc - mình sẽ chọc ngay vào họng nó, để nó không kêu lên được. Chỉ còn cách ấy thôi, nó cũng hoảng như mình, và trong khi hai đứa cùng khiếp đảm cả, hai đứa sẽ nhảy xổ vào nhau; mình phải đánh phủ đầu ngay mới được.
Bây giờ đến lượt pháo binh của chúng tôi trả lời những viên đạn rơi xuống cạnh tôi làm tôi gần phát điên lên. Chỉ còn việc tan xác vì đại bác của quân nhà thôi! Tôi bắt đẩu chửi rủa và lục sục ở trong bùn. Tôi điên lên thật sự; cuối cùng chỉ còn biết rên rỉ và than thở. Tiếng trái phá đập vào tai tôi. Nếu quân nhà mở một đợt phản công, thì tôi mới thoát. Tôi chúi đầu sát đất và nghe thấy những tiếng gầm rống ù tai như những tiếng mìn nổ rất xa. Tôi lại ngẩng đầu lên để nghe những tiếng động trên cao. Tôi nghe thấy tiếng súng máy nổ giòn. Tôi biết là những công sự bằng dây thép gai của chúng tôi rất chắc chắn và hầu như còn nguyên vẹn. Có một đoạn bắt một quang điện mạnh. Tiếng súng trường mỗi lúc một to.
Quân địch không qua được, chúng buộc phải lùi lại.
Tôi lại cúi xuống, toàn thân căng thẳng đến cực độ. Những tiếng lách cách, lệch xệch, leng keng lại nghe thấy rõ; giữa tất cả những cái đó, chỉ có một tiếng kêu rít lên. Quân địch bị quét tơi bời: đợt tấn công đã bị đánh bật lại.
Bây giờ, trời đã sáng hơn một chút. Cạnh tôi, những bước chân hấp tấp. Đó là những người đầu tiên.
Họ đã vượt qua. Rồi lại những người khác. Những tràng súng máy nổ lia lịa. Tôi nghe thấy những tiếng ào ào của những cái gì đang đổ sập xuống. Vừa lúc tôi định giở mình một chút thì một thân hình nặng nề rơi xuống hố, trôi tuột và lăn vào tôi.
Tôi không nghĩ ngợi gì cả, tôi không suy nghĩ gì cả Tôi chỉ còn biết đâm một cách điên cuồng và chỉ đơn thuần cảm thấy cái thân hình ấy dẫy duạ rồi trở nên mềm nhũn và gập lại như một cái túi. Lúc tôi tỉnh trí lại thì bàn tay tôi đã nhầy nhụa và ướt đẫm. Gã kia thở dốc. Tôi nghe hình như hắn rống lên và mỗi hơi thở như một tiếng kêu, một tiếng gầm; nhưng đó chỉ là quả tim của tôi đập rộn lên thôi. Tôi muốn bắt hắn câm mồm lại, nhét đất vào mồm hắn, lại đâm cho hắn một chập nữa để hắn câm đi, vì hắn có thể làm tôi bị lộ mất; nhưng tôi đã tỉnh trí lại, và đột nhiên tôi cảm thấy yếu đuối quá, không đủ sức làm gì nữa hết.
Thế là, tôi bò đến một góc xa nhất, ở yên đó, mắt trừng trừng nhìn hắn, tay nắm chặt con dao, sẵn sàng lại lao vào hắn nếu hắn cựa quậy. Nhưng hắn chẳng làm gì nữa, qua tiếng rên, tôi đã hiểu hắn ra sao rồi. Tôi chỉ nhìn thấy hắn rất lờ mờ. Tôi chỉ còn một ý định: đi khỏi chỗ này. Nếu tôi không đi gấp, chẳng mấy lúc mà trời sẽ sáng quá, mà bây giờ cũng đã khó rồi. Nhưng mỗi lần định ngẩng đầu lên, tôi thấy không thể nào đi thoát được. Hoả lực của súng máy dầy đến nỗi tôi sẽ bị bắn nát người ngay trước khi chồm lên được một bước.
Tôi còn nhận thấy điều ấy rõ hơn nữa, khi giơ cái mũ lên khỏi mặt đất một chút để xem tầm đạn cao thấp ra sao. Một lát sau, một viên đạn bắn văng cái mũ ra khỏi tay tôi, như vậy là tầm đạn sát mặt đất . Tôi hiện nằm không xa vị trí địch mấy, nếu có định chạy trốn, cũng không tài nào thoát khỏi tay bọn xả thủ giỏi.
Ánh sáng tăng dần. Tôi nóng lòng chờ đợi đợt tấn công của quân nhà. Những đốt ngón tay của tôi trắng bệch ra, hai bàn tay tôi ghì lấy nhau mạnh quá, tôi cầu mong tha thiết tiếng súng im đi và các bạn tôi đến.
Từng phút một trôi qua chậm chạp. Tôi không dám để mắt vào cái bóng đen trong hố nữa. Tôi cố sức nhìn sang bên cạnh hắn và tôi đợi, tôi đợi. Đạn réo lên, đan thành cái lưới thép; vẫn không hết, không bao giờ hết.
Lúc này, tôi chợt nhận thấy bàn tay tôi đẫm máu và đột nhiên tôi cảm thấy choáng váng. Tôi lấy đất, kỳ cọ bàn tay, bàn tay tôi giờ đây bẩn thỉu nhưng ít ra người ta không trông thấy máu nữa.
Hoả lực vẫn không ngớt. Từ cả hai phía, hoả lực mạnh ngang nhau. Có lẽ từ lâu, bên tôi đã cầm chắc là tôi đi đứt rồi.
Trời sáng, một ánh sáng mờ đục, ánh sáng của một ngày vừa hé. Những tiếng thở khò khè vẫn tiếp tục Tôi bịt lỗ tai lại, nhưng tôi lại phải rút ngón tay ra ngay, nếu không, tôi không thể nghe thấy những gì xảy ra.
Cái hình thù trước mặt tôi cựa quậy. Tôi sợ run lên và dù không muốn, tôi vẫn phải nhìn hắn. Lúc này, hai mắt tôi như dính chặt vào hắn: một người có bộ ria mép nhỏ, đang nằm kia; đầu ngoẹo sang bên; gối lên một cánh tay duỗi ra nửa chừng, không động dậy. Bàn tay kia đẫm máu, đặt lên ngực.
Hắn chết rồi, tôi tự nhủ. Nhất định là chết rồi, hắn không còn biết gì nữa; cái tiếng thở khò khè ấy chỉ là cái xác thôi; nhưng kìa, cái đầu toan nhấc lên; những tiếng rên trong một lúc trở nên mạnh hơn, sau đó cái trán lại gục xuống cánh tay. Hắn đang hấp hối, hắn chưa chết. Tôi bò lại phía hắn; tôi dừng lại tì người lên hai tay, tôi nhích thêm một chút lên phía trước, tôi đợi; rồi tôi lại nhích lên nữa; đoạn đường chỉ có ba thước, mà thật là khốc liệt, một đoạn đường dài đăng đẳng và kinh khủng. Cuối cùng, tôi đến cạnh hắn.
Lúc này, hắn mở mắt ra. Có lẽ hắn đã nghe thấy tôi và hắn nhìn tôi với một vẻ sợ hãi ghê gớm. Thân thể hắn không động đậy nhưng trong đôi mắt hắn, hiện lên cái ý muốn chạy trốn, mãnh liệt đến nỗi trong chốc lát tôi tưởng đôi mắt ấy có đủ sức lôi phăng toàn thân đi theo, có thể chỉ cựa mình một cái là đi được hàng trăm cây số. Thân thể hắn không động đậy, hoàn toàn yên tĩnh và lúc này, rất im lặng; tiếng thở khò khè cũng bặt đi, nhưng đôi mắt kêu lên, thét lên; trong đôi mắt ấy, tất cả sinh lực đều tập trung thành một cố gắng phi thường, để chạy trốn, thành một sự khủng khiếp ác liệt trước cái chết, trước tôi. Tôi cảm thấy các khớp xương của tôi long hết cả ra và tôi ngã xuống hai khuỷu tay. "Không ', tôi nói thầm.
Hai con mắt hắn nhìn theo tôi. Tôi không thể nào cử động trong lúc hai con mắt còn đó. Lúc này, bàn tay hắn từ từ và nhẹ nhàng nhích ra khỏi ngực; nó chỉ xê dịch độ vài phân thôi, nhưng cái động tác ấy cũng đủ làm cho đôi mắt bớt vẻ dữ dội đi. Tôi nghiêng người về phía trước, tôi lắc đầu và thầm thì: "Không, không, không", tôi giơ một bàn tay lên, cho hắn thấy là tôi muốn cứu chữa hắn, rồi tôi đặt bàn tay lên trán hắn.
Đôi mắt chớp chớp khi bàn tay tôi sát lại; bây giờ chúng không còn nhìn trừng trừng như trước nữa, lông mi hạ xuống, vẻ căng thẳng dịu bớt. Tôi cởi khuy áo cổ hắn, để cho đầu hắn thoải mái hơn.
Hắn há nửa miệng; hắn cố nói vài tiếng gì đó.
Môi hắn khô cả. Cái bi đông của tôi không có đây, tôi không đem đi theo. Nhưng ở đáy hố, trong vũng bùn, có nước: Tôi lần xuống, tôi lấy cái khăn tay, trải nó ra trên mặt bùn rồi ấn xuống, sau đó, tôi lấy lòng bàn tay vục lấy ít nước vàng vàng lọc qua chiếc khăn tay.
Hắn uống. Tôi lại đi lấy nữa. Rồi tôi cởi áo hắn ra để nếu có thể thì băng bó cho hắn. Dù sao, tôi cũng phải làm những việc này, để lỡ có bị bắt làm tù binh, bọn đối phương cũng thấy rõ là tôi muốn cứu chữa hắn và chúng sẽ không tàn sát tôi. Hắn muốn chống đỡ, nhưng bàn tay hắn yếu quá. Chiếc áo lót của hắn dính chặt, không sao lột được, vì nó cài cúc đằng sau lưng. Chỉ còn cách cắt ra thôi.
Tôi tìm con dao và lại thấy nó ngay. Nhưng lúc tôi bắt đầu rạch cái áo lót của hắn ra, mắt hắn lại mở ra một lần nữa, đôi mắt tỏ vẻ hoảng sợ một cách điên cuồng, chẳng khác những tiếng thét, đến nỗi tôi phải vuốt mắt hắn lại, và nói khe khẽ: "Tôi muốn cứu bạn kia mà". Tôi lại nói thêm bằng tiếng Pháp: "Bạn...
bạn... bạn...", nhấn mạnh vào tiếng đó để hắn hiểu.
Hắn bị ba nhát dao. Những cuộn băng của tôi quấn các vết thương, máu ri rỉ bên trong: tôi buộc chặt hơn nữa; hắn rên lên.
Đấy là tất cả những gì tôi có thể làm được. Cả hai người chỉ còn biết đợi, đợi.
Chao ôi! Những giờ phút này, những giờ phút này?
Tiếng khò khè lại nổi lên. Một con người sắp chết mới chậm chạp làm sao! Vì tôi biết rằng không có cách nào cứu sống hắn được. Thực ra, tôi đã cố nghĩ khác, nhưng đến trưa, những tiếng rên của hắn đã phá tan hết niềm hy vọng giả dối ấy. Nếu trong khi bò, tôi không đánh rơi khẩu súng lục, thì tôi đã kết liễu hắn bằng một phát cho rồi. Tôi không còn sức đâm hắn nữa.
Buổi chiều hôm đó, tôi hoang mang đến cực độ.
Cái đói dày vò dữ dội; tôi gần phát khóc lên vì đói, nhưng không thể nào chống lại nó được. Nhiều lần tôi đi lấy nước cho gã hấp hối và chính tôi cũng uống.
Đấy là con người đầu tiên chính tay tôi giết, tôi có thể biết một cách rõ ràng như thế, cái chết do chính tôi tạo ra. Cát, Cốp, Muynlơ cũng đã nhìn thấy những người mà chúng nó giết; rất nhiều đứa khác cũng thế, nhiều khi ngay cả trong một trận đánh giáp lá cà...
Nhưng mỗi tiếng thở của hắn như xé lòng tôi. Cái gã hấp hối này còn thoi thóp được lúc nữa, hắn có một con dao vô hình đâm suốt qua người tôi, đó là thời gian và những ý nghĩ của tôi.
Tôi sẵn sàng chịu đựng tất cả để cho hắn sống.
Phải nằm đây nhìn hắn và nghe hắn rên thì khổ thực.
Đến ba giờ chiều, hắn chết.
Tôi thở phào, nhưng chẳng được lâu. Sự im lặng đối với tôi còn khó chịu hơn cả những tiếng rên. Tôi lại muốn nghe cái tiếng thở nấc của hắn, khò khè, thỉnh thoảng khẽ rít lên rồi lại khò khè ầm ĩ.
Việc tôi làm chẳng có nghĩa lý gì. Nhưng tôi cũng phải làm một cái gì đó. Vì vậy tôi xê dịch người chết một lần nữa, để cho hắn nằm ngay ngắn hẳn hoi. Tôi vuốt mắt hắn. Đôi mắt nâu; tóc đen, hai bên mái hơi xoăn.
Dưới bộ ria mép cái miệng đầy đặn và hiền lành.
Mũi hơi quặp, nước da xám, bây giờ cái nước da ấy không xỉn bằng lúc hắn chưa chết. Trong giây phút, trông mặt hắn, tưởng như một người đang khoẻ mạnh; nhưng nó biến đổi nhanh chóng thành bộ mặt kỳ lạ của những người chết mà tôi thường thấy và đều giống nhau.
Giờ đây, vợ hắn nghĩ đến hắn, chị ta chẳng biết chuyện gì đã xảy ra. Cứ nhìn hắn có thể đoán được là hắn hay viết thư cho vợ; chị ta sẽ còn nhận được thư hắn, ngài mai, một tuần nữa, có lẽ một tháng nữa, một lá thư tới chậm. Chị ta sẽ đọc thư và tưởng như hắn đang nói với chị.
Tinh thần tôi càng rối loạn, tôi không thể kìm những ý nghĩ lại được. Người đàn bà ấy như thế nào?
Chị ta có giống cô con gái tóc nâu mảnh khảnh bên kia Kênh không? Chị ta có thuộc về tôi không? Có lẽ trong lúc này, vì cái việc này đây mà chị ta thuộc về tôi Chao ôi! Nếu Căngtơrec ở cạnh tôi! Nếu mẹ tôi nhìn thấy tôi như thế này! Chắc hẳn người chết này có thể sống thêm ba mươi năm nữa, nếu tôi nhớ rõ đường hơn. Nếu hắn đi quá về bên trái hai thước nữa, thì lúc này hắn đã về đến chiến hào và hắn lại viết một bức thư nữa cho vợ rồi.
Những ý nghĩ ấy không giúp gì cho tôi cả, vì đó là số phận của tất cả chúng tôi; nếu Kemơrich dịch chân quá về bên phải mười phân nữa, nếu Hai cúi xuống thêm năm phân nữa...
Yên lặng kéo dài. Tôi nói, tôi phải nói . Vì vậy, tôi nói với hắn: "Này anh bạn, mình có muốn giết cậu đâu. Nếu cậu lại nhảy vào cái hố này một lần nữa, mình sẽ không làm thế nữa đâu, miễn là chính cậu, cậu cũng phải biết điều. Nhưng đầu tiên, đối với mình, cậu chỉ là một ý nghĩ, một sự tính toán nảy ra trong đầu mình, rồi nó dẫn đến một quyết định. Chính mình đã đâm vào cái sự tính toán ấy. Bây giờ, lần đầu tiên, mình nhận ra cậu cũng là một con người như mình. Mình đã nghĩ đến những quả lựu đạn của cậu, đến cái lưỡi lê và các thứ vũ khí của cậu; nhưng bây giờ, mình nhìn thấy vợ cậu, cũng như nhìn thấy mặt cậu và những gì giống nhau giữa hai đứa chúng mình. Bạn ơi, hãy tha thứ cho mình. Bao giờ chúng ta cũng nhìn ra sự việc một cách quá muộn. Tại sao người ta không nói cho bọn mình biết rằng chính các cậu, các cậu cũng chỉ là những con chó khốn khổ như bọn mình, rằng các bà mẹ của các cậu cũng đau khổ như mẹ chúng mình, rằng chúng ta đều sợ chết như nhau, đều chết một cách giống nhau, chịu những nỗi đau đớn như nhau? Bạn ơi, hãy tha thứ cho mình; tại sao cậu lại có thể là kẻ thù của mình? Nếu chúng ta bỏ những vũ khí và bộ quân phục này đi, thì cậu rất có thể là người anh em của mình, như Cát và An be vậy. Bạn ơi, cậu hãy lấy hai mươi năm của đời mình và cậu hãy đứng dậy đi... Đời mình còn gì nữa, cậu cứ việc lấy nốt đi, vì mình không biết là từ nay mình còn làm những gì nữa".
Bốn bề phẳng lặng. Mặt trận yên tĩnh chỉ trừ tiếng nổ của súng trường. Đạn nối tiếp nhau; họ không bắn lung tung; trái lại họ nhắm cẩn thận từ bốn phía. Tôi không thể rời khỏi chỗ trú ẩn được. "Mình sẽ viết thư cho vợ cậu', tôi vội vã bảo người chết. "Mình muốn viết thư cho chị ấy, chính mình sẽ báo tin cho chị ấy, mình sẽ nói hết cho chị ấy biết những cái mình nói với cậu; mình không muốn chị ấy khổ, mình sẽ giúp đỡ chị ấy, giúp đỡ cả cha mẹ cậu cũng như cả con cậu nữa..." Bộ quân phục của hắn vẫn chưa cài lại. Rất dễ tìm thấy cái ví. Nhưng tôi ngập ngừng không dám mở ví ra. Có cả tập quân bạ ghi tên tuổi hắn. Nếu chưa biết tên hắn, có thể tôi sẽ quên hắn đi; thời gian sẽ xoá mờ hình ảnh này đi. Nhưng tên hắn là một cái đinh sẽ đóng ngập vào người tôi và tôi sẽ không thể nào nhổ ra được. Nó có sức mạnh nhắc lại tất cả, bất cứ lúc nào; cái cảnh tượng này sẽ có thể mãi mãi tái diễn và hiện lên trước mắt tôi.
Tôi cầm cái ví trong tay mà không biết làm gì. Nó tuột khỏi tay tôi và mở ra, ảnh và thư rơi ra. Tôi nhặt chúng lên, toan để vào chỗ cũ, nhưng cái trạng thái rã rời mà tôi đang lâm vào, tất cả cái tình huống bấp bênh này, cái đói, cái nguy hiểm, những giờ phút bên cạnh người chết, đã biến tôi thành một kẻ tuyệt vọng: tôi muốn đi gấp đến kết cục, chịu thêm nhiều cực hình hơn nữa để mau chóng chấm dứt, khác nào quật một bàn tay đang bị đau ghê gớm vào thân cây, không cần biết rồi sau sẽ ra sao nữa.
Đó là những bức ảnh của một người đàn bà và một đứa con gái nhỏ, những bức ảnh nhỏ chụp nó chơi với một giàn trường xuân. Cạnh đấy, là những bức thư. Tôi rút ra và thử đọc. Tôi không hiểu gì mấy, thật khó mà lần ra được, tiếng Pháp tôi chỉ biết lõm bõm thôi. Nhưng mỗi chữ tôi dịch ra được cứ như một viên đạn xuyên vào ngực tôi, như một mũi dao găm đâm vào trái tim tôi...
Đầu óc tôi bị kích thích mãnh liệt. Nhưng tôi còn đủ sáng suốt để hiểu rằng không bao giờ tôi đuợc phép viết thư cho họ như tôi vừa nghĩ lúc này. Thật là không thể được. Tôi nhìn những bức ảnh một lần nữa; họ không phải là hạng người giàu có, nếu sau này tôi kiếm được ít nhiều, tôi sẽ gửi tiền cho họ bằng cách dấu tên. Tôi bám lấy ý định ấy, ít ra nó cũng là một chỗ dựa nhỏ của tôi. Người chết này gắn liền với đời tôi; vì thế tôi phải làm tất cả mọi thứ và phải hứa hẹn mọi điều để tự giải thoát; tôi thề một cách mù quáng rằng tôi chỉ muốn sống vì hắn và vì gia đình hắn. Đôi mắt ướt đẫm, tôi chuyện trò với hắn; làm thế, trong thâm tâm tôi có cái mong muốn chuộc lại điều tôi đã làm, đồng thời, có lẽ đó cũng là cái mẹo nhỏ để mong thoát thân, vì lúc nào nuốt lời thề mà chả được.
Tôi mở tập quân bạ và thong thả đọc: "Giêra đuy van, thợ nhà in".
Tôi lấy cái bút chì của người chết, ghi địa chỉ lên một chiếc phong bì rồi đột nhiên tôi vội vã bỏ tất cả vào túi áo hắn.
Tôi đã giết anh thợ nhà in Giêra đuy van. Tôi phải trở thành thợ nhà in mới được, tôi nghĩ, đầu óc quay cuồng rối loạn, tôi phải thành thợ nhà in, thợ nhà in. . .
Buổi chiều, tôi bình tĩnh hơn. Sự sợ hãi của tôi không có căn cứ. Cái tên ấy không làm tôi hoảng hốt nữa. Cơn khủng hoảng đã qua. "Bạn ơi' , tôi nói với người chết nằm bên cạnh tôi, nhưng bằng một giọng trấn tĩnh "cậu hôm nay, mình ngày mai thôi. Tuy vậy, nếu mình thoát chết, bạn ạ, mình sẽ đấu tranh chống lại cái đã giết hại cả hai chúng ta; với cậu. nó đã lấy mất cuộc đời của cậu. Với mình?. . . Nó cũng đã lấy mất cuộc đời của mình. Mình xin hứa với bạn, bạn ạ. Sao cho cái chuyện này không bao giờ được tái diễn nữa".
Mặt trời chiếu xiên khoai. Tôi mệt và đói đến kiệt sức Chuyện xảy ra ngày hôm qua đối với tôi như một đám sương mù, tôi không còn hy vọng thoát được nữa:
Vì vậy, tôi nằm lịm đi, không biết chiều đến lúc nào.
Hoàng hôn xuống. Hình như lúc này thì giờ đi nhanh lắm. Còn một giờ nữa. Nếu là mùa hè, còn phải đợi ba tiếng đồng hồ nữa. Còn một giờ nữa!
Lúc này tôi phát run lên, sợ từ bây giờ đến lúc ấy, lại xảy ra tại vạ gì nữa chăng. Tôi không nghĩ đến người chết nữa; tôi trở nên thản nhiên hơn đối với hắn. Bất thình lình, lòng ham sống vượt lên trên tất cả và đẩy lùi tất cả những gì mà tôi hứa hẹn sẽ làm. Có điều, không muốn lại mắc phải một tai vạ nữa, tôi tự nhiên lẩm bẩm: "mình sẽ giữ lời hứa, tất cả mọi lời hứa mình đã nói với cậu'. Nhưng ngay từ lúc này, tôi đã biết rằng không đúng như thế.
Đột nhiên, tôi nghĩ rằng chính các bạn tôi có thể bắn phải tôi, nếu tôi bò; vì thực ra họ có biết tôi bò ở đây đâu . Khi nào có thể, tôi sẽ kêu lên để họ nghe thấy. Tôi sẽ cứ nằm trước chiến hào cho đến khi nào họ trả lời.
Ngôi sao đầu tiên. Mặt trận vẫn yên tĩnh. Tôi thở và trong lúc xúc động, tôi tự nhủ: "Thôi, bây giờ đừng vớ vẩn gì nữa, nghe không Pôn... Phải bình tĩnh, bình tĩnh, nghe không Pôn... Như thế mày sẽ thoát, nghe không Pôn..." Tự gọi tên như thế có tác dụng như được người khác gọi tên mình, và kết quả lại còn hơn thế nữa.
Bóng tối dầy thêm. Sự xúc động của tôi giảm bớt; tôi cẩn thận đợi những quả pháo sáng đầu tiên bắn lên đã. Sau đó, tôi bò ra khỏi hố. Tôi đã quên người chết. Trước mắt tôi, bóng đêm bắt đầu trải khắp và chiến trường ánh lên màu xanh nhợt. Tôi nhằm một hố trái phá; lúc ánh sáng vừa tắt, tôi vội vàng lao ngay vào đấy; tôi sờ soạng phía trước mặt rất kỹ lưỡng, tôi đến được cái hố gần đấy, tôi thu hình lại thật nhỏ và cứ thế tiếp tục trườn lên phía trước.
Tôi đã đến gần. Lúc ấy, nhờ ánh sáng một hoả pháo, tôi nhận thấy đúng có cái gì còn đang động đậy quanh hàng rào dây thép gai trước khi nó im hẳn; tôi nằm yên, không tiếng động . Tôi lại thấy thế một lần thứ hai nữa.
Đúng rồi đó là những bạn tôi từ chiến hào đi đến.
Nhưng tôi vẫn khôn ngoan chưa dám lên tiếng, cho đến khi tôi nhận đúng mũ của quân nhà. Rồi tôi gọi. Ngay lúc dó tên tôi vang lên, như tiếng trả lời: "Pôn... Pôn..." Tôi lại gọi. Đó là Cát và Anbe, đang vất một miếng vải bạt đi tìm tôi.
- Cậu có bị thương không?
- Không, không . . .
Chúng tôi lao cả vào chiến hào: tôi đòi ăn, và tôi ăn ngấu nghiến. Muynlơ cho tôi một điếu thuốc lá.
Tôi kể qua loa lại sự việc. Chẳng có gì lạ cả. Những chuyện như thế thưởng xảy ra luôn. Riêng có đợt tấn công ban đêm là đặc biệt trong chuyện này. Nhưng ở Nga, có ăn . Cát đã nằm hai ngày liền sau phòng tuyến quân Nga rồi mới mò được về.
Tôi không nói đến anh thợ nhà in chết.
Nhưng sáng hôm sau, tôi không nhịn được nữa; tôi phải kể việc ấy cho Cát và Anbe nghe. Cả hai người muốn cho tôi bớt áy náy:
- Cậu không thể làm gì được đâu. Cậu muốn làm khách thế nào được? Có thế, cậu mới về được đây chứ.
Tôi nghe chúng nó, yên tâm, vững lòng bên cạnh chúng nó. Chao ôi! Những ý nghĩ của tôi lúc ở trong hố, mới ngớ ngẩn làm sao!
- Cậu nhìn kìa! - Cát bảo tôi.
Mấy xạ thủ xuất sắc đứng tì vào luỹ. Họ đang ở tư thế nhắm bắn, có cả ống nhòm để nhắm cho rõ hơn, họ đang quan sát trận địa địch. Thỉnh thoảng, một phát súng nổ. Lúc này, chúng tôi nghe những tiếng kêu: 'Trung điểm đen rồi" - "Cậu có thấy nó lộn nhào đi không?” Viên đội Ônrích quay lại, nêu thành tích của mình một cách tự đắc. Hắn ta dẫn đầu bảng xạ kích ngày hôm nay với ba phát trúng đích hẳn hoi.
- Cậu nghĩ sao? - Cát hỏi.
Tôi chỉ trả lời bằng một cử chỉ.
- Cứ cái diệu này, chiều nay ngài đội lại được thêm một con chim xanh đỏ vào khuy áo đấy. - Cốp nói.
- Hoặc chẳng bao lâu ngài đội sẽ được thăng chức phó đội nhất. - Cát thêm.
Chúng tôi nhìn nhau.
- Mình chả làm thế đâu, - tôi nói.
Nhưng dù sao, cậu cũng vừa được chứng kiến một điều hay đấy! - Cát trả lời.
Viên đội Ônrích trở lại bên luỹ. Nòng súng của hắn xê dịch về mọi phía.
- Xem đấy, cậu không còn phải thắc mắc về chuyện của cậu nữa nhé. – An be vừa nói với tôi vừa ra hiệu bằng đầu.
Chính tôi, lúc này, tôi cũng chẳng hiểu tôi nữa.
- Chỉ tại lệnh phải ở đấy với hắn lâu quá. - Tôi nói. - Rút cục, chiến tranh là chiến tranh.
Khẩu súng của Ônrích nổ một phát gọn và khô.
Chúng tôi vớ được món bở. Tám đứa chúng tôi nhập nhiệm vụ giữ một làng đã tản cư di sạch, vì bị oanh tạc dữ quá.
Việc chính là phải trông coi kho quân lương chưa chuyển đi được hết. Cái ăn thì chúng tôi phải lấy ở chỗ lương thực hiện có. Cử bọn tôi làm việc này là đích đáng lắm: Cát, Anbe, Muynlơ, Jađơn. Lia, Đêtơrinh, cả tiểu đội ở đây . Sự thực, Hai đã chết. Nhưng dù sao, cũng vẫn may mắn ghê gớm, vì tất cả những tiểu đội khác đều bị thiệt hại nặng nề hơn nhiều.
Chúng tôi chọn một cái hầm bê tông làm nơi trú ẩn, đi xuống hầm bằng một cái thang phía ngoài. Lối vào lại có một bức tường riêng bằng bê tông che chở.
Bây giờ, chúng tôi tha hồ mà làm mưa làm gió.
Chúng tôi lại có dịp không những để cho cặp giò được thoải mái, mà cả trí óc nữa. Chúng tôi không bỏ lỡ những cơ hội tốt như thế này, vì chúng tôi ở vào một hoàn cảnh gay go quá đến nỗi không đủ thì giờ mà cảm xúc lâu nữa, việc chỉ có thể có khi tình hình không đến nỗi bi lắm. Chúng tôi chỉ còn cách sống rất thực tế, thực tế quá đến nỗi đôi lúc tôi rùng mình khi một ý nghĩ ngày xưa, của thời kỳ trước chiến tranh thoáng qua óc tôi. Cũng phải nói rằng ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua thôi.
Trong chừng mực có thể, chúng tôi cũng cần khai thác khía cạnh thuận lợi của hoàn cảnh. Vì thế chúng tôi lợi dụng bất kỳ cơ hội nào để chuyển từ nỗi âu lo khủng khiếp sang những trò quấy tếu vớ vẩn nhất, một cách thẳng thừng, thô bạo và không đòi hỏi gì cả. Chúng tôi không nhịn được, chúng tôi nhắm mắt lao bừa vào. Ngay lúc này, chúng tôi hăng hái bắt tay vào việc xây dựng một bản tình ca, dĩ nhiên là bản tình ca ăn ngon và ngủ kỹ.
Trước hết chúng tôi trang bị cho ngôi nhà của mình bằng những tấm đệm tìm được ở các nhà trong làng. Một cái đít lính chăng nữa cũng đôi lúc muốn đặt lên một cái gì êm ấm chứ. Chỉ có khoảng giữa gian hầm là để trống. Rồi chúng tôi lùng những chăn, những mền, những thứ êm ấm lạ lùng. Trong làng, có đủ mọi thứ. Anbe và tôi lại lùng được một cái giường bằng gỗ đào hoa tâm có thể tháo lắp được, đỉnh màn bằng lụa xanh và riềm bằng đăng ten hẳn hoi. Lúc khiêng giường về, chúng tôi mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nhưng tài nào mà bỏ qua một vật như thế được, nhất là nếu nghĩ rằng trong vài ngày nữa, đại bác nhất định sẽ phá huỷ hết tất cả.
Cát và tôi tổ chức thi một cuộc tuần tra các nhà.
Một lúc sau chúng tôi moi được một tá trứng gà, và một cân bơ còn tươi. Trong một phòng khách, đột nhiên có tiếng rầm rầm: một mảnh đạn rít lên, xuyên qua bức tường ngay cạnh chúng tôi, và cách đấy một thước nữa, nó lại phá một lỗ hổng trên một bức tường khác. Thế là hai lỗ tất cả. Mảnh đạn bất ngờ này từ một quả đại bác rốc xuống ngôi nhà trước mặt. "Phúc bảy mươi đời!" Cát cười khẩy, rồi chúng tôi lại tiếp tục cuộc lùng kiếm. Đột nhiên, chúng tôi vểnh tai lên và ba chân bốn cẳng chạy. Rồi chúng tôi lại đứng lại ngay như bị ma làm: hai chú lợn con đang lục sục trong một cái chuồng nhỏ. Chúng tôi dụi mắt và nhìn cẩn thận một lần nữa về phía ấy: rõ ràng chúng nó còn sờ sờ ra đấy. Chúng tôi tóm lấy chúng: không còn ngờ gì nữa, đúng là hai chú lợn sữa.
Một bữa chén ngon tuyệt trần đấy! Cách hầm chúng tôi độ năm chục bước có một ngôi nhà dùng làm chỗ ở cho sĩ quan. Trong bếp, có một cái lò thật vĩ đại với hai dàn quay, với những chảo rán, nồi niêu, nghĩa là có đủ mọi thứ cần thiết; dưới mái hiên lại có rất nhiều củi nhỏ chờ chúng tôi: thật là một chốn bồng lai tiên cảnh.
Từ sáng sớm, hai đứa trong bọn tôi đã ra ngoài đồng lùng khoai tây, cà rốt và đậu đầu mùa. Chúng tôi ra cái điều khảnh ăn, không thích những món đồ hộp trong kho quân lương; chúng tôi muốn chất tươi kia. Trong chạn, đã có hai cây xúp lơ rồi.
Chúng tôi thịt hai con lợn; Cát lãnh cái nhiệm vụ ấy . Chúng tôi muốn thêm vào thịt quay món bánh rán khoai nữa. Nhưng chúng tôi không xoay đâu được cái bàn để nạo khoai. Chúng tôi tìm được cách thay thế ngay. Chúng tôi lấy một cái nắp hộp sắt tây, rồi đóng đinh cho thủng lỗ chỗ khắp cả, thế là được cái bàn xát cần thiết rồi. Ba đứa đeo găng dày để tránh đau tay, cứ việc ngồi nạo khoai, còn hai đứa khác ngồi gọt vỏ, công việc chạy băng băng.
Cát nấu nướng với hai con lợn, cà rốt, đậu bột và súp lơ . Anh ta lại đánh một thứ xốt trắng rưới vào món xúp lơ nữa. Còn tôi thì làm món bánh rán, mỗi lần bốn chiếc. Cứ độ mươi phút tôi lại hất cái chảo lên một lần làm cho những chiếc bánh đã chín một mặt, nhảy lên, quay đi một vòng rồi rơi xuống rất đúng chỗ. Hai con lợn đã quay vàng. Mọi người quây lại như xúm quanh một cái bàn thờ.
Dịp này, chúng tôi lại có khách, hai chú lính vô tuyến điện thoại mà chúng tôi đã có nhã mời đến để đánh chén. Họ ngồi ở phòng khách, ở đấy có cái đàn dương cầm. Một cậu đánh đàn, một cậu hát bài “Trên bờ sông Vê Đơ.” Cậu ta hát đầy tình cảm nhưng pha giọng vùng Xắc Xơ. Tuy vậy bài hát vẫn làm cho chúng tôi xúc động trong khi chúng tôi xúm xít trước bếp lửa làm những món ngon lành này.
Dần dần, chúng tôi nhận thấy trái phá bắt đầu dội xuống như mưa quanh chỗ chúng tôi. Tụi khí cầu thám thính đã phát hiện ra khói bốc từ ống khói nhà chúng tôi lên, và thế là chúng oanh tạc. Những quả đại bác hạng nhẹ chết tiệt ấy khoét những chỗ không to lắm nhưng mảnh đạn đi rất xa và sát mặt đất.
Những tiếng rít mỗi lúc một nhiều, nhưng dù sao chúng tôi cũng không thể đình việc làm bếp lại được.
Cái bọn chó má ấy hướng dẫn đường đạn. Vài mảnh đạn xuyên qua cửa sổ. Món lợn quay chẳng mấy lúc đã xong. Nhưng rán bánh đâm ra khó. Những viên đạn rơi xuống gần đến nỗi mảnh đạn đập chan chát vào tường và xuyên qua cửa sổ mỗi lúc một nhiều.
Mỗi lần nghe thấy tiếng nào gần dấy, tôi lại bê chảo bánh quỳ xuống và nép sau bức tường có cửa sổ. Nhưng liền sau đó, tôi lại nhỏm dậy và tiếp tục rán.
Hai anh chàng người Xắc xơ ngừng đàn hát: một mảnh đạn đã bắn vào cái đàn dương cầm; chúng tôi cũng đã làm xong công việc bếp núc và tính nước chuồn. Khi một quả đại bác vừa nổ xong là hai người bê những chảo rau đậu, ù té chạy, vượt quãng đường năm chục thước từ nhà bếp đến hẩm trú ẩn của chúng tôi. Chúng tôi thấy họ lẩn mất hút.
Một quả đại bác nữa. Mọi người cúi xuống, rồi hai người bê hai bình cà phê chính cống hạng nhất, chạy lồng lên và đến được hầm trú ẩn trước khi một quả đại bác nữa rơi xuống.
Bây giờ đến lượt Cát và Cốp chuyển món chủ lực quân: cái chảo lớn với hai con lợn quay vàng. Một quả đại bác gầm lên, chúng nó quỳ xuống, rồi kia, chúng nó chạy như bay, vượt qua năm chục thước đường trống.
Tôi đã rán xong bốn cái bánh cuối cùng; tôi đã phải nằm bẹp xuống đất hai lần, nhưng tôi cũng được thêm bốn cái nữa, món tôi rất ưa thích.
Thế rồi tôi bê cái mâm với đống bánh rán lù lù ở trên và đứng nép vào cửa. Một tiếng rít, một tiếng nổ, và tôi chạy như bay, hai tay ghì cái mâm vào ngực. Gần đến nơi, lại nghe thấy một tiếng rít đinh tai mỗi lúc một to; tôi chồm lên như một con hươu rồi ngoắt nhanh như chớp vào trong bức tường bê tông; mảnh đạn quật chan chát vào bức tường; tôi chạy xuống thang ngầm. Hai khuỷu tay rách toạc cả, nhưng cái mâm không bị đổ và không mất qua một cái bánh nào.
Chúng tôi bắt đầu đánh chén vào lúc hai giờ. Kéo dài cho đến tận sáng. Từ sáu giờ đến sáu rưỡi, chúng tôi uống cà phê, thứ cà phê và thuốc xỉa của sĩ quan, cũng lấy ở kho. Đến đúng sáu giờ rưỡi, chúng tôi lại ăn bữa tối. Đến mười giờ đêm chúng tôi vất xương lợn ra ngoài cửa. Rồi sau đó, có rượu cô nhắc, rượu rum cũng lấy ở cái kho thực phẩm trời cho ấy, rồi lại đến lượt những điếu xì gà to, dài có quấn vòng. Jađơn quả quyết rằng chỉ còn thiếu một món: ấy là cái món gái nhà thổ của sĩ quan.
Đêm đã khuya, chúng tôi nghe thấy tiếng kêu meo meo. Một chú mèo nhỏ màu xám ngồi ở lối ra vào . Chúng tôi nhử nó vào và cho nó ăn. Thế là chúng tôi lại thấy buồn mồm. Chúng tôi đi ngủ mà mồm vẫn nhai.
Nhưng chúng tôi trải qua một đêm thật là khổ.
Chúng tôi ăn nhiều thức béo quá. Con lợn sữa đã làm cho cả lũ đau bụng. Trong gian hầm, cứ đi đi về về suốt đêm. Bên ngoài lúc nào cũng có hai hoặc ba đứa ngồi xổm quây thành vòng tròn, quần tụt hẳn xuống, mà miệng thì cứ chửi. Về phần tôi, tôi đi lại con đường chín lần. Đến bốn giờ sáng, thì cả bọn phá kỷ lục: cả người vừa tướng, vừa lính, vừa khách khứa đều họp mặt ở ngoài!
Những ngôi nhà cháy rừng rực, hiện lên trong đêm như những bó đuốc. Trái phá điên cuồng nổ cạnh chúng tôi. Những đoàn xe quân nhu ầm ầm qua phố.
Một góc của kho quân lương bị đạn phá tung ra. Mặc dầu bom đạn, tụi lái xe vẫn cứ chen chúc vào như một đàn ong và xoáy bánh mì ở đấy. Chúng tôi mặc cho họ lấy . Nếu nói gì, có thể họ nện cho nhừ tử. Vì vậy chúng tôi tính cách khác. Chúng tôi bảo họ rằng chúng tôi có nhiệm vụ trông kho và, vì chúng tôi cũng là những tay lắm mánh khoé, chúng tôi đổi đồ hộp cho họ để lấy những thứ chúng tôi thiếu. Cái đó có quan hệ gì? Chẳng bao lâu đại bác sẽ phá huỷ hết. Chúng tôi moi sôcôla trong kho ra và ăn từng tảng một. Cát bảo yên bụng mà ăn cái này thì tốt lắm . . .
Suốt mười lăm ngày như thế, chúng tôi chỉ việc ăn: uống và rong chơi nhởn nhơ. Chẳng có ai quấy rầy gì cả. Đại bác dần dần phá huỷ hết cả làng và chúng tôi sống thật là khoái. Khi nào trong kho quân lương còn cái chén được, là chúng tôi còn phớt đều và chúng tôi ước ao một cách đơn giản là giá chiến tranh chấm dứt ngay ở đây thì tuyệt quá.
Jađơn đâm ra chơi sang đến mức xì gà chỉ hút nửa điếu thôi. Nó tuyên bố một cách kên kiệu rằng đó là thói quen của nó. Cát cũng thế, cũng ra vẻ lắm.
Buổi sáng, vừa mở mắt, câu đầu tiên của anh ta là: "Min, mang cà phê với trứng cá muối lại đây!" Chúng tôi trở nên lịch sự một cách lạ lùng đứa nào cũng coi bạn mình như là quân hầu, anh anh ta ta một cách trịnh trọng, và ra lệnh "Cốp, chân ta ngứa đây, anh bắt cho ta con rận". Vừa nói, Lia vừa giơ chân cho nó như một cô đào hát, còn Anbe thì lôi Lia ta lên đến tận đầu cầu thang. "Jađơn?" - "Gì?" - "Jadơn, anh cứ đứng tự nhiên, mấy lại người ta không nói "gì" mà phải nói là: xin nghe lệnh. Nào, Jadơn!". Thế là, Jađơn ta, bằng cử chỉ và lời nói lại đóng vai Gợt Béclichingơn (Hiệp sĩ Đức, thế kỷ thứ XV) một cách đặc sắc. Nó đóng cái vai này tuyệt lắm.
Tám ngày sau, chúng tôi nhận được lệnh rút. Thế là hết cả hào hoa phong nhã. Hai xe vận tải lớn đến đón chúng tôi. Hai chiếc xe chở đầy ăm ắp ván gỗ.
Nhưng Anbe và tôi cố xếp lên cái giường có đỉnh màn với riềm lụa xanh, với đệm và hai cái chăn con có đăng ten. Trong góc, mỗi đứa chúng tôi có một bị đầy những món ăn hảo hạng. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại sờ, nắn; những khúc dồi hun, chắc nịch, những hộp xúc xích gan, những hộp thức ăn, những hộp xì gà, làm cho lòng chúng tôi rạo rực. Mỗi đứa vác đầy một bị như thế.
Nhưng Cốp và tôi lại còn vớt vát thêm hai chiếc ghế bành bọc nhung đỏ. Chúng tôi xếp hai cái ghế lên trên giường rồi ngồi ưỡn ra như ngồi ghế lô trong nhà hát. Trên đầu chúng tôi, cái đỉnh màn lụa bay phồng lên, y như cái lọng. Mỗi đứa lại vắt vẻo ở mồm một điếu xì gà dài ngoằng. Ngồi như thế, từ trên cao, chúng tôi nhìn xuống khắp vùng. Giữa chúng tôi có một cái lồng vẹt, mà chúng tôi đã lùng được để nhất trí mang con mèo đi theo; chú mèo kêu khò khò trước bát thịt.
Xe chạy chậm chậm trên đường. Chúng tôi hát.
Phía sau chúng tôi, những quả đại bác dựng lên những cột khói từ cái làng lúc này đã hoàn toàn bỏ trống.
Vài ngày sau, chúng tôi nhận nhiệm vụ dồn dân ra khỏi một khu vực. Dọc đường, chúng tôi gặp những người chạy loạn bị đuổi ra khỏi nhà. Bao nhiêu của cải họ xếp lên xe bò, xe trẻ con và vác cả trên lưng nữa.
Thân hình họ còng xuống, nét mặt đầy vẻ buồn phiền, tuyệt vọng, vội vã và chịu đựng. Trẻ con đưa tay cho mẹ dắt, đôi lúc chị dắt một lũ em, chúng nó vừa đi vừa vấp ngã, và luôn luôn ngoái lại đằng sau. Vài đứa mang theo những con búp bê thảm hại. Tất cả bọn đều im lặng, khi đi gần chúng tôi.
Chúng tôi vẫn hành quân. Quân Pháp chắc hẳn không bắn vào những làng có đồng bào của họ. Mấy phút sau, không khí rú lên, đất chuyển mình, những tiếng kêu thét nổi dậy: một quả đại bác vừa nghiến cả trung đội đi sau cùng. Chúng tôi tản ra và nằm bẹp xuống đất; nhưng lúc này, tôi không còn can đảm như mọi lần, dưới lửa đạn, vẫn làm được một cách vô ý thức những động tác thích hợp. Một ý nghĩ bật lên trong đầu tôi "mình đi đứt mất". Một sự lo lắng ghê gớm chẹn lấy họng tôi. Đồng thời một cái gì giống như một ngọn roi quất vào chân trái tôi. Tôi nghe thấy Anbe kêu lên, nó nằm sát cạnh tôi.
- Đứng dậy, Anbe! - Tôi hét lên, - chúng mình nằm trơ ra thế này à, chẳng có gì che cả!
Nó loạng choạng đứng dậy và bắt đầu chạy. Tôi chạy sát bên nó. Chúng tôi phải vượt qua một bờ dậu cao hơn đầu người. Cốp víu lấy một cành cây; tôi nắm chân nó; nó kêu lên, tôi đẩy nó một cái cho có đà, nó nhảy sang bên kia dậu. Tôi nhảy xuống ngay đằng sau nó, và ngã lộn xuống một cái ao phía sau.
Mặt hai đứa đầy những bèo và bùn, nhưng chỗ trú ẩn này khá đấy. Cho nên chúng tôi ngâm nước đến tận cổ. Khi nghe thấy một viên đạn réo lên, chúng tôi hụp ngay đầu xuống nước.
Nhô lên hụp xuống độ mười hai lần, tôi mệt lử cả người, Anbe cũng thế, thở hổn hển.
- Đi đi, nếu không tớ ngã gục xuống và chết đuối mất!
- Cậu bị vào đâu?
- Có lẽ đầu gối.
- Cậu chạy được không?
- May ra...
- Vậy chạy nhé!
Chúng tôi chạy đến cái rãnh nước bên đường.
Chúng tôi lom khom chạy theo đường rãnh, hoả lực vẫn đuổi theo chúng tôi. Con đường này dẫn đến kho đạn. Nếu kho đạn nổ thì chúng tôi tan xác không còn một mảnh. Vì vậy, chúng tôi đổi chiều và chạy tạt chéo qua cánh đồng.
Anbe đi chậm lại.
- Cậu cứ chạy đi, tôi theo sau, - nó vừa nói a ngồi phệt xuống.
Tôi cầm tay nó, lắc lắc:
- Đứng dậy, Anbe, cậu mà nằm xuống, là đừng hòng đi được nữa. Nào, vịn vào mình.
Cuối cùng, chúng tôi đến một hầm trú ẩn nhỏ.
Cốp nằm dài ra trên mặt đất . tôi băng bó cho nó. Nó bị thương trên đầu gối một tí. Sau đó tôi nhìn lại tôi.
Quần đẫm máu , cả tay áo cũng thế. Anbe quấn băng vào những chỗ bị thương cho tôi. Lúc này, nó không nhấc được chân lên nữa rồi. Cả hai đứa đều ngạc nhiên sao lại lê được đến tận chỗ này thì lạ thật.
Chính cái sợ đã giúp sức chúng tôi, giá bị cụt hai bàn chân, có lẽ chúng tôi vẫn còn tiếp tục đi được bằng những khúc chân cụt ấy.
Tôi còn có thể bò được một ít, tôi gọi một cái xe có thành đi qua đấy; nó chở chúng tôi đi. Trên xe đã đầy những người bị thương. Một y tá trưởng tiêm vào bụng mỗi đứa một phát để phòng bệnh uốn ván.
Đến trạm quân y, chúng tôi thu xếp hai đứa nằm bên nhau. Người ta cho chúng tôi ăn cháo loãng, hai đứa vừa húp sùm sụp, vừa tỏ vẻ khinh bỉ; vì đã quen một dạo với toàn cao lương mỹ vị, nhưng chúng tôi vẫn thấy đói.
- Anbe, bây giờ, là chúng mình về nhà, - tôi nói.
- Cũng mong thế, - nó trả lời. - Không biết tớ bị ra làm sao?
Các chỗ đau mỗi lúc một nhức nhối. Những chỗ băng bó nóng bỏng lên như lửa đốt. Chúng tôi uống, uống liên tục, hết cốc nước này đến cốc nước khác.
- Vết thương của mình cách đầu gối bao nhiêu nhỉ? - Cốp hỏi.
– Ít ra là mười phân, Anbe ạ, - tôi trả lời. Sự thực, có lẽ chỉ cách ba phân thôi.
Một lúc sau nó nói:
- Tớ thề là nếu họ cưa của tớ một chân là tớ tự tử ngay. Tớ không thể nào sống làm thằng què ở trên đời này được.
Thế là, chúng tôi nằm đất nghĩ vơ nghĩ vẩn và chờ đợi.
Buổi chiều, người ta đem chúng tôi lên bàn mổ.
Tôi phát hoảng và vội vàng tự hỏi phải làm gì đây, vì ai chả biết là trong những trạm quân y dã chiến, tụi bác sĩ chỉ cưa là nhanh thôi. Trong lúc vội, cưa bao giờ chả đơn giản hơn những việc chắp nối phiền phức. Tôi nhớ đến Kemơrich. Dù thế nào tôi cũng nhất định không để cho chúng đánh thuốc mê, dù phải đập vỡ mặt vài thằng ra cũng đành.
Nhưng không đến nỗi thế. Viên thầy thuốc cắt rạch khắp cả vết thương của tôi, tôi đau quá, nẩy đom đom mắt ra.
- Làm gì mà nhặng lên thế, - ông ta vừa càu nhàu vừa tiếp tục cắt xé. Những dụng cụ loé lên dưới ánh sáng gay gắt như những con thú dữ. Đau không chịu được. Hai gã y tá giữ chặt lấy cánh tay tôi, nhưng tôi giằng ra được một gã và sắp sửa đánh hắn ngã dúi vào cặp kính của viên thầy thuốc, thì ông này nhận thấy nên vội nhảy bổ về đằng sau.
- Đánh thuốc mê cho nó đi! - ông ta giận dữ hét lên.
Thế là tôi dịu lại. .
- Thưa bác sĩ, tôi xin lỗi. Tôi sẽ nằm im, nhưng đừng đánh thuốc mê tôi.
- Được, ông ta vừa nói bằng một giọng gay gắt vừa cầm lại dụng cụ.
Ông ta tóc vàng, nhiều nhất là ba mươi tuổi, mặt có những cái sẹo thời sinh viên và đôi kính gọng vàng trông không mê được. Tôi nhận thấy lúc này, ông ta đang tìm mảnh đạn, ông ta mò ngoáy trong vết thương của tôi, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên trên cặp kính nhìn về phía tôi một cái. Hai bàn tay tôi nắm chặt cái thành bàn mổ, đến tê dại đi; tôi thà chết chứ không chịu rên lên một tiếng.
Ông ta đã mò được mảnh đạn trái phá trong vết thương, rồi ông ta ném nó cho tôi. ông ta có vẻ hài lòng về thái độ của tôi, vì bây giờ ông ta đặt những thanh gỗ buộc xương cho tôi một cách cẩn thận và nói: ngày mai, về nhà nhé". Rồi người ta bó bột cho tôi . Khi về cạnh chỗ Cốp, tôi nói cho nó biết có lẽ ngày mai, một chuyến tàu quân y sẽ tới.
- An be này, chúng mình phải tán với tay đội nhất y tá để hai đứa ở gần nhau mới được.
Tôi đã tìm cách luồn cho viên đội nhất y tá hai điếu xì gà loại có vòng, kèm theo mấy lời thích đáng.
Anh ta hít hít và nói:
- Cậu còn nữa không?
- Còn kha khá, cả thằng bạn tôi cũng thế (vừa nói tôi vừa chỉ Cốp), cả hai đứa chúng tôi chỉ muốn sáng mai cùng đưa cho anh qua cửa sổ chuyến tàu quân y.
Dĩ nhiên, anh ta hiểu ý, lại hít hít và nói:
- Được thôi.
Ban đêm, chúng tôi không chợp mắt được nổi một phút. Trong phòng chúng tôi, có bảy người chết. Một người trong số ấy hát thánh ca suốt một giờ, bằng cái giọng nam cao nghẹn ngào, rồi sau đó bắt dầu thở nấc lên. Một người khác tụt xuống khỏi giường, lê ra tận cửa sổ, rồi nằm ở đấy như để nhìn ra bên ngoài một lần cuối cùng. . Những cái cáng của chúng tôi đã ra đến ga.
Chúng tôi đợi tàu. Trời mưa. Nhà ga không có mái.
Chăn thì mỏng. Chúng tôi đợi đã hai giờ rồi. Viên đội nhất y tá săn sóc chúng tôi như một người mẹ. Dù mệt bã người, nhưng tôi vẫn chuẩn bị kế hoạch. Vì vậy cứ làm ra vẻ như thường, tôi chỉ vào những cái gói và đưa cho anh ta một điếu để cược trước. Đáp lại, viên đội nhất đắp cho chúng tôi một tấm vải bạt.
- Anbe này, - anh nói tôi vừa nhớ lại, - còn cái giường có đỉnh màn của chúng mình, còn con mèo...
- Còn những cái ghế bành nữa chứ, - nó thêm. . .
Phải, những cái ghế bành bọc nhung đỏ. Trước, tối tối hai đứa tôi ngồi như ông hoàng, và chúng tôi tính sau này sẽ đem ra cho thuê giờ. Mỗi giờ, một điếu thuốc lá. Một cuộc sống không phải lo lắng, mà lại là một việc có lợi nữa chứ.
- Anbe này, - bất chợt tôi nói, - còn những cái bị đựng thức ăn của chúng mình...
Chúng tôi buồn quá. Còn những thứ ấy mà dùng thì tuyệt biết bao nhiêu. Nếu tàu khởi hành chậm độ một ngày, nhất định Cát sẽ tìm được chúng tôi và mang đến cái món quý hoá ấy.
Số kiếp ăn mày! Trong ruột chỉ có tí cháo bột, thức ăn đạm bạc của nhà thương, mà trong bị thì có thịt lợn quay. Nhưng chúng tôi mệt quá nên cũng chẳng còn sức đâu mà háo hức cái món ấy nữa.
Mãi sáng, tàu mới đến, cáng đã ướt hết cả. Viên đội nhất y tá để hai đứa chúng tôi vào cùng một toa.
Trong ấy có bao nhiêu là các bà, các cô Hồng thập tự.
Cốp nằm bên dưới. Người ta nhấc tôi lên, đặt lên giường phía trên nó.
- Trời! - Tôi bất giác kêu lên.
- Làm sao thế - Cô y tá hỏi.
Tôi nhìn cái giường. Khăn trải giường trắng như tuyết những cái khăn sạch không thể tưởng tượng được, còn nguyên cả nếp là. Ngược lại, cái áo sơ mi của tôi sáu tuần lễ chưa giặt, nó bẩn một cách quái gở.
- Anh có lên giường một mình được không? - Cô y tá hỏi tôi, có vẻ lo lắng.
- Được - tôi vừa nói vừa thở, - nhưng hãy lột cái khăn này đi đã.
- Sao thế ?
- Tôi thấy mình chẳng khác gì con lợn và không thể nào nằm lên cái khăn trải giường như thế này được. Nhưng, - tôi ngập ngừng, - nó sẽ. . .
- … bẩn đi một tí chứ gì? - Cô y tá hỏi bằng một giọng vỗ về - không sao đâu, chúng tôi lại giặt đi thôi.
- Không, không phải thế đâu... - tôi nói một cách cáu kỉnh, - tôi không quen cái kiểu sống văn minh lịch sự thế này.
- Các anh là những người đã ở chiến hào, chúng tôi có thể giặt khăn trải giường cho các anh mà, - cô ta nói tiếp.
Tôi nhìn cô ta. Cô ta trẻ và nom thích mắt quá, quần áo tươm tất, sạch sẽ một cách lạ lùng, cũng như tất cả những cái ở đây. Tôi cứ tưởng những cái này chỉ dành riêng cho sĩ quan thành thử tôi đâm ra lúng túng và cảm thấy lo ngại là khác nữa.
Thế mà cô ta ác quá, cứ bắt tôi phải nói hết.
- Chẳng qua là . . . .
Tôi ngừng lại; chắc cô ấy phải hiểu chứ.
- Còn sao nữa?
- Vì những con rận - Cuối cùng tôi rống lên.
Cô ta cười.
- Thì cũng phải để cho chúng nó có lúc sướng chứ.
Bây giờ tôi không còn nói vào đâu được nữa. Tôi leo lên giường và kéo chăn đắp.
Một bàn tay lướt trên chăn của tôi. Viên đội nhất y tá . Anh ta đi khỏi với những điếu xì gà.
Một giờ sau, tôi thấy tàu đang chạy.
Ban đêm, tôi thức giấc. Cốp cũng cựa mình. Con tàu chạy êm êm trên đường sắt. Chúng tôi chưa hiểu nổi những chuyện đã xây ra: một cái giường, một chuyến tàu, trở về nhà. Tôi khe khẽ:
- Anbe!
- Cậu có biết nhà xí ở đâu không?
- Có lẽ ở phía bên kia, bên phải cửa ra vào ấy.
- Tớ đi xem thế nào.
Tối quá. Tôi sờ soạng mép giường và lần xuống một cách thận trọng. Nhưng chân tôi không có chỗ tựa, tôi cảm thấy bị lôi tuột xuống, còn cái chân bó bột thì chả giúp gì được, thế là tôi ngã lăn ra sàn, đánh ầm một tiếng.
- Tổ mẹ nó! - Tôi kêu lên.
- Có đau không? - Cốp hỏi.
- Cậu cũng nghe thấy rồi, cái đầu tớ...
Phía cuối toa, cửa mở ra, cô y tá xách đèn chạy lại và trông thấy tôi:
- Anh ấy ngã trên giường xuống. . .
Cô ta bắt mạch và sờ trán tôi.
- Anh có sốt đâu.
- Không . . .
- Hay là anh nằm mê? - Cô ta hỏi.
- Có lẽ, - tôi trả lời qua loa cho xong chuyện.
Bây giờ lại bắt đầu cuộc tra khảo. Cô ta nhìn tôi bằng đôi mắt long lanh. Cô ta sạch sẽ và xinh đẹp quá; tôi lại càng không thể thổ lộ với cô ta cái nguyện vọng của tôi được.
Tôi lại được đặt lên giường. Sắp nguy to đến nơi rồi đây! Khi nào cô ta đi khỏi tôi lại phải tụt ngay xuống mới được. Nếu là một bà già thì nói chuyện ấy cũng dễ, nhưng đằng này cô ta lại trẻ măng, nhiều nhất là hai mươi lăm tuổi; không thể được, tôi chả nói đâu...
Anbe liền giúp tôi. Nó không ngượng, vì dẫu sao cũng không phải việc của bản thân nó. Nó gọi cô y tá đến. Cô ta quay lại.
- Cô ơi nó muốn. . .
Nhưng cả Anbe cũng không biết nói thế nào cho lịch sự và không chê trách được. Nếu giữa chúng tôi với nhau ở mặt trận, chỉ một tiếng là đủ hiểu, nhưng ở đây, trước một tiểu thư như thế này. . . Nhưng, bất thình lình, nhớ lại hồi đi học, nó liền nói được một cách trơn tru:
- Cô ơi nó muốn... ra ngoài.
- À được, - cô y tá nói. - Chân bó bột như thế thì việc gì mà phải xuống giường!
- Anh muốn dùng thứ nào? - Cô ta hỏi tôi.
Cái câu hỏi mới mẻ này làm cho tôi sợ chết đi được vì tôi không hiểu một tí gì về cách diễn tả những cái ấy bằng chuyên môn.
Cô y tá liền đỡ lời tôi:
- Cái bé hay cái to?
Chao ôi, buồn cười làm sao! Tôi thở rống lên như bò và nói bằng một giọng lúng túng:
- Cái bé thôi vậy... - ít ra, tôi cũng còn may mắn đôi chút.
Người ta mang lại cho tôi một thứ chai. Vài giờ sau, không phải chỉ có mình tôi như thế, và đến sáng, thì chúng tôi quen đi và đòi hỏi cái món cần thiết mà không ngượng ngập tí gì nữa.
Con tàu chạy chậm chậm. Thỉnh thoảng nó dừng lại và người ta khiêng những người chết xuống. Nó dừng như thế luôn.
Anbe lên cơn sốt, còn tôi tuy có nhức nhối nhưng không đến nỗi mệt quá; tệ nhất có lẽ vẫn còn những con rận ở dưới lớp thạch cao bọc vết thương. Nó làm tôi ngứa ghê gớm mà không tài nào gãi được.
Suốt dọc đường lúc nào chúng tôi cũng ngủ chập chờn. Phong cảnh chạy qua cửa sổ một cách bình thản. Đêm thứ ba, chúng tôi đến Hécbextan. Tôi thấy người ta nói với cô y tá là Anbe vì bị sốt nên sẽ phải xuống ga sắp tới.
Tôi hỏi tàu chạy đến đâu.
- Đến Côlônhơ.
- Anbe này, chúng mình sẽ ở bên nhau, - tôi nói, - rồi cậu xem.
Đến lần sau, cô y tá quay lại, tôi nhịn thở và dồn cả hơi lên mặt. Mặt phình ra và đỏ nhừ lên. Cô y tá đừng lại:
- Anh đau à? - Tôi rên lên:
- Phải, bất thình lình đau đấy.
Cô ta đưa cho tôi cái nhiệt kế rồi đi ra chỗ khác.
Nếu tôi không biết xoay xở ra sao thì quả không xứng là học trò của Cát. Loại nhiệt kế này cũng đến chào thua những gã lính có kinh nghiệm. Chỉ đơn thuần có việc làm thế nào cho thuỷ ngân lên thôi; rồi thuỷ ngân dừng yên trong cái ống nhỏ, không xuống nữa.
Tôi đặt nhiệt kế vào nách nhưng để lộn ngược và nghiêng về một phía, rồi tôi lấy ngón tay chà xát mãi vào nó. Sau đó tôi lắc lắc phía trên. Thế là được 37,9.
Nhưng cũng vẫn chưa đủ. Một que diêm để gần một cách khéo léo là có ngay 38,7.
Khi cô y tá trở lại, tôi thở mạnh, tôi nấc lên từng hồi, tôi nhìn cô ta trừng trừng, tôi trằn trọc dữ dội và nói thều thào: "Không chịu được nữa rồi"... Cô ta ghi tên tôi vào một tờ giấy. Tôi biết chắc chắn nếu không cần thiết, không khi nào người ta tháo chỗ băng bó của tôi ra đâu.
Thế là Anbe và tôi, cả hai đứa cùng được khiêng xuống.
Chúng tôi nằm trong một nhà thương đạo, cùng phòng với nhau. Thật là tốt số, vì các nhà thương đạo nổi tiếng về thuốc men cẩn thận và ăn uống tử tế.
Chuyến tàu của chúng tôi xếp người vào đầy các phòng; trong bọn chúng tôi, có nhiều người bị nặng.
Người ta không thăm bệnh chúng tôi ngay hôm ấy, vì số thầy thuốc quá ít Trong hành lang, những chiếc xe mặt phẳng bánh cao su đi di lại lại không ngừng, bao giờ cũng có người ở trong. Nằm dài ra như vậy thật là khó chịu, chỉ trừ khi người ta ngủ thiếp đi thì không kể.
Bàn đêm rất huyên náo. Chẳng ai ngủ được. Gần sáng, chúng tôi mới chợp mắt nổi một lúc. Tôi thức dậy lúc trời sáng. Của để ngỏ và tôi nghe thấy những tiếng người từ hành lang đưa vào. Mọi người cũng dậy cả. Một người trong bọn đã đến đây được mấy ngày giảng cho chúng tôi nghe: " Ở trên gác này, sáng sáng, các bà xơ cầu kinh. Các bà ấy gọi là **** cầu kinh sáng. Các bà ấy để cửa mở như vậy là cốt cho các cậu cũng được hưởng phần đấy".
Tất nhiên ý định ấy tốt, nhưng xương cốt và đầu óc chúng tôi đang nhức nhối khó chịu.
- Sao mà ngu ngốc thế - Tôi nói. - Người ta vừa mới chợp mắt được một tí.
– Ở đây là những bệnh nhân không nặng mấy, nên các bà ấy mới làm thế, - anh ta trả lời.
Anbe rên rỉ. Tôi phát khùng lên và hét tướng:
- Ngoài kia, im đi nhá!
Một phút sau, một bà xơ vào. Trong bộ quần áo đen trắng, bà ta giống như những cái chụp xinh xinh mà người ta thường chụp bình cà phê để giữ cho nó nóng.
- Xơ đóng giúp cho cái cửa, xơ ạ! - Một người nói.
Chúng tôi đang cầu kinh, nên mới để cửa mở chứ, - bà ta cãi lại.
- Nhưng chúng tôi còn muốn ngủ nữa...
- Cầu nguyện tốt hơn ngủ (Bà ta đứng đó và mỉm cười hiền lành). Hơn nữa đã bẩy giờ rồi.
Anbe lại rên rỉ.
- Đóng cửa lại! - Tôi quát lên.
Bà ta sững sờ cả người; rõ ràng là bà ta không thể ngờ đến một thái độ như thế.
- Nhưng chúng tôi cầu nguyện cho cả các anh đấy chứ.
- Không cần, cứ đóng cửa lại di!
Bà ta đi khỏi và cứ để cái của mở như cũ. Tiếng cầu kinh lại vang lên. Tôi phát điên lên và nói:
- Tôi đếm đến ba, nếu không im đi là tôi ném đấy!
- Cả tớ cũng thế, - một cậu khác tuyên bố.
Tôi đếm đến năm. Rồi tôi với một cái chai, nhắm và ném qua cửa ra hành lang. Cái chai vỡ tan tành.
Tiếng cầu kinh ngừng lại. Các bà xơ rầm rầm chạy vào, có vẻ bực mình thực sự.
- Đóng cửa vào! - Chúng tôi hét lên.
Các bà ấy rút lui. Cái bà nhỏ nhắn lúc nãy đi ra sau cùng.
- Quân vô đạo? - Bà ta càu nhàu; nhưng dẫu sao bà ấy cũng khép cửa lại.
Thế là chúng tôi thắng.
Buổi trưa, viên giám đốc nhà thương đến, ông ta mắng chúng tôi như tát nước. Ông ta dọa sẽ tống chúng tôi đi pháo đài và còn hơn thế nữa. Nhưng một viên giám đốc nhà thương cũng như một viên giám đốc sở binh lương, dù có đeo một thanh kiếm dài và đôi ngũ vai chăng nữa, rút cục cũng chỉ là một công chức, và vì thế, chẳng ai sợ ông ta cả, ngay một chú lính mới cũng vậy. Cho nên, chúng tôi cứ mặc ông ta nói. Chẳng đi đến đâu mà lo.
- Ai ném cái chai? - ông ta hỏi.
Trước khi tôi nghĩ xem có nên nhận hay không, thì có một người lên tiếng:
- Chính tôi.
Một người có bộ râu rậm rì nhỏm dậy.
Chúng tôi lấy làm lạ, tự hỏi sao cái anh này lại nhận như thế.
- Anh hả?
- Phải, tôi bực mình vì người ta phá giấc ngủ của chúng tôi một cách vô ích, tôi mất bình tĩnh đến nỗi không biết là mình làm cái gì nữa.
Anh ta nói như trong sách.
- Tên anh là gì?
- Giô dép Hamasơ, dân vệ.
Viên giảm đốc đi khỏi.
Ai cũng tò mò muốn hiểu.
- Tại sao cậu nhận, sự thực cậu có ném đâu?
Anh ta cười khẩy.
- Không hề gì cả. Mình có cái "giấy phép đi săn".
Thế là ai cũng hiểu ngay. Nếu anh ta có giấy phép đi săn, anh ta có thể muốn làm gì thì làm.
- Phải, - anh ta kể, mình bị một phát vào đầu, họ đã cấp cho mình một cái giấy chứng nhận là có những lúc mình không bị trách nhiệm. Từ đó, mình cứ việc thả cửa. Không ai được phép trêu tức mình cả . Vì vậy chẳng ai làm quái gì được mình. Thằng khỉ ấy thế nào rồi cũng bị một vố. Mình nhận là chính mình đấy, vì mình rất thú cái chuyện om sòm ấy. Nếu sáng mai, các bà ấy còn mở cửa, chúng mình lại tái diễn.
Chúng tôi khoái quá. Có Giô dép Hamasơ ở đây, chúng tôi tha hồ làm mưa làm gió.
Rồi những chiếc xe mặt phẳng lặng lẽ đến chở chúng tôi đi.
Băng quấn vết thương của chúng tôi dính chặt.
Chúng tôi rống lên như bò mộng.
Phòng chúng tôi có tám người. Bị thương nặng nhất là Petơ, tóc xoăn và đen nhánh: nó bị một viên đạn vào phổi thật là rầy rà.
Phăng Va tơ nằm cạnh Petơ, gầy tay, lúc đầu không đến nỗi gay lắm. Nhưng sang đến ngày thứ ba, nó gọi chúng tôi, nhờ bấm chuông hộ vì nó tưởng mất hết máu đến nơi.
Tôi bấm chuông ầm lên. Bà xơ thường trực không đến. Đêm qua chúng tôi đã hành hạ bà ấy dữ quá, vì chúng tôi đều thay băng nên đau tợn. Anh này muốn đặt chân như thế này, anh kia như thế khác, anh thứ ba đòi nước, anh thứ tư bắt kê cao cái gối; bà cụ to béo cuối cùng phải phát cáu lên và đóng sập cửa lại.
Có lẽ bây giờ bà ta cho rằng lại cũng thế thôi, nên bà ta không đến.
Chúng tôi đợi. Rồi Phăng nói:
- Cứ bấm chuông nữa đi.
Tôi bấm chuông. Bà xơ vẫn không đến. Ở gian đầu trong căn nhà của chúng tôi, ban đêm chỉ có một bà xơ thường trực, có lẽ bà ta đang bận trong những phòng khác chăng. Tôi hỏi:
- Phăng, cậu có chắc là cậu đang chảy máu không? Nếu không, chúng mình xin một ít thuốc cảm cũng được.
Mình ướt đẫm cả. Có ai bật hộ cái đèn lên không?
Chịu. Cái bật đèn ở gần cửa, không ai đứng dậy được . Tôi ấn ngón tay lên cái núm chuông đến nỗi tê cả tay đi. Có lẽ bà xơ ngủ chăng. Thực vậy, các bà ấy phải làm việc nhiều quá, các bà ấy đều bị mệt quá sức, ngay cả ban ngày cũng vậy. Chưa kể đến cầu nguyện liên miên.
- Có nên ném chai không? - Giô dép Hamasơ con người có giấy phép săn lên tiếng.
- Đến chuông còn chả nghe thấy, huống chi là chai.
Cuối cùng, cửa mở. Bà cụ vào với một vẻ cáu kỉnh. Nhưng khi bà ta thấy tình trạng của Phăng, bà ta sốt sắng ngay và hỏi:
- Tại sao không báo cho tôi biết ngay?
- Chúng tôi bấm chuông rồi đấy chứ. Ở đây chả ai đi được . Phăng bị mất nhiều máu, người ta quấn băng ngay cho nó. Vừa mới đêm trước nó còn có vẻ khỏe khoắn, thế mà sáng hôm sau, chúng tôi thấy mặt nó vàng vọt hốc hác hẳn đi. Từ lúc ấy, các bà xơ đi lại thăm nom nhiều hơn trước.
Nhiều khi cũng có các bà phụ tá Hồng thập tự.
Các bà ấy tốt lắm, nhưng đôi khi hơi vụng về. Có lúc chuyển giường cho ai, các bà ấy làm người ta đau, thấy vậy các bà ấy hoảng lên, lại càng làm cho người ta đau hơn nữa.
Các bà xơ có kinh nghiệm hơn, biết cách thức làm ăn hơn, nhưng giá các bà ấy vui tính hơn một chút thì hay quá. Nói của đáng tội, một vài bà cũng dí dỏm đáo để, có khi làm đến tức cười lên kia. Ai mà chẳng cố sức làm vừa lòng bà xơ Libéctin, người đàn bà đáng mến phục ấy; từ xa , người ta đã trông thấy bà tỏa nguồn vui ra khắp cả căn gác. Cũng có nhiều người được như bà. Thấy chúng tôi có thể nhảy vào chỗ nước sôi lửa bỏng vì các bà ấy. Quả là không còn kêu ca vào đâu được, vì chúng tôi được các bà xơ đối đãi hệt như đối với dân thường. Nếu đem nhà thương trong trại lính so sánh với nhà thương này, người ta phải phát khiếp.
Phăng Va tơ không đỡ mấy. Một hôm người ta đến mang nó đi và không thấy nó trở lại nữa. Giô dép Hamasơ hiểu ngay.
Chúng mình chẳng bao giờ trông thấy nó nữa đâu . Họ đã chuyển nó đến phòng chết.
- Phòng chết nào? - Cốp hỏi.
Ấy cái phòng cho người ta chết ấy mà...
- Nó ở đâu?
- Cái phòng bé tí ở một xó trên gác ấy mà. Người nào sắp tử là họ mang vào đấy. Có hai cái giường. Ai mà chả biết nó là cái phòng chết.
- Nhưng tại sao họ làm thế ? - Vì sau đó, bớt được việc đi. Hơn nữa, lại thuận tiện vì nó ở sát ngay thang máy đưa xuống nhà xác; họ làm thế có lẽ để cho bệnh binh trong các phòng khỏi chết khiếp vì trông thấy cảnh hấp hối của người khác.
Cuối cùng là người ta có thể trông nom cẩn thận hơn khi chỉ có một người.
- Nhưng còn chính cái thằng sắp chết thì sao?
Giô dép nhún vai.
- Thường thì lúc ấy nó cũng chẳng còn biết quái gì nữa.
- Ai cũng biết cái phòng chết chứ?
- Tất nhiên, bất cứ ai ở đây ít lâu mà chả biết.
Buổi chiều, giường của Phăng Va tơ lại có người nằm. Được vài ngày, người ta lại mang gã mới đến này đi. Giô dép phẩy tay một cái đầy ý nghĩa. Chúng tôi còn thấy nhiều người đến rồi lại đi như thế.
Thỉnh thoảng, cha mẹ bệnh nhân đến ngồi cạnh giường khóc lóc, nói khe khẽ có vẻ lo lắng lắm. Một bà cụ không muốn đứng dậy nữa, nhưng bà có được ngồi suốt đêm ở đây dâu. Sáng hôm sau, bà lại đến thật sớm, nhưng cũng vẫn chậm quá rồi, vì khi bà cụ đến bên giường, thì đã có người khác nằm rồi. Bà cụ phải xuống nhà xác. Bà cụ cho chúng tôi những quả táo mà cụ đã đem đến.
Cả cái anh chàng Petơ cũng mệt nặng hơn. Biểu đồ nhiệt độ của nó cứ lên mãi, và một hôm, chiếc xe mặt phẳng nhẹ nhàng kia đã đến bên giường nó.
- Đưa tôi đi đâu thế này? - Nó hỏi.
- Đến phòng băng.
Người ta đặt nó lên xe. Nhưng bà xơ đã phạm sai lầm khi đặt bộ quân phục của nó bỏ lên xe, như thế có nghĩa là bà ta không phải quay lại nữa. Petơ hiểu ngay, nó nhất định trườn ra khỏi xe.
- Tôi ở lại đây cơ!
Người ta giữ chặt nó lại. Nó kêu lên, giọng phều phào qua lá phổi bị thương:
- Tôi không đến phòng chết dâu?
- Nhưng chúng ta đến phòng băng cơ mà?
- Thế tại sao các người động đến bộ quân phục của tôi? Nó không nói được nữa. Nó thì thầm bằng cái giọng khàn khàn và bực bội.
- Tôi ở lại đây cơ!
Người ta không trả lời nó nữa và cứ mang đi.
Ra đến ngoài cửa, nó toan vùng dậy. Cái đầu xoăn tít và đen nhánh run lên bần bật, mắt nó đẫm lệ.
- Tôi sẽ trở lại, tôi sẽ trở lại, - nó thét lên.
Cửa khép lại. Tất cả chúng tôi hết sức xúc động nhưng mọi người đều im lặng.
Cuối cùng Giô dép nói:
- Nhiều người đã nói thế. Nhưng đã đến đấy thì đừng hòng thoát.
Tôi đã bị mổ và nôn mửa mất hai ngày ròng rã.
Mấy cái xương của tôi không chịu liền lại, gã thư ký của bác sĩ bảo thế. Có một anh khác xương đã liền rồi nhưng lại không đúng chỗ, đành phải đập xương ra bó lại. Thật là tội.
Trong số những người mới đến, có hai cậu lính trẻ, chân thuỗn ( Bàn chân hơi thẳng ra, do biến dạng của xương bàn chân). Trong lúc khám, lão bác sĩ quân y nhận thấy và lão ta dừng ngay lại, có vẻ mừng rỡ lắm.
- Chúng tôi sẽ nắn lại cho, - lão ta nói. - Chỉ một phẫu thuật nhỏ là các cậu đi lại như thường thôi. Nào xơ, viết đi.
Khi lão ta đi khỏi, Giô dép vốn là thổ công ở cái bệnh viện này, nhắc hai cậu kia phải coi chừng:
- Các cậu chớ để mổ đấy nhé. Lão già ấy có cái máu nghiện làm thí nghiệm đấy. Khi lão ta tóm được ai như thế là lão không buông tha đâu. Lão ta mổ chân thuỗn cho các cậu, và dĩ nhiên là chân các cậu không thuỗn nữa, nhưng trái lại, chân các cậu sẽ què và suốt đời các cậu phải chống gậy đấy.
- Vậy làm thế nào bây giờ? - Một cậu hỏi.
- Cứ nói thẳng là không mổ; các cậu đến đây để chữa các vết thương chứ có phải để chữa chân thuỗn đâu . Ở mặt trận, dễ chân các cậu không thuỗn đấy? Các cậu thấy đấy, bây giờ các cậu còn chạy được, nhưng hễ vào tay lão ta thì chỉ có què thôi. Lão ta cần những đề tài thí nghiệm; với lão ta cũng như với bọn thầy thuốc, chiến tranh là một thời kỳ tuyệt diệu. Các cậu nhìn dưới kia thì biết, ở phòng thuốc, hơn chục cậu bị lão ta mổ còn lê lết ra đấy. Có nhiều cậu ở đấy hàng năm rồi. Chẳng một ai đi đứng khá hơn trước; đa số chân phải bó bột. Thật là lợn lành chữa thành lợn toi? Cứ sáu tháng lão ta lại tóm lấy con nhà người ta để đập xương ra một lần nữa, mồm cứ xoen xoét lần này thì khỏi hẳn đây. Các cậu phải coi chừng đấy; nếu các cậu không đồng ý, là lão ta không có quyền làm đâu.
- Nhưng, anh bạn ơi, - một trong hai cậu lính nói bằng một giọng chán chường, - thà cái chân còn hơn cái đầu . Cậu có biết nếu lại ra ngoài ấy thì thế nào không? Kệ cho họ muốn làm gì tớ thì làm, miễn là tớ được về nhà. Què còn hơn chết.
Còn cậu kia, một gã trẻ tuổi như chúng tôi không muốn mổ. Sáng hôm sau, lão già gọi cả hai cậu xuống, lão dọa già dọa non kỳ cho cả hai phải thuận mới thôi. Họ biết làm thế nào được? Họ chẳng qua là những anh lính quèn khốn khổ, còn lão ta lại là một người có quyền thế. Người ta khiêng hai cậu lính về, chân bó bột và bị đánh thuốc mê.
Bệnh tình Anbe trầm trọng. Người ta đến mang nó đi dể cưa chân.
Nó bị cưa cả cái chân. Bây giờ, nó hầu như không nới không rằng gì nữa, nhưng nó đã bảo lúc nào nó vớ được khẩu súng lục là nó tự tử ngay.
Lại một chuyến nữa đến. Phòng chúng tôi nhận thêm hai người mù. Một trong hai người là một nhạc sĩ rất trẻ. Khi các bà xơ cho nó ăn, không bao giờ'các bà ấy đem dao đến vì có lẩn nó đã giằng được một con dao của một bà. Mặc dầu đã đề phòng như vậy mà vẫn có chuyện xảy ra. Buổi tối, trong bữa ăn, bà xơ đang cho nó ăn có việc phải chạy đi chỗ khác; bà ta để cái ớ a và cái nĩa trên bàn ăn. Thế là gã mù sờ soạng tìm được cái nĩa, dùng hết sức đâm thẳng vào ngực; rồi nó vớ lấy một chiếc giày, đập lia lịa vào chuôi nĩa. Chúng tôi kêu cứu, phải ba người mới nhổ được cái nĩa ra. Những răng nĩa cùn cắm sâu vào ngực. Suốt đêm nó chửi bới chúng tôi, làm chúng tôi không ngủ được. Sáng hôm sau, nó lên một cơn khóc dữ dội.
Những cái giường lại vắng đi. Ngày lại ngày trôi qua giữa bao nhiêu đau đớn và lo âu, giữa những tiếng rên rỉ và những cơn thở rốc. Những phòng chết chẳng còn được việc lắm nữa. Chúng có quá ít, ban đêm bệnh nhân chết ngay trong phòng chúng tôi. Nhanh hơn cả sự tính toán của các bà xơ.
Nhưng một hôm, cánh cửa mở ra đột ngột, chiếc xe mặt phẳng tiến vào và chúng tôi thấy trên cáng, anh chàng Petơ xanh rớt, gầy guộc, cái đầu đen xì, xoăn tít, lởm chồm; nó ngồi nhỏm dậy với một vẻ đắc thắng. Bà xơ Libéctin, nét mặt hân hoan rạng rỡ, đưa nó đến giường cũ. Nó từ phòng chết trở lại. Chúng tôi tưởng nó đi đứt từ lâu rồi.
Nó nhìn xung quanh rồi hét lên:
- Thế các cậu bảo sao nào?
Chinh Giô dép cũng phải thú nhận rằng đó là lần đầu tiên anh ta thấy như vậy.
Dần dần, vài ba người trong bọn chúng tôi được phép đứng dậy. Người ta phát cho tôi một đôi nạng để đi lại loanh quanh dăm ba bước. Nhưng tôi không dùng nhiều. Tôi không chịu được cái nhìn của Anbe, khi nó thấy tôi đi lại trong phòng. Lúc nào nó cũng nhìn tôi bằng con mắt lạ lùng làm sao? Vì thế đôi lúc tôi lẻn ra hành lang; Ở đấy, tôi có thể cử động được tự do hơn.
Tầng dưới là những người bị thương vào bụng, vào xương, bị đạn vào đầu, và những người cưa cả hai chân. Dãy nhà bên phải là những người bị thương ở hàm, những người bị hơi ngạt, những người bị thương ở mũi, ở tai, ở cổ. Dãy nhà bên trái là những người mù, những người bị thương vào phổi, vào háng, vào khớp xương, vào thận, dạ dày và các bộ phận khác. Chính ở đây, người ta mới thấy rõ ràng một con người có thể bị thương vào những chỗ nào.
Hai bệnh nhân chết vì bệnh uốn ván. Màu da xỉn lại tứ chi cứng đờ, chỉ đôi mắt là còn sinh khí; sự sống bám lấy đôi mắt lâu hơn cả. Nhiều người bị thương phải treo cái chân đau lên không trung bằng một thứ thòng lọng. Dưới vết thương để một cái chậu, mủ nhỏ giọt vào đấy. Cứ vài ba giờ, người ta lại đổ chậu đi. Có người lại nằm với một dụng cụ kéo căng người ra, và những quả tạ nặng trĩu từ trên giường thả xuống. Tôi thấy những vết thương ở ruột lúc nào cũng đầy phân. Gã thư ký của bác sĩ cho tôi xem những phim chụp xương háng, xương đầu gối, xương vai bị dập gãy vụn cả ra.
Người ta không thể hiểu nổi sao ở những thân hình tàn phế đến thế mà vẫn còn những bộ mặt con người, và cuộc sống vẫn trôi bình thường trên những khuôn mặt ấy. Vậy mà đây mới chỉ là một trung tâm y tế mà thôi. Có hàng chục vạn trung tâm như thế ở nước Đức, hàng chục vạn trung tâm như thế ở nước Pháp, ở nước Nga. Có những cảnh như thế này thì tất cả những điều bấy lâu nay người ta viết ra, làm ra, hoặc suy nghĩ, thật là vô ích biết bao. Nếu nền văn hóa hàng ngàn năm không thể ngăn ngừa những suối máu như thế đổ ra và lại có hàng chục vạn cảnh tù ngục thống khổ như thế này thì tất cả những cái viết ra, làm ra, nghĩ ra ấy nhất định chỉ là bịp bợm và vô nghĩa. Chỉ có bệnh viện mới chỉ rõ được hết chiến tranh là gì.
Tôi còn trẻ lắm, mới hai mươi tuổi đầu, thế mà chỉ thấy trên đời toàn những cảnh tuyệt vọng, buồn phiền, chết chóc, xô đẩy những cuộc sống hời hợt nhất và vô tư nhất xuống vực thẳm của đau thương.
Tôi thấy các dân tộc bị xô đẩy vào cảnh chống đối nhau, chém giết nhau mà chẳng nói gì, chẳng hiểu gì . Hành động một cách điên cuồng, ngoan ngoãn, ngây thơ. Tôi thấy những bộ óc thông minh nhất của nhân loại đã phát minh ra những lý lẽ, những vũ khí để cho cái trò này diễn ra tinh vi hơn nữa, dai dẳng hơn nữa.
Và tất cả những người vào lứa tuổi tôi, ở đây và ở phía bên kia, trên khắp thế giới, đều nhận thấy như tôi; đó là cuộc sống của thế hệ tôi, cũng như cuộc sống của chính tôi. Các bậc cha anh của chúng tôi sẽ làm gì nếu một ngày kia chúng tôi đứng dậy, đến trước mặt các người và đòi tính sổ? Các người mong đợi gì ở chúng tôi khi chiến tranh kết liễu . Hàng mấy năm trời chúng tôi chỉ có việc giết người, đấy là cái nghề nghiệp đầu tiên của chúng tôi khi bước vào đời sự hiểu biết về cuộc sống của chúng tôi rút lại chỉ còn là cái chết. Rồi sau sẽ thế nào? Và chúng tôi sẽ ra sao?
Người nhiều tuổi nhất phòng chúng tôi là Lêvanđôpxki. Anh ta bốn mươi tuổi, nằm nhà thương đã mười tháng nay vì một vết thương nặng ở bụng.
Chỉ có vài tuần nay anh ta mới đi lại được mấy bước, chân khập khiễng, người cúi gập xuống. Mấy ngày gần đây anh ta rất bồn chồn. Từ cái nơi hang cùng ngõ hẻm ở bên Ba Lan, vợ anh mới viết thư cho anh là chị ta đã có đủ tiền tàu để tới thăm anh. Chị đang trên đường đi và ngày một ngày hai sẽ đến. Lêvanđôpxki ăn chẳng biết ngon nữa. Anh ta chỉ nhấm nháp qua loa vài miếng rồi cho người khác cả khẩu phần dồi lợn nấu bắp cải đỏ của anh. Tay cầm lá thư, anh ta đi đi lại lại không ngừng ở trong phòng; chúng tôi đứa nào cũng đọc cái thư ấy đến chục lần; những cái tem đã bị ngắm nghía không biết bao nhiêu lần mà kể nữa, chữ viết chỉ còn lờ mờ vì những vết mỡ và những vết ngón tay; thật là tai hại, Lêvanđôpxki lên cơn sốt, lại phải đi nằm. Hai năm rồi, anh ta chưa gặp vợ. Trong thời gian ấy, chị ta đẻ một đứa con và sẽ mang nó đến đây. Nhưng Lêvanđôpxki đang bận tâm vì một cái khác. Anh ta tính xin phép ra ở bên ngoài trong thời gian vợ đến thăm; vì rõ ràng là gặp nhau thì rất tốt, nhưng sau một thời gian dài như thế, khi gặp lại vợ, nếu có thể, người ta còn muốn cái khác nữa chứ.
Lêvanđôpxki đã bàn bạc với chúng tôi hàng giờ về chuyện này, vì trong đời con nhà lính chẳng có cái gì phải dấu diếm cả. Vả lại, chẳng ai nói gì cái đó cả.
Những người trong bọn tôi đã đi ra ngoài được đều mách cho anh ta những chỗ thuận tiện trong thành phố, những bãi cỏ, những vườn hoa mà anh ta sẽ không bị quấy rầy, có người lại mách cho cả một căn phòng nhỏ nữa.
Nhưng tất cả có ích gì? Lêvanđôpxki nằm đây với biết bao là thắc mắc. Nếu anh ta phải nhịn cái khoản ấy thì trên đời còn có cái gì làm cho anh thích thú nữa. Chúng tôi an ủi anh ta và hứa hẹn là sẽ tìm được cách để thu xếp công việc.
Chiều hôm sau, chị vợ đến, một người đàn bà loắt choắt, đôi mắt vừa long lanh, vừa sợ sệt như mắt chim sẻ; chị ta đội cái khăn đen có giải buộc, vừa trùm đầu, vừa quấn cổ. Có trời biết chị ta tìm ở đâu ra được cái thứ khăn cổ lỗ sĩ ấy.
Chị ta lắp bắp khe khẽ câu gì đó và đứng thập thò ngoài cửa. Thấy những sáu người, chị ta phát hoảng.
- Này! em Ma ria, - Lêvanđôpxki nói, tưởng chừng cổ họng anh ta bị tắc lại, - em cứ vào, có ai làm gì đâu mà sợ.
Chị ta vào bắt tay chúng tôi từng người một. Rồi chị chìa đứa bé ra, lúc ấy nó vừa bậy ra tã. Chị ta mang theo một cái bị to, thêu hạt cườm, chị ta lấy ra một cái tã sạch, nhanh nhẹn quấn lại cho đứa bé.
Bây giờ đã hết cái phút lúng túng ban đẩu, và hai vợ chồng bắt đầu nói chuyện.
Lêvanđôpxki rất bứt rứt; anh ta luôn nhìn về phía chúng tôi, đôi mắt trố ra có vẻ rất là đau khổ.
Thời cơ lúc ấy thuận lợi; bác sĩ vừa đến thăm xong; nhiều lắm là chỉ có một bà xơ tạt qua phòng nữa thôi. Vì vậy một đứa trong bọn tôi ra ngó bên ngoài tí xem sao. Nó quay vào và gật đầu nói: "Chẳng có đứa chết bầm nào cả. Này Giôhan, bảo chị ấy đi, và làm luôn đi!" Hai vợ chồng trao đổi với nhau bằng cái kiểu riêng của họ. Chị vợ nhìn chúng tôi, hơi đỏ mặt và ngượng nghịu, chúng tôi mỉm cười, có vẻ hiền lành chất phác, và gạt tay ra hiệu là cái chuyện ấy chẳng chết ai cả. Vất mẹ nó tất cả thành kiến đi! Thành kiến chỉ dùng cho lúc khác thôi. Đây là anh thợ mộc Giôhan Lêvanđôpxki đang nằm, một người lính bị một phát đạn làm cho tàn phế, và đây là vợ anh ta; ai biết bao giờ anh ta được gặp lại vợ? Anh ta muốn chị ta, vậy thì phải để anh được, chuyện thật là đơn giản.
Hai đứa đứng ngoài cửa để ngăn các bà xơ lại và bám lấy các bà ấy nếu bất chợt các bà ấy đến. Chúng nó đứng gác vào khoảng mười lăm phút.
Lêvanđôpxki chỉ nằm nghiêng được thôi; vì vậy chúng tôi kê thêm cho anh ta vài cái gối phía dưới lưng. Anbe ẵm đứa bé, rồi chúng tôi quay đi một phút; cái khăn đen thụt vào trong chăn, chúng tôi vừa đánh bài Soát vừa nói rõ to đủ mọi thứ chuyện. Thế là ổn cả. Tôi phải một ván bài xấu quá. Cho nên chúng tôi gần như quên khuấy Lêvanđôpxki.
Một lúc sau, đứa bé khóc inh lên, mặc dầu Anbe vẫn đu đưa nó một cách nhịp nhàng với vẻ mặt thất vọng. Sau đó, chúng tôi nghe thấy những tiếng sột soạt những tiếng động khe khẽ, rồi bất chợt chúng tôi nhìn lại thì đã thấy đứa bé lại nằm trong tay mẹ nó, mồm ngậm vú cao su rồi. Thế là vui vẻ cả.
Lúc này, chúng tôi cảm thấy như một đại gia đình; chị vợ trông tươi như hoa, còn Lêvanđôpxki nằm trên giường, toát cả mồ hôi và rất là hớn hở.
Anh ta cởi cái bị thêu ra; những khúc dồi lợn xinh xinh xuất hiện. Lêvanđôpxki cầm con dao như cầm bó hoa, cắt thịt thành từng miếng. Anh ta giang rộng tay chỉ chúng tôi và chị vợ loắt choắt đi từ người này đến người kia, vừa mỉm cười vừa phân phát cho mỗi người một phần; lúc này trông chị ta sao mà đẹp thế.
Chúng tôi gọi chị ta là "mẹ"; chị ta sung sướng và kê lại gối cho chúng tôi.
Vài tuần sau đó, sáng nào tôi cũng đến viện Danđơ. Ở đây, người ta cột chân tôi thật chặt lại rồi người ta bắt nó làm những động tác thích hợp. Tay tôi đã khỏi từ lâu. Lại có nhiều chuyến từ mặt trận về. Không có băng quấn bằng vải nữa, mà toàn bằng giấy nhiễu trắng. Ở ngoài ấy dạo này rất thiếu bông băng.
Cái chân cụt của Anbe đã khá nhiều. Vết thương ngậm miệng gần hết. Vài tuần nữa, nó sẽ đến một trung tâm lắp chân gỗ. Nó vẫn ít nói, có vẻ trầm lặng hơn trước rất nhiều. Nhiều khi đang nói chuyện, nó bỗng im bặt và nhìn trừng trừng trước mặt. Nếu không ở với bọn tôi, có lẽ nó đã kết liễu đời nó từ lâu rồi. Nhưng bây giờ nó đã qua được giai đoạn gay go nhất rồi. Đôi lúc nó cũng xem chúng tôi đánh bài Soát. Tôi được một kỳ nghỉ phép dưỡng bệnh.
Mẹ tôi không muốn để tôi đi nữa. Mẹ tôi yếu quá rồi?
Tình hình gay go hơn chuyến trước nhiều.