Ngả Sáu có thằng bé khùng, mặc rách rưới, tuy không đến nổi xấu trai nhưng quá bẩn thỉu, tự nguyện làm cảnh sát giao htông. Nó làm "chim bay cò bay" hướng dẫn giao thông và thổi còi rất chuyên nghiệp, tất nhiên là trong những lúc vắng cảnh sát thứ thiệt. Nó làm việc cật lực, miệng luôn tươi cười khoe cái răng khểnh trời cho rất có duyên. Người qua kẻ lại nhất là bọn trẻ thế nào cũng làm bộ trật luật để được ông cảnh sát khùng thổi còi, để chúng được một trận cười miễn phí. Vài người đàn ông ghé lại dúi vào tay thằng bé cái bánh, nó trừng mắt từ chối, chứng tỏ cho mọi người biết, nó là người cảnh sát thanh liêm, rồi lại tiếp tục hoét hoét như không có chuyện gì xảy ra.
Lâu ngày thằng bé khùng thổi tu hít từ chuyện tiếu lâm biến thành huyền thoại. Quán nhậu bên đường, người chủ quán kể rằng, cách đây một năm ngả tư đường này xuất hiện chú bé với cái thùng vá xe đạp. Chú bé cần cù làm việc cật lực, chỉ khi nào nghe tiếng nhạc xập xình trong quán dội ra, chú bé mới nghỉ tay và đứng lên say sưa quay cuồng. Chú nhái giống anh chàng Mai-cồ vua nhạc rốc. Cũng đầu tóc rũ rượi, người mềm nhũn ngả nghiêng rồi bất chợt nổi khùng lên la hét, tay chân co giật như kẻ kinh phong ác tính. Hồi đó, cái thời chưa mở cửa, mới chỉ bung ra, nơi đây chưa có đèn xanh đèn đỏ, xe cộ va chạm liên miên. Chú bé tỏ ra nóng ruột đứng ngồi không yên mỗi khi có cuộc va chạm và cãi vã, chú bé thường nhảy ra phân trần can thiệp. Nhưng lần nào chú cũng bị người trong cuộc quát mắng và đuổi đi chỗ khác chơi. Có khi chú còn gặp phải tình trạng "ách giữa đàng mang vào cổ". Cách đây vài tháng, hai trụ đèn được dựng lên hứa hẹn sự an toàn giao thông, nhưng vẫn chưa được khả thi cho lắm vì thỉnh thoảng đèn tắt ngấm không rõ tại sao. Người ngả tư ra câu đố: - Em đố anh vậy chớ đèn gì không xanh không đỏ, vậy chớ đèn gì không tỏ bao giờ. Câu trả lời đúng là: Đèn không xanh không đỏ, là đèn đỏ đèn xanh không có điện. Có đèn đỏ đèn xanh mà không xanh không đỏ thì càng hại hơn, người ta phóng ù ù qua ngả tư và va chạm nhau. Chú bé lại nổi máu Lục Vâng thấy chuyện bất bằng chẳng tha, nhảy vào can thiệp và bị ông say rượu tông xe người khác tống cho một đạp lăn ba vòng nằm thẳng cẳng, phía sau đầu chú bé u một cục to tướng. Tưởng chú bị sọ não, nào ngờ chỉ cấn xức dầu cù là cho chú, lát sau chú tỉnh liền. Chỉ đáng thương là, trong lúc lộn xộn có kẻ gian nào lấy mất cái thùng đồ nghề của chú. Mọi người giúp chú lùng sục chung quanh ngả tư nhưng vô hiệu, cái sản nghiệp nhỏ nhoi nhưng vô cùng quý giá của chú không cánh mà bay. Chú bé bưng mặt khóc hu hu làm mọi người chung quanh thông cảm xót xa. Nhiều người nghe chuyện móc bóp lấy tiền góp cho chú sắm lại đồ nghề. Nhưng thật lạ, chú nhận tiền một cách lạnh lùng như kẻ mộng du, không có lấy một lời cảm ơn. Người ta thấy mắt chú dại đi, miệng cười tủm tỉm như vừa bước chân vào cõi vô hình đầy thú vị nào. Rồi sau đó người ta thấy chú thất thểu bước đi như trong một thế giới khác.
Hôm sau, người ta thấy chú bé xuất hiện từ sáng sớm với chiếc còi trên môi, vẫn bộ quần áo cũ nhưng bỏ áo vô thùng chỉnh tề hơn, chú bắt đầu làm cảnh sát giao thông từ đó. Dù có đèn đỏ đèn xanh hay không chú cứ liên tục thổi còi điều khiển giao thông một cách cật lực, chỉ cần vắng bóng cảnh sát là được. Nhiều vị khách qua đường cố tình vượt đèn đỏ liền bị chú thổi còi, ra hiệu dừng lại cho đúng luật, làm khách qua đường giật mình dừng xe chịu phạt. Chừng nhận ra chú bé rách rưới hoàn toàn không phải là người đại diện cho pháp luật, vị khách cưỡi mô tô mới phóng vút đi, để lại một cụm khói đen sì và câu chưởi mở đầu bằng tiếng "Đan Mạch": Đm thằng khùng! Mặc ai mắng chưởi cộc cằn cỡ nào, chú bé tươi cười làm nhiệm vụ...
Vừa chứng kiến chú bé khùng thổi tu hít vừa nghe lời thuyết minh của ông chủ quán Nghêu sò ốc hến kiêm bạn nhạu, mắt tôi cay khi nghĩ đến người chiến sĩ cảnh sát giao thông tự nguyện chưa qua tuổi vị thành niên sẽ đi về đâu, ăn ở đâu khi ngoài đường đã hết xe cộ, thành phố ngủ yên? Có rượu vào, khách lại còn thưa thớt nên ông chủ quán tỏ vẻ sẵn sàng chia sẻ lòng trắc ẩn của tôi, ông nói:
- Thằng nhỏ này ở đâu tui không biết nhưng chắc chắn nó còn mẹ. Mẹ nó lượm bọc nylong nhưng coi bộ yếu lắm, đi ngang đây mấy lần mặt cắt không còn hột máu. Sau cái bữa thằng nhỏ bị tai nạn, bị mất đồ nghề, má nó có đi qua đây một lần, thấy nó làm cảnh sát giao thông, bà té xỉu rồi không dậy được nữa. Xích lô chở dùm má nó vô nhà thương thí của chánh phủ trong Chợ Lớn. Lúc xích lô quành lại đưa bà lên xe bị chính nó thổi phạt hoét hoét vì chạy ngược chiều! thật là nhiều cảnh đời trớ trêu, khổ lắm chú ơi!
Ông chủ quán thở dài đẩy cho tôi ly rượu đế đục ngầu. Đúng vào lúc đó thằng bé đang đứng giữa đường vừa thổi tiếng còi dõng dạc dẹp xe cộ dọn đường cho chiếc xe hồng thập tự hụ còi đi qua. Do không trông thấy sắc phục cảnh sát nên suýt chút nữa thằng bé trở thành nạn nhân của chiếc xe cấp cứu. Tôivà ông chủ quán suýt xoa mừng cho sự may mắn của chú bé tội nghiệp đáng thương ấy. Thế mà chủ chẳng coi cái sự cố ra gì cả, chú tiếp tục tươi cười làm nhiệm vụ.
Cuộc đời chú bé rồi sẽ ra sao, sẽ đi về đâu trong dòng đời xoáy cuộn giữa cái ngả tư ầm ào ấy? Tôi đặt câu hỏi mà không biết phải trả lời ra sao. Trên hè phố có không ít người ăn xin hoặc buôn gánh bán bưng quen thuộc tự nhiện biến mất như chưa từng có họ trên đời. Trước cổng cơ quan tôi có một người như vậy. Ông ta còm cõi, rách nát, mắt sâu hoắm, râu dài xám ngoét, ngồi ủ rũ, bên cái nhôm móp méo chờ nhận tiền bố thí. Tôi thích cái ăn xin lặng lẽ ấy nên cứ mỗi lần ăn dĩa cơm trong căn tin, tôi đều bỏ vào cái lon ấy chút đỉnh. Có lẽ có đến ba bốn năm liền như vậy nên chúng tôi quen nhau. Hóa ra, người mà tôi tưởng là cụ già ấy chỉ là một trung niên nhỏ hơn tôi đến chục tuổi, đang bị lao, lại nghiện hút, nên teo tóp mà thành già nua trông rất thảm hại. Làm quen với người ăn mày thì chẳng có gì thú vị ngoài cái việc là áy náy mỗi khi ngang qua ông mà không còn tờ bạc lẻ nào. Cho nên, cũng có lúc tôi cảm thấy nhẹ người khi ông ta vắng mặt. Nhưng rồi, cả mấy tháng nay, lòng tôi nặng trĩu khi mà sự vắng mặt của người ăn xin cứ kéo dài qua hết ngày này đến tháng nọ. Phải chăng, ông ta đã không còn trên đời này?
Chú bé thổi còi vắng mặt ở ngà tư này khá lâu, phải chăng chú bé cũng đã... Dù sao, chú cũng là một chú bé mười mấy tuổi đầu, cuộc sống của chú còn nhiều cơ hội để cải thiện, mọi sự kết thúc đến với chú đều là bi kịch, đều là cái ác. Tôi ngồi góc quán rượu ngả tư cùng với ông chủ quán tốt bụng, cái buồn man mác chợt đến làm tôi thở dài, thương cho những kiếp đời lang bạt và thầm mong một sự may mắn nào đó có thể an ủi hoặc cứu vớt được cuộc đời chú nhỏ.
Bẵng đi thật lâu, bây giờ, khi ngang qua các ngả tư, tôi không còn nghĩ đến chú bé ấy nữa. Mùa xuân này cũng thế, một trong những mùa xuân cuối cùng của thế kỷ, của thiên niên kỷ, ngả tư cũng đã khác lắm. Rất ít thấy cái cảnh "đèn gì không xanh không đỏ" nữa. Nhiều ngả tư được trang bị đèn khá hiện đại và trông thật sang trọng lại diện tiện ích. Chẳng hạn như ở ngã tư Hai Bà Trưng - Lê Duẩn này, đèn đỏ bao giờ cũng khóa đường trước khi đèn xanh bật lên, tránh được cái cảnh tranh thủ vượt đèn vàng phổ biến ở xứ ta. Tôi thường qua các ngả tư và ngẫm nghĩ rằng, có một nền văn hóa ngả tư thật sự. Những cụ già có gốc làm thầy, đội nón nỉ, thắt cà vạt thường qua đường đúng tín hiệu đèn. Những người buôn bán trên xe đẩy thường bất chấp, họ biết tận dụng thế mạnh của kẻ yếu, kẻ nghèo trên đất nước định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước tự nguyện nhận lấy trách nhiệm xóa đói giảm nghèo cho họ và hiếm khi thấy anh công an thổi còi khi họ phạm luật. Còn những phần từ bất hảo thì khác, các anh công an quá hiền, nên chúng thường lộng hành, thấy ngó lơ là alê, vọt! Hãy trônghai cô cậu, một đầu đinh, một tóc tém nham nhở phóng xe suzuki, lượn ngoằn ngoèo kia, nhất định họ sẽ bất chấp đèn xanh đỏ cho mà coi. Vâng, đúng vậy, đèn đang đỏ, nhưng chúng cứ lạng lách cố vọt qua một rừng xa đang lướt tới. Mọi người đang phẫn nộ bọn mất dạy đang cản ngăn dòng xe cộ lưu thông thì bỗng đâu một tiếng còi thật đanh thép vang lên:
- Rrééettt!!!
Tôi cùng mọi người hết sức ngạc nhiên đảo mắt tìm xem anh cảnh sát giao thông nào xuất hiện một cách thần kỳ đến vậy. Mọi người ồ lên ngạc nhiên đến tức cười khi nhận ra một chú bé đen trùi trũi đang lao ra giữa đường, miệng ngập còi, tay ra hiệu cho chiếc xe suzuki vượt đèn đỏ dừng lại. Chiếc xe cố tình lách qua chú bé thì ngay lập tức, tiếng còi vang lên một cách dứt khoát hơn:
- Rrréééttt!!!
Chiếc xe rú ga định cán bừa lên chú bé để vọt. Nhưng không kịp nữa rồi. Chú bé, bằng một động tác nhẹ nhàng và thành thạo đã gạt được bánh trước làm cho chiếc suzuki lật chỏng gọng, hai cô cậu đầu đinh và tóc tém té lăn cù. Đúng vào lúc đó, chiếc xe môtô của cảnh sát giao thông kịp thời lao tới... Nhờ một vài người đi đường thuyết minh với cảnh sát, sự việc được giải quyết nhanh gọn: cô cậu bị phạt, cà-vẹt xe bị giữ còn chú bé thì lẳng lặng rút êm, không bị bắt tội gây rối trật tự công cộng cũng như không có sự tuyên dương công trạng thực thi nghị định 36 CP một cách tự phát
Đường phố êm ả và bình thường trở lại, nhưng trong lòng tôi thì như có sóng cồn nổi lên. Chắc hẳn bạn đọc đã biết vì sao rồi! Chính là vì tôi đã nhận ra chú bé thổi còi mà tôi tìm kiếm lâu nay do động lòng trắc ẩn! Và như vậy là chú bé chẳng những không ngã xuống nơi xó chợ đầu đường nào đó, trái lại, thật thần kỳ, chú vẫn đứng vững ở ngả tư với chiếc còi trên môi và kỳ lạ thay, chú đã trở nên thiện nghệ như một cảnh sát giao thông thứ thiệt.
Tôi rà xe theo chú bé và nhận ra chú bé bây giờ đã là một chàng trai cao lớn, tóc húi cao, bụng thon, ngực nở, bắp tay, bắp chân chắc nịch và điều dễ nhận ra nhất là nụ cười có cái răng khểnh duyên luôn nở trên môi. Chỉ có điều chú rách quá, chỉ có độc một cái quần vá chằng vá đụp, cái thắt lưng bằng sợi dây nylon đen gói hàng! Chú đen thui như một con dế nhũi, hòa lẫn vào đường phố một cách tự nhiện như một làn gió bụi.
Tôi quành xe ngay trước chú bè vừa bước tới, nở nụ cười xã giao thân thiện và chìa tay cho chú. Chú tỏ vẻ hiểu biết và đáp lại cử chỉ ấy của tôi bằng nụ cười hiền nhưng từ chối bắt tay. Chú giấu cả hai bàn tay phía sau lưng và lắc đầu.
- Cháu tên gì?
Chú bé lắc đầu và cười
- Nhà cháu ở đâu.
Lại lắc đầu và cười
Một người đi bộ ngang qua nói với tôi:
- Thằng bé câm
Mặc, tôi vẫn nói:
- Cháu bao nhiêu tuổi rồi? Mẹ cháu đâu? Cháu ăn gì, ngủ ở đâu, sống ra sao?
Thằng bé lắc đầu, ra dấu loạn xạ và tỏ ý muốn đi. Nhưng tôi chưa thể nào cho nó đi nếu như không cho nó một ít tiền. Tính khí ông già Nam Bộ xưa này đều thế. Dễ động lòng trắc ẩn nhưng lại không biết diễn tả nó bằng lời, nên chỉ biết sờ vào cái túi tiền rỗng. Tôi còn tờ giấy hai chục phòng thân lúc đi đường, liền móc đưa cho thằng bé và chờ đợi nụ cười cám ơn của nó. Trong ánh mắt ngây thơ, sáng trong của nó, một tín hiệu hiền lành phát ra, dao động rồi rối rắm khó hiểu. Tôi đang hoang mang thì thằng bé cầm còi đưa lên miệng.
- Rrréééttt!!!
Thằng bé giơ tay chào tôi theo kiểu cảnh sát giao thông rồi ra hiệu cho tôi phải bỏ tiền vào túi. Xong, nó dõng dạc bước đi theo kiểu diễu binh.
Buổi sáng đó, vào cái thời thịnh hành nhất của cơ chế bao cấp, cơ quan xôn xao lên vì sự xuất hiện của cô trong văn phòng thủ trưởng. Xôn xao nhất là giới nữ. Phụ nữ vốn nhạy cảm với hiện tượng lạ, nhất là người cùng giới với họ mà lại quá xinh đẹp. Cô văn thư ra hiệu cho cô đánh máy bằng cái nhướng mắt tinh nghịch. Rồi sau khi cô thư ký mới tinh của thủ trưởng đi qua khỏi, bước lên cầu thang, họ bắt đầu chỉ trỏ, lườm nguýt biểu lộ thái độ vừa khoái trá vừa ghen tị.
Nhưng chuyện nhạy cảm của phụ nữ cơ quan này chẳng qua chỉ là cái lặt vặt. Giới đàn ông, hạng sồn sồn ở phòng tổ chức và công đoàn mới có cái nhìn đầy gay cấn.
- Chuyện này to đấy. Thư ký công đoàn, một người đàn ông gầy gò, đeo kính lão quá sớm, nói sau khi ngắm nghía cô thư ký và bỏ kính ra. Thủ trưởng ký hợp đồng không đếm xỉa gì tới ý kiến của công đoàn cả.
Anh cán bộ phòng tổ chức, con người bao giờ cũng tỏ ra quan trọng đáp:
- Ký hợp đồng, tôi cho cũng tạm được. Nhưng quan trọng là phải có nguyên tắc tổ chức. Cô Dung này tôi rành quá. Lai lịch không rõ ràng gì. Cứ nhìn tác phong cũng đủ thấy
Nhờ anh cán bộ tổ chức, chúng ta biết cô gái khốn khổ đó tên là Dung. Lý lịch của cô thực ra thì rõ ràng, gia đình công chức chế độ cũ, cô học hết đại học, biết tiếng Anh, Pháp, từng làm phiên dịch, thư viện, kế toán, đánh máy và dạy học. Còn "tác phong" thì cả cơ quan, ai nhìn cũng thấy. Cô mặc áo dài raglan in nhiều đóa hoa cẩm tú to tướng, đi guốc sabô, vai mang hờ một cái túi sợi đay, tua tủa những ren và ở nắp túi có thêu hình một đóa hoa hồng. Thân hình cô gái cân đối, nước da trắng mịn, mái tóc xì tôn ôm lấy khuôn mặt phúc hậu, lại khéo tô điểm bởi mấy nét chì nhỏ rứt trên mi mắt và một lần son phớt trên môi, nên phải nói là cô Dung thuộc loại đẹp gái và còn giữ được vẻ đẹp tự nhiên.
Tự tin và lịch sự, cô khẽ gật đầu chào những người cô gặp trên cầu thang và dọc các hành lang dẫn vào phòng thủ trưởng. Mở cửa phòng và khép rất nhẹ, Dung đi thẳng vào chiếc bàn dành cho cô, cạnh phòng thủ trưởng. Hôm ấy như thường lệ thủ trưởng đến rất đúng giờ - và tôi (phải nói là may mắn hơn nhiều người khác) lại hẹn làm việc với thủ trưởng ngay từ giờ đầu. Tôi chứng kiến những giây phút thủ trưởng giao việc cho cô Dung và tôi vô cùng ngạc nhiên nhận thấy ông đã trở thành một con người khác. Mái tóc hớt ngắn, áo sơ mi ngắn tay màu xám tro ủi thẳng nếp và nhất là chiếc cặp đầy ắp những giấy tờ của ông bỗng dưng lép xẹp. Ông vẫn thường tự nhận là mình nhét đầy cặp, đây là hiện tượng thừa thông tin (trong công tác quản lý, thông tin thừa trở thành tiếng ồn). Thế mà hôm nay, ngay phút đầu, ông đã lấy trong cặp da ra một đống tài liệu to tướng, để sẵn trên bàn
- Chào cô Dung. Ta bắt đầu nhé. Cô sẽ được giao những việc sau đây. Tôi mong rằng việc này không quá khả năng của cô, và cô có thể giúp ích cho tôi trong công việc sự vụ.
Cô thư ký ghi như máy những điều ông dặn bằng cây bút chì nhỏ xíu vào trong cuốn sổ cũng nhỏ xíu. Cô chỉ hỏi lại kỹ những gì không rõ do thủ trưởng nói quá "thừa thông tin" và vô nghĩa (Thủ trưởng có nhược điểm này). Xong cô nhận đống tài liệu trong cặp của thủ trưởng, chào và ngồi vào ghế.
Công việc của thủ trưởng và tôi kéo dài đến suốt buổi, có kết quả cao nhất từ ngày tôi cộng sự với ông. Tuy nhiên, chúng tôi bị cô thư ký cắt ngang câu chuyện nhiều lần.
Đầu tiên sau khi đã "bốc dỡ" đống hồ sơ lưu niên trong cặp và trong gần hai mươi hộc tủ của thủ trưởng, cô đến bên chúng tôi, xin phép được có ý kiến:
- Dạ thưa chú, các tài liệu có thể sắp xếp lại thành tám colecxiong, và mỗi colecxiong có thể đánh máy đề mục để dễ tìm, như vậy được không ạ?
- Tốt lắm, cô thông cảm, tôi muốn như thế nhưng không thể nào làm được, thật là lu bu. Công việc này trước đây phải tốn một người đâý. Cô có thể làm việc này trong một tuần, sau đó thì cho văn phòng đánh máy.
- Dạ, đã sắp xếp xong rồi ạ - cô thư ký mỉm cười - Bây giờ xin đề nghị chú cho cháu tạm mượn ở văn phòng chiếc máy chữ táp-blô, cháu có thể làm luôn, chắc không lâu đâu ạ.
Chúng tôi làm việc trong tiếng máy chữ rào rào của cô thư ký. Nói không quá đáng, cô đánh máy bằng một tay và một mắt. Một mắt còn lại để đọc các hồ sơ và tay thì thu xếp. Âm thanh khẩn trương đó thúc đẩy công việc của chúng tôi nhanh hơn và tạo nên bầu không khí tâm lý mới mẻ khó tả đến nổi ngoài cửa kính, có mấy người dán mắt nhìn vào. Và hơn thế, có người - anh thư ký công đoàn - mượn cớ hỏi thủ trưởng về một việc không đâu để vào. Kỳ thực anh ta chỉ muốn ngó qua cô thư ký xem mô tê thế nào. Giải lao giữa giờ, tiếng chuông điện reo lên làm tôi giật mình mới biết tiếng máy chữ cũng đã ngưng. Nhưng cô thư ký không mở cửa ra ngoài. Ngoài sân đang tập thể dục giữa giờ, có nhạc đệm, và thông thường, sau những động tác quơ tay chân có phần chiếu lệ thì thiên hạ tranh thủ ngồi lại tán chuyện hồi lâu rồi mới lục tục trở lại làm việc. Riêng ngày hôm nay là đề tài về cô thư ký xinh đẹp. Trong khi đó, trong phòng, cô thư ký đang dùng chiếc khăn tay nhỏ xíu của mình thấm mồ hôi trên trán. Cô lại đến chỗ thủ trưởng:
- Dạ thưa, cháu đề nghị thế này có được không ạ? Đem kệ sách bỏ không ngoài hành lang hồ sơ. Cái telephon còn thừa dây nên đặt ở giữa bàn chú và bàn cháu, để chú không phải nghe những cú điện thoại không cần thiết và cháu cũng không bị phân tán, khi nghe chú trao đổi trong điện thoại.
- Tốt. Sáng mai tôi bảo văn pòng khiêng giúp. Bây giờ lu bu quá. Sáng mai, sáng mai sẽ mượn hai người làm trong một buổi là xong ngay.
- Cám ơn chú! Không cần ạ. Tất cả bàn, kệ trong nhà đều có bánh xe ạ. Cháu tự đẩy được, xong ngay bây giờ
Thủ trưởng chưng hửng. Lần đầu tiên khi về đây công tác, tôi thấy ông đỏ mặt tía tai. Ông liếc nhìn tất cả các chân bàn, kệ tủ trong các góc phòng và sững sốt như vừa phát hiện ra một lục địa mới. Tất cả đều có gắn bánh xe nhỏ, gọn.
- ờ, thế mà lâu nay tôi không biết
Và cô Dung tự đi sắp xếp lại chỗ làm việc. Tôi phụ với cô một tay và hỏi nhỏ: "Sao Dung không tập thể dục với chị em?. Dung nhìn tôi cười hồn nhiên nói: "thưa... ngày mai em sẽ đem quần áo may-dô để tập. Em không quen chịu mồ hôi khi ngồi vào bàn"
Hết giờ giải lao, công việc của cô Dung cũng đã xong. Lại thấy cô ngồi vào bàn. Và trên bàn cô đã có một lá thư mới đến. Cô dùng con dao nhỏ lấy trong sắc, rọc bì thư một cách cẩn trọng sau khi soi lên ánh sáng xem ruột thư nằm về phía nào. Công việc này nhanh đến nỗi, loáng một cái, cô đã đứng bên cạnh chúng tôi (Tôi chưa hề thấy cô ngồi, trừ ở ghế của mình)
- Thưa chú. Hồ sơ này là công văn mới đến, có một công văn khẩn. Còn đây là thư riêng của thủ trưởng, cháu để nguyên không mở. Và đây là sổ ghi địa chỉ và số điện thoại, cháu đã ghi theo mẫu tự a,b,c. Xin chú đặc biệt chú ý, trong cái bìa nhỏ này là thư mời họp. Nhưng tốt hơn hết là chú hãy để cháu giữ, cháu sẽ nhắc thủ trưởng trước một ngày hoặc hai ngày, tùy theo tính chất khẩn trương và địa điểm của cuộc họp.
- Rất tốt. Tôi đồng ý. Cô làm rành mạch như vậy thật là đỡ lu bu. Công việc này trước đây tốn một người đấy
Tiếng chuông hết giờ. Tôi hơi mắc cỡ vì mình theo dõi cô thư ký kỹ quá, nhất là tôi tính được cả đây là lần thứ nhất và duy nhất cô vào toalét, suốt buổi không thấy cô ngáp, đọc báo "giết thì giờ". Cô cũng không hành động thừa, gãi vào da hoặc cho ngón tay vào lỗ mũi trừ một tiếng ho rất khẽ dấu trong chiếc mùi xoa, khi đứng gần thủ trưởng.
Mấy hôm sau nữa, sự xuất hiện của cô thư ký góp phần làm cho công việc của cơ quan thêm sôi nổi. Nhưng, cũng có nhiều lời bàn tán, nhất là những người chỉ thích sống với cái gì đã thành công thức và phải kể đến những người hay ngồi lê mách lẻo. Đã có lời mỉa mai từ miệng những cô thư ký của văn phòng "Tao mà đẹp, mấy lị chưa chồng, nhất định tao làm thư ký riêng, hết xẩy!". Anh thư ký công đoàn thì e ngại: "Thủ trưởng làm việc coi thường xuyên nguyên tắc kiểu này, quần chúng phản ứng là phải". Còn anh tổ chức thì than phiền: "Nguyên tắc, làm gì cấp đó có thư ký riêng. Phải coi lại điểm này. Nếu cấp trên chấp thuận đi nữa, thì cũng phải coi lại tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, tư cách cái đã".
Tuy nói thế chứ không ai kết luận việc xuất hiện của cô thư ký riêng là "có hại gì cho hòa bình thế giới". Điều lạ là cán bộ đến làm việc với thủ trưởng nhiều hơn, nghiêm túc hơn và không có cà kê dài dòng. Ai cũng muốn tỏ cho cô thư ký biết là ta đây thừa sức để làm một việc có khoa học. Còn thủ trưởng thì phấn chấn hẳn lên. Ông tâm sự "Mình đỡ lu bu rồi. Trước đây có một tổ cán bộ nghiên cứu, nhưng chỉ làm cho công việc sự vụ nặng nề thêm. Mình khôgncần "quân sư", chỉ cần người làm sự vụ giỏi. Trong cơ chế chúng ta quá nhiều người nói giỏi, góp ý giỏi nhưng không siêng làm việc, không có kỹ năng nghề nghiệp. Thực ra, bước đầu ở cơ quan này không phải là không có những người như cô Dung nhưng khi người ta "tiến bộ" lên, vào biên chế thì..." Ông nói tới đây thì ngưng lại rồi chuyển sang ý khác. "Cô bé này bắt mình làm việc chí tử suốt tám tiếng, nhưng được việc hơn, ngày nào xong giờ ấy, không phải nơm nớp lo sợ quên nhớ gì nữa. Mình tự thấy có năng suất hơn. Mình ngủ rất yên giấc vì thần kinh không bị căng thẳng quá mức, hoạt động cơ bắp hồi phục nhanh hơn. Sắp lên cân rồi đấy!"
Tôi đi công tác xa sáu tháng mới trở về cơ qua, việc đầu tiên của tôi là lên phòng thủ trưởng, và tiện dịp để thăm cô thư ký. Tôi chờ đợi những chuyện thần kỳ hơn sáu tháng trước. Nhưng, chỉ mới bước vào phòng, tôi đã hết sức ngạc nhiên: Cô thư ký vẫn ngồi vào bàn của mình, nhưng để móc áo len. Cô xoay ngược chiếc ghế, quay lưng với bàn viết để được đối diện với cô bạn đang cùng cô tán gẫu. Cuộn chỉ nằm chỏng chơ trên chiếc bàn đầy bụi bặm. Cô đang kể chuyện gì chắc là vui lắm với cô thư ký đánh máy ở văn phòng. Cô cũng đã đổi cách phục sức: áo may-ô quần jean bạc màu, lệt bệt đôi dép nhựa, còn tóc thì buộc đuôi ngựa. Cô chàu khách cũng khác, làm om sòm cả gian phòng vì một chuyện không đâu.
- ồ ông anh, ông anh về hồi nào đấy, có quà cho em đưa đưa nào
Tôi bị đột ngột đến sững sốt, giống như vừa phát hiện ra một quái tinh đang lao với vận tốc kinh hồn vào trái đất.
Còn thủ trưởng thì, đã quá giờ làm việc, vẫn chưa ngồi vào bàn. Ông đang một mình ở bộ sa-lông tiếp khách, ngổn ngang ấm tách trà, gạt tàn thuốc lá cáu bẩn. Thủ trưởng đang cau có, có vẻ lu bu chuyện gì, nét mặt ông nhăn nheo so với cách đây sáu tháng xem chừng ông đã già thêm năm tuổi nữa. Dáng người ông khắc khổ và teo lại. Điều này ngược lại hoàn toàn với chiếc cặp da căng phòng của ông, rất giống chiếc cặp sáu tháng trước đây.
Thủ trưởng quên không bắt tay tôi, lại nhắc tôi ngày mai có cuộc họp thường lệ ở cơ quan. Điều này làm tôi nhận ra là ông đã quên khuấy việc tôi đã đi công tác vắng cơ quan suốt sáu tháng trời (chuyến công tác mà ông bàn rất sôi nổi). còn cô thư ký, sau cái phút mừng rỡ, cô vẫn mải miết với que đan và câu chuyện gẫu, cô quên mất nhiệm vụ mà trước kia cô đã làm: nhắc thủ trưởng về nguyên do sự có mặt của tôi.
Nhưng cuối cùng thì thủ trưởng cũng nhận ra sự việc. Ông lúng túng và buồn bã nhìn tôi. Ông báo cho tôi biết rằng ông đã đệ đơn xin về hưu vì thần kinh quá căng thẳng, kém trí nhớ, lu bu và mất ngủ thường xuyên.
Tôi thắc mắc dữ dội về sự tái xuất hiện cái không khí lảng công, lãnh đạm quen thuộc và chán ngấy của cơ quan, nhất là sự "nhập thân" quá ư mau lẹ của cô thư ký. Nhưng về thắc mắc sau cùng này, nhờ sự tiết lộ của anh thư ký công đoàn, tôi đã tạm cho đó là căn nguyên: Cô Dung đã được vào biên chế vì đã làm việc tốt. Anh thư ký công đoàn tỏ ra cực kỳ hào hứng: "Trường hợp độc đáo, làm việc sáu tháng, được xếp lương năm mươi hai đồng, bở đấy, so với một trăm đồng lương hợp đồng trước đây thì cô ta vẫn lợi cái khoản tiêu chuẩn cung cấp nhu yếu phẩm". Còn một nguyên do nữa, điều này anh cán bộ tổ chức "nói riêng" với tôi: "Thủ trưởng đâu có tiêu chuẩn thư ký riêng. Giải quyết như vậy là cứu ông ấy khỏi sai về nguyên tắc".
Sáu tháng sau nữa, tôi chứng kiến cuộc lễ kết nạp cô thư ký vào đoàn thanh niên. Kỳ lạ thay, tôi chẳng hề xúc động về việc này, mặc dù, trước đây tôi cũng là cán bộ đoàn sôi nổi. Vì lẽ đơn giản, tôi thích cô Dung thư ký xinh đẹp mà tôi gặp lần đầu trở thành đoàn viên hơn là một cô Dung vô tích sự, bị đồng hóa trong cơ chế trì trệ, một cá tính nhạt nhòa như hiện giờ.
Rồi tôi xin chuyển đến một cơ quan khác. Từ bấy đến nay đã mười năm. Thời bao cấp chấm dứt sau đó sáu năm. Thời đổi mới diễn ra cũng đã hơn mười năm. Những ngày sống và làm việc đầy lửa nhiệt tình trong thời đổi mới làm tôi nhớ tới Dung. Cô thư ký xinh đẹp ngày nào có được hồi sinh trong đổi mới, hay là cô đã vĩnh viễn đi vào thời quá khứ. Tôi tin Dung, cô thư ký xinh đẹp năm xưa đã trở lại với chính mình. Đúng thế không, Dung?
Tiếng chuông cửa réo mạnh, kéo dài. Ông Luân buông tờ báo Giải phóng, lột kính, xỏ dép bước ra sân. Ông dừng lại một giây để phán đoán. Ai bấm chuông nghe thật lạ. Ba chục năm nay, khách của ông không ai bấm chuông kiểu như vậy. Chắc là quân quản, những anh chàng đeo băng đỏ tìm nhà vắng chủ. Ông Luân sửa bộ cho ngay ngắn hơn trong bộ pyjama, hỏi qua cánh cửa sắt; "Ai đó?" "Xin lỗi... tìm nhà ai ạ?" Người khách có giọng nói hơi khàn, nhưng không lạ. "xin lỗi, có phải nhà ông Luân không?" "Vâng, tôi là Luân đây, nhưng tôi chưa hân hạnh được biết ông". Người khách reo lên bên kia cửa sắt: "ối mày đó hả Luân. Tao đây. Thời đây".
Cửa vừa hé, ông Thời đã nhảy bổ vào ông Luân, thoi vào bụng, đấm vào lưng. Cử chỉ quá thật thà này hoàn toàn không hợp với ông Thời, một người bệ vệ, trán hói, áo trắng cụt tay bỏ ngoài quần theo đúng mốt riêng của cán bộ lãnh đạo cấp cao thời bấy giờ. Còn ông Luân thì trái lại, dáng cao ráo, khắc khổ, thông tuệ trộn lẩn, tạo thành hình dáng một cây thông già cam phận nắng gió. Ông Luân đứng sững, cố lùi ra xa để nhìn khuôn mặt người bạn đã chia tay đúng ba chục năm. Ông Thời cứ huyên thuyên hỏi và ông Luân chỉ đáp lại bằng cái siết tay thật chặt, bằng ánh mắt rưng rưng cảm động. Ông Luân lẩm nhẩm vô thức: "Ôi! Thời! Ông... mày....toa, toa là một đấng anh hùng". "Ôi thần kỳ biết bao... cuộc hội ngộ tam thập niên... thần kỳ biết bao!"
Chai rượu Martel cất trong tủ ly từ rất lâu được lấy ra. Mồi lấy từ tủ lạnh gồm những thứ cá thịt dễ chế biến dự trữ để chiến sự kéo dài. Việc dọn đồ nhậu hoàn toàn do ông Thời đảm nhận còn ông Luân thì mách nước chỗ nào có cái gì quý nhất để ông thời lôi hết ra. Rượu rót tràn. Cốc chạm. Họ uống như vừa mừng gặp lại vừa để làm quen, kiểu làm quen của hai người bạn ý hợp tâm đầu từ những ngày xưa.
Cách đây ba mươi năm, Thời và Luân cùng học ở Chasseloup Laubat, cùng ở lục tỉnh lên và cùng ở một phòng trọ. Luân con nhà khá giả, Thời thuộc hạng trung lưu. Thời học trung bình, tính hiếu động, thích thể thao, hay ồn áo, đánh lộn. Luân học giỏi, tính trầm lặng, thích văn chương. Họ si mê nhau như đôi tình nhân. Khi đến tuổi yêu đương, cả hai cùng yêu một nữ sinh áo tím. Về sau, nàng áo tím đi lấy chồng, cả hai thất tình và nhận ra mình ngu hơn con gái. Rồi Luân được gọi về quê cưới vợ. Họ chia tay sau khi tốt nghiệp. Cuộc kháng chiến bùng nổ, Luân nhận được thư Thời, chỉ vỏn vẹn mấy chữ: 'Mình ra bưng biền. Tạm biệt!" Luân muốn theo bạn nhưng hoàn cảnh không cho phép. Luân còn vợ dại, con thơ, còn điền sản. Anh mừng cho Thời, luyến tíc tình bạn, giữ mãi mấy chữ của Luân trong ngăn tủ. Có mấy chữ thôi - thật ra là chỉ vì hai chữ: bưng biền - mà phải dấu đút, đôi khi định hủy đi. Nhưng Luân không nỡ. Chẳng lẽ lại sợ cả thủ bút của thằng bạn. Hèn! Thế là Luân giữ cho đến bây giờ.
Chén tạc chén thù một hồi cả hai đều nhận ra mình không phải là dân sâu rượu. Họ bắt đầu ngắm nhìn nhau, nhận diện nhau. Thời đã gần sáu mươi. Luân sáu mươi chẳn. Thời bị huyết áp do làm lãnh đạo, ít vận động chân tay, hút thuốc nhiều, họp nhiều, nên đang kiêng rượu mạnh. Còn Luân là học giả, phải làm con mọt sách từ các thư viện nhà nước cho đến tủ sách riêng. Kinh nghiệm dạy: nát rượu không thể làm nghề biên khảo được. Bởi vậy, ông không bao giờ uống rượu trừ khi cần xã giao. Luân đã là tác giả, dịch giả của hơn trăm quyển sách, đã thành nổi tiếng một phần không thuốc, không rượu, chỉ sự nghiệp và họ đều là người già, đang đứng bên kia đỉnh dốc của cuộc đời, phía mặt trời lặn. Phút hoài niệm thời sôi nổi trẻ trung vụt qua nhanh đi. Bên tách trà màu gan gà, họ trở về với hiện tại mà mỗi người đều ngỡ ngàng trước những trang mới của lịch sử, dù trên mái tóc của họ, muối đã nhiều hơn tiêu và trên trán đã có nhiều nếp nhăn cố định. Khi chia tay họ không còn toa moa nữa. Bây giờ là tôi, ông và ông, tôi.
Trong nhiều năm liền, ông Thời gần như có mặt thường xuyên ở nhà ông Luân vào những chiều chủ nhật không bận việc lãnh. Họ nói chuyện suốt buổi, có khi đến thâu đêm. Sau đó, khi, ông Luân gói cho ông Thời một chồng sách, tạp chí tiếng Pháp, tất cả đều là đồ xưa cũ. Ông lãnh đạo - Ông Luân nói - cái này chắc cần cho ông. Những cái này, rất cần đó, mỗi ngày một nặng thêm. Khi thì là sách, là tạp chí đóng tập, khi thì những collection do ông Thời suy tầm. Tất cả đều đóng bìa da hoặc bọc cẩn thận trong những chemise bọc da. Ông Thời thường đi xe đạp đến chơi nhà ông Luân giống như lần đầu (lần đó, ông Luân mỉm cười khen ông Thời: Ông làm giống cụ Phan đỗ đại khoa vẫn mặc áo thâm, chân đất thăm bạn). Nhưng về sau này ông phải đi xích lô để mang sách về và mang sách trả.
Thư ký ông Thời - người được giao đọc, tóm lược giúp ông - chỉ hăng hái được thời gian đầu. ít lâu sau, ông thư ký này phải nhờ cô thư ký giỏi Hán Nôm đọc tiếp sức. Cuối cùng, cả hai nam nữ thư ký đều khéo léo từ chối công việc này. Ông Thời đành phải chấp nhận, bởi vì, công việc nặng nhọc ấy hoàn toàn không có thù lao gì. Tình cảnh đó buộc ông Thời phải năng lui tới ông Luân hơn
"Sách có ích gì cho ông không?". Một hôm, ông Luân hỏi. Đầu tiên, ông Thời nói: "Có, nhiều lắm. Tôi thận trọng hơn trong các chủ trương". Nhưng sau đó, ông cười khẩy nói ngược lại: "Không! Sách của ông chỉ làm khổ tôi. Nó làm tôi lúng túng khi nghĩ, khi nói. Tôi nghĩ chậm hơn, nói kém lưu loát, thậm chí còn nói lắp". "Chao ôi, đến thế sao?". Ông Luân thảng thốt. Ông Thời nói: "Sách của ông cưới mất trí khôn của tôi, nó chỉ tố cáo tôi ngu. Ông Luân định nói: "Chức năng của sách là làm cho người ta thấy mình ngu. Kẻ nào thấy mình dốt, kẻ đó sẽ được khai sáng", nhưng ông kịp ngừng lại. Ông Thời nói: "Trước đây tôi có thể nói chuyện với tất cả mọi đám đông. Tôi đã nói với các sĩ quan, các kỹ sư, bác sĩ, văn nghệ sĩ. Tôi đã nói về chăn nuôi với những người nuôi trâu sữa. Tôi cũng đã dạy người nông dân cần phải làm ba cuộc cách mạng ra sao. Chẳng những nói, tôi đã hành động: duyệt đề án này, khen ngợi hoặc bác bỏ tác phẩm nọ. Và... tôi đã đánh giá người này là tốt, người kia là...". Ông Thời bắt đầu nói lắp bắp trước ông Luân như một học trò không thuộc bài. "Vâng - ông Thời tiếp, chính tôi cũng đã chửi các triết gia cổ điển, đã tìm thấy những hạn chế của các đại văn hào, đã phê phá kém cỏi tính quần chúng của nhạc giao hưởng, nói chung, tôi không cảm tình với sách vỡ cũ và người viết ra nó. Đối với tôi, tất cả mọi hiện tượng xã hội được chia ra làm hai, trước Mác và sau Mác, trước khi có Đảng và sau khi có Đảng. Trước và sai, hoặc hạn chế. Ngược lại, sau là đúng, là tiến bộ. Tôi không biết tại sao không ai cãi lại tôi, người ta còn hoan hô tôi. Trên đường hoạn lộ, tôi hành trình suôn sẻ. Và tôi đã nói nhiều, người ta in những điều tôi nói thành sách. Sách của tôi đứng tên cũng đã tới một chồng, cũng đóng bìa da, gáy vàng. Như thế đấy. Như thế..."
Ông Thời nói tới đây thì nghẹn, ông lấy mùi xoa hỉ mũi. Xong lại cười nhưng lại uống hết cốc rượu này đến cốc rượu khác. Lần đầu tiên ông Thời say, trái lại, ông Luân ngồi như pho tượng. Ông cảm thấy lo sợ như người có tội. Ông định nói ra để tự giải thoát nhưng lại sợ bị bắt tội, đành thôi. ý nghĩ được lưu giữ trong đầu ông cũng ác và cũng vị kỷ lắm. Ông nghĩ: Hóa ra lâu nay chính ông Thời, bạn cố tri của ông, người hùng thời đại đã cuốn hút ông không sa ngã về phía khác, nhưng do ít kiến thức ông Thời cũng đã từng gây tội lỗi và đã sám hối. Song, ông lại giận ông và giận những quyển sách đã làm cho ông Thời phải cân phân giữa tri thức và quyền lực trong tuổi sáu mươi. Chính ông và sách đã tạo ra nỗi khổ này, nó có nguy cơ đánh mất tình bạn cao quý giữa hai người.
ít lâu sau, ông Luân được tin ông Thời thất sủng, thay vì ở trong cấp ủy lãnh đạo, ông bị chuyển sang làm chuyên môn. Lý do vì ông đã tỏ ra am hiểu lãnh vực văn hóa, xã hội, do đọc nhiều sách. Ông Luân tự thấy mình có lỗi đã để bạn rời khỏi cương vị lãnh đạo. Ông muốn gặp ông Thời để giãy bày tâm trạng và chấm dứt con đường quan hệ bằng sách vở. Nhưng chờ mãi không thấy ông Thời đến, cũng không nghe tin tức về ông. Trước đây, hầu như ngày nào cũng thấy ông Thời xuất hiện trên ti vi và báo chí. Nhưng gần đây, chỗ của ông đã có người khác thay thế. Lũ trẻ ở nhà đồn rằng, ông Thời đã rút lui nhưng ông Luân không tin, e rằng, ông Thời đã rút lui nhưng ông Luân không tin, e rằng đó là chuyện bẻm mép của trẻ con. Ông Luân nghĩ: giả sử như có chuyện rút lui của ông Thời thì ông cũng sẽ tới đây, đến với ông và tủ sách oan nghiệt đã làm ông chùn bước trên con đường quyền lực. Ông Luân tự trách mình đã quá lãnh đạm với cuộc sống, đã quen thói trùm chăn và mọt sách, không chia sẻ gì được với ông Thời, một người bạn thủy chung trọn vẹn với ông. Nhưng biết làm sao được, ông Luân đã quen cách sống ấy và cũng chỉ muốn giữ cách sống ấy cho tới cuộc đời. Và những ngày trông ngóng ông Thời đến mòn mỏi chỉ làm ông Luân thêm lãnh đạm hơn đối với cuộc sống bên ngoài ngôi nhà của mình. Ông đã quyết định ngồi lỳ trong thư phòng để biên dịch những quyển sách còn dang dở. Ông chỉ xuống nhà ăn khi có tiếng chuông điện do bà Luân hoặc sắp nhỏ bấm. Chỉ có tiếng chuông thật khẽ khàng ấy mới vời được ông, còn những tiếng reo khác thì ông bỏ ngoài tai. Ông cũng không nói, tự cấm khẩu với người trong nhà. Ông chỉ lắc đầu và gật đầu khi cần thiết. Hình như ông muộn tự hành hạ mình để tạ lỗi với bạn và hy vọng mơ hồ rằng ông có thể kết thúc sự nghiệp một cách trọn vẹn
Rồi một hôm, ông nhận ra, tất cả những ý định của ông đã trở thành ảo tưởng. Ông chỉ làm được cái việc đóng kín trong thư phòng. Còn việc biên dịch thì hoàn toàn thất bại. Chữ nghĩa và đầu óc chống lại ông. Hình ảnh ủ rũ của ông Thời trong lần gặp cuối cùng ám ảnh ông. Mặc cảm tội lỗi hành hạ ông mãi. Ông Luân đau một trận thập tử nhất sinh. Từ đó không ai nghe thấy gì về ông nữa.
Vài tháng sau, ông Thời bấm chuông sau khi bước xuống từ chiếc xe hơi đời mới thật sang. Ông béo tròn, da thịt căng hồng như vừa đi mỹ viện về. Không, ông chỉ đi một vòng thế giới thôi. Báo chí vừa nói về chuyến đi của ông. Đó là một chuyến đi khá dài để nghiên cứu, tham quan, học tập và hoạch định một chương trình lớn để hợp tác với nước ngoài. Nghe đâu ông đang là nhân vật lớn của Chính phủ với cái thế rất vững của vùng trọng điểm lương thực và của cơ chế thoáng.
Viên thư ký lăng xăng chạy theo ông, tay ôm gói thật lớn bọc giấy hoa, dây buộc màu đỏ có thắt nơ. Tự tay ông Thời bấm chuông. Hồi chuông dội lại, qua cửa sắt, kéo dài. nhưng ông đợi mãi chẳng thấy nhà học giả tóc bạc mặc pyjama mở cổng. Ông hơi nhíu mày. Lát sau, cánh công xịch mở. Một mái tóc bom bê ló ra. Nhác thấy một người bệ vệ và chiếc xe sang trọng đậu trước cổng cô bé lạ hoắc lè lưỡi ù té chạy vào trong, gọi í ới: "Má ơi má! có ông nào... í, có khách!". Người đàn bà tất tả chạy ra, hay tay còn dính đầy cám heo, nước nhểu ròng ròng theo những ngón tay gầy guộc tím tái. Người đàn bà rụt rè thưa: "Thưa, ông tìm ai?". Viên thư ký nhanh nhẩu: "Ông chủ nhà này, học giả Thế Luân đâu?". Ông Thời đẩy viên thư ký sang một bên bước tới, giọng từ tốn hơn: "Tôi là bạn của nah Ba Luân, muốn ghé thăm ảnh!" Người đàn bà hỏi ông: Phải ông là ông Thời không? Ông gật đầu, người đàn bà mừng rỡ chạy vào trong và trở ra với phong thư. Người đàn bà nói: Ông Luân nhờ tôi, nếu có ông Thời đến thì trao thư này". Cánh cổng khép lại. Ông Thời mở thư ra. Ông lẩm nhẩm đọc, vỏn vẹn có mấy chữ: "Tôi về bưng biền. Vĩnh biệt. Luân". Ông Thời đứng lặng, bức thư vẫn run nhè nhẹ trong tay.
ở nhạc viện ra. Đông Xuân chạy thoăn thoắt đến sà vào lòng tôi, líu lo: mẹ ơi, con đàn bản nhạc này của Mô-da được cô cho điểm mười. Cô khen bàn tay con tròn lắm. Con khum khum bàn tay, chúm chím đôi môi đỏ, chân nhún nhảy làm cho chiếc áo đầm xòe ra giống như cô công con. Lần nào cũng vậy, tôi ôm ghì con vào lòng, hôn khắp lên tốc, lên mắt và hai bàn tay búp măng của con lòng rạo rực niềm hạnh phúc lớn lao. Cả một ngày làm việc mệt nhọc của nghề phóng viên thời sự chỉ còn là khoảng khắc dịu êm man mác. Đường Nguyễn Du chiều mùa hè rộn tiếng ve, nắng vàng xuyên qua kỹ lá dệt những chùm hoa tròn như trứng gà lung linh trên mặt đường. Lá me bay rắc những ánh vàng nhỏ li ti trên những mái tóc học trò tí hon của trường nhạc đang ào ra như một đàn bướm. Trong khu cảnh ấm áp đầy quyến rũ của buổi chiều tà, tôi đi đón con bằng cả vòng tay lớn của tất cả những người mẹ có con cùng một lứa tuổi tuyệt diệu, tuổi lên bảy của những cháu bé chào đời trong tháng lịch sử.
Ngồi phía sau xe đạp, Đông Xuân vuốt tấm lưng ướt mồ hôi của tôi. Bàn tay thiên thần nhỏ xíu rối rít thực hiện một cố gắng lớn, xua tan cơn mệt nhọc của mẹ. Nhiều năm qua, từ khi chiếc ghế mây gắn phía trước xe đạp đã trở thành chật chội. Đông Xuân là làn hơi ấm sau lưng tôi. Cũng như trước đây, tháng cuối cùng trong chiến khu, khi con còn đỏ hỏn, tôi phải địu trên lưng, làn hơi ấm mỏng manh ấy đã tiếp sức cho mẹ qua nhiều chặng đường hành quân. Con tôi sinh ra trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đầy tháng ở Sài Gòn vừa giải phóng. Ngày đầy tháng mới chính thức đặt tên là Đông Xuân. Ba cháu nhất quyết đặt tên Đông Xuân để đánh dấu chiến dịch cuối cùng của cuộc kháng chiến bất chấp quy ước giữa hai chúng tôi: hễ là con gái thì đặt tên là quyền của mẹ. Ngày đó, Đông Xuân chỉ nặng bằng cái ruột tượng gạo nhỏ của tôi, vậy mà nay đã hai mươi kí-lô, cao một mét hai, lần nào lên dốc Hai Bà Trưng hai mẹ con cũng phải xuống xe dẫn bộ.
- Mẹ ơi, mẹ
- Dạ. Mẹ nghe đây
- Mẹ cứ dạ hoài. Con lớn rồi, con biết mẹ phải ơi mới đúng
Tôi phải ơi thật rõ, Đông Xuân mới chịu nói tiếp:
- Bữa nay mẹ phải giữ lời hứa với con. Mẹ chở con đi thăm ba, con nhớ ba... ngàn năm rồi
Tôi suýt bật cười nhưng kịp kềm lại được. Gần đây, Đông Xuân ráo riết đòi đi thăm ba. Nó thường nói: một trăm năm rồi ba không ngủ với con. Con nhớ ba một ngàn năm. Đông Xuân học lớp một, vừa đếm được chính xác tới số hai mươi bằng cách xòe cả hai bàn tay và hai bàn chân ra. Cháu mới đọc được số trang và số thứ tự bài học. Tất cả các con số đều không liên quan gì đến một trăm năm, một ngàn năm. Vậy mà trong tháng hè vừa qua cháu đã lặp đi lặp lại nhiều lần con số tưởng tượng đó, đi liền với một nỗi nhớ. Nỗi nhớ da diết đến từ cái hôm cháu đàn bản dân cao Lit-va cho bạn tôi là một nhạc sĩ nghe. Bài dân ca trầm buồn có sức quyến rũ đến nỗi chỉ với đôi bàn tay non nớt của Đông Xuân cũng thuyết phục được người nhạc sĩ. Anh ngồi vào ghế của Đông Xuân, chú cháu cùng nhau trau chuốt từng nốt nhạc. Anh nhận ra cháu có nhạc cảm rất tốt, nhưng không hiểu sao, vẫn chưa diễn đạt được tâm tình của bản nhạc. Suy nghĩ hồi lâu, anh nói:
- Đoạn này buồn lắm. Cháu đàn chậm lại đi, chậm nữa, êm hơn nữa. Giống như cháu đang nhớ. à, phải rồi, cháu đang nhớ ba. Những nốtb nhạc này cháu đàn cho ba nghe, cho một mình ba cháu nghe.
Tôi thấy Đông Xuân co người lại, lưng gù xuống, tai nghiêng sát phím đàn, tóc xòe dồn sang một bên vai. Từ mười ngón tay cháu ấn nhẹ lên phím đàn, bật ra những tiếng nhạc sâu vời vợi nỗi nhớ thương da diết. Nghe con đàn, tôi cứ ngỡ là tiếng đàn của cô giáo hôm nào. Lần đầu tiên, cô kiểm tra nhạc cảm của cháu, cô đàn nhẹ, êm như ru, cháu lặng nghe chăm chú. Nhưng khi cô hỏi: "Con nghe thế nào. Bài này vui hay buồn?" thì Đông Xuân thản nhiên trả lời:
- Thưa cô, vui
Cô giáo sửng sốt
- Con nói sao? Bài này mà con hiểu là vui thì chết cô rồi!
Cháu chỉ lắc đầu không hiểu
Cô giáo liền đàn tiếp một bản nhạc múa tiết tấu thật rộn ràng. Cháu ngồi không yên, cả thân mình nhún nhảy theo tiếng nhạc. Cô hỏi lại:
- Còn bài này, con thấy vui hay buồn?
- Thưa cô, bài này vui hơn bài trước
Nhạc sĩ ngồi lặng im nghe tôi kể, nét mặt thoáng lo âu. Lát sau, anh nói, mắt đỏ hoe
- Giá như chị kể chuyện này trước thì tôi đã tránh được cử chỉ vô tình đối với cháu. Tôi đã gợi cho cháu nỗi nhớ. Nỗi buồn, trong khi cháu chỉ biết vui và vui hơn. Đành rằng trong nghề nhạc, cần có những xúc cảm sớm hơn lứa, nhưng dầu sao tôi cũng nghĩ rằng người lớn không nên tập cho con cháu mình sớm biết buồn.
Anh nhạc sĩ ra về, tôi ngồi thừ một lúc lâu. Hóa ra, lâu nay tôi chưa bao giờ nghĩ về điều người nhạc sĩ nói. Lắm lúc tôi còn muốn con đàn được nhiều bản nhạc buồn hơn nữa, muốn gieo vào lòng con nỗi nhớ của chính tôi. Tôi muốn dùng tiếng đàn của con để an ủi, vuốt ve nỗi cô đơn thầm kín của mình. Và giờ đây, nỗi ân hận bắt đầu giày vò tôi...
Thấy tôi ngồi lặng lẽ, Đông Xuân chạy đến ôm cổ tôi hôn như dòng bão lên mặt, lên cổ tôi, cháu vẫn thường hôn tôi như thế
- Mẹ ơi, mẹ. Mẹ đang nhớ ba con phải không?
Tôi miễn cưỡng gật đầu. Đông Xuân ôm siết tôi hơn nữa, nó nói nhỏ vào tai tôi:
- Mẹ ơi, con nhớ ba một trăm lần. Mẹ hứa với con đi
- Con muốn mẹ hứa điều gì?
- Mẹ hứa cho con đi thăm ba con đi
- Nhưng con phải học giỏi, học điểm mười
- Con xin hứa. Mẹ hứa đi
Đông Xuân nói dõng dạc, điệu bộ như chiến nhận lệnh. (Ba nó vẫn dạy như vậy) và đưa một ngón tay trỏ nhỏ xíu ngoéo vào ngón tay tôi. Khi Đông Xuân học nhạc, điểm mười như là một quy ước của hai mẹ con. Con được điểm mười, mẹ phải thực hiện một lời hứa. Vì những lời hứa, Đông Xuân đã làm việc như một người lớn, cần mẫn tập luyện tiếng đàn theo yêu cầu của cô giáo. Lắm lúc, tôi đau nhói trong tim vì đầu ngón tay của con sưng lên hoặc bật máu do cố gắng quá sức. Con thi đậu vào trường nhạc, tôi mua cho nó chiếc áo đầm do chính nó chọn. Con gái tôi đã chọn đúng chiếc áo mà tôi thích, chiếc áo điểm những bông hoa cà màu tím li ti, khiêm tốn. Chiếc áo đó đắt gấp ba lần lương tháng của tôi, bằng đúng món tiền nhuận bút của một truyện ngắn đăng trong số Tết. Con mê chiếc áo đầm mới đến nỗi đòi mặc luôn trong giấc ngủ say, tôi đã soi vào gương và nhận ra hai gò má tôi ửng chín, mắt tôi long lanh hơn, mặc dù, bộ quần áo ký giả của tòa soạn tặng tôi đã sờn, bạc phai trong những chuyến đi viết xa thành phố. Tôi trẻ ra vì giữ được lời hứa với con...
Thế mà lần này, khi ngoéo tay con hứa sẽ đưa nó thăm ba, tôi ảm thấy xấu hổ, tôi không dám nhìn thẳng vào mặt con. Đông Xuân hoàn toàn không biết tâm trạng của mẹ. Nó mừng rỡ, nhún nhảy như một con chim sáo. Nó ngồi lên đàn và chơi bản dân ca Lit-va đúng như người nhạc sĩ bạn tôi đã đàn, để khẳng định là đang nhớ ba. Cử chỉ yêu thương ba da diết của con đối với ba nó làm tôi mất ngủ trọn đêm đó. Tôi không viết nổi một chữ nào bài báo cho ngày hôm sau.
Sáng ra, tôi dối tòa soạn là đi lấy tài liệu ở một cơ sở, nhưng thật ra là đi lang thang trên đường phố. ý thức còn lại duy nhất của tôi là giữ không để xảy ra tai nạn xe cộ. Ngoài ra, tôi phó mặc, cứ để mình nổi trôi theo dòng đời, trong một ngày. Ngờ đâu, số phận dửng dưng ủng hộ cho đến bốn giờ chiều, cái giờ hạnh phúc nhất của tôi, cái giờ được đón Đông Xuân trong vòng tay.
Như vậy là thêm một lần nữa Đông Xuân thỏa mãn điều kiện của tôi, đạt điểm mười. Con đã đạt được mục đích. Sáng sớm hôm nay, Đông Xuân bậm môi dọa tôi thật sự. Mẹ không cho con đi thăm ba, con sẽ nhịn ăn, con không ngủ với mẹ nữa. Con chỉ còn chưa dám nói lời nặng nề nhất: con không tin mẹ. Chỉ cần mấy tiếng phẫn nộ đó của con, tôi sẽ không sống nổi.
Vừa gò lưng đạp xe, tôi vừa nghĩ cách thoát khỏi sự sụp đổ lòng tin trong con
- Đông Xuân à, con thấy mồ hôi lưng mẹ còn nhiều không?
- Dạ, mồ hôi ướt áo mẹ đây nè
- Hôm này mẹ mệt quá mà ba con thì ở xa. Để sáng mai chủ nhật mẹ mượn xe honda của dì chở con đi cho nhanh, con chịu không? Còn bây giờ mẹ đưa con đi chơi bến Nhà Rồng
- Không. Con không đi bến Nhà Rồng
- Thì mẹ đưa con đi cậu lạc bộ...
- Không! Mẹ phải giữ lời hứa
Tôi biết Đông Xuân sẽ bật khóc một khi nó nói giọng cộc lốc như vậy. Phía sau xe dùng dằn mạnh làm tôi lảo đảo suýt chạm vào một chiếc xe đạp cùng chiều. Hai bàn tay nhỏ xíu của Đông Xuân rời khỏi hông tôi. Làn hơi ấm từ bàn tay con biến đi đột ngột. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng khiến tôi như đang lên cơn sốt rét. Đã đến nước này thì tôi không còn dám trái ý con nữa.
- Thôi được, mẹ xin giữ lời hứa. Nhưng con phải ráng chịu mệt, khi nào con khát thì mẹ cho con uống nước mía dọc đường.
- Hoan hô mẹ. Con không khát đâu
Đông Xuân reo lên và lập tức đưa ngón tay trỏ cong cong trước ngực tôi. Tôi ngoéo tay con chật chặt, lòng dặn lòng phải can đảm lên. Và tôi cố sức đạp trong nắng chiều, tim đập liên hồi, trong lòng như có lửa đốt. Xa lộ về chiều xe cộ hối hả như chạy đua với bóng đêm
Chiếc xe cũ kỹ của tôi cố gắng như một thân sậy mềm trước dông bão của tốc độ. Tôi kiên nhẫn đạp xe không ngoài mục đích duy nhất, vì con.
Trước đây, mẹ con tôi đi chơi bằng xe honda, người lái là ba của Đông Xuân. Chúng tôi có một chiếc xe bán hóa giá, phần thưởng dành cho người thương binh bị hư một chân. Anh bị thương vào phần mềm, mảnh đạn chạm dây thần kinh làm cho teo cơ, chân trái cứ nhỏ dần và khi anh về thành phố, nó thêm chứng run rẩy. Anh rất buồn sợ mình đứng không vững trên chính đôi chân của mình. Chiếc xe honda là nguồn an ủi đối với mẹ con tôi, vì nó có thể đưa cả ba chúng tôi đi chơi sáng chủ nhật. Với anh, chiếc xe bình dị ấy cũng trở thành nỗi băn khoăn. Anh bảo rằng, nó là chỗ nương tựa của tính biếng nhác, đôi chân anh có thể vì nó mà teo thêm. Nhưng dầu sao, những chuyến đi sáng chủ nhật ra ngoại ô của anh và mẹ con tôi là vô giá. Anh đặc biệt thích thiên nhiên theo một kiểu riêng. Qua những cánh đồng để sống với cố hương và đến những khu vườn để sống lại đời sống chiến khu. Cuộc đời bộ đội trong quá khứ cứ sống đường hoàng trong anh cả ngày lẫn đêm của hiện tại. Hòa bình đã ba năm mà bộ "xanh-tuya" đi rừng anh vẫn còn giữ. Cái bình toang, cái ca, cái đèn chai "an-côn" được anh trân trọng như hiện vật bảo tàng truyền thống, anh chỉ dành cho con gái. Những buổi đi ngoại ô của chúng tôi thật thú vị. Khi thì về đất Củ Chi loang lỗ hố bom. Khi thì đi vùng căn cứ Sáu Xã ở Thủ Đức. Lần đi chơi Thủ Đức Đông Xuân mới ba tuổi, thích ngồi trên bình xăng phía trước, tay luôn chỉ trỏ, miệng không ngớt bi bô:
- Ba ơi ba, cái bánh gì đỏ giống trứng gà quá?
- Không phải bánh đâu con, mặt trời mọc đó, đẹp không con?
- Đẹp quá. Mặt trời ở... số mấy hả ba?
- Ơ... cô bé cưng của ba. Mặt trời không có số nhà. Ông mặt trời ở cuối xa lộ này, ở trong rừng Sác xa lắm
Anh hơi lúng túng trước câu hỏi ngộ nghĩnh của con rồi cuối cùng cũng tìm được một cách trả lời theo sở thích của cả hai. Lần đầu tiên nghe tiếng rừng Sác, Đông Xuân hỏi huyên thuyên. Anh phải vận dụng ngôn ngữ trẻ thơ một cách khó nhọc để nói với nó. Anh lúng túng tìm từng lời để diễn tả lại một cách đơn giản nhất, những ngày oanh liệt của anh, cái thời làm chiến sĩ đặc công trên địa bàn sông lạch rừng ngập mặn. Đông Xuân nghe chăm chú, thỉnh thoảng nó gật đầu và lắc đầu để rồi sau cùng thì đòi đi chơi rừng Sác
Sinh nhật lần thứ năm, Đông Xuân thổi phụt một cái tắt cả năm ngọn nến. Anh thưởng cho con một buổi đi chơi vườn măng cụt Lát Thiêu. Đi chơ lần này, anh chuẩn bị cho con một ngày sống dã chiến thật sự. Có cả "tăng", võng, lương khô, bình toong nước. Hai cha con đu đưa trên võng căng trong vườn măng tím mọng, song ca rất khớp bản "Nhạc rừng". Cúc cu, chim rừng ca trong nắng. Im nghe ve rừng kêu miên man. Tiếng ve rộn lên trong vườn như đệm nhạc cho cha con anh hát. Anh hỏi Đông Xuân
- Đồng chí bộ đội của bá có nghe tiếng con gì kêu đó không?
- Con biết rồi, tiếng con dế
- ý ẹ, trật rồi - Anh ôm con, cười chảy cả nước mắt - Đó là tiếng ve chớ con. Im nghe ve rừng kêu miên man. Đó là ve, là nhạc ve đó con
- Con nhớ rồi... nhạc ve.. kêu miên man
- Hoan hô đồng chí bộ đội của ba
Anh và con chuyển sang hát "Hành quân xa". Cha con đi đều bước. Cha khập khiễng đi trước, tay khuỳnh rộng ra như đang hành quân thật. Con nắm thắt lưng cha, cố bước thật cao chân hát thật to:
- Đời chúng ta đâu có giậc "mà" ta cứ đi
- ấy chết! Con lại hát trật rồi. Phải như vầy mới đúng - Anh quay người lại đối diện với con tay bắt nhịp, miệng hát rõ từng lời: Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi. Là ta cứ đi chớ con
- Mà chớ ba. Bạn con cũng hát mà không hà
- Nếu hát là mà, thì cả bạn con cũng sai
Anh ngồi im nghĩ ngợi hồi lâu, trang nghiêm trước con gái năm tuổi. Anh định nói gì với nó nhưng chưa tìm được lời lẽ thích hợp, đành phải im lặng. Vốn là một chiến sĩ đặc công, anh biết làm chủ mọi xúc cảm. Anh kể cho mẹ con tôi nghe những ngày chiến đấu, trong trận đốt kho xăng Nhà Bè. Anh đã từng xâm nhập vào sát rào gai, nằm im trong ánh đèn pha, nín thở trước những kíp mìn cực chạy. Đã từng lặn ngụp trong nước mặn, chịu khát và đói, mắt trừng trừng về phía những bồn xăng, bụng cồn cào nỗi đau na-pan, nỗi đau cháy rát của những em bé, những bà mẹ bị đốt cháy lần áo, da thịt đang réo sôi. Lửa cực nóng luyện anh và đồng đội thành thép nguội. Anh nằm đó, với quyết tâm thiên niên kỷ, miễn là thời gian dành cho anh một giây phút nào đó vắng bóng tuần tra, để anh cắt rào gai mở hướng tấn công. Giây phút đắt giá nhất trong cuộc đời đã đến. Anh mở được đột phá khẩu, lao vào con đường đã thuộc lòng trên sa bàn và đến với chiến thắng. Ngọn lửa phụt lên, đó là tất cả trái tim anh, những gì còn lại đều vô nghĩa, kể cả thân xác anh và đồng đội. Anh phải mất nhiều ngày trầm mình trong nước mặn để rút về hậu cứ. Đồng đội anh có quá nửa chết vì đạn nhọn, vì sức ép, vì cá sấu. Nhưng không ai nghĩ tới điều nhỏ mọn ấy, họ hy sinh cho cái lớn hơn.
Nói về những kỷ niệm, anh coi tôi như là Đông Xuân, với khát vọng qua tôi truyền đạt tới Đông Xuân, tới thế hệ của con. Nhưng Đông Xuân lớn lên trong hòa bình, chiến tranh đối với con là xa lạ. Con vẫn cứ thờ ơ trước trăn trở của cha. Đối với con, đâu có giặc là ta cứ đi hay mà ta cứ đi chỉ là lời hát không cần rõ nghĩa. Anh nhăn nhó âu lo và vì như thế. Đó là nỗi ưu tư của anh, nỗi ưu tư thường trực: Anh chỉ biết đối thoại với con, anh vui mừng trước những ý ban sơ của con nhưng lắm lúc anh sốt ruột trước sự ngây thơ đáng yêu của con. Tôi đã phê bình gay gắt sự nhầm lẫn về tâm lý lứa tuổi của anh, đôi khi tôi cho là anh bị bệnh tâm thần phân liệt. Anh nhận ra ngay điều tôi nói bằng lý trí sáng suốt. Nhưng trái tim anh, tình cảm anh thì chống lại. Bao giờ anh cũng muốn thế hệ sau anh phải kết thừa truyền thống đấu tranh cách mạng như anh, phải dứt khoát quyết liệt với kẻ thù. Anh không chịu được sữ ớm ỡ. Và thật trứ trêu, anh vẫn không phân tích vì sao Đông Xuân, tuy rất yêu cha, yêu bộ đội, nhưng cũng sẵn sàng nhầm lẫn, sẵn sàng đặt ra trước anh những phản đề. Nhiều lần tôi gợi ý với anh, thôi đừng làm tình làm tội con nữa. Không nên bắt con chia sẻ tâm trạng se thắt của người lớn. Anh dễ dàng đồng tình nhưng sự thư thái trong tâm hồn anh không kéo dài được lâu. Khi nghe tin bọn Trung Quốc phát động di tản, chúng nổ súng chiếm hòn Thổ Chu, chúng đánh qua Biên Giới Việt Nam, là anh không chịu nổi. Anh đòi trở về với binh chủng đặc công. Anh muốn đánh bọn Pôn Pốt ngay tại giường ngủ của Hoàng Hậu Cốt-xa-mắc ở Hoàng cung cham-ca-Non. Mọi nguyện vọng của anh đều chưa được thỏa mãn. Người ta trân trọng tấm lòng chiến sĩ của anh nhưng dẫu sao cũng thấy nó hơi quá đáng, có phần lên gân. Nhất là trong trường hợp anh đang mang trong bắp chân một viên đạn, cần phải mổ, ít ra cũng phải mất vài tháng trở lại bệnh viện và nhiều tháng luyện tập. Khi vết mổ đã lành, tuy cái chân vẫn còn khập khiễng, anh vẫn khẳng định mình có thể hành quân xa được. Vẫn với mơ ước đâu có giặc là ta cứ đi. Thế mà Đông Xuân vô tư lự đã hát rằng đâu có giặc "mà" ta cứ đi. Anh bắt bẻ con gái một cách vô lý làm cho nó ngơ ngác tưởng như mình có lỗi. Mắt Đông Xuân tròn xoe nhìn ba, đầu lắc lia, không hiểu vì sao ba giận.
Hai cha con thôi hát, chuyển sang bữa ăn dã chiến, cơm vắt với muối mè. So với bữa cơm dã chiến trước đây, có thêm món chả lụa và tôm chiên bột. Đang ăn thì trời đổ mưa, phải chuyển vô chòi giữa vườn măng. Anh đưa con ngồi trên ghế đẩu. Đông Xuân ngồi một cách lúng túng. Nó kêu lên sợ sệt.
- Ba ơi ba, cái ghế này kỳ cục quá, con khống biết dựa vào đâu, con sợ té lắm
Đông Xuân ngửa lưng ra sau tìm một chỗ dựa, suýt chút nữa thì chiếc ghế ngã, nếu anh không kẹp đưa cánh tay ra đỡ lưng nó. Câu nói của con làm anh nhăn nhó, mày cau, môi mím lại. Rán lắm anh mới cười, nụ cười bị lệch một bên. Anh bế con giọng đầy mỉa mai:
- Đồng chí bộ đội của ba. Con phải tập ngồi ghế không có chỗ dựa cho quen. Ghế của bộ đội không có chỗ dựa con à. Lưng bộ đội đâu cần ghế dựa hả con.
Đông Xuân ngơ ngác gật đầu. Lần này nó không dám cãi ba, chỉ cố gắng tỏ ra hiểu biết, miệng chúm chím cười. Nụ cười trẻ thơ sáng trưng làm anh tươi tỉnh ngay. Anh ôm ghì lấy con rồi cù lét nó, tung nó lên làm nó thích chí cười khanh khách:
- ái ui! Ba thả con xuống đi - Đông Xuân kêu lên rồi chạy sang tôi. Nó nói nhỏ vào tai tôi
- Mẹ ơi mẹ, cho con đi...
Nó nói thật nhỏ tiếng cuối, mắt dáo dác tìm chỗ
- Con tìm gì đó Đông Xuân
- Ba ơi, "toa lét" ở đâu?
- Con tiểu phải không, đi với mẹ
Tôi dắt con ra vườn, chỉ một chỗ đất trống còn ướt nước mưa. Đông Xuân ngồi xuống rồi lại đứng lên. Nó nói như van lơn:
- Mẹ ơi, không có "bô" làm sao?
Nghe con nói, anh bật cười, cười đến chảy nước mắt. Tôi cũng buồn cười về một nét mới xuất hiện trong đời sống tâm lý con gái. Nó lớn lên trong tiện nghi, không quen đời sống dã chiến, chưa hề tiểu tiện ngoài toa lét. Cả anh và tôi đều bị bất ngờ về điều này. Giá như ai đó trong lứa chúng tôi phạm lỗi sính tiện nghi thì đáng trách vô cùng. Nhưng con cái chúng ta thì đáng yt bao. Chúng cần có cuộc sống đầy đủ tiện nghi hơn thế hệ trước. Tôi ôm con, hôn lên tóc nó. Nhưng anh thì khác. Tuy không giận con, nhưng anh cười chế giễu con gái hoàn toàn không đúng lúc:
- Đồng chí bộ đội của ba. Muốn làm bộ đội phải biết....chỉ cần có gốc cây là được
- Nhưng con sợ rắn lắm
- Bộ đội không sợ rắn, chỉ có rắn mới sợ bộ đội thôi. Đồng ý với ba chưa nào?
Đông Xuân sẽ gật đầu
Đêm đó, khi Đông Xuân đã ngủ, anh nói chuyện về nó rất lâu. Đầu tiên, anh trách tôi không có ý thức theo dõi tâm tính của con, để con phát triển theo tự nhiện. Đến một lúc nào đó con sẽ trở thành con người quên truyền thống. Tôi hoàn toàn đồng ý với anh về mục đích giáo dục con, nhưng nói thẳng rằng phương pháp của anh là vội vàng, gượng ép. Anh ngồi im suy nghĩ thật lâu rồi khuyên tôi cố thu xếp cho con về ngoại trong mùa hè để nó biết đời sống nông thôn, đó là cách tập cho con gần với lao động, gần với thiên nhiên, với tập quán. Tắt đèn đã lâu nhưng anh không ngủ. Anh ngồi dậy, vấn thuốc sâu kèn, hút liên miên. Tôi vẫn thao thức theo anh.
- Anh tính như vầy, em đồng ý không?
- Anh tính điều gì?
- Anh sẽ ra mặt trận. Mặt trận biên giới đã mở rồi. ở đó, anh cống hiến được nhiều hơn ở đây. Một mình em nuôi con.
- Chừng nào anh đi?
- Anh muốn đi càng sớm càng hay. Em sẽ cực hơn bây giờ
- Chỉ ngại cái chấn vừa mổ của anh
- Anh đã đi vững bằng đôi chân của mình rồi. Chỉ lo em sẽ cực hơn. Vắng anh, em sẽ phải đảm đương nhiều việc hơn. Anh tính cho con học đàn piano. Gặp chỗ nào có đàn nó cũng sà vô. Nó thèm đàn hơn cả quà bánh.
- Nhưng học đàn thì phải có đàn, làm sao mua nổi?
- Anh tính rồi, mình bán chiếc xe honda và ít đồ đạc, gom góp lại đủ mua. Bạn anh, nhạc sĩ, nó nói đàn đang rẻ. Con nó ham đàn hát, tâm hồn nó phong phú thêm. Để nó khô khan như thế hệ chúng mình tội nghiệp. Chỉ sợ em phải đạp xe, gầy mòn thêm.
Không sợ. Vì con, em có thể chịu cực hơn nữa. Gầy yếu cơ thể tạm thời không đáng sợ so với gầy yếu tâm hồn - Tôi định nói thật nhiều để anh yên tâm đi mặt trận nhưng cổ tôi nghèn nghẹn. Tôi không dám nói tiếp vì sợ bật ra tiếng khóc. Phải thú thật rằng hơn bất cứ lúc nào tôi sợ vắng anh và cũng sợ anh không có tôi.
Anh đi ít lâu sau, việc mua đàn mới ổn thỏa, thành ra anh vẫn chưa thấy mặt cây đàn, vẫn chưa nghe tiếng đàn non nớt đầu tiên của con. Tôi phải viết những bức thư thật dài ra biên giới nói về việc dạy con theo ý anh, về năng khiếu của con. Đặc biệt là sự đam mê. Mười ngón tay xinh xắn mải miết tập đàn cả trong giấc ngủ. Anh viết thư về mừng rối rít. Anh không sao hiểu được Đông Xuân có năng khiếu âm nhạc. Anh cười trong thư: anh thì chăn trâu, kéo cày, còn em thì cạo mủ cao su vậy mà con có "gien" đàn piano, thật lạ. Có lẽ tại đời mình sống lạc quan, cứ hát hò luôn miệng cho nên con sớm có tâm hồn nghệ sĩ. Anh nhờ tôi nói với Cô giáo của Đông Xuân dạy cháu những bài hát về bộ đội. Tôi báo cho anh biết cô giáo chưa thể dạy đàn ca khúc theo như ý anh vì con đang luyện "mê tốt". Anh nổi nóng vì các từ "mê tốt" và "ê-tuýt", viết thư phản đối cô giáo. Cô giáo giận, tôi phải năn nỉ. Còn anh thì ngược lại, anh rất mừng khi biết Đồng Xuân đàn bài dân ca Lit-va rất đạt, vì nhớ ba. Tôi muốn kể cho anh thật tỉ mỉ những biến động trong tâm hồn con gái, nhất là trong lần đàn cho người bạn nhạc sĩ nghe bài dân ca buồn, nhưng lại ngại làm cho anh bận tâm trong khi đang ở chiến trường, thành ra chưa viết được
- Mẹ ơi mẹ, bộ biên giới ở xa lắm sao mẹ, mồ hôi ướt lưng mẹ hết rồi đây nè
- Biên giới phía xa kia kìa, con, chỗ mặt trời đang lặng
Tôi nói xong hơi thở dồn hào hển. Đông Xuân xoa lưng cho tôi. Những ngón tay thon dài quá sớm do tập đàn chăm chỉ, vuốt nhẹ theo sống lưng tôi. Mười ngón tay rối rít gõ những hợp âm, những nốt yêu thương thôi thúc tôi đạp xe nhanh hơn
Trời chiều, nắng nhạt, gió nhẹ hây hây, bình yên, dễ chịu hơn. Tôi rẽ vào con đường màu tím rực của đất đỏ nhuộm nắng chiều tà. Ngoài xa lộ, tiếng xe cộ xa dần, không gian yên tĩnh và trong lành, có thể ngửi được mùi lá dừa từ những đám ruộng giống mới đang trỗ.
Phía trước tôi, trên ngọn đồi đất sừng sững một ngôi tháp màu trắng, đỉnh tháp rực rỡ một ngôi sao vàng. Ngọn tháp nhắc tôi nhớ mình đang đến đâu, làm tôi khựng lại, muốn quay về. Nhưng tôi biết rằng sau lưng tôi là lời hứa của tôi, là niềm tin của con. Tôi phải gò lưng đạp xe lên dốc
- Đông Xuân à.
- Dạ
- Ba dạy con phải dũng cảm...
- Con đâu còn sợ ông kẹ nữa đâu, con dám ngủ riêng, con dám đi "toa-lét" một mình
Đông Xuân nói một hơi dài
- Nhưng con phải dũng cảm hơn nữa
- Dũng cảm hơn nữa là sao hở mẹ?
Câu hỏi đột ngột của Đông Xuân làm cổ tôi nghẹn lại. Tôi quên rằng tôi đã đòi hỏi quá mức, bắt con phải dũng cảm, trong khi chính tôi cũng chưa làm được điều đó. Nước mắt tôi trào ra, nhểu vào bàn tay con đang ôm siết bụng tôi.
- Mệt quá, mẹ khóc hở mẹ. Bộ đội phải dũng cảm. Mẹ là vợ của bộ đội mà
- Mẹ đâu có khóc. Mồ hôi rơi trên tay con chớ đâu phải là nước mắt
Nước mắt tôi lại tuôn ra, lại rơi xuống tay con
- ý mẹ khóc thiệt rồi, nước mắt nóng hổi tay con nè
- Không sao, mẹ sẽ nín ngay bây giờ. Con nhớ ba, con có khóc không?
- Không. Con đâu có khóc hồi nào đâu. Nhớ ba con đàn hay hơn rồi mà.
Đã đến nơi, tôi và Đông Xuân xuống xe. Nơi đây vắng lặng, không một bóng người. Tôi đã từng đến đây vào bất cứ giờ nào tôi có thể đến, nhưng chỉ đến một mình. Hôm nay là lần đầu tiên có mặt Đông Xuân. Tôi dắt con qua dãy mộ chí thẳng tắp như những hàng quân. Phía bên kia những dãy mộ có một ngôi nhà, đó là ngôi nhà khu ngoại vi nghĩa trang. Nhận ra ngôi nhà trước mặt, Đông Xuân mừng rỡ nhảy chân sáo, hay tay mở rộng, chiếc áo đầm xòe ra. Bỏ mặt tôi phía sau, Đông Xuân chạy bay tới trước. Con tôi reo lên:
- Mẹ ơi mẹ, doanh trại của ba kia rồi
Nhưng hàng rào cuối dãy mộ chí đã ngăn bước chân của Đông Xuân. Con đứng sửng lại, quay nhìn tôi ngơ ngác như một chú nai lạc đường, còn tôi, tôi đã dừng lại tự lúc nào tôi cũng không biết. Trước mặt tôi là tấm mộ chí của anh mà tôi quen thuộc từng dòng chữ, từng vết nứt. Tôi kịp nhớ ra rằng, tôi chưa bao giờ khóc tại đây với anh lần nào, tôi chỉ thấp hương và trồng một cây bông trang đỏ, tôi ngồi với anh hàng giờ để nghĩ về con mà không hề dám đưa con đến. Tất cả mọi người thân đều khuyên tôi như vậy. Tôi đã nghe lời khuyên và sa lầy mãi trong đau khổ một mình, không có con chia sẻ. Giờ đây, tôi mới cảm thấy nỗi ân hận vò xé. Tôi trách mình thiếu can đảm, không tin vào trẻ thơ. Giá như tôi cứ nói hết với Đông Xuân về cái chết của ba nó từ ngày đầu, đến hôm nay, vết thương trong tôi và trong con chắc đã qua giai đoạn đau nhức. Nhưng tôi không dám. Chẳng qua là vì nỗi đau đến đột ngột quá ngay khi tôi chờ đợi ngày gặp lại anh. Một bức điện khẩu gọi tôi đến bộ tư lệny mặt trận biên giới. Tôi gửi Đông Xuân cho baạn, đi theo xe bộ đội ra tuyền tuyến và gặp anh còn nằm trên cáng ở một trạm quân y tiền phương. Anh bị nổ mìn trên đường về, hai chân bị mất đứt, lõm sâu dưới lần chăn đắp. Nhìn anh, tôi rụng rời. Tôi chỉ còn biết hy vọng vào đôi mắt anh chưa nhắm lại. Tôi sà đến, dán mắt tôi vào đó, chút sinh lực còn lại rực lên long lanh. Nhưng đồng tử đã bất động, anh chỉ chăm chú nhìn vào một nơi vĩnh cửu nào đó trong bóng đêm. Những lời cuối cùng tôi chờ đợi, anh không hề nói, những lời nhỏ nhoi về tôi, về con, về những tiếng đàn non nớt của con. Anh thanh thản ra đi như không có ai để lại, kể cả con và tôi.
Tôi ôm ghì thân xác còn quá nửa của anh, cố gắng tuyệt vọng giành lại phân nửa đời tôi. Nhưng anh đã là người thiên cổ rồi. Người ta mang anh đi. Một chiếc xe nào đó chuyển bánh. Bao lời khuyên đồng đội anh vang bên tai tôi. Nhưng tôi có nghe thấy gì đâu, tôi chỉ còn nhớ mang máng rằng anh đã định cư ở đâu đó, anh đã nhận cho mình địa chỉ cuối cùng, địa chỉ của hương khói và thời gian. Sau đó, tôi trở về với con bằng bộ mặt người mẹ trước lúc ra đi. Con thơ ngây không linh cảm được tin dữ. Con nghe tôi, tin là ba đang tiến công về phía Tây, phía mặt trời lặn. Những chiến công từ phía mặt trời lặn được nói công khai trên đài phát thanh và trên màn ảnh truyền hình củng cố thêm niềm tin của con, rằng ba con đang tiến về nơi nào đó, ở hướng Tây. Đông Xuân đàn bản dân ca Lit-va trong khi đang hướng về mặt trận. Đúng như thế, bọn Pôn Pốt đang bị tiến công, bị truy lùng đến tận hang ổ. Chỉ trừ một sự kiện mà con chưa biết là trong số người ngã xuống cho cuộc tiến công đó có một người thân yêu nhất, là anh. Mọi người trong hòa bình, góp phần gián tiếp của mình vào chiến trường biên giới, trong đó có những người thân của tôi, đều xúc động trước sự thật tàn nhẫn này. Chính họ đã khuyên tôi hãy im lặng với con. Tôi nghe theo họ, tôi im lặng tuyệt đối, chống lại sự nổi dậy của trái tim thương nhớ. Cho đến hôm nay...
Tôi cố gắng không để cơn xúc động làm run đôi vai, làm bật ra tiếng nấc. Nhưng không được, nước mắt tôi đã thú nhận với con tất cả. Từ phia hàng rào cuối cùng của nghĩa trang, Đông Xuân chạy đến, con đã thấy đang quỳ khóc trước mộ chí. Nó tròn mắt hột nhãn nhìn tôi, ánh mắt ngây dại nghi ngờ. Giọng nói cộc lốc:
- Mẹ ngồi đây làm gì, dắt con qua doanh trại của ba đi. Tối rồi - Đông Xuân chỉ tay về hướng những ngôi nhà ở ngoại vi nghĩa trang.
Tôi ôm con vào lòng, nói trong tiếng nấc
- Ba con ở đây. Con đọc tấm mộ bia này đi
Đông Xuân đẩy tôi ra, con kề mắt sát vào tấm bia và lẩm bẩm đọc. Con đọc thật lâu. Ban đầu thì đọc lướt qua, sau đó lại lẩm nhẩm đánh vần. Trờ-ân-trân-huyền-trần. Vờ-ăn-văn. A-nờ-an.
Đông Xuân đọc xong, đứng bật dậy như chiếc lò xo, khoa tay, lắc đầu nguầy nguậy. Không nhìn vào tôi. Con gào tôi lên:
- Không phải ba con. Người này là Trần Văn An, ba con là Dũng Chiến
Đông Xuân làm tôi bàng hoàng. Đến giờ này tôi mới nhớ ra, cháu chưa biết tên thật của ba. Nhưng chẳng lẽ lại nói với con điều này ngay bây giờ. Trong lúc này tôi chỉ muốn Đông Xuân tin tôi, rằng con không còn ba nữa.
- Con nghe mẹ đi con. Ba con đang nằm đây. Nấm mồ này...
- Không phải đâu, con nói ba con ở biên giới mà. Ba viết thư về cho mẹ rồi
- Nhưng ba con bị...thương, và...
- Mẹ nói dối. Ba con bị thương, lành rồi, bác sĩ mổ lấy đạn ra rồi. Ba con lành rồi mới đi mà
Đông Xuân vẫn xua tay, dậm chân, vuột ra ngoài tầm tay tôi. Mặt con xanh tái, mắt tròn xoe, lắc đầu dứt khoát phản đối tôi. Tôi hoảng hốt nhào tới, ôm siết con vào lòng
- Đông Xuân ơi, hãy tin mẹ. Ba con bị mìn của bọn Pôn Pốt. Mẹ khổ biết chừng nào. Từ lâu mẹ giấy con
Nghe tôi nói đến đây, đột nhiên Đông Xuân ôm ghì lấy cổ tôi, nó khóc òa lên. Nước mắt nó chảy lên mặt, lên cổ tôi nóng xót tận trong lòng tôi. Tôi muốn nói lời nào đó để an ủi con, thậm chí, tôi vẫn còn nuôi ý định dối con lần thứ hai. Nhưng bỗng nhiên Đông Xuân vùng dậy, gào lên tuyệt vọng:
- Mẹ ơi, mẹ ngốc lắm. Ba đâu có chết hồi nào đâu. Ba có viết thư cho con đâu
- Trời ơi, con....
- Mẹ hư lắm. Ba con không có ở đây. Hãy đưa con về nhà đi mẹ ơi. Đây đâu phải là nhà của ba con. Mẹ dừng nói dối, con không tin.
Lần đầu tiên, Đông Xuân nói thẳng ra là con không tin mẹ. Nét mặt con gái tôi đanh sắc khác thường. Con không cần nghe lời khuyên của tôi, trái lại chỉ muốn tôi phải nghe. Và tôi đã nghe lời con tự lúc nào tôi cũng không hay biết. Mắt tôi ráo lệ như chưa từng khóc. Như không hề có mất mát. Tôi đứng lên, nắm lấy tay con. Mẹ con tôi dắt nhau ra khỏi làng mộ chí im lặng
Tôi đạp xe một cách khó nhọc trên xa lộ về đêm. Đông Xuân ôm chặt lấy hông tôi. Tôi chưa biết phải nói gì với con trên đường về, dù chỉ một lời. Hy vọng rồi thời gian cũng không thể xóa được nỗi nhớ ba của con. Mười ngón tay Đông Xuân thẩn thờ tư lự gõ những hợp âm lên áo tôi. Những hợp âm mơ hồ, yếu ớt thẩm vào tận đáy lòng tôi giai điệu của con, giai điệu nhớ ngàn năm.
Bố già đợi tôi ở đầu hẻm. Đúng là nó rồi, con số 324 viết bằng sơn đen trên tấm ván cũ gắn trên cây gòn đầy vết sẹo không biết sao vẫn còn sống được ngay con hẻm chật chội và đầy bụi bặm này. Xin nói ngay, bố già là người mà tôi vừa biết cách đây không lâu. Thoạt tiên, bố chỉ là một ông cụ sáu mươi tuổi, hiền lành, ít nói, hay đến chơi và nhậu tại nhà người bạn láng giềng của tôi. Chỉ sáng nay thôi, tôi mới biết thêm, bố còn là người trong giới giang hồ nữa. Khi tôi kịp đến, bố già lên ngồi sau lưng tôi, nói:
- Nếu người ta hỏi chú là ai, thì chú nói là cháu tôi, quê Mõ Cày. Xóm này dân Bến Tre cố cựu từ thời Tây tới giờ.
Tôi gật đầu và ngoan ngoản cho xe chạy chầm chậm vào hẻm, theo sự chỉ dẫn của bố già. Thật ra, dù có muốn chạy xe nhanh cũng chẳng được. Con hẻm hẹp chỉ vừa đủ cho một người đi bộ. Chiếc xe Honda cánh én trở nên to kềnh không thích hợp ở đây và tôi rất ngại khi nhận thấy những tia nhìn khó chịu thậm chí trong lòng đang ấp ủ chút oán ghét hướng về tôi, một khách không mời và cũng không có cái gì giống nơi đây cả. Bố già ngồi sau như đoán biết tâm trạng tôi, giục:
- Không sau đâu, cứ chạy, có tôi tụi nó không dám làm gì anh đâu
Theo chỉ dẫn của bố, tôi lái xe vững dạ hơn, dấn thân vào con đường ngoằn ngoèn chưa hề có trong trí tưởng tượng của tôi, một nhà báo tuổi năm mươi ít nhiều từng trải. Hai bên hẻm là những xóm chòi, lều ghép bằng đủ thứ giấy bìa cạc tông, tôn cũ rỉ sét và thùng gỗ tạp. Thế mà nó chen chúc nhau tầng tầng lớp lớp trông xa như một bãi rác vỏ đồ hộp khổng lồ.
Hết con hẻm xi măng ngoằn ngoèo là tới con hẻm đất vòng vo và bẩn thỉu. Mùa nắng, mùi hôi từ những đường cống lộ thiên, từ những kinh rạch trở thành bãi sình lưu niên bốc lên nồng nực. Những túp lều san sát, chen lấn nhau hình thù méo mó, xô lệch trên những chiếc cọc tràm và những chiếc sàn gỗ ọp ẹp. Con hẻm đất đã biến thành hẻm gỗ mục, phải dắt xe đi phập phồng như đi trên cỏ trấp Đồng Tháp Mười.
- Tới rồi đó chú
Bố già chỉ cho tôi một mái lều giấy dầu đã cũ nát, lụp xụp phía bên trái hẻm.
Tôi dắt xe theo bố già rẽ vào một túp lều không số, mà nhác trông xung quanh đã phải rờn rợn. Cái xó xỉnh đều chật những thân thể đàn ông trần trụi, để lộ trên da những hình thù xâm mình, những dòng chữ nguệch ngoạc đủ kiểu. Họ đang nằm ngủ, thức, hút chích, đánh bài la liệt trên khắp các khoảng trống tối tăm và nhỏ hẹp quanh nhà. Vài tia mắt dò xét, không mấy thiện cảm phóng về phía tôi.
Dường như cảm nhận điều đó, bố già lên tiếng gọi vào túp lều
- Anh chị Tư đâu, có thằng em tới thăm chơi nè
Một bà lão bước ra từ căn chòi tối om, bị chói nắng nên phải khum bàn tay che mắt nhận dạng khách.
- Tưởng ai, chớ đâu dè thằng Năm, Mày đi biệt ngoài Huế mấy tháng nay không về thăm tao. Anh Tư mày nằm liệt giường rồi đây nè
Tôi nhủ thầm, vậy bố già là em ruột của người này. Nhưng ông ta đâu có ở Huế bao giờ, ông ta chỉ ở Hà Nội song tôi kịp nhớ ra cách hiểu của ông bà già thôn quê Nam Bộ: Xứ nào xa xăm đều là xứ Huế cả. Tôi mới quen bố già gần đây, trong một dịp tình cờ, biết bố là đồng hương, tập kết, xong không về Nam mà "tụt tạt" ở Hà Nội, có tới vài ba bà vợ trong giới nghèo, bà bán chè xanh, thuốc lào, bà cho thuê phòng trọ, nói chung thuộc giới bán giang hồ sống nương tựa vào ga Hàng Cỏ
Đất nước thống nhất, bố già sống bằng nghề đi buôn chuyến có gì buôn nấy từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc, nhờ mấy anh bưu điện áp tải bưu kiện giúp đỡ, bác đi ké hàng một cách an toàn và sống được.
Chui vào lều, chỉ chỗ cho tôi ngồi bệt xuống chiếc thùng gỗ dùng làm ghế, bố già nhìn chị dâu thở dài. Ông đến bên chiếc giường có đắp chiếu sùm sụp. Ông giở chiếu ra cho thấy một ông lão có thân hình đồ sộ như một con gấu bị thương đang nằm im, mắt nhắm ghiền.
- Sao vậy anh Tư?
Ông lão trở mình một cách nặng nhọc nhưng không mở mắt, giọng ngái ngủ
- Có sao đâu mậy. Hết oanh thì phải liệt thôi. Mày sao không ở ngoài Huế luôn đi, về đây làm gì?
- Huế huyết gì đâu. Tôi bị rau muống quấn ở ngoài Hà Nội
- Vậy chớ mầy tính ở ngoải luôn sao. Còn có hai anh em, mà tao không biết đi lúc nào
- Thôi chuyện đó còn dài dài. Bây giờ có chuyện cần nhờ anh. Chú em này nó mất túi xách, giấy tờ nhiều, tiền bạc có nhưng nó không tính, chú nhờ anh chị kiếm giúp, chú đền ơn.
- Chú là gì của mày
- Thằng đệ tử của tui gởi nhờ sư phụ giúp
Bà Tư vọt miệng:
- Thấy bộ vó chú mày tao tính cho chú là công an chìm
- Bậy. Bố già phản đối. Ông thân chủ đây là nhà báo
Bà tư cười ngất:
- Xí, dân giang hồ tụi tao coi nhà báo còn tệ hơn chỉ điểm nữa. Thằng chỉ điểm nó chỉ biết chỉ điểm nào trúng điểm đó. Thằng nhà báo nó chỉ lung tung có khi chết cả lũ.
Bố già nhanh nhẩu đính chánh:
- Nói cho đúng, ông này là nhà văn, cái túi của ổng đựng mấy quyển sách chưa in. Cái này mới quý hơn cả giấy tớ nhưng không bán được. Ông sợ người ta bỏ thùng rác
Bà Tư nhìn tôi từ đầu tới chân, chưa nói gì thì anh con trai về. Nhờ bố già mách trước, tôi nhìn kỹ hai bàn tay hộ pháp chai sần của anh ta, đúng là nó mất một ngón trỏ ở bàn tay phải và hai ngón áp út của bàn tay trái, nên có biệt danh là Hai Bảy ngón. Hai Bảy ngón vốn là thanh niên hiền lành tự chặt ngón tay trỏ để chjống bắt lính thời chế độ Thiệu và nhờ giỏi võ nghệ, anh vừa tốt nghiệp khuân vác của ông già vừa làm bảo kê bến bãi. Hai ngón còn lại, anh bị mất do mã tấu của một băng nhóm xã hội đen "kỷ niệm" trước khi anh nghỉ chơi với bọn chúng. Giờ đây, Hai Bảy ngón đang là trùm của một trong những "cánh quân" xách giỏ chuyên nghiệp. Trông anh không dữ tợn, không ác, lại còn hiền nữa. Nghe ông bố già trình bày vắn tắt sự việc, Hai Bảy ngón nói liền:
- Chú Năm chậm quá. Thằng Ba gà mổ làm vụ này trúng lớn nhưng di tản liền sáng nay rồi, vì công an rượt nà quá. Nó xáp chung băng với con Mẹt Nha Trang không thuộc băng của con. Má sao không mời khách uống nước gì hết vậy?
Bà mẹ lắc đầu:
- Còn một chai, tía mày ực rồi
Bố già liếc nhìn tôi. Tôi hơi run vì đang bị "viêm màng túi" nặng, bao nhiêu tiền bạc đều trong túi xách bị chôm cả. Sáng hôm qua, tôi đi đóng trước bạ nhà, có 5 triệu đồng gom góp cho cả vào túi xách cùng với hộ khẩu, chứng minh nhân dân, cà vẹt xe, và một số đồ nghề nhà báo luôn có bên mình... Bọn cướp là hai vợ chồng đi trên xe đạp, chồng chở vợ, vợ lại còn bồng con nữa. Tôi dừng xe định mua một quyển sách, để con ngồi trông chừng xe, nhưng thằng bé ham truyện tranh, sà vào một sạp bán báo vỉa hè. Khi quay lưng đi, tôi còn thấy "hai vợ chồng" ấy, còn thương xót họ. Thật tội nghiệp người đàn ông phải chở vợ con đi trên một chiếc xe đạp, chắc là họ đi khám bịnh cho con. Cháu bé xanh xao quá. Còn người vợ thì gầy còm, phờ phạc. Thế nhưng, tôi vừa quay lưng, thì ngay lập tức, cái túi xách máng trên xe honda biến mất. Đến lúc đó tôi mới hiểu vì sao, khi tôi rời xe, mọi người trên hè phố nhìn tôi bằng con mắt ái ngại. Chính họ la lên "cướp cướp" thay tôi. Nhưng họ chỉ dám la sau lưng "hai vợ chồng" đó. Tôi còn nhìn thấy cái lưng người đàn bà bồng con, động tác nhét túi xách của tôi vào giỏ đệm của nó và còn nhận ra cái dáng lom khom gò lưng đạp xe khuất vào con đường ngược chiều. Mọi cố gắng lúc này là la "cướp" và rượt theo. Nhưng tôi không thể làm cả hai việc đó vì sợ phạm luật giao thông, không thể đi ngược chiều và nhất là không thể bỏ con để chạy theo cướp. Thế là đành phải chấp nhận bị cháy túi. Hoảng quá, tôi rao trên TV và báo công an quận 4 và cử ngay trinh sát xuống hẻm 324 chiều hôm sau. Số là, khi tôi bị giật túi xách, thấy tôi bận bịu với thằng con trai năm tuổi, không thể bỏ nó giữa đường mà truy bọn cướp được, nên một anh bưu tá lặng lẽ bám sát theo nó từ trung tâm quận 1 qua cầu Calmette, đến tận đầu hẻm thì bị xóa mất dấu và chỉ còn cách ghi nhớ số hẻm để về báo công an. Anh về đến CA phường Bến Nghé thì gặp tôi vừa xong biên bản với những người công an trực. Họ khá lạnh lùng vì quá quen thuộc với chuyện cướp giật vặt. Họ nói với anh bưu tá và tôi: "Nếu không động ổ thì chúng sẽ trả giấy tờ để kiếm tiền thưởng". Nhưng tôi không thể ngồi yên, tôi đã đến nhà thằng bạn làm công an quận và sau đó là đến với giới giang hồ để nhờ họ giúp đỡ....
Bố già kề tai tôi nói nhỏ:
- Chú chi vài thùng bia uống chơi rồi nói chuyện sau
Tôi sờ vào cái bóp lép xẹp trong túi, nhớ mang máng rằng tôi có sáu chục ngàn phòng thân do vợ tôi nhét vào túi trước tôi đi. Một két bia cũng phải mất đến trăm ngàn. Tôi nghĩ ngay tới chiếc đồng hồ đang đeo tay, tính bỏ cũng được vài trăm, liền gật đầu. Bố già phấn khởi cao giọng:
- Nè thằng Hai, mày ra xóm lấy vài két bia về lai rai nói chuyện chơi mậy
- Mấy két hả chú Năm?
- Vậy thì cho năm chục.
Tôi thở phào, móc bóp đưa Hai Bảy ngón sáu chục ngàn mà không hiểu được có loại giá bèo như vậy. Bia lậu chăng
Không. Tôi đã lầm Khi Hai Bảy ngón vác về, thì đó là thứ bia bình dân nhất, bia Chương Dương. Giới bình dân thích thứ bia này vì nó có pha cồn, uống mau phê, mau đã. Hóa ra, chỉ có sáu chục ngàn mua được hai két lại còn có cả miếng khô cá đuối và mấy trái cóc xanh để làm mồi.
Bà Tư nhanh nhẹn thổi lửa nướng khô, dầm nước mắm me. Bà nướng khô rất thiện nghệ, lấy búa dần ầm ầm, con khô tơi ra mềm nhũn, dậy lên cái mùi thơm khét mũi, cái mùi đặc trưng của tiệc nhậu bình dân.
Bia và mồi dọn lên thật nhanh. Trước khi chạm cốc, bố già không quên mang bia đến cho ông anh đang nằm liệt. Bố đỡ ông dậy, ông nốc một hơi cạn vại bia sành dung tích chừng nửa lít. Khà một cái thật sảng khoái rồi ngả lưng, đầu kê lên thành giường, miệng nhai khô cá đuối một cách ngon lành
- Chà bia như vầy mới là bia. Tao hồi nhỏ uống một lúc liền hai két. Thằng Tây nó cá, tao uống thêm một két nữa, ăn luôn ba chục trứng vịt lộn rồi còn vác hai chục bao chỉ xanh gạo từ xà lan lên chành ở Bến Đông. Bữa đó tao nhận tiền thưởng bự, một tấm giấy "oanh" (giấy 20 đồng, vingt)
Bà Tư cũng cạn một vạt bia nhỏ, vui miệng góp chuyện:
- Hồi đó, tui từ Bến Tre trốn thuế thân, tản cư lên bán xôi ở bến Bình Đông, gặp ổng, tôi chịu liền. ỏng mần việc bằng hai con trâu nhưng ăn bằng bốn con. Ăn rồi mần, mần rồi ngủ, không cần mùng, chỉ cần chiếc chiếu trải đâu cũng được. Ông thương tôi vì bao nhiêu xôi ế tôi bán rẻ hết cho ông. Thôi bây giờ mình nói chuyện tử tế cái vụ giỏ xách của chú công an... ủa, của chú nhà báo này đi.
Bà Tư tỏ ra là một lão bà năng nổ và vui tính. Bà nói tiếp luôn:
- Nè, ông ơi, (bà lão hay kéo ông lão của mình vào chuyện), hai đứa đi ăn hàng ngang qua đây hồi sáng hôm qua, thằng đóng vai chồng là con trai của ệ tử ruột của ông đó. Cha nó bị bịnh đậu mùa, mặt đầy theo như thùng đinh. Thằng con lớn lên cũng bị luôn nên kêu là Ba Gà mổ. Nó ở ngoài Nha Trang theo cha vô đây từ hồi nhỏ. Cha nó cũng phu khuân vác nhưng nó thì yếu như con bún thiêu, chuyên chôm chỉa. Sáng nay nó đóng vai chồng, con câm đóng vai chợ, còn thằng con mướn một buổi sáng năm ngàn đồng.
Bà quay sang tôi, phân trần:
- Như vậy đó chú, chiếc xe đạp cũng mư Home
â 1996-1998 FPT Corporation, All rights reserved. By enews.ttvn@sg.fpt.vn Mar 15, 2000
--------------------------------------------------------------------------------
(16) Chim phóng sinh - Nguyễn HồChim phóng sinh
Nguyễn Hồ
Hẻm sâu
Bố già đợi tôi ở đầu hẻm. Đúng là nó rồi, con số 324 viết bằng sơn đen trên tấm ván cũ gắn trên cây gòn đầy vết sẹo không biết sao vẫn còn sống được ngay con hẻm chật chội và đầy bụi bặm này. Xin nói ngay, bố già là người mà tôi vừa biết cách đây không lâu. Thoạt tiên, bố chỉ là một ông cụ sáu mươi tuổi, hiền lành, ít nói, hay đến chơi và nhậu tại nhà người bạn láng giềng của tôi. Chỉ sáng nay thôi, tôi mới biết thêm, bố còn là người trong giới giang hồ nữa. Khi tôi kịp đến, bố già lên ngồi sau lưng tôi, nói:
- Nếu người ta hỏi chú là ai, thì chú nói là cháu tôi, quê Mõ Cày. Xóm này dân Bến Tre cố cựu từ thời Tây tới giờ.
Tôi gật đầu và ngoan ngoản cho xe chạy chầm chậm vào hẻm, theo sự chỉ dẫn của bố già. Thật ra, dù có muốn chạy xe nhanh cũng chẳng được. Con hẻm hẹp chỉ vừa đủ cho một người đi bộ. Chiếc xe Honda cánh én trở nên to kềnh không thích hợp ở đây và tôi rất ngại khi nhận thấy những tia nhìn khó chịu thậm chí trong lòng đang ấp ủ chút oán ghét hướng về tôi, một khách không mời và cũng không có cái gì giống nơi đây cả. Bố già ngồi sau như đoán biết tâm trạng tôi, giục:
- Không sau đâu, cứ chạy, có tôi tụi nó không dám làm gì anh đâu
Theo chỉ dẫn của bố, tôi lái xe vững dạ hơn, dấn thân vào con đường ngoằn ngoèn chưa hề có trong trí tưởng tượng của tôi, một nhà báo tuổi năm mươi ít nhiều từng trải. Hai bên hẻm là những xóm chòi, lều ghép bằng đủ thứ giấy bìa cạc tông, tôn cũ rỉ sét và thùng gỗ tạp. Thế mà nó chen chúc nhau tầng tầng lớp lớp trông xa như một bãi rác vỏ đồ hộp khổng lồ.
Hết con hẻm xi măng ngoằn ngoèo là tới con hẻm đất vòng vo và bẩn thỉu. Mùa nắng, mùi hôi từ những đường cống lộ thiên, từ những kinh rạch trở thành bãi sình lưu niên bốc lên nồng nực. Những túp lều san sát, chen lấn nhau hình thù méo mó, xô lệch trên những chiếc cọc tràm và những chiếc sàn gỗ ọp ẹp. Con hẻm đất đã biến thành hẻm gỗ mục, phải dắt xe đi phập phồng như đi trên cỏ trấp Đồng Tháp Mười.
- Tới rồi đó chú
Bố già chỉ cho tôi một mái lều giấy dầu đã cũ nát, lụp xụp phía bên trái hẻm.
Tôi dắt xe theo bố già rẽ vào một túp lều không số, mà nhác trông xung quanh đã phải rờn rợn. Cái xó xỉnh đều chật những thân thể đàn ông trần trụi, để lộ trên da những hình thù xâm mình, những dòng chữ nguệch ngoạc đủ kiểu. Họ đang nằm ngủ, thức, hút chích, đánh bài la liệt trên khắp các khoảng trống tối tăm và nhỏ hẹp quanh nhà. Vài tia mắt dò xét, không mấy thiện cảm phóng về phía tôi.
Dường như cảm nhận điều đó, bố già lên tiếng gọi vào túp lều
- Anh chị Tư đâu, có thằng em tới thăm chơi nè
Một bà lão bước ra từ căn chòi tối om, bị chói nắng nên phải khum bàn tay che mắt nhận dạng khách.
- Tưởng ai, chớ đâu dè thằng Năm, Mày đi biệt ngoài Huế mấy tháng nay không về thăm tao. Anh Tư mày nằm liệt giường rồi đây nè
Tôi nhủ thầm, vậy bố già là em ruột của người này. Nhưng ông ta đâu có ở Huế bao giờ, ông ta chỉ ở Hà Nội song tôi kịp nhớ ra cách hiểu của ông bà già thôn quê Nam Bộ: Xứ nào xa xăm đều là xứ Huế cả. Tôi mới quen bố già gần đây, trong một dịp tình cờ, biết bố là đồng hương, tập kết, xong không về Nam mà "tụt tạt" ở Hà Nội, có tới vài ba bà vợ trong giới nghèo, bà bán chè xanh, thuốc lào, bà cho thuê phòng trọ, nói chung thuộc giới bán giang hồ sống nương tựa vào ga Hàng Cỏ
Đất nước thống nhất, bố già sống bằng nghề đi buôn chuyến có gì buôn nấy từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc, nhờ mấy anh bưu điện áp tải bưu kiện giúp đỡ, bác đi ké hàng một cách an toàn và sống được.
Chui vào lều, chỉ chỗ cho tôi ngồi bệt xuống chiếc thùng gỗ dùng làm ghế, bố già nhìn chị dâu thở dài. Ông đến bên chiếc giường có đắp chiếu sùm sụp. Ông giở chiếu ra cho thấy một ông lão có thân hình đồ sộ như một con gấu bị thương đang nằm im, mắt nhắm ghiền.
- Sao vậy anh Tư?
Ông lão trở mình một cách nặng nhọc nhưng không mở mắt, giọng ngái ngủ
- Có sao đâu mậy. Hết oanh thì phải liệt thôi. Mày sao không ở ngoài Huế luôn đi, về đây làm gì?
- Huế huyết gì đâu. Tôi bị rau muống quấn ở ngoài Hà Nội
- Vậy chớ mầy tính ở ngoải luôn sao. Còn có hai anh em, mà tao không biết đi lúc nào
- Thôi chuyện đó còn dài dài. Bây giờ có chuyện cần nhờ anh. Chú em này nó mất túi xách, giấy tờ nhiều, tiền bạc có nhưng nó không tính, chú nhờ anh chị kiếm giúp, chú đền ơn.
- Chú là gì của mày
- Thằng đệ tử của tui gởi nhờ sư phụ giúp
Bà Tư vọt miệng:
- Thấy bộ vó chú mày tao tính cho chú là công an chìm
- Bậy. Bố già phản đối. Ông thân chủ đây là nhà báo
Bà tư cười ngất:
- Xí, dân giang hồ tụi tao coi nhà báo còn tệ hơn chỉ điểm nữa. Thằng chỉ điểm nó chỉ biết chỉ điểm nào trúng điểm đó. Thằng nhà báo nó chỉ lung tung có khi chết cả lũ.
Bố già nhanh nhẩu đính chánh:
- Nói cho đúng, ông này là nhà văn, cái túi của ổng đựng mấy quyển sách chưa in. Cái này mới quý hơn cả giấy tớ nhưng không bán được. Ông sợ người ta bỏ thùng rác
Bà Tư nhìn tôi từ đầu tới chân, chưa nói gì thì anh con trai về. Nhờ bố già mách trước, tôi nhìn kỹ hai bàn tay hộ pháp chai sần của anh ta, đúng là nó mất một ngón trỏ ở bàn tay phải và hai ngón áp út của bàn tay trái, nên có biệt danh là Hai Bảy ngón. Hai Bảy ngón vốn là thanh niên hiền lành tự chặt ngón tay trỏ để chjống bắt lính thời chế độ Thiệu và nhờ giỏi võ nghệ, anh vừa tốt nghiệp khuân vác của ông già vừa làm bảo kê bến bãi. Hai ngón còn lại, anh bị mất do mã tấu của một băng nhóm xã hội đen "kỷ niệm" trước khi anh nghỉ chơi với bọn chúng. Giờ đây, Hai Bảy ngón đang là trùm của một trong những "cánh quân" xách giỏ chuyên nghiệp. Trông anh không dữ tợn, không ác, lại còn hiền nữa. Nghe ông bố già trình bày vắn tắt sự việc, Hai Bảy ngón nói liền:
- Chú Năm chậm quá. Thằng Ba gà mổ làm vụ này trúng lớn nhưng di tản liền sáng nay rồi, vì công an rượt nà quá. Nó xáp chung băng với con Mẹt Nha Trang không thuộc băng của con. Má sao không mời khách uống nước gì hết vậy?
Bà mẹ lắc đầu:
- Còn một chai, tía mày ực rồi
Bố già liếc nhìn tôi. Tôi hơi run vì đang bị "viêm màng túi" nặng, bao nhiêu tiền bạc đều trong túi xách bị chôm cả. Sáng hôm qua, tôi đi đóng trước bạ nhà, có 5 triệu đồng gom góp cho cả vào túi xách cùng với hộ khẩu, chứng minh nhân dân, cà vẹt xe, và một số đồ nghề nhà báo luôn có bên mình... Bọn cướp là hai vợ chồng đi trên xe đạp, chồng chở vợ, vợ lại còn bồng con nữa. Tôi dừng xe định mua một quyển sách, để con ngồi trông chừng xe, nhưng thằng bé ham truyện tranh, sà vào một sạp bán báo vỉa hè. Khi quay lưng đi, tôi còn thấy "hai vợ chồng" ấy, còn thương xót họ. Thật tội nghiệp người đàn ông phải chở vợ con đi trên một chiếc xe đạp, chắc là họ đi khám bịnh cho con. Cháu bé xanh xao quá. Còn người vợ thì gầy còm, phờ phạc. Thế nhưng, tôi vừa quay lưng, thì ngay lập tức, cái túi xách máng trên xe honda biến mất. Đến lúc đó tôi mới hiểu vì sao, khi tôi rời xe, mọi người trên hè phố nhìn tôi bằng con mắt ái ngại. Chính họ la lên "cướp cướp" thay tôi. Nhưng họ chỉ dám la sau lưng "hai vợ chồng" đó. Tôi còn nhìn thấy cái lưng người đàn bà bồng con, động tác nhét túi xách của tôi vào giỏ đệm của nó và còn nhận ra cái dáng lom khom gò lưng đạp xe khuất vào con đường ngược chiều. Mọi cố gắng lúc này là la "cướp" và rượt theo. Nhưng tôi không thể làm cả hai việc đó vì sợ phạm luật giao thông, không thể đi ngược chiều và nhất là không thể bỏ con để chạy theo cướp. Thế là đành phải chấp nhận bị cháy túi. Hoảng quá, tôi rao trên TV và báo công an quận 4 và cử ngay trinh sát xuống hẻm 324 chiều hôm sau. Số là, khi tôi bị giật túi xách, thấy tôi bận bịu với thằng con trai năm tuổi, không thể bỏ nó giữa đường mà truy bọn cướp được, nên một anh bưu tá lặng lẽ bám sát theo nó từ trung tâm quận 1 qua cầu Calmette, đến tận đầu hẻm thì bị xóa mất dấu và chỉ còn cách ghi nhớ số hẻm để về báo công an. Anh về đến CA phường Bến Nghé thì gặp tôi vừa xong biên bản với những người công an trực. Họ khá lạnh lùng vì quá quen thuộc với chuyện cướp giật vặt. Họ nói với anh bưu tá và tôi: "Nếu không động ổ thì chúng sẽ trả giấy tờ để kiếm tiền thưởng". Nhưng tôi không thể ngồi yên, tôi đã đến nhà thằng bạn làm công an quận và sau đó là đến với giới giang hồ để nhờ họ giúp đỡ....
Bố già kề tai tôi nói nhỏ:
- Chú chi vài thùng bia uống chơi rồi nói chuyện sau
Tôi sờ vào cái bóp lép xẹp trong túi, nhớ mang máng rằng tôi có sáu chục ngàn phòng thân do vợ tôi nhét vào túi trước tôi đi. Một két bia cũng phải mất đến trăm ngàn. Tôi nghĩ ngay tới chiếc đồng hồ đang đeo tay, tính bỏ cũng được vài trăm, liền gật đầu. Bố già phấn khởi cao giọng:
- Nè thằng Hai, mày ra xóm lấy vài két bia về lai rai nói chuyện chơi mậy
- Mấy két hả chú Năm?
- Vậy thì cho năm chục.
Tôi thở phào, móc bóp đưa Hai Bảy ngón sáu chục ngàn mà không hiểu được có loại giá bèo như vậy. Bia lậu chăng
Không. Tôi đã lầm Khi Hai Bảy ngón vác về, thì đó là thứ bia bình dân nhất, bia Chương Dương. Giới bình dân thích thứ bia này vì nó có pha cồn, uống mau phê, mau đã. Hóa ra, chỉ có sáu chục ngàn mua được hai két lại còn có cả miếng khô cá đuối và mấy trái cóc xanh để làm mồi.
Bà Tư nhanh nhẹn thổi lửa nướng khô, dầm nước mắm me. Bà nướng khô rất thiện nghệ, lấy búa dần ầm ầm, con khô tơi ra mềm nhũn, dậy lên cái mùi thơm khét mũi, cái mùi đặc trưng của tiệc nhậu bình dân.
Bia và mồi dọn lên thật nhanh. Trước khi chạm cốc, bố già không quên mang bia đến cho ông anh đang nằm liệt. Bố đỡ ông dậy, ông nốc một hơi cạn vại bia sành dung tích chừng nửa lít. Khà một cái thật sảng khoái rồi ngả lưng, đầu kê lên thành giường, miệng nhai khô cá đuối một cách ngon lành
- Chà bia như vầy mới là bia. Tao hồi nhỏ uống một lúc liền hai két. Thằng Tây nó cá, tao uống thêm một két nữa, ăn luôn ba chục trứng vịt lộn rồi còn vác hai chục bao chỉ xanh gạo từ xà lan lên chành ở Bến Đông. Bữa đó tao nhận tiền thưởng bự, một tấm giấy "oanh" (giấy 20 đồng, vingt)
Bà Tư cũng cạn một vạt bia nhỏ, vui miệng góp chuyện:
- Hồi đó, tui từ Bến Tre trốn thuế thân, tản cư lên bán xôi ở bến Bình Đông, gặp ổng, tôi chịu liền. ỏng mần việc bằng hai con trâu nhưng ăn bằng bốn con. Ăn rồi mần, mần rồi ngủ, không cần mùng, chỉ cần chiếc chiếu trải đâu cũng được. Ông thương tôi vì bao nhiêu xôi ế tôi bán rẻ hết cho ông. Thôi bây giờ mình nói chuyện tử tế cái vụ giỏ xách của chú công an... ủa, của chú nhà báo này đi.
Bà Tư tỏ ra là một lão bà năng nổ và vui tính. Bà nói tiếp luôn:
- Nè, ông ơi, (bà lão hay kéo ông lão của mình vào chuyện), hai đứa đi ăn hàng ngang qua đây hồi sáng hôm qua, thằng đóng vai chồng là con trai của ệ tử ruột của ông đó. Cha nó bị bịnh đậu mùa, mặt đầy theo như thùng đinh. Thằng con lớn lên cũng bị luôn nên kêu là Ba Gà mổ. Nó ở ngoài Nha Trang theo cha vô đây từ hồi nhỏ. Cha nó cũng phu khuân vác nhưng nó thì yếu như con bún thiêu, chuyên chôm chỉa. Sáng nay nó đóng vai chồng, con câm đóng vai chợ, còn thằng con mướn một buổi sáng năm ngàn đồng.
Bà quay sang tôi, phân trần:
- Như vậy đó chú, chiếc xe đạp cũng mướn luôn, đi về tay không thì hai ngàn, có chôm được hàng thì năm mười ngàn, gọi là tiền thưởng. Nói chung, là cặp vợ chồng xách giỏ chú là cặp vợ chồng dỏm chỉ là đóng kịch. Nó còn hóa trang nữa, cho thêm xấu xí, nghèo nàn, làm động lòng mọi người. Nó làm cho chú thương tâm, không đề phòng, kể cả khi giỏ chú bị xách đi rồi, chú cũng không nghĩ là nó lấy. Nhờ vậy nó mới chạy kịp. Nó về tới đây rất sớm, trả con, trả xe xong là hai đứa lội tắt qua hẻm nhỏ dông luôn.
Hai Bảy ngón tiếp lời bà lão:
- Nó thấy có ông bưu tá theo, tưởng là công an chìm nên mới chạy. Chớ không thì dễ gì, ở đây nó làm ăn được. Người trong Sài Gòn, có bị xách giỏ họ coi là chuyện thường, như lỡ bỏ quên không tiếc tiền, coi như là chuyện xui xẻo, cúng cô hồn, hay "của đi thay người". Họ chỉ lo mất giấy tờ thôi, làm lại giấy chứng minh, cà vẹt xe, hộ khẩu tốn nhiều thời gian lắm, nên ai cũng khoái chuộc, tốn thêm ít tiền mà đỡ mất công chuyện làm ăn. Nhờ vậy mà còn kiếm thêm một khoản nữa. Dân Sài Gòn mình tốt bụng lắm, đem giấy tờ lại nhà họ, họ cho tiền nhiều hơn giá thỏa thuận, lại còn cho uống cà phê, còn ngon hơn là họ không hề báo công an. Tôi có lần đi nhận tiền chuộc dùm bọn xách giỏ, tôi khoái người mình lắm
Bố già, nãy giờ làm thinh, giờ cũng buột miệng
- Chú mày nói đúng, bà xã tao dân ga Hàng Cỏ, đố thằng nào xách được của bả cái giỏ rách. Bả đào tận gốc, bốc tận rễ, đòi lại không thiếu một xu.
Ông Tư cựa mình định nói cái gì đó nhưng tự ông chấm dứt nó bằng một tiếng rên khẽ. Còn bà Tư thì đang say chuyện. Bà tiếp lời bố già.
- Ai chẳng giữ của, chẳng xót của đồ mồ hôi sôi nước mắt của mình làm ra. Tôi cũng vậy. Đố thằng xì ke nào dám chôm đồ trong cái nhà này. Nhưng nói đi rồi cũng phải nói lại, người ta nói bần cùng sinh đạo tặc tôi nghĩ cũng đúng, tới bần cùng rồi mà không sinh đạo tăc thì lấy...gì ăn. Như tôi đây, bỏ nghề đạo tặc đã lâu nhưng hễ có cơ hội thì chôm liền. Chẳng hạn như ngồi với chú nãy giờ nói chuyện đời với chú, thấy chú sơ hở là tôi tranh thủ ngay. Chú biết chú đã mất cái gì chưa?
Tôi giật mình sờ vào túi áo quần, bóp và các thứ giấy tờ còn nguyên. Tôi lắc đầu, tỏ ý không tin.
Bà cười hăng hắc, nói ngay:
- Không phải trong mình chú đâu, trong cái túi xách mới của chú để dưới gầm bàn kìa. cái máy ghi âm của chú bị tôi chôm rồi, từ cái lúc chú mới vào nhà, để cái xách xuống gầm gàn. Cái này giá năm bảy trăm, bán được vài chục.
Tôi kiểm tra cái túi xách, đúng là cái máy ghi âm không cánh mà bay
Bà Tư cười khà khà:
- Tôi nói vui vậy thôi chớ bữa nay, chú là nạn nhân, bọn tôi là cứu tinh, lẽ nào tôi làm việc sái quấy đó. Nhưng sở dĩ tôi phải làm là vì tôi nghi chú là công an phản gián muốn điều tra hốt ổ tụi tôi. Tôi sợ bị chú ghi âm câu chuyện nên mới tạm thu giữ phương tiện. Nhờ vậy mới biết chú là người tử tế, không mở máy sẵn, nên bây giờ trả lại chú đây.
Bà móc trong lưng ra cái máy ghi âm nhỏ xíu trả lại cho tôi. Tôi vẫn còn sững sờ như trong mộng. Quả thật, tôi chưa bao giờ biết được có những con người lạ lùng này đã và đang tồn tại trong cuộc sống của chúng ta. Những con người...
Im lặng bao trùm lên túp lều. Ngoài kia, trên con hẻm ngoằn ngoèo thỉnh thoảng còn nghe tiếng ngáp vắn ngáp dài uể oải của một con nghiện nào sửa soạn lên cơn. Tự nhiên, tôi chờ đợi một tiếng rao bình dị của một người bán hàng rong nào đó để giải tỏa phần nào cái im lặng nặng nề. Nhưng tuyệt nhiên không. ở đây không có tiếng rao
- ủa, uống bia đi chú - Bà Tư đánh tan bầu không khí trầm lắng- Sao chú không uống hết vậy. Rồi bà im lặng, thở dài nhè nhẹ. Trông nét mặt bà vô cùng thanh thản. Bà nhìn lướt qua mọi người rồi dừng lại nơi tôi. Bà nói:
- Cũng lạ. Không biết có cái duyên gì mà bữa nay tôi nói chuyện nhiều mà hay nữa. Chú có thấy như vậy không?
Tôi gật đầu. Lần đầu tiên tôi nghe một bà lão tám mươi nói về cái phận nghèo "Bần cùng sinh đạo tặc, không đạo tặc lấy... gì ăn". Tôi sẽ nhớ mãi câu nói dân gian bụi bặm này cùng với chuyện tôi bị bà Tư biểu diễn nghề móc túi ngay tại nhà.
- Cám ơn chị Tư với thằng Bảy. Tôi giới thiệu chú Hai đây vì chú là người tử tế, hễ giúp được thì giúp dùm, còn nước còn tát. Vợ chồng chú cũng không giàu có gì, còn chú thì hay viết báo binh vực người nghèo.
Day qua nhìn ông anh ruột, bố già lắc đầu. Ông nói với bà Tư:
- Chị tư à, tôi đi lần này chắc lâu. Anh Tư có bề gì thì chị cứ ra ga xe lửa mà nhắn ra ga Hàng Cỏ, nhất định tôi sẽ về.
Bố già nói tới đây thì nghẹn ngào, quay mặt đi chỗ khác
Tôi bước đến chỗ ông Tư nằm để từ giã ông, nhưng mắt ông nhắm nghiền, nét mặt hảo hớn xanh xao bất động như đắp bằng sáp. Bà Tư và Hai Bảy ngón ra cửa tiễn tôi. Bà nói:
- Tôi muốn giúp chú lắm nhưng nói chú đừng buồn, động ổ kiểu này thì chắc chắn chín mươi phần là giấy tờ của chú bị thủ tiêu rồi. Bây giờ chỉ còn nhờ vào sự may mắn thôi. Nếu như bọn này không kịp hủy mà vụt bậy bạ đâu đó thế nào cũng có đứa lượm được đem tới nhà kiếm tiền chuộc. Bây giờ trẻ con bụi đời thiếu gì, chúng nó cũng biết cách kiếm ăn lắm...
Bà Tư nói và cầm tay tôi biểu lộ sự tin cậy. Còn Hai Bảy ngón thì bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay thiếu ngón lỏng lẻo không thể nào siết chặt được.