Kongre chẳng biết gì về nghề đi biển. Nếu như trước đây hắn là thuyền trưởng thì là thuyền trưởng ở đây, và ở trên tàu nào chứ? Chỉ có Carcante - trước đây đã từng là thủy thủ, sau đó làm phụ tá cho Kongre trong giới giang hồ và cả trên đảo Đa Quốc gia, có thể hắn biết chuyện trên nhưng lại không bao giờ chịu nói ra.
Chắc chắn sẽ không có gì là quá lời nếu ai đó có nói thẳng vào mặt hai tên này rằng chúng là kẻ cướp. Đời sống tội lỗi ấy đã gắn bó với hai tên này từ những vùng biển ven quần đảo Salomon và Nouvelles - Hébrides, nơi mà những tàu thuyền khi ấy luôn bị cướp bóc. Và chẳng còn nghi ngờ gì chuyện sau khi thoát khỏi sự truy lùng trên biển của cả nước Anh, Pháp và Mỹ trên vùng Thái Bình dương, bọn chúng đã giạt đến ẩn náu ở vùng quần đảo Magellan, rồi sau đó là hòn đảo Đa Quốc gia, nơi ấy từ nghề hải tặc chúng đã trở thành bọn cướp xác tàu.
Năm hay sáu tên trong bọn với Kongre và Carcante cũng đã từng đi biển nhiều lần trong các chuyến đánh cá hay trên các tàu thương mại, nhờ đó chúng cũng rất rành chuyện tàu thuyền cộng thêm đám thổ dân đến từ Fuégie nữa là có thể hợp thành một thủy thủ đoàn, một khi chúng chiếm được chiếc thuyền buồm.
Chiếc thuyền buồm này, căn cứ vào thân tàu và mấy cột buồm thì thuộc loại tàu có trọng tải từ trăm rưỡi đến trăm sáu mươi tấn. Một trận gió thổi từ phía tây lại trong đêm đã đưa tàu giạt vào một bãi cát có đá ngầm, có thể làm vỡ tàu nhưng hình như vỏ tàu không bị hư hại gì thì phải. Nó nằm nghiêng trên mạn trái, mũi tàu quay chếch về phía bờ biển, phần lái của nó thì quay ra biển. Trong tư thế đó, có thể trông thấy boong tàu từ mũi xuống lái. Cột buồm của tàu không hề hấn gì và vẫn còn nguyên cả buồm giữa, buồm mũi và buồm lái.
Đêm trước, khi chiếc thuyền được phát hiện ở ngoài khơi vịnh Saint - Barthélemy, chính là lúc nó đang chống chọi lại luống gió đông bắc khá mạnh thổi nó ra khỏi trong khi nó lại muốn đi qua eo Lemaire. Khi Kongre và đồng bọn mất dấu chiếc tàu trong bóng đêm thì gió đã có chiều hướng yếu đi, không đủ sức đẩy thuyền đi nữa. Bị sóng đưa về phía bãi đá, nó không tài nào ra khỏi được nữa, cho tới đêm, gió lại đột ngột đổi hướng và nếu cứ căn cứ vào sự lộn xộn của các lá buồm, có thể cho là thủy thủ đoàn đã làm hết sức mình để giữ cho thuyền đứng vững, nhưng có thể là đã quá trễ nên cuối cùng tàu bị gió thổi giạt lên bờ như ta đã thấy.
Về số phận của thuyền trưởng và thủy thủ đoàn thì có thể dự đoán là khi thấy chiếc thuyền buồm có nguy cơ va vào bãi đá họ đã lên xuồng cứu hộ mà bơi ra bể; làm như thế, họ có thể bảo toàn mạng sống mặc dầu chiếc tàu có thể bị vỡ. Nhưng rồi họ vẫn không thoát được, bởi vì xuồng của họ đã được tìm thấy nằm trong trơ trên bãi cát, cách chỗ tàu mắc cạn hơn hai hải lý, về phía đông bắc gần cuối vịnh Eranklin.
Lúc này, nước triều đang xuống, nên việc leo lên chiếc thuyền buồm không có gì là khó khăn. Từ mũi Sang - Barthélemy đến chỗ tàu mắc cạn chỉ khoảng nửa hải lý, có thể bước từ tảng đá này sang tả đá kia. Đó chính là điều mà Kongre và Carcante cùng hai tên đồng bọn nữa đã làm ngay sau đó. Những tên còn lại đứng quan sát dưới chân vách đá, để xem còn có ai sống sót sau vụ đắm tàu này.
Khi Kongre và mấy tên cùng đi đến được bãi cát thì chiếc thuyền buồm đã lộ ra hoàn toàn khô ráo. Nhưng vì sóng còn có thể lên cao khoảng hai mét nữa ở đợt nước triều lên sắp tới, cho nên chiếc tàu chỉ tìm lại được mực nước của nó nếu đáy tàu không bị hư hại gì. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Kongre đã đúng khi ước lượng tải trọng của tàu là một trăm sáu chục tấn. Hắn đi vòng quanh chiếc tàu và dừng lại trước chiếc biển có ghi tên con tàu. Hắn lẩm bẩm đọc: Maule, Valparaiso.
Thì ra đây là một con tàu Chilé, bị mắc cạn tại hòn đảo Đa Quốc gia đêm 22 rạng sáng 23 tháng Chạp.
- Tàu này dùng được đấy - Carcante nói.
- Miễn là không có lỗ thủng nào ở vỏ tàu - một tên khác nói thêm.
- Lỗ rò hay hỏng hóc thì cũng sẽ sửa được thôi - Kongre nói một cách mãn nguyện.
Hắn đi quan sát lòng tàu phía quay ra biển. Vỏ tàu có vẻ không bị hư hại gì. Mũi tàu hơi lún sâu vào cát một chút, nhưng có vẻ như còn nguyên, cũng vậy, đuôi tàu và bộ phận bánh lái vẫn còn nguyên vẹn. Còn phần vỏ tàu tì lên cát thì chưa thể kết luận được gì cả, vì chưa trông thấy nó. Sau khi nước triều lên được hai tiếng, Kongre mới có thể hiểu được rõ mọi chuyện. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Ta lên thuyền chứ! - hắn nói.
Độ nghiêng của tàu giúp chúng lên tàu dễ dàng nhưng nó lại không cho phép chúng đi trên boong tàu. Mọi người phải bò trên boong dọc theo thành tàu - Kongre và đồng bọn phải bám vào đây néo buồm mà lần đi.
Sự va chạm của đáy tàu với bãi cát không mạnh lắm cho nên ngoài mấy cây gỗ bị bong ra, còn tất cả đều đâu vào đấy. Chiếc thuyền buồm cấu tạo không được tinh vi lắm, tuy nhiên do hỏng hóc không đáng kể nên Kongre hy vọng nó sẽ tự nổi lên khi nước triều lên.
Công việc đầu tiên mà Kongre thực hiện trên tàu là leo lên mũi tàu, ở đó hắn mở cửa cabin chỉ huy không mấy khó khăn. Vào trong cabin của thuyền trưởng, hắn lôi sổ sách, nhật ký hành trình của tàu trong ngăn kéo ra, đoạn leo lên boong có Carcante đã chờ sẵn ở đó. Cả hai đứa mở xem danh sách thủy thủ đoàn và được biết như sau:
Chiếc thuyền buồm Maule khởi hành từ cảng Valparaiso ở Chilé, trọng tải một trăm năm mươi bảy tấn. Thuyền trưởng tên là Pailha, thủy thủ đoàn có sáu người, ra khơi không chở hàng ngày 23 tháng Mười một, nơi đến là quần đảo Falkland.
Sau khi vượt qua mũi Horn suôn sẻ, chiếc Maule đang chuẩn bị đi vào eo biển Lemaire thì bị mắc cạn trong một bãi cát ở đảo Đa Quốc gia. Thuyền trưởng Pailha cùng thủy thủ đoàn không ai thoát nạn, bởi lẽ nếu có một người trong số họ còn sống, người đó ắt phải tìm chỗ để ẩn náu trong vịnh Saint - Barthélemy. Thế nhưng từ sáng cho đến lúc này, không có bóng người nào xuất hiện cả.
Như ta đã biết, trên thuyền không có hàng hóa gì cả vì con thuyền chạy không tải đến Malouines. Nhưng cái chính là Kongre đã có trong tay một con tàu để rời đảo cùng số của cải cướp được, miễn sao con thuyền mơ ước này chạy lại được.
Bây giờ là lúc dỡ bỏ các vật dằn để kiểm tra hầm tàu. Vật dằn ở đây gồm những thanh sắt vất lỏng chỏng. Việc dở bỏ vật dằn đòi hỏi một số thời gian và sau đó con tàu có thể bị phơi bày ra trước những cơn gió thổi từ biển vào. Việc cần giải quyết trước tiên là kéo con tàu ra khỏi bãi cát ngay khi nó bắt đầu nổi lên. Nếu kéo không kịp, sóng biển sẽ tràn vào tàu và chỉ vài giờ sau là tàu sẽ đầy bụng nước.
Kongre nói với Carcante:
- Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng để kéo thuyền bằng dây cáp khi nó đã có đủ nước dưới đáy. Có thể đáy thuyền không hư hại gì và nước không chui vào được.
- Điều ấy sẽ biết ngay thôi - Carcante đáp - bởi vì nước triều đang lên; nhưng sau đó ta làm gì?
- Sẽ kéo tàu ra khỏi nơi mắc cạn và dắt nó về vịnh Pingouins, ngay trước cửa các hang chứa đồ. Chỗ đó không sợ đáy tàu chạm đất vì nước sâu.
- Rồi sau đó? - Carcante hỏi.
- Sau đó chúng ta khuân xuống thuyền tất cả những gì ta có.
- Tiếp theo? - Carcante hỏi dồn.
- Đến đấy rồi tính tiếp - Kongre đáp.
Cả bọn bắt tay vào công việc, sao cho không bỏ lỡ đợt triều sắp tới, nếu bỏ lỡ thì lại mất thêm mười hai tiếng đồng hồ nữa. Bằng mọi giá, phải làm sao kéo chiếc thuyền buồm neo đậu trong vịnh trước buổi trưa. Ở đó, thuyền sẽ nổi và tương đối an toàn nếu thời tiết như thế này.
Trước tiên, Kongre với sự trợ giúp của đồng bọn, tìm cách kéo neo lên, sau đó kéo dài hết dây neo và buông neo ngoài bãi cát. Bằng cách ấy, khi đuôi tàu không còn chạm cát nữa thì có thể bắt đầu lai dắt tàu đến chỗ nước sâu. Trước khi nước triều xuống thấp là đã có thể đưa tàu vào vịnh và ngay chiều nay cả bọn sẽ kiểm tra kỹ hầm tàu.
Những biện pháp trên đã nhanh chóng được thực hiện và đã xong xuôi đúng vào lúc nước triều bắt đầu lên. Bãi cát sắp được nước phủ kín.
Và cứ thế Kongre, Carcante cùng sáu tên trong băng cướp leo lên tàu còn các tên khác thì đi về phía vách đá dựng đứng.
Bây giờ thì phải chờ đợi, chỉ có thể chờ đợi mà thôi. Bởi vì gió biển thường thổi dậy lúc nước triều lên, đấy là điều đáng sợ nhất, bởi vì gió có thể đẩy con thuyền về phía bờ và làm tàu lún sâu vào cát.
Có vẻ như tình hình đang thuận lợi cho kế hoạch của Kongre. Gió biển đã chuyển hướng một chút về phía nam, giúp cho chiếc thuyền buồm Maule mau chóng ra khỏi nơi mắc cạn. Kongre và những tên khác nắm chắc phía mũi tàu vì phía đó sẽ nổi lên trước phía lái. Không phải không có lý do để người ta hy vọng rằng con tàu có thể xoay ngay ra, lúc đó dùng dây cáp kéo mũi nó ra khoảng một trăm sải dây, là nó sẽ nổi lên theo tư thế tự nhiên.
Lúc này, nước biển dâng lên chầm chậm. Một vài rung chuyển cho biết thân tàu đã cảm nhận được tác dụng của nước triều. Nước biển trải ra thành những làn sóng dài và không ngọn sóng nào vỡ ra ở ngoài khơi. Thật không còn gì may mắn hơn cho cả bọn.
Nhưng, nếu như Kongre lúc này tự cho là đã chắc chắn có thể đưa chiếc tàu vào nơi neo đậu an toàn trong vịnh Franklin, thì vẫn còn một điều làm hắn lo ngại. Thân tàu đè lên bãi cát ở mạn trái, cho nên cho đến bây giờ vẫn chưa thể quan sát chỗ đó xem nó có bị hư hại gì không? Nếu ở đó có một lỗ rò rỉ nào đó là không có thì giờ thấy nó dưới đống sắt vụn dùng làm vật dằn để kịp thời bịt nó lại, thì con tàu sẽ không thể thoát được, nó sẽ bị nước tràn ngập và phải để cho gió bão làm nốt công việc của nó.
Đây là một mối lo lớn. Do đó, ta dễ hiểu được nỗi sốt ruột mà Kongre và đồng bọn phải chịu đựng trong khi theo dõi nước triều lên! Nếu vỏ tàu bị hư hại hoặc vài chỗ bị bung ra, nước sẽ tràn vào khoang thuyền ngay và chiếc Maule sẽ không còn đứng được nữa.
Nhưng cả bọn chúng cũng cảm thấy yên lòng khi nước biển dồn lên và mỗi lúc thân tàu lại nhô theo. Nước trải dài dọc theo thân tàu mà không hề tràn vào trong. Một vài rung chuyển cho biết vỏ tàu còn nguyên và boong tàu dần dà lấy lại tư thế nằm ngay bình thường.
- Không có lỗ rò nào!... Không có lỗ rò nào! - Carcante reo to lên.
- Hãy chú ý tới bàn tời đứng! - Kongre ra lệnh.
Các tay quay đã sẵn sàng. Mọi người chỉ còn đợi lệnh để thao tác phần mình.
Kongre, nghiêng người trên cái giá đỡ neo để ngắm sóng biển đang dâng lên từ hơn hai tiếng đồng hồ. Mũi tàu từ từ nhô lên cho biết phần trước của sống tàu không chạm đáy. Nhưng phía lái tàu còn chìm trong cát và bánh lái vẫn chưa động đậy được. Cần phải nửa tiếng đồng hồ nữa đuôi tàu mới hoàn toàn nổi lên.
Kongre lúc này rất muốn công việc trục tàu được hoàn tất sớm nên hắn đứng ở phía mũi tàu mà hét to:
- Kéo neo lên!
Các tay quay mặc dầu đã được toàn thể xúm vào quay cũng chỉ làm dây neo căng ra, mũi tàu vẫn chưa chịu quay đầu ra phía biển.
- Giữ cho chắc! - Kongre hét lên.
Chúng lo rằng neo sẽ trượt đi và sẽ rất khó khăn khi thả nó xuống.
Chiếc thuyền buồm đã hoàn toàn nổi lên và khi đi từ mũi đến lái tàu, Carcante có thể cầm chắc là tàu không bị nước vào và như vậy nếu có hư hại gì thì ít ra vỏ tàu cũng không bị bong ra. Chúng có quyền hy vọng là chiếc thuyền buồm Maule đã không bị hư hại gì lúc sóng thuyền va vào cát và cả trong nửa ngày ngâm trong nước. Với tình hình thế này thì việc neo tàu trên vịnh Pingouins sẽ không còn lâu nữa. Ngay chiều nay có thể chất hàng lên tàu và chỉ sáng mai là nó đã sẵn sàng ra khơi được. Tuy nhiên, phải biết lợi dụng thời tiết. Gió sẽ thuận lợi cho chiếc thuyền buồm Maule nếu nó muốn qua eo biển Lemaire, hoặc khi nó men theo bờ nam của đảo Đa Quốc gia để ra Đại Tây dương.
Vào khoảng chín giờ, nước triều bắt đầu dừng, và như người ta thường nói, nước triều ở đầu tuần trăng không bao giờ quá lớn. Nhưng sau cùng, do mực nước tương đối thấp của chiếc thuyền buồm, chúng có lý do để tin là thuyền sẽ chóng nổi lên.
Thực vậy vào lúc hơn tám giờ rưỡi một chút, phía sau lái, tàu bắt đầu nổi lên. Chiếc thuyền buồm Maule đã chạm đáy mà không một chút hư hại trên mặt biển lặng như lúc này.
Kongre, sau khi đã quan sát tình hình rút ra kết luận là có thể dùng dây cáp lái thuyền theo lệnh hắn, đồng bọn của hắn bắt đầu kéo neo và sau khi chúng đã kéo được hơn mười sải tay thì mũi của chiếc thuyền buồm Maule quay dần ra ngoài khơi. Chiếc neo đã bám tốt. Các cánh neo đã ăn rất chắc vào một khe đá và không hề tuột đi dưới sức kéo của bàn tời đứng.
- Nào, mạnh tay lên chúng mày! - Kongre hét.
Và tất cả mọi người cùng bắt tay vào kéo, kể cả Carcante trong khi Kongre đứng quan sát phần lái của tàu. Đã có những lúc mọi công việc như chững lại vì nửa sau của đáy tàu vẫn chạm vào bờ cát. Vì vậy Kongre và đồng bọn không khỏi cảm thấy lo lắng. Nước triều chỉ còn dâng lên trong khoảng hai chục phút nữa và điều quan trọng là chiếc tàu Maule phải nổi lên được nếu không muốn bị chôn tại chỗ tới kỳ triều sau. Và, trong hai ngày nữa, mực nước triều sẽ giảm đi vì nó chỉ lên lại mức cũ sau bốn mươi tám giờ.
Đã đến lúc phải tung ra nỗ lực cuối cùng. Ta có thể hình dung ra một sự còn hơn cả sự giận dữ, đấy là cơn điên cuồng của đám người khi thấy mình bất lực. Có được trong tay con tàu mơ ước bấy lâu nay, con tàu có thể mang lại tự do, mang lại an toàn cho cả bọn mà lại không thể nào kéo nó ra khỏi bãi cát!...
Và rồi những tiếng chửi thề, tiếng nguyền rủa vang lên trong lúc bọn chúng thở hồng hộc bên chiếc bàn tời đứng với nỗi lo sợ dây neo bị đứt hay trượt đi! Rồi lại còn phải chờ đến tối mới được thả neo lần nữa. Mà từ giờ đến lúc đó ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra và thời tiết có còn thuận lợi như bây giờ không?
Nói chính xác thì lúc này đã có vài đám mây lớn đang hình thành ở hướng đông bắc. Nếu chúng cứ đứng nguyên ở đó thì tình thế của thuyền cũng không xấu đi vì bãi cát đã được những vách đá dựng đứng che chở. Nhưng liệu biển có trở nên dữ dội hơn, liệu sóng lừng có làm nốt công việc mà nó đã bắt đầu từ đêm trước không? Rồi những làn gió đông bắc, ngay cả khi chưa đủ mạnh, cũng không hề thuận lợi cho việc đi lại trong eo biển chút nào. Thay vì giúp cho chiếc thuyền Maule căng buồm lên mà lướt sóng, nó sẽ làm thuyền phải ì ạch nhích từng bước trong nhiều ngày, và ai đã từng quen đi biển đều rõ rằng hậu quả của sự chậm trễ ở đây luôn luôn là nghiêm trọng.
Lúc này triều đã dừng và chỉ trong vài phút nữa thì bắt đầu rút. Toàn thể bãi cát đã ngập. Chỉ còn lại vài mỏm đá để lộ đầu ra trên mặt nước. Từ mũi Saint – Barthélemy không ai thấy mũi đất nữa; và trên bờ biển, mấy bãi bồi mà lúc trước đây vừa bị sóng làm ngập, giờ này đã khô ráo.
Rõ ràng là nước biển bắt đầu rút từ từ và xung quanh bãi cát, các mỏm đá bắt đầu lộ ra. Lập tức những tiếng chửi thề lại vang lên. Những con người đã làm cật lực sắp phải bỏ dở công việc không dẫn tới đâu cả. Kongre chạy đến, mắt long lanh giận dữ, bọt mép sùi ra. Tay cầm búa, hắn đe dọa ai bỏ công việc sẽ bị trừng phạt tức thì và ai cũng hiểu là hắn dám làm việc đó lắm.
Tất cả lại xúm vào quay chiếc tay quay của bàn tời đứng và dưới sức lực của chúng, dây xích căng ra như muốn đứt, nó làm trầy xước cả lớp đồng lót ở lỗ kéo neo.
Sau cùng một tiếng động vang lên, chiếc bàn tời nghiến ken két và chiếc thuyền buồm nhích từng chút một về phía ngoài khơi. Thanh điều khiển bánh lái bắt đầu động đậy chứng tỏ nó đang thoát khỏi bãi cát.
- Hoan hô! Hoan hô!
Đoàn người cùng reo lên khi thấy chiếc tàu xê dịch. Đuôi tàu vừa mới ra khỏi vết mắc cạn. Bàn tời đứng quay nhanh hơn và chỉ trong vài phút nữa chiếc tàu được dây neo kéo, sẽ nổi hẳn lên trên mặt nước.
Ngay tức thì, Kongre chạy nhanh đến bánh xe lái tàu. Dây neo chùng xuống, chiếc mỏ neo được ke`o lên giá đỡ. Bây giờ chỉ còn việc dắt nó đi len giữa các mô đá để đến vũng tàu trong vịnh Franklin.
Kongre cho kéo ngay cánh buồm lớn sát mũi lên, và thế là đủ. Với tình hình biển như hiện nay, chỗ nào cũng có nước. Nửa giờ sau, khi đã vượt qua những mỏm đá cuối cùng ven biển, chiếc thuyền buồm đã được neo đậu vững vàng trong vũng tàu Pingouins cách mũi Saint – Barthélemy hai hải lý.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của V.E.A.R
Như vậy là công việc trục chiếc tàu mắc cạn đã thành công mỹ mãn. Nhưng mọi việc chưa kết thúc ở đây. Còn phải tính sao cho chiếc thuyền buồm được tuyệt đối an toàn trong vũng tàu nằm trong bờ biển của mũi Saint - Barthélemy. Hiện giờ nó phơi bày quá nhiều trước những cơn sóng lừng và trước gió bão đến từ hướng tây bắc. Vào những kỳ nước triều lớn lúc thu phân, nó không thể nào đứng vững trong vịnh quá hai mươi bốn giờ.
Kongre không phải là không biết điều ấy. Vì vậy, hắn định sẽ rời vũng đậu ngay kỳ triều ngày mai để đưa tàu ngược lên phía eo biển Lemaire.
Trước đây, hắn thầy cần thiết phải kiểm tra bên trong tàu và phía vỏ tàu bên ngoài. Mặc dù đã có được một kết luận ban đầu là tàu không chỗ nào rò rỉ, tuy nhiên cũng có thể phần lòng tàu hay ít nhất bộ rẽ sườn của nó đã bị hư hại vì mắc cạn; và như vậy cần phải sửa chữa lại vì trước mặt là một chuyến vượt biển khá dài.
Kongre ra lệnh cho mọi người bắt tay vào công việc ngay, trước tiên là phải dỡ bỏ ngay các vật dằn là đống sắt vụn chất đầy lòng tàu. Không nhất thiết phải bốc chúng lên bờ, như vậy tốn nhiều thời gian và công sức. Cái chính là thời gian. Trong tình hình chưa chắc chắn như hiện nay của chiếc tàu, nhất thiết phải tiết kiệm thời giờ. Đống sắt vụn dùng làm vật dằn sẽ được chuyển từ mũi tàu ra phía lái để có thể kiểm tra bộ ván lót rẽ sườn của tàu. Công việc kiểm tra này được thực hiện một cách cẩn thận bởi Kongre, Carcante và một tên thợ mộc người Chilé tên là Vargas, tên này trước đây đã làm việc trong một xưởng đóng tàu ở Valparaiso và tỏ ra rất am hiểu công việc.
Trong phần nằm giữa sống mũi tàu và bệ cột buồm mũi, không có lực hại nào. Các rẽ đáy, rẽ sườn cũng còn nguyên vì chúng được bắt chốt lại bằng các đinh sắt. Khi các vật dằn được đẩy về phía trước, thì vỏ tàu từ buồm lớn đến buồm mũi hiện ra còn nguyên vẹn. Những cột chống cũng không bị cong và chiếc thang dùng để leo từ dưới hầm tàu lên boong cũng không suy suyển.
Sau cùng khi kiểm tra phần bao gồm giữa khoang tàu và sống đuôi thì người ta phát hiện một chỗ hư hại, được xem là tương đối nghiêm trọng. Tuy không có lỗ rò nhưng rẽ sườn trái của tàu bị một vết lõm dài hơn một mét. Vết lõm này có thể là hậu quả của sự va chạm giữa một mỏm đá và vỏ tàu va chạm này đã làm tàu mắc cạn trên bãi cát. Tuy bộ phận cạp thuyền chưa bị hư hại đến mức để nước tràn vào nhưng không có nghĩa là không đáng lo ngại. Tàu cần được sửa chữa trước khi ra khơi, trừ phi nếu là một cuộc vượt biển ngắn, vào thời gian trời yên biển lặng thì không kể. Việc sửa chữa này có thể đòi hỏi cả tuần lễ ngay trong điều kiện có đủ vật liệu và dụng cụ cần thiết.
Khi Kongre và đồng bọn hiểu ra tàu cần sửa chữa những gì thì nỗi thất vọng đã thay thế những tiếng hoan hô. Liệu con tàu Maule có còn sử dụng được nữa không? Và cuối cùng thì bọn chúng có thể thoát khỏi cái đảo này không?
Kongre bèn lên tiếng:
- Đúng là sự hư hại này nghiêm trọng. Trong tình trạng hiện nay, chúng ta không thể trông cậy gì ở nó, gặp giông bão là tàu có thể vỡ. Mà chúng ta lại phải ượt qua cả mấy trăm hải lý mới có thể tới được các hòn đảo của Thái Bình dương!.. Tàu rất dễ bị đắm trên đường đi, nhưng chỗ hư này có thể sửa được và chúng ta sẽ sửa nó.
- Sửa ở đâu? - Một tên người Chilé hỏi với vẻ lo lắng.
- Dù sao cũng không sửa ở đây được - Một tên khác phụ họa theo.
- Không làm ở đây - Kongre nói với vẻ cương quyết – Ta sẽ đưa tàu về vịnh Elgor. Đúng ra, trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, tàu có thể từ đây về tới vịnh Elgor. Chỉ việc cho tàu men dọc theo bờ biển, hoặc theo phía nam, hoặc theo phía bắc. Trong hang chứa các kiện hàng bắt được, thợ mộc của chúng ta có đủ dụng cụ để làm công việc sửa chữa. Nếu cần phải cho tàu neo đậu lại trong nửa tháng hay ba tuần lễ, ta cũng phải cho nó nằm ở đó. Mùa đẹp trời cón kéo dài tới hai tháng nữa và khi chúng ta rời khỏi đảo Đa Quốc gia thì phải đi trên một chiếc tàu đã được sửa chữa xong mà hoàn toàn không còn lo ngại gì nữa.
Vả lại Kongre luôn giữ ý định, sau khi rời mũi Saint - Barthélemy, toàn băng phải về nương náu ít lâu ở vịnh Elgor. Trong bất cứ trường hợp nào, hắn không bao giờ muốn để mất các thứ quí giá mà băng cướp buộc phải để lại trong hang, khi công việc xây dựng hải đăng đã đẩy bọn chúng sang đầu bên kia của đảo. Bởi vậy, ý định của hắn chỉ hơi thay đổi ở chỗ thời hạn neo đậu của tàu trong vịnh kéo dài hơn dự kiến một chút.
Thế là niềm hy vọng lại trở lại, toàn thể bọn chúng tích cực chuẩn bị để có thể ra đi vào sáng mai lúc triều lên.
Còn về sự hiện diện của tổ gác hải đăng, đấy không phải là điều làm chúng lo ngại. Bằng vài câu ngắn gọn, Kongre nêu lên kế hoạch của hắn về vấn đề này.
- Trước khi có trong tay chiếc thuyền này - hắn nói với Carcante - tao đã định chiếm lấy vịnh Elgor, ngay từ lúc chỉ có bọn gác đèn ở đấy thôi. Dự định này bây giờ cũng vậy. Tuy nhiên, thay vì đánh lén từ phía trong đảo, nhờ vào yếu tố bất ngờ thì nay ta đàng hoàng vào đảo từ đường biển. Ta sẽ cho chiếc thuyền buồm vào neo đậu trong vịnh. Chúng sẽ phải làm thủ tục nhập đảo cho chúng ta mà không nghi ngờ... và thế là...
Bằng một cử chỉ, mà qua đó Carcante hiểu ngay là Kongre muốn kết thúc kế hoạch của hắn như thế nào. Trên thực tế, cơ may thành công là rất lớn cho kế hoạch của tên cướp đáng sợ này. Ngoại trừ phép lạ xảy ra, làm sao Vasquez, Moriz và Felipe có thể thoát khỏi tình thế nguy hiểm đang đe dọa họ?
Suốt cả buổi chiều, băng cướp làm mọi thứ để chuẩn bị lên đường. Kongre cho xếp các vật nằm vào chỗ cũ và cho chất lên tàu lương thực, vũ khí và các đồ vật khác để đến mũi Saint - Barthélemy. Các công việc trên được thực hiện rất mau lẹ. Từ khi rời vịnh Elgor, tức là hơn một năm nay, Kongre và toàn băng chỉ sống nhờ vào lương thực dự trữ nên bây giờ chỉ còn lại rất ít để mang lên tàu. Còn các đồ gỗ, quần áo, nồi xoong, vàng bạc... thì được mang lên chất đầy các khoang của chiếc thuyền buồm Maule; sau này tàu còn phải chở thêm những thứ giấu trong hang ở cửa vịnh nữa.
Nói gọn lại thì bọn chúng đã làm nhanh tới mức chỉ mới bốn giờ chiều, thì mọi việc chuẩn bị đã xong. Chiếc thuyền buồm đã có thể lên đường ngay lập tức, tuy nhiên Kongre còn lo ngại nếu tàu phải đi ban đêm trên một bờ biển có quá nhiều mỏm đá. Hắn cũng còn chưa biết có nên đi qua eo Lemaire hay không, để có thể tới mũi San Juan. Điều này còn phụ thuộc vào hướng gió. Nên đi nếu gió thổi từ phương nam về nhưng nếu gió thổi từ phía bắc lại thì không nên. Trong trường hợp sau, theo hắn thì tốt hơn cả là đi qua phía nam của đảo, điều đó bảo đảm cho tàu được che chắn bởi đất liền. Hơn nữa, dù đi theo hướng nào, theo dự tính của hắn, thời gian vượt biển cũng không được quá ba chục tiếng đồng hồ, kể cả thời gian đậu lại trong đêm.
Đêm đã tối, thời tiết không có dấu hiệu gì thay đổi. Phía tây không có sương mù và khi mặt trời vừa tụt xuống dưới đường chân trời thì một chùm tia sáng xanh biếc lóe lên, xuyên vào không gian. Thời tiết có vẻ báo hiệu cho một đêm yên tĩnh và quả đúng như vậy. Hầu hết băng cướp đều lên cả trên boong tàu. Đứa thì trên đài quan sát, đứa thì trong khoang. Kongre chiếm cabin của thuyền trưởng còn Carcante thì ở trong cabin thuyền phó nằm phía bên trái.
Đã nhiều lần chúng cùng lên boong tàu để quan sát hết bầu trời đến mặt biển. Chúng tin chắc là ngày mai, cho dù nước triều lên mạnh, con thuyền cũng không hề hấn gì và không gì có thể ngăn cản chúng khởi hành.
Sáng hôm sau, cảnh mặt trời mọc mới đẹp làm sao. Ở vĩ tuyến này, thật hiếm khi thấy mặt trời xuất hiện trên đường chân trời rõ ràng đến thế.
Ngay sáng sớm, Kongre đã rời tàu bằng xuồng cứu hộ và sau khi vượt qua một con lạch hẹp ngay ở đầu mũi Saint Barthélemy, hắn leo lên mỏm vách đá dựng đứng. Từ độ cao này, tầm nhìn của hắn có thể bao quát cả ba mặt bể. Riêng hướng đông là có núi che khuất suốt từ mũi Saint - Antoine đến mũi Kempe. Mặt biển yên lắng ở phía nam, và hơi động ở gần cửa vịnh, bởi vì gió bắt đầu nổi lên từ đó. Ngoài ra không hề có một cánh buồm nào, hay một làn khói nào ngoài khơi và chắc chắn là chiếc Maule sẽ không chạm trán với bất cứ con tàu nào khác trong chuyến đi ngắn đến mũi San Juan.
Kongre đã nhanh chóng quyết định. Vì ngại trời có gió mạnh và trước hết là để cho chiếc Maule đỡ vất vả khi phải phơi mình ra trước những cơn sóng lừng ở eo biển, hắn quyết định sẽ cho tàu men theo bờ biển phía nam của đảo và sẽ tới vịnh Elgor sau khi qua các mũi Kempe, Webster, Several và Diegos. Dù đi theo hướng nam hay hướng bắc, khoảng cách cũng xấp xỉ như nhau.
Kongre xuống phía dưới vách đá để ra bờ biển và đi về phía hang đá xem có vật gì để quên ở đó không. Có cái gì có thể tố giác sự hiện diện của chúng ở đây không. Lúc đó là vào khoảng bảy giờ sáng. Nước biển bắt đầu rút rất thuận tiện cho tàu ra khỏi vịnh. Neo được kéo lên giá đỡ, buồm trước áp mũi và buồm mũi được kéo lên đủ để đưa con tàu Maule ra khỏi bãi cát.
Kongre đứng bẻ lái còn Carcante thì canh chừng phía mũi. Mười phút đã trôi qua đủ cho con tàu trườn mình thoát khỏi bãi đá, nó hơi bị lắc lư tròng trành một chút. Theo lệnh của Kongre, Carcante cho kéo buồm mũi và buồm lái lên, đây là cánh buồm lớn nhất của tàu. Được gió thổi phồng, các lá buồm và căng các dây neo, con tàu Maule lướt nhanh theo hướng tây nam trực chỉ mũi Saint - Barthélemy.
Sau nửa tiếng đồng hồ đi vòng qua những mỏm đá, tàu lướt nhanh về hướng đông và đi sát chiều gió hơn nữa. Gió lúc này rất thuận cho sự di chuyển của tàu, và dưới sự che chở của bờ nam của đảo, con tàu duy trì vận tốc ba hải lý một giờ.
Lúc này thì cả Kongre lẫn Carcante đều có chung nhận xét là con tàu nhẹ nhàng này có thể thích nghi với mọi hải trình. Chắc chắn là trong mùa đẹp trời trong năm, nó có thể xông pha không chút nguy hiểm trên Thái Bình Dương sau khi bỏ lại đằng sau mình những hòn đảo cuối cùng của quần đảo Magellan. Đương nhiên là Kongre có thể cho tàu vào vịnh Elgor trong buổi tối, nhưng hắn muốn dừng lại ở một nơi nào đó trên bờ biển để chờ cho mặt trời khuất hẳn xuống dưới chân trời. Hắn bèn cho hạ bớt buồm xuống và bằng lòng với vận tốc năm hải lý một giờ.
Trong ngày ra khơi đầu tiên này, chiếc Maule không hề gặp một con tàu nào khác và khi màn đêm vừa buông xuống là nó đã neo đậu lại ở phía đông mũi Webster, sau khi được một nửa đoạn đường. Nơi đây chồng chất nhiều tảng đá lớn và trên bờ lừng lững những vách đá cao. Chiếc thuyền buồm neo đậu cách bờ khoảng hai trăm mét trong một cái vũng nhỏ được che chở bởi một mũi đá. Không đâu là yên tĩnh hơn nơi đây, trong một cái vũng nhỏ. Chắc chắn là nếu gió chuyển hướng thổi từ phía nam lại thì chiếc Maule sẽ bị trống trải tại chỗ này, nơi mà khi bão địa cực nổi lên, biển sẽ động dữ dội như ở mũi Horn vậy.
Nhưng thời tiết có vẻ như muốn lặng, gió đông bắc thổi nhẹ và hình như sự may mắn vẫn còn mỉm cười với Kongre và nhóm của hắn.
Đêm 25 rạng sáng 26 tháng Chạp trôi qua trong yên tĩnh. Gió lặng từ mười giờ đêm cho tới bốn giờ sáng sáng hôm sau. Khi vừng đông vừa rạng, Kongre ra lệnh cho mọi người chuẩn bị kéo neo. Những lá buồm hạ xuống lúc đêm, giờ được kéo lên. Chiếc bàn tời đứng đang kéo mô neo lên giá đỡ và chiếc Maule lại tiếp tục cuộc hải trình.
Mũi Webster kéo dài ra biển đến năm hải lý, từ bắc xuống nam. Do đó chiếc thuyền buồm cần đi ngược lên để tìm thấy bờ biển về phía đông kéo dài cho tới mũi Several, cách chừng khoảng hai chục hải lý.
Chiếc Maule lại di chuyển như hôm trước trong những điều kiện tương tự, nó đi trong vũng nước yên tĩnh men theo bờ biển, dưới sự che chở của các dãy vách đá dựng đứng. Càng gần đến eo biển thì bờ biển càng hiểm trở và đáng sợ! Từng đống đá chồng chất lên nhau phủ kín bờ biển từ sát bờ ra tới ngoài khơi. Đá dày đặc tới mức không nói gì đến các con tàu nhỏ bé mà ngay đến cả những chiếc xuồng đơn giản cũng không tài nào cặp bờ được. Không có lấy một vũng nào có thể đưa tàu vào, không có lấy một bãi cát để có thể đặt chân! Phải chăng đây là thành trì che chở cho hòn đảo chống lại những cơn sóng lừng đến từ những vùng biển địa cực?
Chiếc thuyền buồm đang lướt đi với vận tốc vừa phải cách bờ biển dưới ba hải lý. Vì không biết rõ bờ biển này cho nên Kongre không dám cho thuyền đi gần bờ. Mặt khác, vì không muốn chiếc Maule phải quá dầu dãi nên hắn cho thuyền đi giữa vùng nước lặng và không quá xa bờ lắm.
Khoảng mười giờ, thuyền đã đến cửa vịnh Blossom, tuy thế thuyền cũng không tránh khỏi bị sóng lừng. Những trận gió, vì phải lách vào một vịnh hẹp đào sâu vào trong đất nên đã tạo thành những cơn sóng lừng dài trên mặt biển giờ đây chiếc Maule đang phải hứng chịu những đợt sóng đó. Kongre cố gắng chịu đựng, cốt để vượt qua mũi đất phân cách vịnh về phía đông, sau đó gã sẽ cho thuyền đi sát gió hơn nữa, và néo dây buồm sang trái, và sẽ đi thẳng ra khơi.
Kongre đích thân bẻ bánh lái tàu, các dây buồm được kéo hết cỡ, gã tìm cách càng đi sát gió bao nhiêu càng tốt. Chính nhờ vậy mà vào khoảng bốn giờ chiều, y xoa tay tự hài lòng vì đã có thể cho thuyền lao thẳng tới đích. Cứ nương theo chiều gió mà đi, gã luôn tay kéo dây buồm, cho tàu trực chỉ vịnh Elgor; lúc này mũi Several chỉ còn cách tàu bốn hải lý về phía tây bắc. Từ khoảng cách này, bờ biển trải rộng ra trước mắt đến tận mũi San Juan.
Cùng lúc ấy, về bên trái của mũi Diegos hiện ra chiếc tháp đèn của Ngọn Hải đăng ở nơi cuối trời mà Kongre trông thấy lần đầu tiên. Nhờ chiếc ống nhòm tìm được trong cabin của thuyền trưởng Pailha, gã còn trông thấy rõ một trong những người gác đèn đang đứng trên hành lang đèn để quan sát biển. Mặt trời còn ở trên đường chân trời khoảng ba tiếng đồng hồ nữa, do đó chắc chắn là chiếc Maule sẽ vào nơi neo đậu trước khi đêm xuống.
Đương nhiên là chiếc thuyền buồm không thoát khỏi tầm nhìn của tổ gác đèn và giờ đây sự xuất hiện của nó đã được loan báo. Khi Vasquez và các chiến hữu trông thấy chiếc tàu quay mũi ra khơi, họ nghĩ là tàu sẽ đi về quần đảo Malouines. Nhưng bây giờ từ khi thấy tàu đi sát gió, néo dây buồm về bên phải thì chắc hẳn họ phải nghĩ là tàu sẽ đi vào vịnh.
Với Kongre, chuyện con tàu bị phát hiện chẳng quan trọng, kể cả việc người trên hải đăng biết được ý định neo đậu lại của tàu. Tất cả đều không làm kế hoạch của hắn phải thay đổi. Hắn cảm thấy vô cùng hài lòng khi thấy chuyến vượt biển đầu tiên này khá thuận lợi. Gió hiện đang thổi mạnh hơn từ phía đông lại. Bằng cách để thuyền đi chếch gió, các cánh buồm hạ thấp, chiếc Maule có thể vượt qua mũi Diegos mà chẳng cần đi sát vào bờ.
Cho đến lúc này, có thể nói mọi chuyện đã diễn ra vô cùng suôn sẻ. Trong tình trạng hiện nay của vỏ tàu, không biết nó có thể chịu đựng được một loạt những lần đổi hướng liên tục như vừa rồi không? Biết đâu lại chẳng có một chỗ rò rỉ được phát hiện ngay trước lúc tàu vào tới chỗ neo đậu? Và đấy cũng chính là điều sắp xảy đến.
Trong lúc chỉ còn cách bờ vịnh chừng hai hải lý thì một tên trong bọn, sau khi xuống dưới khoang tàu trở lên boong, đã kêu ầm ĩ lên là nước đang tràn vào khoang qua một khe nứt. Khe nứt nằm ở chỗ vỏ tàu, khi mắc cạn, đã va vào một mỏm đá. Vỏ tàu đã cầm cự khá lâu giờ đây nó đã bị bung ra, nhưng cũng chỉ là một đoạn ngắn chừng vài đốt ngón tay mà thôi. Nói cho đúng ra thì chỗ hư hại này không phải là vấn đề gì quá nghiêm trọng. Sau khi di chuyển chỗ vật dằn ra, tên thợ mộc Vargas đã không mấy khó khăn dùng vải và nùi giẻ bít kín khe nứt lại.
Tuy nhiên, mọi người đều hiểu là tàu cần phải sửa lại cẩn thận. Trong tình trạng tàu phải chịu đựng sau lần mắc cạn ở mũi Saint - Barthélemy, chiếc thuyền buồm này nếu vượt Thái Bình dương thì phải chịu tổn thất lớn nếu chưa được sửa lại
Đến sáu giờ tối thì tàu Maule đã có mặt ở cửa vào vịnh Elgor, với khoảng cách hơn một hải lý. Kongre cho hạ bớt buồm xuống, chỉ để lại buồm mũi và buồm hình thang, và không mấy khó khăn chiếc Maule đã vào tới nơi neo đậu ở cuối vịnh Elgor, dưới sự chỉ huy của Kongre và những hiểu biết rất rành rẽ đường đi lối lại ở đây và sẽ đóng vai trò hoa tiêu dẫn đường cho tàu.
Đến sáu giờ ba mươi tối hôm đó, một chùm tia sáng chiếu rực rỡ trên mặt biển. Ngọn hải đăng vừa được thắp lên và con tàu đầu tiên được nó dẫn đường qua vịnh chính là đang nằm trong tay bọn cướp biển.
Lúc đó đã gần bảy giờ tối khi mặt trời đã khuất sau những đỉnh núi của hòn đảo thì chiếc Maule cặp mạn phải mũi San Juan. Vịnh mở ra trước mũi tàu, Kongre để tàu đi xuôi gió để vào vịnh.
Lúc tàu đi ngang qua những hang đá, Kongre và Carcante có thể an tâm mà nhận thấy rằng các cửa hang vẫn được giấu kín sau những đống đá hay những lùm cây. Không có điều gì có thể tố cáo sự có mặt của bọn chúng trên đảo và chúng sẽ lại tìm thấy những của cải mà chúng ăn cướp được trước đây, đang cất giấu trong hang.
- Mọi chuyện đều tốt cả - Carcante nói với Kongre khi hai tên đứng bên nhau ở lái tàu.
- Và sẽ tốt đẹp hơn nữa đấy - Kongre đáp.
chỉ còn hai mươi phút nữa là chiếc Mau le sẽ vào đến nơi mà nó sẽ neo đậu. Đúng vào lúc đấy hai người từ tháp đèn leo xuống phía dưới là Felipe và Moriz. Họ chuẩn bị xuống chiếc xà lúp để ra kiểm tra chiếc thuyền buồm. Còn Vasquez thì trực trong phòng làm việc.
Khi chiếc thuyền buồm vừa ra đến giữa vịnh, những lá buồm phụ liền được hạ xuống, chỉ còn lại lá buồm mũi là đang chịu sự điều khiển của Carcante.
Lúc neo vừa chìm xuống đáy vịnh thì Moriz và Felipe cùng nhảy lên boong chiếc tàu buồm. Ngay tức thì, Kongre ra hiệu, một nhát búa liền đập ngay vào đầu Moriz làm anh ngã quỵ. Đồng thời hai phát súng lục bắn vào người Felipe làm anh này ngã gục bên bạn mình chỉ trong khoảnh khắc.
Qua cửa sổ của phòng trực, Vasquez đã nghe các tiếng động và thấy hai chiến hữu bị sát hại.
Cũng số phận đó, sẽ dành cho anh nếu anh bị bọn chúng tóm được. Với bọn sát nhân đó thì chẳng có thể chờ mong ở chúng một ân huệ nào cả. Tội nghiệp cho Moriz và Felipe quá, nhưng anh chẳng thể làm gì để cứu họ; và từ trên cao này, anh đã quá kinh sợ trước tội ác được thực hiện chỉ trong vài giây đồng hồ.
Sau phút bàng hoàng ban đầu, anh lấy lại can đảm và nhanh chóng nhận định tình hình. Cần phải bằng bất kỳ giá nào, thoát khỏi cơn nguy cấp này. Có thể bọn chúng còn chưa biết đến có anh ở đây, nhưng có thể giả thiết là sau khi đã neo đậu tàu xong thì bọn chúng sẽ cùng kéo lên tháp đèn để tắt hải đăng đi, làm cho vịnh này sẽ không thể qua được, ít nhất là cho đến sáng hôm sau.
Không chút chậm trễ, Vasquez rời phòng trực và theo cầu thang chạy về nơi nghỉ ở bên dưới. Không bỏ phí giây phút nào. Anh đã nghe thấy tiếng chiếc xà lúp rời thuyền buồm để lên tháp đèn với mấy tên trên đó.
Vasquez giắt vội hai khẩu súng lục vào thắt lưng, quơ vội một số lương thực nhét vào trong một cái túi mà anh khoác lên lưng, đoạn trốn khỏi nơi ở, chạy nhanh xuống cầu thang và biến vào bóng tối.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Đối với Vasquez đáng thương, đêm hôm đó thật khủng khiếp. Hai chiến hữu không may mắn của anh đã bị sát hại, xác bị ném xuống biển chờ cho nước thủy triều cuốn ra khơi! Anh không dám nghĩ đến điều nếu anh không trực đêm qua thì cái chết ấy đã được dành cho anh. Anh chỉ luôn nhớ tới hai người bạn mà anh vừa mất đi vĩnh viễn.
Tội nghiệp cho Moriz và Felipe! Anh tự nhủ, hai đứa vì tin người nên đã ra để giúp bọn khốn nạn đó, thế mà chúng đã tiếp đón bằng những phát súng! Ta không còn được gặp lại hai đứa ấy nữa. Chúng nó cũng sẽ không còn bao giờ gặp lại đất nước, gặp lại người thân! Và còn vợ của thằng Moriz nữa, cô ấy đã chờ nó từ hai tháng nay... và khi hay tin đã chết thì...
Vasquez cảm thấy rụng rời. Đấy là tình cảm chân thành anh dành cho hai đồng đội của mình. Anh đã quen họ từ nhiều năm qua. Cũng do lời nói của anh mà họ đã xin ra hải đăng... và giờ đây, chỉ còn lại mình anh!
Nhưng chiếc thuyền buồm này từ đâu đến và bọn cướp nào đang ở trên ấy? Tàu mang cờ của nước nào và tại sao nó lại vào neo đậu trong vịnh Elgor? Bọn chúng có biết rõ vịnh này không? Chúng đến đây để làm gì? Và tại sao khi vừa mới đổ bộ lên tháp đèn chúng lại tắt ngay đèn đi?...
Phải chăng chúng đang tìm cách ngăn trở mọi tàu thuyền qua lại trên vịnh? Những câu hỏi đó cứ dồn dập đến mà anh không tài nào hiểu được. Anh cũng chẳng kịp nghĩ tới sự hiểm nguy đang xảy ra cho bản thân. Tất nhiên thế nào kẻ bất lương kia cũng biết được trên hải đăng có ba người gác. Và chúng sẽ truy tìm kẻ thứ ba? Liệu chúng có phát hiện ra anh ở đây không?
Từ nơi ẩn nấp trên bờ vịnh, cách vũng neo đậu chỉ khoảng hai trăm bước, Vasquez nhìn rất rõ các ngọn đèn hiệu trên chiếc thuyền buồm, và cả ánh sáng lọt ra từ cửa sổ nơi ở cũ của mình. Liệu chúng có phải đồng hương hay chúng là người Chilé, người Pêru, người Mêhicô... vì tất cả những nước này đều nói tiếng Tây Ban Nha cả?
Cuối cùng, vào khoảng mười giờ đêm, tất cả ánh sáng đều tắt và tất cả cảnh vật chìm trong sự im lặng của đêm đen. Tuy nhiên, Vasquez không thể nào ở tại chỗ này được, ban ngày rất trống trải. Không thể chờ mong ở lũ cướp này chút tình thương nào cả, cần phải di chuyển ngay ra ngoài tầm săn đuổi của chúng. Mà di chuyển về hướng nào chứ?
Về phía trong đảo thôi. Ở đó anh sẽ được tương đối an toàn. Hay là tìm cách chạy ra cửa vịnh để may ra sẽ được một chiếc tàu nào đi ngang qua cứu giúp? Nhưng dù đi vào phía trong hay đi ra bờ vịnh thì lấy gì mà sống cho tới lúc có tổ gác khác ra thay thế? Chỗ lương thực anh mang theo rồi cũng sẽ hết. Sau bốn mươi tám tiếng nữa anh sẽ không còn gì để ăn. Rồi sẽ sống sao đây? Anh cũng chẳng có dụng cụ gì để đánh bắt cá! Rồi làm thế nào để có lửa? Liệu có thể sống nhờ vào toàn tôm cá, sò, ốc... không?
Cuối cùng thì anh cũng lấy lại được nghị lực, phải liều chơi trò may rủi thôi. Đấy là ra tìm chỗ nào ở ngoài bờ vịnh San Juan để nghỉ qua đêm. Sáng mai sẽ tính sau.
Vasquez bèn rời chỗ núp, nơi có thể quan sát chiếc thuyền buồm. Anh cố gắng không để phát ra tiếng động hay bóng dáng mình. Bọn bất lương sẽ tự cho là an toàn ở trong vịnh này, nên chắc chúng cũng chẳng buồn canh gác cẩn mật làm gì.
Vasquez bèn men theo bờ vịnh phía bắc, đi núp dưới chân vách đá. Tai anh nghe rõ tiếng nước triều đang xuống và tiếng kêu của vài con chim biển đi kiếm ăn về tổ muộn.
Vào lúc mười một giờ đêm, Vasquez dừng chân ở đầu mũi. Nơi này anh kiếm được một cái hốc đá và anh quyết định trú lại đó cho đến khi mặt trời lên.
Trước khi mặt trời nhuộm hồng chân trời, Vasquez đi xuống bờ biển và canh chừng về phía hải đăng cũng như phía đầu mũi San Juan xem có ai đến không? Toàn khu vực bờ biển đều vắng lặng. Không một chiếc tàu, chiếc thuyền nào qua lại mặc dầu thủy thủ đoàn của chiếc thuyền buồm đã có trong tay hai phương tiện phụ để đi lại, đó là chiếc xuống cứu hộ của chiếc Maule và chiếc xà lúp mà chúng đoạt được từ tổ gác.
Không một con tàu nào xuất hiện ngoài khơi của đảo. Vasquez chợt nghĩ ra là từ nay trở đi, sự qua lại của các phương tiện ở đảo Đa Quốc gia sẽ nguy hiểm biết bao vì ngọn hải đăng không hoạt động nữa. Thực vậy, các con tàu từ ngoài khơi vào sẽ không còn tự định vị được nữa. Vì hy vọng có ngọn hải đăng trong vịnh Elgor, và như thế chúng sẽ có nguy cơ đi vào chỗ bờ biển nguy hiểm nằm giữa mũi San Juan và mỏm Several.
- Bọn khốn nạn đã tắt ngọn hải đăng đi - Vasquez kêu lên - và vì chúng có lợi khi làm vậy nên chúng sẽ không bao giờ bật đèn lên nữa!
Thật vậy, việc tắt cây hải đăng đi sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng, nó có mục đích gây ra các vụ tai nạn hàng hải mà bọn bất lương có thể trục lợi thêm trong thời gian neo đậu lại trong vịnh. Chúng không cần làm như trước kia, nghĩa là dùng ánh lửa để đánh lừa các tàu bè nữa. Bởi vì giờ đây các tàu bè cứ việc thẳng tiến đến đây không chút nghi ngờ, để tìm ngọn hải đăng như là một cột mốc.
Ngồi trên một mỏm đá, Vasquez nhớ lại mọi chuyện xảy ra từ tối hôm trước. Anh nhìn xuống dòng nước biển xem nó có cuốn theo thân xác hai người bạn xấu số không. Nước triều rút chắc đã mang họ ra khơi, và họ đã được chôn vùi trong lòng biển cả!
Với anh lúc này, tình hình không còn gì đáng sợ hơn. Anh có thể làm gì đây? Không... Không thể làm gì cả, nếu không phải là chờ chiếc Santa-fé quay lại. Nhưng cũng phải hai tháng chờ đợi ròng rã nữa thì chiếc tuần dương hạm mới có thể có mặt trong vịnh Elgor. Cứ cho là Vasquez không bị bọn cướp phát hiện ra nữa thì làm sao anh có đủ lương thực để sống cho tới lúc ấy? Một chỗ ẩn náu thế nào cũng được tìm ra trong đám hang động trên bờ vách đá này, vả lại thời tiết tốt cũng sẽ kéo dài ít nhất là tới lúc có tàu ra; nhưng nếu ở vào giữa mùa đông, Vasquez chắc không thể đương đầu được với cái lạnh đến âm bốn chục độ ở đây. Anh sẽ bị chết rét, trước khi chết đói.
Trước tiên Vasquez phải tìm cho ra một chỗ ẩn náu. Cái này chắc chắn bọn cướp đã biết là trong tổ gác hải đăng có ba người! Không còn nghi ngờ gì nữa, bằng mọi giá chúng phải tìm cho ra người thứ ba đã thoát khỏi tay chúng, chúng sẽ nhanh chóng lùng sục anh ở quanh mũi San Juan.
Tất cả nghị lực hình như đã trở lại với Vasquez. Sự thất vọng không thể nào chiến thắng được bản chất đã được tôi luyện mạnh mẽ trong anh.
Sau khi tìm kiếm hồi lâu, cuối cùng anh đã phát hiện ra một cái hốc có cửa vào rất hẹp, sâu chừng ba mét, rộng chừng hơn một mét rưỡi nằm ngay ở một góc vách đá, nhìn ra mũi San Juan. Nền hang được phủ cát mịn và khô ráo, nước triều cường cũng không vào được, và gió biển cũng không thổi vào tới nơi. Vasquez chui vào trong hốc đá đó mang theo cả những thứ vơ vét được từ chỗ ở, cùng với ít lương thực đựng trong một cái túi. Nước ngọt thì được cung cấp bởi một con suối nhỏ tạo thành do tuyết tan chảy từ trên núi xuống chân vách đá.
Vasquez lót lòng bằng một chút bánh bích quy ăn với thịt bò khô. Và lúc anh định ra ngoài để uống nước, thì bỗng nghe thấy tiếng người nói ở gần đấy.
"Đúng là bọn chúng” - anh tự nhủ và áp sát người xuống đất để quan sát một cách kín đáo. Anh nhìn ra bờ vịnh, một chiếc xuồng có bốn người đang lướt trên sóng. Hai tay chèo phía trước và một trong hai tên ngồi sau bẻ lái. Đúng là chiếc xuồng cứu hộ của chiếc thuyền buồm, không phải xà lúp của hải đăng.
“Bọn chúng đến đây để làm gì nhỉ? Chúng đi tìm ta chăng?” - Vasquez tự hỏi... “Cứ căn cứ vào cách thức hoạt động của chiếc thuyền buồm trên vịnh thì chắc chắn bọn chúng biết rất rõ vịnh này và đây cũng chẳng phải lần đầu tiên chúng đặt chân lên đảo... Vậy chẳng phải vì muốn thăm viếng bờ biển mà chúng đến đây!... Nếu không phải là muốn tìm bắt mình thì chúng đến đây làm gì?”...
Vasquez quan sát bốn người đang đến. Theo nhận định của anh thì tên ngồi bẻ lái phía sau, tên nhiều tuổi nhất trong bốn đứa, phải là tên cầm đầu và là thuyền trưởng của chiếc tàu. Anh chưa thể rõ là hắn là người nước nào, nhưng cứ căn cứ vào mấy tên cùng đi thì có thể chúng thuộc thổ dân vùng Nam Mỹ.
Vào lúc này, chiếc xuồng đang ở cửa vào của vũng đậu tàu ở bên dưới chiếc hang mà Vasquez ẩn nấp, khoảng cách chừng ba mươi mét. Vasquez mắt không rời chiếc xuồng. Tên chỉ huy ra hiệu cho cả bọn ngừng chèo. Hắn bẻ lái cho xuồng cặp bờ. Cả bốn tên nhảy lên bờ sau khi neo chiếc xuồng trên cát. Và dưới đây là những lời trao đổi lọt vào tai Vasquez:
- Đúng chỗ này chứ?
- Phải rồi, hang ở chỗ kia. Hai chục bước trước chỗ quanh của vách đá.
- Rất may là lũ gác đèn chưa phát hiện ra cái hang!
- Cả bọn thợ xây dựng đèn trong mười lăm tháng cũng không hề tới đó.
- À, bọn chúng còn quá bận rộn với công việc. Với lại cửa hang đã được lấp một cách thật hoàn hảo đến độ khó có thể phát hiện.
- Nào, đi - tên chỉ huy ra lệnh.
Tên chỉ huy cùng hai đồng bọn leo lên vách đá theo một lối đi hẹp.
Từ chỗ nấp của mình, Vasquez theo dõi toàn bộ mọi động thái của bọn chúng, tai anh dỏng lên để không bỏ qua một lời trao đổi nào giữa chúng. Tiếng cát lẫn tiếng vỏ sò lạo xạo dưới chân chúng. Nhưng tiếng động đó nhanh chóng tắt và Vasquez chỉ còn trông thấy tên thứ tư đang đi đi lại lại bên chiếc xuồng.
“Vậy là bọn chúng có một hang đá trên kia" - anh tự nhủ.
Tới đây thì Vasquez không thể nào không nghi ngờ chiếc thuyền buồm đã chở tới đảo một băng cướp biển, bọn này đã từng có mặt ở đảo Đa Quốc gia này từ trước khi hải đăng được xây dựng. Và có phải bọn chúng đã cất giấu những đồ cướp được trong cái hang đá kia?... Và bây giờ chúng đến, để mang những thứ đó lên chiếc thuyền buồm?
Đột nhiên, anh chợt nghĩ ra là trong hang có thể có dự trữ lương thực mà anh có thể sử dụng. Một tia hy vọng ló lên trong tâm trí anh. Ngay sau khi chiếc xuồng kia trở về nơi tàu đậu, anh sẽ ra khỏi chỗ ẩn nấp và tìm đến cửa hang, anh sẽ vào đó và sẽ tìm ra những thứ giúp anh sống đến khi chiếc Santa-fé quay lại?... Và sau đó thì điều mà anh mong muốn nhất, nếu anh sống sót nổi trong vài tuần lễ nữa, là bọn cướp khốn nạn kia không rời được đảo.
Đúng, chúng phải ở lại đây để khi chiếc Santa-fé trở lại, ông thuyền trưởng Lafayate sẽ tính sổ với chúng nó!
Nhưng liệu ước mong đó có thể thành sự thật được không? Sau khi suy nghĩ kỹ, Vasquez cho rằng chiếc thuyền buồm sẽ neo đậu lại trong vịnh Elgor chỉ trong hai, ba ngày thôi. Thời gian đó đủ để cho chúng chất lên tàu những của cải cất trong hang, sau đó thuyền sẽ rời đảo Đa Quốc gia này mãi mãi. Càng nghĩ Vasquez càng thấy giả thiết này càng hợp lý.
Sau khi ở lại trong hang khoảng một tiếng đồng hồ, ba tên cướp ra khỏi hang và đi dạo trên bờ biển. Từ trong cái hố mà anh đang ẩn náu, Vasquez có thể nghe rõ những đối thoại khi bọn chúng nói lớn và từ đó anh có thể rút ra nhiều kết luận.
- Này, bọn chúng nó không lột sạch của cải của bọn mình khi chúng ở đây nhỉ, bọn này tốt thật!
- Và một khi đã dong buồm hẳn chiếc Maule phải được chất đầy của cải.
- Và cả lương thực đủ cho chuyến vượt biển nữa, để chúng ta đỡ lúng túng.
- Ừ, đúng vậy, thực phẩm chất lên thuyền sẽ bảo đảm cho bọn mình no say suốt dọc đường đến các hòn đảo ở Thái Bình dương nhỉ?
- Đồ ngốc! Mười lăm tháng mà bọn chúng tìm không ra kho tàng của bọn mình thì chúng trở lại tìm chúng ta ở mũi Saint - Barthélemy làm gì cơ chứ?
- Vậy thì phải hoan hô chúng nó! Chúng ta đã không bỏ công khi tìm cách lôi các con tàu vào các bãi đá ngầm trên đảo để lột chúng.
Khi nghe bọn cướp vừa cười khoái trí vừa nói, Vasquez sục sôi tức giận, anh chỉ muốn, với khẩu súng trong tay, xông vào đập đầu cả ba đứa. Nhưng anh cố nén giận. Tốt hơn cả lúc này là phải cố nghe bằng hết câu chuyện mà chúng đang trao đổi. Cho đến giờ, anh đã rõ cái nghề nhớp nhơ mà bọn vô lại này đã làm và anh không còn ngạc nhiên khi nghe chúng nói thêm:
- Còn về cây Hải đăng nơi cùng trời cuối đất này nữa, cây đèn biển mà các tàu thuyền trưởng đang tìm kiếm, không có nó thì bọn chúng cũng như những thằng mù.
- Và những thằng mù ấy cứ tiếp tục lao vào đảo để cho thuyền của chúng bị tan xác pháo.
- Tao hy vọng là trước khi chiếc Maule khởi hành, sẽ có một vài con tàu nữa đến chìm trên bãi đá ngầm của mũi San Juan! Chúng ta cần phải chất thật đầy hàng hóa lên thuyền bởi đó là chiếc thuyền ma quỉ đã gửi đến cho ta.
- Ừ! Mà quỉ thần mới khéo làm sao!... Tự nhiên lại mang đến cho ta một con tàu còn nguyên lành, không thuyền trưởng, chẳng có thủy thủ đoàn...
Tất cả đã giải thích vì sao chiếc Maule lại rơi vào tay bọn cướp và bằng cách nào mà nhiều tàu thuyền đã bị mất cả người lẫn của tại nơi đây.
- Và bây giờ, chúng ta làm gì đây hả Kongre? - một trong ba tên lên tiếng hỏi.
- Quay lại chiếc Maule, Carcante - Kongre trả lời.
Theo Vasquez hiểu thì hắn chính là thủ lĩnh bọn cướp.
- Như vậy là chúng ta chưa dọn dẹp hang hôm nay?
- Chưa làm việc đó trước khi sửa xong tàu. Việc sửa tàu đòi hỏi phải vài tuần lễ nữa...
- Vậy thì - Carcante nói - ta sẽ mang lên xuống một ít dụng cụ.
- Đúng, và còn trở lại đây nữa khi cần thiết. Vargas sẽ tìm thấy trong hang những gì cần thiết cho việc sửa tàu.
- Nào, đừng để mất thời gian nữa - Carcante lặp lại - Nước triều sắp lên, ta cần lợi dụng nó.
- Dĩ nhiên rồi - Kongre đáp - khi nào thuyền sửa xong hoàn toàn, chúng ta sẽ cho chất hàng lên. Giờ thì không sợ ai lấy cắp nữa.
- Mà Kongre này! Mày đừng quên là có ba tên gác đèn và một đứa đã thoát khỏi tay chúng ta.
- ao không cần bận tâm, chỉ trong vòng hai ngày là nó sẽ chết đói, trừ phi nó có thể sống nhờ ăn rêu và vỏ sò… Vả lại chúng ta sẽ lại lấp cửa hang lại.
- Không cần thiết - Carcante nói - Đáng giận là phải sửa chữa con tàu. Lẽ ra, sáng mai chiếc Maule đã có thể ra khơi được. Rất có thể, trong lúc tàu neo đậu ở đó thì có một con tàu khác lao vào, và chuyện đó xảy ra mà ta không cần dụ dỗ nó... và chiếc chìm sẽ là nó chứ không phải là ta.
Kongre cùng bọn cướp ra khỏi hang mang theo một số dụng cụ, một số tấm gỗ... để sửa chữa lại vỏ thuyền. Và, sau khi cẩn thận lấp lại cửa hang như cũ, chúng đi xuống bờ biển và lên xuồng, đúng vào lúc nước triều đang dâng.
Chiếc xuồng lập tức rời bờ và dưới sức đẩy của mái chèo và nước triều, nó nhanh chóng khuất sau một mỏm núi.
Khi không còn lo bị phát hiện nữa, Vasquez bước ra khỏi chỗ nấp. Bây giờ thì anh đã nắm được mọi điều cần biết, trong đó có hai điểm quan trọng sau: thứ nhất là anh có thể có được số lương thực đủ sống qua nhiều tuần lễ; thứ hai là hiện chiếc thuyền buồm đang bị hư hại, và để sửa chữa nó đòi hỏi ít nhất nửa tháng, có thể hơn nữa, nhưng cũng không quá kéo dài cho tới lúc chiếc Santa-fé quay lại.
Còn về chuyện làm chậm trễ ngày khởi hành của nó nếu nó đã sửa xong, liệu Vasquez có dám nghĩ đến không?
Phải, nếu có con tàu nào đi qua mũi San Juan với khoảng cách ngắn, anh sẽ đánh tín hiệu cho nó... và nếu cần thiết hơn nữa, anh sẽ lao xuống biển mà bơi ra... lên được tàu rồi anh sẽ cho ông thuyền trưởng hay tình hình đảo... và nếu ông thuyền trưởng đó có thủy thủ đoàn khá đông, ông ta sẽ không ngần ngại gì mà không tiến vào vịnh Elgor để đoạt lấy chiếc thuyền buồm, nhưng nếu như bọn bất lương đó chạy vào bên trong đảo thì... đến khi chiếc Santa-fé quay lại đảo, thuyền trưởng Lafayate sẽ biết cách để thanh toán toàn băng cướp đó! Nhưng liệu sẽ có con tàu nào đến với mũi San Juan không? Và nếu có được một con tàu như thế, nó có thể nhận ra các tín hiệu của Vasquez không?
Còn riêng về bản thân anh, nghe Kongre nói là hắn không cần bận tâm gì đến mình, nên anh cũng yên tâm, anh biết cách thoát khỏi sự truy lùng của bọn chúng. Điều chính bây giờ là ngay tức thì phải tìm cách tìm hiểu xem liệu mình có thể có đủ lương thực để sống cho tới lúc chiếc tuần dương hạm trở lại không. Nghĩ vậy nên, không chút chậm trễ, anh tiến về phía hang đá.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Sửa chữa những chỗ hư của thuyền có thể vượt Thái Bình dương với bụng chất toàn bộ của cải trong hang đá, ra khơi sớm chừng nào hay chừng ấy, đấy là những gì mà Kongre và đồng bọn phải bận rộn đến tối mắt tối mũi.
Nói cho đúng thì việc sửa chữa vỏ chiếc Maule là một công việc khá nặng nhọc. Nhưng tay thợ mộc Vargas là một người biết nghề, hắn lại không thiếu dụng cụ và vật liệu nên công việc được tiến hành trong những điều kiện tốt nhất.
Trước tiên, cần phải bỏ hết các vật dằn ra, rồi kÉo thuyền lên bờ đá, cho nó nằm nghiêng về bên trái. Công việc sửa tàu sẽ TIến hành ở bên ngoài, bởi vì cần phải thay một số thanh gỗ bao. Rất có thể công việc này đòi hỏi một số thời gian nhất định; nhưng Konge tỏ ra không lo ngại gì về vấn đề thời gian, trước mắt mùa đẹp trời còn kéo dài ít nhất là hai tháng nữa.
Còn về chuyện đối phó với tổ gác mới sẽ thay thế, hắn đã có kế hoạch.
Thực vậy, theo sổ trực ban tìm thấy trên tháp đèn thì hắn đã nắm được những điều cần biết như sau: việc thay thế tổ gác sẽ được tiến hành hằng quý, chiếc tuần dương hạm Santa-fé sẽ trở lại vịnh Elgor vào đầu tháng Ba, mà bây giờ mới là cuối tháng Chạp. Đồng thời cuốn sổ trực cũng cho biết tên ba người bảo vệ đầu tiên: đó là Moriz, Felipe và Vasquez. Hai người đã bị chúng giết, còn một người đã chạy thoát, người này đang trốn ở đâu? Kongre không mấy bận tâm như ta đã biết. Chỉ riêng chuyện không có gì để ăn là người này sẽ phải gục.
Tuy nhiên nếu thời gian dư dả cho việc sửa chữa thì vẫn phải tính đến những sự chậm trễ có thể cho nhiều lý do chính xác hơn, ngay từ ban đầu, công việc sửa chữa tàu đã bị ngưng vì lý do sau:
Khi vừa mới dỡ xong các vật dằn trên tàu xuống, Kongre dự tính để tàu lên nằm ụ trên bờ đá ngày hôm sau thì đêm mùng 3 rạng ngày 4 tháng Giêng, một sự thay đổi đột ngột về thời tiết đã xảy ra.
Đêm ấy, nhiều đám mây đùn lên ở chân trời phía nam. Trong khi nhiệt kế chỉ mười sáu độ thì phong vũ biểu lại báo có bão. Nhiều tia chớp rạch ngang bầu trời. Sấm sét nổi cơn thịnh nộ khắp nơi. Gió gào thét dữ dội, nước biển dâng lên ngập lút các bờ đá và sóng đập tung tóe vào các vách đá đựng đứng. May mắn là chiếc Maule lúc ấy đang neo đậu trong vịnh Elgor đã được núi che khỏi gió đông nam. Với cơn gió bão cỡ ấy thì ngay những con tàu lớn dù là thuyền buồm hay tàu hơi nước, cũng đều có nguy cơ bị đập vào các bờ đá, huống hồ là một chiếc thuyền buồm cỡ chiếc Maule.
Sự dữ dội của cơn giông tố cũng như cơn thịnh nộ của đại dương đã gây nên một cơn sóng lừng tràn vào vịnh. Vào lúc triều cường, nước dâng lên ngập các bãi đá. Đánh dữ dội vào chân các vách đá, bờ đá ngập trắng nước biển. Sóng biển tràn cả vào chỗ ở của tổ gác đèn và lớp bụi nước bay mù mịt cả khu rừng sồi.
Tất cả mọi cố gắng của Kongre và đồng bọn chỉ nhằm giữ chiếc Maule ở chỗ neo đậu. Rất nhiều lần chiếc neo tàu bị trượt đi, đe dọa làm tàu bị mắc cạn lẳn nữa. Bọn cướp phải thả xuống một chiếc neo thứ hai để tăng cường cho neo thứ nhất. Hai lần con tàu suýt rơi vào thảm họa.
Lẽ tự nhiên, để có thể ngày đêm theo dõi chăm sóc chiếc Maule, toàn băng cướp đã ở ngay trong các công trình phụ của hải đăng, nơi đó chúng không phải lo ngại gì mưa bão. Toàn thể đồ đạc, giường, đệm trên các cabin đều được mang lên tháp đèn, ở đó có đủ chỗ ăn, chỗ ngủ cho khoảng mười lăm tên.
Về lương thực, chúng chằng cần bận tâm. Các thứ có trong kho hải đăng không những đủ dùng mà còn có thể nuôi sống một số miệng ăn nhiều gấp đôi bọn cướp. Vả lại, khi cần chúng còn có các đồ dự trữ trong hang đá. Nói tóm lại về lương thực thì bảo đảm đủ dùng cho chuyến vượt biển xa trên Thái Bình dương.
Thời tiết xấu kéo dài mãi tới ngày 12 tháng Giêng và chỉ chấm dứt trong đêm 12 rạng ngày 13. Như vậy là cả một tuần lễ trôi qua mà không làm được một công việc nào cả.
Cũng may là Kongre đã cẩn thận để lại một số vật dằn trên thuyền, nếu không nó sẽ lăn tròn như chiếc xuồng. Ngoài ra, chúng cũng đã đề phòng neo chiếc tàu ở xa các bãi đá, tránh không để nó bị mắc cạn như hôm nào.
Gió đổi hướng trong đêm và chuyển sang tây – tây nam. Đúng ngay ở chỗ mũi Saint - Barthélemy mà gió trở nên mạnh nhất.
Nếu chiếc Maule mà vẫn còn ở chỗ vũng nhỏ cạnh mũi chắc chắn là đã bị chìm từ lâu.
Trong tuần lễ kế tiếp, đã có một con tàu đi ngang qua đảo. Lúc ấy là vào ban ngày. Con tàu ấy chưa biết là trên đảo đã có một ngọn hải đăng. Nó đến từ phía đông bắc và tiến vào eo biển Lemaire với vận tốc vừa phải. Một lá cờ Pháp phấp phới trên đỉnh cột buồm.
Thực ra thì tàu còn cách bờ biển đến ba hải lý nên phải dùng kính viễn vọng mới nhìn rõ quốc tịch của nó, và như vậy cho dù Vasquez có đánh tín hiệu ra thì tàu cũng không thấy được vì nếu thấy thì làm gì mà một viên thuyền trưởng người Pháp lại không cho xuồng vào cứu nạn nhân.
Trong buổi sáng ngày 13, đống sắt dùng làm vật dằn lại được dỡ ra khỏi tàu và được chất đống trên bờ cát và việc kiểm tra phần trong của vỏ tàu được thực hiện còn kỹ hơn là khi ở mũi Saint - Barthélemy. Tên thợ mộc tuyên bố là tàu bị hư hại nghiêm trọng, không phải chỉ nhẹ như mọi người đã suy đoán. Chiếc Maule đã phải dầu dãi nhiều trong cuộc vượt biển với thời tiết khá khắc nghiệt. Chính vì thế mà chỗ nứt đã mở rộng ra. Hiển nhiên tàu không thể nào rời vịnh Elgor được. Cần phải tìm chỗ để cho tàu khô ráo, sau đó thay mới hai rẽ đáy, ba rẽ sườn, và một đoạn vỏ tàu dài chừng gần hai mét.
Các vật liệu đủ loại dùng để sửa chữa đã được thu nhặt cất trong hang rất nhiều. Với sự hỗ trợ của đồng bọn, tên thợ mộc Vargas chắc chắn sẽ hoàn thành việc đúng thời hạn, vì nếu không thì chiếc Maule không thể nào mạo hiểm vượt Thái Bình dương được. Điều mà cả bọn cho là vô cùng may mắn cho đến lúc này là toàn bộ các cột buồm, cánh buồm và toàn bộ dây chảo, ròng rọc đều không bị hư hại một chút nào cả.
Việc đầu tiên phải làm là kéo tàu lên bờ cát, để tàu có thể nằm nghiêng trên sườn phải. Điều này chỉ làm được khi có nước triều lên, vì thiếu những máy móc mạnh để kéo tàu. Như thế sẽ chậm thêm hai ngày để chờ con nước lớn đầu tuần trăng, lúc ấy nước triều sẽ đủ lớn để đưa tàu lên bờ cát nằm khô ráo ở đó cho hết tuần trăng.
Kongre và Carcante lợi dụng thời gian chờ đợi ấy để quay trở lại hang đá, và lần này bọn chúng dùng xà lúp của tổ gác đèn để đi lại vì chiếc này lớn hơn xuồng cứu hộ của thuyền buồm. Chiếc xà lúp lúc quay về hải đăng đã chở theo một phần các món đồ quí giá, vàng bạc, châu báu đã cướp được cùng nhiều thứ có giá trị khác, dần dần được chuyển về cất trong các công trình phụ của tháp đèn. Chiếc xà lúp lại ra đi vào sáng ngày 14 tháng Giêng.
Lúc này nước triều đã xuống được hai tiếng đồng hồ, xà lúp sẽ quay lại lúc triều lên vào buổi chiều.
Thời tiết hôm nay khá tốt. Những tia nắng chiếu xuyên qua những đám mây đang được gió biển thổi nhẹ đưa chúng về phía nam.
Cũng như mọi ngày, trước khi rời tháp đèn, Carcante leo lên hành lang trên của cây đèn để quan sát chân trời. Ngoài khơi lúc này vắng vẻ, không có bóng dáng một con tàu nào, ngay cả những tàu đánh cá của thổ dân đôi khi thấp thoáng ở các đảo bắc cũng không. Trên đảo cũng vắng vẻ trong những nơi mà tầm mắt nhìn thấy.
Trong khi chiếc xà lúp đi theo làn nước triều đang xuống. Kongre quan sát kỹ hai bên bờ vịnh. Không biết người gác đèn thứ ba, cái tên đã thoát khỏi cuộc tàn sát, giờ này hắn ở đâu?... Mặc dầu không mấy bận tâm, nhưng nếu như được thì vẫn hơn, một khi có cơ hội.
Trên đảo cũng vắng vẻ như trên mặt biển. Thỉnh thoảng vài con chim biển cất tiếng kêu khi bay về tổ trên vách đá.
Vào lúc mười một giờ trưa, chiếc xà lúp máy áp mạn vào bờ trước cửa hang đá, dưới tác dụng của nước triều xuống và gió nhẹ. Kongre và Carcante lên bờ sau khi cắt cử hai tên ở lại coi xà lúp. Chúng tiến về phía hang đá và ra khỏi hang nửa giờ sau đó.
Mọi đồ vật trong hang có vẻ y như lúc ra đi. Thực ra, mọi thứ trong đó được vất chỏng chơ, không theo một trật tự nào, cộng thêm thứ ánh sáng lờ mờ trong hang, thật khó mà biết được nó có suy suyển gì không.
Kongre và tên cùng đi khiêng ra hai chiếc rương đã được đậy kỹ lưỡng. Hai chiếc rương này là của một tàu ba cột buồm mang cờ Anh bị đắm cách đây ít lâu, trong chứa toàn vàng bạc, châu báu. Chúng đặt hòm lên xà lúp và đang định quay về thì bỗng nhiên Kongre nảy ra ý định chạy thẳng đến mũi San Juan. Từ chỗ đó hắn có thể quan sát bờ biển theo hướng từ nam ra bắc.
Hắn cùng Carcante đi lên đỉnh vách đá rồi men xuống đầu mũi. Từ mũi đá này, tầm nhìn có thể bao quát cả một không gian từ eo biển Lemaire đến tận mũi Several.
- Không có ai cả - Carcante nói.
- Đúng... không có ai! - Kongre đáp.
Cả hai tên cùng trở về xà lúp và lợi dụng nước triều đang lên, chúng cho xuồng lướt trên sóng. Trước ba giờ, chúng đã về tới cuối vịnh Elgor.
Hai ngày sau đó, ngày 16, Kongre và đồng bọn tiến hành công việc kéo tàu Maule lên cạn vào lúc mười một giờ, là lúc mực nước triều lên cao nhất thì mọi việc đã sẵn sàng.
Một sợi dây buộc tàu được dùng vào việc kéo chiếc thuyền buồm lên bãi cát khi nước đã dâng cao đến đó. Đúng ra thì thực hiện việc này không mấy khó khăn vì nước triều đã giúp chúng làm mọi thứ. Ngay khi nước triều đã lên đủ cao, chúng kéo căng sợi dây buộc thuyền và kéo nó lên bờ cát, càng xa bên trong càng tốt.
Sau đó, chỉ còn chờ triều xuống. Vào khoảng một giờ trưa nước bắt đầu rút để lộ ra những tảng đá ở gần vách đá và đáy của chiếc Maule bắt đầu chạm vào cát. Đến ba giờ, nước rút hết còn trơ lại chiếc Maule nằm nghiêng về mạn phải.
Bây giờ thì có thể bắt tay vào sửa chữa tàu. Tuy nhiên, vì không thể đưa tàu vào sát vách đá được nên công việc sửa tàu vẫn phải gián đoạn vài tiếng đồng hồ mỗi ngày khi nước lên. Mặt khác, cũng vì từ hôm đó trở đi, nước biển xuống thấp dần cho nên thời giờ nhàn rỗi cũng giảm dần và đến mười lăm ngày sau thì công việc đã có thể tiến hành liên tục.
Tên thợ mộc bắt đầu việc sửa chữa trừ mấy tên thổ dân không biết gì nghề mộc, số còn lại, kể cả Kongre và Carcante đều xúm vào hỗ trợ hắn.
Chỗ hư hại ở vỏ thuyền được tháo ra dễ dàng, chỉ việc rút hết đinh ra và tháo các lá đồng gia cố thì các rẽ đáy và rẽ sườn cần thay thế đã lộ ra trước mắt. Chỗ ván gỗ phẳng và cong mang từ trong hang ra dư dùng. Nếu có thiếu thì chỉ việc hạ một cây sồi, trong rừng việc cưa xẻ cũng không lấy gì làm khó khăn cho lắm.
Mười lăm ngày sau đó, nhờ thời tiết tốt, bọn chúng đã hoàn tất công việc sửa chữa, khó khăn nhất là việc tháo dỡ các rẽ đáy và rẽ sườn ra khỏi vỏ tàu. Những chi tiết này được gắn bằng đinh tán bằng đồng, nối liền nhau bằng cách chốt gỗ. Nhìn chung, tàu đã được đóng rất chắc vì nó đã hạ thủy từ một xưởng đóng tàu có tiếng ở Valparaiso.
Vargas đã phải rất vất vả mới hoàn tất được khâu đầu tiên của việc sửa chữa ấy và cũng phải nói nếu không có các dụng cụ làm mộc lấy từ trong hang ra, thì hẳn phải còn lúng túng nhiều.
Tất nhiên là trong những ngày đêm, công việc cứ bị gián đoạn khi nước triều lên. Sau đó thì triều yếu dần, công việc tiến triển nhanh hơn và sau cùng khi nước không liếm tới vỏ tàu nữa thì người ta có thể chui hẳn vào trong tàu mà làm việc. Nhưng quan trọng nhất là phải sửa chữa vỏ tàu trước khi triều cường trở lại.
Nhờ thận trọng không cho động đến lớp đồng của phần gia cố ở vỏ tàu nên Kongre đã sử dụng lại được hầu hết các mấu đỡ dưới lườn tàu, và phần nối ghép chỉ cần một ít nhựa đường cùng những thứ linh tinh thì lựa ra trong đám những mảnh tàu trôi giạt đã gom được.
Công việc sửa tàu tiếp tục cho đến cuối tháng Giêng, trong những điều kiện thuận lợi nói trên. Thời tiết vẫn chiều lòng bọn cướp, ngoại trừ vài ngày mưa, đôi khi cũng có mưa to, nhưng nhìn chung thì mưa không kéo dài mấy.
Trong thời gian này, có hai lần có tàu xuất hiện ngoài khơi đảo Đa Quốc gia. Lần đầu là một chiếc tàu của Anh chạy bằng hơi nước đi từ hướng Thái Bình dương lại. Sau khi vượt qua eo biển Lemaire nó đi ra xa về hướng đông bắc có lẽ để đến một hải cảng châu Âu nào đó. Tàu qua mũi San Juan vào ban ngày, xuất hiện từ lúc sáng sớm, và khuất dạng trước lúc mặt trời lặn. Có thể viên thuyền trưởng chưa biết rằng hải đăng đã bị tắt.
Tàu thứ hai là một chiếc tàu ba buồm không rõ quốc tịch. Lúc đêm bắt đầu xuống là lúc tàu này xuất hiện ở mũi San Juan để men theo bờ biển phía đông đi về mỏm Several. Lúc này Carcante ở trong phòng trực, chỉ thấy ngọn đèn hiệu xanh bên mạn phải. Nhưng viên thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của chiếc tàu buồm này có lẽ đã lâu chưa qua vùng biển này, nên không biết gì về sự có mặt của ngọn hải đăng ở đây. Chiếc tàu ba buồm đó chạy khá gần bờ nên có thể nhận ra các tín hiệu, một ngọn đèn được thắp lên ở đầu mũi đá.
Không biết Vasquez có tìm cách gây sự chú ý của nó không? Nhưng dù sao thì vào lúc mặt trời mọc, con tàu ấy cũng đã biến mất ở phía nam.
Còn nhiều tàu buồm và tàu thủy khác cũng đã xuất hiện ở chân trời nhưng có lẽ chúng đều đi về hướng quần đảo Malouines. Những tàu ấy có lẽ còn không biết đến sự có mặt của hòn đảo Đa Quốc gia trên đại dương này nữa.
Đến ngày cuối cùng của tháng Giêng, vào lúc triều cường của tuần trăng, thời tiết bắt đầu biến đổi rõ rệt. Gió nổi lên từ phía đông và thổi thẳng vào cửa vịnh Elgor. May mắn làm sao, dẫu công việc sửa tàu chưa hoàn tất nhưng các rẽ đáy, rẽ sườn đã được thay mới sẽ làm cho vỏ tàu Maule không còn bị vô nước. Bây giờ thì không còn lo nước tràn vào trong khoang tàu được nữa.
Thật đáng ăn mừng việc này vì trong suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ giông bão giữa sóng gió mịt mù, nước biển dâng lên và con tàu đã đứng thẳng lên, vỏ tàu không còn bị chôn trong cát.
Kongre và đồng bọn rất cẩn thận để tránh cho con tàu không bị hư hại có thể làm chậm trễ ngày khởi hành. Trong cơn gió bão, chiếc thuyền buồm tiếp tục đứng vững. Nó bị sóng đánh khiến tròng trành dữ dội nhưng vẫn không hề có nguy cơ bị va vào bờ đá.
Vả lại, bắt đầu từ mùng 2 tháng Hai, nước triều bắt đầu xuống và chiếc Maule lại đứng bất động trên bãi cát. Chúng bắt đầu công việc sửa ở phần trên vỏ tàu từ bình minh cho đến tối mịt, tiếng đóng đinh vào sóng thuyền không ngớt vang lên.
Hơn nữa, việc chất hàng lên tàu không làm cho tàu phải khởi hành chậm trễ. Chiếc xà lúp đi đi lại lại về hang đá với những người không phải do Vargas chỉ định, khi thì Kongre, khi thì Carcante cùng đi với những tên này. Cứ mỗi chuyến đi về của xà lúp thì một phần những đồ vật sẽ chất vào khoang thuyền buồm được chuyển về. Những thứ ấy, được tạm chứa trong nhà kho của hải đăng. Như thế việc chất hàng sẽ được dễ dàng hơn, đều đặn hơn là nếu chiếc Maule chạy đến đậu trước cửa hang, nơi đó công việc sẽ đòi hỏi nhiều thời gian hơn. Trên bờ biển này, nơi kéo dài của mũi San Juan, không có chỗ nào kín đáo hơn cái vũng nhỏ, dưới chân ngọn hải đăng này.
Chỉ còn vài ngày nữa thì công việc sửa chữa hoàn tất, chiếc Maule sẽ sẵn sàng ra khơi, lúc ấy nó ăn hàng ngày cũng không muộn.
Thực thế, vào ngày 12, công việc sửa chữa cuối cùng đã hoàn tất, vỏ tàu đã được đóng lại rất chắc chắn. Với mấy thùng sơn kiếm được trên các con tàu đắm, con tàu được sơn mới từ mũi cho đến lái. Kongre cũng muốn nhân dịp này mà đặt lại tên cho chiếc thuyền, tên mới của tàu là Carcante, nhằm tôn vinh công trạng cho tên phó đảng. Hắn cũng không hề bỏ qua việc kiểm tra lại các lá buồm, sửa sang lại đôi chút mặc dầu trên giấy tờ khi xuất phát từ cảng Valparaiso thì dàn buồm của tàu hoàn toàn mới.
Chiếc tàu mà giờ đây đã mang tên Carcante, sẽ được đưa trở về nơi neo đậu trong vịnh kể từ ngày 12 tháng Hai. Sau đó sẽ chất hàng hóa lên tàu ngay bởi vì Kongre và đồng bọn rất nóng lòng rời đảo. Tuy nhiên, bọn chúng đã rất thất vọng vì phải chờ cho tới kỳ con nước lớn vào tuần trăng sau mới có thể đưa chiếc thuyền buồm ra khơi. Kỳ triều cường đó rơi vào ngày 24 tháng Hai. Ngày đó sống tàu sẽ rời khỏi cái rãnh nó đào trong cát và chiếc thuyền buồm sẽ lướt nhẹ nhàng trên sóng nước.
Ngoại trừ những điều bất thường không tiên liệu trước được, chiếc Carcante sẽ ra khơi trong vài ngày nữa, nó sẽ ra khỏi vịnh Elgor, vượt qua eo biển Lemaire, thẳng hướng tây nam và căng buồm tiến vào Thái Bình dương.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Kể từ khi chiếc thuyền buồm đến neo ở vịnh Elgor, Vasquez quanh quẩn dọc theo bờ của mũi San Juan, nơi mà anh không muốn rời xa nữa. Nếu có con tàu nào đi qua vịnh, thì ít ra anh cũng có thể kêu cứu kịp thời. Khi ấy hẳn là người ta sẽ đón tiếp anh và anh sẽ báo cho thuyền trưởng của con tàu biết về mối nguy hiểm tàu có thể gặp nếu nó đi về phía hải đăng; anh sẽ cho họ biết hiện có một băng cướp đang làm chủ hải đăng, và nếu thủy thủ đoàn của tàu đó không đủ sức chiếm lại hải đăng hay xua đuổi bọn cướp ra khỏi đảo, thì nó vẫn còn đủ thời gian để chạy ra khỏi.
Nhưng chuyện ấy thật là viển vông bởi vì nếu không bị bắt buộc thì con tàu nào chịu neo đậu ở đây, trong một cái vịnh mà người ta vừa mới được biết. Khả năng dễ xảy ra nhất là con tàu ấy đi về quần đảo Malouines - chuyến đi chỉ trong vài ngày, và các nhà chức trách Anh có thể đã nhanh chóng được thông báo về các sự kiện đã xảy ra trên đảo Đa Quốc gia này. Và một chiến hạm có thể được phái ngay đến vịnh Elgor, trước khi chiếc Maule lên đường rời đảo, băng cướp sẽ bị tiêu diệt cho đến tên cuối cùng, sau đó người ta sẽ làm những gì cần thiết để cho hải đăng sáng trở lại. “Nếu vậy thì - Vasquez tự nhủ thầm - hẳn là mình phải chờ cho đến khi chiếc Santa-fé trở lại; thế thì còn hai tháng nữa?... Từ bây giờ đến đó bọn cướp này hẳn đã cao chạy xa bay... và biết tìm nó ở đâu trong Thái Bình dương bao la này đây..."
Vasquez dũng cảm không nghĩ gì đến bản thân, chỉ nhớ đến hai bạn xấu số đã bị sát hại một cách thảm thương, chỉ nghĩ đến lúc bọn bất lương chạy khỏi đảo mà không hề bị trừng trị. Anh còn nghĩ đến những mối nguy hiểm to lớn sẽ xảy đến cho các tàu thuyền qua lại vùng biển này mà không còn được hải đăng hướng dẫn nữa.
Tuy nhiên, về phương diện vật chất và với điều kiện không bị phát hiện, thì cuộc sống của anh giờ đây đã được bảo đảm, kể từ sau lúc anh đột nhập được vào bên trong hang đá nơi cất giấu của cải của bọn cướp.
Hang này ăn sâu vào bên trong vách đá. Đây là nơi mà bọn cướp trú ẩn trong nhiều năm. Đây cũng là kho để cất giấu của cải cướp được như vàng bạc châu báu. Cũng chính nơi này là Kongre cùng đồng bọn đã sống qua nhiều tháng dài nhờ vào số lương thực chúng mang theo và cả những thứ chiếm đoạt được từ những chiếc tàu đắm mà phần lớn là do chúng gây ra. Trong đám lương thực thực phẩm ấy Vasquez chỉ lấy những gì cần thiết, cốt sao bọn chúng không nghi ngờ gì cả: một thùng bích quy dùng cho các thủy thủ, một thùng thịt bò sấy khô, một bếp lò dùng để chế biến thức ăn, một ấm đun nước, một tách uống nước, một chiếc chăn len, một ít quần áo, vớ và cả áo khoác, hai khẩu súng lục và vài chục viên đạn, một bật lửa, một cái đèn, một cái bùi nhùi. Anh cũng không quên lấy mấy lạng thuốc lá để hút tẩu. Vả lại, nhờ vào những lời trao đổi của bọn cướp mà anh nghe được thì công việc sửa chữa tàu phải kéo dài nhiều tuần lễ, do đó anh còn có thể lấy thêm lương thực. Cũng cần nói thêm rằng, do thận trọng, vì thấy cái hốc đá mà anh hiện đang ẩn náu quá gần cái hang đá, anh đã đi tìm một chỗ nương náu khác xa hơn và an toàn hơn. Chỗ ở mới đó cách nơi cũ khoảng năm trăm bước chân, nằm ở phía sau vách đá, hơi xa mũi San Juan hơn chỗ cũ một chút. Nằm giữa hai tảng đá cao chống đỡ vách đá, có một cái hang mà bên ngoài khó nhìn thấy cửa vào. Muốn vào đấy phải lách mình qua khe hẹp tạo nên bởi hai tảng đá mà người ngoài khó nhận ra giữa từng hàng tảng đá chất chồng. Vào lúc nước triều lên cao nhất, nước biển lên đến lưng chừng vách đá nhưng cũng không làm ngập lòng hang mà cát mịn đã phủ đầy, trong hang không hề có vỏ sò, vỏ ốc hay chỗ nào ẩm ướt. Người ngoài có thể qua lại hàng trăm lần trước cửa hang mà không hề biết đến lòng hang bên trong, đây cũng là do ngẫu nhiên mà Vasquez đã phát hiện ra mấy ngày trước.
Anh liều mang các thứ lấy được của bọn cướp vào cất trong chỗ ẩn náu mới.
Nơi này, rất hiếm khi Kongre, Carcante hay những tên khác bước chân đến. Chỉ có một lần duy nhất mà chúng đến gần, đó là lần mà Vasquez vào sào huyệt của chúng lần thứ hai, khi ra anh bắt gặp bọn chúng ngồi ở gần mũi San Juan.
Anh phải núp vào khe hẹp giữa hai tảng đá và bọn chúng đã không trông thấy anh.
Cũng cần nói thêm là không bao giờ anh mạo hiểm ra ngoài mà không đề phòng đến những chuyện nhỏ nhặt nhất, những lúc tìm vào hang đá của bọn chúng, trước khi đi khuất ở chỗ ngoặt của vách đá, anh luôn quan sát mặt biển xem có thấy chiếc xuồng hay chiếc xà lúp nào đậu ở đấy không, nhưng không bao giờ thấy.
Tuy nhiên đã bao nhiêu lần anh bị nỗi cô đơn giày vò và những kỷ niệm đau thương cứ luôn ám ảnh anh! Anh làm sao quên được cảnh Felipe và Moriz bị sát hại còn anh thì thoát được. Một sự ham muốn không nguôi trong anh là có ngày được gặp tên cầm đầu băng cướp để trả thù cho những người bạn xấu số bằng chính đôi tay của anh!
Không... không! Anh luôn tự nhắc lại, sớm hay muộn bọn chúng sẽ bị trừng phạt! Chúa sẽ không để chúng thoát khỏi sự trừng phạt... Chúng sẽ phải trả món nợ máu này bằng chính mạng sống của chúng!
Anh quên rằng mạng sống của anh rất mong manh, chừng nào chiếc thuyền buồm còn neo đậu lại trong vịnh Elgor. “Tuy nhiên... - anh kêu lên - chúng sẽ không thể chạy đi đâu được, bọn khốn nạn! Chúng sẽ vẫn còn ở lại đó cho đến lúc chiếc Santa-fé quay lại... Chúa sẽ ngăn không cho chúng ra đi!”...
Mơ ước trên liệu có thành sự thực? Phải mất hơn ba tuần lễ nữa thì chiếc tuần dương hạm mới có mặt ở ngoài khơi của đảo!
Mặt khác, chiếc thuyền buồm neo đậu kéo dài không làm Vasquez phải ngạc nhiên. Những chỗ hư hại của con tàu có nghiêm trọng đến mức phải mất đến một tháng mới có thể sửa chữa nó? Cuốn sổ trực trên hải đăng chắc hẳn đã cho Kongre biết thời gian tổ gác thứ hai ra đảo. Hắn không thể nào không biết rằng nếu con tàu không ra được biển trước những ngày đầu tiên của tháng ba thì... Bây giờ đang là 15 tháng Hai.
Vasquez đột nhiên nóng lòng, sốt ruột. Anh rất muốn biết có chuyện gì xảy ra trên đảo không. Khi mặt trời đã lặn, anh đi về phía cửa vịnh, đi dọc bờ vịnh về phía bắc, hướng về phía hải đăng.
Mặc dầu lúc đó đã tối mịt, anh cũng cố không để xảy ra nguy cơ bị bọn chúng bắt gặp. Vì vậy anh thận trọng men theo vách đá đứng, vừa đi vừa nghe ngóng, quan sát bóng tối xem có tiếng động đáng ngờ nào vang tới.
Vasquez phải đi bộ khoảng ba hải lý mới đến được cuối vịnh. Hướng này ngược với hướng chạy trốn lần trước, lúc hai người bạn bị sát hại. Cũng như lần trước, anh cố gắng để không bị chúng phát hiện.
Vào khoảng chín giờ tối, anh dừng lại khi còn cách tháp đèn khoảng hai trăm bước và từ nơi đó anh nhìn rõ ánh đèn hắt ra từ mấy khoang cửa sổ của các công trình phụ.
Một thoáng giận dữ, anh phác một cử chỉ đe dọa khi nghĩ rằng bọn cướp đang ở chỗ kia, nơi cư trú của những người mà chúng đã giết và của người chúng sẽ giết nếu như anh rơi vào tay chúng!
Từ chỗ đang đứng, Vasquez không tài nào trông thấy chiếc thuyền buồm, lúc đó đang được bóng tối che phủ.
Anh bèn tiến lại gần hơn, khoảng một trăm bước nữa mà không hề nghĩ tới mối hiểm nguy đang đe dọa. Toàn băng cướp đang ở trong chỗ ngủ của tổ gác lúc trước. Chắc chẳng có tên nào ra ngoài vào giờ này.
Vasquez tiến lại gần chiếc thuyền hơn chút nữa. Anh rón rén đi ve phía bờ vũng tàu. Chính ở chỗ này chiếc thuyền buồm đã bị mắc cạn. Giờ đây, nó đang nổi trên mặt biển đã neo giữ bởi sợi dây neo!
A! Nếu có thể, và nếu chỉ liên quan đến riêng mình thì anh sẽ rất vui sướng mà đâm thủng vỏ tàu để cho nó chìm xuống đáy vịnh.
Vậy là các chỗ hư hại đã được sửa chữa. Tuy nhiên, Vasquez có nhận xét: chiếc thuyền buồm nổi còn thấp hơn đường mớn nước khoảng tám tấc nữa. Điều đó cho biết những vật dằn cũng như mọi hàng hóa khác chưa được chất lên tàu. Như vậy phải mất vài ngày nữa, tàu mới ra khơi được. Nhưng chắc chắn đấy phải là thời hạn cuối cùng và trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa, chiếc Maule sẽ nhổ neo, nó sẽ vượt qua mũi San Juan và khuất dạng mãi mãi nơi chân trời.
Vasquez chỉ còn lại một ít lương thực. Vậy là sáng mai, anh sẽ phải đi vào hang đá của chúng để lấy thêm lương thực.
Trời sắp sáng, nhưng anh nghĩ thầm là chiếc xà lúp sẽ phải quay lại hang vào sáng đó để mang đi tất cả những thứ sẽ phải chất lên tàu, anh vội vã ra về mà vẫn không quên là phải hết sức thận trọng. Lúc anh quay về phía vách đá, nhìn không thấy chiếc xà lúp, và bờ biển vẫn hoàn toàn vắng vẻ.
Vascluez đi vào trong hang đá. Anh vẫn thấy rất nhiều thứ trong đó, toàn những thứ vô giá trị mà Kongre không muốn mang xuống tàu làm gì cho chật chỗ. Tuy nhiên khi Vasquez tìm đến bánh bích quy, thịt sấy... thì anh đã thất vọng biết bao!
Tất cả những thứ gì ăn được đều đã bị mang đi!... Và chỉ còn bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa là anh không còn gì để ăn cả!...
Vasquez không còn thì giờ để thả mình vào dòng suy nghĩ nữa. Đúng lúc đó, có tiếng mái chèo khua nước vang lên. Chiếc xà lúp đã tới mang theo Carcante cùng hai tên đồng bọn nữa.
Vasquez vội vàng thoát ra khỏi hang, khi đến bên ngoài, anh nhìn thấy chiếc xà lúp đã cặp bờ. Anh chỉ còn kịp lao trở lại hang, núp vào chỗ tối nhất, ngay sau đống buồm chảo mà chiếc thuyền buồm không cần đến nữa, được vất lại trong hang.
Vasquez quyết liều mạng sống của mình với chúng, nếu chẳng may bị phát hiện. Khẩu súng lục anh luôn giắt trong thắt lưng, anh sẽ sử dụng. Nhưng chỉ mình anh chống lại ba tên!...
Chỉ có hai tên đi lên hang, đó là Carcante và tên thợ mộc Vargas. Kongre ở lại dưới xuồng, Carcante cầm một cây đèn trong tay, theo sau là Vargas. Tên thợ mộc đang chọn vài thứ cần thiết cho chiếc thuyền buồm.
Trong lúc lục lọi các thứ, chúng trao đổi với nhau. Tên thợ mộc nói:
- Hôm nay đã là 17 tháng Hai, đã đến lúc phải nhổ neo thôi.
- Thì sẽ nhổ neo chứ sao - Carcante đáp.
- Ngay ngày mai?
- Theo tao tính thì ngày mai có thể ra khơi, tất cả đều đã sẵn sàng mà.
- Nhưng còn phải xem thời tiết ra sao nữa chứ - Vargas nhận xét.
- Đúng thế, sáng nay trời như muốn bão, nhưng rồi sẽ ổn cả thôi.
- Nếu không thì phải ở lại đây thêm tám hay mười ngày nữa không biết chừng.
- Đúng thế - Carcante nói - và như vậy rất dễ gặp bọn ra thay thế.
- Không thể được! - Vargas kêu lên - Chúng ta không đủ sức đương đầu với một tàu quân sự đâu.
- Nếu gặp chiếc tàu quân sự đó thì nó sẽ xơi tái chúng ta đấy - Carcante nói và chấm dứt câu nói bằng một tiếng nguyến rủa.
- Trời ơi... - Tên kia nói tiếp - mình phải chuồn ra biển ngay không được chậm trễ.
- Ngày mai, tôi nhắc lại để anh rõ là ngày mai – Carcante nói quả quyết - trừ phi có gió bão đến bật cả rừng sồi này đi.
Vasquez nghe rõ những lời trao đổi đó, anh im lặng, cố nín thở. Carcante và Vargas đi đi lại lại trong hang với chiếc đèn trong tay. Chúng loay hoay lựa chọn thứ này, thứ kia. Đôi khi chúng lại tiến lại gần góc hang nơi Vasquez đang ẩn nấp, gần đến mức anh có thể xông ra mà gí súng vào ngực chúng.
Cuộc viếng thăm hang của chúng kéo dài chừng nửa tiếng đồng hồ, sau cùng Carcante cất tiếng gọi Kongre. Tên này vội chạy lên, đưa tay đỡ những vật mà chúng định mang đi.
Carcante liếc nhìn lần cuối vào trong hang.
- Rất tiếc là phải để lại một số! - Vargas nói.
- Cần phải làm thế thôi - Carcante đáp - Phải chi chiếc thuyền buồm chở được ba trăm tấn! Nhưng ta đã mang theo tất cả những thứ quí giá rồi còn gì, và tôi cho rằng ra đến ngoài đó ta còn có cơ hội trúng mánh lớn.
Bọn chúng bước ra ngoài hang, cùng xuống xà lúp và chẳng bao lâu, chiếc xuồng đã khuất dạng sau một mũi đá ngoài vịnh.
Tới lượt Vasquez ra khỏi hang và trở về chỗ ẩn náu của mình.
Như vậy là trong vòng bốn mươi tám tiếng nữa anh sẽ chẳng còn gì để ăn và vì bọn Kongre đã mang đi hết mọi thứ trong hang, Vasquez sẽ không tìm ra được một thứ gì nữa. Làm thế nào có thể sống cho đến khi chiếc Santa- Fé quay lại. Nếu như nó không bị chậm trễ, thì cũng phải chờ đợi ít nhất là nửa tháng nữa?
Tình thế lúc này rất nghiêm trọng. Dù có can đảm, có nghị lực đến mấy thì Vasquez cũng không thể làm cho tình thế sáng sủa hơn, cho dù anh có thể sống nhờ đám rễ cây đào trong rừng sồi và nhờ cá câu được trong vịnh. Nhưng muốn vậy chiếc Maule phải sớm rời đảo. Nếu vì lý do nào đấy buộc nó phải neo đậu lại đây nhiều ngày nữa thì Vasquez ắt sẽ chết vì đói trong hang đá, nơi mũi San Juan này.
Ngày sắp qua, trời càng lúc càng trở nên u ám. Từng đám mây lớn, đen đùn lên ở chân trời phía đông. Sức gió càng mạnh hơn khi nó thổi từ ngoài khơi vào bờ. Những con sóng lăn tăn trên mặt nước nhanh chóng biến thành những ngọn sóng cao ngất, ngầu bọt, giận dữ xô vào bờ đá để vỡ ra tung tóe ở đó. Nếu thời tiết này mà kéo dài thì chắc chắn chiếc thuyền buồm không tài nào ra lúc triều xuống sáng mai được.
Nhưng đêm sắp xuống, thời tiết vẫn chưa dịu bớt mà còn xấu thêm, cơn giông tố không mau qua như lúc đầu dự đoán mà hứa hẹn sẽ có một trận cuồng phong lớn đang trỗi dậy. Người ta thấy rõ điều này qua màu sắc của trời, của biển, qua những đám mây cuồn cuộn đuổi nhau trên bầu trời qua tiếng sóng vỡ ra ầm ầm trên ghềnh đá. Một thủy thủ như Vasquez không thể nào nhầm lẫn hiện tượng báo trước này. Trong phòng ở của tổ bảo vệ đèn, chiếc phong vũ biểu chắc đã tụt xuống dưới mức báo bão.
Tuy nhiên, mặc cho gió bão gầm thét; Vasquez vẫn không vào trốn trong hang, anh cứ đi lại trên bờ đá, mắt đăm đăm nhìn về chân trời, nơi trời mỗi lúc mỗi trở nên xám xịt, những tia nắng mặt trời cuối cùng chưa tắt hẳn nơi chân mây. Bỗng Vasquez phát hiện ra một khối đen đang di chuyển ở ngoài khơi.
- Một con tàu! - Anh kêu lên - và hình như đang tiến về gần đảo Đa Quốc gia thì phải!
Đúng như vậy, khối đen ấy là một con tàu, nó từ phía đông tiến lại, hoặc nó muốn đi vào eo biển, hoặc nó muốn xuôi về phía nam.
Cơn giông tố đang bùng lên mạnh mẽ. Đây không chỉ là một trận gió lốc mà là cả một trận cuồng phong không gì chống đỡ nổi, một cơn phong ba có thể nhấn chìm cả những cơn tàu mạnh nhất, nếu nó không có chỗ trú ẩn, nghĩa là không tìm được một vịnh biển nào kín đáo thì sẽ khó lòng thoát khỏi tai ương này.
- Thế nhưng ngọn hải đăng nơi này lại bị bọn cướp tắt đi - Vasquez thốt kêu lên - Con tàu kia sẽ không tìm thấy ngọn đèn biển đó, ngọn đèn nó đang kiếm! Nó không biết rằng đằng trước mặt nó, chỉ cách vài hải lý thôi là một bờ biển lởm chởm đá ngầm. Gió sẽ thổi tàu vào bờ đá và nó sẽ vỡ tan thành nhiều mảnh!
Quả đúng vậy! Một thảm kịch sắp xảy ra và những kẻ gây ra chính là Kongre và đồng bọn. Chắc chắn là từ trên tháp đèn, bọn cướp đã nhận thấy con tàu đang mất phương hướng và đang tìm đường để tránh bão. Rõ ràng là do không thấy được ánh sáng của cây hải đăng nên thuyền trưởng tàu ấy đã lạc hướng, không thể cho tàu vượt qua mũi San Juan để băng qua eo biển, ông ta cũng không thấy mỏm Several để đi sang phía nam của đảo! Như thế chỉ khoảng nửa giờ nữa thôi con tàu sẽ đâm vào bãi đá trước vịnh Elgor.
Bão vẫn tiếp tục với tất cả sức mạnh của nó. Đêm nay hứa hẹn bão sẽ khủng khiếp hơn và tiếp sang ngày hôm sau nữa, bởi vì chắc chắn là bão sẽ còn kéo dài ít ra là hai mươi bốn giờ nữa.
Vasquez không còn nghĩ gì đến chuyện quay về nơi trú ẩn nữa, mắt anh vẫn luôn nhìn về phía chân trời. Nếu trong bóng đêm không còn thấy con tàu nữa nhưng đôi lúc anh vẫn nhận ra các ngọn đèn hiệu của tàu đang tròng trành trên sóng dữ. Với trận bão này, tàu sẽ không còn điều khiển được bánh lái nữa, có thể nó đã bị hư hại hoặc đã mất đi một số cột buồm, nhưng dù sao cũng không thể nghĩ là tàu đang chạy không buồm. Giữa lúc phải chống chọi với sóng gió dữ dội như thế này, nếu tàu nào còn giữ được những buồm mũi bằng vải dày, thì may ra có thể đứng vững.
Do Vasquez chỉ nhìn thấy những đèn báo xanh hay đỏ nên chỉ có thể đoán là con tàu này là một chiếc thuyền buồm, nếu là tàu hơi nước đèn hiệu trắng sẽ được treo trên buồm mũi. Như vậy là tàu đã không có máy móc nào cả để có thể chống đỡ với gió bão.
Vasquez đi đi lại lại trên bờ đá, cảm thấy bất lực vì không sao ngăn được tai họa. Cái cần có lúc này là ánh sáng của cây đèn biển chiếu trong đêm tối... Rồi Vasquez quay về phía vịnh Elgor. Bàn tay anh hướng về phía hải đăng một cách vô ích. Cây đèn đêm nay đã không được thắp sáng, cũng như những đêm sắp tới trong hai tháng nữa, và như vậy định mệnh đã sắp đặt, con tàu sắp mất từ người đến của cải trên bãi đá của mũi San Juan này.
Một ý nghĩ chợt đến với Vasquez. Chiếc tàu có thể tránh được bờ biển cho dù tàu không còn giữ đúng hướng đi, nhưng nếu tìm được cách nào để chỉnh lại một chút đường đi của nó, thì nó sẽ tránh được tai nạn đâm vào bờ, chỉ từ mũi San Juan đến mỏm Several thôi. Còn xa hơn nữa là biển sẽ rộng mở ngay trước mũi tàu.
Trên bờ đá có rất nhiều gỗ là những mảnh tàu đắm trôi dạt. Anh có thể mang một ít gỗ lên trên một chỗ cao, đốt chúng lên để làm hiệu báo cho con tàu tránh xa bờ? Gió sẽ làm bùng lửa lên ngay thôi... nhưng như thế thì trên tháp đèn bọn cướp có thấy...? Từ đây đến bờ biển còn hơn một dặm liệu có đủ thời gian để...?
Vasquez bắt tay ngay vào việc thực hiện ý nghĩ đó. Anh nhặt một số mảnh gỗ và mang lên đầu mũi, với một ít tảo khô mà ở đây rất nhiều, anh gom thành một đống củi lớn, mưa vẫn chưa rơi, anh chuẩn bị châm lửa. Đã quá muộn... Một khối to lớn đen sẫm chợt hiện ra giữa đêm tối. Bị những đợt sóng hung dữ cuốn đi, nó lao nhanh với một tốc độ khủng khiếp, trước khi Vasquez có thể làm một cử chỉ gì cái khối đó lao nhanh về phía bờ đá.
Một tiếng đổ vỡ khủng khiếp vang lên rồi một vài tiếng kêu tuyệt vọng nhanh chóng chìm đi trong gió bão... Sau đó người ta chỉ còn nghe tiếng gió rít, tiếng sóng biển vỡ ra trên bờ đá.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này