Bà Nhâm mặt tươi, hai tai nhí nhảnh đôi hoa tai vàng óng ánh. Bà ngồi tiếp chuyện các bà bạn. Miệng cười luôn luôn. Trong nhà, lúc này rầm rầm vang lên những tiếng nói. Họ ăn uống, cốc bát đũa chạm nhau. Chốc lại nổi một tràng pháo. Nhuận vai chú rể, vẻ mặt hớn hở. Chàng bận áo sa, đi giầy vernis, đầu rẽ lệch, chững chạc cái khăn. Và có mùi nước hoa ở trong người thoảng thơm mát. Hiền ngồi vặn kèn hát, chị Thảo và chị Nhâm chạy loăng quăng bưng nước dùng và các bát xào nấu đi các bàn các mâm. Không khí cưới xin rất đầm ấm và vui vẻ. Nắng mới tháng ba chạy ngoài cửa sổ sang sáng. Gió xuân nhẹ lọt vào làm rung động những bông hoa ở trên các bàn ăn. Hương trầm trên bàn thờ gia tiên tỏa ra thơm phức man mát. Bộ tam sự mới mua sáng loáng như mặt gương ẩn nắng hoe tươi ngoài cửa sổ. Ông Hai Cửu và ông anh giai bà Nhâm ngồi trên cái ghế ngựa kê dưới bàn thờ thi nhau uống rượu và hút thuốc. Hai người vừa uống rượu vừa hãm thuốc lào và nói chuyện với nhau:
Ông Hai Cửu:
- Gái góa như bà chị tôi đây, thật đáng được bốn chữ Tiết Hạnh Khả Phong!...
- Nếu không có tôi, mấy lần cô nó toan cải giá!...
Ông Cửu trừng mắt, nhăn mặt, cau có. Ông anh giai bà Nhâm thở xong khói thuốc lào, nói tiếp:
- Tôi phải đe... Nếu cô bước đi bước nữa, thì tôi mấy cô sẽ tuyệt đường nhân nghĩa cốt nhục!...
Ông Hai Cửu gật gù:
- Phải!.. phải!..
Trong nhà đám, tiếng kèn thổi bài cười sằng sặc. Rồi lại đến bài âm điệu du dương thánh thót, êm ái.
Hiền cười đi vào. Mấy đứa trẻ đến nhặt pháo cười reo lên và làm trò đùa với Hiền. Hiền lại để một ngón tay lên mũi, có tiếng kêu:
- Ngoéo!
Đàn trẻ con ngửa mặt lên trời, cười khanh khách. Hiền mang bánh pháo, gỡ cho các trẻ. Hiền thấy chúng thích lắm.
Hôm sau là ngày đón dâu.
Nhà ông Hàn Kiệm, một căn nhà ngói hai tầng, ở giữa quãng xóm Quản Tượng. Nhà ông giầu. Ông gả Nguyệt cho Nhuận và làm thông gia với bà Nhâm. Thế mà nhiều người ngoài có tính hay nói nhảm lại bảo ông sở dĩ gả cô Nguyệt cho Nhuận là vì cô ấy ế chồng, nhiều tuổi rồi. Người ta lại thối mồm, thấy ông gả con gái mà chả ăn gì, nói chuyện bình phẩm với nhau:
- Hay là cô ấy đã ỏng rồi!
Nhuận lấy vợ con nhà giầu có, nhiều người nói là chuột sa chĩnh gạo!
Họ nhà gái tiếp họ nhà giai đến đón dâu rất niềm nở. Pháo đốt mừng luôn luôn. Chú rể là chỗ quen thuộc thường ra vào, lại chơi thân với Xung nên cũng không đến nỗi thẹn lắm. Lễ gia tiên xong, đến lễ tơ hồng. Một cái bàn đặt chéo ở sân, dưới dàn hoa thiên lý tây. Trên bàn bầy bộ tam sự bằng đồng. ở giữa bàn có một con gà sống nằm trên chiếc đĩa tây, miệng ngậm chiếc hoa hồng tươi, châu mỏ ra phía trước. Nhuận đứng lễ, hai bên là ông anh giai bà Nhâm và ông Hai Cửu. Mỗi người đứng một bên mép chiếu hoa miệng hò những câu tế bằng chữ nho. Ông Cửu vòng hai tay kiểu tay giấy ông Tiến sĩ hàng mã, giơ cao ngang trán.
- Hương:
Ông anh giai bà Nhâm lại:
- Bái:
Nhuận thong thả lên gối xuống gối lễ. Chàng lễ được bốn lễ ông Hai Cửu xướng một câu dài, để kết rồi đọc sớ.
- Bình thân phục vị, lễ sơ nhi tân hôn!
Ông anh giai bà Nhâm đọc sớ song, ông mỉm cười quay gọi cô dâu ra lễ tơ hồng. Nàng vừa lễ vừa mỉm cười liếc mắt nhìn Nhuận.
Bà mụ mối ton ton nhanh nhẩu đến chỗ ông bà Hàn Kiệm, nói:
- Bẩm lạy cụ, bây giờ đến lượt hai cụ cho chú rể lại mừng tuổi, rồi xin phép cụ cho họ nhà giai đón dâu!...
Nhuận lễ hai ông bà nhạc song rồi rước dâu về...
Nguyệt đã là vợ Nhuận được ba tháng nay rồi. Hai người mến nhau lắm. Bà Nhâm hiền lành, thương con, Nguyệt sống dễ chịu. Nàng không xấu số như nhiều người khác, thường hay gặp mẹ chồng tai ác. Nhuận, Nguyệt lấy nhau, Hiền và bà Nhâm rất ngạc nhiên.
Bà Nhâm nói:
- Quái! tao tưởng không thành, sao người ta lại gả nhỉ?
- Con cũng thế, cũng ngạc nhiên như mẹ!
Bà Nhâm nói khẽ với Hiền:
- Hay là cô ả đã trót dại rồi!
Hiền cười, nói:
- Mẹ còn nhớ ông Kha không?
Bà Nhâm cười chẩy nước mắt, Hiền lảng ra và đi chơi, nghĩ đến mẹ, chàng mỉm cười. Đã bao lâu nay, bao lần chàng thường mang chuyện ông Kha ra nói khôi hài với mẹ. Là vì, Hiền biết, mẹ chàng xưa kia ngày còn con gái đã bị độc đoán trong tình yêu. Cái mối tình kín đáo của mẹ chàng với ông Kha ngày ấy, Hiền biết chắc đau khổ lắm. Có lẽ đã sống trong sự trái duyên đau khổ mới thương kẻ khác đau khổ vì trái duyên. Nên bà Nhâm thấy con và Nguyệt lấy nhau bà vui lắm. Bà thường nói:
- Giầu có thời làm gì, quý hồ lấy được nhau.
Sự kinh nghiệm, Hiền thấy mẹ đặt tình yêu thương lên hết cả mọi thứ ở đời. Đôi khi, bà thường nhắc lại đoạn đời khổ cho các con nghe, Bà nói cái đoạn bà góa chồng năm ba mươi tuổi bà thường đi bán gạo ở đường Cầu giấy. Có một người muốn lấy bà. Nhưng anh bà không cho lấy. Bà nói với các con sau khi các con bà đã nhớn và học hành chăm chỉ.
- Tao suýt lấy người ta!... Nếu tao lấy người ta thì chúng mày lại khổ. ở thế nào được với chú mày, chú mày ác lắm. Ngày bố mày chết, tao kiếm chả nuôi nổi chúng mày tao có bảo nó nuôi thằng Nhuận, nó ừ ào bảo tao mang xuống hàng Kèn để nó nuôi. Được dăm ngày chả biết nó đánh mắng thằng Nhuận thế nào để nó phải về khóc kêu ở mấy chú khổ lắm.
Nhuận nghe chuyện cười, nói:
- Chú ấy còn phải nói!
Bà thấy nhiều người góa chồng khi tái giá các con nó hay khinh. Bà chép miệng:
- Giá tao đi lấy chồng, chúng mày chắc khinh tao lắm!
Hiền nói:
- Bao giờ mẹ cũng là mẹ. Dù mẹ tái giá hay mẹ ở vậy, chúng con vẫn là con của mẹ. Không bao giờ chúng con khinh mẹ cả. Có khi lại quý trọng mẹ hơn nữa!
Bà thở dài nói:
- Đứng vậy nuôi con ăn học, con mới nói thế chứ! giá mẹ có đi lấy chồng lại vác dao chém dượng, chửi cả mẹ như thằng Quý con giai bác Khang...
Hiền bật cười vì câu nói ví của mẹ. Bà Nhâm hay ví lắm. Bà muốn dạy con, thường hay lấy người khác ra để răn. Bà thấy một người ăn cắp. Bà cũng về nói với con:
- Thằng ăn cắp ấy bằng trạc thằng Hiền.. Đấy không chịu học rồi cũng thế...
Bà mừng rằng đã nuôi nổi cho hai con ăn học bằng người. Nhuận học đã đỗ được bằng Sơ học Pháp Việt thì đi làm. Hiền vừa thi trượt cái bằng Cao đẳng tiểu học. Hiền thơ thẩn đi chơi. Nghĩ và biết mẹ, sở dĩ hay lấy câu "cái mả thằng bố" ra chửi chị Thảo cũng có một duyên cớ ở trong, là ngày còn con gái, bà Nhâm đã thất vọng tình yêu thứ nhất. Hiền thấy lòng không khinh ghét mẹ, mỗi khi tai chàng nghe thấy tiếng "cái mả thằng bố nhà mày". Trái lại Hiền thấy thương mẹ là khác nữa. ánh nắng hè lọt qua rặng sấu ở rìa đường rơi xuống thành những vũng tròn đốm nắng. Xe cộ vùn vụt qua, những đốm nắng nhẩy múa leo trèo đùa nhau trên mui xe rồi lại đứng im ở đường cái. Hiền vẫn thủng thẳng đi dưới rặng sấu râm mát trên hè đường Carnot. Mặt chàng buồn buồn như một nhân vật tiểu thuyết vẫn tả. Có tiếng chào, làm Hiền giật mình.
- Lạy anh ạ!
Hiền mỉm cười:
- Thím đi bán hàng về!
- Vâng!
ái ngại, Hiền hỏi:
- Thế nào dạo này ông cụ có còn hay mắng thím nữa không?
- Khổ quá! anh ạ. Tôi chỉ muốn mong cho ông cụ chết đi. Ai lại bố chồng mà cứ san sát như mẹ chồng! ít rượu, ít đồ ăn ngon là kiếm chuyện rồi réo chửi đến cả xóm cũng nghe tiếng...
Hiền cười tủm tỉm, nhìn vợ Mỹ. Nàng hỏi:
- Anh đi đâu?
- à tôi đi chơi
- Anh cầm quyển gì đấy?
- Quyển sách chữ tây thím ạ.
- Bên nhà anh có quyển "Tố Tâm" không?
Hiền lắc đầu.
- Xem "Tố Tâm" khóc được đấy chứ... Tôi tiếc quá có quyển Tố Tâm để chó gậm mất quá nửa; bây giờ buồn không có sách xem. Chán quá!...
Hiền mỉm cười:
- Thím mua quyển khác?
- Chả hiệu sách nào có, em đã đi hỏi mua rồi. Tưởng bên anh thế nào cũng có?
- Trước tôi cũng có, cho họ mượn, bây giờ mất rồi.
Hiền biết quyển Tố Tâm của chàng, Mỹ lấy về. Hai người đi đến mé vườn Bách Thảo, vợ Mỹ chào Hiền, rồi nàng về xóm láng Ngọc Hà. Hiền trông theo vợ Mỹ lắc đầu. Cái thân hình bé nhỏ mặc áo đen dài kia, hai cái chân bước mau thoăn thoắt kia, sắp sửa đi vào cái xóm ấy. Hiền buồn rầu quay gót về làng Thụy Khuê.
Đêm hôm nay, Hiền thao thức khó ngủ, tình yêu Sơn lại cuộn lên trong lòng. Chàng nằm thẳng người, hai mắt lim dim để nhận những cảm giác thần tiên của ái tình. Rồi Hiền rất ngạc nhiên và tự hỏi sao chàng lại có tình yêu với Sơn một cách mau mạnh và đột ngột thế. Phải, nó đột ngột lắm, nó đến từ dạo trong năm, ngày nhà chàng vừa dọn về nhà mới được một tháng. Những buổi chiều đông ấy, Hiền thường đứng trong khung cửa sổ nhìn ra đường cái làng, xem phu về.
Bên ngoài Sơn đi làm về, nghe nghé hai con mắt nhìn vào. Hiền nhìn ra, nhếch mép cười rất đau đớn. Sơn có hiểu đâu là Hiền đang lo ngại cho nàng và cha nàng. Chàng yêu Sơn chóng mạnh thế, có lẽ tình thương chiếm nhiều hơn tình yêu. Năm tháng nay rồi! Lúc nào Hiền cũng nghĩ đến cha đã chết và một tấm lòng yêu Sơn, thương hại Sơn. Mỗi khi nghe thấy những tiếng còi rục rã của các nhà máy trong làng, lòng Hiền lại xao xuyến, tim đập, trí tưởng bâng khuâng. Yêu thương Sơn, Hiền yêu cả cái âm thanh của tiếng còi.
- Có lẽ tình yêu của ta và Sơn đến chóng mạnh, cũng vì ta cũng là một con người cu ly nhà máy như Sơn!
Hiền mỉm cười nghĩ đến quãng đời học sinh của chàng. Chàng cũng có yêu một cô, nhưng rất kiêu ngạo. Chỉ vì cô học sinh ấy là con nhà quan! Ngày ấy, Hiền học năm thứ ba ở trường Thăng Long. Liên và Hiền cùng ngồi một lớp. Tính nết Hiền vốn thực thà, ăn nói có duyên, nên các bạn cùng lớp ai cũng mến. Nhất là Liên. ở trong lớp, một cử chỉ hay lời nào của Hiền phát ra là Liên cười tít mắt. Rồi nàng thấy yêu Hiền lắm. Nhưng nàng lại ghét Hiền có cái tính hay kiêu ngạo về tình. Đã bao lâu, Liên chỉ muốn Hiền viết thư cầu Liên yêu. Thế mà anh chàng chỉ lờ phờ lẳng lặng như chó phải dùi mỗi khi gặp Liên. Còn phần Hiền, chàng cũng thấy lòng mình yêu Liên. Nhưng cứ khi, chàng sắp viết thư để ngỏ tình, lại rút rát Liên đã ngồi trong ô tô với cha, chảy nước mắt nhìn Hiền lúc nàng gặp Hiền đi lang thang trên hè phố.
- Biết làm thế nào? Sao Liên không là con nhà bình thường?
Hiền quay gót rẽ vào một cái ngõ, tránh phải nhìn chiếc ô tô lộng lẫy có một cô con nhà quan ngồi trong đó yêu mình.
- Sơn thì ta dễ viết thư lắm.
Yêu Sơn, Hiền chỉ còn lo ngại không biết Sơn có đọc được chữ viết không? Chàng đã đi hỏi những bạn Sơn, cũng làm cọ chai trong sở Ô- men. Và Hiền rất mừng rằng Sơn cũng đọc được chữ viết.
- Cậu viết đến chữ tây, nó xem cũng được!
Hiền mỉm cười.
- Cậu đừng khinh thường người ta là con nhà lao động!
- Chết! Chết! Nếu tôi khinh sao tôi lại yêu!..
Nghĩ đến cách đối đáp của những người bạn gái của Sơn mấy tháng trước, chàng rất buồn cười.
- Mình cứ viết thư ngỏ yêu với Liên cũng như trăm nghìn người khác. Có hề gì đâu! Ai biết mình là con nhà cu ly.
Chàng đã ngây thơ, và không hiểu sao mình đã ngây thơ quá thế. Ngày ấy Hiền cũng đã hạ bút viết thư cho Liên bức thư ở trong cũng có nói: "Anh là con nhà cu ly.." Hiền mỉm cười thấy mình không bao giờ quên nguồn gốc. Chàng vội vàng xé nhầu nát bức thư ấy, và nhất định không bao giờ đưa thư cho Liên cả.
Chàng nhỏm dậy, thắp đèn, lấy bút viết thư. Hiền thấy viết thư ngỏ yêu với Sơn rất dễ dàng, cảm động. Xem lại lần nữa, Hiền gật gù lẩm bẩm:
Chiều thứ bẩy, ở những con đường bé nhỏ, ngòng ngoèo có lát gạch sạch sẽ của làng Đại Yên, Liễu Giai, Sơn và Hiền, Thanh và Quỳ, bốn người cùng đi chơi và nói chuyện. Gió chiều mùa hạ mát thoảng quá. Hai dải thắt lưng lụa đào của Sơn bay phấp phới. Nàng lon ton đi và nói chuyện với ba người lầu lầu. Có một câu pha trò nào của Hiền đậm, nàng lại cười mau và rất to. Hiền biết Sơn vui lắm. Nàng thường hay giục ba người nói chuyện mỗi khi thấy nín lặng cả. Từ hôm nhận được bức thư cầu yêu của Hiền nàng cảm động vui vẻ nhận lời yêu ngay. Và mỗi buổi, Sơn đi làm về là gặp Hiền đã lên đón cổng sở. Những buổi có Hiền lên đón ấy, Sơn về lại không ăn được cơm vì nàng cảm động quá, Sơn yêu Hiền thành thực lắm, và muốn lấy Hiền, Hiền cũng thế, cũng yêu bằng tấm tình thành thực, muốn lấy Sơn. "Yêu nhau phải lấy nhau, biết không thể lấy nhau được, thì đừng nên yêu nhau". Câu ấy Hiền thường hay nói, khi chàng thấy Sơn tỏ vẻ nghi ngờ lòng yêu thành thực của chàng. Lâu dần, mỗi ngày gần nhau biết tính nết của nhau, hai người không có lòng nghi ngờ nữa, và Sơn biết Hiền là một người rất đứng đắn quân tử, không hay có dáng điệu lả lơi khi gần nàng. Hiền yêu rất cao thượng và trong sạch, Sơn hay nói với Quý thế. Quý bạn gái của Sơn cũng làm cọ chai đã yêu Thanh. Hai người này yêu nhau theo tính cách khác, không được tinh khiết như cặp Sơn-Hiền. Những buổi sáng mùa hạ mát và trong, Hiền thường dậy sớm và đứng cổng xóm Ga đón Sơn ở xóm Đông Bảng đi làm. Chàng thấy như có thú, đứng nhìn dáng Sơn đi, Sơn hay chạy hoảng khi nghe tiếng còi bên sở thổi. Sơn, Hiền vẫn gặp nhau ở làng Lữ Giai về chiều thứ bẩy. Là vì các cô làm nghề cọ chai ở đây, cứ mỗi tháng được lĩnh bốn lần tiền, vào quãng bốn chiều thứ bẩy. Sơn, Quý lĩnh tiền ở nhà bà đầu sở ra, Hiền, Thanh đến đón. Bốn người lại đi chơi thơ thẩn với nhau. Cảnh chiều hạ, bóng mặt trời đã khuất, những rặng mây mầu đằng tây nổi lên sáng chói, chiếu thẳng vào quả núi Trầm Mầm của làng Liễu Giai, đen sì những cây cối. Sở nhà rượu Bia sầm uất sàn sàn những mái nhà lợp kẽm màu xám, lợp tôn mầu bềnh bệch, lợp ngói màu đo đỏ đứng khuất sau rặng cây xanh ở phía quả núi. Vài cái ống khói thẳng vót lên trời. Và có nhiều khói trắng ở các máy nấu chạy rì rầm, bốc tỏa lên không nhẹ nhàng theo gió. Hiền, nét mặt trầm ngâm vẫn đi bên ba người giữ nín lặng. Sơn, một phụ nữ cần lao, ưa hoạt động, ưa nói, Nàng không chịu được sự yên lặng trầm ngâm của Hiền. Sơn nhìn Hiền, giục:
- Nói đi chứ?
Hiền nhe răng cười.
Khi về nhà, Sơn ngồi nấu cơm trong bếp. Nàng suy nghĩ và cảm động thấy Hiền cũng có để ý đến cái đời làm ăn của nàng. Rồi nước mắt chan hòa, Sơn tưởng tượng và hy vọng đến một ngày kia, Hiền thi đỗ bằng thành chung được bổ làm giáo học hay đi làm thư ký ở một hãng buôn nào, lúc ấy nàng sẽ sung sướng, không phải sống cái đời hiện tại lầm than này nữa. Nàng mỉm cười, thấy Hiền yêu nàng, lắm bạn cùng sở ghét. Họ thường nói đến tai Sơn, mỗi khi tan sở thấy Hiền lên đón.
- Sau này, mày lấy nó, có làm nên bà nọ bà kia, đừng có quên tao, và cái sở Ô- mền này nhớ.
Những tiếng bắt đầu động vì là giờ của các phu đi làm về buổi tối đã vẳng lên ầm ĩ, lào xào, xôn xao ở các gia đình lao động ngụ trong xóm. Ông Toản cũng đã về, ông ngồi lờ đờ, mắt mơ màng say thuốc. Rồi chép miệng, ông lại thở dài lo lắng. Một tiếng hét của bà Xoan bên nhà bác lao động ở cạnh làm ông giật mình thon thót. Vội vàng, ông gọi cô con gái:
- Sơn!
Sơn ở bếp chạy lên.
- Hôm nay, con lĩnh được bao nhiêu?
- Con lĩnh được đồng rưỡi: Giả ba hào quà, còn đồng hai. Con xin hai hào lẻ, còn đưa thầy một đồng.
Ông lườm:
- Con gái mà ăn quà như vẹm! Có còn thừa đưa thầy mượn một đồng?
- Con có thừa đâu, nếu thừa con đã mua thắt lưng rồi!
Bên nhà hàng xóm, bà Xoan the thé hét:
- Không giả được thì bước đi chỗ khác, không có ai thừa nhà đâu cho các anh thuê thế được, có một đồng rưỡi bạc nhà cũng để dây ra làm mấy tháng.
Người cu ly túng thiếu thuê nhà của bà Xoan lại nhăn nhó:
- Bẩm lạy bà, bà cho chúng con giả lãi bà vậy!..
- Tôi cho anh thuê nhà, chứ có cho anh vay tiền đâu mà lấy lãi của anh.
- Bẩm bà, nhưng tháng này con chót tiêu hết cả.
Sau cùng bà Xoan lại lên mặt "nể vì" họ mà lấy cho mười năm xu tiền lãi trước trong số một đồng rưỡi bạc tiền nhà của họ thuê mà đã nằn nì xin bà cho khất đến kỳ tháng sau. Lúc lấy tiền lãi, bà Xoan đưa đẩy cái giọng lưỡi:
- Đến nhà ai, cũng giả lãi. Chả nhẽ tôi lại không lấy! Bác làm ăn thế nào mà có một đồng rưỡi bạc tiền nhà cũng để dây ra. Chắc lại đánh bạc thua phải không?
Người cu ly rúm người, nhăn nhó, nhe răng cười chảy nước mắt, bà Xoan nặng nề phành phạch xôm xoe quay ra cổng mau mắn một cách không ngờ. Rồi bà lại "nhẹ nhàng" bước vào nhà ông Toản. Sơn thấy bóng bà vào, vội vàng chạy xuống bếp tránh. Nàng ghét bà Xoan lắm. Đã có một lần, vào quãng kỳ tiền của nhà Ga trước. Ông Toản lĩnh tiền, mải đi uống rượu thịt chó bên Ô Cầu Giấy chưa về. Sơn sốt ruột ngồi đợi cùng ăn cơm với cha. Những phút nàng nóng đợi cha ấy, nàng thường gắt nhau với u em, người nhà bà Xoan đến lấy tiền gạo ngữ! Chốc chốc, u em lại vào nhà hỏi Sơn:
-Thầy cô đã về chưa?
- Chưa u ạ! U về nói với bà để mai lấy cũng được.
- Không! Bà tôi bảo phải chờ lấy cho được.
Nàng tức ùa lên tận cổ.
- ừ thì chờ, ai thèm qu�t ăn không của nhà bà ấy.
U em, chờ sốt ruột, về. Rồi chả biết nói với bà Xoan thế nào. Một lúc sau, bà Xoan hăm hở ẩy cái cửa liếp đan vào nhà Sơn, mạnh như luồng gió bão:
- Thằng bố mày về chưa?
- Thằng bố tôi chưa về, bà muốn lấy nợ thì chờ!
Bà Xoan kinh ngạc nhìn Sơn trừng trừng, rồi vẻ mặt bà hầm hầm.
- Mày về bảo bố mày muốn ăn gạo, thuê ở cái nhà này nữa thì đừng chây lười hỗn láo!..
- Bố tôi chả chây nợ hỗn láo với ai cả!
Nói xong Sơn ngoắt đít vào nhà.
Hôm sau ông Toản đến cau có lạy van bà Xoan:
- Cháu nó trẻ người non dạ, không biết gì xin bà đừng chấp..
Bà Xoan đã "uyển chuyển" bước vào tới nhà ông Toản. Thấy bà vào, ông vội vàng đứng dậy chắp tay cung kính chào. Rồi chẳng phải để cho bà Xoan phải đòi tiền nhà ông ở thuê, ông đã giở đồng bạc của con gái vừa lĩnh giả bà và nói:
- Cháu nó mới lĩnh được một đồng, con hãy gửi bà. Còn thiếu năm hào, bà cho đến thứ bẩy sau cháu nó lĩnh, con sẽ lại xin chu tất!
Lúc bà Xoan về, ra khỏi cổng, Sơn ở mé bếp đi lên, nàng lườm theo cái bóng béo của thân người bà Xoan, nguýt và chửi thầm.
Đến đình làng Thụy, ánh trăng nhấp nhô lấp lánh khuất sau rặng cây ở đằng xa phía trường Trung học Bảo Hộ. Gió hồ man mát, sóng hồ dập dềnh loáng mầu sáng trăng. Sơn và Hiền, hai người ngồi nói chuyện với nhau trên bờ hồ tây dưới gốc bóng một cây ngâu to dầy lá đứng kín đáo phía sau đình. Bên cửa kia, nhà bán rượu "Frégate" tưng bừng náo nhiệt trong ánh sáng của bao nhiêu thứ bóng đèn màu. Khách nhiều tiền và sang trọng, dắt tay nhau, sóng đôi đi vào uống rượu và giải trí ầm ập. Ngoài đường làng vẫn vùn vụt những ô tô kiểu lạ, mới, đẹp chạy lên. Được dịp cho các trẻ con trong làng Thụy, chạy ra tranh nhau xin giữ.
- Gardez ô tô, me sừ.
- Me sừ, Gardez ô tô.
Tan cuộc chơi, chúng lại được một hào hoặc năm xu của các khách có ô tô cho giữ. ở một cái sân con trong nhà bán rượu, những cặp khách ôm nhau nhảy. Lúc nhẹ nhàng theo điệu tăng gô, lúc sang bài valse quay mau thoăn thoắt như nước xoáy. Điệu kèn âm thanh vẳng lên cao, lan vào gió rồi đi xa.
ở đằng này, tâm hồn Hiền lâng lâng, hai mắt mơ mộng nhìn đáy hồ; trí nghĩ bâng khuâng, Sơn đờ đẫn, bàng hoàng nhìn Hiền. Giọng nàng trở nên run run:
- Anh Hiền.
- Sơn.
Hai người nhìn nhau mỉm cười, rồi lại thẹn thùng quay mặt đi chỗ khác.
- Anh, cho em về nhớ.
- Ngồi chơi tí nữa, Sơn ạ.
- Thôi, để hôm khác.
Hai người đứng dậy vẻ mặt đều buồn nản. Có hai tiếng thở dài se sẽ.
Đêm nằm ngủ nặng nề, Sơn thấy Hiền nằm cạnh ôm lấy mình. Nàng mỉm cười, biết vừa sống qua một giấc mơ. Sơn chép miệng:
- Đêm nay lại gặp Hiền!
Tiếng đồng hồ báo thức ở đằng bàn vẫn tíc tắc đều đều như muốn thủ thỉ với Sơn, làm nàng không ngủ được nữa. Sơn mở to mắt suy tưởng. Trí vẩn vơ, tự nhiên Sơn ứa nước mắt, kêu lên:
- Em khổ sở lắm, anh Hiền ơi! Rồi nàng khóc nức nở..
Nhuận, hai tay thọc túi quần, miệng ngậm bóp thuốc lá thơm, vẻ mặt hiền lành, ưa hàng phục và quỵ lụy, đang nghênh ngang đi đứng một cách chắc chắn, từng bước một ở trong nhà. Chốc, Nhuận lại đứng dừng ở buồng khách, gác một chân lên thành ghế kiểu mới. Rồi chàng lại quay mặt nhìn vào chiếc tủ đứng có lắp gương mỉm cười, cái cười của người đầy đủ và tự mãn. Nhuận tự mãn lắm. Vốn là một anh bán hàng quèn ở hãng Gôđa, bị thải về, nay lấy được cô vợ giàu lại được bố vợ xin cho vào làm một chân thư ký ở Tòa án Hàng Tre, lương tháng năm mươi đồng, làm gì mà Nhuận chẳng thấy đời mình là đầy đủ. Lấy Nguyệt được hai tháng, chàng cầu khẩn ông nhạc xin việc được ngay. Ông Hàn Kiệm là ông phán hồi hưu, đã nổi tiếng là người xin việc dễ. Nên các con cháu nhà ông, ít người chịu tiếng: ở nhà ăn báo hại. Cưới vợ xong rồi đi làm, cách sống và bộ điệu của Nhuận không giống như những ngày còn ở nhà lá nữa. Ngày ấy Nhuận như người chán đời, cả ngày chỉ ngủ li bì trên cái ghế vải và lười tắm như chó ghẻ. Cả nhà, ai cũng ghét. Thế mà bây giờ, Nhuận sạch sẽ lắm, tắm luôn. Cái ghế vải của chàng xưa, bây giờ đã để xó. Nhuận không thích dùng đến nó nữa. Chàng lại thay bằng cái ghế mây Xích đu kia. Cũng chung một số phận như cái ghế gỗ, các đồ phản mọt, nay đã thay vào những đồ gỗ mới mẻ bóng nhoáng như gương. Nhuận vẫn nói:
- Nhà mới phải đồ mới, nó mới xứng!
Làm được hai tháng đầu, Nhuận chỉ mang tiền đi sắm đồ đạc để kê trong nhà cho có vẻ lịch sự.
- Chú trông đã có vẻ nhà ông phán chưa?
Hiền mỉm cười, háu hỉnh:
- Có vẻ lắm!
Nhuận tủm tỉm lắc đầu:
- Còn thiếu cái xe nhà nữa.
- Anh góp tiền mà mua để đi làm cho tiện.
Nhuận gật gù:
- Rồi cũng đến phải tậu.
Bà Nhâm thấy con được đi làm sung sướng lắm. Bà không ngờ, có mấy tháng giời, nào làm nhà, cưới vợ cho con, nay Nhuận lại đi làm. Bà Nhâm thấy cảnh bà thay đổi chóng quá. Bà cứ tưởng bà sống ở trong giấc mơ.
- Thật! Tao có ngờ đâu!
Nhuận chỉ mỉm cười, nghĩ thầm:
- Me thì hiểu thế nào được.
Hiền cũng ngây thơ như bà Nhâm không hiểu gì cả. Chàng chỉ ra công âm thầm học, cố sức, để thi lấy cái bằng thành chung mà khóa trước, chàng đã bị rớt. Lúc đi thi, chàng tin sức học mình quá; sau trượt, Hiền thẹn lắm. Nếu Nhuận không khuyên cứ học thi lấy cái bằng thành chung, thì Hiền nhất định bỏ bực ấy để thi Tú tài.
- Hãy cứ có cái bằng thành chung, rồi muốn xoay ngang xoay dọc nó cũng dễ. Tú tài thì chắc gì.
Tháng ngày nó qua như xe ở đường chạy. Tự nhiên lòng Hiền nhóm ngọn lửa tình với Sơn. Rồi quên cả việc học thi cử. Một sự dị kỳ, đầu óc Hiền lại nẩy ra cái ý tưởng bỏ thi bằng thành chung, thi vào trường Bách Nghệ học làm thợ máy. Cái ý tưởng muốn làm thợ máy này, Hiền thấy nó chỉ thoảng qua trong trí lúc đầu, sau không hiểu sao, mỗi ngày Hiền thấy nó ăn sâu và đi rộng đập mạnh vào trí nhớ, não cân của mình.
- Có lẽ vì ta yêu tiếng còi quá cũng nên!
Chàng thấy thích làm thợ máy lắm. Nhưng chàng chỉ âm thầm ôm giữ cái ý định ấy thôi. Chứ chưa cho ai biết cả. Hiền là người ưa sự kín đáo. Sơn, chàng cũng không cho biết. Kỳ thi khoa Thành Chung tháng chín năm nay sắp tới. Hiền sực nghĩ, hốt hoảng mang cái ý định của mình ra nói với mẹ và anh. Hiền đã bị thất vọng một cách đau đớn. Mẹ chàng nhất định không cho, bà bảo:
-Tao không ngờ mày có ý định làm thợ thuyền như thằng bố mày. Nếu biết tao không cho mày ăn học, cứ để mày dốt nát.
Hiền cười rất đau đớn.
Nhuận nói:
- Muốn học thi đỗ rồi làm thầy người ta, chứ làm cu ly, thợ thuyền thì dễ lắm.
Hiền thấy giận anh hơn giận mẹ. Chàng chạy ra hàng ngồi thừ, trí nghĩ lung lắm. Cái ý định làm thợ thuyền lúc này Hiền thấy mạnh hơn đỗ cái bằng thành chung rồi nhờ ông Hàn Kiệm xin hộ việc làm như anh chàng thường vẫn nói:
-Cứ thi đỗ đi, rồi anh bảo ông xin cho chú cái chân thư ký ở tòa Đốc Lý.
Nghĩ đến, Hiền cười. Còn hai tháng nữa tới kỳ thi, nhưng Hiền nhất định không nghĩ đến học hành thi cử. Chàng chán nản học thi như người ăn phải cơm nếp nát.
Nhuận vẫn phì phào thuốc lá, cồm cộp gót giầy vernis trên gạch lát nền nhà. Bên ngoài cửa sổ, ánh nắng cuối hạ sắp sang thu dìu dịu. Gió phào, lá cây rìa đường theo bay. Ông Hai Cửu sang chơi nhà bà Nhâm. Nhuận cắn chặt bóp, chào, tiếng chào nhạt nhẽo:
- Chú sang chơi!
- Cháu Phán hôm nay nghỉ?
- Vâng, chủ nhật mà!
Nhuận lại cười nhăn nhở:
- Chú đã làm đâu chưa?
- Bây giờ, tìm việc khó.
Hiền đi dưới nắng sáng, trên con đường Parreaux, suy nghĩ về cái ý định bỏ thi Thành chung rồi học thợ ở trường Bách Nghệ. Nghĩ đến mẹ, chàng buồn rầu, nghĩ đến anh, Hiền giận ứa lên cổ:
- Mặc kệ, thế nào ta cũng phải làm thợ!
Bỗng chàng cau mày, mắt thành quả quyết:
- Thân ta, ta lo. Đời ta, ta liệu, cần gì!..
Những chiếc ô tô ở mé tỉnh chạy lên vòng đua ngựa dưới hai rặng me đều tăm tắp, như tun hút chạy vào đường rừng xa.
- Lạy cậu.
Hiền giật mình:
- ồ, ông cai thầu...
- Bẩm... cậu đi chơi?
Hiền cười:
- Vâng, ông chơi đâu về?
- Chủ nhật, được nghỉ, con sang bên nhà thăm cụ và các ông.
- Cám ơn ông.
Rồi Hiền và ông "Cai thầu" chào nhau, gật, cười đi. Đến dốc "Bà Vối" Hiền cảm động. Một con đường con này ăn thông và nối ngang từ đường làng Thụy Khuê sang đường Parreaux. Đường này dốc lúc ngày mưa to lội. Người ta đặt tên con đường này là chỗ "Bà Vối". Sơn và Hiền thường đi với nhau ở dưới chỗ. Có khi muốn làm cho Sơn giật mình, Hiền thường đứng nấp sau một cái cây to đứng trên đầu dốc òa ra. Sơn lại hồi hộp, cảm động tái mặt. Hiền xuống dốc, gặp ông Hai Cửu vừa ngồi chơi bên nhà chàng về.
- Lạy chú ạ. Chú sang chơi với me cháu?
Ông Hai Cửu gật.
- Thưa chú, me cháu có nhà?
Ông lại gật, vẻ mặt lầm lầm. Mà Hiền hiểu đó là ông ghen với sự giàu có của mẹ chàng. Nghĩ đến ông Hai Cửu, tên thực là Hai Cấn. Nhưng ông cấm họ hàng, không có được gọi cái tên ấy. Vì ông đi nấu bếp thạo đã được cửu phẩm văn giai và đã khao vọng tốn kém trăm bạc ở làng, chớ có ai gọi ông cái tên: Hai Cấn.
Đêm hôm nay, Hiền lại thao thức và lòng buồn rười rượi, không ngủ được, tâm tưởng hoang mang, tim đập một cách cảm động. Rồi hồi hộp Hiền ứa nước mắt nghĩ đến Sơn, nhớ Sơn. Giấc ngủ lại nặng nề như những đêm qua. Bóng Sơn xâm chiếm tâm hồn. Chàng duỗi thẳng người thấy đau đớn như giấc chiêm bao mơ hồ. Hiển mỉm cười nói se sẽ:
- Em Sơn. Anh dát lắm.
Năm hôm sau, Hiền viết gửi Sơn bức thư:
Em Sơn thân yêu,
Anh đã gửi đơn dự thi học ở trường Bách Nghệ rồi em ạ. Chỉ hai tháng lẻ nữa là thi, thế nào anh cũng đỗ. Vì thi dễ lắm chỉ có một bài ám tả và một bài tính. Hai loại ấy, anh đều giỏi cả, nên chắc lắm.
Em Sơn ơi! anh náo nức làm nghề máy lắm. Em đã biết đấy, hai ba tháng nay anh thường bị mẹ anh và Nhuận cản trở, đay nghiến cái chí hướng làm thợ của anh. Nhưng anh không hề nao núng. Người ta càng tỏ vẻ khinh bỉ nghề thợ thuyền bao nhiêu, anh lại càng muốn cố sức lăn vào bấy nhiêu. Anh ao ước làm một người thợ máy giỏi như người ta đã ao ước làm ký làm phán ở tòa. Họ còn nói: làm thợ thuyền không xứng với người trí thức! "Em đã cười chưa? Người tri thức, anh muốn phải lan rộng khắp nghề. Anh chỉ buồn cười cái trí thức của họ mới đến cái bằng Sơ Học Pháp Việt.
"Em Sơn ơi!Nghề thợ máy là một nghề độc lập đáng để cho anh sống. Anh ngồi tưởng tượng, học hết bốn năm ở trường ra, có một cái nghề chắc chắn trong tay, anh sẽ tự do đi làm ở các công sở lò máy. Anh tin rằng, một ngày kia, nếu ai cũng như anh biết quý trọng nghề độc lập, tự do thì cái câu anh vẫn nghe họ nói: gọi mượn 30 người thợ khó hơn gọi mượn ba trăm người vẫn quen làm nghề cầm bút không còn nữa.
"Em Sơn ơi! anh rất cảm động được trở nên một người thợ máy giỏi, nếu sau này anh thành thạo, lành nghề cũng là tự em mà anh có đấy. Sắp sửa tới rồi. Sơn ạ! Hiền sẽ được ăn ở trong trường. Rồi mỗi chủ nhật Hiền ra thăm Sơn. Chúng ta sẽ lại đi chơi với nhau trên những con đường nhỏ xinh xắn ở quanh vùng gần sở nhà Bia chỗ Sơn làm. Hiện bây giờ, Hiền đương nóng ruột chờ đến ngày thi như Hiền vẫn nóng ruột chờ Sơn đi làm và lá thơ của Sơn!..
Anh thân yêu của em,
Hiền
Ngày.. tháng.. năm..
Tu.. tu!.. Sơn đi làm về, qua nhà Hiền, mặt rất vui vẻ; Hiền đứng trong khung cửa sổ nhìn ra mỉm cười. Bóng Sơn đã khuất, chàng còn nghé cổ quay nhìn dáng Sơn đi. Một cái dáng đi nhanh nhẹn mạnh mẽ, không yếu đuối tha thướt như nhiều cô thiếu nữ nhàn hạ. Hiền thường nghĩ thầm là, sau này nếu kiếm được khá tiền thừa sống, chàng sẽ cho Sơn ăn mặc đầm! Chàng cười thích lắm, vẫn ao ước ngầm thế.
- Thân người Sơn chỉ mặc đầm là đẹp và gọn!
Hiền biết, Sơn không hợp với bộ áo tân thời, ẻo lả. Có một hôm, Sơn đương làm, Hiền vào xem. Lúc ấy Sơn mặc bộ áo trắng làm việc may kiểu áo nữ khán hộ nhà thương, lại cái mũ cũng thế. Chỉ không có dấu đỏ thập thôi. Hiền thấy Sơn lạ quá. Trông như đầm! Nếu Sơn không cười với chàng, có lẽ Hiền không biết. Da trắng, áo trắng, mũ trắng. Đôi mắt thông minh đen láy. Ra về Hiền không thể quên được.
- Rồi sẽ để Sơn mặc đầm!
Chàng muốn gia đình thợ thuyền của chàng sau này sẽ giống như những gia đình thợ thuyền âu- tây. Hiền cười, thấy mình "tây" quá. Chàng còn nhớ một hôm, ngồi trên bờ hồ Tây, hỏi sức học của nàng. Hiền ngạc nhiên và không ngờ một người phụ nữ cần lao có nhiều tư tưởng rất kỳ dị: lúc tỏ ra là người rất thông minh, hiểu biết tạm được, lúc lại dốt nát ngây thơ một cách dớ dẩn.
Hiền cười, hỏi:
- Sơn đã học ở trường đến đâu thì thôi?
- Đến cours Moyen!
- Sơn có hay đọc sách, báo không?
- Sách báo thì em đọc nhiều. Nhất là tiểu thuyết.
- Tiểu thuyết Annam?
- Chả tiểu thuyết Annam thì em đọc thế nào được tiểu thuyết Tây!
Sơn mỉm cười biết "anh chàng Hiền" lại hỏi một câu dớ dẩn rồi.
- Sơn hay đọc những cuốn nào?
- Cứ kể ra thì em đọc rất nhiều, nhưng không cuốn nào em còn giữ được nhiều kỷ niệm sâu xa bằng cuốn Đoạn Tuyệt. Em buồn cười quá...
- Cuốn Đoạn Tuyệt của ai?
- Của Nhất Linh. Em buồn cười quá đọc xong cuốn Đoạn Tuyệt trông thấy họ đi rước sao mà chán thế!...
Nói xong nàng mỉm cười nhìn Hiền hỏi:
- Hiền có hay đọc Đoạn Tuyệt không?
Chàng lắc đầu:
- Anh không hay đọc tiểu thuyết Annam!..
- Hiền xem sách Tây à?
- Vâng.
Hiền chịu ảnh hưởng tiểu thuyết Tây phương nhiều quá, nên chàng có ít tâm hồn á đông. Có khi Hiền thấy mình mất hẳn nữa. Đôi khi nằm mơ mộng, tư tưởng đi xa, Hiền thấy như đang sống ở một xã hội khác xã hội bên này. Rồi bừng mắt, Hiền thấy hãy còn sống chung đụng với những người khác tâm hồn, khác tư tưởng mình. Chàng laị chép miệng thở dài:
- Ta vẫn là người Annam ở xã hội Annam này!..
Hiền muốn sau này sống với Sơn sẽ khác sống với mẹ chàng, anh chàng, chú chàng. Hiền sẽ thuê nhà ở bên làng Lữ Giai trong một xóm thợ thuyền. Lúc này, lòng Hiền lại nóng lên. Chàng muốn chóng đến cái ngày thi trường Bách Nghệ.
Sơn xem bức thư của Hiền, nàng mỉm cười. Lần nào cũng thế, từ khi yêu nhau, Sơn thường hay mím miệng cười sau khi nàng đọc xong một bức thư của Hiền. Nàng thấy Hiền thật thà lắm. Những việc thường ngày, vẫn xẩy ra ở gia đình chàng, Sơn cũng được biết bằng những bức thư của chàng. Lúc thương buồn, lo âu, sợ hãi cái gì, Sơn lại thấy lo sợ chung với nỗi buồn của Hiền. Nàng kinh ngạc biết bao, khi đọc một bức thư Hiền nói cha Hiền xưa kia cũng làm nghề cu ly như cha Sơn. Sơn không ngờ, Hiền cũng đã sống một đoạn đời như cái đoạn hiện có của nàng.
- Em ơi! Anh lo sợ lắm... Em nên làm ăn cho cẩn thận vào!
Anh nghe người ta bảo, mảnh chai nó bắn vào người, thịt toạc da như vết dao chém.
Sơn mỉm cười nghĩ thầm:
- Mình đứng làm nút rượu thì việc gì!
Sơn tán thành, việc Hiền học làm thợ máy. Nàng cũng đồng ý với Hiền không thích Hiền làm nghề cạo giấy.
- Em ơi! Anh là con nhà lao động nên lại làm nghề lao động.
Sơn nghĩ, có lần muốn làm vợ ông giáo, ông ký. Nay thấy Hiền quả quyết làm thợ, nàng hơi thẹn.
- Chúng ta là con nhà lao động nên thương yêu lấy nhau.
Anh không muốn đi làm "thông", làm "ký", làm "giáo". Chỉ vì anh không thể quên được cái nguồn gốc.
Em Sơn ơi! Bốn năm qua, anh thành một người thợ máy giỏi. Anh sẽ đi làm kiếm tiền. Rồi chúng ta sang bên làng Lữ Giai ở chung với anh Thanh và chị Quý.
Sơn cười nghĩ Quý bảo Hiền:
- Cái thằng học trò ấy dớ dẩn, lẩm cẩm lạ. Không trách đã thi trượt là phải. Chả biết nó ngồi nói chuyện với mày thế nào, chứ tao phải nó thì bực chết...
Hiện Sơn cũng như Hiền. Nàng rất cảm động mong tới kỳ thi đến. Xem lại bức thư lần nữa, nàng thấy Hiền quả quyết việc thi đó cũng như đã quả quyết làm nghề thợ máy. Sơn lẩm bẩm:
- Con người cương quyết lạ!
Nàng vội cầm bút viết thư, cầu chúc cho Hiền được đỗ.
Ngoài trời mưa bụi bay, đường lầm lội lầy bùn, hàng bà Nhâm vắng khách vào mua. Bà ngồi ăn trầu nói chuyện với một bà bạn. Bà hai Gió là một bạn với bà Nhâm xưa, chơi với nhau từ ngày còn nhỏ. Hai bà thường ôn lại quãng đời ấy bằng những tràng cười. Cũng chồng chết, cũng nghèo khổ, bây giờ bà Nhâm giầu hơn bà hai Gió. Bà hai Gió cũng thèm muốn cái đời sống của bà Nhâm, nhưng số bà chưa được. Bà chép miệng:
- Bây giờ bà chị hơn em rồi. Bà chị lên tòa sen trước.
- Vâng, nhờ giời! Bây giờ cũng không đến nỗi như ngày trước.. Ngày còn bố chúng, tôi khổ lắm, hết tháng hết tiền. Có lần nó lĩnh tiền xong đi đánh bạc đến hai ba hôm mới về để mẹ con tôi nhịn đói run cả mồm.
- Chả bù mấy tôi, nó đi rước con vợ lẽ về hành hạ đánh đập tôi, có khi đến đổ cả máu mồm.
- Bây giờ con vợ lẽ ấy đi ở đâu rồi?
- Từ ngày thằng cha ấy chết, nó mang con đi ở đâu, tôi cũng chẳng biết, chẳng hỏi.
- Anh cả Gió vẫn làm ở nhà Da đấy chứ?
- Vâng, nhờ ơn giời, cháu nó được làm cai rồi.
- Ô, làm cai bao giờ thế?
- Mới được dăm tháng nay.
- Làm được cai nhà máy Da thì tốt lắm, chẳng mấy lúc khá như ông Cai Miễn trước.
- Không, tôi không cho nó ăn lễ như Cai Miễn. Từ ngày nó lên cai, bao nhiêu người mang đồ lễ đến biếu, tôi đuổi cả về. Tôi định cấm thằng bố cả nhà tôi không được ăn lễ lạc của ai cả.
Bà hai Gió hạ thấp giọng, buồn rầu:
- Người ta là thợ thuyền, lương lậu chẳng bao nhiêu, ăn lễ của người ta thật lòng tôi không nỡ.
Bà Nhâm mặt cảm động, bâng khuâng:
- Anh cả được làm Cai, đấy là giời phật thương bà đấy.
Chịu khó lễ bái, rồi bà sẽ được lên tòa sen như tôi.
Bà hai Gió cười vui vẻ:
- Nhưng bà chị đã lên ngồi trước rồi còn đâu chỗ để em ngồi.
Bà Nhâm, bà hai Gió cùng cười, nhai trầu tóp tép và nói chuyện huyên thuyên. Chuyện đồng bóng, chuyện đưa ma, chuyện gả chồng con gái. Hai bà cười tít mắt, Hiền nằm trong giường kê gần hàng nghe điếc cả tai. Chốc, chàng lại nhăn mặt. Rồi mơ hồ chàng giật mình đến thót một cái, Hiền nghĩ ngay đến một bà vẫn đứng ở mé góc đường, lối vào chùa Một Cột..
Hiền buồn rầu, từ khi ngỏ ý làm thợ máy, anh chàng không thèm hỏi han chàng nữa. Chỉ duy mẹ chàng là không biết gì cả. Bà Nhâm tưởng Hiền nói không, chứ con bà, bà biết nó dại gì mà lăn lưng học cái nghề nặng nhọc ấy.
- Anh ta càng giận ta, càng khinh ta, ta càng lại càng muốn học nghề thợ máy.
Ngày thi trường Bách Nghệ đã đến và đã qua. Hiền đỗ rồi và chàng lại xin được ăn ở trong trường không mất tiền nữa. Hiền rất mừng về khoản ăn không phải giả tiền ấy.
Hôm nay, Hiền thu xếp những thứ cần dùng như quần áo, sách vở để vào trường ở. Chàng bọc những thứ ấy thành bọc to. Lúc này, mẹ chàng mới biết. Bà giằng bọc nói:
- Tao không cho mày học làm thợ thuyền.
Hiền nhìn mẹ cười. Rồi chàng đỏ mặt giật lấy cái bọc, nói rất nhanh:
- Thưa mẹ, ông Kha cũng làm thợ, ông Kha cũng làm thợ.
- Mặc ông Kha, tao không cho mày học làm thợ.
Bà níu bọc. Hiền giằng lấy, nhẩy vọt ra đường đi mau. Bà Nhâm ngồi phệt xuống, nhìn theo con, rồi bưng mặt bà khóc rưng rức..
Mùa thu nữa đến, ánh nắng hoe vàng gay gắt, gió động rì rào, cảnh vật trở nên tươi mát. Sơn mệt, nằm nghỉ đưa cặp mắt huyền đen trong sáng, lóng lánh ra những bờ liếp dậu xung quanh rìa nhà nàng ở. Những dây hoa tây leo mầu tím biếc rõ ràng như nền trời thu hôm nay. Dăm bảy con ong, con bướm có cái hình sắc đẹp như nàng tiên vật vờ rồi chụm chụm cánh hút lấy nhị hoa thơm. Sơn mỉm cười nghĩ đến Hiền; chàng đã chăm chỉ bình tĩnh theo đuổi sự nghiệp. Mỗi chủ nhật, Hiền lại ra thăm Sơn. Hai người thường đi với nhau ở làng Lữ Giai hay Đống Nước, xung quanh sở nhà Bia. Một chủ nhật, Sơn nghĩ buồn cười với Hiền quá, Hiền bảo nàng mặc đầm. Lúc mới nghe, Sơn nhìn thẳng vào mặt Hiền tưởng chàng nói riễu. Sau thấy Hiền cắt nghĩa và nói bằng một giọng thành thực, Sơn mới không thấy tự ái nữa.
- Không, thật đấy mà. Sau này anh có nhiều tiền, anh sẽ để Sơn mặc đầm.
Nàng thấy Hiền nói: đàn bà mặc đầm cũng như đàn ông mặc Tây. Mà bộ y phục đầm về mùa nực, nếu cắt bằng thứ vải nội hóa cũng chẳng tốn bao nhiêu. Mùa rét chỉ may hai bộ dạ bằng hạng vừa là đủ.
- Đấy em xem, người đàn bà Nhật họ mặc đầm có tốn là bao đâu. Trông gọn và rất đẹp. Nếu Sơn cạo răng, cắt tóc rồi mặc đầm, có lẽ trông còn đẹp hơn.
Nàng mỉm cười, khi thấy Hiền nhắc đến hôm nàng mặc bộ áo kiểu hồng thập tự có thắt đáy đứng làm việc.
- Hôm ấy anh về, cảm động và muốn Sơn mặc đầm quá.
Sơn cũng nhận thấy như Hiền và bao nhiêu người khác ở trong sở nữa: Nàng mặc bộ áo ấy vào, nhiều người thích. Trông mặt mũi Sơn họ bình phẩm:
- Tao tưởng mày là con gái ông chủ sở.
Có một hôm, Sơn thấy ông ký trẻ tuổi làm nhà máy rượu, hai mắt đắm đuối nhìn mình. Nàng nghĩ thầm:
- Mình làm cho nhiều người híp mắt..
Nàng thấy yêu Hiền hơn: Yêu về tư tưởng và đức hạnh nhân từ.
Ông Toản đi làm về hỏi làm Sơn giật mình:
- Đã đỡ chưa, để đi làm chứ?
Tự nhiên, Sơn chảy nước mắt, đau đớn. Nàng cảm thấy đời nàng khổ quá. Sơn ốm đã năm hôm nay, tiền thuốc không có uống mà nàng cũng sợ uống thuốc nên không mơ tưởng. Mệt ở nhà, nàng chỉ có thú nằm suy nghĩ rồi để tư tưởng đi chơi những nơi xa, chốn lạ, mà Sơn tin rằng chỉ ở những nơi ấy người ta mới tìm thấy được cái chân hạnh phúc của đời sống, không quá mỏng manh như cái đời hiện tại cần lao của nàng và tất cả các người khác. Sơn ứa nước mắt, khi thấy cha nàng mong con chóng khỏi để đi làm đỡ đần kiếm gạo, giả tiền nhà.
- Đã đỡ chưa, để đi làm chứ?
Ngày nào ông Toản đi làm về cũng hỏi nàng thế. Nàng nghẹn ngào đẫm nước mắt:
- Vâng, vài hôm nữa khỏi, con lại đi làm.
Sơn quay mặt vào tường, nức nở khóc thầm. Ăn cơm trưa xong ông Toản lại ngồi thở khói. Bỗng nàng quay ra phía ông Toản, Sơn tò mò chăm chú nhìn cha. Rồi nàng chép miệng:
- Tối tăm lạ!
Lúc này lời nói của Hiền trong bức thư lại như văng vẳng bên tai nàng:
- Em ơi! Anh nghiệm thấy, mỗi ngày tâm tưởng của anh lại xa gia đình, xa mẹ anh, xa anh anh, xa cả chú bác, cô dì trong họ nội, họ ngoại anh. Anh thấy họ sống khác thế giới mộng tưởng của anh vẫn sống...
Sơn gật gật cái đầu, thấy trí nghĩ của ông Toản và nàng cũng xa nhau như mẹ Hiền và Hiền.
- Bà cụ trông phúc hậu nhân từ lạ. Không trách, các con ai cũng tử tế, thông minh cả. Người ấy làm mẹ chồng thực đích đáng... Nàng bùi ngùi nghĩ đến người mẹ hiền từ của nàng đã quá cố. Sơn than tiếc quãng đời thuở nhỏ ăn học, đã từng về nũng nịu dưới gối mẹ. Nàng lại chép miệng nghĩ và buồn rầu, nhớ lại quãng đời sống, ngày còn mẹ mở hàng cơm ở phố Mới.
Chủ nhật tới, Sơn đã khỏi mệt. Nàng đi đón Hiền ở trong trường ra. Hai người lại mang nhau về một cái chùa vắng nhất trong làng Lữ Giai, khuất nẻo trong rặng cây si, chỗ nền cỏ non xanh. Hiền và Sơn ngồi nói chuyện và uống rượu bia Ô-men. Hai người cùng cười nhìn đàn bướm trắm bay lượn trong ánh sáng vàng của nắng mùa thu. Gió, si lay động. Những chiếc lá úa xào xạc, rơi rụng xuống mặt nước hồ lăn tăn sóng sánh. Hiền say rượu, nằm thẳng cẳng trên nền cỏ. Sơn mơ màng nhìn xa rồi nàng mỉm cười biết Hiền yêu mơ mộng và có một tinh thần lãng mạn, mới mẻ lắm.
- Anh chàng, chắc ảnh hưởng tiểu thuyết tây nhiều.
Hiền nằm hai mắt lim dim, mặt đỏ như quả gấc. Bỗng chàng lại nhăn mặt rồi chép miệng se sẽ thở dài. Việc gặp Nhuận sáng hôm nay lại vẫn vào trong trí nhớ của chàng. Lúc ấy vào hồi mười giờ, Hiền ở trường ra đi lang thang ở phố một lúc. Rồi khi vừa ở hiệu bán bia Ô-men ra, thì gặp Nhuận vắt vẻo ngồi trên xe nhà, chân bắt chữ ngũ. Chàng ngạc nhiên rụi mắt, tưởng ai. Sau Hiền nhìn kỹ, biết là Nhuận, chàng thở dài một cái mạnh như cơn gió thoảng. Hiền xách bia vào hiệu mua bánh tây và xúc xích, dăm bông, bánh ngọt về đến vườn hoa Quan Thánh vừa gặp Sơn đến đón.
- Hôm nay sao Hiền buồn thế?
- Không... Anh có buồn gì đâu. Anh đã bảo, anh rất ghét sự buồn bực mà!
Lúc ngồi uống rượu với Sơn kỳ chủ nhật này nàng rất ngạc nhiên thấy Hiền như người câm, uống rượu lì lì. Hai chai bia, Sơn chỉ uống một cốc còn phần Hiền cả. Hiền lừ lừ say, thấm thía đến tận tâm hồn.
- Làm nhà, lấy vợ, rồi ngồi xe nhà...
Hiền thấy cái đời sống của Nhuận "dễ dãi" quá. Không cầu kỳ mới lạ như cái đời sống của chàng sau này. Chàng mở mắt xoay người nhìn những cây si mọc bên hồ, dây rễ chằng chịt rậm như một khu rừng. Hiền thấy tâm hồn lơ mơ, hoang mang như ngày nhà chàng làm nhà gạch. Không hiểu sao, những câu đối đáp và lời ăn tiếng nói của Mỹ, của Nhuận, của ông Cai thầu, của ông thợ mộc, của mẹ chàng nó lại vang lên và văng vẳng bên tai.
- Những câu nói của họ có can hệ gì đến ta đâu?
Trí nghĩ loăng quăng và buồn rầu, Hiền lại nhớ đến mẹ. Từ hôm chàng ở trường đến giờ, lâu lắm, Hiền mới về chơi với mẹ một lần. Rồi từ đấy chàng không về nữa. Vì Hiền biết, cũng như lần ấy, chàng về thăm mẹ chỉ để mẹ chảy nước mắt khóc mà thôi.
Chàng chép miệng, nhìn Sơn. Thốt nhiên chàng lại nghĩ đến Liên dạo thôi học cũng có gặp Liên một lần nữa. Và Hiền hỏi bạn, biết Liên bây giờ học ở trường đầm và đã "nhớn tướng". Hiền mỉm miệng cười, ngày trong năm yêu Sơn, chàng phải nói với Sơn ở trong một bức thư rất dài là bố chàng cũng đã đi làm cu ly và chết về nạn lò máy.
- Giá Liên là con nhà bình thường, có lẽ ta với Liên cũng đã sống với nhau như thế này.
Hiền mỉm cười nhìn vài con bướm bay ngoài nắng, rồi chàng lại nằm ngửa mặt lên trời, hai tay vòng để trên trán, nhắm mắt suy nghĩ. Sơn quay lại nhìn Hiền. Nàng mỉm cười thấy mặt Hiền rắn rỏi quá. Cái miệng Hiền xinh tươi, nàng chỉ muốn hôn một cái. Nhưng nàng lại e lệ rụt rè. Lần nào cũng thế Sơn muốn rồi lại không dám. Nàng không hiểu tại sao. Có lẽ nàng cũng nhát như Hiền. Tự nhiên Sơn rùng mình một cái, cơ thể rạo rực, linh tính dục dã, nàng nhìn Hiền bằng con mắt sáng ngời tình yêu mến. Sơn bò lại, mồm Sơn gắn chặt lấy mồm Hiền, nước mắt nàng đầm đìa rơi xuống cả mặt Hiền. Hiền mở mắt, mỉm cười nói:
- Em nằm xuống đây với anh..
Hai người quay mặt nhìn nhau âu yếm như đôi vợ chồng. Đôi môi Sơn he hé mở, đón chờ Hiền hôn. Xa xa, trong rặng cây chằng chịt đầy tăm tắp, tiếng còi âm u của sở nhà Bia, qua những kẽ lá mau đưa lại một dư thanh. Nghe tiếng còi nhà máy rượu, Hiền bàng hoàng ôm ghì lấy Sơn. Chàng âu yếm nói nho nhỏ:
- Tiếng còi của chúng ta!
(Theo bản in của Nhà xuất bản Tân Việt, Hà Nội, 1940)