Quảng trường Grève, vào mười giờ sáng.
Cảnh tượng khá thú vị, phảng phất không khí ngày hội.
Mặt đường đầy rác rưởi, ruy băng, giẻ rách, lông mũ, những giọt si của đuốc, những đồ thừa của những cuộc chè chén. Những người bán rượu, chanh và bia vần thùng rượu. Một số bộ hành mải miết đi lại. Các nhà buôn nói chuyện, gọi nhau trước cửa hàng. Lễ hội, các sứ giả, giáo hoàng của những thằng Điên là chuyện cửa miệng của mọi người. Nói lắm, cười nhiều. Bốn thầy đội cưỡi ngựa đến đứng bốn góc của cột bêu tội nhân. Sự chú ý của mọi người tập trung vào họ.
Nếu độc giả đưa mắt nhìn về phía tháp Tour-Roland, ở góc bến cảng, bạn sẽ thấy một ngôi nhà cũ, góc mặt trước có một cửa sổ hẹp chắn bằng hai song sắt, hình chữ thập, cái cửa mở duy nhất để lọt vào xà-lim nhỏ không cửa, khoét vào bề dày của tường, một chút không khí và ánh sáng.
Cái xà-lim này nổi tiếng khắp Paris từ ba thế kỷ nay. Nó được phu nhân ở Tour-Roland cho đục vào tường nhà bà để vĩnh viễn giam mình trong đó. Bà đang chịu tang ông bố chết trong cuộc thập tự trinh. Toàn bộ dinh cơ, bà chỉ giữ lại cho mình chốn nương náu này, còn lại bà hiến tất cho người nghèo và Chúa. Cửa tháp thì cho xây bịt lại, chỉ trổ ra một lỗ cửa sổ nhỏ, hè cũng như đông.
Trong nấm mồ ấy người đàn bà đợi cái chết suốt hai mươi năm, đêm ngày cầu nguyện cho vong hồn ông thân sinh, không có một viên đá làm gối, mặc độc một cái bao tải đen, sống nhờ vào của bố thí của người qua đường đặt trên gờ cửa sổ, khi chết bà để lại cái xà-lim này cho người phụ nữ nào muốn tự chôn sống trong một nỗi đau lớn hay một niềm sám hối.
Tháp Tour-Roland không bao giờ thiếu người ẩn cư. Nhiều phụ nữ đã đến ở đây cho đến khi chết. Dân chúng Paris thường gọi nó là "cái lỗ chuột".
Vào thời xảy ra chuyện này xà lim Tour-Roland đang có người ở. Nếu độc giả muốn biết đó là.ai, thì xin lắng nghe câu chuyện của ba mụ lắm lời đang đi về phía Cái Lỗ chuột, ngược Châtelet, về phía quảng trường Grève, dọc theo bờ sông.
Hai người ăn mặc kiểu vú em ở Paris, người kia thì có dáng dấp tỉnh lẻ, chị ta dắt một đứa trẻ lớn. Thằng bé cầm một chiếc bánh. Nó để cho người lớn lôi đi, chốc chốc lại chệnh choạng.
Rõ là nó chú ý đến cái bánh hơn mặt đường.
Nó ngắm cái bánh rất âu yếm mà không dám ăn.
Ba phụ nữ tên là Mahiette, Oudarde và Gervaise, gần như đồng thanh:
- Nhanh lên, cô Mahiette. - Cô lớn nhất, dáng tỉnh lẻ giục. - Tôi sợ chúng ta đến muộn mất. Người ta nói hắn sẽ bị dẫn từ Châtelet đến thẳng cột bêu tội nhân.
- Cô nói gì thế Oudarde? Hắn bị bêu ở cột bêu tội nhân một tiếng cơ mà. Còn kịp chán.
- Nhìn đám đông tụ tập ở đầu cầu kia kìa.
Họ nhìn cái gì đó. - Mahiette nói.
Gervaise nói:
- Tôi nghe thấy tiếng trống. Tôi nghĩ là cô Esmeralda cùng con dê, đang xin làm phúc.
Nhanh lên Mahiette! Rảo cẳng lên. Lôi thằng nhỏ của cô đi. Cô đến đây để xem những cảnh lạ của Paris. Hôm qua cô đã thấy người Flamand.
Hôm nay cô phải xem cô gái Ai Cập.
- Cô gái Ai Cập à? - Mahiette thất thần quay ngoắt lại, nắm chặt tay đứa con. - Chúa xá tội cho tôi. Cô ta ăn cắp thằng nhỏ của tôi mất. Đi, Eustache.
Cô chạy ra cảng về phía quảng trường Grève cho đến khi cây cầu ở mãi phía sau. Đứa bé bị tha lôi, ngã khuỵu xuống. Cô dừng lại thở, Oudarde và Gervaise đuổi kịp.
- Cô gái Ai Cập kia đánh cắp con cô à? Cô nghĩ gì ngộ vậy? - Gervaise nói.
Mahiette nhún vai, dáng nghĩ ngợi.
Oudarde nhận xét:
- Kỳ lạ là người đàn bà ẩn cư cũng nghĩ về những mụ Ai Cập như vậy.
- Người đàn bà ở ẩn là ai? - Mahiette hỏi.
- ‰, đó là mụ Gudule, mụ già ở Cái Lỗ chuột.
- Sao! - Mahiette hỏi. - Người đàn bà tội nghiệp chúng ta đem bánh đến cho ấy à?
Oudarde gật đầu:.- Đúng đấy. Lát nữa cô sẽ thấy bà ta qua lỗ cửa sổ trông ra Grève. Bà ta cũng nghĩ như cô về những người Ai Cập lang thang, đánh trống và bói toán. Chẳng hiểu vì đâu mà bà khiếp sợ những người đàn bà Ai Cập đến thế. Mahiette à, tại sao trông thấy họ cô lại chạy trốn như thế?
Mahiette nắm đầu đứa trẻ:
- Tôi không muốn lại xảy ra chuyện như đã xảy ra với Paquette la Chantefleurie.
Gervaise nắm cánh tay Mahiette:
- A, cô kể lại chuyện đó đi.
- Tôi vui lòng. - Mahiette trả lời.
Chị kể câu chuyện về một người mẹ tội nghiệp tên là Chantefleurie bị bọn Ai Cập đánh cắp mất đứa con gái nhỏ xinh xắn. Người ta đã thấy chúng lởn vởn quanh nhà. Đứa nào cũng rám nắng, tóc xoăn tít, tai đeo khuyên bạc. Mặt bọn đàn bà còn đen hơn, tóc buộc túm như đuôi ngựa. Chúng từ Ai Cập đến, đi qua Ba Lan.
Chantefleurie đã chỉ cho chúng con gái mình và nhờ chúng bói hộ.
Một mụ Ai Cập nói:
- Nó sẽ là hoàng hậu.
Chantefleurie quay về nhà, rất hãnh diện vì đã mang về nhà một nữ hoàng tương lai.
Hôm sau, nhân lúc đứa bé đang ngủ, chị ta sang khoe với hàng xóm: con Agnès của chị sẽ được dùng ngự thiện với đức vua. Về nhà chị thấy cửa mở toang. Chị vào nhà, chạy đến bên giường. Đứa trẻ không còn đấy, chỗ nó nằm trống trơn. Chẳng thấy đứa bé đâu, chỉ thấy đôi giày tí xíu của nó. Chị lao ra khỏi phòng, nhảy xuống cầu thang, đập đầu vào tường, kêu gào:
- Con tôi! Con tôi đâu? Ai đã lấy mất con tôi?
Chị lang thang khắp thành phố, chạy hết chỗ này đến chỗ khác suốt ngày, điên dại, thất thần, dò xét hết cửa sổ này đến cửa sổ khác như một con thú hoang mất con. Chị thở hồng hộc, tóc rũ xuống trông rất sợ. Chị giữ người qua đường lại, kêu khóc: "Con gái tôi! Con gái xinh đẹp của tôi! Ai trả con gái cho tôi, tôi xin làm con hầu cho người ấy!".
Buổi chiều chị về nhà. Trong lúc chị vắng nhà, một bà hàng xóm đã trông thấy hai mụ đàn bà Ai Cập lén lút lên gác, có một cái bọc trong tay rồi vội vàng đi xuống, lẩn mất. Sau khi hai.mụ đi, người ta có nghe thấy tiếng gì như tiếng trẻ con. Người mẹ cười khanh khách, chạy bay lên gác như có cánh. Bà vào phòng. Một điều kinh khủng, Oudarde ạ: Thay vì đứa con gái Agnès xinh đẹp của bà, một tặng phẩm của Chúa lòng lành, bà chỉ thấy một con quỷ nhỏ, xấu đến kinh người, thọt chân, chột mắt, dị dạng, bò lồm cồm trên sàn, miệng kêu như mèo. Bà mẹ bưng mặt, khiếp đảm:
- ôi! Phải chăng là phù thủy đã biến con ta thành con vật đáng hãi này?
Người ta vội vàng mang đứa bé đi. Bà mẹ tưởng phát điên. Đó là đứa con quái dị của một mụ Ai Cập nào đó. Đứa bé khoảng chừng bốn tuổi, nói một thứ tiếng gì không phải tiếng người.
Chantefleurie vồ lấy chiếc giày nhỏ, tất cả những gì còn lại của đứa con yêu của chị. Chị đứng phắt dậy, vừa chạy vừa gào:
- Đến trại của bọn Ai Cập! Đến trại của bọn Ai Cập!
Nhưng bọn Ai Cập đã nhổ trại đi rồi. Trời tối đen như mực. Không thể đuổi theo chúng được. Hôm sau, cách đó chừng hai dặm, trong một bãi rậm, người ta thấy tro tàn của một đống lửa lớn và một vài đoạn ruy-băng của đứa trẻ.
Khi Chantefleurie được tin hãi hùng đó, chị không khóc, chỉ mấp máy môi như muốn nói mà không nói được. Hôm sau tóc chị đổi màu xám.
Hôm sau nữa, chị biến mất.
- Thật là một chuyện kinh khủng. - Oudarde nói. - Tôi không ngạc nhiên khi thấy chị sợ bọn Ai Cập đến thế.
Mahiette bước đi, im lặng.
Gervaise hỏi:
- Có ai biết Chantefleurie sau này ra sao không?
- Không ai biết.
Ngừng một lát, chị nói thêm:
- Tuy nhiên, có người nói trông thấy chị ta trên đường ở Paris. Chị ta đi chân không trên đá sỏi. Người khác thì khẳng định: chị ấy đã chết đuối.
Gervaise hỏi:
- Thế còn chiếc giày nhỏ?
- Biến mất cùng với bà mẹ. - Mahiette trả lời..- Còn con quỷ nhỏ thì sao? - Oudarde bỗng nhiên hỏi.
- Đức giám mục đã ban phước cho nó, giằng nó ra khỏi tay quỷ dữ, gửi về Paris, đặt trên chiếc giường của những đứa trẻ bị bỏ rơi trước nhà thờ Đức Bà.
- Thế rồi, ở Paris, người ta đã làm gì nó, Mahiette?
- Tôi không rõ. - Mahiette trả lời.
Nói đến đây, ba người đi đến quảng trường Grève. Mải nói chuyện, họ đi vượt qua tháp Tour-Roland mà không dừng bước. Họ máy móc đi đến cột bêu tội nhân, quần chúng xúm xít xung quanh, mỗi lúc một đông thêm. ắt hẳn họ đã quên phắt Cái Lỗ chuột, nếu như Eustache không nhắc:
- Mẹ ơi, con có thể ăn cái bánh này không?
Câu hỏi gợi lại sự chú ý của Mahiette:
- Chà, chúng ta quên bà ẩn cư mất rồi! Chỉ cho tôi Cái Lỗ chuột, tôi sẽ mang bánh đến cho bà ta.
Oudarde nói:
- Có ngay lập tức. Đây là một việc thiện.
Ba người đàn bà lộn lại, đến gần Tour-Roland, Oudarde nói:
- Tôi sẽ ghé nhìn qua lỗ cửa sổ. Bà ta hơi quen tôi. Tôi sẽ báo khi nào các chị có thể tới.
Một mình chị ta lại gần cửa sổ. Vừa ghé mắt vào thì mặt chị lộ vẻ xót thương sâu sắc. Lát sau, chị làm hiệu cho Mahiette đến gần. Mahiette bước đến cảm động, lặng lẽ. Rồi cả ba người đàn bà cùng nhòm qua lỗ cửa sổ. Đầu họ che lấp mất ánh sáng yếu ớt của xà-lim, nhưng con người khốn khổ vẫn không chú ý đến họ.
Oudarde nói:
- Đừng quấy rầy bà ta. Bà ấy đang cầu nguyện.
Mahiette ngắm cái đầu hốc hác, héo hon, lởm chởm tóc, với một niềm xúc động mỗi lúc một tăng, nước mắt đầm đìa.
Chị lẩm bẩm:
- Thật là lạ lùng! Các chị gọi người đàn bà này là gì?
Oudarde trả lời:
- Chúng tôi gọi bà ấy là bà chị Gudule.
Mahiette tiếp lời:.- Còn tôi thì tôi gọi bà ấy là Paquette la Chantefleurie. Nói đoạn chị ta đặt một ngón tay lên miệng, ra hiệu cho Oudarde đang ngạc nhiên, chui đầu qua lỗ cửa sổ mà nhìn.
Oudarde nhìn theo hướng nhìn của bà ẩn cư, thấy một chiếc giày nhỏ bằng satanh hồng thêu chỉ vàng và bạc.
Gervaise nhìn sau Oudarde và cả ba người đàn bà cùng khóc.
Cái nhìn và những giọt nước mắt của họ không làm cho bà ẩn cư phân tâm. Bàn tay bà ta chắp lại. Môi câm lặng. Mắt nhìn đăm đăm.
Ai biết chuyện bà ta và chiếc giày nhỏ kia, thấy thế, tất phải nát tan lòng.
Ba người đàn bà không thốt được một lời, dù nói nhỏ cũng không.
Cuối cùng Gervaise cô gái tò mò nhất, thử làm cho bà ẩn cư nói:
- Bà chị! Bà chị Gudule!
Cô gọi lại, mỗi lúc một cao giọng hơn. Bà ta vẫn không động đậy. Không một tiếng nói, không một cái nhìn, không một tiếng thở dài.
Đến lượt mình Oudarde gọi bà, giọng dịu dàng hơn.
Vẫn sự im lặng ấy. Vẫn sự bất động ấy.
Oudarde thở dài, nói:
- Có lẽ bà ta điếc.
Gervaise thêm:
- Có lẽ bà ta mù.
Mahiette:
- Có thể bà ta đã chết.
Eustache lên tiếng:
- Mẹ, con muốn nhìn thấy.
Tiếng nói trẻ con, trong trẻo, tươi mát làm cho bà già bừng tỉnh. Bà rùng mình toàn thân, răng đánh lập cập. Bà nhổm dậy, nắm hai bàn chân như để sưởi ấm nó:
- ôi, lạnh quá!
Oudarde nói, rất thông cảm:
- Tội nghiệp bà. Bà có muốn một chút lửa không?
Bà lắc đầu từ chối, nhìn trân trân vào Oudarde, nói:
- Nước.
Oudarde nài:
- Không, bà chị ạ. Đó không phải là đồ uống của tháng giêng. Bà ăn chiếc bánh này, chúng tôi nướng cho bà đấy..Bà già đẩy cái bánh ra, nói:
- Bánh mì đen.
Bỗng nhiên chân tay bà già run lên, giọng nói rung lên, mắt sáng lên. Bà quỳ gối, vươn bàn tay trắng, gầy guộc về phía đứa trẻ, nhìn nó sửng sốt:
- Mang đứa bé này đi! Đứa con gái Ai Cập sắp qua đây! Trời chu đất diệt mi. Ta nguyền rủa mi, đứa con gái Ai Cập kia!
Bà ngã vật ra, mặt úp xuống đất, trán đập vào sàn nhà, như tiếng một hòn đá rơi xuống đá.
Ba người tưởng bà chết. Nhưng lát sau bà lại động đậy, lết trên đầu gối và khuỷu tay, bò đến góc phòng có chiếc giày nhỏ. Mấy người đàn bà không dám nhìn và cũng không thấy bà đâu nữa, chỉ nghe tiếng hàng nghìn cái hôn, hàng nghìn tiếng thở dài lẫn những tiếng kêu xé ruột.
Những lời nói trên của bà ẩn cư có thể nói là điểm giao tiếp của hai cảnh tượng diễn ra song song cùng một lúc, ở hai nơi, một là ở Lỗ Chuột như chúng ta vừa đọc, một nữa ở cột bêu tội nhân. Cảnh thứ nhất chỉ có ba người đàn bà chứng kiến. Cảnh thứ hai, khán giả là đông đảo quần chúng xúm xít trên quảng trường Grève, vây quanh cột bêu tội nhân và giá treo cổ.
Dân chúng không tỏ vẻ sốt ruột lắm. Họ giải trí bằng cách ngắm nghía cái cột bêu tội nhân, một thứ công trình rất đơn giản gồm một hình hộp vuông xây bằng gạch, cao mười bộ, rỗng ở giữa. Một tam cấp làm thang dẫn đến mặt bằng tầng trên, có một bánh xe gỗ sồi đặt nằm ngang. Người ta buộc tội nhân vào bánh xe ấy, quỳ gối, tay bẻ quặt ra sau, mặt lần lượt.chiềng ra mọi phía. Người ta gọi thế là "quay" tội phạm.
Phạm nhân đến, bị buộc chặt vào xe bò. Hắn leo lên mặt bằng. Trông thấy hắn, người ta nhận ngay ra là Quasimodo. Tiếng hò la inh ỏi. Tiếng cười, tiếng hò hét vang dậy.
Đúng là hắn. Một cuộc trở lại kỳ lạ: Hôm qua hắn còn được chào đón, được xưng tụng là giáo hoàng, là ông hoàng của những thằng Điên.
Hôm nay thì hắn bị buộc vào cột bêu người.
Michel Noiret, người thét loa của nhà vua, yêu cầu mọi người yên lặng, gào lên bản án theo lệnh và sự chỉ huy của ngài thái thú. Sau đó hắn lui về phía sau xe bò, đứng cùng với người của hắn.
Quasimodo, mắt phớt lạnh, không nhíu mày.
Mọi sự chống cự đều bất khả vì y bị trói chặt bằng xích sắt và dây da. Hắn để mặc cho lính dẫn đi, lôi đi, kéo lên, trói lại. Trên mặt hắn chỉ là một sự ngạc nhiên hoang dã, đần độn.
Người ta bắt hắn quỳ trên bánh xe, lột áo hắn ra, mình trần đến thắt lưng, trói hắn bằng dây da mới. Hắn để mặc cho muốn làm gì thì làm. Thỉnh thoảng hắn thở phì phò ầm ĩ. Quần chúng cười như điên khi thấy cái bướu trần và bộ ngực lạc đà của Quasimodo.
Giữa tiếng cười, một người mặc chế phục của tòa thị chính, người ngắn ngủn, mặt câng câng, đến đứng gần tội nhân. Đó là Pierrat Torterue, tên hành tội của Châtelet.
Thoạt tiên hắn đặt một cái bình đen đựng cát ở góc đài bên người, cởi bỏ áo ngoài, tay phải lăm lăm một ngọn roi mảnh, đầu có dây da trắng, thắt nút, bọc kim khí. Tay trái, hắn lơ đãng vén tay áo sơ mi lên đến nách. Rồi hắn giậm chân. Bánh xe quay. Quasimodo nghiêng ngả dưới dây trói. Sự kinh ngạc bỗng hiện trên khuôn mặt dị dạng của hắn, khiến quần chúng cười rộ lên.
Thình lình, khi bánh xe phơi lưng Quasimodo ra trước Pierrat thì hắn vung tay lên. Những sợi dây da rít trong không khí và trút xuống vai kẻ khốn nạn.
Quasimodo nảy người lên như bất giác sực tỉnh.
Hắn bắt đầu hiểu. Hắn vặn người trong dây trói.
Cú đánh thứ hai theo sau cú thứ nhất, rồi cú thứ ba, cú nữa và cú nữa... tiếp mãi. Bánh xe.không ngừng quay, cũng như những cú đánh không ngừng mưa xuống.
Quasimodo, ít ra là bề ngoài, lấy lại cái vẻ phớt tỉnh ban đầu. Lúc đầu hắn còn định giật đứt dây trói. Mắt hắn nảy lửa. Bắp thịt hắn căng ra, tứ chi hắn gồng lên. Những sợi dây da và dây xích căng ra.
Sức cố gắng là mãnh liệt, ghê gớm, tuyệt vọng. Quasimodo mệt lả lại xẹp xuống, sự sửng sốt thay bằng một thứ tình cảm cay đắng, chán nản sâu sắc. Hắn nhắm con mắt độc nhất lại, gục đầu xuống ngực, giả chết. Từ đó hắn không động cựa nữa, không gì có thể làm cho hắn cử động.
Cuối cùng, viên lục sự của Châtelet, mặc đồ đen, cưỡi ngựa đen, từ đầu cuộc gia hình vẫn đứng cạnh thang, giơ chiếc đũa mun về phía bình cát. Quasimodo từ từ mở mắt. Cuộc đánh roi kết thúc.
Hai tên phụ việc của lão gia hình rửa vai cho tội nhân, xoa một thứ thuốc mỡ gì đó làm cho những vết thương nứt toác của tội nhân khép miệng, ném lên lưng hắn một cái khố vàng như kiểu áo choàng.
Đối với Quasimodo, chưa phải là đã hết nợ.
Hắn còn phải chịu buộc một giờ nữa ở cột bêu người, hình phạt mà luật gia Florian Bardebienne đã thêm vào bản án của ngài Estouteville.
Người ta dốc bình cát ra. Tên gù bị cột vào ván để cho công lý được thực thi đến cùng.
Nhưng nhục hình chưa hết. Hàng nghìn tiếng chửi bới, hò la, nguyền rủa, tiếng cười nhạo và những hòn đá rơi như mưa vào hắn.
Thời gian trôi qua. ít nhất là đã một tiếng rưỡi, hắn chịu cảnh da thịt rách nát, bị chế giễu không ngừng, bị ném đá. Bỗng hắn lại giãy giụa trong xích với một sự tuyệt vọng tăng gấp đôi, làm rung chuyển cả giàn. Phá vỡ sự im lặng ngoan cố cố giữ đến bấy giờ, hắn gào lên, giọng khàn khàn, giận dữ, như tiếng sủa.
Tiếng kêu tuyệt vọng không làm ai mủi lòng mà chỉ làm cho đám dân chúng Paris vây quanh thêm thích thú.
Sau vài phút, Quasimodo lướt nhìn đám đông bằng cái nhìn tuyệt vọng, lại rên lên, giọng ai oán xin:
- Cho tôi uống!
Mọi người cười..Giữa lúc đó, một cô gái lách đám đông, bước ra. Một con dê trắng, sừng vàng đi theo. Tay cô gái cầm một cái trống. Mắt Quasimodo lóe lên.
Đó là cô gái bô-hê-miêng hắn đã tấn công đêm qua. Hắn ngờ rằng cô đến để trả thù, đánh hắn như người khác.
Hắn nhìn cô thoăn thoắt lên thang. Hắn tức giận và thất vọng đến nghẹt thở. Hắn muốn giật đổ cột bêu tội nhân. Nếu ánh chớp trong mắt hắn có thể đánh như sét thì cô gái Ai Cập đã bị tan thành bụi trước khi lên tới sàn.
Cô lại gần tội nhân. Tên này đang vặn mình một cách vô vọng để thoát khỏi cô. Cô lấy ở thắt lưng ra một bầu nước, nhẹ nhàng đặt miệng bầu vào miệng kẻ khốn nạn.
Thế là trong con mắt đến lúc đó vẫn ráo hoảnh và rực lửa của tội nhân, một giọt nước mắt to từ từ lăn dài trên khuôn mặt dị hình, căng thẳng vì tuyệt vọng.
Có lẽ đó là lần đầu kẻ bất hạnh rơi nước mắt.
Hắn quên cả uống. Cô gái Ai Cập sốt ruột bĩu môi và mỉm cười áp cổ bầu nước vào miệng Quasimodo. Hắn tu từng hơi dài. Hắn khát đến bỏng họng. Uống xong, hắn trề cặp môi đen, có lẽ để hôn tay con người đã cứu giúp hắn. Nhưng cô gái rụt tay lại với một cử chỉ khiếp hãi như đứa trẻ bị con thú cắn, gã điếc tội nghiệp đăm đăm nhìn cô buồn khôn tả.
Thật là xúc động trước cảnh một cô gái đẹp trong trắng, dịu dàng, chạy đến cứu giúp cho bấy nhiêu đau khổ, bấy nhiêu tật nguyền. Dân chúng xúc động kêu lên: Hoan hô! Hoan hô!
Đó là lúc mà bà ẩn cư thốt lên lời nguyền rủa đáng buồn của bà:
- Ta nguyền rủa mi, đứa con gái Ai Cập trời chu đất diệt kia. Ta nguyền rủa mi!
Esmeralda tái mặt, loạng choạng bước xuống đài bêu tội. Đã đến giờ thả Quasimodo ra. Người ta cởi trói cho hắn. Đám đông giải tán.
Gần cầu lớn, Mahiette ra về cùng hai bạn.
Bất thần chị đứng lại:
- Eustache, con làm gì cái bánh rồi?
- Mẹ ơi, một con chó ngoạm một miếng và con cũng ngoạm nốt rồi.
Bà mẹ mỉm cười: "Thằng nhóc ghê gớm!".
Bà con xung quanh nhà thờ Đức Bà nhận thấy: từ sau buổi sáng bị bêu tội, cái hăm hở kéo chuông của Quasimodo có phần nguội lạnh đi. Trước kia là những hồi chuông ngân vang buổi sáng, những cung bậc rộn ràng trong những buổi hôn lễ, hay lễ rửa tội cho một bé sơ sinh.
Cái nhà thờ cổ kính rung lên ngân lên vì tiếng chuông, trong niềm vui bất tận. Nay nhà thờ dường như ủ dột, câm lặng. Hội hè, đám tang chỉ có hồi chuông khô khan, trần trụi. Có thể nói không còn nhạc công nào trong những quả chuông. Vậy mà Quasimodo vẫn tồn tại đấy.
Có cái gì đã xảy ra trong hắn? Phải chăng nỗi xấu hổ vì bị bêu tội vẫn tồn tại dai dẳng trong đáy tim hắn? Phải chăng những đòn roi của kẻ gia hình vẫn còn quặn lên bất tận trong tâm hồn hắn?.Năm 1482, lễ Truyền Tin rơi vào ngày 25 tháng 3. Ngày ấy khí trời rất trong thanh, rất nhẹ, khiến Quasimodo lại cảm thấy chút tình yêu đối với những quả chuông của mình thức dậy.
Hắn trèo lên tháp chuông phía Bắc. Bên dưới, người coi nhà thờ đang mở rộng cửa.
Leo tới chuồng treo chuông, Quasimodo ngắm nhìn sáu quả chuông, buồn bã nhún vai.
Nhưng khi rung chuông hắn lại thấy hớn hở.
Hắn quên tất. Tim hắn nở ra, khuôn mặt rạng rỡ. Hắn đi đi, lại lại, chạy từ dây chuông này đến dây chuông khác. Hắn vỗ tay.
Bất chợt nhìn xuống quảng trường, hắn thấy một cô gái có con dê theo sau, một đám đông xúm quanh. Cảnh tượng ấy làm thay đổi đột ngột dòng ý nghĩ của hắn. Hắn ngừng lại, quay lưng lại quả chuông, đăm đăm nhìn cô vũ nữ, mắt mơ màng, dịu hiền, âu yếm.
Một buổi sáng đẹp trời của tháng ba ấy, ngày 29 thì phải, ngày thánh Eustache, cậu giáo đồ Jehan Frollo ở cối xay gió, khi mặc quần áo, nhận thấy túi mình có cái ví không có tiếng xủng xẻng của đồng tiền.
Gã buồn rầu mặc áo: Một ý nghĩ chợt đến khi gã buộc dây giày. Thoạt tiên gã gạt bỏ ý nghĩ ấy nhưng nó vẫn trở lại. Gã mặc ngược áo gi-lê, dấu hiệu chứng tỏ trong hắn đang có một cuộc đấu tranh nội tâm kịch liệt. Cuối cùng gã ném cái mũ nồi xuống đất, kêu lên:
- Mặc kệ! Muốn đến đâu thì đến. Ta sẽ đến ông anh ta. Ta sẽ bị ông ấy vạc cho một trận, nhưng ta sẽ được một đồng tiền vàng.
Gã xuống phố Harpe. Đi vào thành phố qua Cầu Nhỏ, rảo bước qua phố Neuve-Sainte-Geneviè ve. Jehan đến trước nhà thờ Đức Bà. Đến đây gã lại do dự. Gã đi lang thang một lát, băn khoăn tự nhủ:
- †n mắng thì cầm chắc, đồng tiền vàng thì còn mơ hồ.
Gã giữ người coi nhà thờ vừa đi ra, hỏi:
- ông phó giám mục ở đâu?
- Tôi nghĩ ông ấy đang ở chỗ trú ẩn của ông trên tháp. Tôi khuyên ông đừng quấy rầy người.
Jehan quả quyết bước qua cái cửa nhỏ tối om, leo lên cầu thang dẫn tới tầng trên của tháp.
Giữa đường gã thầm nhủ:
- Cái xà-lim trú ẩn giữa tầng mây của ông anh tôn kính của ta đến là lạ..Đến hành lang có hàng cột nhỏ, gã dừng lại thở:
- Chà! Chắc hẳn là ở đây.
Chìa khóa cắm nơi ổ khóa. Cửa ra vào ngay đấy. Gã đẩy nhẹ cửa, thò đầu vào khe mở. Đó là một xó tối tăm, sáng lờ mờ, có một ghế bành lớn, một chiếc bàn lớn, những com-pa, những bình chưng cất, những bộ xương thú treo lủng lẳng trên trần, một quả cầu lăn lóc trên sàn. Nhưng gian xà-lim không hoang vắng.
Một người đàn ông ngồi trên ghế bành, cúi mình trên bàn. ông quay lưng lại Jehan nên gã chỉ trông thấy vai ông và phần sau đầu.
Jehan nhận ra ông anh. Cửa mở ra rất nhẹ nên không có gì báo cho Dom Claude biết sự có mặt của gã. Gã giáo đồ lợi dụng, tha hồ quan sát cái xà-lim.
Quang cảnh chung của gian phòng có cái gì là hoang phế và đổ nát. Tình trạng tồi tệ của các dụng cụ làm cho người ta nghĩ rằng từ khá lâu chủ nhân bị hút vào những mối quan tâm khác.
Chủ nhân đang ngồi cúi mình trên một quyển sách viết tay rộng bản, có những hình trang trí kỳ lạ. Hình như ông bị trăn trở vì một ý nghĩ nào đó cứ luôn luôn xen vào dòng suy tưởng của ông.
Thình lình ông gập mạnh quyển sách lại.
Ông đưa tay lên trán như muốn xua đuổi cái ý nghĩ đang ám ảnh ông. ông cầm trên bàn lên một cái đinh và một chiếc búa, cán có sơn những hình bí hiểm.
Dom Claude đứng dậy, cầm chiếc com-pa, vạch vào tường một từ Hy Lạp bằng chữ hoa.
- Anh ta điên rồi. - Jehan tự nhủ. - Tại sao không viết chữ Định Mệnh, có phải đơn giản biết bao. Có phải ai cũng biết chữ Hy Lạp đâu.
Phó giám mục lại ngồi xuống ghế bành, hai bàn tay đỡ đầu như người ốm, đầu nặng và nóng hầm hập.
Thấy phó giám mục lại rơi vào tình trạng bất động ban đầu, Jehan nhẹ nhàng rụt đầu lại, đi mấy bước mạnh sau cửa như để báo có người đến.
Từ trong xà-lim, phó giám mục nói:
- Cứ vào. Tôi đang đợi ông. Tôi để chìa khóa ở cửa. Vào đi, thầy Jacques.
Chú giáo đồ mạnh dạn bước vào. Phó giám mục giật mình, rất khó chịu vì cuộc thăm viếng ở chỗ như thế này..- Sao! Chú đấy à, Jehan?
- Vẫn là chữ J ấy. - Anh giáo đồ trả lời, trâng tráo và vui vẻ.
Mặt Dom Claude trở lại vẻ nghiêm khắc.
- Chú đến đây có việc gì?
- Thưa anh, tôi đến để xin... một chút đạo lý mà tôi rất cần. - Jehan nói thêm, không dám nói to: - ... và một ít tiền mà tôi còn cần hơn nữa.
Giọng phó giám mục lạnh tanh:
- Thưa ông, tôi rất không bằng lòng ông.
- Chao ôi! - Giáo đồ trả lời.
Dom Claude xoay người trên ghế bành, nhìn xoáy vào Jehan. Jehan chuẩn bị cho một cuộc va chạm nảy lửa.
- Jehan, khắp nơi người ta phàn nàn về chú.
Jehan không trả lời.
Linh mục lắc đầu:
- Phải, việc học hành đến đâu rồi?
Giáo đồ kiên quyết ngước mắt lên:
- Thưa ông anh. ông có muốn tôi cắt nghĩa bằng tiếng Pháp hẳn hoi cái từ Hy Lạp trên tường kia không?
- Từ nào?
Gò má võ vàng của phó giám mục hơi ửng đỏ. Giáo đồ thoáng nhận thấy.
- Này, Jehan, từ ấy nghĩa là gì? - ông anh lẩm bẩm, khó nhọc.
- Định mệnh. Anh thấy tôi cũng rành tiếng Pháp đấy chứ?
Phó giám mục im lặng. Bài học tiếng Hy Lạp ấy làm cho ông mơ màng.
- Chú muốn đi đến đâu? - ông nói, giọng khô khốc.
- Vâng, ta vào thẳng vấn đề. Thế này! Tôi cần tiền. - Jehan can đảm trả lời.
Trước lời tuyên bố trắng trợn ấy, nét mặt phó giám mục tỏ vẻ cha chú.
- Chú cần tiền làm gì?
Câu hỏi ấy làm lóe lên tia hy vọng trong mắt Jehan.
Gã làm ra vẻ con mèo ngọt nhạt.
- Thưa anh Claude thân mến, em không dám hỏi anh với ý đồ xấu. Không, anh ạ. Là để cho một việc tốt.
- Việc tốt nào? - Claude hỏi, hơi ngạc nhiên..- Có người bạn em muốn mua một ít tã lót trẻ sơ sinh cho một bà góa nghèo. Cái đó giá ba florin. Em muốn góp phần vào đó.
- Chú đi đi! Tôi không bị bịp đâu. Tôi đang chờ một người.
Gã giáo đồ cố nài một lần nữa:
- Anh Claude, ít nhất anh cũng cho em một chút gì để ăn chứ.
- Tôi sẽ gửi cho chú những thứ chú cần, nhưng tiền thì không.
Phó giám mục nhìn gã, buồn bã, nói thêm:
- Jehan, chú là một cái dốc trơn tuột, chú có biết chú đi đến đâu không?
- Đi đến quán ăn. - Jehan nói.
- Quán rượu dẫn đến cột bêu tội nhân. Cột bêu tội nhân dẫn đến giá treo cổ, giá treo cổ dẫn xuống địa ngục.
Giữa lúc ấy, có tiếng bước chân ở cầu thang.
- Im! - Phó giám mục đặt một ngón tay lên miệng. - Nghe đây, Jehan. - ông khẽ nói. - Chú không được nói hở ra những gì chú sắp trông thấy, nghe thấy ở đây. Mau nấp sau cái lò kia và không được nói gì hết.
Gã giáo đồ nấp dưới cái lò. Hắn nảy ra một ý nghĩ.
- Anh Claude ơi, cho em một florin thì em sẽ không nói gì hết.
- Im! Tôi hứa cho chú.
- Anh phải cho em ngay cơ.
- Cầm lấy. - Phó giám mục giận dữ ném cho gã túi tiền.
Jehan rúc sâu dưới đáy lò. Cửa mở ra.
Nhân vật vừa vào mặc áo đen, gương mặt u ám. Cái làm cho Jehan chú ý ngay từ đầu là vẻ buồn thảm của y phục và nét mặt người mới đến.
(Gã nép trong một góc sao cho có thể nhìn, nghe thấy hết). Người kia tóc rất bột, mặt đầy nếp nhăn, khoảng gần sáu mươi tuổi, mắt nhấp nháy, lông mi bạc, môi trề xuống, bàn tay to bè.
Jehan trông người đó có dáng một thầy thuốc hoặc một quan tòa. Mũi rất xa mồm. Jehan nép mình trong hốc, thất vọng vì phải ở trong tư thế rất khó chịu không biết đến bao giờ, bên cạnh một người hãm tài đến thế.
Phó giám mục không đứng lên đón khách.
Ông ra dấu cho người kia ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh cửa. Lát sau, ông nói giọng bề trên:.- Chào thầy Jacques Charmolue.
- Xin chào ngài.
Hai người trao đổi với nhau những điều Jehan chẳng hiểu ra sao cả. Họ nói về vàng, về giấy da cũ, cả về tượng.
- à, tôi quên. - Jacques Charmolue hỏi: -Ngà i có muốn tôi làm cho cô bé làm quỷ thuật và con dê ma quái của cô ta sợ không? Phiên tòa đã sẵn sàng. Bao giờ chúng ta bắt đầu?
Phó giám mục mặt tái xanh:
- Tôi sẽ cho ông biết sau. - ông nói không ra hơi.
- Tốt thôi. Tôi còn phải lo hai bị cáo khác.
Về con bé Esmeralda, tôi chờ lệnh ngài.
Dom Claude chìm trong suy tưởng, không nghe thấy gì nữa.
Ông đứng lên như sực tỉnh, nghĩ đến Jehan đang nấp dưới lò, sợ hắn sẽ có trò tinh quái nào đó. ông vội vã ra khỏi xà lim cùng Jacques Charmolue.
- Hai con cú mèo đi rồi! - Jehan kêu lên, chui ra khỏi cái lỗ của gã. Đầu ong ong như một cái chuông. - Xuống thôi, nẫng luôn túi tiền của ông anh, đổi tất cả số tiền này ra những chai rượu.
Gã nhìn vào trong túi tiền, âu yếm và khâm phục. Gã sửa lại quần áo, phủi bụi trên ống tay áo đầy tro xám, huýt sáo, xoay người đẩy cái cửa ông anh gã vừa để ngỏ. Gã xuống cầu thang, nhảy tênh tênh như con chim.
Gã ra quảng trường, giậm chân khi chạm đất.
- ồ! Hè phố Paris mới tốt và đáng kính làm sao! Quỷ tha ma bắt cái cầu thang làm thánh thần cũng phải bở hơi tai kia đi.
Gã đi vài bước, nghe phía sau có tiếng nói oang oang, những câu chửi thề ghê gớm.
Jehan kêu lên:
- Thề có linh hồn ta. Chắc phải là ông bạn đại úy Phoebus!
Phó giám mục và Jacques Charmolue chưa đi xa. Cái tên Phoebus làm Jehan giật mình. Gã quay lại thấy ông anh vừa nói chuyện với một sĩ quan cao lớn. Đúng là đại úy Phoebus de Châteaupers. ông ta tựa lưng vào tường, chửi thề như một tên tà đạo.
Jehan nắm tay ông ta.
- Chà, đại úy thân mến, ở đâu ra cả một suối những lời đẹp đẽ thế?
- Xin lỗi anh bạn quý Jehan! - Đại úy kêu lên, lắc tay gã..- ông có muốn đi uống tí gì không? - Gã giáo đồ hỏi.
- Tôi muốn lắm nhưng không có tiền.
- Tôi có đây.
Jehan chìa túi tiền vào mặt đại úy, vẻ vừa oai vệ vừa đơn giản. Nhưng phó giám mục đã đến gần họ cách vài bước, quan sát cả hai mà không làm họ chú mục đến ông. ông chú ý đặc biệt đến túi tiền.
Phoebus kêu lên:
- Một túi tiền trong túi cậu à Jehan? Khác nào mặt trăng trong xô nước. Người ta nhìn thấy mặt trăng nhưng nó không có đấy. Đánh cuộc đây là những hòn cuội!
Jehan trả lời lạnh lùng:
- Đây là những hòn cuội tôi đã nhét đầy túi.
Không nói thêm một lời, hắn dốc túi tiền vào cái mốc bên cạnh.
- Trời! - Phoebus ngồm ngoàm. - Oách thật!
Jehan vẻ đĩnh đạc và lạnh lùng.
Vài đồng tiền lăn xuống bùn. Đại úy, trong cơn phấn khích cúi nhặt. Jehan giữ ông lại:
- Xì, đại úy Phoebus Châteaupers!
Phoebus đếm tiền, trịnh trọng quay về phía Jehan:
- Jehan, đêm qua cậu ăn trộm của ai đấy à?
Jehan ngửa đầu ra phía sau, cái đầu tóc hung xoăn tít. Hắn lim dim mắt, giọng khinh khỉnh:
- Người ta có một ông anh làm phó giám mục và hơi đần.
- Con người đáng trọng xiết bao!
- Ta đi uống đi! - Jehan rủ.
- Đi đâu? - Phoebus nói. - Đến Pomme d’Eve nhé?
- Thì đến Eve và trái táo của nàng. - Gã giáo đồ nắm cánh tay của Phoebus. Hai anh bạn lên đường.
Phó giám mục đi theo họ, rầu rĩ và ngơ ngác.
Đây phải chăng là Phoebus đã cứu Esmeralda ngày nào? Riêng cái tên ấy đã đủ để phó giám mục lén theo hai anh bạn vô tâm, lắng nghe từng lời, chú ý từng cử chỉ của họ. Chẳng khó khăn gì vì họ nói bô bô.
Đến một góc phố có tiếng trống vẳng lại từ ngã tư kề bên. Dom Claude nghe tiếng viên sĩ quan nói:
- Chết chửa! Bước gấp lên. Mình sợ đứa con gái bô-hê-miêng trông thấy mình mất..- Đứa con gái bô-hê-miêng nào?
- Con bé có con dê ấy.
- Cô Esmeralda à?
- Đúng! Tôi cứ quên cái tên quỷ quái của con ranh ấy.
- Nhanh chân lên. Tôi không muốn ả bám lấy tôi ở ngoài phố.
- Phoebus, ông có quen cô ta không?
Phoebus cười lớn, ghé tai ông bạn nói gì đó, nhưng Dom Claude vẫn nghe được câu chuyện của họ. Phó giám mục rùng mình, răng đánh cầm cập. ông trượt chân rồi lại theo hút hai người đang hát như gào lên một bài hát cổ.
Tiệm Pomme d’Eve nằm trong trường Đại học góc phố Rondelle và Bâtonnier. Đó là một phòng ở tầng trệt khá rộng và thấp, có những bình thiếc treo trên tường. Chỗ nào cũng là bàn.
Lúc nào cũng có bợm rượu. Một cửa kính trông ra đường. Một cây nho ngoài cửa. Trên cửa là một tấm tôn vẽ hình một quả táo và một người đàn bà. Mưa gió đã làm tấm tôn hoen rỉ. Đó là biển hiệu.
Đêm xuống. Ngã tư tối đen như mực. Trong tiệm ăn, nến cháy rực như một cái lò. Tiếng cốc chạm nhau. Tiếng cãi cọ vẳng qua các lỗ kính vỡ. Hơi nóng trong phòng phủ một lớp sương trên kính mặt tiền của tiệm. Qua làn sương người ta thấy hàng trăm khuôn mặt mờ ảo. Thỉnh thoảng một tiếng cười hô hố bật lên.
Một người đàn ông điềm nhiên đi đi, lại lại trước quán rượu ồn ào. ông không ngừng nhìn vào bên trong, không xa rời quán rượu, như người lính canh không xa rời trạm gác của mình.
Ông kéo cổ áo măng tô lên đến mũi. Chiếc áo khoác này ông vừa mua của một tên ăn cắp cạnh quán rượu, chắc hẳn là để chống cái rét tháng ba, nhưng đúng hơn là để che giấu quần áo của ông. Thỉnh thoảng ông dừng chân trước cửa hiệu, nghe ngóng, nhìn ngó và giậm chân.
Cuối cùng cửa tiệm rượu mở. Hình như ông chỉ chờ có thế. Hai khách rượu đi ra. ánh sáng lọt ra từ cửa nhuộm đỏ bộ mặt tươi rói của họ.
Một trong hai người nói:
- Tôi bảo đảm rằng tôi không ở phố Mauvaises Paroles, mà ở phố Jean-Pain-Mollet.
- Anh bạn Jehan, anh say rồi.
Độc giả chắc đã nhận ra hai anh bạn của chúng ta: đại úy và anh giáo đồ. Có vẻ như người.rình họ trong bóng tối cũng nhận ra. ông chậm bước theo đường đi chuệch choạng của họ, chăm chú lắng nghe họ. Người khoác áo măng tô đã nắm được toàn bộ câu chuyện hay ho của họ sau đây:
- Cố đi cho thẳng, ông giáo đồ ơi. ông biết rằng tôi sắp phải rời ông rồi đấy.
- Để mặc tôi.
- Jehan, anh không còn tiền à? Chúng ta đã uống sạch túi tiền của ông anh ư? Anh không còn gì sao? Nói đi, đồ quỷ, anh còn ít tiền nào không? Trả lời đi, nếu không tôi lục túi đấy, dù anh có là hủi. Nhân danh Chúa, hãy tỉnh lại đi.
Tôi cần một ít tiền.
Jehan giả điếc. Đại úy cáu tiết, xô mạnh gã giáo đồ. Tên này trượt vào tường và ngã lăn ra lề đường, Phoebus lấy chân đạp Jehan vào một đống lõi bắp cải. Lão đặt ngay ngắn đầu Jehan lại. Tên này đã ngủ, ngáy khò khò.
- Mặc xác mi. Để cho xe bò tuần phòng lượm mi lên khi đi qua. - Đại úy nói với ông bạn tu sĩ thân mến đang ngủ rồi lảng đi.
Người mặc áo măng tô từ nãy vẫn theo dõi họ, dừng lại một lát trước người giáo đồ đang nằm đó. Một chút phân vân rồi ông cũng bỏ đi theo hút viên đại úy.
Giống như họ, chúng ta cũng để mặc Jehan ngủ dưới con mắt nhân từ của các vì sao và chúng ta cũng đi theo họ.
Đến phố Saint André, đại úy Phoebus nhận ra có người theo mình. Tình cờ đảo mắt, ông thấy một cái bóng trườn theo ông dọc theo bờ tường. ông đứng lại. Cái bóng cũng đứng lại.
Ông bước tiếp. Cái bóng cũng bước tiếp. Điều đó cũng chỉ làm ông lo ngại vậy thôi.
- ồ, ta chẳng có một xu. Hắn chẳng ăn cướp được gì của ta. - Phoebus nhủ thầm.
Ông dừng lại. Phố xá hoàn toàn vắng vẻ.
Ông thấy cái bóng chầm chậm bước lại gần. Lúc đến gần, cái bóng dừng lại, bất động như một pho tượng. Nó nhìn ông. Đôi mắt chiếu vào ông một thứ ánh sáng như mắt mèo phát ra từ đêm tối.
Đại úy là người can đảm. ông không hề sợ một tên trộm, nhưng pho tượng kia bước đi, con người này làm ông sợ như hóa đá. Một vài phút kinh ngạc, rồi phá vỡ sự im lặng ông cố cười:
- Thưa ông, ông là một tên kẻ cắp phải không? ông gây cho tôi cảm tưởng một con diệc tấn công một cái quả cứng. Tôi là con một gia.đình phá sản, ông bạn thân mến ạ. Hãy đi tìm nơi khác.
Bàn tay của cái bóng rút ra từ trong túi áo khoác, và phóng vào cánh tay Phoebus với sức nặng của móng đại bàng. Cùng lúc đó cái bóng lên tiếng:
- Đại úy Phoebus de Châteaupers!
- Sao, đồ quỷ! Anh biết tên ta à?
- Tôi không chỉ biết tên ông mà còn biết rằng ông có một cuộc hẹn tối nay. - Người khoác áo măng tô nói bằng một giọng như cất lên từ nhà mồ.
- Phải. - Phoebus ngạc nhiên trả lời.
- Vào bảy giờ?
- Đúng.
- Với một cô gái Ai Cập, tên là...
- Nàng Esmeralda. - Phoebus nhanh nhảu nói. Tất cả thói vô tâm của ông lại trở lại.
Nghe tên đó, cái bóng giận dữ lắc mạnh tay Phoebus.
Đại úy rút kiếm, giọng nghẹn lại, vì tức điên lên.
- A! Thế này thì tốt hơn, chúng ta sẽ đánh nhau.
- Đại úy Phoebus, ông quên cuộc hẹn của ông rồi. Câu nói giản dị ấy làm cho đại úy hạ thanh kiếm đang lấp lánh trong tay.
Phoebus nói:
- Thưa ông, ông có lý. Ngày mai ta còn thì giờ để đánh nhau. Xem ra ông là một chàng trai khá đấy. Tôi vui lòng giữ lời hứa. Tôi đến cuộc hẹn đây, vì một việc quan trọng. A! Tôi quên mất, tôi chẳng có xu nào.
- Đây, xin giúp ông.
Phoebus cảm thấy bàn tay lạnh ngắt của người lạ mặt luồn vào tay ông một đồng tiền lớn. ông không thể ngăn mình cầm đồng tiền ấy và nắm bàn tay kia.
- Lạy Chúa tôi! ông thật là tốt bụng. - Phoebus kêu lên.
- Với một điều kiện, - người kia nói. - ông phải giấu tôi ở một góc nào đấy để tôi có thể nhìn thấy người đàn bà ông vừa nói tên.
- ồ, được thôi. - Phoebus trả lời. - Hãy theo tôi. Tôi sẽ giấu ông ở một ổ chó để ông có thể nhìn thấy chúng tôi, nghe chúng tôi nói. Tôi chẳng có gì phải giấu giếm cả.
Lát sau Claude Frollo (chúng tôi phỏng đoán rằng độc giả tinh hơn Phoebus, đã nhận ra cái bóng bí mật kia là phó giám mục) đã bị giam mình trong một xó nhà, không cửa sổ, không lỗ tò vò, mái nhà dốc khiến ông không thể đứng thẳng lên được. ông ngồi xổm trên bụi và trên vôi vữa vừa lở dưới sức nặng của thân ông. Đầu ông bốc lửa. Sờ soạng xung quanh, ông vớ được một mảnh kính vỡ. ông áp mảnh kính vào trán, hơi mát làm ông dịu đi đôi chút.
Ông đợi mười lăm phút, tưởng như mình đã già đi một thế kỷ. Bất thình lình ông nghe cầu thang gỗ cót két. Có ai đó đi lên. Nơi cánh cửa mọt của cái hầm giam ông có một vết nứt khá rộng. ông dán mắt vào đó. Bằng cách ấy ông có thể thấy tất cả những gì xảy ra ở phòng bên cạnh.
Chỉ có Phoebus và Esmeralda ngồi trên cái hòm gỗ cạnh một cái đèn.
Cô gái đỏ mặt, chết lặng, bồn chồn. Hàng mi dài của nàng cụp xuống, tỏa bóng trên đôi má hồng.
Máy móc và vụng về, nàng dùng ngón tay vẽ trên mặt hòm những đường không mạch lạc.
Nàng nhìn ngón tay. Người ta không trông thấy bàn chân nàng vì con dê nhỏ ngồi lên.
Cô gái nói:.- ôi, đừng khinh bỉ tôi, thưa ngài Phoebus.
Tôi khổ quá.
- Khinh cô à? Khinh cô à? Vì sao lại thế? -Viên sĩ quan trả lời.
- Chao ôi! Vì tôi đã không làm tròn một ước nguyện... Tôi không tìm được mẹ tôi... Lá bùa mất thiêng. Nhưng tôi cần gì?
Cô nói và chiếu thẳng đôi mắt đen láy của nàng vào đại úy.
- Quỷ quái, nếu tôi hiểu được cô! - Phoebus kêu lên.
Esmeralda im lặng một lát, rồi nói:
- Đại úy Phoebus, ông là người tốt bụng, là người khoan dung. ông đã cứu tôi, một đứa trẻ tội nghiệp bị bỏ rơi.
Cô gái nói âm thầm, tưởng như cô đang mê.
- Cái này là cái gì? - Đại úy chỉ lá bùa đeo trên cổ Esmeralda, hỏi.
- Đừng động vào! - Cô gái kêu lên mạnh mẽ.
- Đây là thần hộ mạng của tôi. Nó sẽ giúp tôi tìm thấy mẹ, nếu tôi giữ mình xứng đáng... ôi!
Để lại cho tôi, thưa ông đại úy. Mẹ ơi! Mẹ tội nghiệp của con! Mẹ ở đâu?
Thình lình cô trông thấy trên đầu Phoebus một bộ mặt có cái nhìn của kẻ sa địa ngục. Gần bộ mặt ấy là một bàn tay cầm dao găm.
Đó là mặt và bàn tay của linh mục. ông ở đây mà Phoebus không thể trông thấy ông. Cô gái im phắc, hóa đá câm lặng trước sự xuất hiện hãi hùng ấy. Cô không thể kêu một tiếng. Cô trông thấy lưỡi dao găm đâm xuống Phoebus và rút lên, bốc khói.
- Tai họa! - Viên đại úy kêu lên.
Hắn ngã ra. Cô gái ngất xỉu.
Tỉnh lại, cô thấy quanh mình toàn lính tuần phòng. Người ta mang đại úy đi, mình đẫm máu.
Linh mục biến mất. Cửa sổ cuối phòng trông ra sông, mở toang. Người ta nhặt được chiếc áo khoác, tưởng là của viên sĩ quan. Cô nghe xung quanh mình, người ta nói:
- Con mụ phù thủy đã đâm đại úy..
Gringoire cùng toàn bộ triều đình của những kỳ quái đang trong cơn lo lắng chết người. Từ một tháng nay không ai biết Esmeralda ra sao cả, cả con dê của cô nữa. Nỗi đau của Gringoire tăng gấp đôi vì anh yêu cả con dê lẫn cô chủ. Một chiều cô gái Ai Cập biến mất. Từ đó không có dấu hiệu gì chứng tỏ cô còn sống.
Mọi cuộc tìm kiếm đều vô hiệu. Không ai giải thích được sự mất dạng ấy. Đó là một nỗi buồn sâu sắc. Gringoire gầy xọp đi. Có lẽ cô mất tích thật!
Ngày nọ, anh thấy đám đông trước một trong những cửa của Tòa án.
- Cái gì thế? - Anh hỏi một người trẻ tuổi từ Tòa án đi ra.
- Tôi không biết, thưa ông. Người ta nói họ xử án một phụ nữ ám sát một cảnh binh. Vì trong chuyện này hình như có trò phù thủy gì đó nên ông anh phó giám mục của tôi phụ trách việc này. Tôi muốn nói chuyện với ông ấy mà chẳng sao len được vì cái đám đông chen chúc này. Tôi rất không bằng lòng vì tôi đang cần tiền.
- Chao ôi! Thưa ông, tôi muốn cho ông vay nhưng túi tôi thủng mất rồi mà lại không phải vì tiền làm thủng.
Gringoire không dám nói với người trẻ tuổi là anh có biết phó giám mục. Người giáo đồ đi theo đường đi của anh ta. Gringoire theo đám đông leo cầu thang lên đến phòng lớn. Anh cho rằng để xua tan nỗi buồn thì không gì bằng cảnh tượng một phiên tòa. Quần chúng chen vai thích cánh đi lặng lẽ. Sau khi chậm chạp vượt qua một hành lang dài, anh đến một cửa thấp mở ra một gian phòng rộng và tối. Ngày đã hết. Nhiều cây nến đã được thắp trên các bàn. Bên phải và bên trái phòng có những vị mặc áo thụng ngồi trước bàn. Trong cùng, trên một cái bục, có rất nhiều quan tòa. Hàng sau cùng ngồi lẩn trong bóng tối. Gringoire hỏi người bên cạnh:
- Thưa ông, các ngài kia làm gì ở đây vậy?.- Thưa ông, họ xử một người đàn bà. ông có thể trông thấy chị ta. Chị ấy ngồi quay lưng lại chúng ta và bị đám đông che khuất.
- Người đàn bà này là thế nào? ông có biết tên chị ta không?
- Thưa ông không. Tôi vừa mới đến. Tôi cho là có chuyện phù thủy gì đó.
Đến đây, xung quanh yêu cầu mọi người im lặng để nghe một nhân chứng quan trọng.
Một bà đang nói. Bà đứng giữa phòng, mặt bị che lấp bởi mớ quần áo rách bươm. Có thể nói bà ta như một đống giẻ rách biết đi.
- Thưa các ông, một buổi chiều tôi đang ngồi kéo xa, thằng bé nhà tôi chơi bên cạnh, thì có tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa. Có hai người đàn ông bước vào, một người đen sì và một sĩ quan đẹp đẽ, chỉ trông thấy mắt người đen đỏ sọc, còn toàn thấy áo choàng và mũ. Họ hỏi thuê một phòng. Tôi chỉ cho họ phòng phía trên. Họ trả cho tôi một ê-cu. Tôi cất đồng ê-cu vào ngăn kéo. Chúng tôi lên gác. Lên đến phòng, khi tôi quay lưng đi thì người đen biến mất. Tôi hơi ngạc nhiên. Viên sĩ quan đẹp đẽ như một đại lãnh chúa cùng xuống nhà với tôi. ông ta đi ra.
Khoảng thời gian chỉ đủ để kéo một phần tư buộc sợi, ông sĩ quan trở lại cùng một cô gái.
Cô ta có một con dê, một con dê to, đen hay trắng thì tôi không nhớ. Tôi đưa họ lên phòng trên và để họ lại với nhau. Nghĩa là cả con dê nữa. Tôi xuống nhà, tiếp tục kéo sợi. Thình lình tôi nghe thấy ở trên ấy có tiếng kêu và một cái gì rơi xuống nền gạch. Cửa sổ mở ra. Tôi chạy ra cửa sổ tầng dưới. Tôi trông thấy một mảng đen rơi xuống nước. Đó là một con ma mặc áo linh mục. Trời sáng trăng. Tôi trông rõ hắn bơi về phía thành phố. Tôi sợ run lên, chạy đi gọi đội tuần phòng. Các ông này đến và chúng tôi lên gác, thấy phòng lênh láng máu. Đại úy nằm dài, một con dao găm nơi cổ. Người con gái thì giả chết, con dê sợ phát điên. Người ta đem viên sĩ quan tội nghiệp và cô gái đi. Hôm sau khi tôi muốn lấy đồng ê-cu để mua lòng thì chỉ thấy một chiếc lá khô (Bà già không biết rằng khi bà lên phòng trên thì đứa bé đã lấy đồng ê-cu và thay vào bằng một chiếc lá khô lấy ở bó củi).
Bà già ngừng lời. Cử tọa rì rầm, khiếp sợ.
- Im lặng! - Một quan tòa ra lệnh. - Ai là thầy Jacques Charmolue? Bà già, bà có đem đến đây chiếc lá khô không?.- Thưa ngài có. Nó đây.
-Đây là một chiếc lá bạch dương, một bằng chứng của trò ảo thuật. - Thầy Jacques Charmolue nói.
Ông Philippe Lheulier, luật sư của triều đình, xen vào:
- Tôi xin lưu ý rằng chúng ta có lời chứng của đại úy Phoebus de Châteaupers.
Nghe tên đó, bị can đứng lên, đầu vượt trên đám dân chúng.
Gringoire kinh hoảng nhận ra Esmeralda. Cô xanh xao. Tóc cô, trước kia được bện một cách duyên dáng, nay xõa xuống lòa xòa. Cặp mắt mờ tối. Mặt trũng xuống trông phát sợ.
- Phoebus! - Cô nói thảng thốt. - ông ta đâu? Cho tôi biết ông ấy còn sống không?
Chủ tọa quát:
- Im đi. Đó không phải là việc của chúng ta.
- Xin hãy thương tôi. Cho tôi biết ông ấy còn sống không. - Cô nhắc lại.
- ông ta đang hấp hối! Cô bằng lòng chưa?
- Luật sư của triều đình nói khô khan.
Cô gái tội nghiệp ngồi phịch xuống ghế bị cáo. Không một tiếng nói. Không nước mắt. Mặt trắng bệch như bằng sáp. Không một dấu hiệu của sự sống. Một cảnh binh phải lay thật mạnh, không thương tiếc, để cô tỉnh lại. Chánh án trịnh trọng nói:
- Cô gái kia, cô thuộc giống bô-hê-miêng, trong đêm 29 tháng ba vừa rồi, với sự đồng lõa của con dê đã bị phù thủy hóa của cô, cô đã đâm dao găm vào đại úy cung thủ của nhà vua, ông Phoebus de Châteaupers. Cô còn ngoan cố chối cãi nữa hay thôi?
- Kinh khủng. Tôi phủ nhận. - Người con gái hét lên, giọng ghê gớm. Cô đứng lên, mắt tóe lửa.
- Vậy thì cô giải thích thế nào nếu cô bị kết án?
- Tôi đã nói với các ông rồi. Tôi không biết.
Đó là do một linh mục, một linh mục tôi không quen biết. Một linh mục của địa ngục đã theo dõi tôi.
- Thế ư? - Chánh án tiếp lời.
- ôi, thưa các ngài. Xin hãy thương tôi. Tôi là một đứa con gái khốn khổ...
- Đứa con gái Ai Cập. - Chánh án nói..Luật gia Jacques Charmolue lên tiếng, nói nhẹ nhàng:
- Vì rằng bị can ngoan cố, tôi đề nghị áp dụng hình thức tra tấn.
- Chấp nhận. - Chủ tọa nói.
Người con gái khốn khổ run rẩy toàn thân.
Song cô vẫn đứng lên, bước đi vững vàng theo sau Charmolue, giữa hai hàng lính mang kích.
Một cái cửa bất ngờ mở ra rồi khép lại. Gringoire buồn bã có cảm tưởng cái cửa đó là một cái mõm to tướng vừa xé xác, nuốt chửng nàng.
Phiên tòa ngừng lại. Một cố vấn nhận thấy các vị quan tòa đã mệt mà đợi đến khi cuộc hành tội kết thúc thì còn lâu. Chánh án trả lời: một quan tòa phải biết hy sinh làm phận sự.
Người ta tra tấn nữ tù nhân. Người con gái tội nghiệp cố thu hết can đảm, song cô vẫn giật thót người khi bàn tay chai sạn của những tên phụ việc của Pierrat Torterue kẻ gia hình, nhét bàn chân xinh của cô vào thanh sắt đáng sợ của cái kẹp chân. Cô rú lên đau đớn, khi Pierrat vặn cái chốt và chân cô bị những thanh sắt độc ác kia nghiến chặt. Cô thú nhận. Thú nhận tất cả những gì người ta muốn. Thú nhận đã có giao tiếp với quỷ dữ. Thú nhận đã ám sát đại úy Phoebus de Châteaupers. Tất cả đã vỡ tan trong cô. Cô được tháo cùm và dẫn trở lại phòng xử án.
Khi cô trở vào phòng, xanh tái, khập khiễng thì tiếng xì xào khoái trá đón cô. Cô lết đến chỗ của mình, Charmolue vào vị trí của hắn. Hắn đứng lên nói, cố không lộ ra cái vẻ đắc thắng của mình:
- Bị can đã thú nhận tất cả.
- Cô gái của giống bô-hê-miêng, - chánh án nói: - cô đã thú nhận tất cả những trò ma thuật và tội ám sát Phoebus Châteaupers của cô?
Tim cô gái thắt lại. Cô thổn thức trong bóng tối:
- Vâng, tất cả những gì các ông muốn. - Cô gái trả lời yếu ớt.
Chánh án nói:
- Thưa ngài chưởng lý của nhà vua. Tòa đã sẵn sàng nghe bản luận tội của ngài.
Luật gia Charmolue chiềng ra một quyển sách đáng hãi, đọc một văn bản bằng tiếng la-tinh, nói nhiều bằng cử chỉ hùng hổ, chúng tôi tiếc là đã không thể hiến độc giả tác phẩm quý.đó. Diễn giả thao thao bất tuyệt khiến mồ hôi nhỏ giọt trên trán ông và mắt lồi ra.
Bản luận tội rất dài. Viên lục sự cắm cúi ghi rồi hắn đệ lên chánh án một bản giấy da dài.
Người con gái khốn khổ nghe tiếng quần chúng cựa quậy, tiếng giáo va chạm nhau. Một giọng lạnh băng cất lên:
- Đứa con gái của giống bô-hê-miêng vào một ngày nào đó, vào buổi trưa, thừa ý chỉ đức vua, ngươi sẽ được đưa đến trước cổng nhà thờ Đức Bà trên chiếc xe bò với một cây đuốc bằng sáp hai cân trên tay. Ngươi sẽ được giải đến quảng trường Grève để đền tội, ngươi và con dê của ngươi sẽ bị treo cổ vì những tội mi đã phạm và đã thú nhận: tội phù thủy, tội ma giáo, tội đã giết ông Phoebus de Châteaupers!
- ôi! Thật là ác mộng!
Những bàn tay thô bạo lôi cô đi.
Người ta nhốt cô vào một cái hầm ngầm trong Tòa án.
Cô ở đấy, chìm trong bóng tối, bị chôn sống, bị vùi lấp, bị giam chết giữa những bức tường.
Ai thấy cô trong tình trạng ấy, sau khi đã thấy cô cười vui, khiêu vũ dưới ánh mặt trời đều run sợ. Lạnh như đêm tối, giá băng như cái chết.
Không một hơi gió nhẹ lùa trong mái tóc. Tai không nghe một tiếng người, không một tia sáng trong mắt. Bị xiềng xích đè bẹp gí, gẫy gập đôi người. Cô ngồi bên một cái hũ. Một mẩu bánh vứt trên nắm rạ trên một vũng nước từ trần hầm nhỏ xuống. Cô ngồi đó, bất động, gần như không thoi thóp thở, không còn khả năng biết đau đớn là gì nữa.
Từ khi vào đây, cô chẳng thức, chẳng ngủ, không phân biệt được ngày hay đêm, mơ hay thật.
Rét cóng, lạnh giá, hóa đá. Vài ba tuần cô thoáng thấy cái cửa tò vò trên đầu mở ra, không để lọt một chút ánh sáng. Một bàn tay nào đã ném xuống cho cô một vỏ bánh mì đen.
Duy nhất chỉ có một cái: cô nghe thấy một cách máy móc tiếng giọt nước nhỏ xuống đều đều từ vòm đá nứt rạn.
Không một tiếng động nào khác ngoài tiếng tí tách của giọt nước làm xao động vũng nước trong đêm tối..
Một sáng tháng năm, trong lúc mặt trời lên cao trên bầu trời xanh, thì bà ẩn cư ở Tour-Roland nghe thấy tiếng bánh xe, tiếng ngựa, tiếng sắt thép ở quảng trường Grève. Bà buộc tóc trùm tai để khỏi phải nghe. Bà ngắm nhìn cái vật mà bà tôn thờ từ mười lăm năm nay, chiếc giày nhỏ này là cả vũ trụ của bà.
Sáng đó, hình như nỗi đau dội lên hơn thường lệ. Từ bên ngoài, người ta nghe bà than thở, tiếng to, đều đều, rất não lòng:
- ôi, con gái của ta! Con gái của ta! Đứa con tội nghiệp của mẹ! Mẹ sẽ không được trông thấy con nữa sao? Thế là hết sao? Với mẹ, sự việc cứ như mới xảy ra hôm qua. Trời ơi! ông đã lấy con tôi đi quá nhanh. Thà ông đừng cho nó cho tôi. Đầu gối tôi sầy ra sau mười lăm năm cầu nguyện. Như thế chưa đủ sao? Hãy trả nó cho tôi một ngày, một giờ, một phút. Lạy Chúa!
Tôi muốn con tôi. A! Mười lăm năm. Bây giờ chắc nó lớn lắm rồi.
Giữa lúc đó, những tiếng trẻ con tươi mát, trong trẻo, vui vẻ, bay qua cửa sổ xà lim. Mỗi khi trông thấy hay nghe thấy trẻ con là người mẹ tội nghiệp vội chạy lẫn vào góc tối nhất của cái nhà mồ của bà. Có thể nói bà rúc đầu vào đá để khỏi phải nghe tiếng chúng. Lần này, trái lại, bà đứng lên, háo hức nghe. Một đứa trẻ vừa nói:
- Hôm nay người ta sắp treo cổ một cô gái Ai Cập.
Bà chạy lại cửa sổ nhỏ. Nhóm trẻ cười cợt đã đi xa. Bà ẩn cư đưa mắt tìm một người đi ngang để hỏi. Bà nhìn tứ phía. Một linh mục đi đến. Thỉnh thoảng ông nhìn về phía giá treo cổ.
Cái nhìn dữ tợn, u uất. Bà nhận ra phó giám mục.
- Trình cha, người ta sắp treo cổ ai đấy?
- Ta không biết.
- Lũ trẻ vừa nói đó là một cô gái Ai Cập.
- Tôi nghĩ là phải.
Tức thì bà già phá lên cười..Phó giám mục nói:
- Bà chị ơi, bà căm thù những người đàn bà Ai Cập lắm sao?
- Vâng, tôi căm thù chúng. Chúng là những kẻ ăn cắp trẻ con, chúng đã đánh cắp bé gái của tôi, đứa con duy nhất của tôi.
Linh mục nhìn bà. Trông bà đến sợ.
Bà nói tiếp:
- Có một đứa tôi đặc biệt căm thù. Tôi nguyền rủa nó. Nó là một đứa con gái bằng tuổi con tôi bây giờ.
- Này bà chị, chính nó là đứa con gái bà sắp được thấy bị chết đấy.
Đầu linh mục cúi gục xuống ngực. ông chậm chạp đi xa.
Bà ẩn cư vặn tay, vui mừng Tuy nhiên, Phoebus không chết. Những người như ông sống dai. Khi ông luật sư của nhà vua nói với Esmeralda: "ạng ấy sắp chết", thì hoặc là vì nhầm lẫn, hoặc vì muốn đùa.
Không phải vì vết thương của Phoebus không nặng.
Linh mục đã mang Phoebus đến nhà một thầy thuốc. Suốt tám ngày ông này đã lo sợ cho tính mạng của y. Thế nhưng sức trẻ đã thắng.
Chuyện thường hay xảy ra: tạo hóa thường thích ngang nhiên cứu mạng người bệnh ngay trước mũi thầy thuốc. Còn đang phải nằm bẹp đó, anh ta đã phải chịu những cuộc thẩm vấn đầu tiên.
Điều đó làm cho anh ta rất phiền. Một buổi sáng, thấy mình đã khá hơn, anh liền để lại những chiếc cựa thúc ngựa bằng vàng của mình để trả công cho thầy thuốc và chuồn luôn. Công lý chẳng quan tâm đến anh. Các quan tòa đã có khá đủ bằng chứng để kết tội Esmeralda, tin rằng Phoebus đã chết và tất cả đều đã được khai rồi.
Phoebus không trốn đâu xa. Hắn tìm lại đơn vị của mình đang đồn trú tại Queue-en-Brie trong Ile-de-France, ngay gần Paris.
Hắn chẳng thích ra mắt trong vụ này. Hắn có cảm giác mơ hồ hắn là một nhân vật lố bịch.
Mặt khác, hắn hy vọng câu chuyện không bị tiết lộ. Queue-en-Brie xưa là nơi lưu trú rất vô vị, một cái làng của những người thợ bịt móng ngựa, những người vắt sữa bò, tay nứt nẻ. Một dãy nhà lụp xụp và những nhà gianh bám hai bên đường.cái. Phoebus nhanh chóng chán ngấy và mò về Paris. Hắn định bụng sẽ đến thăm một cô gái sống gần nhà thờ Đức Bà, một cuộc viếng thăm ong bướm.
Thoạt đầu, gã không để ý đến đám đông đang xúm xít trước cổng nhà thờ. Nhưng rồi tiếng ồn ào làm cho óc tò mò của hắn bị kích thích. Gã hỏi:
- Tiếng ồn ào này là gì thế?
- Tôi không biết. - Ai đó trả lời. - Hình như một mụ phù thủy sắp phải đền tội trước nhà thờ.
Viên đại úy tưởng vụ Esmeralda đã kết thúc nên không xúc động lắm.
Quảng trường trước nhà thờ lúc đó có vẻ gì thảm đạm kỳ lạ. Một đám rất đông kéo đến từ các phố lân cận, đứng chật quảng trường. Sân trước nhà thờ để trống, một hàng rào dày đặc cảnh binh và lính đứng giữ trật tự. Lối vào thì do lính cầm kích mang quân hiệu của giám mục canh gác. Nhưng cửa lớn của nhà thờ thì đóng kín.
Giữa lúc đó, đồng hồ nhà thờ điểm mười hai tiếng. Tiếng xôn xao mãn ý lan trong đám đông.
Tiếng đồng hồ thứ mười hai vừa dứt thì tiếng hoan hô vang dậy trên sân quảng trường, trên các cửa sổ, trên các mái nhà.
- Cô ta kia!
Một chiếc xe bò có kỵ binh vây kín, tiến vào quảng trường. Đội tuần phòng mở một lối đi.
Cạnh xe bò, cưỡi ngựa đi kèm là một số chức sắc của tòa án. Sĩ quan quân cảnh dễ nhận ra nhờ trang phục đen của họ. Jacques Charmolue đi đầu.
Trên chiếc xe định mệnh, người con gái ngồi, tay bị trói quặt ra sau lưng. Cô mặc sơ-mi. Mớ tóc dài lòa xòa trên vai.
- Giê xu! - Một cô gái nói với Phoebus. -Đ úng là cô gái bô-hê-miêng xấu xa có con dê.
Viên đại úy dán mắt vào chiếc xe bò. Gã tái mặt.
Nhưng đoàn người ngựa buồn thảm đã đi qua quảng trường giữa tiếng reo hò. Chiếc xe bò đến sân trước nhà thờ. Nó dừng lại trước cổng giữa. Đoàn hộ tống dãn ra hai bên. Đám đông im lặng. Giữa sự im lặng trang trọng đó, hai cánh cửa lớn quay trên gông ken két. Một điệu hát trầm, vang, đều đều, bay ra từ nhà thờ. Đó là bài thánh ca dành cho người chết. Cái nhìn và ý.nghĩ của Esmeralda dường như mất hút trong nhà thờ. Môi cô mấp máy như đang cầu nguyện.
Khi tên phụ việc cho đao phủ lại gần Esmeralda giúp cô xuống xe bò, hắn nghe thấy cô lẩm bẩm khe khẽ: Phoebus.
Người ta cởi trói tay cho cô, đưa cô xuống xe cùng với con dê đang be be lên vui vẻ vì cảm thấy được tự do. Cô đi chân đất trên quảng trường. Sợi dây trên cổ kéo lê sau lưng.
Tiếng hát trong nhà thờ ngừng. Một chiếc thập tự vàng và một dãy nến lay động trong bóng tối. Lát sau, xuất hiện một đoàn dài linh mục và trợ tế trịnh trọng tiến về phía người chịu tội.
- ồ, lại là hắn. - Cô gái nhìn người đi đầu nói khẽ.
Thật vậy, đó là phó giám mục. ông tiến lên, đầu ngoặt về phía sau, mắt nhìn thẳng, mở trừng trừng, hát kinh giọng khỏe nhưng trông ông xanh xao.
Esmeralda tái xanh không kém, khi cô thấy người ta đặt vào tay cô một cây nến nặng, màu vàng đã thắp.
Một mình Dom Claude lại gần. ông kêu lên bằng một giọng u uất cái công thức đáng sợ kết thúc những buổi lễ buồn thảm kiểu này. Đó là hiệu lệnh quy ước cho tên đồ tể. Dân chúng quỳ xuống.
Phó giám mục quay lưng lại người chịu tội, đầu gục xuống ngực, tay khoanh lại. ông nối tiếp đoàn tùy tòng.
Cô gái bị kết tội đứng lặng chờ người ta quyết định đời cô. Cô gái khốn khổ lúc trèo lên chiếc xe bò định mệnh đưa cô đến chốn cuối cùng, có lẽ đã tiếc đời đến đứt ruột. Cô ngước đôi mắt đỏ sọc lên nhìn trời, nhìn đất, nhìn đám đông, nhìn những ngôi nhà... Thình lình cô thét lên một tiếng ghê rợn. Trong lúc tên phụ việc của đao phủ túm chặt khuỷu tay cô, thì xa kia, ở một góc quảng trường, cô thoáng thấy người ấy, hắn, bạn cô, hắn, vị chúa của cô: Phoebus!
Quan tòa đã nói dối. Đúng là hắn. Cô không thể nhầm được. Hắn đứng kia, sống sờ sờ trong bộ chế phục choáng lộn của hắn, lông mũ trên đầu, kiếm ngang lưng.
Cô gào lên:
- Phoebus! Phoebus! Cứu tôi!
Cô muốn vươn về phía hắn cánh tay run run của mình, nhưng cánh tay bị trói chặt..Một ý nghĩ chợt lóe lên. Cô nhớ là mình bị kết tội là đã giết Phoebus de Châteaupers.
Cho đến lúc này cô đã chịu đựng tất cả, nhưng đòn cuối cùng này quả phũ phàng. Cô ngã xuống mặt đường, bất tỉnh.
Charmolue hô:
- Lôi nó lên xe bò. Kết thúc đi!
Chưa ai để ý thấy, trong phòng tranh trưng bày tranh các vua, có một khán giả kỳ lạ. Hắn đã quan sát tất cả, trơ trơ ra đó. Người ta có thể nhầm y là một máng nước, không một cái gì lọt qua mắt y. Ngay từ lúc đầu, khi không ai chú ý, y đã buộc chặt một sợi chão lớn có thắt nút vào một cây cột của phòng tranh. Một đầu dây chão buông thõng xuống bậc thềm lên xuống bên dưới.
Làm xong, y lặng lẽ đứng nhìn, chợt những tên lính hầu sắp thi hành lệnh của Charmolue thì hắn nhảy qua lan can của phòng tranh, lao đến hai tên đao phủ, hạ gục chúng bằng hai quả đấm nặng trịch, nhấc bổng cô gái Ai Cập một tay như đứa trẻ nhấc con búp bê. Chỉ một cái nhún, y nhảy trở vào nhà thờ, nâng cô gái trên đầu, miệng hô lớn: "Asile!" (nơi trú ẩn bất khả xâm phạm - ND).
Đám đông hô theo:
- Asile, asile!
Hàng ngàn tiếng vỗ tay làm sáng lên con mắt độc nhất của Quasimodo, vui vẻ và kiêu hãnh.
Charmolue sững sờ. Quả vậy, trong phạm vi nhà thờ Đức Bà, nữ phạm nhân thành bất khả xâm phạm. Nhà thờ là nơi trú ẩn. Mọi luật pháp của con người đều mất hiệu lực trước ngưỡng cửa nhà thờ.
Quasimodo dừng lại dưới cổng lớn. Y túm chặt cô gái bằng bàn tay đầy chai, rất thận trọng như sợ cô bị gẫy.
Phía dưới, quần chúng nhảy lên, hào hứng.
Sau mấy phút chiến thắng, Quasimodo vào sâu trong nhà thờ.
- Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô! - Dân chúng gào lên. Tiếng hoan hô dậy đất ấy khiến bà già ẩn cư sửng sốt. Bà vẫn đợi chờ, mắt đăm đăm nhìn cái giá treo cổ..