Đam mê tìm kiếm niềm hạnh phúc bất diệt dẫu vẫn chưa đụng được đến chiếc bóng của nó đã khiến tôi thờ ơ với Lan; thế rồi một hôm tôi nhận được lá thư.
Ngày... tháng... năm...
T.M. thân mến,
Có thể lá thư này thừa thãi đối với T.M. vì dù gì hơn bốn năm quen nhau T.M. đã thừa biết tính của Lan. Khi yêu, mọi tội lỗi giận hờn Lan xóa bỏ hết nhưng khi cảm thấy tình mình chỉ một chiều thì Lan đếm, tính toán cả những tiếng thở dài. Nói như thế không có nghĩa là Lan kể lể hoặc van xin rồi lại cũng chứng nào tật đấy và cứ tái diễn, tái diễn mãi không thay đổi. Con người ta say riết rồi cũng phải có lúc tỉnh, cũng như Lan yêu là chấp nhận tha thứ nhưng khi thấy sự tha thứ của mình là một danh từ hão tự đặt ra rồi lại tự diệt nó để làm trò cười cho T.M. thì có lẽ từ bây giờ... Lan chấm dứt không còn xài nó nữa.
T.M., sau hai tháng suy ngẫm và nghiệm chứng Lan thấy rõ chúng mình cùng là bạn đồng hành, càng hiểu, càng yêu nhau nhưng hai mục đích khác nhau. Lan không có lý tưởng cao siêu hơn tình yêu nên khi gặp T.M. đã muốn dừng chân. Lan không coi T.M. là một trạm đường trong khi với riêng T.M., đường còn xa, cần dừng chân nghỉ ngơi, ăn uống và tiếp tục đi. T.M. có những nhu cầu cần phải có trên chuyến đường dài mà Lan thì lại lầm lẫn giữa nhu cầu và tình yêu. Như vậy câu trả lời của T.M. đã thật rõ ràng, ngay từ lúc đầu mà Lan vẫn mập mờ đánh lận con đen không muốn hiểu.
T.M. không coi Lan là của riêng mình thì đâu sợ mất. Không là của riêng thì là của chung, như một máy nước ai vào uống, đập phá cũng được vì đâu phải của mình mà mình đau, mình xót. Không coi là của riêng thì đâu mất công theo đuổi, tán tỉnh, chiếm giữ. Một căn nhà đẹp, giá trị và hợp nhãn thì người mua mới có quyết định dứt khoát chứ còn tầm thường như mọi căn nhà khác thì khi nào mua chả được.
Nhiều lần Lan buồn vì câu nói ấy nhưng lại tự an ủi mình rằng T.M. có lý, thôi thì mình tập thử xem và thú thật đã bốn năm càng lúc Lan càng tỏ cái si tình khờ khạo ngu dại của mình. Biết T.M. có lý tưởng, Lan bằng lòng đi bên cạnh nhưng T.M. là kẻ tham lam chứ không hẳn như đã nói. Kẻ tham lam thấy gì cũng muốn có... Lan có cái giá trị riêng của Lan mà chỉ vì từ lâu yêu T.M. Lan đã ngu muội vứt nó sang một bên. Bởi vì Lan coi T.M. là trên hết, trên hết mọi thứ nên khi không được đáp trả thì Lan tiếc. Đúng như T.M. nói lần nào Lan cũng khiêu chiến, cũng gây gỗ trước và rồi lại tự làm hòa. Vì yêu, Lan trơ truốc mặt dạn mày dày như thế nhưng T.M. ạ, Lan chỉ yêu người yêu Lan thôi.
Xưa kia, Lan cứ nghĩ cái lý tưởng T.M. chọn là trên hết, Lan là kẻ đến sau v.v... và Lan cũng tin rằng nếu T.M. bỏ được lý tưởng đó thì mọi thứ sẽ bỏ được hết. T.M., một câu nói thật nói thẳng mà Lan còn cố biện hộ cho T.M. chỉ vì tin là T.M. yêu mình.
T.M., nếu viết hết cảm nghĩ thì có lẽ cho đến giờ Lan nhắm mắt cũng không thể diễn tả hết và rồi lại ba bẩy hai mươi mốt ngày lăn dưới chân T.M. khóc lóc vì con tim mình không chịu nổi những đau đớn, vì lý trí không chống cự lại với cám dỗ ngon ngọt của loại trái cấm khó nuốt. T.M. biết hết về Lan nên ung dung như con mèo gian ác vờn chuột bằng những móng vuốt thu gọn. T.M. thích thú với trò chơi chú Tiểu Lan chôn xác bươm bướm nhưng có trò đùa nào mãi bưng bít và mãi tồn tại? Dù sao cũng cám ơn T.M. tuy đùa nhưng vẫn nói thật, vẫn ký giao kèo hẳn hòi cho nên mình xa nhau là tại Lan muốn chứ không phải tại T.M. vì T.M. có muốn chiếm giữ đâu mà sợ mất, có yêu đâu mà đau khổ. Và cũng vì thế mà khi Lan nhắm mắt thì đừng vờ vịt lai vãng mà người chết phải thêm một lần trào nước mắt vì uất hận.
P.S. Đừng nghĩ là Lan hận T.M. vì T.M. đến với Lan trước sau như nhất, chỉ có Lan tán tỉnh, thương yêu quyến rũ và nghĩ là T.M. yêu Lan mà thôi. Có điều biết là Lan đã tỉnh thì nên tránh kẻo mang vạ vào thân. Cám ơn T.M. đã dạy Lan nhiều bài học nên thân. Kinh nghiệm nào chẳng phải trả cho nó cái giá. Vĩnh biệt.
Lan không ký tên nhưng lá thư do chính tay nàng viết. Từ hai năm nay nàng vẫn thế; đã nhiều lần trách tôi thờ ơ với tình yêu của nàng, ghen với sự suy tư và cho rằng tôi mê những ý nghĩ hơn yêu nàng. Một buổi chiều cỡ hai tuần sau khi nhận thư, tôi về Sàigòn tới nhà nàng. Vừa bước chân vào khỏi cửa, tấm hình bán thân chụp nghiêng phóng lớn của Lan được đặt trên tủ buffet phía sau một bình hương chen chúc những chân nhang, vươn cao lên chơ vơ mấy cọng hương tắt ngang dang dở. Nàng nhìn tôi đầy vẻ trách móc. Đôi mắt thơ mộng ngày nao giờ nặng trĩu nét buồn cô độc. Phỏng đây là sự thực? Tôi không tin đôi mắt của mình và cũng không tin Lan bày chuyện hù tôi. "Em đã bị đụng xe, tử thương một tuần trước!" Mẹ nàng bảo thế với dáng trầm mặc chấp nhận như cố nén tiếng thở dài. Tôi vẫn đứng như trời trồng không lời chào hỏi; tôi muốn đập phá; tôi muốn thế giới này nổ tung lên cho tan nát chính mình. Thế là hết, dẫu không tin tôi cũng phải chấp nhận. Chúa bóc lột tôi đến độ trơ trọi; Thượng Đế giáng đòn hằn trên tôi... nhưng tôi đã làm gì? Cố gắng sống tốt lành để giờ đây mất tất cả, tại Chúa hay tại tôi?
Khí hậu của Sàigòn nóng đổ lửa mà tôi cảm thấy mình lạnh run, chừng như xương sống của tôi đã trở thành băng giá tỏa sức rét mướt ra bên ngoài cơ thể tạo nên mồ hôi. Đời tôi đã mất Lan, mất thật rồi, chẳng còn gì để bám víu. Ngày xưa khi còn nàng, tôi lấy làm thường và coi chuyện tình yêu chỉ như phần hương hoa của cuộc sống. Đúng, tôi yêu nàng, nhưng hai đứa mỗi người một cuộc đời; yêu nhau là đủ, mình yêu người và người yêu mình, tôn trọng lẫn nhau, không làm gì phiền hà tới người mình thương, không phải đối diện với những lẩm cẩm chẳng ra gì của cuộc sống hôn nhân... Nếu tôi chấp nhận có một đứa con như nàng đã có lần đề nghị thì giờ đây ít nhất còn có thể vớt vát lại phần nào hình bóng của nàng. Nhưng, lại cũng chữ nhưng rởm, tôi mang niềm cao ngạo chẳng ra gì vì không muốn bị mặc cảm làm hoen ố người mình yêu. Cái tính chất quân tử tầu nửa làm tôi hối tiếc, nửa trở thành niềm ủi an vì cảm thấy mình đã giữ được lòng tự trọng trong sự tôn trọng nàng.
Không gian chung quanh sầm tối khiến nổi bật khung hình nàng đang nghiêng nghiêng nhìn tôi với đôi mắt ngập đầy u uẩn. Em ơi, em đâu muốn tôi trở thành thằng hèn. Em biết tôi chân thành yêu thương và tôn trọng em...; đứng bất động ngắm ảnh nàng, tôi thầm nghĩ. Em đã đem theo tất cả năng lực sống trong tôi; có em là có tất cả và bây giờ không em, đời tôi không còn ý nghĩa. Giờ này tôi đã cảm nghiệm được tại sao đã có những người không muốn sống mà thích chết, hoặc sống hay chết cũng như nhau; thế nên tương lai đã không còn gì đáng để đợi chờ, mơ ước; mà có chăng, chết lại là một sự giải thoát khỏi phải đối diện với nỗi đau tận đáy tâm tư. Chợt nghĩ lại mình, hình như con tim không muốn đập, cũng chẳng muốn thở mà chỉ ước mơ được lịm đi, cho hơi thở ngàn dần lặng bước vào cõi hư vộ..
- Anh T.M., má Lan chợt gọi.
Tôi ơ thờ hướng về phía phát ra tiếng nói lòng nặng nề không thiết trả lời.
- Anh làm sao vậy? Em nó chẳng may ngắn vận qua đi; anh đừng đau lòng quá... Nhiều khi tôi nghĩ, nếu hai người cưới nhau sớm thì tai nạn đâu có xảy rạ.. Nhưng có nói chi chăng nữa thì chuyện cũng đã rồi; tôi có con mà cũng như không... Giọng bà sụt sùi, đưa tay lau nước mắt.
Tôi chẳng biết nói sao... Chỉ nghĩ, ít ra bà hãy còn bác trai; riêng mình, thực sự trơ trọi. Phỏng tôi còn có thể yêu ai được nữa không? Phỏng với tâm trạng không thiết tha với cuộc sống như thế này đời tôi từ nay sẽ ra sao? Nỗi nhung nhớ đau thấu tâm can khiến tôi tự trách mình đã vướng vào tình cảm cho ra nông nỗi này. Còn đâu ân tình ngày cũ, còn đâu hình bóng ngóng chờ. Căn nhà này, bàn viết kia, những chiếc ghế, những bức hình có Lan treo trên tường trở thành muôn ngàn mũi giáo kỷ niệm đua nhau xâu xé tim tôi. Nó tê dại rồi, nó nát tan thành từng mảnh nhỏ hòa theo dòng máu cho tôi bốc thành hơi. Tôi muốn biến thành làn hơi vô hình dõi tìm bóng dáng Lan... Bác khóc nữa đi, khóc cho nỗi lòng đau khổ của bác, khóc cho niềm đau khốn nạn của tôi, khóc cho tôi lịm ngất tránh phải đối diện với quãng ngày tháng hư không đang trờ tới. Từ nay, tôi nào còn biết nhớ ai mà chỉ còn nỗi đau gợi lại. Tôi hận cuộc đời, tôi hận loài người, tôi hận Chúa, tôi hận chính tôi. Bác nói đúng, nếu cưới nhau sớm Lan đâu có chết trơ trọi như thế này; nếu cưới nhau sớm, cả hai đứa cùng chết, hoặc tôi đã có được những vết thương cắt xé da thịt chia bớt nỗi đau buốt con tim. Tôi hận phận số đã đẩy đưa vào cảnh trớ trêu; tôi hận những ông thày cũ đã dạy tôi luyện tập cá tính tự trọng. Ừ, nếu chúng tôi yêu nhau, đừng chống cưỡng lại bản năng tự nhiên của con người thì phỏng tôi có bị đau lòng như thế này không. Tôi thầm trách Lan vì nàng đã không bắt tôi phải làm theo ý nàng. Nàng muốn có với tôi một đứa con, vâng, một đứa con nhưng tôi quân tử rởm, tôi quân tử tàu... để rồi nàng chết đi với chỉ một niềm mơ nhỏ bé mà cũng chẳng bao giờ đạt được. Tôi ích kỷ vì tự ái rởm của tôi; tôi ích kỷ vì muốn trở thành cao thượng, vì sợ trở thành thằng hèn. Ừ, hèn thì đã sao? Tôi hèn; tôi đam mê với những ý nghĩ viễn vông mà không dám đối diện thực tại, không dám đón nhận những phiền hà để sống với Lan. Tôi là thằng hèn vì chỉ thằng hèn mới sợ trở nên hèn!
Cổ họng chừng như nghẹn lại làm tôi khó thở. Lan chết rồi tôi mới nhận ra giá trị vai trò của nàng trong đời mình... Nàng là tất cả, từ tâm hồn cho tới thể xác, là mạch máu luân chuyển cho tôi sức sống, là năng lực tạo niềm tin khiến tôi vững tâm đối diện với cuộc đời. Tôi đã coi thường mọi tranh chấp vì có nàng tôi không thích hơn thua, có nàng, mọi hình thức lấy lòng người đã không đáng cho tôi để ý mà dám sống chân thật ngay thẳng. Tôi biết và cảm được tình yêu của nàng đối với mình và biết trước sau gì hai đứa cũng hợp làm một xây dựng hướng đi cho tương lai. Thế mà giờ đây, mọi hy vọng, toan tính cho tương lai dù chỉ nơi tâm tưởng cũng theo Lan tan biến. Có nàng, tôi yên tâm hoạch định; mất nàng, tôi tan nát hư không. Những ngày trước, tôi mong thời gian qua mau để chóng gặp nàng mà từ đây thời gian sẽ trở thành bản án hành hạ quãng đời còn lại. Lan ơi, thế là hết! Anh đã phụ em; em đã chết vì anh chần chờ, do dự, vì mãi kiếm tìm một hạnh phúc mộng tưởng trong khi đã không biết nắm giữ năng lực hạnh phúc ở tầm taỵ.. Lời vĩnh biệt viết nơi thư đã trở thành bản án bất diệt theo anh cắn rứt từng ngày. Còn gì cho anh mơ tưởng? Còn gì cho anh tha thiết?...
Tôi bật thốt "vĩnh biệt," lặp lại lời cuối của Lan đoạn bỏ ra ngoài leo lên chiếc Honda mượn của người bạn nổ máy. Má nàng nói với theo câu gì đó tôi chẳng cần để ý... Tôi sẽ chẳng bao giờ trở lại căn nhà này, chẳng bao giờ muốn gặp cha mẹ nàng lần nữa... Tôi sợ nhìn thấy bất cứ gì gợi lại hình ảnh nàng... Tôi muốn chết vì chỉ có chết mới có thể gặp lại nàng... Đau quá, nàng hận thù tôi vì tình sẵn sàng cho đi mà không được đón nhận, không được đáp trả. Nàng chết để trả thù tôi hay vì phận số? Nàng chết để bắt tôi phải đối diện với lòng mình, đối diện với sự thờ ơ của con tim ngu ngốc chai đá không nhận ra hạnh phúc nhưng không, được nàng trao tặng, hay vì nàng muốn tìm quên lãng tránh khỏi những ray rứt bởi tha thiết yêu tôi?... Những tiếng còi xe vang lên phía sau mỗi lần vượt qua, hãy đụng chết tôi đi, hãy giải thoát tôi khỏi nỗi đau đớn này...
Tôi dựng xe, bến tầu Bạch Đằng, lại cũng chốn chứa chan kỷ niệm tình yêu hai đứa!
- Em muốn dạy cho học trò của em tinh thần tự trọng, biết tôn trọng chính mình, biết tôn trọng người khác vì giá trị làm người chứ không phải vì chức quyền, danh tiếng hay tiền tài... Lan tâm sự buổi chiều ngày lễ ra trường giáo viên tiểu học khi hai đứa chúng tôi đưa nhau ra bến Bạch Đằng hóng gió.
Những con sông chảy ra biển mênh mang, diệu vợi; biển chảy về đâu? Những con tàu đến rồi đi, đi tới chốn nào? Đã có lần Lan so sánh cuộc đời một người với con tầu khi chúng tôi nói chuyện về định mệnh. Đời người, hợp rồi tan như mây khói và dòng đời tựa những làn gió vô định hướng đẩy đưa, mông lung và huyền hoặc chẳng khác gì tương lai ngoài tầm tay với... Chúng tôi yêu nhau thắm thiết mà khi nghĩ đến tương lai tôi không dám quả quyết. Ước mơ của nàng chỉ là một cô giáo bình dị với chức nghiệp hướng dẫn tuổi thơ; nàng sẽ là một người vợ êm đềm chấp nhận tất cả những cá tính gàn bướng của tôi, và một người mẹ yêu thương săn sóc những đứa con xinh xắn... Mộng của nàng hiện thực chỉ có thế, không đòi hỏi, không tranh đua, chỉ chấp nhận và chấp nhận trong khi lòng tôi vẫn như con thuyền ngút ngàn mơ ảo để vuột bay cánh buồm bắt gió. Buồm mất, thuyền chơ vơ vô định giữa ngàn triều sóng đổ. Lan ơi, em ở phương nào, có biết lòng tôi ngập đầy thương đau, mất mát?
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở," hay đối tượng tình yêu vẫn đẹp muôn thuở trong cuộc tình dở dang? Nhưng dang dở trong điều kiện nào? Bao nhiêu cuộc tình đã tan vỡ phỏng những người yêu nhau không bao giờ lầm lỡ? Thế tại sao vẫn không có được hạnh phúc khi hai kẻ yêu nhau được toại nguyện với "một mái nhà tranh đôi trái tim vàng?" Cô tôi, cũng như bao người, chán ngấy với cuộc đời bình thường vợ chồng con cái đùm đề, chán ngấy vì thực tại hôn nhân đã không như mộng ước lứa đôi. Tôi đau vì mộng tình tan vỡ. Ai hạnh phúc hơn ai? Phỏng Lan có cảm thông nổi niềm đau bất tận nơi tôi, hoặc nàng vẫn bị hương tình dằn vặt mà tôi không cảm nhận được. Cầu mong cho nàng thoát khỏi những ưu tư của kiếp nhân sinh, yên bề bên kia cõi thế. Phần tôi, đau lòng vì tiếc thương nàng hay vì cảm thấy số phận bơ vơ của mình do vắng bóng nàng từ nay?
Lan đã chết, mang theo ước vọng bình thường dang dở, mang theo tình yêu còn đang là mộng tưởng ngon ngọt chưa kịp nếm đã đậm mùi chua chát. Nàng viết thư trách như đã bao lần hờn dỗi vì thái độ ngây ngô quân tử tầu của người yêu. Những khi bực mình vì tôi ngông nghênh do dự, nàng đã nói không nên trở lại trừ khi tôi thực lòng thấy cần nàng trong cuộc sống để rồi âm thầm chịu đựng và chờ... Lâu lâu không thấy tôi ghé qua nàng đã viết thư hờn trách! Giờ đây, phỏng nàng còn hờn, còn trách? Nàng còn đợi tôi hay tôi vẫn mãi đợi nàng? Đợi trong vô vọng, đợi với nỗi ăn năn có người yêu nhưng đã không biết đón nhận. Thế là hết! Cuộc đời nàng còn lại được gì? Cuộc đời tôi phỏng còn gì để tiến tới? Phỏng cuộc sống muôn đời chỉ là tiến trình theo đuổi mộng ước và khi đã đạt được lại kiếm tìm những gì còn ngoài tầm tay với để rồi chết đi trong ăn năn tiếc nuối vì mộng không thành? Đã bao nhiêu người giầu sang, tăm tiếng, danh vọng, chức quyền hùng bá một thời, khi chết cũng đi vào mai một cho hợp câu có cũng như không? Phỏng có phải tất cả chỉ là hư không và cuối cùng hư không lại trở về với hư không?
Nhưng tôi tin tưởng và mong chờ một ngày nào đó gặp lại Lan bên kia thế giới. Chả lẽ cuộc đời con người chỉ có thế, được sinh ra, sống, và chết đi là hết? Phải còn gì nữa? Phỏng tình nàng nơi tôi cũng chỉ là hư không? Hư không sao đau thấu lòng người? Những thành quả của các bậc vĩ nhân đã qua đi vẫn còn đang mang lại lợi ích cho nhân sinh; họ chết nhưng phần nào đó của những công việc họ làm vẫn tồn tại trong thế giới hiện thực. Một khúc cây, một đoạn nến cháy tàn nhưng được biến dạng tan vào không khí qua tác dụng của lửa thì đâu phải chúng đã biến vào hư không. Như vậy, chắc chắn con người chết đi không phải là hết mà được thay đổi dạng hiện hữu chứ không mất đi. Còn sự hiện hữu khác, tất nhiên vẫn có đường liên lạc. Sự hiện hữu vô hình tuy mắt trần không nhìn thấy nhưng đâu phải là không có mà sao sự liên lạc ít ai thực hiện được. Phải có người biết, và tôi muốn biết.
Mộ của Lan chơ vơ được vun cao với lớp đất mới, xa cách những mộ khác đã được xây khung bọc hoặc tô đá rửa, trạm hình và ghi ngày tháng sanh, tử, bởi các lô đất đã được mua dành phần trước. Cây Thánh Giá dựng nơi đầu ngôi mộ nàng chỉ gồm vài nét đơn sơ ghi tên thánh, tên gọi, ngày sanh, và ngày qua đời. Mười ngày... nếu tôi về đây trước mười ngày thì ít nhất cũng còn được nhìn thấy nàng lần cuối. Mới mười ngày mà đã trở thành thiên cổ... và từ nay không ưu tư phiền não, không phải chạy theo miếng cơm manh áo lo cho cuộc sống, không giận hờn, than trách. Danh vọng, chức quyền, tiền tài không còn mãnh lực lôi cuốn kẻ đã ra đi. Hình như từ bên kia vọng về lời nhắc nhở rằng tham vọng chỉ có thể ảnh hưởng đối với kẻ chạy theo nó, chỉ làm chủ được những ai thần phục thế quyền. Nàng nằm im đó dưới lớp đất chưa kịp nảy mầm cỏ dại, phỏng có biết tôi đang bị dằn vặt, ăn năn bởi thương tiếc vì đã yêu nàng tha thiết. Tôi câm lặng mong có được cảm nhận siêu hình từ bên kia thế giới và để lòng thấm thía nỗi mất mát xót xa! Thời gian lặng qua, nghĩa trang chìm trong yên tĩnh của màu tối màn đêm đã chan hòa bao phủ... Cuộc đời tôi sẽ đi về đâu? Nơi một nấm mồ như Lan bây giờ và thế là hết? Hư không trở về hư không? Có điểm nào tương tự giữa sinh và tử? Trước khi được sinh ra, bào thai dẫu bị ảnh hưởng tâm tính và điều kiện cơ thể của người mẹ nhưng không cảm nhận được bất cứ gì do giác quan cho tới lúc lọt lòng. Nơi thế giới nhân sinh hữu hình, con người nằm trong đùm bọc cuộc đời. Sinh là khởi điểm cảm nhận sự sống hữu hạn, hữu hình; phỏng tử là khởi điểm cuộc sống vô hạn, vô hình? Thế giới cuộc sống hữu hình hoàn toàn khác biệt với thế giới của thai nhi, và nếu thai nhi cho dù khả năng cảm nhận đến mức độ nào thì cũng không có hoặc không đủ khả năng nhận thức hay cảm nghiệm về cuộc đời... Suy rộng hơn, chính ngay một người cũng không thể nào hiểu hoặc biết hết mọi khía cạnh của nhân sinh. Cũng thế, có thể thế giới vô hình bên kia hoàn toàn khác lạ với cuộc sống hiện hữu này... nhưng làm sao và những ai có thể cảm nghiệm được, ai có thể vén bức màn bí mật của cõi sau; đâu là phương pháp liên lạc?...
Năm tháng dần trôi, niềm đau mất Lan cũng từ từ nguôi ngoai nhưng lòng tôi không thể quên nàng. Tôi lây lất miễn sống cho qua vì chán cảnh phiền hà của việc đua chen kiếm tiền tài, danh vọng... hình như nhận thức về sự chết của con người đã làm tôi không tha thiết cạnh tranh với cuộc sống nên lòng thường thầm tự nhắc nhở với những lời khôn ngoan qua ca dao: "Làm giầu có số, ăn cỗ có phần," hoặc "Làm quan có mã, làm kẻ cả có giòng." Tôi so sánh, Lan cũng như bao người khác đã qua đi, danh vọng hay tiền tài nào còn được gì! Thế nên, sự bon chen vật chất và tăm tiếng chỉ làm phiền não tâm tư. Lẽ tự nhiên, "Hữu xạ tự nhiên hương;" do đó, nếu danh phận đã chẳng có mà cố gồng mình tạo tiếng tăm thì chỉ chuốc lấy sự khổ ải vào thân. Ép xác làm những điều vô ích khiến mình bực bội thà đừng có nó cuộc đời sẽ thảnh thơi, đỡ phiền... Cuộc đời này, có tiền là có tất cả thế nên ai cũng muốn giầu có và ai cũng gắng sức để làm giầu, mà thực tế chứng minh, kẻ giầu nào đã chắc gì tài giỏi hơn ai. Những nhà tỷ phú ở Mỹ đâu có ai học hết trung học trong khi cuộc đời của họ thời kỳ còn nhỏ lại quá ư cực khổ... Nói cho đúng, danh vọng, giầu có, trời cho ai người ấy được chứ không phải muốn và gắng sức thì sẽ đạt tới. Có chăng, sự ham mê danh vọng tiền tài mang lại khổ ải nhiều hơn niềm vui có chúng...
Cũng có thể trong giai đoạn này thời thế đổi thay khiến người người đang trên lưng voi bị vận số vật chìm xuống dưới dấu chân trâu ngựa, đồng thời cũng lắm kẻ trở thành "chó nhảy bàn độc" khiến tôi có thái độ yếm thế chấp nhận. Tuy nhiên, lâm vào cảnh dở thằng dở ông, tôi nào tránh khỏi tâm tư bất mãn với thời cuộc nên đành tìm lối trốn thoát bởi cho dù cố gắng chấp nhận đến mấy cũng không được yên phận nơi một xã hội nhố nhăng như thực tại của lời sấm: "Thằng khôn chạy trốn, thằng ngu dạy đời." Dĩ nhiên, khi lâm vào cảnh khốn cùng ai không cầu đến Đấng Linh Thiêng hoặc bất cứ hồn người nào thân thiết mong được phù trợ. Tôi ra mộ Lan nói với nàng giúp cách tìm đường đi và lòng thì chân thành cầu cùng Chúa hơn bao giờ hết. Tôi còn nhớ hôm ấy là chủ nhật tuần thứ mười ba năm B; nơi nhà thờ, bài đọc từ sách Khôn Ngoan gieo vào đầu tôi nỗi thắc mắc lạ kỳ: "Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi người trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian. Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó" (Khôn Ngoan 1:13- 15). Theo sự suy nghĩ và kinh nghiệm sống bình thường thì Thiên Chúa không tạo dựng sự chết tất nhiên sẽ không có sự chết. Vì vậy, sở dĩ có sự chết phải do động lực nào đó vì Thiên Chúa là trên hết. Đàng khác, con người có sự tự do chính Thiên Chúa cũng tôn trọng. Ác quỷ thuộc về bên kia thế giới làm sao có thể cướp quyền của Đấng Toàn Năng. Thế nên, có thể rằng sự chết lại tùy thuộc sự chấp nhận do quyền xử dụng tự do của con người bởi kẻ nào thuộc về sự chết thì bắt chước nó... Không bao lâu sau, tôi vượt thoát và được định cư tại Mỹ.
Nhân ngày nghỉ cuối tuần chẳng biết làm chi, tôi lang thang ghé vô một thư viện. Vào thời gian này, những loại sách đọc cho biết mà không áp dụng được trong cuộc sống, tôi nghĩ, đọc chỉ uổng công. Truyện, tiểu thuyết, tôi đâu cần giết thời giờ; vả lại, vốn liếng tiếng Anh của tôi nào được bao nhiêu nên cảm thấy khá ngại ngùng khi tìm sách theo tên đề nơi những hộc cards. Tôi lang thang rảo quanh những dãy kệ sách vô tình gặp cuốn Many Mansions của tác giả Gina Cerminara sau này được Nguyễn Hữu Kiệt dịch thành Những Bí Ẩn của Cuộc Đời do Xuân Thu xuất bản năm 1988. Nếu không có những bằng chứng về các sự kiện được tác giả dùng để viết đang tồn trữ tại Virginia Beach, Hoa Kỳ, thì người đọc sẽ cho rằng tác giả cố ý viết loại truyện hoang đường hỗ trợ thuyết luân hồi của nhà Phật. Đọc xong cuốn sách, tôi như bị xâu xé bởi trận chiến giữa một thực tại có thể kiểm chứng và niềm tin đã được dạy dỗ, chấp nhận từ bao lâu nay: đời sống hiện tại một người là kết quả do sự ảnh hưởng của thái độ, lối sống nơi những kiếp trước và niềm tin của Công Giáo rằng chết là sự trở về với Chúa, trở về cùng Đấng Tạo Hóa; linh hồn của một người sau khi chết được thưởng hay phải chịu phạt tùy theo lối sống của chỉ một cuộc đời độc nhất đã được ban cho nơi trần thế này.
Ông Cayce, một tín hữu Cơ Đốc Giáo, tha thiết với cuốn Thánh Kinh, không biết gì Luân Hồi, lo sợ trở thành phản đạo, có khả năng khán bệnh bằng thần nhãn qua giấc ngủ thôi miên để trả lời những câu hỏi dưới sự dẫn dụ của người khác, đưa ra những phương pháp chữa những bệnh nan y mà các bác sĩ đã chịu bó taỵ.. Ông đã được khuyến khích dùng khả năng thần nhãn đi sâu vào công việc soi kiếp... và những sự việc xảy ra đã minh chứng rằng hoàn cảnh và khả năng của người đời không phải là do ý muốn của Thượng Đế hoặc ảnh hưởng của sự di truyền mà là kết quả của những hành động và cách xử thế của con người trong những kiếp trước. Thế nên, mọi cay đắng, thất bại, đau khổ nơi cuộc sống đều là những phương tiện giúp chúng ta tiến dần đến sự toàn thiện. Qua cuốn sách, nhiều sự kiện được ghi lại khiến độc giả ngạc nhiên nhưng điểm đánh động lòng tôi mạnh mẽ nhất là tâm tình, lời nói, hoặc thái độ đối với kẻ khác cũng ảnh hưởng đến chính cuộc sống của mình. Đã bao lâu nay, những câu rất thường: "Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi," và "Cây tốt không sinh hoa trái xấu," hoặc "gieo gió gặt bão" không ngờ lại chứa đựng chân lý sâu xa về tâm linh. Bàng hoàng xét lại sự quá quắt của cái miệng mình vì nào có bao giờ tôi chịu thua ai, gặp trường hợp không thể đốp chát được với người nói chạm đến mình, chẳng cách này thì cách khác, không dịp này thì dịp kia tôi cũng đã cố dành cơ hội buông ra những lời bất lợi cho họ, tôi cảm thấy mình cần đặt lại vấn đề. Lại còn những chuyện diễu đầy vẻ vô tình nhưng cố ý làm tổn thương tự ái người khác thì không thể nào tưởng nhớ lại cho đủ, cái miệng của tôi thua một trả mười và tâm tư luôn luôn để ý những điều gieo gió mà không nghĩ chi đến những cơn bão sẽ bị gặt... Đồng thời, tôi cũng nhận ra luật yêu thương của đạo Công Giáo không đơn giản như tôi đã nghĩ từ bao lâu nay và có thể tóm tắt bằng một câu đơn giản nhưng đầy vẻ tuyên án. Đó là nếu lời nói hoặc thái độ làm cho kẻ khác bị tổn thương, khiến họ mang mặc cảm tự ty, hoặc có hại cho danh dự của họ thì lời nói hoặc thái độ này tương đương với hành động tội ác và chính mình phải trả giá cho những điều này không thể tránh thoát.
Xét như thế, bãn ngã con người là tham sân si nên luôn luôn lầm lẫn, luôn luôn gieo gió do đó linh hồn có được những cơ hội hiện thân nơi những cuộc sống khác nhau để dần dần sửa đổi tiến tới mức độ toàn thiện trở lại kết hợp với Thượng Đế mới chứng tỏ được sự khoan dung bao la của Đấng Toàn Thiện. Cho có cơ hội sửa sai mới chứng tỏ lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa mà Đức Kitô rao giảng. Nghĩ đến đây tôi lại bị sự đe dọa của mối lo sợ rối đạo giống như ông Cayce đã băn khoăn vì e trở thành phản đạo bởi nếu cho rằng những sự việc xảy đến với cuộc đời một người chịu ảnh hưởng của cuộc sống tiền kiếp thì tôi đã chấp nhận chủ thuyết luân hồi, sự tin tưởng của Ấn Giáo và Phật Giáo. Mặc dầu lo sợ trở thành rối đạo nhưng những sự kiện được chép lại nơi cuốn Many Mansions có cả mớ tài liệu minh chứng không thể chối cãi ở Virginia Beach đã không cho phép tôi nghĩ rằng đó là chuyện huyền thoại. Do đó, tính chất phản kháng bảo vệ sự thật nơi tâm trí tôi được dịp bùng lên tranh cãi. Tôi không phải tin những sự kiện này vì chúng đã xảy ra, chúng là sự kiện cũng như tôi không phải tin những sự chữa lành mà người ta gọi là phép lạ xảy ra ở Fatima hay Lộ Đức. Đó là những sự kiện được nghiệm chứng rõ ràng, thành quả của đức tin chứ không phải là điều phải tin. Hơn nữa, nếu tin rằng Chúa có lòng thương bao la đối với con cái loài người mà không chấp nhận Chúa cho con người lầm lỗi những cơ hội sửa sai để trở nên toàn thiện rồi về với Ngài thì đương nhiên đã tự chứng minh lòng thương của Chúa giới hạn chứ chẳng bao la chút nào. Đã có những lý luận cho rằng tự con người từ chối ơn cứu độ của Chúa mà sa ngã phạm tội nên họ tự tạo nên hỏa ngục cho họ bởi Chúa không muốn ai mất đi, không muốn ai phải sa hỏa ngục. Hay, lý luận hay nhưng bể. Kinh nghiệm sống chứng minh, dẫu người con khốn nạn đến thế nào chăng nữa, có bao giờ cha mẹ đành lòng chấp nhận để con mình chui xuống hỏa ngục đời đời trong khi có thể giúp nó phương tiện khác tránh khỏi sự trầm luân vô tận đó không. Con người giới hạn còn thương con như thế thì Thiên Chúa với tình thương bao la sẽ như thế nào? Phỏng câu nói "Chúa phạt xuống hỏa ngục đời đời" có phải là kết quả của sự nóng giận bất thường nơi con người hay là một cách nói lên lòng thương của Chúa chỉ giới hạn thua con người. Phỏng tin rằng Chúa không cho mình cơ hội để sửa sai dẫu sau khi chết có phải là một lối minh chứng Chúa của mình không từ bi bằng Đức Phật, thua Thượng Đế của Ấn Giáo? Có phải đã bao lâu nay tôi "đì" Chúa của tôi? Đồng ý rằng đạo Công Giáo cung cấp nhiều cơ hội đó là những phép Bí Tích cho con người trở về với Chúa, nhưng gặp những trường hợp không bởi tự mình và chính con người cũng không đủ khả năng để nhận thức thì lỗi lầm đổ tại ai? Trong Phúc Âm đã có trường hợp các môn đồ hỏi Đức Kitô về một người mù: "Rabbi, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó để nó phải sinh ra mù lòa vậy?" (Gioan: 9:2) mà Đức Kitô đã trả lời "Để công việc Thiên Chúa được hiện tỏ" có nghĩa thế nào? Đã bao nhiêu thế kỷ con người không biết sự ảnh hưởng của chất rượu trên não bộ thai nhi, đã bao nhiêu người vừa sinh ra với bộ Óc lệch lạc thì kết quả của lầm lỗi này do Chúa hay do sự thiếu hiểu biết của con người? Những hậu quả tai hại bởi sự thiếu hiểu biết từ xưa đến nay phỏng không phải là những trọng tội kinh khủng mà chính con người cũng không nhận ra trọng tội bởi dốt nát, đam mê thỏa mãn sở thích... trong khi lại hùa nhau kết án cá nhân... không đáng quăng xuống hỏa ngục đời đời thì những lỗi phạm cá nhân nào thấm thía gì? Vậy hỏa ngục ở đâu? Chỗ nào xử phạt những lầm lỗi quá lớn lao này? Tuyệt, tôi cảm thấy vui mừng khi đặt vấn đề đến đây vì đã có giải đáp. Chẳng còn hỏa ngục nào gớm ghê hơn cuộc đời chúng ta đang phải đối diện thường ngày. Nó đầy đủ mọi cực hình, mọi ham muốn hành hạ con người đến chết thì thôi và chỉ có chết mới thoát nỗi khổ ải triền miên này, chưa chết, chưa thoát ham muốn cho dù ham muốn được xếp vào loại nào, tốt hay xấu. Thực tâm nhìn lại chính mình, chưa chắc những ham muốn điều xấu đã làm con người đau lòng bằng ham muốn điều tốt lành. Bạn nghĩ thế nào khi thấy một số người giết những thai nhi kết quả của bản ngã không tính toán? Nỗi đau nào xót xa hơn vì muốn ngăn cản mà dành bó tay nhìn kẻ khác thực hiện tội ác? Vết thương lòng này bao giờ mới có thể được xóa nhòa nơi tâm hồn những người mẹ giết con? Và rồi thế nào đối với những người lương tâm bệnh hoạn?
Nghe những chuyện ma, những chuyện cầu hồn, tôi tin tưởng có một thế giới bên kia đồng thời cũng tin có những sự kiện thực của cõi vô hình đang tiếp diễn phía sau những nghi thức mà nhiều khi vì "vô tri bất mộ" con người không nhận biết. Mò mẫm hỏi về cầu cơ, một phương pháp đơn giản để liên lạc với các hồn bên kia với ý định thử, những người đã quá quen thuộc với cầu cơ kể khá nhiều chuyện ly kỳ. Nào là họ nhờ ma xó mời hồn của bố mẹ họ về cho biết tình trạng bên kia của ông bà ra sao, nào diễu chơi với hồn, hoặc có lúc hỏi vài câu để có sự trả lời về những gì có thể kiểm chứng ngay nơi một vài người khách đến thăm khiến họ ngạc nhiên v.v... Có người kể, hôm ấy một hồn người Pháp, ông ta là thi sĩ, đã đọc cho họ chép nguyên văn bài thơ bằng tiếng Pháp mà ông ta đã chưa kịp gửi cho báo đăng trước khi chết trận ở Việt Nam. Người thì kể khi hỏi muốn gì, hồn trả lời muốn hút thuốc, hồn muốn ăn phở. Một hôm, đang mùa chôm chôm, hồn lên muốn ăn chôm chôm; nhân tiện nhà còn ít chôm chôm đã để mấy ngày, người cầu cơ lấy ra đĩa bưng đến; hồn không chịu vì chê chôm chôm đã bị dập thâm mất một ít. Người đứng ngoài lên tiếng nói muốn ăn chôm chôm tươi thì mua mà ăn, và hồn chạy cơ trả lời là nói đểu. Điều đặc biệt, mọi người đã từng cầu cơ đều có nhận xét rằng những hồn, những ma xó tuyệt đối không bao giờ được phép nói lên bất cứ điều gì bất lợi hoặc làm hại đến bất cứ ai; các hồn chỉ nói những điều vô thưởng vô phạt. Tôi vẽ bàn, ngồi cầu cơ chung với họ nhưng hồn không lên, cơ không chạy và bị cho rằng vì tôi không tin hoặc có một số người cầu, cơ sẽ không bao giờ lên.
Người khác kể rằng bên cạnh nhà anh ta ở Việt Nam có một gia đình cầu hồn để bói toán kiếm tiền. Anh ta là Công Giáo nên cho rằng làm như thế là sai, có hại cho những người tin dị đoan. Một buổi tối, anh ta lấy nước phép ở nhà thờ về rảy lên mái nhà người cầu hồn, và thế rồi hôm sau họ gọi hồn không lên nên chẳng bói toán chi được. Gia đình cầu hồn nhận ra có điều gì đã xảy đến nên sang nói với gia đình anh ta rằng họ không làm gì đụng chạm đến cuộc sống và niềm tin của gia đình anh ta thì cũng làm ơn đừng phá họ.
Một cụ cỡ chừng bẩy mấy kể cho tôi nghe chuyện chính cụ chứng kiến. Số là có một thày giảng giúp xứ đạo cụ Ở ngày xưa; nhà thờ ở cách một ngôi chùa chừng nửa cây số. Thày giảng ngày đó cũng đứng tuổi, cỡ sáu mấy, bẩy chục và biết về môi. Năm ấy, nhà xứ trồng được một vườn cà ghém rất sai trái đã đến lứa. Mới tối hôm trước cha xứ nói thày giảng ngày mai hái cà bán thì sáng hôm sau không hiểu sao ai đã hái trộm sạch cả một lứa cà. Thày giảng trình cha xứ, có điều, cha xứ cũng dễ tính nên chuyện qua đi không thắc mắc trong khi thày giảng lộ vẻ hơi bực bội. Ít lâu sau đến lứa cà tiếp theo cũng thế, cha xứ mới dạm nói hái cà bán tối hôm trước thì sáng ngày ra đã có ai hái trộm thêm lứa cà nữa. Thời gian trôi qua không chuyện gì khác thường xảy đến cho tới vụ cà thứ ba; tối hôm ấy cha xứ nhắc thày giảng ngày mai hái cà vì đã tới lứa. Cỡ bẩy giờ sáng hôm sau nhà chùa cho người sang gặp cha xứ để thưa chuyện và muốn gặp thày giảng thì lúc ấy thày đang ngồi bắt quyết trong khi chung quanh vườn cà thấy có mấy đường chỉ ngũ sắc căng ngang và không hiểu sao khá nhiều lá tre tấp vào dính đầy trên những đường chỉ ngũ sắc này. Người bên nhà chùa thưa chuyện đoạn giải thích rằng đây chỉ là chuyện giỡn chơi và đồng ý đền cả hai lứa cà trước.
Nghe người ta kể về đặc tính của hồn ma không nói điều gì hại tới người khác, câu hỏi thế sao có sự yểm, bùa ngải hại người đã xảy ra như một vài trường hợp chính tôi được biết đã gây nhiều nghi vấn. Vậy những sự kiện đạo thờ quỉ, những trường hợp quỉ ám chứng minh là có ác thần từ đâu ra? Tại sao những người cầu cơ lên không hỏi những hồn ma về cách thức chữa những bệnh nan giải cho người khác được nhờ? Nếu những hồn ma biết được những chuyện nơi thế giới con người thì tại sao không hỏi hồn để tìm những thủ phạm tội ác vì nếu làm như thế sẽ ngăn ngừa được tất cả những tội ác có thể xảy ra. Một người kể rằng ngày xưa thời ông ta còn nhỏ ngày nào cũng cầu cơ, nhưng cứ đúng ba giờ chiều thì hồn nói rằng phải về ngục và sẽ trở lại vào lúc bẩy giờ tối. Tuy nhiên, các hồn lên cơ rất vui vẻ và những câu trả lời chứng tỏ các hồn khá thân thiện với những người ngồi cơ.
Dẫu vậy, dù nghe nói, dù thấy những sự kiện khác thường nhưng tôi chỉ coi đó là những chiếc bánh vẽ. Ngồi trước một mâm cơn thịnh soạn, hương thơm thức ăn, đồ uống ngào ngạt mà không được nếm thử làm sao biết món ăn thực sự thế nào. Cũng như đức tin của tôi đã bao lâu nay được dạy dỗ, cố tin mà vẫn chỉ tin cho có hoặc tin vì lý do nào đó, có thể là vì biết rằng ngày nào đó mình không thoát khỏi cái chết hay vì đã bị nhồi sọ, ngày này qua tháng khác bị tuyên truyền theo lối rỉ tai nên thành thói quen. Có thể rằng nếu không chấp nhận những điều được dạy dỗ, không nghĩ rằng những gì được dạy là đúng lỡ ra chúng có thật thì uổng chăng mà đến lúc nhận ra lại đã không còn thời giờ hay cơ hội đặt vấn đề. Hơn nữa, cứ nghĩ rằng mình tin, cho rằng mình tin nào có thiệt thòi chi nên dù mù mờ chấp nhận vẫn có cảm tưởng chắc ăn hơn là bất cần vì có còn hơn không. Tuy nhiên, sự tin tưởng mù mờ này khiến tôi bứt rứt. Những câu Phúc Âm thật rõ ràng mà sao cứ thấy như hoang đường: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Người khác có thể cầu cơ được mà tôi cầu không được... sao có thể cho là đúng vì cuộc đời này thiếu gì kẻ nổ, thiếu gì người muốn tỏ ra mình hay, giỏi nên có cơ hội là cứ việc phét lác. Những chuyện đơn giản như thế mà còn mơ hồ đối với tôi thì nói chi đến chuyện tin với không, nói chi đến sự thực nơi lời Phúc Âm. Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng chả lẽ qua bao thế kỷ với muôn người chỉ tin tưởng vào một mớ lý thuyết rỗng không? Vậy những người ấy đã dùng phương pháp nào để có thể tin vững rằng những điều đó là đúng và có thể thực hiện được? Họ tin tưởng thế nào hay cũng chỉ mù mờ như tôi? Họ có bao giờ kiểm chứng đức tin của họ? Bao nhiêu Phật tử, đã có bao giờ họ nghiệm chứng luân hồi hay là cứ cho rằng điều đó là đúng để chấp nhận một cách không tìm hiểu, cùng lắm thì chỉ nhai lại mớ luận lý đã được nhồi sọ. Nếu thực sự có luân hồi thì ít nhất một người phải biết không rõ cũng mù mờ rằng kiếp trước mình là gì, mình đã sống thế nào và bây giờ phải ra sao. Hơn nữa, bao nhiêu người cho rằng mình là Phật Tử đã không bao giờ bước đến ngưỡng cửa chùa; có tượng Phật ở nhà nhưng một năm phỏng được mấy lần tụng niệm...? Có đặt vấn đề thì lại tự ngụy biện rằng đạo tại tâm; đã không tin tưởng gì thì tại tâm hay tại rốn cũng chỉ là lối bào chữa cho chiều hướng duy vật, được sinh ra, sống, chết là hết như một con thú. Theo đạo như thế cũng chẳng khác gì mơ ước điều không tưởng, tôi nghĩ thế... trong khi mình kiếm tìm sự thật nơi các tôn giáo thì chỉ thấy những điều phải tin... Đã tin cần gì phải, và đã phải lại có thể chỉ là thứ tự kỷ ám thị hoặc tự lừa dối mình.
Năm cuốn sách của bộ Life And The Teaching Of The Master Of The Far East do Baird T. Spalding viết càng làm tôi hoang mang. Ông nói về cuộc hành trình của phái đoàn mười một người đi vào những vùng của Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, và Ba Tư để sống với những vị chân sư và học hỏi về những sự kiện tâm linh áp dụng trong đời sống. Đại khái, bộ sách đưa lên điểm chính yếu là con người được sinh ra không phải để chết mà sự chết lại chính là giới hạn con người đặt ra cho mình. Phiền quá, nói thì nói thế mà Baird T. Spalding cũng đã không còn sống nơi trần thế này. Những vị chân sư đi vào vô hình, ra hữu hình và sống từ bao nhiêu năm tiếp tục giúp đỡ con người tự bao lâu nay mà không ai biết. Họ biết biến thân, dùng thần giao cách cảm để thông tin v.v... Điều tôi ao ước tìm kiếm mà không thấy là phương pháp thực nghiệm nào có thể áp dụng để trở nên những vị chân sư thì bộ sách không nói đến mà chỉ dùng điều kiện ý thức chắc chắn, vững vàng rằng mình thuộc về hiện trạng đó thì sẽ trở nên như vậy. Những giải thích về một số vấn đề cần được ý thức nơi tập số bốn và sự trả lời cho những câu phỏng vấn của tập năm lại cũng chỉ dùng lý luận nhiều hơn. Điều khiến tôi nghi ngờ nhất đó là quan niệm xưa của Spalding: ánh sáng mặt trời là ánh sáng tự phản chiếu của trái đất từ một điểm khá xa và sức nóng của mặt trời qua ánh sáng truyền xuống trái đất là sức nóng của trái đất mà thôi. Tôi nghĩ, nếu trái đất tự nóng như thế, những tảng băng ở Nam và Bắc Cực tan ra thì lấy đất đâu cho con người ở. Nghĩ cũng kỳ, kiếm phương pháp không thấy mà chỉ thấy sách viết về những sự la....; biết để làm gì nếu không áp dụng được cho mình, tôi chán nản!
Cuốn Wisdom, Bliss, and Common Sense khuyến khích tôi có niềm tin vào sự thật tâm linh nhiều hơn; đồng thời nó cũng giúp tôi phần nào tin tưởng rằng khát vọng kiếm tìm một hạnh phúc vĩnh cửu vẫn có thể thực hiện được. Có điều cảm nghiệm của Darshani Deane về cơ hội được an bài phần nào khiến tôi nhụt chí bởi bà cho rằng không phải lo lắng, khi chuyện cần phải xảy ra, thì dù một người không muốn, cuộc đời cũng sẽ dồn ép hoặc có sự sắp xếp thần linh nào đó giúp con người cơ hội sống hòa hợp với định mệnh đã được an bài. Tôi nghĩ, nếu thực sự tìm tòi, cố gắng không cần thiết thì ước mơ của tôi chỉ là hão huyền. Cuốn này hòa hợp với cuốn Many Mansions tạo nơi tôi lòng trầm tĩnh, chấp nhận và ý thức hơn về thái độ cũng như lối sống.
May mắn, loạt sách Huyền Môn do Xuân Thu xuất bản giúp tôi có được những nhận định rõ ràng hơn đồng thời cũng tránh được những lý thuyết hoặc sự kiện được chép lại dường như chỉ cố tình khơi động tính tò mò của độc giả, nhất là những hiểu biết, quan niệm sai lạc về thiền đang thao túng khát vọng tìm hiểu đường hướng thực nghiệm tâm linh của con người. Nhờ cuốn Xứ Phật Huyền Bí mà tôi tin tưởng thêm câu Kinh Thánh "Người ta sống không nguyên bởi bánh" (Mt. 4:4; Lk. 4:4) là một hiện thực nhưng con người chưa ý thức được khi tác giả nói đến thánh nữ Têrêsa Newman và vị thánh Giri Bala ở Ấn Độ. Cuốn Tây Tạng Huyền Bí, câu truyện của Lạt Ma Lobsang Rampa viết về cuộc đời chính mình bổ túc về vấn đề soi kiếp và ảnh hưởng của tiền kiếp cũng như giá trị của sự tự do chọn lựa quyết định lối sống của một người. Cuốn Đông Phương Huyền Bí kể lại hành trình học thiền của tác giả nhà báo Paul Brunton do chính ông viết. Tuyệt, sự thật về thiền chẳng còn gì rắc rối và khó khăn nhưng tôi vẫn cảm thấy ít nhất vài điểm coi như không quan trọng đối với sự cố gắng thực hiện hành trình kiếm tìm thế giới tâm linh mà lại nắm phần then chốt định đoạt sự thực nghiệm thiền của mình. Nếu con người do ảnh hưởng bởi kiếp trước mà không có số đạt tới giới cảnh tâm linh ở kiếp này thì sự cố công thiền của họ đi về đâu? Phỏng có tiến tới được mức độ nào khả dĩ khích lệ cho họ tiếp tục thiền không? Qua những lần thử thiền, tôi thấy mình hình như không có duyên phận, dễ nản, vậy có nên cố gắng tiếp tục không bởi nếu tôi mang phận số để đi sâu vào thế giới tâm linh thì tôi phải được sinh ra với bản năng đam mê thiền. Hơn nữa, nếu đã có định số thì tránh cũng không thoát mà đã không có duyên cơ, dù cố gắng cũng chẳng ăn thua gì.
Tất nhiên, ai thực hiện một công việc gì cũng đều mong đạt được kết quả. Thuở ban đầu, sự mơ ước của tôi là kiếm tìm nguồn hạnh phúc vĩnh cửu; tuy nhiên, những cuốn sách kể về quyền năng của các vị chân sư có sức hấp dẫn không sao tả nổi, rồi nào những câu chuyện linh ảnh, do sự liên lạc được với một quyền năng bao trùm vũ trụ trong đó con người được chia phần đã khơi động phàm ngã tôi nổi dậy mà cố công lục lọi một phương pháp thực nghiệm rõ ràng cho mình. Thực tại cho thấy, càng tìm kiếm thì lại càng mông lung; tác giả này nói thế nọ, tác giả kia nói thế khác đồng thời không ai chịu nhận lối tu luyện của mình là đúng nhất, cũng không ai cho rằng chỉ có đường lối mình theo mới có thể đạt được đến bực đó. Đối diện với lý thuyết rằng Thượng Đế tức là niềm phúc lạc luôn luôn đổi mới không ngừng... Cái mà hành giả khát khao tìm kiếm nhưng vẫn gặp đó là Thượng Đế, chỉ có Ngài mới đem lại cho con người hạnh phúc vô tận; thế nên "Những vị thánh đã thực hiện bản chất thiêng liêng của mình trong khi còn ở thế gian... trong khi họ vẫn làm công việc của thế gian, tâm hồn họ đắm chìm trong một trạng thái phúc lạc bên trong nội tâm" (CBCS Yogi Ấn Độ; tr. 169). Chẳng khác gì mò mẫm trong rừng giữa đêm ba mươi, lộ ra được một chữ thiền thì càng tìm hiểu về thiền lại càng bước vào rừng chỉ rối. Thật là lắm phép, lắm kiểu với những cái tên Ấn dài lòng thòng, bao gồm từ không ngồi thiền đến những kiểu cách tu nghiêm khắc tới độ hủy hoại phần nào thân thể. Nào đâu đã hết, kẻ thì cứ ăn uống tự nhiên, không ngồi thiền ở hai cuốn về Thông Thiên Học của ông Olcott; tập luyện mà vẫn cần mạng số tiền kiếp ảnh hưởng như trong cuốn Tây Tạng Huyền Bí; ngồi thiền không cần quy luật thở hít mà chỉ cần ý thức nhận định bản thể của mình bằng cách giải đáp câu hỏi "Tôi là ai?" của nhà báo Paul Brunton; chỉ cần ý thức mạnh mẽ được nhấn mạnh theo quan điểm của Baird P. Spalding; và phương pháp đặc biệt đem lại thành quả siêu tuyệt của thiền sư Yogânandạ.. Thành quả đâu chưa thấy nhưng ảnh hưởng của sự tìm tòi qua sách vở đã hiển hiện; cái đầu tôi giật bưng bưng vì đam mê đọc sách và cố gắng phân tích những lý thuyết khác chiều hướng với hy vọng tổng hợp được một phương pháp thực nghiệm căn bản chẳng những đạt tới niềm hạnh phúc kiếm tìm mà lại sở đắc quyền năng vô biên của các bậc chân sư, đồng thời nếu may mắn thành công, có thêm chút danh thiền sự.. thì lại càng tha hồ sung sướng.
Nhưng cái danh thiền sư đâu thể có giá rẻ như vậy! Không cuốn sách về thiền nào mà không nói tới sự quan trọng của một vị thày, một chân sư đối với người môn sinh thực lòng thiền niệm, và sách nào cũng đoan chắc rằng nếu môn sinh thực sự muốn, vị thày sẽ được gửi tới... bởi đó tôi yên tâm chắc mẫm thế nào mình cũng thành thiền sư nay mai nên càng ra công học hỏi, mê man đọc đến nỗi quên cả giờ giấc ngủ nghỉ. Dĩ nhiên, có đọc có biết dẫu chưa chắc điều mình biết sẽ đem lại lợi ích hay không. Chữ thiền mới đầu nghe đơn giản thế mà lắm rắc rối, đơn sơ nhất đã có thể phân chia làm hai loại, thiền khí công và thiền tâm linh. Thiền khí công lo luyện tập về thể xác, tạo nội lực mà nhà Phật gọi là Chân Hỏa Tam Muội, Ngọc Kim Cương v.v... Ai đọc truyện kiếm hiệp sẽ thấy nội lực này được xử dụng để phát sinh chưởng, có năng lực chống lạnh, giải nóng. Nguyên tắc của thiền khí công dựa trên lý thuyết ý dẫn khí và khí dẫn huyết mà dẫn như thế nào mới là vấn đề quan trọng, dẫn lung tung sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Qua sự mò mẫm, tôi biết đại khái có mấy đường dẫn như sau: từ từ hít hơi bằng mũi, tưởng tượng rằng đẩy làn hơi xuyên qua hoành cách mô sâu xuống đan điền tức là cỡ đốt dưới của ngón cái phía thấp hơn rốn, thở ra bằng mũi sẽ phát triển nội lực như những người theo Hiệp Khí Đạo hoặc Zen dưỡng sinh thường luyện tập, nếu thở ra bằng miệng, sẽ có nội lực thuộc loại các nhà nhân điện dùng chữa bệnh.
Không dẫn khí xuống đan điền mà cho chạy theo những luân xa mới rắc rối, cần thày chỉ dẫn. Đụng đến luân xa tức đối diện với những quan niệm khác nhau. Kẻ nói tám, người quan niệm bảy luân xa nằm từ đầu mũi chạy vòng lên đỉnh đầu và dọc theo tới tận cùng xương sống; thiền sư Yogânanda nói trong sách chỉ có sáu vì không tính hai huyệt tại chóp mũi và sơn căn. Bí thuật dẫn khí ra sao không nơi nào giảng giải khiến tôi đã mù tịt lại càng rối rắm thêm. Khi đọc sách, tôi cố gắng để ý từng chữ may ra tác giả vô tình sơ sót lộ bí mật nhưng thường thì cứ gặp những câu nói tức anh ách đại khái rằng phép tu luyện quí giá như vậy đâu dễ gì đem tiết lộ cho quần chúng. Mỗi lần gặp những đoạn nói kiểu này, tôi tự rủa thầm tác giả ích kỷ bởi hình như họ đã cố ý khêu gợi cá tính thèm khát danh vọng nơi tôi. Không đọc thì ham muốn biết; biết lưỡng chừng ham muốn tập, mà tập thì xuýt chút nữa tẩu hỏa nhập ma nếu không có một người bạn vô tình chỉ giáo. Số là đã hơn một tuần, tôi "ngồi công phu" mỗi ngày, khi thì dăm ba phút, lúc mê say vài chục phút... theo thứ tự đúng y chang ngón nghề ăn cắp do những phần các thiền sư tác giả vô tình bật mí: ngồi kiết già hay liên hoa, đầu và lưng cho thẳng, đôi mắt lim dim dồn về tâm điểm sơn căn, thở hết hơi ra, từ từ hít vô bằng mũi, tưởng tượng đẩy luồng không khí xuống đan điền tới lúc chẳng thể hít vô được nữa, ngưng một chút, từ từ thở ra, ngưng một chút và từ từ hít hơi vào... Được vài hơi, sơn căn tê tê, người say saỵ.. A ha, mới công phu có vài bữa mà khí lực đã dồi dào vì thấy khỏe khoắn hơn.
Nhưng tôi không thích loại công phu này bởi bản tính lương thiện, không thích đánh nhau nên chẳng cần nội lực oánh chưởng. Dẫn khí huyết mở luân xa coi bộ hấp dẫn hơn vì những tác giả thiền sư đầy quyền năng công phu kiểu này. Tôi nghĩ, đả thông càng nhiều luân xa càng tốt nên cho khí chạy đủ tám luân xa mong nắm phần chắc, cho chạy ít, lỡ thiếu uổng công sức. Dẫn khí chạy tới, chạy lui, hết chạy xuôi cho chạy ngược... tôi tưởng tượng khí huyết hai chiều công phá sẽ giúp luân xa thông suốt mở toang hoác càng mau đạt tới thành quả... được ít ngày, mỗi ngày dăm phút thấy thắt lưng ẩm ẩm ê ê. May mắn, hôm đó đến chơi một nhà người bạn, đúng như lời Lão Tử, "Ngôn giả bất tri," tôi thao thao phét lác về thiền, về công phụ.. Để cho kẻ dốt nói chán, bạn tôi nhẹ nhàng hỏi: "Có phải mày thấy ê ẩm ngang thắt lưng không? Tẩu hỏa nhập ma rồi đó ông ơi!" Cái thằng róm, chỉ một câu nói hời hợt mà nó phá tanh bành bao nhiêu công phu mò mẫm của tôi. Dĩ nhiên, nó nói trúng chóc và chỉ ngắn gọn có thế, tôi cố gắng dò hỏi thế nào nó cũng không chịu nói thêm, miệng cứ câm như hến; bị tôi lý luận bắt chứng minh, nó kiếm cách đổi đề tài... ngôn giả bất tri!
Kể ra tôi cũng chịu khó luyện tập đồng thời lợi dụng mọi cơ hội thúc đẩy thiền công... nhưng, tinh thần thì sáng suốt mà thể xác lại yếu hèn nên chẳng đi đến đâu ấy là còn may mắn chưa bị liệt bại vì tẩu hỏa nhập ma. Dĩ nhiên, nào ai muốn chịu sự khó, thế nên tôi chọn những lời dạy dễ dàng của tác giả thiền sư mà noi theo thay vì những phương pháp khổ hình mong có chân hỏa, tay hỏa... Tổng kết, thiền chỉ cần ngồi, nằm, đứng... sao cho đừng ngủ quên là được và giữ tâm tư thanh tịnh, hai mắt khép hờ, hướng về sơn căn hay đầu mũi và rồi muốn tới đâu thì tới. Thật ra, lý do tôi chọn nhắm mắt vì mở mắt khó chịu hơn. Những hiện tượng nhìn thấy linh ảnh nọ kia, nghe được âm thanh này nọ cùng nhiều sự lạ lùng như các tác giả thiền sư đã viết chưa kịp thấy, tôi cố gắng ngồi nhưng lười. Đứng thì mỏi chân, vặn vẹo thân xác lại đau lưng, nhức hông, chổng ngược mỏi cổ nên tôi chỉ tập thiền nằm. Lẽ thường, cũng có nhiều thế nằm, nào ngang, nào dọc, nghiêng phải, nghiêng trái, nằm ngửa, nằm sấp, theo đủ mọi phương hướng ngoại trừ hai hướng thiên địa... Một điều hiển nhiên ai cũng có thể nhận ra đó là thế thiền nằm nào cũng đưa công phu của tôi vào cõi u minh, vô vi đến độ quên cả vô vi.
Dẫu cho là ngụy biện thì sự chọn lựa phương cách thiền lười biếng của tôi vẫn là kết quả của một số lý do. Trước hết, không có thiền sư nào giải thích tại sao phải ngồi thiền; có chăng họ chỉ nói tới phải ngồi cho thẳng lưng, và lẽ tất nhiên, nằm lưng vẫn thẳng. Paul Brunton còn đặt vào miệng một thiền sư lời bình luận rằng thế ngồi thẳng lưng và xếp vòng chân lại chỉ có mục đích giữ cân bằng sao cho cơ thể không bị ngã nghiêng khi nhập định; như vậy, thế nằm mang giá trị cân bằng nhất, tim đập nhẹ nhàng hơn vì không phải bơm máu ngược lên đầu. Hơn nữa, thiền sư Yogânanda nhận xét ngủ cũng là một phần của thiền vì trong khi ngủ, người ta vô tình thiền bởi đã thoát ra ngoài mọi ý thức về xác thân để đắm chìm một cách vô ý thức trong cái kho dự trữ tinh lực của vũ trụ, nguồn gốc của mọi sự sinh tồn. Theo quan niệm này, thiền là trạng thái vô vi của Lão và thực sự hợp với câu nói ngược "Càng làm ít càng tốt, mà không làm gì cả lại càng tốt hơn." Sự khuyến khích lắng nghe tiếng Chúa của Công Giáo còn được gọi là chiêm niệm nào khác gì bỏ lại tất cả mọi sự phiền hà tính toán, mở rộng lòng cho vô thức làm việc... Paul Brunton còn nhấn mạnh khi đặt vào miệng chân sư Maharichi lời khuyên tìm câu trả lời "Tôi là ai?" mà không đặt vấn đề ngồi đứng thế nào. Như thế, thiền định giúp con người nhận thức chân ngã, căn bản của tiểu ngã nếu nói theo Ấn Giáo. Đối với Khổng học thì đó là "bản thiện;" Công Giáo gọi là linh hồn. Như vậy, thay vì đặt vấn đề về cuộc đời hiện tại, người thiền tìm về động lực nguyên thủy con người được gọi là sự minh triết. Theo kinh nghiệm thiền nơi các sách tôi đọc, bất cứ ai đạt tới sự minh triết này đều nhận ra sự sống đích thực của một người không phải chỉ là sự sống thân xác mà cuộc đời xác thân là một phương tiện cho sự sống vĩnh cửu của chân ngã, của bản thiện, của linh hồn. Nhận định này phù hợp với câu nói có vẻ ngược của Đức Giêsu: "Kẻ nào tìm cách duy trì sự sống mình thì sẽ mất, còn kẻ nào đành mất thì sẽ cứu sống nó" (Lc. 17:33). Dẫu chữ "nó" hình như được dùng cho gọn văn chương có lẽ không chỉnh vì theo Mt. 10:39, 16:25, câu nói bao hàm nghĩa khác: "Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại." Nơi Mc. 8:35 còn thêm "vì Tin Mừng" nên có thể hiểu kẻ nào đành mất sự sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ gặp sự sống khác...
Tất nhiên, những hiểu biết, dẫu mù mờ, trên đã trở thành động lực thúc đẩy tôi thử thiền. Chẳng những thế, những gì càng mơ hồ thì lại hình như càng mang nặng tính chất hấp dẫn khuyến khích óc tò mò. Thực tế hơn, tôi suy luận, ngồi trước một bàn tiệc thịnh soạn với những của ngon vật lạ, được mọi người nói cho biết, dù đúng hay sai, thức ăn tuyệt vời; làm sao tôi cảm thấy tuyệt vời nếu chỉ ngồi đó nhìn để rồi trôi mất lưỡi vì nuốt nước bọt? Chắc chắn rằng nếu chưa được nếm thử, sẽ không bao giờ cảm nhận được thức ăn ngon như thế nào dù ai nói ra sao. Hơn nữa, sự thử thiền đâu cần phải có bằng cấp này, điều kiện kia. Điều kiện chỉ là vô vi như lúc ngủ để nhận ra chân ngã, quên đi cái phàm ngã của mình cho tiểu ngã trở về hòa nhập với đại ngã thì nào khó khăn chị.. Hừ, không ngờ, kiếm cái chân ngã, cái mình đã có lại không dễ dàng như tôi tưởng... chưa kịp mang lại lợi ích thì thiền đã làm tôi ê ẩm ngang thắt lưng, may mà chưa tới độ tẩu hỏa nhập ma vì ngồi... thế nên đành nằm... thiền!
Dẫu thế, tôi đâu chịu bỏ cuộc dễ dàng. Nào ai lạ gì, lỡ phóng lao đành phải theo lao cho trọn chung thủy; mặt khác, những cuốn sách do các thiền sư viết quá hấp dẫn lại mang đầy vẻ khuyến khích tìm hiểu khiến tôi càng muốn tìm tòi để thực hiện cho được. Nghĩ cho cùng, sự vận khí huyết đả thông các luân xa dù nguy hiểm nhưng không thực hành thì đâu có hại gì; hơn nữa, Kinh Thánh đã chẳng nói tìm thì sẽ gặp; các thiền sư viết sách cũng thường nhắc lại lời những vị chân sư đã khuyên họ rằng nếu thực sự khát khao kiếm tìm cuộc sống tâm linh sẽ có thày dạy là những bậc chân sư được gửi tới... Thế nên tôi thầm nghĩ, trong khi chờ đợi bậc thày chỉ dẫn, mình ráng tìm hiểu chân ngã bằng cách trả lời câu hỏi "Tôi là ai?" trong phương thức vô vi. Thiền nằm dễ đi vào vô vi vì đó là cách thực hành vô vi hữu hiệu nhất bởi muốn trở nên vô vi vẫn còn là dục. Cứ kiên nhẫn vô vi bằng những giấc ngủ, tôi tự an ủi, và chờ đợi, sẽ có ngày chân sư hiển hiện do lòng thành thực và chung thủy của mình. Thêm vào đó, câu trả lời của vị tu sĩ khi thiền sư Yogânanda xin được chỉ dạy phép nhập định giúp tôi phần nào kiên nhẫn: "Hiện giờ thể xác em chưa được chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế. Cũng như một bóng đèn nhỏ không thể chịu đựng nổi một điện thế quá cao, những dây thần kinh của em chưa sẵn sàng để lưu chuyển luồng từ điển của vũ trụ. Nếu tôi đưa em vào trạng thái đại định như bây giờ, em sẽ bốc cháy như bó đuốc chẳng khác nào tất cả những tế bào trong thân thể em đều bắt lửa" (Các Bậc Chân Sư Yogi Ấn Độ; tr.160).
Hình như càng những câu nói đơn giản, dễ hiểu lại càng không đơn giản và dễ thực hành chút nào, chẳng hạn "Tìm sẽ gặp" hoặc "Muốn là đã được một nửa." Ai mà không muốn lắm điều, nhiều thứ trên cõi đời này, nhưng những ai đã cứ muốn mà được? Tôi muốn cả thế giới lại chẳng có gì; nếu chỉ được một phần trăm, hoặc chỉ một phần triệu của thế giới, có lẽ tôi đã tha hồ xưng hùng xưng bá. Tìm sẽ gặp, câu nói xúi người mù dấn thân vào cánh rừng rậm rạp nguy hiểm. Tìm bằng cách nào, trong điều kiện ra sao, những gì cần được chuẩn bị, những gì không cần thiết làm cản trở cuộc hành trình tìm kiếm v.v... Đúng là ánh sáng của những vị chân sư trở thành điều ngu xuẩn cho kẻ đui mù. Hơn nữa, những điều kiện đôi khi các thiền sư vô tình bật mí thì lại càng mang đầy vẻ bí mật. Chẳng hạn, "Phải tiến từng bước bằng sự cố gắng cá nhân" (Hồi Ký của H.S. Olcott; tr.139). Đã giống như rợ vào rừng càng mò mẫm thì lại càng rối, đàng khác, những lời khuyên, những nhận định về phương cách thiền niệm mang đầy tính chất khó hiểu khi áp dụng. Cố gắng cá nhân là thế nào? Chưa đủ năng lực bước vào đại định mà lạc vô sẽ cháy như bó đuốc; mới thử thiền đã đụng ngưỡng cửa tẩu hỏa nhập ma thì còn cố gắng nỗi chi? Olcott đưa thêm lời khuyên "Phải khai mở trực giác để tìm hiểu những hiện tượng" (tr. 159), thật chẳng khác gì câu nói "tìm sẽ gặp."
Tuy nhiên, những nhận định của các vị chân sư, thiền sư đem lại cho tôi nhiều khuyến khích và hy vọng. Ít nhất, Yogânanda nhắc nhở: "Người hành giả thật tâm tu luyện chắc chắn sẽ đạt tới trạng thái siêu linh; đức tin mãnh liệt của y tự nhiên sẽ thúc đẩy y đến gần Thượng Đế" (tr. 171); đồng thời sự kiện bà ngồi sáu tiếng đồng hồ vững lòng khẩn cầu cho tới khi được sự trả lời giúp tôi nhận thực lòng nghi ngờ của mình đã bao lâu nay. Từ xưa tới giờ, tôi cứ nghĩ mình có lòng tin mạnh mẽ mà không được bề trên nhận lời; thành thực nhận xét, niềm tin của tôi chưa bằng một phần trăm của thiền sư Yogânanda. Sự nhận định này phần nào chứng minh rằng sống mật thiết với Thượng Đế, với những đấng vô hình mà mình tin tưởng sẽ có sức mạnh và được ban cho những năng lực lạ lùng để hoàn thành nhiệm vụ mình được kêu gọi, và như vậy, quyền hành của các vị chân sư đều từ Thượng Đế, nguồn năng lực vô biên tác động vũ trụ chia sẻ cho những ai nhận thực giá trị siêu linh của con người. Coi trên tivi, đọc báo chí, nghe những chuyện kể, tôi vẫn thường nghĩ rằng chỉ một số người đặc biệt nào đó có khả năng lạ lùng chẳng hạn năng lực chữa bệnh v.v... Tôi đã đoán xét sai lầm; Thượng Đế nào thiên vị riêng ai; thế nên, vấn đề còn lại tùy thuộc chính mình mà không biết, không tìm được phương cách để có được năng lực sẵn chờ. Nhận thức này nhắc nhở tôi lời nói của Đức Kitô: "Mọi sự đều là có thể cho người tin" (Mc. 9:23), hoặc "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Tuy nhiên, nhận thực như thế, nhưng đâu là phương cách thực nghiệm? Phải như thế nào để tôi có đức tin bằng hạt cải, bằng nửa hạt cải, hoặc một phần mười hạt cải? Và lấy gì làm mức độ đo lường đức tin?
Sự thật nhiều khi lắm điều trái ngược coi bộ không thể xảy ra nhưng lại chất chứa phần nào chân lý. Nếu chấp nhận câu nói "Ngôn giả bất tri" thì chẳng lẽ Đạo Đức Kinh không nói lên được chút nào chân ý Lão Trang? Nói rằng "Tri giả bất ngôn" quả là đúng trong trường hợp săn tìm phương pháp đi vào thiền niệm. Muốn vô vi thì chưa cảm nghiệm được "đạo trống." Bộ Óc được tạo dựng nên chẳng lẽ thừa và nếu thực sự không cần bộ Óc sao nó không bị thoái hóa theo luật tiến hóa tự nhiên; như vậy, phỏng vô vi là một thực trạng? Hơn nữa, đã quen tranh đấu, tính toán như một bản năng sinh tồn mà nếu không có lo âu, thất tình, lục dục, e nó sẽ bị bão hòa, tệ hơn nữa, có thể trở thành "Nhàn cư vi bất thiện." Đàng khác, được sinh ra giữa chốn xình lầy sao tránh thoát vương bùn bẩn thỉu, cuộc sống con người lệ thuộc đầy dẫy những liên hệ nên dẫu cho không muốn đụng chạm cũng phải đối diện nhiều chuyện khiến mình xáo trộn tâm thần. Thế nên, đâu phải cứ sống vô vi sẽ không bị những cảnh phiền hà ảnh hưởng. Sự thật này còn lắm điểm chẳng ngờ như thiền sư Bhaduri giải thích: "Sự bế môn nhập thất của tôi không phải vì lý do tiện nghi riêng cho tôi, mà là cho kẻ khác. Những người ngoài đời không thích nghe lời thành thật nó làm tiêu tan những ảo ảnh của họ. Những vị chân tu không những hiếm có, mà lại còn làm cho người ta hoang mang. Thánh kinh cũng có nói rằng: 'các vị ấy thường làm cho người đời đâm ra lúng túng trong cuộc sống của họ'" (Các Bậc Chân Sư Yogi Ấn Độ; tr.77). Bởi đó, chẳng lạ gì các vị thiền sư trốn lên rừng yên phận bè bạn với cỏ cây. Riêng tôi vẫn nghĩ, những người lên rừng sống cô lập vì họ có niềm hạnh phúc vô biên nào đó mà cuộc đời giàu sang, quyền quí, vợ đẹp con khôn, ăn mặc sang trọng không thể so sánh được. Phỏng đó là niềm hạnh phúc vô biên mà tôi muốn đạt tới?
Lẽ tự nhiên, không ai muốn chịu khổ mà có chăng ra công gắng sức tìm kiếm cuộc sống khá hơn. Nếu những người lên rừng làm bạn với cỏ cây, ăn uống khem khuốc, bơ vơ cô độc, thật sự khổ cực như con mắt chúng ta nhận xét, và nếu cuộc sống nơi thành phố xa hoa, mỹ lệ đem lại niềm an bình, vui tươi thoải mái hơn thì ai lạ gì xa lánh chốn hồng trần tiện nghi? Câu Kinh Thánh "Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì" (Gioan 6:63) chắc chắn mang ý nghĩa nào đó đối với những người coi rẻ cuộc sống bình thường mọi người đang trần thân vất vả theo đuổi? Lý luận, đặt vấn đề như thế nhưng tự xét lại, phần ngại ngùng nào đó dùng dằng ngăn cản ý định thử nơi tôi. Đang sống quen với nếp đời tạm coi là yên ổn, bất cứ những gì xảy đến đe dọa những thói quen cố hữu, những tiện nghi ràng buộc, đều tạo nên áp lực phản kháng khiến con người e sợ bị xáo trộn, e sợ phải thay đổi cho dù chỉ là quan niệm, tư tưởng. Thế nên, đã nhiều lần tôi tự đặt câu hỏi trong sự so sánh phỏng mình có giống như con bọ cảm thấy sung sướng chui rúc nơi đống thịt rữa xình thối của một xác chết con vật nào đó để rồi cho rằng con nhặng dốt nát vì không ngụp lặn như mình?
Đặt vấn đề như vậy để tìm câu trả lời nơi tôn giáo, tôi cảm thấy hình như có những điểm tương đồng đã lâu nay được mù mờ chấp nhận nhưng chưa bao giờ tôi dám ngang nhiên tìm hiểu chẳng hạn về lý thuyết, quan niệm, nghi thức v.v... được các tôn giáo thực hành. Điểm đầu tiên và cũng là nguồn gốc cho mọi sự khác biệt là tên gọi. Những nhà sáng lập các tôn giáo cũng như những giáo đồ, ai cũng chấp nhận, cũng tin rằng có một Đấng Toàn Năng đầy quyền lực tạo dựng vũ trụ khi đối diện với những mãnh lực thiên nhiên không bề giải thích, thế rồi đặt cho Đấng Ấy một cái tên, diễn tả cảm nghiệm, kinh nghiệm linh tâm riêng tư của mình hay một số kinh nghiệm của nhóm mình dưới sự ảnh hưởng của văn hóa, tư tưởng, chiều hướng quan niệm địa phương... kiến tạo nên một số nghi thức bày tỏ lòng tôn sùng, ngưỡng mộ, sắp xếp và đặt ra những nguyên tắc hay luật lệ nên theo để phần nào chứng tỏ lòng thành của mình đối với Đấng Toàn Năng như một thứ điều luật tôn giáo chung cho giáo phái của mình... dần dần được sửa đổi sao cho hợp lý hợp tình hơn và truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác đến độ sau này tín hữu cứ rập theo và chấp nhận một cách máy móc không cần biết tại sao lại có những nghi thức ấy chẳng hạn như tế trời, lạy thần thánh, mua đồ cúng, viếng v.v... Tôi nghĩ, Đấng Toàn Năng nào có đòi hỏi ai phải tế; thánh nào dám ngang nhiên bắt con người phải lạy. Những đồ cúng, viếng, chỉ có giá trị chứng tỏ lòng thành chứ chẳng lẽ Đấng tạo dựng nên toàn thể vũ trụ này thèm khát vài chùm nho, trái táo mà không tạo dựng được nên muốn người ta cúng? Và rồi miệng đâu, răng đâu mà thưởng thức vị ngon ngọt của những phẩm vật dâng tặng? Dĩ nhiên, tổ chức nào cũng cần ngân quĩ để phát triển nên những lễ vật, những tiền của dâng cúng được dùng cho mục đích quảng bá và xây dựng tổ chức. Chính vì thiếu hiểu biết nên người ta đã coi tôn giáo như một sự ràng buộc hình thức, phải thế nọ, phải thế kia. Đồng thời do ảnh hưởng hoàn cảnh và quan niệm sống, những nghi thức tôn giáo dần biến thái mỗi ngày một phức tạp theo tạp niệm mà dần xa giáo lý để rồi thói quen tôn giáo mỗi ngày một lấn dần giáo lý khiến cho tín đồ chỉ còn nhận ra những luật phải giữ, kiểu cách phải theo để được thuộc về tổ chức tôn giáo ấy như một sự thực hiện lòng khao khát Thượng Đế nơi tâm hồn mỗi người.
Có thể cái nhìn của tôi về các tôn giáo còn quá non nớt, chật hẹp, nên thấy rằng Chúa, Phật đã bị quảng cáo một cách đầy thiếu sót cũng như lòng tin của con người bị lạm dụng biến thành mối lo âu. Người theo đạo Chúa lại thường bị nghe về luận phạt đồng thời với sự tuyên xưng, rao giảng một Thiên Chúa yêu thương vô bến bờ. Đã bao nhiêu ngày tháng qua người ta nhấn mạnh một Thiên Chúa dữ dằn chẳng khác gì quan tòa ác độc, thẳng tay trừng trị những kẻ nào không giữ luật. Chính quan niệm này tự nó đã có mầm mống đối nghịch vì sự luận phạt công thẳng không thể nào đứng chung với tình thương vô biên giới. Thật ra, thà rằng chấp nhận "mắt đền mắt, răng đền răng" một lối nói khác tương đương luật nhân quả có lẽ mang phần nào hữu lý hơn. Thuyết Luân Hồi của Ấn Giáo bị hiểu sai khiến con người e sợ sự trả thù tàn bạo của Đấng Linh Thiêng bắt phải trở thành những gì mình kinh tởm trong kiếp tới... Con người dẫu luôn luôn lỗi lầm nhưng không phải không có thiện tâm. Thế nên, khi một người nhận chân được sự tốt lành nào đó, họ sẽ tự động sống theo chứ không tùy thuộc luật buộc. Bởi vậy, có thể luật buộc là thành quả của sự thiếu sót quảng bá cho con người am hiểu và cảm nghiệm được những điều tốt lành. Phỏng tôn giáo quá đặt nặng về hình thức và nghiêm luật sẽ không còn kẽ hở cho ánh sáng chân lý chiếu soi đánh động tâm hồn thế nhân? Đúng ra, chân lý mới là chính yếu, là tất cả, để soi sáng, khắc phục, và chinh phục con người. Thử hỏi, lề luật nào không đối nghịch lời Thánh Kinh: "Ta sẽ đặt lề luật của Ta nơi cung lòng chúng và Ta sẽ viết trên tâm tư chúng; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo lẫn nhau 'hãy nhận biết Yavê!' vì hết thảy chúng đều biết Ta từ bé đến lớn..." (Yêr. 31:34). Hình như các tôn giáo có chung một vị thần đáng sợ nhất và đó là thần đe dọa hình phạt, dựa trên mối e sợ, một khía cạnh của bản năng do sự nhận chân giá trị mỏng dòn của kiếp người để xây dựng luật lệ bởi "Ngôn giả bất tri."
Suy thế, tự thuở ban đầu, những nghi thức tỏ lòng tôn sùng của con người đối với một Đấng Toàn Năng đều bắt nguồn từ tâm tình của mình dẫu Ngài được gọi khác tên, dẫu thực hành khác nghi thức tôn sùng, khác quan niệm diễn tả. Hơn nữa, do sự hiểu biết lẫn lộn giữa những qui luật tôn giáo, đạo đức, luân lý, thay vì rao giảng giáo lý, người ta đã rao giảng luật luân lý địa phương. Sự lẫn lộn này có thể bắt nguồn từ thiếu hiểu biết về giáo lý căn bản tôn giáo hay do cái nhìn bệnh hoạn, không thấy những điều tốt lành nơi con người mà chỉ thích bới móc những chuyện chẳng nên dưới cái nhìn luân lý. Đồng ý rằng con người mang cả khuynh hướng hướng thượng lẫn thấp hèn, nhưng nhấn mạnh phàm ngã để lo sửa sai thì đường về chân ngã vô tình đã bị đóng kín. Có thể rằng, chính vì đã không nói về điểm chính yếu mà chỉ luẩn quẩn nơi những chi tiết do quan niệm khác biệt về Thượng Đế, các tôn giáo vô tình tạo nên những khoảng cách đối nghịch không phương hòa giải. Thật là phi lý khi đạo nào cũng cho rằng chỉ có một Đấng Toàn Năng cao cả tuyệt đối nhưng chỉ Đấng theo quan niệm của mình mới tuyệt đối vì nếu chỉ một Đấng Tuyệt Đối duy nhất thì những quan niệm kết quả của cảm nghiệm tâm linh dẫu khác biệt đến mấy cũng không thể nào trở thành nguyên nhân hay động lực cho bất cứ cuộc chiến tranh tôn giáo nào đã xảy ra.
Đồng ý rằng luân lý là sự áp dụng của ý thức đạo đức trong cuộc sống để kiến tạo nề nếp xã hội; một khía cạnh nào đó, luân lý là luật đạo đức thực nghiệm bất thành văn được dùng như phương tiện giúp con người thăng tiến về tâm linh. Bởi thế, luân lý mang tính chất tương đối tùy thuộc địa phương và quan niệm sống, phong tục, tập quán, cũng như cơ cấu xã hội. Tôn giáo vượt hẳn lên trên vì niềm tin là cội nguồn cho ý thức đạo đức bởi nếu không có niềm tin hướng dẫn, thế giới này chỉ là chốn hoang rừng tùy thuộc luật của sức mạnh. Tôn giáo đứng vững vì có mối dây liên lạc với thế giới vĩnh cửu bên kia cuộc sống giới hạn hiện tại của con người; mối dây này căn bản đặt ở chữ "tin" và được nói lên nhiều cách đôi khi khó phân biệt; lòng tin, niềm tin, đức tin v.v...
Lấy lòng tin làm căn bản, cùng một gốc và những chi nhánh phát sinh của Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Kitô Giáo, gọi những nhà có lòng tin vững mạnh liên lạc với Thượng Đế là tiên tri, và phương pháp liên lạc được gọi là cầu nguyện. Ấn Giáo, Phật Giáo, và các chi nhánh gọi những người này của họ là chân sư dùng thiền làm phương tiện. Họ hàng Lão Giáo, Khổng Giáo lại dùng tiếng thánh nhân, thánh hiền; kinh nghiệm liên lạc với những đấng cao cả của họ để lại thì chỉ một con đường độc nhất là để lòng vô vi ngồi thiền. Lòng tin có Đấng Toàn Năng làm gốc là một điểm ắt có nhưng chưa đủ để liên lạc với thế giới bên kia do đó cần phương pháp thực nghiệm. Những phương pháp này của các tôn giáo thực ra khác tên nhưng cũng cùng một cách thức và đòi hỏi chung một điều kiện đó là lòng yêu thương tha nhân cũng như mọi loài tạo vật. Vô vi nhấn mạnh điểm mở rộng lòng, cởi bỏ những ràng buộc của thế giới hữu hình để đón nhận cảm nghiệm hiện hữu với Thượng Đế. Kitô Giáo phân biệt cầu nguyện thành ít nhất hai cách thức: cầu xin hay nguyện cầu, và lắng nghe tiếng Chúa. Đại khái, sau khi phân tích, suy tư, nhận định, mở rộng tâm hồn không để cho bất cứ gì ảnh hưởng mà để tâm hồn thanh tịnh chờ, lắng nghe những gì Chúa muốn cho mình. Các chân sư, thiền sư nói về kinh nghiệm thiền cũng khuyên để lòng thanh tịnh nhận thực mình chỉ vô ngã, nói cách khác, áp dụng vô vi để lắng nghe, tìm về thế giới siêu linh... Chung qui, dẫu được dùng tên khác nhau nhưng phương pháp chỉ là một.
Những điều kiện gặp gỡ thế giới siêu linh gồm có lòng tin nơi một mãnh lực huyền nhiệm tạm gọi là Thượng Đế hay Đấng Toàn Năng tạo dựng vũ trụ, và để lòng vô vi mà cầu nguyện hay thiền, nâng tâm thức mình lên hay hòa nhập cõi lòng hoặc linh thể của mình với Thượng Đế. Lên rừng thâm u hay ở giữa thành thị Ồn ào náo nhiệt mà đạt tới tâm thức "Chúa ở trong tôi, tôi ở trong Chúa" hoặc "tiểu ngã hòa nhập với Đại Ngã" hay "tri giả bất ngôn" thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu mà thế quyền, danh vọng, cũng như những vui thú trần gian không thể so sánh được. Câu nói "tri giả bất ngôn" chỉ về niềm hạnh phúc này vì không gì nơi cõi đời hiện tại có thể so sánh được nên không biết sao mà nói. Tuy nhiên, qua lời khuyên nơi kinh, sách, lòng tin đóng vai trò quan trọng và mang sức mạnh tiềm ẩn ít được để ý. Chân sư Sri Yukteswar đã nhắc nhở thiền sư Yogânanda: "Người đời ít khi nhận thấy Thượng Đế đã đáp ứng bao nhiêu lần những ước vọng của họ. Ngài không thiên vị thiểu số nào, nhưng Ngài lóng nghe những kẻ nào cầu nguyện Ngài với tất cả tâm hồn. Như vậy, người đời phải có một đức tin tuyệt đối nơi lòng Từ Bi Bác Ái của đấng Cha Lành trên trời" (Các Bậc Chân Sư Yogi Ấn Độ; tr.179). Đức Giêsu cũng đã nói rõ: "Mọi sự đều có thể cho người tin" (Mc. 9:23) và "Quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12).
Làm sao để có lòng tin vững vào Thượng Đế; phương cách nào kiến tạo đức tin bằng hạt cải... Câu trả lời tóm gọn chỉ là cách gặp gỡ, để lòng vô vi "thiền" hoặc "lắng nghe tiếng Chúa..." vì không còn cách nào hơn bởi khi đã gặp gỡ Thượng Đế thì "Tri giả bất ngôn."