- Đi nghe hát một lúc đi, ông giáo. Hôm nay mới có cô đầu về qua.
Thọ ngần ngại mỉm cười nhìn Lại.
Thúy nài:
- Ông đi một lúc cho vui, ở đây ít khi có.
- ừ thì đi!
Thọ đứng dậy mặc áo. Ba người đi khỏi phố Vĩnh Thành, đến giữa phố Vĩnh Thịnh, rẽ về bên trái. Đường vào làng tối om, gồ ghề. Lại bật đèn điện, đi một quãng ngắn thì đến nơi. Cửa đóng, Thúy gọi: "Anh Hòa". Trong nhà có người cầm ngọn đèn cây ra mở cửa. Kẹt một tiếng cánh cửa đan bằng tre mở ra.
- Lạy các quan ạ.
- Có ai không?
- Bẩm có chị Thuật và chị Hoạt mới ở Hà Nội về trưa hôm nay. Rước các quan vào chơi.
Lại mời Thọ và Thúy vào. Qua một cái sân đất giồng cây, Hòa - người cầm đèn - mời ba người vào trong nhà. Hai cô gái tân thời chạy ra đon đả chào:
- Chào các quan. Kìa ông Thúy, ông Lại, đã lâu nay chúng em mới lại gặp mặt.
Thúy nói:
- Gớm chị Thuật, chị Hoạt, dạo này mới mặt nhỉ?
Hoạt:
- Bẩm quan, bao giờ chúng em cũng vẫn thế.
- Quan với quách gì! Ông, anh hay cậu càng hay.
- Ông Thúy đáo để lắm! Chúng em đâu dám thế.
Thằng nhỏ đã bưng siêu nước sôi lên. Thuật lấy chè và ấm chén để trên bàn thờ ông vải xuống, rồi pha nước.
Lại chỉ Thọ nói với Thuật:
- Đây là ông giáo dạy lớp nhất. Các chị phải chiều cho thật khéo. Giai tân đấy.
Thuật mỉm cười, bưng nước đến mời Thọ:
- Mời quan xơi nước ạ!
Thúy bẻ:
- Lại quan rồi! Chị trông xem ông ấy có uống không. Phải mời là anh hay là cậu.
Lại:
- Cậu thì đúng hơn.
Thuật liếc Thọ, nói nhỏ:
- Biết rằng chúng em có được hân hạnh ấy không mà gọi thế.
Lần này Thọ mới bước chân vào nhà cô đầu là lần thứ nhất. Thấy họ trêu mình, Thọ bẽn lẽn, có ý ngượng. Ngượng nhất là khi Thọ cầm cái dùi trống lên xem để giữ lấy vẻ tự nhiên. Lại nói, nửa bông đùa, nửa mỉa mai:
- Dùi trống ở đây hai đầu như nhau không có đầu to đầu nhỏ đâu.
Chỉ một lời nói ấy đủ làm cho Thọ hiểu rõ cái chân tướng của Lại. Lại mời Thọ đi chơi, rồi thừa cơ châm chích Thọ, nói tức Thọ. Nếu Thọ bực mình, thích ganh đua là phải miệt mài với họ luôn, cố cho được thạo như họ, sành sõi bằng họ. Thế là Lại mãn nguyện. ở đời ta thường gặp nhiều chúng bạn như thế. Không bao giờ họ đem các điều hay lẽ phải ra để khuyên mình đâu. Họ có tật xấu gì họ cũng muốn cho mình có tật xấu ấy. Họ là người lười công việc ư? Họ sẽ tìm cách chế mình nếu mình là người chăm chỉ. Họ ham mê cờ bạc giai gái ư? Họ cố rủ cho bằng được mình chơi với họ. Họ sẽ dùng câu nói khích, dùng lời nói mát, tìm cách dèm pha nếu mình không đồng ý với họ. Tâm lý của họ là thế này: cùng xấu cả, cùng chơi cả, thì còn ai biết mình là xấu, là chơi. Mà họ được mãn nguyện luôn, vì phái họ bao giờ cũng là phái mạnh. Cái dở vẫn dễ theo và mê hoặc người hơn cái hay. Nếu ta không chịu xét đoán, không có kiên tâm, là ta bị vào tròng ngay.
Bởi thế nên ta thường thấy nhiều người đổi hẳn tâm tính một khi đã rời khỏi trường học. Có người khi ở trường ăn mặc rất giản dị, chỉ trích hết sức những bạn làm dáng, mà khi ra đời lại rất mực xa hoa. Có người ở trường thì chăm chỉ đứng đắn, khi ra làm việc lại lười biếng chơi bời. Ta nghiệm ra rằng những người đổi dở ra hay rất hiếm, còn người đương hay hóa dở lại là phần đông.
Thọ hiểu rõ như thế. Nhưng hiểu được nguồn gốc một cái hại, không phải là đã tránh nổi cái hại ấy đâu. Muốn thế còn cần phải để ý đề phòng, cần phải có đủ nghị lực.
Lại đã đánh năm tiếng trống ròn rã, ba tiếng trước thong thả, hai tiếng sau hơi mau hơn. Hòa lên dây đàn, dạo mấy tiếng. Thuật bắt đầu gõ phách, rồi cất giọng hát. Thuật khéo lựa những bài hát tình tứ, tả cảnh gặp gỡ của đôi giai gái hợp ý nhau, luyến nhau, mê nhau, vừa hát Thuật vừa đưa mắt nhìn Thọ để chàng hiểu rằng những lời âu yếm ấy cốt để tặng ai. Thọ hiểu lắm, mà ai cũng đều hiểu như thế. Thúy nói:
- Hai anh chị đã cảm nhau rồi. Chỉ còn già chúng mình là suông thôi.
Thuật nhìn Thúy, trách móc.
Tiếng trống dắn dỏi ăn dịp với tiếng phách mạnh mẽ. Tiếng đàn thánh thót, trầm bổng, nhặt khoan, hòa với giọng hát êm ái khi cao thấp, khi ngân nga. Tâm hồn Thọ như bị tiếng đàn, giọng hát lúc dìu dặt đưa lên, lúc nhẹ nhàng dìm xuống. Chàng ngồi tựa lưng vào vách, hút thuốc lá, mơ màng nhìn làn khói xanh, xám từ từ trong miệng mình đưa ra, lan rộng, mờ dần rồi biến hẳn trong ánh sáng đỏ của ngọn đèn ba dây. Thọ thấy một thứ cảm giác lạ, nó không đầm ấm như lúc gia đình xum họp buổi tối, nhưng nó dịu dàng, man mác bâng khuâng, thứ cảm giác ta thường thấy khi ta đứng trước một cảnh vật bao la dưới bóng trăng thanh, hoặc khi ta mơ màng đến những nước non xa lạ.
Hoạt sẽ đặt chén nước chè mới pha trước mặt Thọ:
- Mời quan xơi nước ạ.
Thấy Thọ vẫn ngồi im, Hoạt mời lại một lần nữa, to hơn:
- Mời quan xơi nước ạ.
Thọ gạt tàn thuốc lá, mỉm cười:
- Vâng.
Lại đặt dùi trống xuống chiếu. Thuật cũng đặt phách xuống, nói:
- Trống ông Lại xinh quá.
Lại cười, vui sướng.
Anh Hòa vặn trục đàn, thử lại dây, rồi dựa đàn vào chiếc án gian bằng gỗ mít để mộc.
Lại nói:
- Anh Hòa cho đi mua năm hào thuốc. Chị Hoạt đâu? Đem bàn đèn lại đây.
Hoạt đem chiếc bàn đèn đặt giữa giường. Trên một chiếc khay nhỏ bằng gỗ hình chữ nhật, trước hết mắt Thọ nhìn ngay thấy một cái chụp đèn bằng thủy tinh có hai miếng giấy hẹp và dài dán đè lên hai vết dạn bằng một thứ hồ lờ lờ đỏ. Cái đèn thì cáu bẩn. Cái dọc tẩu ngắn độ hai gang, dài quá cái khay. Thọ tò mò nhìn từ cái kéo, cái móc, cái tiêm để bên cái chén con nhỏ tí, đen sịt, sứt mẻ, đến cái giẻ lau để ở góc khay. Thọ nghĩ: "Mới trông đã thấy tởm...! Thế mà họ sắp sửa hút!".
Họ hút thật. Anh Hòa đã đem thuốc vào. Thuốc đựng trong một chiếc chén con, được trên lưng chén. Lại cầm lấy chén thuốc, miệng kêu:
- Sao lỏng thế này?
Anh Hòa đáp:
- Bẩm quan, thế là tốt đấy ạ.
Thuật đã lấy mỡ cho vào phao dầu bật diêm thắp đèn, rồi cầm kéo sửa lại bấc cho tròn ngọn lửa.
Lại hỏi:
- Không có dầu à, mà dùng mỡ?
Thúy nói:
- Mỡ càng tốt.
Thuật đã cầm tiêm, chấm vào chén thuốc, rồi hơ lên trên ngọn đèn. Gặp nóng, thuốc phiện nở ra, phồng lên. Thuật ấn vào diện tẩu cho thuốc bẹp xuống, rồi lại tẩm vào chén thuốc, lại hơ lên đèn. Mỗi lần hơ, thuốc lại nở thêm một tí. Mùi thuốc thơm phức. Khi điếu thuốc đã khá to. Thuật vê cho dài ra, rồi tiêm thuốc vào diện, rút tiêm ra, lấy ngón tay cái ấn một cái, lại lấy tiêm thông:
- Mời các quan xơi thuốc ạ.
- Ông Thọ, mời ông xơi trước.
Thấy Thọ lắc đầu, không nói gì, Lại tiếp:
- Anh tưởng nghiện ngay đấy. Còn tốn chán công phu.
Thúy chêm:
- Nghiện thế nào được. Chúng tôi hút luôn còn chẳng sao nữa là...
- Anh còn làm nũng chị chứ gì? Chị Thuật mời anh ấy đi. Mời cho khéo.
Nhưng Thọ vội nói ngay:
- Không. Tôi không tài nào dùng được. Xin các ông cứ việc và cho tùy thích.
Nghe giọng cả quyết của Thọ, Lại biết là không ép nổi, bèn quay lại mời Thúy. Hai người nhường nhau mãi rồi Lại hút trước. Hai người thay đổi nhau.
Thọ ngồi lặng ngắm Thúy và Lại chúm miệng hóp má kéo sè sè, vì cái dọc tẩu không được thông. Thấy Lại nằm gối đầu vào đùi Thuật ra vẻ khoái hoạt lắm, Thọ tự nhiên nghĩ đến những người nghiện thuốc phiện. Một bức tranh hiện ra trong trí tưởng tượng của chàng: bức tranh một người gầy gò, xanh xao, bẩn thỉu, đang ngồi nạo sái trong một gian buồng nhỏ hẹp, tối tăm âm thầm dưới ánh sáng lù mù của ngọn đèn dầu lạc gần cạn. Nghĩ đến những cảnh tiều tụy mà sự chơi bời có thể đưa người ta đến được, Thọ rùng mình ghê tởm.
- Anh Thọ, kéo thử một điếu xem sao.
Đáp lại lời mời của Lại, Thọ chỉ lắc đầu. Chàng nghiệm ra rằng trong những cuộc chơi bời, người ta dễ thân nhau và dễ suồng sã với nhau nhất. Từ ngày đến Vĩnh Yên, hôm nay Thọ mới thấy Lại gọi mình bằng anh! Tuy đối với bè bạn, tiếng "anh" vẫn thân mật và hợp lẽ hơn tiếng "ông", nhưng đó cũng là một sự thay đổi, và sự thay đổi ấy có thể không có được nếu Thọ không đi nghe hát tối nay. Phải trong những đám bạc và các nhà hát, người ta dễ trở nên thân mà cũng dễ coi thường nhau lắm, trong một tỉnh các người làm việc thường chia ra từng bọn. Người cùng một bọn rất thân với nhau, đi đâu thường có nhau và trước mặt nói năng cử chỉ tự nhiên và dễ dàng, chứ không phải để ý như khi giao thiệp với những người khác bọn. Trong bọn toàn những người chung một ý thích: ham cờ bạc hay mê gái. Không thuộc vào bọn nào là những người ngoài công việc làm ở sở chỉ thích xem sách, đi chơi mát hoặc vui cảnh gia đình. Những người này rất ít không được ai nhận là bạn thân, và phải liệt vào hạng "đứng đắn", "mô phạm". Đối với bọn ăn chơi, những chữ ấy chỉ ngụ một ý nghĩa chê bai, riễu cợt.
Chén thuốc phiện để ở khay vơi dần.
Thuật ngâm mấy câu bồng mạc và sa mạc, rồi kể chuyện. Lúc ấy đã mười hai giờ đêm. Lại nằm vắt tay lên trán lắng tai nghe. Thúy ngồi to nhỏ với Hoạt, Anh Hòa ngồi ngáp vặt, thỉnh thoảng đứng lên cho đỡ buồn ngủ rồi lại ngồi xuống.
Đêm khuya, giọng hát hay của Thuật như lưu luyến người, cám dỗ người, mê hoặc người. Lúc về Thọ còn thấy tiếng hát trong trẻo văng vẳng bên tai.
Sáng hôm sau ra trường dạy học, Thọ thấy học trò nhìn mình bằng đôi mắt tò mò. Họ thì thầm bàn tán với nhau, Thọ thoáng nghe thấy một đứa nói nhỏ vào tai bạn:
- Đêm qua thầy giáo đi hát cô đầu.
Thọ nghĩ thầm: "Quái! Những đứa này tài thật!" Rồi chàng điềm nhiên vào lớp.
Nhưng Thọ nhận thấy rất rõ rệt cái trách nhiệm nặng nề của một ông giáo. Từ trong lớp học, ngoài đường, cho đến ở nhà lúc nào ông giáo cũng phải giữ gìn cẩn thận. Ông giáo là "người mẫu" của học trò. Không một lời nói nào, một cử chỉ nào của ông giáo là qua được mắt họ. Ông giáo đứng đắn ư? Làm được điều hay ư? Họ sẽ ca tụng, kính trọng, tin yêu; họ sẽ chăm chỉ, làm việc chóng tấn tới. Ông giáo ăn nói lố lăng? Làm điều bậy? Họ sẽ bàn tán, chỉ trích coi thường. Đừng có hòng họ chăm chỉ và lễ độ nữa. Học trò có yêu thầy mới chịu khó làm việc. Trí dục dễ, nhưng đức dục rất khó. Một ông giáo giỏi về các khoa để mở mang trí tuệ học trò cũng chưa đủ, còn phải có nhiều đức tính để học trò bắt chước, có đủ nghị lực tự kiềm chế lấy mình để khỏi giảm quyền giáo hóa của mình đối với học trò.
Thấy trong lớp không được im lặng như mọi ngày, Thọ rất nghiêm nghị. Chàng giảng bài thật kỹ, chấm bài thật cẩn thận. Thấy học trò lắng tai nghe lời mình dạy, Thọ vui sướng.
Một điều làm cho Thọ phải chú ý, là Nhung kém vẻ vui tươi hơn mọi ngày. Nàng ít nhìn Thọ, và mỗi khi nhìn, đôi mắt trong đen như lộ vẻ oán trách, van lơn.
Giờ ra chơi. Một người cu ly xe vào lớp nói với Thọ:
- Bẩm ông, có người hỏi ông ở ngoài cửa trường.
Thọ ra cửa, ngạc nhiên, vì thấy Thuật đứng lấp ở đằng sau xe. Thuật mỉm cười:
- Bây giờ em phải đi Hà Nội ngay, vậy đến để chào ông.
- Đi ngay ư? Tôi cám ơn nhé.
Hai người đứng nhìn nhau độ một phút. Thọ nói:
- Thôi ra ga đi, kẻo nhỡ tầu.
- Còn sớm.
- Không sớm đâu!
Rồi Thọ chào Thuật, quay trở vào. Thọ miễn cưỡng nói mấy câu ấy để đẹp lòng Thuật trước mặt người cu ly đứng liền ngay đấy.
Thọ không muốn làm bẽ mặt một người đàn bà, dù đối với hạng người không cần phải giữ lễ độ.
Trong sân trường, một bọn học trò xúm lại bên hàng rào nhìn Thuật. Khi thấy Thọ vào, họ tản ra, mỗi người đi một ngả. Thọ biết rằng họ chăm chú nhìn mình, nhưng chàng vẫn giữ vẻ mặt tự nhiên, qua lại trong sân, rồi đứng xem bốn cậu học trò nhỏ đá cầu truyền.
Quả cầu làm bằng dăm cái lông gà cắm chặt vào mấy miếng da mỏng cắt tròn bằng đồng bạc. Có thầy giáo đứng xem, bốn cậu ganh nhau chơi hay. Một cậu đá kém phải cúi xuống nhặt cầu để giao cho người bạn bên phải luôn, hổ thẹn, mặt đỏ gay. Các cậu học trò bé thường có tính cả thẹn. Chơi một mình với nhau, các cậu rất dửng dưng được thua không cần. Nhưng khi có thầy giáo đứng xem, các cậu thấy ngượng, cố sức, được thì hớn hở, thua thì bẽn lẽn. Là vì các cậu cho thầy đứng đấy là để chấm tài cao thấp của mình, các cậu tin tưởng rằng chơi giỏi hay không cũng có ảnh hưởng đến tình yêu của thầy đối với các cậu. Các cậu học trò bé chỉ muốn được thầy yêu. Khi thầy sai một việc, các cậu hết sức và vui lòng làm. Có cậu cho đó là một sự vinh hạnh. Cái tính ấy giảm dần mỗi khi các cậu lên một lớp trên. Đến lớp nhất các cậu sẽ cho sự thầy sai là khó chịu, bó buộc phải làm. ở lớp ấy, có cậu thấy thầy yêu lại thẹn với chúng bạn.
Ba tiếng trống làm cho sân trường đang ồn ào bỗng trở nên yên lặng. Học trò lớp nào chạy vội đến cửa lớp ấy xếp hàng đôi, bé đứng trên, nhớn đứng dưới. Thầy giáo ra hiệu: học trò thong thả lặng lẽ vào lớp.
Qua giờ luân lý đến giờ viết tập. Khi chấm đến sách Nhung, Thọ thấy trên tờ giấy thấm của nàng có chữ "Thuật" viết bằng bút chì, tuy bị nhiều nét ngang dọc xoá đi, nhưng vẫn còn rõ. Thọ nhận đích là chữ Nhung viết. Chàng ngẩng lên nhìn Nhung, thấy Nhung cúi nhìn chỗ khác, mặt có vẻ buồn.
Buổi chiều hôm ấy, đi dạy học, Thọ một mình đi bước một trên con đường Tam Đảo. Chàng cảm thấy mình buồn, cái buồn bâng khuâng, không căn cứ.
Gió chiều hiu hắt thổi, lướt trên những ngọn cỏ hai bên đường. ánh nắng vàng úa nhạt dần. Mặt nước đầm Láp trong suốt, lặng yên. Đằng xa, một đám mây trắng nhẹ nhàng chởn vởn ngọn Tam Đảo.
Thọ đứng tựa lưng vào một cột dây thép, trông xa về phía đường Hà Nội. Chàng nghĩ đến cử chỉ của Nhung buổi sáng hôm nay. Cớ sao Nhung buồn? Vì cớ gì Nhung lại viết chữ "Thuật" lên tờ giấy thấm và để cho Thọ trông thấy. Nhung yêu Thọ ư? Thọ vẫn nhận thấy tia sáng lạ lùng trong mắt Nhung mỗi khi Nhung nhìn mình. Mỗi khi ra về, Nhung thường chạm vào chiếc áo thâm của Thọ treo ở mắc, gần chỗ nàng ngồi. Cái cử chỉ ấy, bây giờ Thọ cho là cố ý. Một đôi khi Thọ lại bắt gặp Nhung ngồi ngây người ra rồi đôi gò má bỗng ửng đỏ.
Nhưng... Thọ thở dài... Chàng nghĩ: Nếu quả như thế, thật đáng thương hại cho Nhung. Dù ta có yêu Nhung mười mươi chăng nữa, vì bổn phận, vì danh dự, ta phải hết sức nén tấm lòng yêu ấy và chỉ coi nàng như những học trò khác. Còn Nhung nàng là một người con gái yếu ớt, chắc sẽ phải đau khổ ngấm ngầm...
Có tiếng người nói chuyện ở đằng sau, Thọ quay lại, thấy chị em Nhung bước tới.
Chị em Nhung cúi đầu chào Thọ. Thấy Nhung vui tươi với chị, Thọ mừng. Chàng bỗng phì cười một mình với ý nghĩ: "Ta rõ khéo lẩn thẩn cái gì cũng chỉ vơ lấy phần mình. Biết đâu Nhung buồn không vì một lẽ khác. Biết đâu không vì sự tinh ranh Nhung đã viết chữ Thuật lên tờ giấy thấm rồi lại xóa đi. Nhung vốn là cô gái vui vẻ tự nhiên kia mà..."
Rồi Thọ lại đi bước một giở về. Giữa đường Thọ gặp Hùng đi xe đạp tới. Hùng mỉm cười nhìn Thọ rồi đạp thẳng. Lên khỏi dốc Định Trung, Hùng nhìn xa về phía trước mặt, nhưng không thấy hai chị em Nhung đâu cả. Hùng quay lại, xuống xe, lên đồi Văn Miếu. Chàng vào chơi nhà cụ kép dạy ở trường Định Trung, nhưng lại ra ngay. Chàng rẽ sang bên phải Văn Miếu, thấy trên bãi cỏ, dưới một gốc cây. Nhung nằm ngả vào lòng chị, tay mên mê quả tim vàng đeo ở ngực. Chàng sẽ lùi lại, đứng khuất vào sau bức tường.
- Nhung này, ông giáo Thọ hay nhỉ! Một mình ra đứng tựa cột đèn. Chắc lại tơ tưởng gì hẳn.
- Thầy ấy thế mà đáo để lắm, chị ạ. Sáng hôm nay ra đứng nói chuyên với con Thuật ở cửa trường đấy.
- Con Thuật cô đầu ở nhà Hòa trong làng ấy à?
- Chứ còn ai...
Hùng ở sau bức tường bước ra, tự nhiên như người đi chơi mát vô tình. Phượng - chị Nhung - trông thấy trước, sẽ bấm Nhung ra hiệu. Nhung quay lại thấy Hùng, nàng lại điềm nhiên nằm nguyên như cũ. Nàng cầm tay chị sẽ nói:
- Buồn cười nhỉ? Chị.
Hai chị em khúc khích cười.
Hùng bẽn lẽn lại gần hỏi:
- Hai cô có gặp ông giáo Thọ lên đây không ạ?
- Không.
Thấy Phượng trả lời vắn tắt có một tiếng, Hùng chán nản xuống đồi. Chị em Nhung nhìn theo, khinh bỉ.
Hai nàng vốn ghét Hùng là tay ăn chơi phóng lãng, nên không cần giữ lễ phép. Hùng sở dĩ không dám buông lời lả lơi như đối với các cô gái khác, vì còn e nể thân phụ hai nàng là một cụ tuần về hưu trí, rất có thế lực ở tỉnh Vĩnh Yên.
Một buổi sáng mùa đông. Thọ đến trường đã thấy Nhung đang ngồi trong lớp đan chiếc áo len trắng. Trên bàn, trước mặt Nhung, có cái khăn san mầu phấn hồng. Thấy Thọ vào, Nhung vừa đứng dậy vừa thu chiếc khăn san cất vào ngăn bàn. Rồi nàng đem lên đưa cho Thọ một mảnh giấy gấp tư và nói:
- Thưa thầy, khi con đến lớp, đã thấy mảnh giấy này để ở ngăn bàn, ngay chỗ con ngồi. Vậy con đem lên trình thầy.
Thọ mở ra xem:
Thưa quý nương,
Nếu không có tấm lòng sắt đá, chắc quý nương cũng hiểu tình yêu là gì, và cũng thấu rõ tấm lòng đau khổ của kẻ si tình. Tôi đã nghĩ kỹ lắm mới dám viết bức thư này, vì nếu không làm thế, thật không còn cách nào có thể làm cho quý nương đoái thương đến tôi được. Tôi là người hàng ngày được giáp mặt quý nương mà chưa được cái diễm phúc quý nương để ý tới.
Xem xong thư, nếu quý nương không nỡ chau mày xé bỏ, chiều hôm nay xin mời quý nương rời gót ngọc lên đồi Định Trung, sau Văn Miếu. Tôi sẽ chờ quý nương tại đó và cảm tạ quý nương vô cùng.
Xem xong, Thọ hỏi Nhung:
- Chị xem thư này chưa?
- Thưa thầy đã.
- Vậy chị nghĩ thế nào?
- Con định chiều hôm nay, con và chị con lên đồi Định Trung xem sao. Nếu gặp người ấy chúng con sẽ có cách.
- Để tôi hỏi xem đã.
Rồi Thọ gọi loong-toong nhà trường lên hỏi:
- Sáng hôm nay anh mở cửa lớp lúc nào?
- Bẩm ông, lúc bẩy rưỡi.
- Ai vào lớp trước nhất?
- Bẩm ông, cậu Thăng vào trước, nói là để tìm quyển sách bỏ quên hôm qua. Cậu Thăng ra khỏi một lúc thì cô Nhung đến.
Thọ gọi Thăng đến hỏi. Trước Thăng còn chối, sau vì sợ phạt, phải thú thật: "Thưa thầy, hôm qua ông phán Hùng cho con hai hào, rồi bảo con, để bức thư ấy vào chỗ chị Nhung, không cho ai biết".
Thăng và người loong-toong ra khỏi lớp, Nhung nói:
- Thưa thầy, trước con cũng hơi đoán ra, nhưng không rõ mặt chữ nên không dám chắc, vì con vẫn biết ông Hùng là người không đứng đắn. Nhiều khi chị em con đi chơi, ông ấy thường theo sau, rồi vượt đi lên, có lúc làm như vô tình đi lại chỗ chúng con đang ngồi chơi mát. Vậy bây giờ thầy bảo con nên làm cách nào?
- Những người như thế chẳng cần để ý tới. Nếu mình đứng đắn, không bao giờ họ dám làm điều gì phạm đến phẩm giá mình được.
Nhung nũng nịu:
- Nhưng con tức lắm kia.
Thọ mỉm cười:
- Rồi tôi sẽ tìm cách làm cho ông phán ấy tỉnh ngộ lại.
Thọ đi dạy học về, thấy ở trên bàn có ba bức ảnh của một người con gái: một bức chụp ngồi, một bức đi che ô và một bức đứng. Cả ba đều khổ rộng 18x24. Thọ lấy làm lạ, gọi thằng nhỏ lên hỏi:
- Những ảnh của ai đây?
- Thưa ông, ảnh của cô Bình đấy ạ.
- Cô Bình nào?
- Cô Bình con ông phán làm ở sở lục lộ, nhà ở trên nhà ta một ít.
- Nhưng sao cô ấy lại để ảnh ở đây?
- Cô ấy vào sai con đi mua hộ ba xu ô mai. Rồi cô ấy gửi ảnh ở đây, nói chốc nữa sẽ lại lấy.
Thọ cho là một cử chỉ rất lố lăng của một người con gái quá lãng mạn. Chàng chắc thế nào Bình cũng sẽ lại. Chàng định sẽ giảng cho cô một bài học hay về tư cách của người con gái. Nhưng sau chàng lại cho làm thế là không tiện. Để Bình vào nhà có lẽ gây cho người cùng phố một mối dư luận. Vả lại Bình là con gái một người bạn của Thọ - dù chỉ là người bạn làm việc một tỉnh, không thân mật gì, chàng cũng phải xử sự cho hợp lẽ.
Thằng nhỏ vẫn đứng đấy, nói một mình:
- Cô ấy béo thế mà chụp ảnh trông xinh quá.
Thọ cười bảo nó:
- Mày đem giả cô ấy những ảnh này. Từ rầy tao đi vắng, không được bỏ nhà cho người khác mà đi, biết chưa?
Thằng nhỏ vâng, rồi cầm tập ảnh chạy ra ngoài cửa.
Một ông già chừng ngoài bảy mươi tuổi, râu tóc trắng nuột, bước vào nhà, chào Thọ.
- Bẩm cụ.
- Cháu không dám, mời cụ ngồi chơi.
Thọ rất ngượng về lối xưng hô của ông cụ. Với tuổi hai mươi, Thọ chỉ đáng vào bực cháu ông cụ, thế mà ông cụ lại gọi chàng bằng "cụ". Vậy Thọ gọi lại thế nào cho phải? Đối với một người làm việc nhà nước trẻ tuổi như Thọ, người ta đã dùng nhiều lối xưng hô, tùy theo từng hạng người. Người thiệp đời thì gọi Thọ bằng "ông", người quê mùa chất phác gọi chàng bằng "cụ", người không quen biết bao giờ gọi chàng bằng "cậu", người hay nịnh hót tôn chàng lên chức "quan lớn". Còn gọi chàng bằng "thầy", ngoài học trò ra không kể, có hai hạng người nữa: hạng cha mẹ học trò gọi thay con vì cái lễ tôn thầy và hạng coi thường Thọ. Người làm việc bề trên thường có lối gọi người dưới quyền mình bằng "thầy" của hạng "kẻ cả", và sợ nhất tiếng "quan lớn" của bọn quá tâng bốc chàng. Đối với những người này đã nhiều lần Thọ phải bực mình và nói rõ cho họ biết: "Xin ông đừng gọi tôi là "quan lớn" thẹn cho tôi lắm, vì tôi có làm quan đâu".
Cụ già chắp tay nói:
- Bẩm cụ, tôi có thằng cháu muốn xin cho nó vào học cửa cụ.
- Cháu năm nay lên mấy, thưa cụ?
- Bẩm cháu tuổi Tuất.
- Cháu đã biết đọc quốc ngữ chưa?
- Bẩm cháu mới học hết quyển Tam tự kinh, chưa biết quốc ngữ.
- Cháu có đi với cụ không?
- Bẩm có.
Rồi ông cụ vừa chạy ra cửa vừa gọi to:
- Tuất ơi! Vào đây cháu.
Thằng Tuất ở ngoài bước vào, rụt rè đứng ở cửa. Nó độ tám, chín tuổi, hơi gầy, đầu mới cạo trọc, mặt dài, cằm nhọn. Nó mặc chiếc áo vải thâm tây còn bóng vì chưa giặt lần nào, và chiếc quần chúc bâu còn cồm cộp những hồ. Tay phải nó cầm một quyển vở bìa đỏ, lọ mực buộc ở đầu dây treo lủng lẳng vào một ngón tay. Còn bút và thước, nó cuộn tròn vào một tờ giấy, cầm ở tay trái.
- Kìa, cháu chào cụ đi.
Tuất cúi hẳn đầu xuống, hai tay chụm lại chào Thọ:
- Lạy cụ ạ.
Thọ phải cắn lấy môi dưới để nhịn cười:
- Chiều cụ cho cháu đến học và cho tôi xin bản khai sinh của cháu.
- Bẩm vâng.
Rồi ông cụ từ từ đứng dậy, móc ở túi ra tờ giấy bạc một đồng, gấp làm tám. Cụ để chén nước ở trước mặt ra bàn, mở rộng tờ giấy bạc ra, để lên trên chiếc đĩa tách, rồi chắp hai tay lại sẽ nói:
- Bẩm cụ, cháu được vào cửa cụ, gọi tấm lòng thành, xin cụ nhận cho.
- ấy chết, sao cụ lại thế. Không bao giờ chúng cháu nhận như thế đâu. Cụ cứ việc cho cháu đến học.
- Có thế, cháu nó học mới chóng tấn tới.
Thọ cười:
- Cụ cầm về để mua sách cho cháu. Cần nhất là nó phải chăm học.
Ông cụ còn nài hai ba lần nữa, mới gấp tờ giấy bạc lại, cẩn thận bỏ vào túi, chào Thọ rồi lùi ra cửa. Thằng Tuất theo sau.
Thọ chép miệng: "Ông cụ ngồi tí nữa thì mình đói lả mất".
Thằng nhỏ bưng cơm lên. Trong khi Thọ ăn cơm, nhỏ thỉnh thoảng lại cười một mình. Thọ hỏi:
- Mày cười gì thế?
- Con buồn cười cô Bình quá.
- Sao?
- Con đem giả ảnh. Cô ấy hỏi: "Có ai xem ảnh không". Cô ấy thích chí, nói với con: "Tôi cám ơn cậu nhé!"
Nghĩ một tí, thằng nhỏ nói tiếp:
- Ông cứ viết thư cho con đem đi, chắc thế nào cô ấy cũng bằng lòng.
- Mày đừng nói láo.
Nhưng thấy thằng nhỏ láu, Thọ không nhịn được cười.