Sau một hồi bàn tới, tính lui, công việc chẳng có chút tiến triển. Bộ tứ của chiến dịch Icebreaker cùng hẹn gặp vào bữa ăn tối.
Riêng James cảm thấy khó xử. Đứng chung trận tuyến sao chẳng ai hợp rơ với ai. Ấy, cứ mãi như vầy chỉ e khó lòng phá án.
Hệt như lời nhận định của ông M trước lúc anh chàng lên đường: vấn đề có tính hai mặt khá nguy hiểm. Bốn tay tình báo nhà nghề chung vai, sát cánh nhưng hoàn toàn đối lập nhau.
Nếu như Brad chẳng lôi cái tên bá tước Konrad Von Gloda ra, liệu gã Mosolov có nhắc tới hay không? Konrad Von Gloda đúng là nhân vật nổi cộm của vụ án này. Còn nữa, hàng loạt vũ khí huỷ diệt bị chôm chỉa ở căn cứ Blue Hare, sao Mosolov chẳng thêm đá động tới? hay hắn sợ bẽ mặt? Một cường quốc vũ khí lại bị chính mớ vũ khí của mình làm cho điêu đứng. Chẳng khác nào cái chiêu “gậy ông đập lưng ông”.
Lạ thật, cô nàng Rivke không biết một chút gì. Mặt cứ đực ra khi bộ tứ xúm vào bàn phương án hành động. Một phần quan trọng của chiến dịch Icebreaker là phải lần cho ra manh mối của vụ chôm chỉa thứ hai vận chuyển qua biên giới của Nga.
Ậy, không một tín hiệu lạc quan ngay từ phút đầu tiên. Đầu chẳng xuôi, đuôi làm sao mà lọt đây? Còn Mosolov cứ nằng nặc trong vòng bốn mươi tám tiếng, phải rời khỏi đảo, thẳng hướng đến biên giới Phần Lan.
Suy nghĩ mãi, cuối cùng anh chàng quyết định. Không được, trước khi họp mặt cùng với nhóm trong khí hậu khắc nghiệt ở vùng cực Bắc, mình phải thu xếp vài chuyện. Dĩ nhiên, họ đâu có muốn 007 phỗng tay trên, hớt hết công lao. Thế nào trong bữa ăn tối, Mosolov cũng đề nghị mọi người chia ra di chuyển riêng lẻ.
Vâng, sáng chủ nhật có vài chuyến bay rời khỏi Madeira. Anh chàng cần gì phải đợi lệnh của Mosolov chứ!
Trên đường trở về phòng, James đành phải từ chối lời mời của Rivke đi làm vài “ve” ở quầy bar.
Mười lăm phút sau, anh chàng đã có mặt trên chiếc tắc xi lao nhanh về phía sân bay Funchal. Hôm ấy thứ Bảy, anh chàng lỡ mất chuyến bay lúc 3 giờ. Đành chịu vậy! Phải đợi đến chuyến cuối cùng trong ngày vào lúc 10 giờ đêm. Thứ Tư, thứ Sáu, thứ Bảy trong tuần, Funchal mới có lịch bay.
•
• •
Ễnh người trên chiếc ghế trong máy bay. Anh chàng chuẩn bị cho bước hành động kế tiếp.
Ba tay còn lại chắc sẽ tới Lisbon trong chuyến bay đầu tiên của ngày mai. Toàn mấy tay già đời, đầu chứa đầy sạn, cần gì phải lo chứ! Đi một mình thật thú vị, chẳng có ai phiền nhiễu. Thế là anh chàng đang trên đường tới Helsinki, bỏ xa cái bộ ba nằm chèo queo ở Madiera.
Ậy, vận may của James xem chừng mỏng manh. Thường thì không còn chuyến nào rời Lisbon sau chuyến bay cuối cùng từ Funchal. Nhưng ngay từ chiều, dịch vụ KLM tới Amsterdam bị hoãn lại do Hoà Lan gặp thời tiết xấu. Cuối cùng James cũng tới được phi trường Schiphol ở Amsterdam vào lúc 4 giờ sáng.
Đón chiếc tắc xi, anh chàng tới ngay sân bay quốc tế Hilton, đặt mua một vé trên chuyến bay Finnair 846 đi Helsinki vào 5 giờ 30 tối.
•
• •
Chẳng bao lâu sau, trong phòng khách sạn, James kiểm tra lại hành lý. Ngay trong chiếc cặp táp được chế tạo đặc biệt có một ngăn bí mật chứa hai con dao găm Sykes Fairbain dành cho đám đặc nhiệm và khẩu súng tự động Hecler & Koch P7. Chính cô nàng Anne Reilly với biệt danh Q dễ thương, phụ tá đắc lực của tay trưởng phòng Q đã thiết kế ra ngăn kéo này. Chấp tất cả hệ thống dò tìm X quang tại các cửa khẩu sân bay, cái màng che thừa sức cho tín hiệu âm tính.
Trước khi vào nhà tắm dội sơ mình mẩy, anh chàng gửi bức điện tín khẩn cho Erick Carlsson ở Rovaniemi đặt trước chiếc Saab. Nhấc phôn lên, anh chàng dặn nhà hàng đem bữa ăn vào lúc 11 giờ 15.
Ngả lưng trên chiếc giường, anh chàng đánh một giấc. Trong giấc mơ hình ảnh của Mosolov, Brad và Rivke cứ nhảy múa giễu cợt. Nhất là cái gã người Nga nheo nheo mắt chọc quê.
•
• •
Dùng xong bữa ăn, anh chàng bắt liên lạc với Luân Đôn. Với số phôn này, James có thể gặp trực tiếp ông M dù là sáng Chủ Nhật. Khi máy vừa tiếp sóng, anh chàng báo cáo ngay:
- Thưa bác, cháu đã trao đổi với ba khách hàng. Vụ làm ăn xem chừng lý thú đấy. Nhưng cháu không tin thứ hàng hoá của họ.
- Họ bàn bạc cụ thể với cháu?
Chà, sao giọng ông M qua cái phôn lại trẻ trung quá vậy?
- Không hề, thưa bác. Cái tên phương Đông cứ lượn lờ nước đôi. Hắn chẳng thèm đề cập tới vấn đề chính yếu chúng ta đã bàn. Còn tên ở Virginie biết tương tự như chúng ta. Sao cô nàng ở Abraham cứ mù tịt, mặt trơ ra như ngỗng đực.
- Thế à?
- Gã phương Đông định mời cháu tới xem nguồn hàng của chuyến cuối cùng. Nhưng hắn lại giấu giếm những chi tiết quan trong.
- Thì bác đã báo trước rồi còn gì?
Thoáng trong giọng nói, vẻ hớn hở vang lên rõ mồn một.
- Tối nay, cháu đi lên mạn Bắc.
- Cháu có nắm được số liệu không?
Ngay sau đó, ông M báo cho anh chàng địa điểm tập kết.
- Mà này, cháu đi bằng máy bay?
- Cả đường bộ nữa. Cháu đã đặt trước một chiếc xe. Còn một việc nữa, thưa bác.
- Chuyện gì?
- Bác có nhớ cô nàng gây chút phiền phức cho chúng ta?
- Có.
- Cả cô bạn gái có tên Anni Tudeer nữa?
Giọng ông M càu nhàu:
- Rồi sao?
- Cháu cần một tấm hình của ả để nhận dạng. Phòng khi cần dùng đến.
- Bác chẳng hiểu. Có thể rắc rối đấy.
- Vâng, cháu biết. Nhưng chuyện khá hệ trọng.
Hình như ông ta không hài lòng:
- Để bác tính lại rồi báo sau.
- Nhớ gửi cho cháu nhé!
- Ừ … bác sẽ liên lạc sau.
Gác máy ngay lập tức, rồi anh chàng ngồi thừ ra.
Ông M có vẻ lưỡng lự. Hệt như trong cuộc họp ở Luân Đôn, khi nhắc tới Rivke Ingber.
•
• •
Chuyến bay 846 trên chiếc Finnair DC-50 đi từ Amsterdam đền Helsinki đang đáp xuống phi trường vào lúc 9 giờ 45. Nhìn xuống bên dưới phủ đầy tuyết trắng, anh chàng cứ băn khoăn.
Chẳng biết ba tay còn lại đã tới Phần Lan hay chưa? So với lần trước, tuyết rơi nhiều hơn. Hai bên lề của đường băng, chồng tuyết cao quá nóc chiếc Finnair DC-50.
Khi bước nhanh về phía toà nhà của sân ga, chợt anh chàng nhớ đến lần đụng độ trước đây.
Đón chiếc tắc xi tới khách sạn Hesperia đã chọn sẵn, anh chàng khoái thầm trong bụng. Bộ ba có tới đây chắc họ sẽ kiếm anh chàng ở khách sạn Inter- Continental.
Rời khỏi tắc xi, anh chàng cứ nhìn trước, ngó sau mãi một lúc rồi mới bước vào khách sạn. Thậm chí khi đứng trước mặt cô nàng tiếp tân hỏi về chiếc Saab Turbo, James cũng xoay về hướng dễ quan sát nhất.
- Hẳn cô đã nhận được một chiếc xe hiệu Saab Turbo 900? Gửi tới theo tên James Bond?
Cau mày, mặt ả quạu đeo. Chừng như ả còn khối việc phải làm, hơi sức đâu mà đi kiểm tra xe cho mấy tay khách ngoại quốc kia chứ?
Rồi anh chàng lấy một phòng, đưa tiền trước một đêm. Nếu chiếc Saab tới kịp lúc, anh chàng lên đường ngay lập tức. Từ Helsinki tới Rovaniemi, mất ít nhất cũng hai mươi bốn tiếng. Đường sá cũng không đến nỗi nào. Erick Carlsson đã báo cụ thể rồi còn gì.
Cố chờ cô ả mặt nhăn như khỉ ăn ớt, anh chàng dõi mắt ra phía ngoài.
Vài phút sau, không thèm thốt ra một lời, ả tiếp tân vẫy vẫy chùm chìa khoá.
Ngả lưng xuống giường, anh chàng nằm nghỉ trưa. Một tiếng sau, nhổm người dậy, James chuẩn bị đồ đạc.
Mặc bộ đồ thể thao bên ngoài, tròng chiếc áo lạnh cổ cao, quần trượt tuyết bằng nỉ, mang đôi giày Muklul, anh chàng đeo túi da đựng khẩu Hecker & Koch P7 rồi khoác thêm bộ vest dày.
Sửa lại túi da cho nó nằm ngay ngực xong, anh chàng lấy khẩu H&K ra tháo ổ đạn, xoay nhiều lần rồi nạp đạn trở lại. Xem chừng mọi thứ đã ổn, anh chàng bắt máy phôn cho Paula Vacker.
Chuông đổ liên hồi nhưng không có ai trả lời. Buồn năm phút! Sắp lên đường rồi lại không có dị từ giã cô nàng, xem có ấm ức không chứ?
Đội chiếc mũ len Damart, đeo cặp găng cách nhiệt, bỏ vào túi cặp kính, anh chàng quấn thêm chiếc khăn quàng cổ. Ăn mặc kiểu này mới chống chọi được cái lạnh dưới 0 độ suốt hai mươi bốn giờ trên chiếc Saab.
Cuối cùng, nhấc phôn lên báo trả phòng, anh chàng đi một nước ra bãi đậu xe. Bước tới chiếc Saab Turbo 900, James kiểm tra các thiết bị. Vừa ý, anh chàng mở cửa, ngồi xuống sau vô lăng. Chồm người qua mở cái ngăn bí mật, anh chàng thấy cả chồng bản đồ, mấy cặp ruột, một khẩu Ruger Super Redhwk 44 ly. Với khẩu này, James thừa sức quật ngả một chiếc xe cố tính chặn đường. Còn thằng ma nào nhào ra xin tiền mãi lộ ấy à? Đồ bỏ!
Chưa hết, nhấn mạnh vào một cái nút trông bình thường trên bảng điều khiển, một ngăn kéo lồi ra để lộ sáu quả “lựu đạn đa năng” có hình quả trứng. Ngay phần duôi của mỗi quả “lựu đạn” là bốn quả bom nhỏ L2A2, có tầm sát thương rộng. Thứ vũ khí này là trang bị quy ước dành cho Không Lực Hoàng Gia, bắt nguồn từ loại M26 của Hoa Kỳ.
Mở tiếp cái ngăn đựng găng tay, anh chàng thấy mấy cây compa cùng với bức thư của Erick.
Chúc cậu may mắn. Nhớ cái chiêu mình từng dạy cậu “nhấn chân trái” nhé! Erick.
Mỉm cười, chợt James mường tượng ra mấy giờ tập luyện với cái chiêu “nhấn chân trái” để đảo vòng, kiểm soát chiếc Saab trên lớp băng dày.
Bước vòng quanh, anh chàng đưa tay sờ thử mấy bánh xe. Khoảng một ngàn cây số đường trường mới tới được Salla giữa mùa đông chẳng phải là chuyến đi thú vị.
Vâng, trước khi khởi hành, anh chàng còn chút chuyện riêng tư phải làm.
Nổ máy, cho chiếc Saab hướng ra đường cái, James quẹo xuống Mannerheimintie, xuôi về phía công viên Esplanade. Vẫn còn đó những bức tượng tuyết nằm ngổn ngang. Cặp “trai gái ôm nhau” cứ sừng sững ra đó.
Khóa chiếc xe lại, anh chàng nghe văng vẳng trong màn sương, từ phía xa của thành phố, tiếng rên rỉ của con thú bị thương.
Cánh cửa của Paula vẫn khép chặt nhưng James linh cảm có một điều gì đó. Vâng, cái giác quan thứ sáu được trui rèn qua lửa đạn chưa bao giờ nhầm lẫn. Tháo hai nút của chiếc áo ngực, anh chàng rút khẩu H&K rồi dùng mũi giày Mukluk đạp mạnh cửa.
Chỉ trong tích tắc, cánh cửa bung ra, đong đưa quanh bản lề. Quái, cả cái khoá và sợi dây xích cũng bị rời ra. Không còn nghi ngờ gì nữa, một cuộc đột nhập bạo lực từng xảy ra ở chỗ này.
Nép sang một bên, nín thở, anh chàng nghe ngóng.
Không chút động tĩnh trong căn hộ của Paula. Mấy dãy phòng gần đấy cũng thế.
Từng bước rồi từng bước, anh chàng nhẹ nhàng nhích người vào trong.
Ái chà, cả một đống hỗn độn. Đồ đạc liệng khắp nơi.
Chĩa thẳng khẩu P7, anh chàng nhón từng bước chân vào phòng ngủ. Hệt như ngoài kia, tất cả bị xóc tung lên. mấy ngăn kéo bị nạy bằng dao, nằm lăn lóc trên sàn.
Từ trước tới sau, từ trong ra ngoài lại không thấy bóng dáng của Paula. Chẳng lẽ cô nàng bị bắt cóc? Hay chỉ là một vụ trộm? Nhà cô ta có gì quý giá kia chứ?
Kiểm tra các căn phòng lần nữa, James thấy có vài điểm nghi vấn. Ngay từ lúc bước vào, đèn đuốc vẫn còn để sáng trưng.
Rồi trên bàn trang điểm trống trải khi số kem trang điểm bị gạt sạch xuống sàn, hình như có một vật gì. Cẩn thận, anh chàng nhặt nó lên, quan sát, để lên tay ướm thử nặng nhẹ.
Ồ, không ngờ. Một chiếc mề đay hình chữ thập của giới quý tộc Đức với hai màu trắng đen và chiếc nơ đỏ trên nền mấy chiếc lá sồi cùng với hai thanh gươm bắt chéo nhau.
Vâng, đây là một huy hiệu cao quý của chế độ hoang tưởng, ngu xuẩn từng làm mưa, làm gió trên vũ đái chính trị thế giới. Ở mặt sau, hiện lên một hàng chữ được chạm khắc tinh vi: SĨ QUAN TÌNH BÁO CAO CẤP SS AARNE TUDEER 1944.
Bỏ chiếc mề đay vào túi, anh chàng định bước ra ngoài. Hình như chân của James đá phải vật gì đó bằng kim loại.
Cúi sát người xuống, đưa tay mò mẫm một lúc, anh chàng nhìn thấy chút ánh sáng mờ nhạt nằm sát chân bàn. Lại một tấm huy hiệu khác cũng của Đức, bằng đồng sẫm màu với hình con đại bàng và tấm bản đồ của vùng đất Cực Bắc giữa Nga-Phần Lan. Dòng chữ LAPPLAND 1943 hiện ra ở rìa ngoài cùng.
Cho vào túi, anh chàng rảo bước về phía của cái. Dù đồ đạc ngổn ngang nhưng James không thấy một vết máu vương vãi.
Cứ lo thầm trong bụng, chẳng biết Paula giờ ra sao nữa?
Mở cửa xe, bật công tắc, James nổ máy rời khỏi công viên Esplanade, hướng ngược lên Manneerheimintie, rẽ vào xa lộ cao tốc số 5. Lao nhanh qua các thành phố Lahti, Mikkeli, Varkaus, tiến sâu vào vùng đất Lappand, Bắc Cực, Kuusamo, Salla rồi dừng lại ở khách sạn Revontuli, nơi hẹn gặp với bộ ba trong chiến dịch Icebreaker.
Lúc rời khỏi căn hộ 3A, trời trở lạnh. Cả Helsinki như chìm trong cơn mưa tuyết. Ra tới đường trường, anh chàng chỉ tập trung vào hướng đi trước mặt. Sau hai lần ngừng lại đổ xăng và dùng chút lót dạ, khoảng 4 giờ chiều, anh chàng chỉ còn cách Suomussalmi bốn mươi cây số. Vài giờ nữa là tới vùng biên giới của Phần Lan và Nga, ở vùng cực Bắc.
Thỉnh thoảng, chiếc Saab vượt qua những khoảng đường trải thẳng phủ đầy băng. Dọc đường, hiện ra những cộng đồng dân cư nhỏ với cuộc sống hàng ngày, đèn đuốc sáng trưng ở các cửa hiệu. Rồi những dáng người lóng ngóng, vụng về bước đi trên vỉa hè, đám phụ nữ kéo theo mấy chiếc xe trượt tuyết nhỏ bằng nhựa chở hàng tạp phẩm mua ở các siêu thị nhỏ trong vùng.
Ra vùng ngoại ô, dường như chẳng còn gì khác ngoài hàng cây phủ đầy tuyết nối tiếp nhau chừng như vô tận. Lắm lúc, vài chiếc xe tải chở đầy gỗ, dăm ba chiếc ô tô lái theo hướng ngược lại.
Cơn mệt mỏi cứ chập chờn như ẩn, như hiện khắp người anh chàng. Thỉnh thoảng, James tấp xe vào lề, mở cửa cho không khí lạnh ùa vào, ngồi nghỉ vài phút. Đôi khi, anh chàng phải bóc mấy viên kẹo ngậm cho đỡ buồn ngủ.
Cũng may, chiếc ghế trên chiếc Saab thật dễ chịu có thể xoay trợ dễ dàng, làm giảm bớt căng thẳng khi tập trung lái.
Sau mười bảy giờ chạy, James thấy mình còn cách khoảng ba chục cây số với giao lộ giữa xa lộ số 5 và ngã rẽ dân tới vùng cực Đông, con đường chạy trực tiếp về theo trục Đông-Tây giữa Rovaniemi và vùng biên giới của Salla. Ngã rẽ chỉ cách một trăm năm mươi cây số về hướng Đông của Rovaniemi và bốn mươi cây về hướng Tây của Salla.
Thấp thoáng trong ánh đèn pha, cảnh vật trông thật buồn chán. Từng đụn tuyết to hai bên lề cho khuất đường chân trời. Rời những cánh rừng dày rặt một màu trắng xoá, đột nhiên chuyển thành nâu, lốm đốm vài ba chỗ xanh xanh.
Thỉnh thoảng, hiện ra vài túp lều làm bằng cột gỗ và da thú gọi là kota của người Lapp. Hệt như mấy chiếc lều của dân da đỏ Bắc Mỹ. Đây đó vài căn nhà bằng gỗ xiêu vẹo, đổ nát.
Cố thả lỏng người, anh chàng điều chỉnh vô lăng cho đúng hướng, tinh thần vẫn tập trung cao độ.
Giờ đây, anh ta đang lái chiếc xe bon bon trên một khoảng đường trải rộng. Chung quanh chẳng có gì ngoài ngã rẽ cách chừng mười cây số trước mặt.
Hình như có vật gì phía trước?
Bật nút đèn pha xuống rồi bật lên trở lại, anh chàng muốn nhìn thấy rõ phía trước.
Trong vùng sáng lấp lánh, bóng dáng của một chiếc xe ủi tuyết màu vàng xuất hiện. Đèn trước của nó đang bật sáng. Còn cái càng xúc to như tàu chiến.
Không phải là chiếc xe thổi tuyết hiện đại nhưng nó lá một con quái vật khổng lồ. Thoáng trông, anh chàng cảm thấy chột dạ. Loại xe ủi tuyết người ta dùng chủ yếu ở vùng đất này thường thân xe cao với một cái cabin nhỏ bằng kính dày nằm trên cùng. Thân xe di chuyển trên sợi xích to giống như mấy chiếc xe tăng tự vận hành trong khi cái càng xúc nằm ngay phía trước được vận hành nhờ vào chuỗi pit tông thuỷ lực có thể thay đổi góc độ và chiều cao trong vòng vài giây. Còn mấy cái lưỡi cày nữa, chúng hình vòng cung, bằng thép, cao khoảng bốn thước rưỡi, cuộn tròn từ phía mép cắt để cho tuyết và băng có thể đẩy về mỗi phía. Dù có hơi cồng kềnh, nhưng mấy cái xe này hoạt động chẳng khác nào những chiếc xe tăng. Mùa đông có khắc nghiệt tới đâu, chúng vẫn có thể chạy ào ào trên tuyết.
Ấy, trong cuộc chiến với băng giá, từ lâu người Phần Lan đã chiếm lĩnh ưu thế trên trục lộ giao thông. Lúc nào cũng vậy, đằng sau chúng thường là mấy xe thổi tuyết để làm sạch con đường vừa mới nạo vét. Với lại chúng có mặt ở đâu, bão tuyết hẳn đã quét qua nơi ấy, chặn hết lối đi.
Nhìn vào kính chiếu hậu, anh chàng thấy đằng sau lưng sáng trưng. Vâng, một chiếc xe xúc khác hiện ra, Hình như ngay cua quẹo anh chàng vừa mới vượt qua ban nãy.
Đột nhiên, chiếc trước mặt đang từ từ lấn chiếm phần chính giữa con đường. Chiếc đằng sau cũng vậy. Bọn chúng muốn gì đây? Định ép mình ư?
Ngay lập tức, quay hết vô lăng về phải, anh chàng đạp mạnh chân trái lên cái thắng.
Chiếc Saab soay một vòng điệu nghệ. Chiếc xe đằng sau dường như sát hơn. Liệu mình có vượt qua trước khi bọn này tiến gần?
Không được rồi! Hai chiếc trước sau đều tăng tốc dần. Nếu không tới ngã rẽ kịp lúc, nghĩa là chẳng còn con đường nào thoát. Không đụng phải chúng, anh chàng sẽ cùng chiếc Saab bị chôn sâu vào tuyết, hết đường cục cựa. Cũng dám bọn chúng kẹp sát hai đầu, rồi dùng mấy cái càng to tướng đè bẹp mình ra.
Chẳng chút chần chừ, thả lỏng một tay ra khỏi vô lăng, anh chàng bấm vào hai nút trên bảng điều khiển.
Xè xè xè xè …
Một tiếng động nho nhỏ vang lên khi hệ thống thuỷ lực để lộ hai khoang bí mật. Giờ đây những quả lựu đạn và khẩu Ruger Super Redhawk hiện ra trong tầm với.
Chỉ còn chút líu nữa là tới ngã rẽ phía trước. Màu vàng của chiếc xe xúc đằng trước cứ như trêu, như ghẹo anh chàng. Vâng chỉ còn khoảng hai mươi thước. Già vờ quẹo phải, anh chàng thấy chiếc xe xúc chạy rầm rầm tới định cắt
chiếc Saab. Quay tiếp vô lăng về phía phải, anh chàng đạp mạnh lên cái thắng, tăng tốc độ vòng quay, giậm chân ga.
Hệt như diễn viên múa ba lê, chiếc Saab xoay tròn.
Bỏ thắng và chân ga cùng một lúc ngay khi chiếc xe đang quay, James trả vô lăng và tăng tốc từ từ. Chiếc Saab giờ nằm dọc theo hướng đối diện với con đường.
Điều chỉnh … Trượt.
Điều chỉnh … Chân ga đạp mạnh …
Ngay lúc này lưỡi cày của một chiếc đang ở bên phải của anh chàng. Chộp lấy quả lựu đạn, dùng răng rút chốt quả L2A2, đẩy nhanh cửa hông, anh chàng ném về phía sau.
Ồ, đuôi chiếc Saab xước phải cái lưỡi thép bén ngót của chiếc xe xúc. Cũng còn may, không giữ chặt vô lăng, cú va chạm có thể ném anh chàng ra khỏi đường chạy, lăn nhào trong đống tuyết cao bên đường. Rồi chiếc Saab lấy lại thăng bằng.
BÙUUUUUNG …
Quả L2A2 nổ giòn giã.
Quá đã! Một bông hoa đỏ bốc cao hất tung một chiếc xe xúc. Vâng, một chiếc bị loại khỏi vòng chiến nhưng nguy hiểm vẫn còn theo sát.
Giờ chẳng còn chỗ nào để núp. Không nơi nào để chạy. Đành phải liều mạng với bọn chết bầm này thôi!
Một chiếc khác tiếp tục đuổi theo ngay khi con đường thông thoáng. Rồi ngay phía trước, chiếc thứ ba xuất hiện. Tuyết tràn ra đầy càng xúc của nó. Chẳng lẽ cả một đoàn xe xúc tính chơi lén mình?
Không còn thì giờ suy nghĩ, chộp lấy khẩu Redhawk, bỏ đại vào túi hai quả L2A2, tông cửa, anh chàng phóng ra ngoài. Rút chốt một quả lựu đạn, James quăng về chiếc xe xúc đang tiến lại gần.
Dồn sức vào đôi chân, anh chàng phóng người vào đụn tuyết cao bên trái. Tuyết mềm mịn như bột làm anh chàng chìm ngang thắt lưng.
BÙUUUUUNG …
Cú nổ quật ngã tiếp một con quái thú màu vàng bằng sắt. Thật tuyệt!
Một chiếc khác tiến lại gần hơn với hai tên đang ngồi trên cabin. Lưỡi cày của nó quơ quơ định cắt “Con Thú Bạc” làm đôi.
Tay trái vẫn nắm chặt lấy quả lựu đạn, tay phải nâng cao, James nã dạn.
Cắc cắc bùng Cắc cắc bung Cắc cắc bùng …
Loạt thứ hai làm vỡ toang phần kính cabin của chiếc xe xúc. James lại nhắm cao hơn. Anh chàng nào muốn giết người nhưng tới đường cùng, biết làm thế nào bây giờ?
Cửa xe mở ra, một tên bắt đầu leo xuống. Chuyển khẩu Redhawk sang tay trái, tay phải của anh chàng với quả lựu đạn. Rút chốt, nhón chân, James rót quả L2A2 theo hình cầu vồng về phía cửa kính bị vỡ. Lao vút trong không trung, quả lựu đạn rơi thẳng vào cabin.
BÙUUUUUNG …
Ánh lửa loé sáng cùng với tiếng rống khủng khiếp vang lên.
AAAAAAHH …
Một phút sau đó, giơ cây súng cao lên, James cuộn người lăn khỏi đụn tuyết rối lao nhanh về chiếc xe xúc.
Tên cố nhảy ra ngoài ban nãy giờ nằm bất tĩnh. Trên ghế tài xế, một tên khác đưa hai tay che lấy mặt, lắc người như điên dại. Nhấc người lên cabin, dùng cái báng súng, anh chàng đập mạnh vào gáy của hắn.
Bụp …
Quặt người đi, gã té úp xuống sàn. Kéo cái xác xuống, anh chàng lôi về một phía. Máy của chiếc xe xúc đang chạy không tải.
Trở lại cabin, James gạt cần số, rồ ga, đưa chiếc xe ra khỏi đường. Tắt máy, giật lấy chìa khoá rồi ném qua đụn tuyết gần đó, trở lại chiếc Saab, anh chàng mở máy sấy khô, trả khẩu Redhawk và mấy quả lựu đạn vào ngăn, nhấn ga, vọt lẹ về hướng Salla.
Vâng, mất đúng ba tiếng chạy ngoằn ngoèo, vòng tới vòng lui trước, lúc 12 giờ 10, James cuối cùng cũng nhìn thấy ánh đèn chói loà của khách sạn Revontuli. Sau cua quẹo phải, James đậu xe lại.
Mở hệ thống định vị, vặn thiết bị khoá, bỏ cặp kính vào đúng chỗ, choàng khăn quàng cổ qua mặt, lấy cái cặp táp, túi xách đựng quần áo, anh chàng đẩy cửa bước ra ngoài. Ngay phòng chờ to với quầy bar, người ta cười cười, nói nói rôm rã.
Lững thững về phía quầy tiếp tân, bỗng anh chàng nghe một giọng quen thuộc chào:
- Chào James. Cậu tới đây bằng gì vậy? Trượt tuyết à?
Tưởng ai, hoá ra cái gã CIA, Brad Tirpitz.
Gật đầu, gỡ mắt kính, tháo cái khăn quàng cổ ra, anh chàng đáp lại thản nhiên:
- Hình như thế đấy!
Bước tới quầy tiếp tân làm thủ tục nhận phòng, anh chàng đảo mắt nhìn quanh. Còn hai người nữa trong bộ tứ đầu thừa, đuôi thẹo đâu, chẳng thấy? Mệt quá, anh chàng cần nghỉ ngơi. Chuyện gì cứ để sang mai hãy tính.
Vừa hướng về phía thang máy, James nghe cô gái trực ở bàn tiếp tân báo có một bưu phẩm khẩn cấp gửi qua đường máy bay.
Khi gã hầu phòng mang hành lý bước khỏi cửa, anh chàng mở phong bì ra. Bên trong là một tấm giấy nhỏ chính tay ông M viết với một bức hình.
Một bức duy nhất về đối tượng. Xem xong huỷ nó ngay.
Ngồi xuống giường và cầm tấm ảnh lên, bất chợt đôi mắt của anh chàng hoa lên. Cơ bắp như săn cứng lại. Không thể ngờ nổi!
Anni Tudeer, bạn của Paula, con gái của tay sĩ quan SS người Phần Lan nằm trong danh sách truy nã vì tội phạm chiến tranh lại chính là Rivke Ingber, đồng sự của anh chàng.
Sau vài phút ngẩn người ra, anh chàng lẳng lặng thò tay lấy cái hộp quẹt to trên bàn, rút một diêm, quẹt rồi đốt ngay cả tờ giấy và bức hình.
Đã nhiều năm qua, dù có căng thẳng tới đâu, James vẫn có thói quen chợp mắt là ngủ ngay. Nhét tất cả mấy thứ hóc búa vào trong đầu rồi cứ mặc cho tiềm thức làm việc. Chừng thức dậy, lắm lúc còn nghĩ ra được vài độc chiêu nữa là.
Sau “chuyến đi dài quá cỡ thợ mộc” từ Helsinki tới đây, cơ bắp mệt mỏi, đầu nhức như búa bổ, người chẳng còn chút sinh lực. Chuyện gì ấy à, thôi để sáng mai rồi tính.
Chợt căn hộ 3A bừa bãi còn hơn đống rác thoáng hiện trước mặt James. Quái, không tìm thấy dấu vết của Paula? Cô nàng giờ thế nào rồi? Còn cái vụ tấn công trên đường nữa. Thật là khó nghĩ! Mình im lìm rời khỏi Madeira ngay trong đêm, bước thấp, bước cao mua một vé từ Amsterdam tới Helsinki. Sao bọn chúng biết được? Không lẽ chúng canh me mình ngay ở sân bay? Rồi âm thầm bám cho tới tận Salla?
Một sự thật hiển nhiên thoáng nhìn cũng biết. Một đám núp trong bóng tối cố tình loại 007 ra khỏi cuộc chơi, hệt như trận đấu dao lén lút lần trước.
Clifford cứ một mực nghi ngờ Mosolov. Nhưng James không nghĩ thế. Chính cô ả Rivke Ingber, con gái của tên trùm SS Aarne Tudder mới là kẻ đáng nghi.
Tắm rửa xong, bước sang phòng ngủ, anh chàng đặt lưng xuống giường. Hơi xót ruột nhưng mặc kệ. Nhịn chút xíu sáng mai ăn bù cũng không sao.
Ấy, vừa mới thiếp đi chưa đầy năm phút, anh chàng nghe có tiếng động nhỏ. Mở to đôi mắt, tai của James lắng nghe tiếng cào nhẹ trên cánh cửa. Nhẹ nhàng, rút ngay khẩu P7 đặt dưới gối, anh chàng bước nhanh qua căn phòng.
Nép người về phía trái, lưng tựa sát vào tường, James lên tiếng:
- Ai đấy?
- Anh James, Rivke đây nè. Em muốn nói chuyện với anh. Cho em vào với.
Thế là rõ rồi. Nếu Rivke là con gái của Aarne Tudeer, hẳn cô ả là thành viên của cái gọi là Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã. Có lẽ trọn quãng đời trưởng thành của cô ả gắn liền với cuộc đào tẩu của lão ta. Ba mươi năm trốn chui, trốn nhủi, tận cùng trời cuối đất. Giấu kín thân phận, ả trà trộn vào hàng ngủ tình báo của Mossad, làm gián điệp nhị trùng. Gớm, một con ả theo chủ nghĩa Phát Xít Mới đang quậy tưng đất nước Xô Viết lên. Hình như đánh hơi biết Luân Đôn tìm ra chân tướng, ả định giở trò thương lượng.
Còn hai gã CIA và KGB cứ như ngỗng đực. Sống sát bên kẻ địch mà cứ tưởng là chiến hữu. Nghe tiếng đồn đã lâu, giờ đụng chuyện mới biết. Phát chán! Sao cái bộ ba của chiến dịch Icebreaker toàn thứ đầu thừa, đuôi thẹo. Kiểu này đếm đầu người cho đông để báo thành tích, chứ phá án gì nổi.
Liếc nhanh vào chiếc Rolex trên tay, anh chàng thấy đã 4 giờ 30 sáng. Ả Rivke mặt mày kháu quá sao lại chọn nhầm thời điểm. Vào giờ này, sức đâu mà ngồi tâm với sự?
- Chờ chút.
Vừa nói xong, anh chàng bước vào bên trong khoác chiếc áo ngủ vào rồi đặt khẩu H&K xuống dưới gối.
Chừng cánh cửa mở ra, Rivke bước vào bên trong với thân hình kiều diễm cứ lồ lộ sau lớp áo ngủ mỏng tang. Ăn mặc kiểu này chắc cô ả không thể giấu súng.
Chà, cô ả định chơi cái màn mỹ nhân kế hay sao ấy? Từng đường cong tuyệt mỹ trên nước da sạm nắng như ẩn, như hiện. mái tóc vàng óng ả phủ dài qua bờ vai tròn lẳng. Nhưng thoáng trong ánh mắt, có đôi chút sợ sệt.
Chờ cho cô nàng bước hẳn vào bên trong, James đưa tay khoá trái cửa. Với giọng trầm tĩnh, anh chàng hỏi nhỏ:
- Cô tới đây hồi nào thế? Tôi chẳng biết gì.
- Em có thể ngồi xuống? Em rất tiếc ..
Chỉ ngay một cái ghế, anh chàng tỉnh bơ:
- Cứ tự nhiên đi. Cô muốn uống gì không?
Khẽ lắc đầu, cô ả nhìn khắp phòng, ánh mắt lạc hẳn đi:
- Thật là ngu xuẩn …
- Cô định kể chuyện gì?
Gật đầu, cô nàng tiếp tục:
- Này anh James, đối với đàn ông em lúc nào cũng tế nhị. Nhưng mà cái tay Brad …
Im lặng vài phút rồi cô ả như gào lên:
- Hình như em đã lầm. Lẽ ra em phải thật bình tĩnh mới phải. Nhưng …
- Cô không thể chiều chuộng Brad a?
Mỉm cười chua chát trước câu nói mỉa mai của anh chàng, cô nàng nói tiếp:
- Hắn chẳng biết chút gì về phụ nữ.
Rồi gương mặt đanh lại, nụ cười tắt nửa chừng:
- Hắn làm em quá thất vọng. Hắn định dùng bạo lực đột nhập vào phòng của em. Người đầy mùi rượu.
- Sao cô không đá hắn một cái?
- Hắn khiếp lắm, anh James à.
Bước tới cái bàn sát bên giường, anh chàng lấy hộp thuốc lá, mời Rivke một điếu.
Rít một hơi thật sâu, cô ả phà ra làn khói nghi ngút. Ngồi xuống mép giường đối diện, anh chàng nhìn thẳng vào gương mặt Rivke cố tìm chút sự thật.
- Chà, Brad vậy mà mất nết gớm?
Đột nhiên, giọng của Rivke căng thẳng.
- Em biết chớ … nhưng em không thể ở trong phòng một mình … Chắc anh cũng chẳng ngờ phải không James?
- Này Rivke cô là một điệp viên chuyên nghiệp mà. Nào phải típ mấy ả tiểu thư khoái đàn ông chiều chuộng đâu chứ?
Rivke đứng dậy. Trong giây phút, cơn giận dữ trên gương mặt cô ả bỗng hoá thành vẻ bối rối.
- Xin lỗi đã làm phiền anh … Em chỉ muốn tìm người tâm sự. Còn hai cái gã kia, đồng đội quái gì kia chứ?
Đặt một tay lên vai Rivke, anh chàng khẽ đẫy cô ả ngồi xuống.
- Bình tĩnh nào, cô em. Đừng tưởng tôi là một tên khùng chẳng biết gì. Cô thừa sức xử lý Brad mà, đúng không? Dù hắn có tỉnh hay say cũng vậy. Chỉ cần liếc mắt một cái …
Chớp chớp mắt, Rivke đáp lại, giọng thì thầm:
- Không hẳn thế đâu, anh James.
Ôi, cái mánh khoé cũ rích nơi vườn địa đàng, mấy ngàn năm trước Eva từng dụ dỗ Adam. Giờ cô ả định diễn lại hay sao ấy?
Ngay giữa đêm khuya, một cô nàng xinh đẹp hớt ha, hớt hải gõ cửa phòng bạn, nhờ ra tay cứu giúp, dù cô ta thừa sức tự bảo vệ mình. Chuyện cứ y như đùa. Mới nghe qua ai cũng cười ồ. Không biết cô ả nghĩ sao về 007 chứ? Một tên háo sắc ư? Thấy gái là quên hết mọi chuyện?
Rít một hơi thật sâu rồi anh chàng phà ra. Lẫn trong làn khói bốc cao, nét mặt của anh chàng lộ vẻ đăm chiêu. Chưa tìm, tự dưng cô ả dẫn xác tới đây. Nếu thế, mình cũng nên giở lá bài tẩy.
- Này Rivke, cách đây hai tuần gì đó, cô đã làm gì khi Paula báo cho cô biết tôi ở Helsinki?
Ánh mắt bối rối, giọng cô ả như lạc hẳn:
- Paula? Em không hiểu, anh James.
Chồm người qua, anh chàng nắm lấy tay cô ả:
- Này Rivke, đừng tưởng tôi không rõ chuyện của cô đấy nhé. Đối dịch với nhau, thật tình tôi chẳng muốn.
Khẽ cau mày, cô ả đáp lại ngay:
- Dĩ nhiên, em là Rivke Ingber, một công dân của Israel, nhân viên của Mossad.
- Cô không biết Paula Vacker?
Không chút ngập ngừng, cô ả đáp lại:
- Vâng, em từng gặp cô ta. Em biết cô ta khá lâu. Nhưng cũng ba bốn năm gì đó, bọn em chưa gặp lại …
Giọng của anh chàng chợt thoáng vẻ khinh khỉnh:
- Dạo gần đây hai người không liên lạc với nhau? Không cùng làm việc với cô ta ở Helsinki? Chẳng có hẹn ăn tối trước khi cô tới Madeira nhưng Paula bận việc chẳng đến được?
- Không hề.
- Thậm chí cái tên Anni Tudeer cũng không?
Hít một hơi thật sâu, Rivke im lặng. Gương mặt bẽn lẽn, cô ả đáp lại:
- Em đã muốn quên cái tên ấy từ lâu …
- Thế ư?
Rồi cô ả chìa tay về phía anh chàng.
- Này anh James, cho em xin điếu thuốc. Rít thật sâu, Rivke nhả khói từ từ qua khoé miệng. Giọng lạnh lùng nhưng không thiếu vẻ thân thiện, gợi cảm.
- Hình như chuyện gì anh cũng biết. Tới nước này, em đành khai thiệt vậy.
Nhún vai, anh chàng cứ nói ỡm ờ:
- Khi đến căn hộ của Paula ở Helsinki, tôi đụng phải hai thằng sát thủ chơi dao đang uy hiếp cô ấy.
- Đã lâu rồi bọn em chưa nói chuyện với nhau. Ngoài cái tên Anni Tudeer, con gái của một cựu sĩ quan SS, anh còn biết gì nữa?
- Không nhiều lắm.
Khẽ gật đầu, gương mặt ả căng thẳng.
- Vâng, thế em sẽ kể cho anh nghe câu chuyện của đời em. Sau đó, chúng ta cùng tình xem việc gì đã xảy đến cho Paula. Chính em cũng muốn biết tại sao Paula lại dính vào vụ này.
- Căn hộ của Paula đã bị xóc tung lên. Trước khi rời khỏi Helsinki vào ngày hôm qua, tôi có đến đó. Mà còn một chuyện nữa, trên đường tới đây, tôi lại chạm trán với ba, bốn chiếc xe xúc tuyết. Bọn chúng tính cắt chiếc Saab và tôi thành từng lát mỏng. Có thằng ma nào đó chẳng thích tôi có mặt ở đây. Thế tôi gọi cô là gì nào? Anni Tudeer hay là Rivke Ingber?
Cau mày, cô ả đáp lại:
- Bố tôi là Aarne Tudeer. Anh biết ông ta chứ?
- Vâng, lão ấy là nhân viên của Manneerheimintie rồi trở thành sĩ quan SS. Độc ác, hung tợn, mất nhân tính, tên tội phạm chiến tranh đang bị truy nã.
Gật đầu, giọng cô ả thì thầm:
- Những chuyện trước đó, em không hề biết, mãi cho đến năm mười hai tuổi … Như anh biết đó, vào lúc ấy vẫn còn nhiều người trung thành với Đức Quốc xã. Khi rời khỏi Phần Lan cùng với một số chiến hữu, bố em mang theo một thiếu phụ goá bụa, chủ nhân của khu đất rộng bao gồm nhiều cánh rừng ở Lappland. Đấy là mẹ em. Bà ta tin tưởng, tôn thờ bố em. Bà ta còn cảm thấy rất vinh dự nữa là …
Rivke lắc lắc đầu như thể không lý giải nổi hành động cuồng tín của mẹ cô.
- Rồi hai người kết hôn. Bà ta luôn bên cạnh ông ấy cho tới khi Đệ Tam Quốc xã bị sụp đổ. Rồi họ cùng nhau tẩu thoát đến Paraguay. Dĩ nhiên, em chẳng rõ điều gì cho tới khi em có thể nói được bốn thứ tiếng: Phần Lan, Tây Ban Nha, Anh và Đức. Gia đình em sống ở một khu đất trong rừng. Nơi ấy hoàn toàn thoải mái nhưng bố em cứ luôn nhớ về quá khứ.
Từng chút, rồi từng chút một, hình ảnh một lão già chuyên quyền, độc đoán, nghiện rượu, hung dữ, tàn bạo hiện trước mắt của anh chàng.
- Lúc em lên mười, mẹ em cùng em bỏ trốn khỏi nơi ấy. Giả dạng thành những thổ dân da đỏ, hai mẹ con em bơi xuồng vượt qua cánh rừng đến Asunción. Khi đó, mẹ em rất đau buồn. Không biết bằng cách nào, mẹ em cũng xoay xở được hộ chiếu Thụy Điển. Mua vé máy bay, hai mẹ con em tới ở Stockholm sáu tháng. Rồi mỗi ngày, mẹ em cứ đến đại sứ quán Phần Lan cố xin cho được hộ chiếu Phần Lan. Cuối cùng hai mẹ con em cũng đến Helsinki. Sống bằng tiền bồi hoàn gia sản ở Lappland, mẹ em làm thủ tục ly dị.
Còn em bắt đầu tới trường học. Ở đấy em quen được Paula. Chẳng bao lâu sau, chúng em trở thành bạn thân. Chỉ có thế.
Khẽ cau mày, anh chàng nhắc lại:
- Chỉ có thế?
- Phần còn lại cũng chẳng có gì. Ấy, vào năm mười bốn tuổi, em mới rõ mọi chuyện về bố em. Thật đáng ghê tởm. Bán rẻ tổ quốc rồi biến thành tay sai cho Phát xít Đức. Vâng, nỗi ám ảnh ấy cứ xâm chiếm tâm hồn em. Năm mười lăm tuổi, em biết nên làm điều gì.
Có thể câu chuyện của cô ả có đôi chút sự thật. Nhưng chi tiết lại không nhiều, có phần mơ hồ. Cái nghề tình báo chuyên nghiệp khiến cô ả biết lựa lời mà nói.
- Rồi cô định trả thù?
- Đại loại là như thế. Nhưng không thể nói như vậy. Thật ra, bố em chẳng có dính dáng gì với quyết định cuối cùng của Himmler về vần đề người Do Thái, dù ông ta bị liệt vào sáu tội diệt chủng. Em muốn tìm hiểu dân tộc từng mất sáu triệu người trong phòng hơi độc và trại tập trung. Mọi người cứ bảo em quá khích. Không hề, em muốn tìm ra sự thật.
- Rồi cô trở thành dân Do Thái.
- Vừa tròn hai mươi, em có mặt ở Israel. Hai năm sau đó, mẹ em qua đời. Hôm rời khỏi Helsinki cũng là lần cuối cùng hai mẹ con gặp nhau. Trong vòng sáu tháng, em bắt đầu chuyển hướng. Giờ đây em đúng là một người Do Thái rặt từ tư tưởng cho tới phong cách. Khi em muốn tham gia vào quân đội, người ta cứ lần lữa từ chối. Nhưng cuối cùng, họ đành chấp nhận.
Nở nụ cười đầy vẻ tự hào, Rivke nói tiếp:
- Đích thân Zamir phỏng vấn em. Em không ngờ đấy. Em lại được tiếp xúc với đại tá Zwicka Zamir, Cục trưởng Cục tình báo Mossad. Rồi ông ta sắp xếp cho em tham gia vào đợt tập huấn đặc biệt vì quốc gia Israel. Em có một cái tên mới…
- Còn cái vụ trả thù, Rivke?
Đôi mắt cô ta tròn xoe, gương mặt nhăn nhó:
- Vụ trả thù nào? Anh không tin em?
Anh chàng đang đối mặt với câu hỏi hóc búa. Rivke trung thực? Còn nếu không, cô ta quả là một kịch sĩ tuyệt vời nhất từ trước tới giờ 007 từng gặp.
Lại thêm một vấn đề nan giải. Còn mối quan hệ của anh chàng và Paula thì sao? Từ trước tới giờ, James chưa từng nghi ngờ Paula điều gì. Vâng, một cô nàng siêng năng làm việc, thông minh, lại hấp dẫn. Còn bây giờ, nếu những lời của Rivke là thật, hoá ra Paula lại là kẻ nói dối. Không chừng cũng dám đồng loã với bọn sát thủ chơi dao?
Nhưng làm sao lý giải tất cả hành động của Paula? Hết sức quan tâm rồi chở anh chàng tới phi trường. Rõ ràng có bọn nào đó theo dõi anh chàng dọc theo con đường tới Salla. Chúng canh me từ lúc mình rời khỏi Helsinki. Thế còn Paula?
Khó nghĩ, James hỏi ngay cô ả mối quan hệ với Paula.
- Có điều làm sao tin cô được, Rivke. Tôi biết Paula đã lâu. Cô ấy đã từng nói chuyện của cô – Anni Tudeer. Lời lẽ của Paula rất rành mạch. Cô ấy tin cô, cùng làm việc chung với cô ở Helsinki.
Khẽ lắc đầu, giọng của Rivke nhỏ nhẹ:
- Trừ khi có ai đó muốn mượn cái tên của em …
- Cô không làm việc chung với Paula sao? Nghề quảng cáo ấy?
- Anh nói giỡn à? Em đã nói là không mà. Em nào có giấu giếm anh chuyện gì, kể cả cuộc đời ba chìm, bảy nổi của em. Em biết Paula ở trường.
- Paula biết rõ thân phận của cô? Bố cô?
Nhẹ nhàng đáp lại:
- Vâng. Anh có thể kiểm chứng mà James. Phôn tới văn phòng của cô ấy là biết ngay, đúng không? Hỏi thử có ai tên Anni Tudeer làm việc ở đấy. Nếu có, vậy là có hai Anni Tudeer. Còn không, quả là Paula nói dối.
Chồm người sát hơn, giọng cô ả mượt mà:
- Theo em, không hề có hai Anni Tudeer. Em dám cá với anh đấy. Paula nói dối. Chính em cũng muốn biết tại sao.
James gật đầu:
- Ờ, tôi cũng vậy.
- Anh tin em chứ?
- Tôi cũng không rõ. Thời gian quá ngắn làm sao kiểm chứng được. Có điều mối quan hệ giữa tôi và Paula khá tốt nhưng bây giờ … Vâng, xét về khía cạnh trực giác mà nói, tôi tạm tin cô. Rồi chúng ta có thể tìm ra sự thật. Nhưng theo Luân Đôn, cô là Anni Tudeer.
Chà, gần gủi với một thiếu phụ đáng yêu như thế này, ai mà nỡ nghi ngờ kia chứ? Mùi hương từ thân thể của Rivke toả ra làm anh chàng choáng váng.
Mỉm cười, anh chàng đáp lại:
- Rivke Ingber, tôi tin cô, một nhân viên Mossad trung thực. Chỉ có một vấn đề tôi chưa rõ: báo thù.
Chẳng lẽ cô muốn chuộc lại lỗi lầm của bố cô? Muốn bắt lão hay ám sát lão ư? Có thật thế không?
Nhún vai, dáng vẻ của Rivke hơi khiêu khích.
- Chuyện ấy không thành vấn đề. Dù thế nào đi nữa, lão Aarne Tudeer sẽ phải chết.
Chất giọng du dương thay đổi thật nhanh. Chưa đầy một giây, nó trở nên cuồng nộ, căm phẫn. Giờ thì cô ả mỉm cười, giọng khá mềm mại.
- Em xin lỗi, anh James. Lẽ ra em không nên chơi trò cút bắt với anh. Brad tối nay quả là tên càn quấy. Vâng, em không làm gì được. Có thể em chưa phải là một điệp viên chuyên nghiệp. Có phải em quá ngây thơ không? Phải chi hắn được như anh: bảnh trai, hấp dẫn. Ước gì em có thể quyến rũ anh …
- Quyến rũ? Về phe nào?
Dù sao anh chàng vẫn còn chút cảnh giác về cô ả tưng tửng này. Khi thì là Rivke Ingber, nhân viên của Mossad. Lúc lại là Anni Tudeer, con gái của lão tội phạm chiến tranh.
- Không hề có cạm bẫy. Chính xác là như thế.
Xoè ngón tay ra, ả lướt nhanh trên bàn tay rắn rỏi của anh chàng.
- Thật tình mà nói, em cảm thấy không an toàn khi đi chung với Brad và Mosolov. Hai cái tên hắc ám, chẳng chút hấp dẫn. Chúng mình đứng chung một phe, nghe anh.
Kéo tay ra khỏi cô ả, James nhẹ nhàng nói:
- Chúng ta phải tin tưởng lẫn nhau, đúng không Rivke? Có những chuyện tôi còn đang thắc mắc. Bố cô có dính líu tới bọn NSAA?
Không thêm suy nghĩ, cô ả đáp ngay:
- Hoàn toàn chính xác.
- Cô dám quả quyết?
- Đó là lý do em tham gia vào chiến dịch này. Từ những vụ thảm sát của cái gọi là Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã, đám người Mossad phân tích, đánh giá tình hình. Thông qua tư liệu trên máy vi tính, người ta tìm kiếm bọn thủ lĩnh còn sót lại của Đức Quốc xã. Bố em ở hàng đầu danh sách. Anh phải tin em.
Mossad có bằng chứng chống lại ông ta đấy. Chẳng phải là ngẫu nhiên khi số vũ khí rời khỏi nước Nga qua biên giới Phần Lan. Ông ta đang ở đây, anh James à. Với một cái tên mới, một nhân dạng mới. Cũng như có một ả nhân tình mới. Quá sung mãn, hung bạo so với lứa tuổi của ông ấy. Em biết ông ta ở đây.
James cười chế giễu:
- Một con chim đang chui vào bẫy.
- Bố em là một kẻ hoang tưởng nhưng quá xảo quyệt. Biết tranh thủ mọi thứ. Theo lời của mẹ em, ông ta từng xem mình như là Fuhrer, một Mô-sê của Phát xít Đức. Ông ta tới đây để dẫn những đứa con của mình vào miền đất hứa.
Vâng, những đứa trẻ con to xác nhưng đầu óc trống rỗng. Thế giới sẽ trở nên hỗn loạn khi bọn trẻ ranh với mớ ý thức hệ hoang tưởng. Hãy nhìn vào đất nước của anh đi …
James vênh mặt lên:
- Ở đất nước chúng tôi ấy à, chưa có một thằng khùng nào được phép ứng cử hoặc bầu chọn vào chính quyền. Tuy có bảo thủ thật đấy, nhưng qua bao nhiêu thế kỷ ngai vàng của nữ hoàng vẫn còn vững chắc. Không có thứ ý thức hệ tưng tưng, nửa mùa nào có thể khuynh đảo được, đúng không?
Hơi trề môi, giọng cô ả chẳng kém phần thân thiện.
- Vâng, em xin lỗi.
Đột nhiên ánh mắt ả lạc đi. Hình như ả đang suy nghĩ điều gì.
- Này anh James, em có một tin thật bất ngờ đấy. Em cần anh về phe với em.
Cô ả muốn giở trò gì đây? vẫn cảnh giác, anh chàng hỏi lại:
- Vâng. Nhưng còn Brad và Mosolov thì sao?
- Brad và Mosolov cùng đuổi theo cái trò giành giật vinh quang từ chết chóc. Chắc gì họ ăn rơ với nhau hay âm thầm chơi lén. Tay nào cũng cáo già, đầu đầy sỏi đá. Điều này có quá không? Một nghịch lý? Nhưng đó lại là sự thật. Cứ chú ý một chút, anh thừa sức thấy được nếu quan sát họ.
Nhìn thẳng vào mắt của James, đôi mắt cô ả như thể thôi miên anh chàng. Giọng mượt mà, Rivke cố thuyết phục:
- Vâng, em có một cảm giác … Có thể đó chỉ là chút trực giác. Nhưng hình như là CIA hoặc KGB muốn che giấu điều gì. Làm thế nào để đối phó với bọn NSAA, họ không nói rõ ra.
Anh chàng đáp lại úp úp mở mở:
- Theo tôi có thể là Mosolov. Chính KGB yêu cầu chúng ta vào cuộc. Ngoài số vũ khí bị chôm chỉa, một điều gì đó quan trọng hơn. Có cái gì đó ghê tởm hơn chăng?
Từ từ ả nhích chiếc ghế tới chỗ James đang ngồi:
- Anh cho rằng họ có thể tìm thấy số vũ khí bị mất cắp ư? Một chuyện trông buồn cười thế mà xem chừng rất nghiêm trọng? Làm sao họ có thể chặn vụ chôm chỉa lại?
- Tôi chẳng rõ.
Càng lúc ả càng xích lại gần. Hương thơm của nước hoa quyện cùng mùi thân thể hấp dẫn cứ xộc vào mũi của anh chàng, như mời, như gọi.
Anh chàng nhắc lại:
- Chỉ là một giả thuyết, đúng không? Điều này hoàn toàn trái ngược với tính cách của họ. Trước tới giờ, họ vẫn thường bưng bít. Chẳng hiểu sao họ lại nhờ giúp đỡ. Kéo chúng ta vào cuộc với mục đích gì khác chăng? Nếu như thất bại, đám tình báo Anh, Mỹ, Israel nhận lời chỉ trích. Còn họ ngồi không, hưởng lợi.
Rivke thì thầm:
- Mấy thằng láu cá chó.
Nghe thế, James trố mắt nhìn Rivke. Nghĩ lại cũng đúng, chỉ có những cụm từ ấy mới diễn tả hết được tính cách của bọn này. Đối phó với kẻ thù chung chưa xong, nội bộ lại xào xáo, nghi kỵ lẫn nhau. Mạnh ai nấy thủ lợi cho riêng mình. Thế còn tiến hành điệp vụ cái quái gì được.
Thay vì đáp lại, anh chàng mỉm cười quyến rũ với cô ả. Ôi, cái nụ cười từng hớp hốn biết bao nhiêu cô gái. Chồm người sát hơn, môi của anh chàng chỉ cách miệng cô ả có vài tấc. Ánh mắt trên gương mặt điển trai, đa tình như có hấp lực.
- Chúng ta cùng hợp sức lại, đúng không. Đoàn kết là sống. Chia rẽ là chết.
Đôi môi khao khát của cô ả cứ mấp máy.
-Vâng, anh nói đúng đấy.
Rồi đột nhiên dường như không thể kiềm chế được cơn hưng phấn, Rivke quàng tay qua cổ anh chàng, hôn thật lâu trên gương mặt điển trai.
Quá bất ngờ, James đành thúc thủ. Chẳng lẽ mình từ chối tấm lòng của cô ta. Ấy, đành chịu vậy thôi.
Thời gian thoáng ngừng trôi trong căn phòng chỉ có hai người. Chẳng biết bao lâu sau đó, đôi tay Rivke sờ soạng cởi từng nút áo của anh chàng … Miết dọc ngón tay theo từng nhóm cơ căng phồng trên thân hình nở nang, cường tráng, đôi mắt cô ả như ngây dại…
Chỉ còn tiếng thở hổn hển, gấp rút…
Chừng thấm mệt, cô ả cuộn tròn trên cánh tay cuồn cuộn trên cơ bắp của James. Hệt như đứa trẻ, hơi thở cô ả cứ đều đều, nhỏ nhỏ.
Lúc anh chàng tỉnh giấc đã hơn 8 giờ sáng.
Một ngày mới lại bắt đầu với bao nhiêu trăn trở. Một cuộc chiến gian khổ đang diễn ra thầm lặng trong thế giới tình báo. Những chiến sĩ vô danh luôn chiến đấu vì công lý, tự do. Khoảng cách giữa cái chết và sự sống mỏng manh như sợi chỉ. Ai biết được điều gì sẽ xảy ra?
Khẽ gọi cô nàng, James cảm thấy đắng miệng.
- Này Rivke!
Vươn vai, cô ả đưa tay dụi mắt.
- Ồ, anh yêu.
Gương mặt đỏ bừng thoả mãn nở một nụ cười thật tươi.
- Hoàng tử của lòng em, em chẳng muốn rời xa anh chút nào.
Tiếng cười hầu như tắt hẳn khi anh chàng với tay lấy chiếc điện thoại:
- Đã tới lúc chúng ta cần làm rõ về Paula.
Anh chàng bắt đầu bấm số của Helsinki trong khi cô ả khoác vội lên mình chiếc áo ngủ mỏng tang. Tiếng chuông cứ vang lên nhưng chẳng ai bắt máy.
- Này Rivke, Paula không có ở đó.
Khẽ lắc đầu, cô ả đáp lại:
- Anh nên gọi tới văn phòng của cô ta. Trước đây, em từng biết Paula, nhưng sau này em chẳng rõ. Tại sao cô ta lại đặt chuyện về em kia chứ? Theo anh, cô ta là một người bạn tốt à?
- Ừ, có thể nói như vậy trong một khoảng thời gian khá lâu.
Đứng lên, anh chàng đi về phía tủ áo treo chiếc quần len bên trong. Lấy hai cái mề đay trong túi quần ra, anh chàng ném chúng xuống giường. Thử xem cô ả nói sao về mấy thứ này?
- Này Rivke, em thấy qua mấy vật này chưa?
Đưa tay nhặt chúng, ngắm nghía một lúc rồi cô ả kêu lên:
- Anh tìm thấy chúng ở đâu vậy?
- Trong phòng của Paula. Trên bàn trang điểm.
- Hồi còn bé xíu, em đã từng thấy chúng.
Sờ sờ vào mặt sau của chiếc mề đay chữ thập, giọng cô ả bâng quơ:
- Anh thấy đó, tên của bố em có khắc phía sau lưng. Mề đay của bố em lại ở trong phòng của Paula?
Vẻ mặt cô ả cứ ngơ ngác, hoàn toàn ngạc nhiên.
- Đúng vậy.
Bỏ cái mề đay xuống giường, cô ả bước về phía James rồi vòng tay ôm lấy cổ anh chàng.
- Em không hiểu gì cả. Tại sao Paula dính líu vào mấy vụ này? Tại sao cô ta phải nói dối? Tại sao mề đay của bố em lại ở trong phòng của cô ta? Ông ta quý chúng lắm kia mà.
Mỉm cười, James đáp lại, giọng cứ mượt mà, quyến rũ:
- Đừng lo lắng. Trước sau gì, chúng ta cũng tìm ra sự thật.
Một phút sau, cô ả bước lui ra:
- Mà này, anh có muốn trượt tuyết với em không?
- Anh phải gặp Brad và Mosolov.
- Em ra ngoài đó một chút. Em sẽ trở lại lúc dùng điểm tâm. Có thể trễ đôi chút đấy.
- Hãy thận trọng!
Khẽ gật đầu, cô nàng hơi bẽn lẽn:
- Vâng, anh yêu.
- Mong mọi việc xuôi chèo, mát mái.
Kéo cô nàng lại gần, James hôn nhẹ lên mái tóc. Khi cô ả bước ra, anh chàng trở lại giường, nhặt lấy hai chiếc mề đay. Mùi hương của cô ta vẫn còn ở quanh đây. Rất gần gũi, thân thiết.
Dường như anh chàng hơi bị sốc. Trực giác báo cho anh chàng biết những lời của Rivke Ingber là sự thật. Dù sâu trong tiềm thức, anh chàng vẫn cảm thấy có chút nghi ngờ. Con gái của lão Aarne Tudeer đã biết đâu là công lý, chính nghĩa. Chính Luân Đôn cũng xác nhận cô ả là nhân viên của Cục Tình báo Mossad.
Nhưng còn Paula Vacker thì sao? Nhiều năm qua với mối quan hệ hơn mức bình thường, anh chàng chưa nghi ngờ Paula điều gì. Một cô gái siêng năng làm việc, thích vui đùa, có cá tính.
Rồi những lời của Rivke sáng nay cứ như gáo nước lạnh dội lên đầu anh chàng. Thật tình mà nói, anh chàng không biết tin ai, bỏ ai.
Bước vào phòng tắm với tâm tư nặng trĩu, anh chàng làm vệ sinh lâu hơn thường ngày. Xỏ chiếc quần thụng vải chéo dày, áo thun cổ tròn và áo khoác da ngắn, anh chàng lấy khẩu P7 kiểm tra lại ổ đạn, bỏ thêm vài băng sơ cua vào túi quần sau, chân mang chiếc giày da mềm Moccasin rồi rời khỏi phòng.
Tới hành lang, dừng lại nhìn chiếc Rolex, anh chàng thấy đã gần 9 giờ 30. Hẳn văn phòng của Paula giờ đã làm việc.
Trở lại phòng, James bắt liên lạc với số phôn văn phòng của cô nàng.
Đầu dây bên kia vang lên lời đáp bằng tiếng Phần Lan.
- Xin lỗi, tôi muốn gặp Paula Vacker.
- Rất tiếc,thưa ông. Cô Paula Vacker đã xin nghỉ phép.
Anh chàng giả vờ thất vọng:
- Ồ! Tôi có hẹn với cô ấy. Cô ta đi đâu thế?
- Xin chờ trong giây lát.
Non phút sau, đầu bên kia đáp lại:
- Chúng tôi không chắc. Hình như đi trượt tuyết ở phía Bắc.
- Thế ư. Cô ấy đi hôm nào?
- Thứ năm. Ông có muốn gởi lại lời nhắn gì không?
- Ồ, không. Để tôi gọi lại sau.
Vừa mới tính gác mày, James hỏi tiếp:
- Mà này, Anni Tudeer vẫn còn làm việc ở đó chứ?
- Thưa ông, Anni nào?
- Anni Tudeer, một người bạn của Paula Vacker.
- Xin lỗi, tôi nghĩ ông đã lầm. Ở đây không có ai tên đó.
- Cám ơn cô.
Hạ cái phôn xuống, gượng mặt anh chàng đăm chiêu. Thế là rõ rồi, Paula đã đi về phía Bắc. Cũng giống như bộ tứ của chiến dịch Icebreaker.
Qua cửa sổ, James nhìn khung cảnh trước mặt. Cơn lạnh ở vùng đất này hiện hữu quá, người ta có thể cắt nó bằng dao, dù bầu trời trong xanh, ánh nắng cứ chói chang. Rồi ánh nắng chiếu vào các tảng băng lấp la, lấp lánh.
Khoảng một giờ nữa, mặt trời sẽ lặn đi, nhường chỗ cho băng giá thống trị cả phần đất này của địa cầu. Lúc ấy, mưa tuyết có thể rơi thành từng mảng, từng mảng.
Xa xa ngoài kia là hàng ghế nâng treo lơ lửng trên dây cáp, sườn dốc thoai thoải. Những bóng dáng nhỏ xíu cứ tiếp tục lên xuống mấy chiếc ghế không ngừng chuyển động. Một nhóm khác đang buông mình theo đường rơi với thân mình chồm về phía trước, đầu gối cong lại. Rivke có thể là một trong những cái chấm nhỏ đang di động trên khung cảnh toàn một màu trắng, sáng lấp lánh.
Rời khỏi phòng, anh chàng đi xuống phòng ăn.
Ngồi một mình, tại cái bàn ở trong góc gần cửa sổ, Brad nhìn ra ngoài sân. Thấy James, hắn miễn cưỡng giơ một tay lên.
- Xin chào.
Gương mặt hắn cứ bất động, chỉ có đôi môi mấp máy:
- Mosolov gởi lời xin lỗi. Sắp xếp mấy cái mô tô nên tới trễ.
Chồm gần hơn, giọng hắn thì thầm:
- Có thể là tối nay hay sáng sớm ngày mai.
- Tối nay cái gì?
- Này anh bạn, Mosolov bảo tối nay bọn chúng chôm vũ khí từ căn cứ Blue Hare. Có nhớ Blue Hare không? Gần Alakurtti ấy mà.
- Thế ư?
Cầm lấy thực đơn lên, anh chàng chẳng biết gọi gì. Khi gã hầu bàn xuất hiện, anh chàng chỉ gọi những thức ăn thường dùng.
Nhích chiếc ghế lại gần hơn, Brad to nhỏ vào lỗ tai của anh chàng:
- Này James,mình có đôi điều muốn nói riêng với cậu.
- Chuyện gì?
- Felix Leiter gởi lời thăm cậu đấy. Cả Cedar nữa.
Cảm thấy ngạc nhiên nhưng anh chàng làm bộ tỉnh bơ. Felix Leiter, một nhân viên CIA cao cấp, vốn là người bạn thân của James ở Mỹ. Cedar, con gái của hắn, cũng nối nghiệp bố. Trong một vài điệp vụ cộng tác với anh chàng, cô ta tỏ ra rất dũng cảm.
Rồi Brad lại tiếp tục:
- Mình biết cậu có ý nghi ngờ. Nhưng suy nghĩ lại đi. Mình là người cậu đáng tin cậy nhất ở đây, đúng không?
Khẽ gật đầu, anh chàng đáp cho có lệ:
- Có thể.
- Sếp của cậu nắm thông tin cũng khá tốt đấy. Langley đã chỉ dẫn mình kỹ lưỡng. Có thể chúng ta cùng chia sẽ một số tin tức giống nhau. Còn tên Mosolov ấy à, cứ giấu nhẹm mọi chuyện. Chúng ta phải hợp sức với nhau. Rồi hắn sẽ ngạc nhiên cho mà coi.
Đáp lại ôn tồn, James nói úp úp, mở mở:
- Thế chúng ta không làm việc chung với nhau sao?
- Đừng tin những người khác. Ngoại trừ mình, James nhé!
Khi gã hầu bàn mang lên cho anh chàng món trứng chiên, thịt nguội, bánh mì, mứt cam và cà phê, đột nhiên Brad im lặng. Chừng gã kia quay đi, giọng của Brad tiếp tục:
- Nếu ở Madeira, mình không nhắc tới lão bá tước dỏm đời, thử hỏi hắn có hé môi không? Mosolov không hề muốn chúng ta biết. Cậu có hiểu tại sao không?
- Không.
- Bởi vì Mosolov ăn ở hai lòng. Có một vài chi tiết cho thấy KGB dính vào vụ chôm chỉa vũ khí.
- Câu chuyện là như thế nào?
Dường như Brad khẳng định thêm những gì anh chàng bàn với Rivke.
Cười to miệng, Brad nói tiếp:
- Giống như một câu chuyện đùa. Theo lời của Moscow, có một nhóm hủ hoá trong Hồng Quân qua lại với cái gọi là Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã.
Cười khúc khích, hắn huyên thuyên:
- Dĩ nhiên, bọn chúng mắc bệnh hoang tưởng. Cuồng tín, tạm cho là như vậy. Hoạt động trong lòng nước Nga với tư tưởng của đám khủng bố phát xít. Bọn chúng đứng đằng sau vụ chôm vũ khí lần đầu tiên ở Blue Hare. Bọn chúng đã bị dính cho tới một điểm …
- Điểm nào?
- Bọn chúng đã bị bắt nhưng toàn bộ sự kiện bị giấu nhẹm. Một kiểu Mafia lũng đoạn chính quyền. Người của cậu đang the dõi bọn chúng phải không?
- Tôi cũng chẳng rõ.
Khều một miếng trứng bỏ vào miệng, anh chàng với tay lấy ổ bánh mì.
- Vâng, mấy cái tên dở hơi ở quảng trường Dzerzhinsky cho tới giờ vẫn giam giữ mấy tên sĩ quan bị bắt ở Blue Hare. Còn nữa, bọn họ chỉ thị cái chiến dịch kết hợp kỳ lạ này với tên tài xế là Mosolov.
- Mosolov sẽ thất bại à?
- Không những thế, hắn còn chắc chuyến hàng sắp tới sẽ tiếp tục chuyển ra khỏi căn chứ Blue Hare. Có thể hắn còn bị phục kích rồi chết trong băng giá. Đoán thử xem ai còn lại để hương lợi?
James nói đại:
- Chúng ta phải không?
- Đúng, nếu nói chung chung. Nhưng sự thật chiến dịch này là dành cho cậu đấy. Chẳng ai tìm ra xác của hắn đâu.
Anh chàng gật đầu hăng lắm:
- Giống hệt như những gì tôi nghĩ. Miệng thì nói cùng tôi theo dõi vụ chôm vũ khí nhưng trong bụng hắn còn một mục đích khác.
Đột nhiên Brad phát cười to, nhưng không có chút khôi hài:
- Chúng ta phải sát cánh bên nhau …
- Anh bạn cũng cần tôi?
- Đúng vậy, nếu cậu làm theo điều mình yêu cầu. Cứ giả vờ trước mặt của Mosolov rồi đi cùng với hắn sang bên kia biên giới. Được như thế, mình sẽ cản hậu cho cậu. Chiến dịch dứt khoát kết thúc rất ngon lành.
- Tôi còn một điều khá quan trọng cần hỏi:
Chính anh chàng cũng phải bật ngửa ra. Quái, diễn biến càng lúc càng phức tạp. Mới sáng nay, Rivke nài nỉ anh chàng, giờ tới Brad. Thế là sao? Xem chừng bộ tứ của Icebreaker toàn một lũ đầu thừa, đuôi thẹo. Mạnh ai nấy nghi kỵ nhau. Tên này không ngừng đâm thọc tên kia. Rồi bọn chúng muốn có thêm đồng minh.
Giọng thăm dò, Brad hỏi ngay:
- Chuyện gì?
Đột nhiên, ngoài cửa bước vào một đám khách. Quấn quýt cả lên, đám phục vụ săn đón họ giống như những ông hoàng, bà chúa. Vừa nhìn, anh chàng vừa tiếp tục nói:
- Còn Rivke thì sao? Chúng ta bỏ mặc cô ta trong băng tuyết với gã Mosolov.
Tròn mắt nhìn anh chàng, vẻ mặt hắn ngạc nhiên:
- Rivke có thể là một nhân viên tình báo của Mossad. Nhưng cậu thừa biết cô ả là ai rồi. Không lẽ Cục Phản Giàn chưa nói gì? …
- Đứa con bị bỏ rơi của một sĩ quan Phần Lan làm tay sai cho phát xít Đức. Bố cô ta là một tên tội phạm chiến tranh?
Cao giọng, hắn đáp lại:
- Gần như là vậy.
- Vâng, chúng ta biết tỏng chuyện này. Nhưng cô ả đang phục vụ cho ai, chúng ta vẫn không rõ. Kể cả Mossad, đúng không?
- Mình từng gặp đám lãnh đạo Mossad. Mình sẽ kể cho cậu nghe một chuyện, chính bọn họ còn không biết nữa là.
Trầm tĩnh, anh chàng khẳng định:
- Tôi tin cô ta trung thành tuyệt đối với Mossad.
Hơi khịt mũi, hắn ra vẻ khó chịu:
- Tạm cho là như vậy đi. Nhưng còn cái lão ấy?
- Lão nào?
- Lão tự xưng là bá tước Konrad Von Gloda, tên đứng sau lưng mấy vụ chôm vũ khí, Không chừng lão là chỉ huy trưởng của bọn NSAA. Von Gloda, một sĩ quan SS của Đức Quốc Xã.
- Thế ư?
- Sếp của anh bạn không nhắc tới chuyện này?
Nhún vai, anh chàng chợt nhớ lại lời của ông M trong cuộc họp. Vâng, có vài nguồn tin liên quan tới tên bá tước Von Gloda bí hiểm nhưng tất cả chỉ là lời đồn.
Vẻ soi mói, đôi mắt Brad nhìn anh chàng chằm chằm:
- Cậu gặp rắc rối rồi đấy. Mình xin bật mí chút nghe, Cái ông bố từng bỏ rơi cô ả Rivke chính là bà tước Von Gloda. Giống như một vị chúa tể vùng băng giá trong chuyện dã sử ấy. Một biệt hiệu của Aarne Tudeer.
Vừa nuốt ngụm cà phê, vẻ mặt của anh chàng thoáng đăm chiêu. Nét căng thẳng hằn lên trên vầng trán. Nếu tay này không bịp mình, thế là Luân Đôn có phần thiếu sót rồi. Theo lời của ông M, tên bá tước Von Gloda ít nhiều có liên quan tới mấy vụ chôm vũ khí, vận chuyển chúng qua đường biên giới của Nga. Quái, sao anh chàng chưa hề nghe ông ta nhắc tới cái tên này kia chứ?
Làm bộ tỉnh bơ, anh chàng hỏi lại:
- Ông bạn dám chắc?
- Chuyện rõ như ban ngày, không chắc sao được …
Chợt hắn ngừng ngay lại khi có hai người khách vừa bước vào phòng ăn. Trông dáng vẻ, dường như họ là khách quen. Đám phục vụ chạy ùa tới chào đón.
- Tại sao ông bạn biết?
Hai khoé miệng của Brad lại nhúc nhích, Gương mặt hắn đầy vẻ bí hiểm:
- Nhìn đi James. Chính lão đấy, lão bá tước Von Gloda. Còn mụ đi bên cạnh là vợ lão.
Nuốt vội một ngụm cà phê, hắn nói tiếp:
- Dĩ nhiên, cái tên ấy chỉ là giả mạo. Theo tiếng Thụy Điển, Gloda có nghĩa là sáng chói. Nương theo ánh sáng đã lụi tàn của chủ nghĩa phát xít, giờ đây lão ngoi lên được chức chỉ huy trưởng NSAA. Vâng, một thứ giun dế, không hơn không kém. Bằng mọi giá mình phải bắt cho được lão này với đầy đủ chứng cớ.
Nhìn thoáng qua, cặp vợ chồng kia cũng khá ấn tượng. Ôm những chiếc áo lông đắt tiền trên tay, họ cứ như là đám chủ đất cai quản hết cả vùng Lappland. Điệu đàng, chảnh choẹ như mấy ông hoàng, bà chúa đã hết thời nhưng lại thích khoe mẽ, sĩ diện. lão Von Gloda cao to, vóc dáng lực lưỡng, lưng thẳng băng như khúc gỗ. Nếu dựa vào dáng vẻ, khó ai đoán được lão bao nhiêu tuổi. Đại khái, khá xồn xồn, từ năm mươi cho tới bảy mươi. Nước da rám nắng, gương mặt phương phi, mái tóc muối tiêu, cằm cương nghị, đôi mắt xám sắc sảo, vầng trán cao kiêu hãnh.
Khi nói chuyện với mụ già ngồi bên cạnh, lão chồm người, một tay ra dấu, tay còn lại giữ chặt vào thành ghế. Chà, tác phong có khác nào mấy tên Đức Quốc xã trong các bộ phim đâu chứ.
Rồi Brad lên tiếng:
- Cũng hách lắm, phải không?
Khẽ gật đầu, anh chàng thừa nhận. Dù không có dáng vẻ quý tộc nhưng lão có sức thu hút người khác.
Còn con mụ bên cạnh trông trẻ hơn lão khá nhiều, dù chẳng thể đoán ở độ tuổi bao nhiêu. Thân hình mụ cũng còn ngon lành lắm. Người chưa đến nỗi chảy xệ đầy mỡ. Hẳn mụ ta đã bỏ hàng mấy giờ liền mỗi ngày tập luyện, cố chống lại sức tàn phá của thời gian. Mái tóc dài, sậm màu phủ dài ngang lưng làm mụ cứ nhí nha, nhí nhảnh như mấy ả vừa mới dậy thì.
Bỗng một gã hầu bàn bước tới cạnh anh chàng.
- Xin lỗi, có phải ngài là ông James?
- Vâng. Chuyện gì thế?
- Có một cú phôn gọi đến. Ở bàn tiếp tân ấy. Một cô tên là Paula Vacker muốn gặp ngài.
Vội đứng lên, anh chàng thấy ánh mắt của Brad đang xoi mói.
- Chuyện gì vậy, bồ tèo?
Thản nhiên, anh chàng đáp ngay:
- Chỉ là một cú phôn từ Helsinki.
Quái, làm sao Paula biết mình ở đây?
Khi bước ngang qua bàn của cặp vợ chồng dáng vẻ lố bịch, ánh mắt của James cứ phớt lờ. Nhìn thẳng về phía trước, anh chàng làm bộ chẳng quan tâm.
Còn lão Von Gloda ấy à, cố ngước đầu lên nhìn gã thanh niên cao to, bảnh trai, bộ dạng ngầu đời.
Liếc ngang, anh chàng thấy vẻ gian giảo, thù ghét hiện rõ trên đôi mắt lão. Gớm, mình làm điều gì xúc phạm tới lão ta? Mặc xác lão đi!
Bước vào ngăn gọi điện thoại, anh chàng vội nhặt cái phôn lên.
- Paula đấy à?
Cô ả tiếp tân lên tiếng:
- Xin chờ cho một chút.
Sau khi nghe tín hiệu nối máy, anh chàng lặp lại:
- Paula đấy à?
Đường dây không rõ lắm. Một giọng nói vang vang có lẽ là của Paula, xuyên qua hệ thống thu âm:
- Anh James phải không? Từ giờ trở đi,hãy nói lời tạm biệt với ả Anni Tudeer.
Tiếp theo là tiếng cười ngạo ngễ, khiêu khích phát ra. Hình như cô nàng vừa gác máy nhè nhẹ?
Cau mày, James hỏi nhanh:
- Này Paula …
Thật vô vọng, đầu bên kia lặng câm. Chuyện quái gì thế? Hãy nói lời tạm biệt với ả Anni Tudeer?
Gương mặt của anh chàng căng thẳng: Rivke đang trượt tuyết … Ôi lạy Chúa!
James phóng nhanh về phía cửa ra vào của khách sạn. Vâng, anh chàng vừa định lướt ra ngoài, bỗng tiếng của Brad vang lên từ phía sau lưng:
- Này bồ tèo. Ăn mặc thế kia làm sao ra ngoài được. Bị chết cóng đấy.
- Cho tôi mượn quần áo một chút đi Brad …
- Chuyện gì thế?
Vừa nói xong, hắn bước nhanh về phía phòng giữ quần áo ở gần bàn tiếp tân.
- Sẽ giải thích sau. Tôi sợ Rivke gặp nguy hiểm trên đường trượt.
Vài phút sau, Brad quay ra với ủng da, khăn quàng cổ, áo khoác lông, mắt kính.
- Nói thử xem, liệu mình có giúp được gì không nào? Cậu về phòng thay đồ
đi.
Ngay lập tức, hắn ngồi xuống tháo giày, mang ủng vào. Cái thằng Brad chết tiệt! Lúc mình cần, hắn lại làm eo. Không chút chậm trễ, anh chàng phóng nhanh về phía thang máy.
- Nếu gặp Rivke ngay dốc đứng, bảo cô ta xuống ngay.
Vỗ mạnh vào nút thang máy, anh chàng nhảy vào trong.
Vâng, chỉ sáu phút sau, thay đồ xong, James có mặt tại điểm đừng của cáp treo.
Hầu hết mọi người đang trở về khách sạn. Kia là bóng dáng của Brad cùng mấy gã nữa đứng gần túp lều bên dưới trạm cuối.
- Mình đã nhờ họ gọi điện lên đỉnh núi. Rivke vẫn còn ở trển. Cô ta đang xuống đấy. Rivke mặc bộ quần áo màu đỏ sẫm. Chuyện này là thế nào James? Có liên quan gì tới chiến dịch không?
- Đợi chút nữa đi.
Ngỏng cổ lên, xuyên qua cặp mắt kính, anh chàng cố dõi theo bóng dáng của Rivke. Từ sườn dốc chính xuôi qua khe núi tối sẫm cũng vào khoảng một cây số rưỡi. Đỉnh núi khuất hẳn tầm mắt. Xen kẽ với phần sườn thoai thoải có vái hàng thông mọc lác đác là những cạnh dốc gần như thẳng đứng. Đoạn dốc nhỏ cuối cùng non nửa cây số không khác gì đường chạy thẳng. Hai gã thanh niên trong bộ quần áo đen, đầu đội chiếc mũ lan vừa hoàn tất cú trượt nhanh. Vui vẻ, họ cười nói ầm ĩ.
- Rivke kia. Đấy bộ quần áo màu đỏ sẫm.
Xoay xoay chiếc ống nhòm, Brad dõi theo cái chấm nhỏ ở đường rơi cuối cùng. Ngẩng đầu lên, anh chàng nhìn theo. Đúng là Rivke đang xuôi theo dốc đứng, qua đường chạy thẳng, chuẩn bị lấy đà phóng cú nhảy dài.
Vâng, chỉ còn khoảng chừng nửa cây số. Ồ, khói tuyết chung quanh Rivke dường như bốc khói. Phía sau lưng cô nàng, chúng cuồn cuộn dâng cao.
Rồi ngay giữa mớ hoa tuyết trắng xoá, một ánh lửa loé sáng, bùng lên rực rỡ.
ĐÙÙÙÙNG …
Một tiếng nổ chói tai xé tan bầu trời yên tĩnh, vang vọng vào vách núi. ĐÙÙÙÙNG …
Cả người của Rivke bắn mạnh vào không trung cùng mớ tuyết bay tơi tả.
Đôi mắt mở to, miệng há hốc, tim anh chàng như thót lại trước cảnh tượng hãi hùng. Cả thân người trong bộ áo màu đỏ sẫm bị hất tung lên như miếng ghẻ rách rồi biến mất trong màn tuyết bay mịt mù.
Nghe tiếng nổ, mấy tay đứng chung quanh nằm rạp xuống đất. Mặt mày dáo dác như chiến trận nổ ra.
Vẫn đứng thẳng người bên cạnh James, Brad nâng màng chắn của cái ống nhòm lên che mắt. Giọng hắn hệt như lúc lâm trận, đang gọi máy bay tới cứu viện.
- Rivke kìa. Hình như là bất tĩnh. Vâng, mặt úp xuống. Bị chôn nữa người trong tuyết. Cách nơi nổ khoảng chừng trăm thước.
Anh chàng kéo cặp kính lên. Khung cảnh trước mặt giờ đã tỏ, tuyết dường như lắng đọng lại. Dáng người đằng kia nằm sải ra, bất động.
Chợt có một giọng nói vang lên từ phía sau lưng:
- Khách sạn đã gọi cảnh sát và xe cứu thương. Khoảng cách không xa lắm nhưng không đội cứu hộ nào dám hành động. Lớp tuyết rất xốp. người ta phải dùng máy bay trực thăng.
Quay dầu lại, anh chàng thấy Mosolov đứng bên cạnh, tay giơ cao ống nhòm. Chuyện xảy ra quá bất ngờ. Chính anh chàng cũng không nghĩ ra. Quả như lời thách thức của Paula qua cú phôn ban nãy: Hãy nói lời tạm biệt với Anni Tudeer.
Vâng, từ trước tới giờ, anh chàng vẫn lầm tin ả Paula. Rồi càng lúc, bộ mặt gian xảo của ả càng lộ ra. Vụ tấn công bằng dao ngay trong căn hộ 3A, ả bày mưu lừa anh chàng vào tròng. Rồi câu chuyện đêm qua giữa mình với Rivke, chẳng hiểu làm sao ả biết được. Với thời gian ngắn ngủi, ả sắp xếp vụ nổ ngay trên đường trượt. Con ả này biết quá nhiều thứ: biết mình ở đâu, biết cả Rivke sắp làm gì.
Không còn nghi ngờ gì nữa. Chính ả có mối liên hệ trực tiếp với bộ tứ của chiến dịch Icebreaker. Hệt như kiểu gắn máy nghe lén. Có thể ả đang lẩn khuất đâu đây. Ngay trong khách sạn này hay ở vùng phụ cận gần thị trấn Salla, chĩa ống nhòm quan sát mọi người với gương mặt rạng rỡ.
Chợt nhớ ra việc gì, anh chàng quay sang hỏi Mosolov rồi nhìn về phía sườn núi.
- Ông bạn thấy thế nào?
- Phải đợi trực thăng đến. Đường trượt cứng nhưng chỗ Rivke rơi xuống, tuyết rất mềm. Không còn cách nào hơn. Gắt gỏng, anh chàng hỏi lại:
- Tôi không muốn nói tới chuyện ấy. Ông bạn nghĩ sao về vụ này?
Nhún vai qua lớp áo dày, Mosolov đáp lại tỉnh bơ:
- Một quả mìn. Khu vực quanh đây đâu có thiếu gì. Có thể chúng còn sót lại sau cuộc chiến giữa Nga và Phần Lan. Mà cũng có thể là Thế chiến thứ Hai. Dưới lớp tuyết dày là biết bao nhiêu điều bất ổn. Thậm chí vào đầu mùa Đông, người ta cứ e dè khi đi ngang qua đây.
- Nếu như có kẻ báo trước điều này?
Vẫn dõi ống nhòm về phía Rivke, Brad lên tiếng:
- Vâng, có kẻ gọi điện báo trước cho James.
Dường như chẳng quan tâm, Mosolov cứ phớt lờ:
- Thế ư? Để chuyện đó tính sau. Mà đám cớm và xe cứu thương đâu kìa?
Hệt như lời nhắc tuồng, chiếc xe cảnh sát Saab của Phần Lan vừa trờ tới trước của khách sạn, cách ba người khoảng chừng vài bước.
Khi hai gã cớm bước ra, Mosolov bước ngay tới tiếp chuyện. Chẳng biết hắn nói gì bằng tiếng Phần Lan, ra dấu chỉ trỏ một hồi về phía Rivke.
Quay sang anh chàng, hắn tỏ vẻ bực tức:
- Trực thăng nữa tiếng sau mới đến. Mấy tay cứu hộ không biết làm ăn cái kiểu gì?
- Vậy chúng ta …
James chưa dứt lời, Brad liền nhảy vô họng anh chàng:
- Kia, nhìn xem. Cô nàng cử động. Hình như Rivke tỉnh rồi. Cố đứng dậy nhưng không được. Bị thương chân. Mình đoán thế đấy!
James vội hỏi Mosolov đám cớm có mang theo loa phát thanh không?
Sau một hồi xí xô xí xào, hắn quay lại, nói nhanh:
- Có đấy.
- Không thể chờ được nữa.Tôi sẽ cứu Rivke. Chuẩn bị loa phát thanh.
Thò tay vào túi, anh chàng lôi ra chiếc chìa khoá xe rồi phóng nhanh tới chiếc Saab Tubor. Tắt hệ thống báo động, James bước ra sau, mở cốp xe, lấy ra hai cuộn dây nút thắt và Schermuly Pains-Wessex, một cái trống to. Khoá cốp xe, bật hệ thống báo động lên, anh chàng chạy một mạch xuống cuối đường trượt tuyết.
Một tên cớm chờ sẵn ở đó, tay cầm cái loa Schermulyp Gravine với vẻ mặt hoài nghi.
Bỗng Brad hét lên:
- Nhìn kìa, Rivke định ngồi dậy nhưng lại không được rồi.
Đỡ lấy cái loa trong tay gã cớm, James khởi động rồi chĩa về phía dáng người đang nửa bò, nửa nằm phía đằng xa.
- Này Rivke, có nghe không? James đây. Giơ một tay lên coi nào!
Qua cái loa khuếch đại, tiếng của anh chàng cứ vang vọng trong khoảng không tĩnh mịch.
Phía xa kia, hình như Rivke chuyển động.
Vừa dùng ống nhòm quan sát, Brad vừa nói:
- Vâng, cô ta giơ tay lên rồi đó.
Dõng dạc, James nói từng tiếng một.
- Này Rivke, tôi sẽ bắn một sợi dây về phía cô đấy. Đừng sợ. Nghe xong, cô nhớ ra hiệu.
Lại một cánh tay vẫy vẫy.
- Khi sợi dây tới gần, cột chặt nó vào người. Rõ chưa?
Rivke nhấc cánh tay lên.
- Chúng tôi sẽ kéo cô xuống. Nếu có đau, giơ cả hai bàn tay. Nhớ không?
Quay sang mấy người kia, James bắt đầu giải thích cách dùng Schermuly Pains-Wessex. Ấy, đó là một thiết bị phóng dây hình trụ có tay cầm và hệ thống điều khiển ở phần chóp. Xé lớp vỏ bọc, anh chàng cầm lấy phần thân có rốc kết và hai trăm bảy mươi lăm thước dây cuộn sẵn bên trong. Kéo một đầu dây ra, hướng dẫn cho đám người kia cột nó vào cái cản sau của chiếc xe cảnh sát.
Xong, anh chàng bước tới trước, đứng ngay phía bên dưới chỗ của Rivke. Rút khoá an toàn ở phần cuối của tay cầm, James nắm lấy hệ thống điều khiển. Anh chàng nhấc đế của đôi ủng Mukluk lên, leo lên dốc bốn bước. Lớp tuyết rất mềm và sâu về phía phải của đường dốc. Ngay khi ấy, người anh chàng lún tới ngang lưng. Vâng, ngay vị trí này, cú bắn mới đạt hiệu quả tốt nhất.
Cố gắng hết sức mình, James giơ cái ống trụ ra khỏi người, lấy đà. Sau khi canh chính xác, anh chàng bóp cò.
BÙUUUUNG …
Một tiếng nổ khô khốc vang lên cùng với bụm khói. Quả rốc kết bắn vào không trung mang theo sợi dây bay lượn vượt qua bờ tuyết. Tới dần sát người của Rivke, quả rốc kết rơi xuống. Ngay trong tích tắc, sợi dây như treo giữa khoảng không rồi đáp nhẹ bên cạnh cô nàng.
Thấy chừng đã ổn, James bước lui về phía sau, đỡ lấy cái loa.
- Nếu cô cột dây quanh người xong, giơ tay làm hiệu.
Tiếng của James vang vang vào khoảng không. Thấy lạ, nhiều người xúm ra xem. Người ra hẳn ngoài sân, kẻ lấp ló nơi cửa sổ của khách sạn.
Rồi văng vẳng phía xa là tiếng còi hụ của chiếc xe cứu thương Klaxon.
Quay mặt sang Brad, anh chàng nói nhanh:
- Cho mượn ống nhòm chút đi ông bạn.
Đỡ lấy nó từ tay của Brad, anh chàng điều chỉnh tiêu cự rồi quan sát.
Nằm trải ra, lún sâu đến thắt lưng, Rivke cố lết người khó nhọc về phía đầu dây. Vâng, sau một lúc khá lâu nghỉ lại nhiều lần, cô nàng cũng chộp được sợi dây.
Vừa theo dõi, giọng của James vang vang qua cái loa, động viên cô ta ráng lên.
- Cột ngang hông, Rivke. Thắt gút lại rồi kéo nó ra sau lưng. Làm xong nhớ giơ tay cao ra hiệu.
Mãi nhiều phút sau, cô nàng mới làm xong chút chuyện ấy.
- Vâng, giờ chúng tôi sẽ kéo cô xuống. Khi nào đau quá, đưa cả hai tay lên làm hiệu. Nhớ đấy!
Quay sang đám người còn lại, kiểm tra đầu dây cột vào cản xe cảnh sát, anh chàng kéo chầm chậm đoạn dây thừng.
Ngay lúc ấy, trên xe cứu thương, một đội cấp cứu bước ra, dẫn đầu là một tay bác sĩ trẻ tuổi, râu ria xồm xoàm.
- Xin chào bác sĩ. Ông sẽ đưa cô ta tới đâu?
Tay bác sĩ tên Simonsson đáp ngay:
- Chúng tôi làm việc tại một bệnh viện nhỏ ở Salla.
- Vâng, giờ tuỳ thuộc vào sức khoẻ của cô ấy. Không biết cô ta có chịu nổi không?
Mãi bốn mươi lăm phút sau đấy, James mới kéo được Rivke xuống dưới. Cô ta hầu như ngất xỉu giữa đống tuyết chạy thành rãnh sâu.
Cẩn thận, anh chàng xốc người Rivke ra khỏi đường trượt.
Rên rỉ rồi mở to đôi mắt nhìn anh chàng, Rivke cất giọng thều thào:
- Ồ, anh James. Chuyện gì đã xảy ra vậy?
- Chẳng hiểu tại sao em lại bị ngã.
Kìa, từng đốm phỏng lạnh sưng phồng trên khắp gương mặt cô nàng.
Kéo anh chàng sang một bên, Simonsson bước tới cạnh Rivke. Quỳ xuống hai bên, Mosolov và Brad nâng cô ta lên.
- Cả hai chân bị gãy. Lại thêm phỏng lạnh. Thân nhiệt giảm đáng kể. Phải đưa cô ta đến bệnh viện ngay lập tức.
Nắm chặt lấy tay Simonsson, giọng anh chàng tha thiết:
- Vâng, trăm sự xin nhờ bác sĩ. Sau đó, tôi đến thăm cô ta được không?
- Không thành vấn đề.
Cô nàng lại bất tỉnh. Còn James chẳng biết làm gì, chỉ còn cách đứng nhìn đám cứu thương cáng cô ta đưa vào xe.
Hình ảnh dường như trung lặp trong đầu anh chàng: băng giá, tuyết lạnh, xe cứu thương hụ còi hướng ra cổng chính của khách sạn rồi vút khỏi tầm mắt.
Vâng, một kỷ niệm đau thương lại hiện về: trong cái nóng như đổ lửa, chiếc xe cứu thương bết đầy máu, hụ còi lao nhanh trên đường. Tại hiện trường, tên cảnh sát người Áo cứ hỏi không ngớt về cái chết của Tracy, người vợ duy nhất trong cuộc đời của chàng gián điệp đa tình 007.
Đã nhiều năm qua đi nhưng ác mộng vẫn còn đó hằn sâu trong ký ức. Mắt anh chàng mở đi, lòng dạ rối bời. Hai khung cảnh, hai nỗi niềm cứ đan xen lấy nhau, lúc ẩn, lúc hiện.
•
• •
Rồi giọng của Mosolov vang lên, kéo anh chàng về thực tại.
- Này James, chúng ta còn nhiều chuyện phải làm. Tự nhiên có chút rắc rối xảy ra, giờ nên sắp xếp lại mọi thứ.
Khẽ gật đầu, anh chàng bước từ từ về khách sạn. Tại hành lang, họ hẹn gặp nhau lúc 3 giờ tại phòng của Mosolov.
Về đến phòng, James mở xách tay, lấy ra một chiếc hộp nhỏ, màu đỏ, hình chữ nhật từ ngăn kéo bí mật. Đó là VL34, thiết bị hiện đại nhất với kích cỡ siêu nhỏ, có thể dò tìm bất kỳ máy nghe trộm nào.
Hôm mới đến đây, anh chàng từng rà soát một lần nhưng VL34 lại báo âm tính. Giờ phải kiểm tra lại lần nữa cho chắc ăn.
Kéo ăngten ra, anh chàng khởi động máy và bắt đầu quét căn phòng. Chỉ vài giây sau, một chuỗi sáng nhấp nháy trên màn hình kèm theo tín hiệu chỉ về phía điện thoại. Thêm ánh sáng vàng hiện ra báo ngay vị trí ấy có một máy truyền tin và micrô. Rảo khắp phòng thêm lần nữa, James thấy không có tín hiệu nào đặc biệt phát ra.
Bước tới chỗ máy phôn, anh chàng cầm nó lên quan sát. Ngay lập tức, James tìm thấy một máy nghe trộm đời cũ có khả năng chuyển đổi ống nghe thành một máy phát tin hoạt động liên tục hai mươi bốn giờ. Phía đầu kia, người ta có thể nhận được bất kỳ âm thanh nào dù là nhỏ nhất phát ra từ căn phòng này.
Gỡ lấy máy nghe, bước vào nhà tắm, James dùng gót giày đạp nó bẹp dí rồi vứt vào bồn cầu.
Thế là rõ rồi. Những gì anh chàng cùng Rivke trò chuyện đêm qua, kẻ địch đều biết hết cả. Nhưng bọn chúng gắn máy nghe trộm vào lúc nào? Với thời gian eo hẹp như thế, làm sao chúng có thể sắp xếp mọi thứ tấn công Rivke? Không còn nghi ngờ gì nữa, bọn chúng đã giăng bẫy ngay trong khách sạn này. Những gì bộ tứ bàn nhau ở Madeira, bọn chúng đều nắm được từng chi tiết nhỏ nhặt. Ai là thủ phạm? Mosolov hay là Brad? Vụ việc càng lúc càng rối lên như mớ bòng bong.
Không tìm được đáp án, mệt mỏi, anh chàng bước vào phòng tắm. Thay đồ xong, James nằm dài ra giường, mồi điếu Simmons. Rít được vài ba hơi, dụi nó vào cái gạt tàn, anh chàng nhắm mắt lại rồi thiếp đi …
Chừng tỉnh dậy, James thấy lúc đó gần đến 3 giờ chiều. Chợt nhớ ra điều gì, anh chàng bước tới điện thoại, xin tổng đài số máy của bệnh viện ở Salla.
Vài phút sau, đường dây từ phía bệnh viện bào tín hiệu.
- Tôi muốn gặp một bệnh nhân tên Rivke Ingber.
- Rất tiếc thưa ngài. Ở đây, chúng tôi không có bệnh nhân nào tên Rivke.
- Cô ta vừa nhập viện sáng nay. Một tai nạn xảy ra tại khách sạn Revontuli. Chấn thương do ngã từ đường trượt. Thân nhiệt giảm, bỏng lạnh, gãy hai chân. Một xe cứu thương cùng với bác sĩ … Để tôi nhớ xem. À, bác sĩ Simonsson.
- Thật là ngại quá, thưa ngài. Chúng tôi chỉ có năm bác sĩ. Nhưng không có ai tên là Simonsson.
- Ông ta còn trẻ, râu ria xồm xoàm.
- Có lẽ ngài nhầm lẫn chăng. Tôi vừa kiểm tra. Từ sáng tới giờ không có cú gọi khẩn cấp từ khách sạn Revontuli. Không có bệnh nhân nữ nào vừa nhập viện. Không có bác sĩ Simonsson. Ba bác sĩ ở đây đều luống tuổi. Họ đều có gia đình. Còn hai người nữa chuẩn bị năm tới về hưu.
- Gần đây còn bệnh viện nào không?
- Ở tận Kemijarvi mới có.
Khi James hỏi tiếp ba bốn bệnh viện ở vùng phụ cận, họ đều lắc đầu.
Quái, chuyện này là như thế nào?
Chuyển tín hiệu, anh chàng quay số của đồn cảnh sát địa phương. Đám cớm cũng không biết. Sáng nay, họ không cho bất kỳ xe tuần tra nào tới khách sạn Revontuli.
Chưa ra trận nhưng bộ tứ của chiến dịch Icebreaker đã kẹt vào một cái bẫy nham hiểm, xảo trá. Những con người dày dạn trên chiến trường tình báo giờ đành chịu bó tay? Kẻ địch thật độc ác. Mưu kế quá hoàn hảo.
Ngay trong phòng của Mosolov, giọng của James cứ cuồng nộ:
- Theo ông bạn, chúng ta cứ chịu trận? Không thể giúp gì cho Rivke?
Điềm tĩnh, Mosolov đáp lại:
- Chúng tôi đã thông báo cho Mossad. Lẽ ra cô ấy phải thận trọng hơn thế chứ. Nhiệm vụ của chúng ta không phải là vú em đúng không? Nếu cô ấy không thể tự giữ mình, đám Mossad phải cho người theo sát cô ta.
Nghe cái gã chết tiệt này lý sự, anh chàng phát cáu. Ấy, nhớ lại khi nãy, đôi chúng tôi dài dòng với mấy cú phôn, anh chàng tới phòng của Mosolov khá trễ.
•
• •
Vừa mới gõ cửa, Mosolov vội bước tới mở ra. Đẩy hắn sang một bên, anh chàng đặt ngón tay lên môi ra hiệu im lặng, tay còn lại cầm thiết bị dò tìm VL34 quơ quơ về phía trước.
Còn Brad nở nụ cười khó hiểu, dáng vẻ bồn chồn khi James giơ VL34 quanh phòng.
Nhìn Brad, anh chàng gắt gỏng hỏi:
- Ông bạn đã rà soát mọi thứ?
- Vâng, vừa đặt chân đến đây mình đã dùng máy rà hết mấy căn phòng.
- Lúc còn ở khách sạn Madeira cũng thế chứ?
Không chút bối rối, Brad nhắc lại:
- Vâng. Mình đã quét cẩn thận. Ở đây và cả Madeira.
Giọng anh chàng chua cay:
- Nếu thế thì có rò rỉ thông tin. Một người trong chúng ta là kẻ phản bội. Dĩ nhiên không phải là tôi.
Cáu gắt, Mosolov hỏi ngay:
- Một người trong chúng ta?
Rồi anh chàng kể lại cho cái gã người Nga nghe cú phôn thách thức của Paula. Từ bực dọc, gương mặt của hắn chuyển sang đăm chiêu, suy nghĩ.
Vâng, kẻ đứng đằng sau giật dây mọi chuyện đều nắm rất rõ đời tư của từng người một trong chiến dịch Icebreaker. Không phải là vô tình. Một cái bẫy đã gài sẵn chờ con cá mắc câu.
- Theo tôi, chẳng phải là bãi mìn còn sót lại trên vùng đất này. Trượt tuyết đối với Rivke, tôi và cả Mosolov mà nói là trò trẻ con, đúng không nào? Chẳng hiểu Brad thì sao?
Gã người Mỹ đáp ngay:
- Mình cũng vậy.
Theo ý của anh chàng, bọn chúng có thể dùng điều khiển từ xa. Mà cũng dám một tên bắn tỉa nấp đâu đó trong khách sạn. Rồi viên đạn kích hoạt ngòi nổ của quả bom.
- Vâng, khả năng dùng điều khiển là đáng nghi nhất. Bọn chúng mua đứt một người trong chúng ta. Theo dõi những người còn lại, đâu có khó gì.
Bỗng Brad xen vào:
- Cái lão bá tước Von Gloda cùng mụ vợ dùng điểm tâm ở đây. Mosolov, ông bạn có biết chuyện này không?
Vâng, sau khi chúng ta quay trở lại, tôi còn thấy họ ngồi đấy.
Sẵn lời gợi ý của Brad, anh chàng tranh thủ hỏi Mosolov:
- Đã tới lúc chúng ta cần bàn về lão Von Gloda, phải không Mosolov?
Khẽ tằng hắng, gã người Nga đáp lại:
- Cái lão Von Gloda là đáng nghi nhất …
Giọng của Brad tiếp theo:
- Vâng, chỉ mình lão.
James quả quyết:
- Dám lão là tên đầu xỏ đứng đằng sau lưng giật dây cái bọn NSAA.
Rên rỉ vài tiếng rồi Mosolov tiếp lời:
- Lần trước tôi không đề cập tới lão vì còn đợi một số bằng chứng xác định hang ổ của lão.
Xích lại gần hắn ta một chút, James hỏi, vẻ nghi ngờ:
- Thế ông bạn đã có chút bằng chứng nào chưa?
- Vâng, đủ tất cả. Đó là một phần của buổi họp tối nay.
Dừng lại một tí cho thêm phần quan trọng, giọng của Mosolov đầy vẻ kịch tính.
- Cả hai ông bạn đều biết lão Von Gloda là ai, đúng không nào?
Anh chàng gật đầu ngay:
- Vâng. Rồi sao nữa?
Brad nhào vô ngay:
- Và mối quan hệ của lão với Rivke?
Mosolov khề khà:
- Chính thế. Lát nữa chúng ta sẽ làm rõ chuyện này.
Nghe xong, James bực mình mỉa mai:
- Và chuyện lão cho bọn đầu gấu sát hại cô ta.
Ngoảnh đầu lại, Mosolov nhìn thẳng vào mặt của anh chàng, giọng hắn khá từ tốn.
- Theo tôi cô ta vẫn ổn. Chẳng có chuyện gì nguy hiểm đâu. Hệt như cô ta đi nghỉ phép thế thôi. Điều quan trọng bây giờ là chúng ta phải tìm cách đập tan âm mưu của bọn NSAA. Vâng, đêm nay chúng ta ra trận phải hết sức dè dặt.
- Cứ cho là vậy đi.
Rồi Mosolov trải một tấm bản đồ có hình của căn cứ Blue Hare đầy những dấu xanh đỏ, vàng đen, lên sàn nhà.
Đặt ngón tay trỏ lên một chữ thập đỏ về phía Nam của Alakurtti sâu vào trong đất Nga, cách biên giới khoảng sáu mươi cây số và khách sạn Revonluti độ bảy mươi lăm cây số, hắn nói tiếp:
- Theo dự báo thời tiết, nhiệt độ đêm nay xuống dưới 0 độ vào lúc nửa đêm, có tuyết nhẹ rồi mưa giông. Chúng ta phải dùng xe mô tô trượt tuyết đến đó.
Sau đó, hắn đưa tay chỉ đoạn đường cả ba người cần vượt qua đêm nay.
- Tôi biết Rivke giờ đang nằm ở bệnh viện …
Cáu gắt, anh chàng xen lời vào:
- Cô ta không có ở đó.
Vẫn trầm tĩnh, Mosolov tiếp tục:
- Tôi có vài sắp xếp khác. Ít nhất chúng ta cần bốn người cho hành động lần này. Vượt qua biên giới với sức mình là chính. Chúng ta sẽ theo con đường có lẽ bọn NSAA từng đi qua. Theo tôi dự tính, James và tôi dùng xe mô tô tới Alakurti. Hai người còn lại làm nhiệm vụ canh chừng.
KGB báo cho biết đoàn công voa của bọn NSAA đã cấu kết với một số sĩ quan ở Blue Hare sẽ đến vào lúc 3 giờ sáng. Dù dùng bất cứ phương tiện gì, muốn lên hàng chúng phải mất ít nhất một tiếng. Có thể chúng dùng xe lội nước APC hoặc là BTR của Nga. Chúng ta sẽ dùng VTR và camêra có tia hồng ngoại để chụp hình, nếu cần thiết. Blue Hare là một nơi khỉ ho cò gáy. Thế nên không có ai dòm ngó đến việc lên hàng. Chúng ta phải di chuyển hết sức dè chừng. Theo chỗ tôi biết, chung quanh Blue Hare, đèn đuốc sáng trưng.
James hỏi ngay:
- Còn lão Von Gloda đón hàng ở đâu?
Nở một nụ cười bí mật, Mosolov ỡm ờ đáp lại:
- Lão vờn trên tấm bản đồ rồi ngón tay của hắn chỉ vào một chỗ được đóng khung.
Cả Brad và James cùng nhướng người nhìn theo ngón tay của Mosolov.
Ậy, đó là một khu vực ngay trong biên giới Phần Lan, xích lên trên con đường họ sẽ đi qua tối nay một chút. Anh chàng cố ghi nhớ toạ độ của nơi ấy.
Giọng trầm tĩnh, Mosolov tiếp tục:
- Tôi dám chắc với hai ông bạn đến 99% đấy.
Khẽ nhướng mày, đưa tay vuốt mớ tóc loà xoà trước trán, anh chàng hỏi lại:
- Dám chắc đến 99%? Tại sao ông bạn biết?
Quơ mấy ngón tay quanh những khung chữ nhật màu đỏ trên sơ đồ, Mosolov khề khà:
- KGB đã phái người theo dõi suốt cả khu vực này tuần qua. Mà nay, trên khắp châu Âu còn không biết bao nhiêu là công sự chiến đấu còn sót lại. Chẳng hạn như ở Pháp, ở Anh … hầu hết còn nguyên vẹn.
Gật gù, anh chàng đồng ý:
- Chuyện đó rõ rồi. Nhưng chúng có liên quan gì đến chiến dịch Icebreaker?
Mỉm cười, thò tay rút ra một túi nylông bên dưới tấm bản đồ, Mosolov quăng ra một xấp hình. Toàn bộ được đánh dấu theo mã số. Có lẽ người ta dùng từ mấy chiếc máy bay do thám của Nga như Mandrake, Mangrove hay Brewer - Được chụp chúng vào khoảng cuối hè hay đầu thu gì đó.
Giữa những vệt trắng đen, anh chàng thấy thấp thoáng lối vào bằng xi măng của các lô cốt. Giở tiếp mấy bức hình khác, cả James và Brad đều nhận ra những hình ảnh được chụp từ vệ tinh trinh sát của quân đội. Nhiều nhóm màu sắc thể hiện từng lớp cấu trúc của địa hình.
Giọng hể hả, Mosolov nói tiếp:
- Chúng tôi dùng hệ thống vệ tinh tình báo đấy? Xem có ấn tượng không? Mà này, tôi còn vài thứ hấp dẫn nữa đấy.
Rút tiếp trong bao ny lông, hắn lấy ra tấm sơ đồ cùng với hình chiếu của một lô cốt thật lớn.
- Từ chỉ dẫn của vệ tinh, đám nhân viên tình báo đã vào cuộc truy tìm sự thật. Lần theo vài tấm bản đồ của khu vực này đã có từ chiến tranh mùa Đông và sau đó, KGB biết mấy tay kỹ sư quân đội Phần Lan từng xây dựng một công sự ngầm chứa vũ khí vào những năm cuối của thập niên 30. Lục lại hồ sơ, chúng tôi phát hiện ra một chuyện: công sự này từ trước tới giờ vẫn còn bỏ trống. Thế nhưng cách đây hai năm, trong suốt mùa hè, có nhiều thợ xây, xe ủi, dụng cụ cá nhân xuất hiện tại đó. Không còn nghi ngờ gì nữa, nơi ấy chính là hang ổ của Von Gloda.
Miết ngón tay dọc theo hình vẻ, giọng của Mosolov hơi có chút kích động:
- Đấy, hai ông bạn có nhận ra điều gì không? Bọn chúng xây bít lối ra vào, sửa lại nơi đậu xe, mở rộng kho chứa bên dưới.
Nhìn kỹ, anh chàng thấy hệt như những gì gã người Nga vừa nói. Lô cốt dường như khá lớn, được chia làm hai phần: một khu chứa các loại xe và hàng hoá. Phần còn lại chằng chịt như tổ ong, có đủ chỗ cho khoảng ba trăm người sống thoải mái trong vài năm. Một lối ra vào to song song với cái cửa nhỏ xuôi xuống độ sâu khoảng ba trăm thước.
- Theo chỗ tôi biết đó là cơ quan đầu não của Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã. Toàn bộ số vũ khí chôm chỉa từ căn cứ Blue Hare, chúng cất giấu ở đây.
Nhìn vào mặt Mosolov, giọng của Brad cay độc:
- Thế nhiệm vụ của chúng ta là chụp vài tấm hình làm bằng chứng phản bội tổ quốc của mấy sĩ quan Hồng Quân rồi theo sát đoàn xe chở vũ khí tới cái lô cốt đó.
- Chính xác là như vậy.
- Xem ra ba chúng ta phải hoạt động bất hợp pháp ở vùng biên giới. Bất cứ chiếc máy bay nào cũng có thể nã đạn vào đầu chúng ta.
Khá bình tĩnh, Mosolov đáp lại ngay:
- Không hề, nếu ông bạn làm theo đúng chỉ dẫn của tôi. Về phần mình, tôi sẽ cùng một nhân viên nữa của KGB tới đó vì có hai điểm cần bám sát.
Ngón tay của hắn chỉ thêm một hướng khác hơi chếch lên theo hướng Bắc.
- Vâng, cần rà soát cả hai điểm vượt qua biên giới. Trước đây, tôi đã dành chỗ này cho Rivke. Chúng ta cần phải có người dự phòng.
Suy nghĩ một lúc rồi anh chàng hỏi lại:
- Này Mosolov, tôi có một chuyện chưa rõ.
Ngẩng mặt về phía anh chàng, hắn đáp lại:
- Cứ nói.
- Nếu chúng ta lấy được bằng chứng, theo sát đoàn xe trở về lô cốt, bước tiếp theo thế nào?
Chẳng cần đắn đo, hắn đáp ngay:
- Vâng, có đủ bằng chứng, chúng ta sẽ tiến hành hai việc. Một là báo cáo về cho các cơ quan tình báo, tùy họ xử lý. Nếu không, cảm thấy thích hợp, tự chúng ta sẽ tiêu diệt bọn chúng.
“Tự ý hành động” xem chừng hấp dẫn đây. Lần này, 007 phải chạm trán với bọn bán mình cho quỷ dữ phát xít trong liên minh Hồng quân-KGB. Nếu kế hoạch thất bại, dám James và Brad không còn mạng trở về. Còn bọn NSAA ấy à, bị đánh động, chúng sẽ dời đi nơi khác. Thế là mất cả chì lẫn chài.
Ngay sau đấy, bộ ba trao đổi từng chi tiết nhỏ nhặt với nhau: nơi giấu mấy chiếc mô tô trượt tuyết, loại camêra thích hợp, vị trí của Brad, của Mujik, bí danh của tay nhân viên KGB thế chỗ Rivke.
Một giờ trôi qua căng thẳng. Cuối cùng, họ cũng thống nhất phương án hành động tối nay.
Trao cho anh chàng và Brad mấy tấm bản đồ, Mosolov căn dặn:
- Để tiện hành động, chúng ta sẽ gọi hang ổ của bọn chúng là LÂU ĐÀI BĂNG GIÁ. Nhớ đấy, Blue Hare và Lâu Đài Băng Giá.
Chỉnh lại đồng hồ, bộ ba hẹn gặp nhau ở RV vào lúc nửa đêm. Thế là mạnh ai nấy xuất phát trong khoảng từ 11 giờ 30 đến 11 giờ 40.
Trở về phòng, James dùng VL34 quét căn phòng cho chắc ăn. Quá bực mình! Ấy, thời đại công nghệ tiên tiến lắm phiền nhiễu. Chỉ lơ đễnh đôi chút là mất mạng như chơi. Nhớ lại ngày xưa, chỉ cần vài cái chẹn cửa, que diêm ở tủ thừa sức niêm phong căn phòng. Chẳng phải anh chàng quá kỹ tính, lo chuyện đâu đâu.
Không ngoài dự đoán, trong thời gian James vắng mặt, bọn chúng lẻn vào đây gắn tiếp mấy con bọ nghe trộm. Một con trong ống nghe điện thoại, một con sau tấm kiếng trong nhà tắm. Con thứ ba được nhét vào chồng giấy viết ngay trên bàn. Con cuối cùng lẻn vào trong bóng mới thay của chiếc đèn nằm cạnh giường.
Quét đi, quét lại căn phòng ba lần cho yên bụng rồi anh chàng trải tấm bản đồ xuống giường. Mở túi xách, James lấy ra cây compa chuyên dùng của đám quân đội. Với vài tờ giấy pơ luya, cạnh của thẻ tín dụng, anh chàng bắt đầu đo đo, tính toán toạ độ, vị trí của các lối đi.
Chiến dịch Icebreaker quả là bài toán hóc búa. Kẻ thù luôn giấu mặt mà đám chiến hữu toàn là lũ bát nháo. Chẳng ai tin lấy một ai. Cứ làm ăn kiểu này còn khuya mới phá được án! Đôi mắt của anh chàng cứ dán chặt vào những đường ngang, nét dọc trên tám bản đồ.
Thật tình cớ, anh chàng nghĩ ra được một điều.
Rứt ngay một tờ giấy trong chồng pơ luya, James đặt lên vị trí của toà Lâu Đài Băng Giá. Cẩn thận, anh chàng dùng bút chì kẻ chu vi của lô cốt. Sau đó, anh chàng thêm vào toạ độ của cả khu vực. Rồi James đẩy tờ giấy theo hướng Đông-Bắc với khoảng cách chừng năm mươi cây số. Đường chéo di chuyển từ lô cốt vượt qua phần biên giới ngay trong đất Nga. Với toạ độ chính xác, địa hình xuôi xuống những độ cao của vùng đất chung quanh, khu rừng, những con sông. Nói chung, phép vẽ địa hình rất giống nhưng cái này hoàn toàn kỳ lạ. Chẳng lẽ mấy tấm bản đồ được in đặc biệt cho chiến dịch? Hay là có hai cách định vị chính xác dọc theo mỗi bên của đường biên giới?
Từng ly, từng tí một, anh chàng sao lại vị trí thứ hai của toà Lâu Đài Băng Giá vào bản đồ. Quá bất ngờ! Hang ổ của lão Von Gloda, nơi xuất phát của đoàn công voa không phải nằm trên phần đất của Phần Lan. Chúng vẫn còn thuộc phía bên kia biên giới của Nga. Vâng, toàn bộ khu vực này có địa hình giống nhau đến từng chi tiết trong khoảng năm mươi cây số về mỗi bên.
Còn vị trí của lối ra vào lô cốt? Cả hai cửa cũ mới đầu hướng về phía Nga. Nhớ lại trước đây, vào lúc chưa xảy ra cuộc chiến tranh mùa Đông 1939-1940, phần đất này vốn của Phần Lan. Nhưng dù thế nào đi nữa, thật là khó hiểu khi cả hai cửa mới cũ đầu nhìn về đất Nga. Vâng, không loại trừ khả năng người Nga xây nên toà Lâu Đài Băng Giá. Nếu nơi đấy đúng là sào huyệt của bọn NSAA, có hai khả năng xảy ra: Bọn cầm đầu Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã là những tên khủng bố táo tợn, chuyện gì cũng dám làm. Còn không thì, đám sĩ quan Hồng Quân đã tham nhũng, hủ hoá vượt ngoài dự đoán của mọi người.
Giờ tới lúc anh chàng phải phôn về cho ông M. Tốt hơn hết, không rờ vào điện thoại trong phòng. Biết đâu kẻ địch câu trộm đường dây thông qua tổng đài của khách sạn. Cố nhét toàn bộ chi tiết toạ độ vào ký ức rồi James rứt thêm vài tờ giấy pơ luya ra, xé cùng với tờ ban nãy.
Bước vào phòng tắm, anh chàng quăng vào bồn cầu, xả nước cho chúng trôi hẳn. Khoác vào người bộ đồ ấm, James rời phòng, theo thang máy xuống bàn tiếp tân, ra chỗ đậu xe. Cùng với mớ thiết bị chuyên dùng trong chiếc Saab, văn phòng Q đã gắn cho anh chàng một loại phôn vô tuyến đặc biệt có khả năng hoạt động với bán kính hai mươi dặm. Trong trường hợp này, tầm hoạt động cỡ đó nào ăn thua gì. Cú điện đường dài về Luân Đôn phải dùng loại phôn thông thường mới được. Dù sao, máy bộ đàm trên chiếc Saab có hai thiết bị khá tiện lợi. Thiết bị thứ nhất là một hộp đen nhỏ gắn hai đầu điện cực. Cái hộp này không lớn hơn hai cuộn băng cát xét gắn chồng lên nhau. Lấy nó ra từ trong ngăn chứa bao tay, anh chàng khởi động lại thiết bị báo trộm, khoá xe, quay về phòng.
Không có nhiều thời gian, James giơ nhanh VL34 khắp căn phòng một lượt. Thấy tín hiệu trên VL34 báo âm tính, anh chàng tháo phần dưới của cái phôn và ống nghe ra rồi nối hai đầu điện cực của cái hộp đen lại với nhau. Vâng, giờ James có thể dùng thiết bị điện tử tiên tiến này như một tổng đài hoạt động máy bộ đàm trong xe. Hệt như cách câu trộm đường dây điện thoại của khách sạn.
Còn nữa, cái phôn trong xe còn có thêm một lợi thế. Trở lại chiếc Saab, anh chàng khởi động hai nút đen trên bảng điều khiển. Từ bên trong để lộ ra một bàn phím và một màn hình nhỏ, một bộ xử lý âm phức hợp có thể che giấu giọng nói hoặc chuyển tải thông tin về một màn hình tương ứng ở Cục Phản Gián tại công viên Regent. Rồi tại đấy, theo hệ thống lập trình đã cài sẵn, thông tin sẽ chuyển đổi thành ngôn ngữ máy tính.
James nhấn nút cần thiết, kết nối mạng từ máy bộ đàm trên xe với điện thoại trong phòng, gõ mã vùng Phần Lan, Luân Đôn, số điện thoại của tổng hành dinh Cục Phản Gián Hoàng Gia. Kích hoạt hệ thống chuyển đổi, rồi anh chàng đánh bản báo cáo bằng ngôn ngữ thông thường.
Ngay lập tức, trên màn hình hiện ra một rừng dấu hiệu ngoằn ngoèo. Khoảng mười lăm phút sau, khi đánh xong toàn bộ bản báo cáo, anh chàng cúi người xuống bóng tối của chiếc xe, chỉ có chút ánh sáng phát ra từ phía màn hình.
Phía ngoài cửa xe, tuyết bám dày đặc. Ngọn gió lạnh tiếp tục thổi nhè nhẹ. Nhiệt độ cứ giảm dần.
Khi chuyển xong bản bào cáo, anh chàng đặt tất cả vào vị trí cũ, khởi động hệ thống báo trộm, trở về phòng. Một lần nữa, để an toàn, anh chàng dùng VL34 quét căn phòng lần nữa rồi gỡ cái hộp đen ra khỏi điện thoại.
Vừa định trở xuống chiếc Saab cất nó trước khi chiến dịch bắt đầu, bông có tiếng gõ cửa vang lên.
Không chút dễ ngươi, James rút khẩu P7 ra, bước tới mở sợi xích ngay chốt.
- Ai đấy?
- Brad đây.
Quái, gương mặt hắn có chút nhợt nhạt, còn đôi mắt lấm la, lấm lét. Gặp anh chàng, hắn xổ liền một hơi:
- Tay Mosolov thật là tệ hại.
Vẫy tay về phía chiếc ghế, anh chàng hỏi ngay?
- Chuyện gì thế, ông bạn? Cứ nói đi, tôi gỡ hết mấy con bọ nghe trộm rồi. Mới vắng mặt có vài tiếng, bọn chúng lẻn vào gắn đầy.
- Phòng mình cũng thế.
Bỗng nhiên hắn mỉm cười nửa chừng rồi dừng lại ngay. Hệt như gương mặt của bức tượng đang được chạm khắc dở dang.
- Mình bắt được tại trận hành vi lén lút của Mosolov. Anh bạn biết chuyện gì không?
- Không.
- Mình để quên một món đồ chơi ở phòng hắn. Đằng sau cái gối trên ghế bành. Nhờ vậy mình mới nghe lỏm được.
- Cùng một đội hành động ai lại làm thế?
Vừa nói xong, James bước tới mở tủ lạnh, hỏi hắn uống gì.
- Vâng, cậu nói đúng. Nhưng cái nghề của chúng ta, chỉ nên tin vào chính mình, đúng không?
Pha một ly Maritni rồi anh chàng đưa cho Brad. Hớp vài ngụm xong, khẽ gật gù, hắn nói tiếp:
- Mosolov gọi vài cú phôn. Hắn dùng nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau. Lại nói bóng, nói gió xem chừng rất khó hiểu. Mình chẳng thể nào nắm được toàn bộ chi tiết. Cuối cùng, hắn dùng tiếng Nga nói thẳng ra một chuyện. Đại loại, hắn đưa chúng ta vào rọ trong chuyến đi tối nay.
- Thế ư?
- Vâng. Chúng còn bàn cách xử lý Rivke ngay ở biên giới trong một khu vực có mìn. Thậm chí mình còn biết vị trí chính xác của chỗ ấy.
- Chỗ nào?
- Dù không phải là vùng tử địa nhưng chỗ ấy khá nguy hiểm. Đưa bản đồ đây, mình chỉ cho.
- Cứ cho tôi biết toạ độ.
Trong nhưng giờ phút quyết định như thế này dù bạn hay thù cũng mặc. Khi đã thêm vài chi tiết về vị trí của toà Lâu Đài Băng Giá vào bản đồ, ngu dại gì James cho hắn xem.
- Cậu đa nghi quá đấy.
Gương mặt hắn đột nhiên căng thẳng, Vẻ hung dữ, cau có hiện rõ trên ánh mắt.
- Cứ cho tối biết toạ độ.
Rồi hắn đọc liến thoắng vài con số. Tưởng gì, hoá ra nơi ấy nắm rất gần khu vực tác chiến. Nghe chừng cũng có lý. Một khu vực đầy mìn với khả năng kích nổ từ xa chỉ cách con đường họ băng qua có vài thước.
Giọng càu nhàu, Brad hỏi lại:
- Cậu không nghe ngóng được tin tức gì à? Bọn chúng có một lối thoát dành cho cậu đấy?
Làm bộ ngây thơ, James đáp ngay:
- Tôi không hiểu Mosolov muốn gì.
- Vâng, theo mình nghĩ một xác chết là người bạn tin cẩn nhất. Đúng không?
Khẽ gật đầu, hớp một ngụm martinis, anh chàng mối điếu thuốc:
- Thử đoán xem giờ tôi đang nghĩ gì?
Rồi chẳng để hắn trả lời, anh chàng nói tiếp:
- Một đêm dài lạnh lẽo giữa băng giá.