Chương 5: Đi Singapore"]
Sau một thời gian cải trang, chiếc thuyền thu được từ bọn hải tặc trông đã khác hẳn nguyên dạng. Thân thuyền được sơn lại, vải buồm được may mới, nội thất trên thuyền cũng được thay mới (do nhu cầu sinh hoạt của người Việt khác người tây phương). Nói chung là chiếc thuyền trông rất mới, không ai có thể nhận ra nó là thuyền của bọn hải tặc trước đây.
Chuyến đi này, Hoàng mang theo 30 hộ vệ do Võ chỉ huy, Quỳnh cũng đi theo. Ngoài ra, để mở rộng tầm mắt cho các vị Hương chức trong Hội đồng làng, trừ ông Hưng phải ở lại xử lý công việc trong làng, Hoàng để lại 13 khẩu súng trương và 60 người bảo vệ còn lại để bảo vệ lang, bốn người trong Hội Đồng làng còn lại đều đi theo. Đại sự của Hoàng sau này cần bọn họ phụ tá, nên cần đưa bọn họ ra ngoài để mở mang kiến thức. Ở mãi trong làng, tầm mắt bị giới hạn, khó làm nên đại sự. Do mọi người chưa từng đi xa đến vậy nên để tránh lạc đường, ba gã hải tặc đầu hàng cũng được đưa đi theo. Lúc trước bọn Tuấn Văn bắt được năm gã, và ba gã đó biết nghe lời nhất. Như vậy, chuyến đi này kể luôn Tuấn Văn gồm có 40 người. Vũ khí bao gồm 1 khẩu pháo nhỏ trên thuyền, 30 khẩu súng trường và 2 khẩu súng ngắn. Trong làng còn lại 60 hộ vệ của Hoàng với 13 khẩu súng trường, và ông Hương Chánh cũng có một khẩu súng ngắn, trừ khi gặp phải bọn hải tặc ngoại quốc, bằng không cũng đủ tự bảo rồi.
Ngày lên đường, dân làng ra bến đưa tiễn rất đông. Những ai đi chuyến này đều mang theo nhiều tiền bạc, định sẽ mua những vật dụng cần thiết mà ở đây không có. Nếu như chưa cần sử dụng, mang lên chợ huyện, chợ phủ bán cũng có thể kiếm được nhiều tiền. Bọn họ xem chuyến đi này cũng như một chuyến đi chợ mà thôi, chỉ có điều đi xa một chút. Ngày xưa, chợ quê thường họp nửa tháng hoặc một tháng một lần, những người ở xa có khi mất đến mấy ngày để đi chợ. Chuyến này đi Singapore, đối với dân làng bình thường chẳng đi đâu xa, thì cũng như một chuyến đi chợ xa mà thôi. Nếu nhìn trên bản đồ, từ đây đi Singapore cũng chỉ tương đương đi ra kinh đô Huế. Mấy chục năm trước, ba ông già Ba Tri là Thái Hữu Kiếm, Nguyễn Văn Tới và Lê Văn Lợi có thể đi bộ ra Huế xin gặp vua Minh Mạng nhờ xử kiện và trở nên nổi tiếng. Qua chuyện đó, người dân xứ này đã không ngại chuyện đi xa.
Bình thường, từ vùng Gia Định đi Singapore mất khoảng mười ngày. Nhưng lần này đi ngược gió, Tuấn Văn vì muốn an toàn, chỉ đi gần bờ, nên phải mất hơn nửa tháng mới đến nơi. Vào mùa hè, gió mùa tây nam (đôi khi còn gọi là gió nồm) từ khu vực Ấn Độ Dương thổi lên, mang theo hơi nóng của miền xích đạo, và làm chậm hành trình của những chiếc thuyền đi xuống phương nam. Trên thuyền của Hoàng cũng có một động cơ hơi nước nhỏ, sử dụng chân vịt, nhưng vì không có nhiều than nên chỉ sử dụng khi cần thiết (lúc không có gió). Thời bấy giờ, tuy động cơ hơi nước đã được ứng dụng trên tàu thuyền, nhưng vì công suất không cao nên tác dụng chưa lớn, đặc biệt là những chiếc thuyền đi biển, buồm vẫn giữ vai trò quan trọng, động cơ hơi nước chỉ đóng vai trò phụ trợ.
Năm 1769, James Watt phát minh ra động cơ hơi nước, nhưng ban đầu chỉ được ứng dụng chủ yếu trong ngành công nghiệp dệt. Đến năm 1786, John Fitch mới tạo ra chiếc tàu gắn động cơ hơi nước đầu tiên, rồi sau đó được Robert Fulton cải tiến để có thể ứng dụng vào thực tế. Nhưng đó chỉ là những chiếc tàu sử dụng guồng đẩy nước kiểu cũ, tính thực dụng chưa cao. Mãi đến năm 1804, chiếc tàu hơi nước sử dụng chân vịt của John Stevens xuất hiện, mới giúp động cơ hơi nước được sử dụng rộng rãi trên các tàu thuyền. Nhưng cho đến lúc ấy, động cơ hơi nước vẫn chưa thể thay thế cho buồm. Đến cuối thập niên 1840, do động cơ hơi nước giúp làm giảm sự phụ thuộc của các trận chiến vào gió, đã dẫn tới việc chế tạo ra những chiếc tàu chiến tuyến (ship of the line) được trang bị chân vịt, nhưng vỏ làm bằng gỗ.
Phải đến sự ra đời của khu trục hạm (frigate) được bọc thép vào năm 1859 mới nhanh chóng dẫn tới sự lụi tàn của những chiếc tàu chiến tuyến được trang bị động cơ hơi nước. Đến năm 1865, người Pháp hạ thủy chiếc Belliqueuse, chiếc tuần dương hạm bọc thép đầu tiên. Cho đến thập niên 1870, nhiều nước khác đã chế tạo những tàu bọc thép chuyên biệt dùng trong tuần tra, cướp phá nhanh và độc lập, được gọi là thiết giáp tuần dương hạm. Dù vậy, mãi đến thập niên 1890, thiết giáp tuần dương hạm vẫn còn được chế tạo với những cột buồm, cho phép chúng hoạt động cách xa các cảng tiếp than thân thiện. Các tàu tuần tra không bọc thép, được chế tạo bằng gỗ, hoặc là phối hợp gỗ với sắt thép, vẫn tiếp tục thông dụng cho đến cuối thế kỷ 19. Lớp vỏ giáp của các tàu bọc thép làm tăng trọng lượng của chúng, cũng có nghĩa là chúng bị giới hạn trong các hoạt động tầm gần với động cơ hơi nước. Chúng không phù hợp cho các nhiệm vụ ở tầm xa, các cuộc chiến ở nơi xa xôi.
Nói tóm lại, lúc này là năm 1858, các chiến hạm vẫn phổ biến là thuyền buồm bằng gỗ, tuy có trang bị động cơ hơi nước dùng chân vịt những vẫn chỉ có tác dụng phụ trợ. Chiếc thuyền của Tuấn Văn tuy có lạc hậu, nhưng cũng chưa đến nỗi nào.
Nhờ sự dẫn đường của bốn thủy thủ người Tây Ban Nha (hải tặc đầu hàng), thuyền của bọn Hoàng bình an đến được eo biển Malacca. Khi gần đến nơi, Tuấn Văn ra lệnh treo cờ lên đỉnh cột buồm. Đó là một lá cờ nền vàng (quốc kỳ của Đế quốc Đại Nam lúc bấy giờ là một lá cờ màu vàng không có hình vẽ gì), ở giữa có hình một chiếc khiên và một cây thánh giá. Hoàng sử dụng hình thánh giá để việc giao thiệp với người tây phương thuận lợi hơn, mặc dù trong bọn họ không có ai là giáo dân. Nhưng Hoàng hiểu kinh thánh, hiểu về Cơ Đốc giáo và đã mua những thứ cần thiết cho chuyến đi. Hoàng chỉ cần khoác chiếc áo choàng mới mua từ 1 vị linh mục là được, thì trông cũng chẳng khác gì là linh mục. Bọn Võ và các vị Hương chức rất tín phục Hoàng, nên đối với sự an bài đó cũng chẳng thắc mắc. Nhập hương tùy tục mà. Mọi người đến địa bàn của người tây phương thì cũng phải có cách tự bảo vệ. Tuấn Văn đến Singapore là để tìm mua thêm vũ khí chuẩn bị chống lại cuộc xâm lược sắp tới của liên quân Pháp – Tây Ban Nha. Nhưng lý do đó làm sao nói ra được. Nếu bị phát hiện, nhà cầm quyền Anh sẽ bắt cả bọn giao cho người Pháp mất. Chỉ có lý do mua vũ khí để bảo vệ đạo là thích hợp nhất. Các nước tây phương lúc bấy giờ rất ủng hộ chuyện đó.
Khi thuyền đi vào địa phận eo biển Malacca, bọn Hoàng gặp phải các chiến hạm tuần tra của Hải quân Anh và Netherlands. Hoàng cùng bọn họ giao thiệp, nhờ có bộ áo choàng linh mục nên không gặp vấn đề gì. Hiệp ước Anh – Netherlands năm 1824 đã chia vùng này thành hai phần, Anh quốc kiểm soát Malaya, và Netherlands kiểm soát Dutch East Indies, tức là hai quốc gia Malaysia và Indonesia ngày nay. Vùng eo biển Malacca là biên giới trên biển của hai bộ phận đó, nên có Hải quân cả hai nước tuần tra kiểm soát.
Netherlands là tên thật của quốc gia ở tây bắc Âu châu mà nhiều người vẫn gọi là Hà Lan hay Holland. Nơi đó vốn là lãnh thổ của Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức. Sau cuộc chiến tranh tám mươi năm, đến năm 1781, các bang Holland, Zeeland, Groningen, Friesland, Utrecht, Overijssel, và Gelre tách ra khỏi Đế quốc và thành lập nền cộng hòa, gọi là Republic of the Seven United Netherlands. Khi Napoleon I Bonaparte xâm chiếm Netherlands, thành lập Vương quốc Hà Lan (Kingdom of Holland), giao cho anh trai là Louis I Bonaparte làm quốc vương. Sau khi Napoleon I Bonaparte thất bại trong trận Leipzig năm 1813, buộc phải rút quân thì người dân nước này thành lập Liên hiệp Vương quốc Netherlands (United Kingdom of the Netherlands). Sau khi mất đi nhiều thuộc địa, ngày nay tên nước này là Vương quốc Netherlands (Kingdom of the Netherlands). Như vậy, tên gọi Hà Lan hay Holland chỉ được sử dụng khi nước này bị Pháp xâm chiếm và dòng họ Bonaparte cai trị (1806 - 1810). Do đó, gọi họ là Hà Lan cũng giống như gọi Việt Nam là Giao Chỉ (tên gọi khi bị nước Tàu đô hộ), là một cách gọi không hay.
Được các chiến hạm tuần tra hướng dẫn, bọn Hoàng sau nửa tháng lênh đênh trên biển, cuối cùng cũng cập cảng Singapore an toàn. Quan viên trên cảng nhìn thấy bọn Hoàng, ngạc nhiên hỏi :
- Các vị đến từ Quảng Châu ?
Thời bấy giờ, vùng Quảng Châu có nhiều thương nhân nước ngoài hoạt động, phong khí khá thoáng, nên xuất hiện linh mục người Á châu là chuyện bình thường. Hơn nữa, quốc kỳ của Đại Thanh cũng có nền màu vàng. Còn Hương Cảng mới được cắt nhượng cho Anh quốc sau Hiệp ước Nam Kinh, vẫn chưa phát triển thành một đại đô thị. Gã ta thấy Tuấn Văn là linh mục, nên nói chuyện khá khách khí. Thời bấy giờ, linh mục dù bất kể màu da gì cũng đều được tôn trọng.
Lại nói, khi nghe gã quan viên trên bến cảng hỏi có phải đến từ Quảng Châu hay không, Hoàng mỉm cười đáp :
- Không phải. Ta đến từ Đại Nam.
Cũng giống như người Á Đông nhìn người Âu Mỹ, người Âu Mỹ nhìn người Á Đông cũng thấy tương tự nhau, không thể phân biệt được người Hoa với người Việt. Thật ra người Hoa có bím tóc sau lưng, thường bị nhạo là “trư vĩ ba” (đuôi heo), còn người Việt thì không. Nhưng Hoàng mặc trang phục linh mục, nên khó phân biệt. Khi nghe nói thế, gã kia thoáng ngẩn người, ngơ ngác hỏi :
- Đại Nam là ở đâu ạ ?
Hoàng nói :
- Empire of Annam.
Đế quốc Đại Nam, người Pháp gọi là Empire de Annam, còn người Anh gọi là Empire of Annam. Gã kia nghe nói thế là biết ngay, giật mình hỏi :
- Ở đó cũng có linh mục bản địa sao ?
Hoàng mỉm cười nói :
- Ta thuộc Tân giáo, không phải dòng thừa sai Paris.
Dòng thừa sai Paris thuộc Giáo hội Cơ Đốc giáo La Mã, còn Tân giáo là Giáo hội Kháng Cách (còn gọi là đạo Tin Lành), là quốc giáo của Anh quốc, Mỹ quốc và các quốc gia vùng Trung - Bắc Âu. Do đó, gã kia càng khách khí hơn, hỏi :
- Cha đến đây có việc gì thế ? Có cần chúng ta giúp gì không ?
Hoàng mỉm cười nói :
- Ta muốn mua một ít vũ khí để tự vệ. Tình hình ở Đại Nam hơi phức tạp. Ta cũng không mua nhiều, khoảng trăm khẩu súng thôi, vì không có nhiều tiền. Trên thuyền là ít hàng hóa mà mọi người cống hiến, ta định mang bán, lấy tiền mua vũ khí. Nếu được, hy vọng cậu chỉ đường cho ta. Ta đến đây lần đầu, không biết đường lối.
Gã kia nói :
- Vâng. Con sẽ cho người dẫn đường cho cha. Con nghĩ cha hãy đến Nhà thờ gặp cha Smith, sẽ có ích cho cha. Con cũng sẽ báo cáo chuyện cha đến đây với Ngài Thống đốc. Con nghĩ Ngài Thống đốc sẽ gặp cha.
Tuấn Văn cảm ơn gã, rồi theo sự dẫn đường của một viên cảnh sát. Hoàng chỉ dẫn theo Võ, Quỳnh và 10 hộ vệ, những người khác tạm thời ở lại trên thuyền. Singapore là một cảng quan trọng trong khu vực, nên nhiều quốc gia có mở lãnh sự quán, đặt công sứ, để bảo vệ quyền lợi cho thương nhân của nước họ. Đi trên đường, Hoàng cảm thấy Singapore khác hẳn với ý nghĩ ban đầu trước khi đến đây. Hoàng cứ tưởng Singapore phải là một đô thị sầm uất nhộn nhịp. Nhưng không, Singapore trong mắt Hoàng lúc này là một đô thị xô bồ, dơ bẩn và hỗn loạn.
Từ xưa, đảo Singapore đã là một bộ phận của các vương quốc trên bán đảo Malaya. Tương truyền, trong những năm 1390, hoàng tử Parameswara của Vương quốc Srivijaya vừa bị diệt vong bởi Vương quốc Majapahit, dẫn tàn quân chạy sang Temasek, trên đường đi đã ghé vào đảo, và nhìn thấy một con vật được cho là sư tử. Vị hoàng tử này cho là một dấu hiệu tốt lành, nên sau khi thành lập Vương quốc Hồi giáo Malacca trên bán đảo Malaya đã cho xây dựng một khu định cư trên đảo, gọi là Singapura, nghĩa là “Thành phố sư tử” (trong tiếng Malaya, Singa là sư tử, pura là thành phố), mặc dù cho đến ngày nay người ta vẫn không tìm thấy sư tử trên đảo. Và khi người Anh đến, họ gọi nơi này là Singapore.
Trong nhiều thế kỷ, Singapore là một thương cảng quan trọng của Vương quốc Hồi giáo Malacca, rồi Vương quốc Hồi giáo Johor kế tiếp. Năm 1819, Thống đốc Anh tại Bencoolen là Thomas Stamford Raffles đã đến Singapore, tham gia vào cuộc soán vị ở Vương quốc Hồi giáo Johor trên bán đảo Malaya, nhờ đó được vị Sultan mới nhượng hòn đảo lại cho Công ty Đông Ấn Độ thuộc Anh (phân biệt với Công ty Đông Ấn Độ thuộc Netherlands chiếm giữ các đảo thuộc Indonesia ngày nay). Nhưng lúc đó Singapore chưa là một thuộc địa của Anh mà chỉ là tô giới. Công ty Đông Ấn Độ thuộc Anh đã thuê hòn đảo với giá 1.500 bảng mỗi tháng, cùng với tiền thuế 800 bảng mỗi tháng. Mãi đến năm 1867, nơi đây mới chính thức trở thành thuộc địa của Anh.
Lúc này, năm 1855, Singapore đang thuộc quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Độ thuộc Anh. Và diện mạo đô thị của Singapore thì thật là tồi tệ. Kể từ năm 1827, người Hoa đã trở thành cộng đồng lớn nhất ở Singapore, và đã mang theo những thói quen sinh hoạt của họ đến đây, kiểu như khạc nhổ bừa bãi, không giữ vệ sinh (câu “Hoa nhân dữ cẩu bất đắc nhập nội” phổ biến trong thời kỳ này), đã khiến cho môi trường xã hội ở đây trở nên tồi tệ. Năm 1850, thành phố có 60.000 dân mà chỉ có 12 viên cảnh sát, khiến cho trật tự trị an rất kém. Mại dâm, cờ bạc và ma túy trở nên phổ biến. Các tổ chức tội phạm bí mật kiểu như Hội Tam Hoàng phát triển mạnh. Các vụ thanh toán đẫm máu với hàng trăm người chết diễn ra thường xuyên. Người dân thiếu các dịch vụ y tế. Bệnh truyền nhiễm như dịch tả, đậu mùa tràn lan. Tình hình đó đã khiến cộng đồng người Âu châu trên đảo lo lắng. Năm 1854, báo chí tự do ở Singapore (của người Âu châu) phàn nàn rằng đây là một hòn đảo nhỏ đầy cặn bã của cư dân Đông Nam Á (nguyên văn “very dregs of the population of south eastern Asia”).
Đi trên các đường phố dơ bẩn, Hoàng thầm nhủ sau này kiến thiết thành phố phải đặt vấn đề vệ sinh môi trường lên hàng đầu. Chứ để môi trường ô nhiễm, dịch bệnh hoành hành thì thật không hay.
Khi đến Nhà thờ tìm gặp cha Smith. Hai người bàn luận về kinh sách, và cha Smith rất khâm phục kiến thức của Hoàng. Trong lúc hai người nói chuyện thì không ngờ viên Thống đốc lại đến Nhà thờ, mục đích là muốn gặp Hoàng. Vì lý do chính trị, ông ta không tiền mời Hoàng đến dinh Thống đốc. Cha Smith giới thiệu :
- Đây là Sir Edmund Augustus Blundell, Thống đốc Singapore.
Thống đốc Blundell tỏ ra rất thân sĩ, hỏi han Hoàng nhiều điều, hứa hẹn nhiều thứ, rồi thật lâu sau đó mới lộ ra ý đồ của mình : hy vọng Tuấn Văn mở rộng địa bàn, nếu thay thế được triều đình Huế thì càng hay, Đế quốc Anh sẽ hậu thuẫn và hỗ trợ vũ khí vật tư. Hoàng vừa nghe nói là đã biết ngay Anh quốc muốn gì. Điều kiện trên nghe qua thì rất phong hậu, nhưng chỉ là “nghe qua” mà thôi. Thực tế khác hẳn.
Hoàng mỉm cười bảo :
- Nghe nói bán đảo Đông Dương đã được phân cho Pháp quốc. Nếu chúng ta khởi quân thành công, Anh quốc có thể bảo đảm Pháp quốc không tấn công Đại Nam hay không ?
Thống đốc Blundell ngớ người, không ngờ đối phương lại biết rõ như vậy. Ông ta định nói dối là có thể thì cha Smith cười bảo :
- Cha Phan là người minh bạch. Chúng ta nên nói chuyện một cách thành thực với nhau.
Thống đốc Blundell hết nhìn Hoàng rồi lại nhìn cha Smith, sau đó thở nhẹ một tiếng, nói :
- Ta là người trong chính giới, nói chuyện như thế quen rồi, hai cha đừng cười.
Hoàng nói :
- Ta có một phương án khác thích hợp hơn. Sau khi quân đội Pháp vào Đông Dương, các linh mục của dòng Thừa sai Paris sẽ tràn ngập nơi đó, ảnh hưởng đến hoạt động của người Tân giáo chúng ta. Ta hy vọng Anh quốc có thể ủng hộ giáo xứ của ta tự trị.
Cha Smith nói thêm :
- Giáo xứ của cha Phan nằm trên một hòn đảo nhỏ nằm gần kinh thành Huế, khoản 1/4 diện tích Singarore.
Thống đốc Blundell ánh mắt chợt sáng ngời, suy nghĩ một lát, rồi gật đầu nói :
- Nếu chỉ là tự trị, ta nghĩ Pháp quốc không có lý do gì để can thiệp vào. Ta sẽ báo cáo đề xuất của cha về Luân Đôn.
Cha Smith nói :
- Bọn họ giành hết Đông Dương, cũng phải để lại một chỗ cho Tân giáo chúng ta chứ. Ta cũng sẽ gửi thư về Luân Đôn ủng hộ đề xuất của cha.
Khi từ biệt, cha Smith tặng cho Tuấn Văn 100 bảng Anh dùng cho việc mở mang “giáo xứ”, còn Thống đốc Blundell tặng 100 khẩu súng trường, 5 khẩu súng ngắn với đầy đủ đạn dược. Hoàng đều nhận hết. Dù rằng biết người Anh hỗ trợ vì thấy rằng có lợi cho bọn họ, nhưng Hoàng không nghĩ rằng mình có thể độc lực chống lại quân đội Pháp, còn triều đình nhà Nguyễn thì ... lịch sử đã cho thấy là rất vô năng. Trước đó, ngay cả ông cha họ là Nguyễn Ánh hết cầu Xiêm lại cầu Pháp, còn gửi con trưởng là Hoàng tử Cảnh sang Pháp làm con tin, rồi chết ở bên đó. Sau này, các vua nhà Nguyễn đều học theo. Các Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất (1874), Quý Mùi (1883), Giáp Thân (1884) lần lượt bán hết chủ quyền của Đại Nam cho Pháp. Mặc dù các vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân có yêu nước, nhưng chống Pháp theo kiểu chỉ có niềm tin mà không có thực lực thì làm sao thành công được. Họ chống Pháp với ý thức chiến tranh thời cổ, nên đã thất bại rất nhanh chóng. Vua Duy Tân sau khi khởi nghĩa thất bại, bị bắt đi đày sang châu Phi, đã học tiếng Pháp, rồi trở thành sĩ quan Pháp (đầu tiên với cấp bậc hạ sĩ, sau đó bị giải ngũ, ông đã “xin” với thống đốc La Réunion là Capagory để được làm binh nhì, rồi sau được thăng lên chuẩn úy). Đến năm 1945, nhận thấy Việt Minh hoạt động rất mạnh và có nhiều cơ hội giành được chính quyền ở Đông Dương, Pháp đã định đưa cựu hoàng Duy Tân về nước để chống lại Việt Minh. Ngày 5 tháng 5 năm 1945, có lệnh đưa “chuẩn úy Duy Tân” về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở Paris. Các sử gia cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như một con bài chính trị trong kế hoạch tái chiếm Đông Dương của Pháp. Và cựu hoàng đã không phản đối. Nhưng vì tai nạn máy bay ngày 24 tháng 12 năm 1945 làm cựu hoàng tử nạn, khiến cho kế hoạch đó không tiến hành được. Nói tóm lại, Tuấn Văn không có kỳ vọng gì với triều đình nhà Nguyễn. Còn hợp tác với Anh quốc có khá hơn. Anh quốc ít có đòi hỏi về lãnh thổ. Khác với Pháp quốc chuyên vơ vét các thuộc địa mang về làm giàu cho “mẫu quốc”, Anh quốc quan tâm lợi ích kinh tế nhiều hơn. Anh quốc cần thị trường cho hàng hóa của họ, nên quan tâm phát triển kinh tế. Các thuộc địa của họ đều giàu có phồn vinh hơn những khu vực xung quanh, như Hương Cảng, Singapore, Canada, Úc, New Zealand, Ai Cập, Nam Phi, ... Nổi bật nhất là 13 thuộc địa ở Bắc Mỹ đã mạnh lên rồi đánh bại “mẫu quốc”, giành được độc lập, trở thành Liên Hiệp Chúng Quốc Mỹ Lợi Kiên (United States of America), thường gọi là Hiệp Chúng Quốc hay Mỹ quốc. Ở Á Đông, Anh quốc chỉ cần một đầu cầu cho hàng hóa của họ xâm nhập thị trường bản địa, chứ không chiếm cả một quốc gia làm thuộc địa. Nhờ đó mà Singapore và Hương Cảng rất phồn hoa. Đương nhiên, Tuấn Văn có giới hạn và kế hoạch của mình. Nếu đánh thắng Pháp được thì tốt (cả Tuấn Văn cũng không tin vào khả năng này), còn không thì thắng vài trận nhỏ rồi đòi tự trị như kế hoạch trên, sau đó tập trung phát triển, củng cố thực lực, chờ thời cơ. Hiện tại, quốc lực của Pháp đang dần xuống dốc. Cơ hội sẽ đến sau ít năm nữa.
Ngài Thống đốc nghe nói Hoàng định đi thăm phố phường Singapore, liền phái một viên hộ vệ của mình làm hướng dẫn viên. Vì tình hình trị an của Singapore không được tốt lắm, nên ông ta mới phái hộ vệ chứ không phải văn chức nhân viên. Hoàng có ý định để cho những người đi theo được mở rộng tầm mắt, nên chỉ để lại 10 hộ vệ vừa theo cậu vào thành phố ở lại giữ thuyền, những người còn lại đều lên bờ vào thành phố tham quan. Bọn ông Hoằng lần đầu đến một thành phố theo kiểu tây phương, thấy khắp nơi đều là nhà lầu, người mua kẻ bán tấp nập, hàng hóa tràn ngập các cửa hiệu, nên đều trầm trồ về sự nhộn nhịp và thịnh vượng của nó. Triều đình nhà Nguyễn cấm người không có địa vị xây nhà lầu, lại bế quan tỏa quốc, thực hiện chính sách của Nho giáo là “thương nhân tối tiện”, nên thương mại rất kém phát triển, không có nhà cao cửa rộng, phố xá sầm uất như nơi đây.
Ông Hoằng là người tinh minh, quan sát một hồi rồi nói với Hoàng :
- Hương Sư Đại nhân. Nơi đây thật là thịnh vượng phồn hoa. E rằng cả Gia Định Thành cũng không bằng.
Hoàng gật đầu nói :
- Ngay cả Huế nếu không tính các đền đài cung điện thì cũng sẽ không bằng. Mọi người hãy quan sát cho kỹ, học hỏi kinh nghiệm của họ rồi về phát triển chỗ chúng ta.
Ông Hoằng giật mình hỏi :
- Đại nhân bảo chỗ chúng ta cũng có thể phát triển như thế này ?
Hoàng mỉm cười :
- Sao lại không ?
Ở Singapore có hai khu vực khác biệt nhau : khu người Âu và các khu phố người Á Đông (chủ yếu là người Hoa). Khu người Âu thì sạch sẽ khang trang, trong khi các khu còn lại thì dơ bẩn và hỗn loạn (gọi nôm na là khu phố nghèo, khu ổ chuột). Do đó, bọn Tuấn Văn chủ yếu đi dạo trong khu người Âu để được an toàn hơn. Hoàng tuy có dẫn theo 30 hộ vệ, nhưng vẫn khó đảm bảo an toàn. Ở nơi đây, các tổ chức tội phạm bí mật kiểu như Hội Tam Hoàng phát triển mạnh. Những vụ thanh toán đẫm máu với hàng trăm người chết diễn ra thường xuyên. Hoàng vẫn còn yêu đời lắm, không muốn mạo hiểm một cách vô ích.
Đi dạo phố phường hết hai ngày, sau đó mọi người rời Singapore, quay về. Sau chuyến đi này, bọn ông Hoằng được mở rộng tầm mắt, tăng gia kiến thức rất nhiều.
Hôm nay có hứng sẽ up thêm chương nữa. chương này 2.700 chữ Góp ý cho truyện
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92
Thuyền rời Singapore. Trên thuyền, mọi người cùng nhau bàn luận về những kiến văn trong mấy ngày qua. Hoàng quyết định ghé qua Philippins tìm mua một số súng ống nữa. hiện chừ Hoàng có 496 bảng Anh, Hoàng đã đổi 950 thỏi bạc thành bảng Anh và mua một số thứ tại Singarore. Ở Philippins Hoàng mua thêm được 150 khẩu súng trường nữa. Hiện tại Hoàng còn 45 bảng Anh.
Cũng như lúc đến đây, có rất nhiều chiến hạm tuần tra của Hải quan Tây Ban Nha. Khi gần ra khỏi eo biển, mọi người nghe phía trước có tiếng pháo nổ đùng đùng dữ dội, dường như các chiến hạm đang giao chiến. Đứng từ xa cách mấy dặm mà nhìn thấy khói lửa đỏ rực cả nửa bầu trời. Ông Hoằng rùng mình nói :
- Pháo đạn của người tây phương ghê gớm thật.
Người Việt cũng có đại pháo, nhưng đó là một ống dài, bắn đạn là một khối sắt tròn đặc ruột, lâu lâu mới bắn được một phát, thường được gọi là thần công đại pháo hay súng thần công. Thứ “đại pháo” đó được phát minh vào thời Trần, cải tiến vào thời Hồ, và đến thời Nguyễn thì vẫn vậy, không có cải tiến gì đáng kể, không thể nào so sánh được với đại pháo của tây phương. Khái niệm kỹ thuật công nghệ của người tây phương và người Việt lúc bấy giờ rất khác nhau. Trong khi ở tây phương người ta dùng máy móc chạy bằng hơi nước, thì ở Đại Nam, vua Minh Mạng cho người chế máy cưa chạy bằng ... sức trâu và sức nước (là sức nước chứ không phải hơi nước, kiểu như guồng nước vậy, cách mà con người đã làm cả nghìn năm trước). Khi chế tạo thành công thì những người thợ triều đình đã được ban thưởng trọng hậu. Chiếc thuyền chạy bằng hơi nước đầu tiên mà người Việt “chế tạo” là vào tháng 4 năm 1939, bằng cách sử dụng một bộ máy và một chiếc thuyền mua của tây phương đã bị hư hỏng. Công việc của họ là mang bộ máy mới thay vào bộ máy cũ trên chiếc thuyền bị hư hỏng, sau đó sơn sửa tân trang lại. Vậy mà vua Minh Mạng rất hài lòng, ban thưởng cho hai vị đốc công là Hoàng Văn Lịch và Võ Huy Trinh mỗi người một chiếc nhẫn pha lê độ vàng và một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn. Cách đó cũng giống như thời hiện đại, ở Việt Nam có không ít doanh nghiệp “chế tạo” xe hơi, xe máy, nhưng thực chất chỉ là lắp ráp, việc mà những tiệm sửa xe vẫn có thể làm được nếu có đủ linh kiện, phụ tùng.
Nói về chính đề, khi nhìn thấy có giao tranh ở phía trước, Hoàng cho thuyền dừng lại. Mạo muội tiến vào chiến trường là rất nguy hiểm. Nhìn pháo đạn bắn dữ dội như thế, chỉ có thể là Hải quân mà thôi. Mà pháo đạn chủ yếu xuất phát từ một phía, xem ra chiến sự hoàn toàn nghiêng về một phía. Chiến lực chênh lệch nhiều như thế, theo Hoàng phán đoán, có thể là Hải quân Tây Ban Nha đang tấn công hải tặc. Vùng biển đông xưa nay vẫn có rất nhiều hải tặc. Ngay cả chiếc thuyền mà bọn Hoàng đang đi cũng có nguồn gốc từ hải tặc kia mà.
Sau một lúc, thấy tiếng pháo đạn xa dần, Hoàng mới cho thuyền đi tiếp. Khi đến khu vực chiến trường, một chiếc thuyền lớn hiện ra trước mắt mọi người. Đó là một chiếc thương thuyền, lớn gấp đôi chiếc thuyền của bọn Hoàng, trông vẫn còn nguyên vẹn, nhưng dường như không người điều khiển nên trôi dạt tự do trên biển. Khi đến gần, mọi người giật mình khi thấy trên boong thuyền có nhiều xác chết nằm la liệt. Suy nghĩ giây lát, Hoàng cho thuyền cặp sát vào và phái người lên thuyền kiểm tra. Trên thuyền kia trừ xác chết ra thì không có người nào khác, và đặc biệt là không còn sót lại thứ gì đáng giá. Ông Hoằng hỏi Hoàng :
- Đại nhân. Chuyện này có vẻ kỳ lạ.
Hoàng nói :
- Theo ta đoán, thuyền này gặp phải hải tặc, người trên thuyền bị giết hết, hàng hóa bị cướp hết. Nhưng bọn hải tặc đó không may, đánh cướp xong, chưa kịp rút lui thì gặp phải chiến hạm của Hải quân.
Trịnh Võ tắc lưỡi nói :
- Đáng tiếc trên thuyền không còn thứ gì đáng giá hết.
Hoàng mỉm cười nói :
- Vẫn còn một thứ đáng giá.
Đang mớ Hoàng nghe tiếng ai gọi.
- Hoàng!! Hoàng!! dậy, dậy!! đến giờ nghĩ rồi.
Khi tỉnh dậy, trên mép của Hoàng còn dính ít nước miếng.........
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92
Chương 7: Trên Đường Về
Thuyền rời Singapore. Trên thuyền, mọi người cùng nhau bàn luận về những kiến văn trong mấy ngày qua. Hoàng quyết định ghé qua Philippins tìm mua một số súng ống nữa. hiện chừ Hoàng có 496 bảng Anh, Hoàng đã đổi 950 thỏi bạc thành bảng Anh và mua một số thứ tại Singarore. Ở Philippins Hoàng mua thêm được 150 khẩu súng trường nữa. Hiện tại Hoàng còn 45 bảng Anh.
Cũng như lúc đến đây, có rất nhiều chiến hạm tuần tra của Hải quan Tây Ban Nha. Khi gần ra khỏi eo biển, mọi người nghe phía trước có tiếng pháo nổ đùng đùng dữ dội, dường như các chiến hạm đang giao chiến. Đứng từ xa cách mấy dặm mà nhìn thấy khói lửa đỏ rực cả nửa bầu trời. Ông Hoằng rùng mình nói :
- Pháo đạn của người tây phương ghê gớm thật.
Người Việt cũng có đại pháo, nhưng đó là một ống dài, bắn đạn là một khối sắt tròn đặc ruột, lâu lâu mới bắn được một phát, thường được gọi là thần công đại pháo hay súng thần công. Thứ “đại pháo” đó được phát minh vào thời Trần, cải tiến vào thời Hồ, và đến thời Nguyễn thì vẫn vậy, không có cải tiến gì đáng kể, không thể nào so sánh được với đại pháo của tây phương. Khái niệm kỹ thuật công nghệ của người tây phương và người Việt lúc bấy giờ rất khác nhau. Trong khi ở tây phương người ta dùng máy móc chạy bằng hơi nước, thì ở Đại Nam, vua Minh Mạng cho người chế máy cưa chạy bằng ... sức trâu và sức nước (là sức nước chứ không phải hơi nước, kiểu như guồng nước vậy, cách mà con người đã làm cả nghìn năm trước). Khi chế tạo thành công thì những người thợ triều đình đã được ban thưởng trọng hậu. Chiếc thuyền chạy bằng hơi nước đầu tiên mà người Việt “chế tạo” là vào tháng 4 năm 1939, bằng cách sử dụng một bộ máy và một chiếc thuyền mua của tây phương đã bị hư hỏng. Công việc của họ là mang bộ máy mới thay vào bộ máy cũ trên chiếc thuyền bị hư hỏng, sau đó sơn sửa tân trang lại. Vậy mà vua Minh Mạng rất hài lòng, ban thưởng cho hai vị đốc công là Hoàng Văn Lịch và Võ Huy Trinh mỗi người một chiếc nhẫn pha lê độ vàng và một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn. Cách đó cũng giống như thời hiện đại, ở Việt Nam có không ít doanh nghiệp “chế tạo” xe hơi, xe máy, nhưng thực chất chỉ là lắp ráp, việc mà những tiệm sửa xe vẫn có thể làm được nếu có đủ linh kiện, phụ tùng.
Nói về chính đề, khi nhìn thấy có giao tranh ở phía trước, Hoàng cho thuyền dừng lại. Mạo muội tiến vào chiến trường là rất nguy hiểm. Nhìn pháo đạn bắn dữ dội như thế, chỉ có thể là Hải quân mà thôi. Mà pháo đạn chủ yếu xuất phát từ một phía, xem ra chiến sự hoàn toàn nghiêng về một phía. Chiến lực chênh lệch nhiều như thế, theo Hoàng phán đoán, có thể là Hải quân Tây Ban Nha đang tấn công hải tặc. Vùng biển đông xưa nay vẫn có rất nhiều hải tặc. Ngay cả chiếc thuyền mà bọn Hoàng đang đi cũng có nguồn gốc từ hải tặc kia mà.
Sau một lúc, thấy tiếng pháo đạn xa dần, Hoàng mới cho thuyền đi tiếp. Khi đến khu vực chiến trường, một chiếc thuyền lớn hiện ra trước mắt mọi người. Đó là một chiếc thương thuyền, lớn gấp đôi chiếc thuyền của bọn Hoàng, trông vẫn còn nguyên vẹn, nhưng dường như không người điều khiển nên trôi dạt tự do trên biển. Khi đến gần, mọi người giật mình khi thấy trên boong thuyền có nhiều xác chết nằm la liệt. Suy nghĩ giây lát, Hoàng cho thuyền cặp sát vào và phái người lên thuyền kiểm tra. Trên thuyền kia trừ xác chết ra thì không có người nào khác, và đặc biệt là không còn sót lại thứ gì đáng giá. Ông Hoằng hỏi Hoàng :
- Đại nhân. Chuyện này có vẻ kỳ lạ.
Hoàng nói :
- Theo ta đoán, thuyền này gặp phải hải tặc, người trên thuyền bị giết hết, hàng hóa bị cướp hết. Nhưng bọn hải tặc đó không may, đánh cướp xong, chưa kịp rút lui thì gặp phải chiến hạm của Hải quân.
Trịnh Võ tắc lưỡi nói :
- Đáng tiếc trên thuyền không còn thứ gì đáng giá hết.
Hoàng mỉm cười nói :
- Vẫn còn một thứ đáng giá.
Mọi người nhìn nhau, rồi đồng thanh nói :
- Chiếc thuyền.
Đúng thế, hàng hóa trên thuyền không còn, nhưng chiếc thuyền vẫn còn đó. Vật vô chủ, mọi người chiếm lấy mà không có gì phải áy náy. Chiếc thuyền bị hải tặc tấn công, trên boong thuyền có nhiều chỗ hư hỏng, nhưng không ảnh hưởng gì đến việc di chuyển. Buồm, máy móc và hệ thống điều khiển vẫn còn nguyên vẹn. Hoàng chia bớt người sang đó, xử lý những xác chết trên thuyền, rồi hai chiếc thuyền cùng song song giương buồm đi về phía bắc.
Trải qua gần nửa tháng hàng hành, mọi người về đến Đảo. Khi về do đã quen đường lối nên tốc độ có nhanh hơn khi đi. Những chuyện náo nhiệt giữa người đi kẻ đón không cần phải nói nhiều.
Hôm sau Hoàng quay lại lang Phò Trạch, Hoàng triệu tập các Hương chức vào đình làng nghị sự. Trong đình xếp ba chiếu. Tuấn Văn ngồi chiếu giữa. Chiếu trái là văn ban, gồm gồm ông Hoằng, ông Hương Chánh Nguyễn Văn Hưng và ông Biện Đình Lê Đức Nghiệp. Chiếu phải là võ ban, gồm ông Hương Quản Nguyễn An, ông Cai Tuần Lê Văn Dật và Đội trưởng đội hộ vệ Trịnh Võ. Hoàng nhìn mọi người một lượt, rồi nói :
- Mọi người cũng đã thấy quân đội của các nước tây phương rồi. Theo mọi người, quân đội triều đình có thể chống nổi cuộc tấn công của bọn họ không ?
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, thở dài. Ông Hoằng lắc đầu nói :
- Khó lắm.
Quân lính triều đình chủ yếu sử dụng giáo, mặc dù cũng có súng nhưng chỉ là súng kíp (theo cách hiểu của người Việt, dạng súng săn), một loại súng rất thô sơ. Trong khi súng đạn của người tây phương rất tiên tiến. Quân đội triều đình lại hầu như không được huấn luyện, quân số ít ỏi, binh bị lơ là, ý thức chiến tranh vẫn còn giới hạn theo kiểu chiến tranh thời cổ. Ngay cả một trọng trấn là Gia Định Thành mà cũng chỉ có 1.000 quân phòng thủ. Triều đình nhà Nguyễn sợ quân dân nổi loạn, nên trừ kinh thành Huế thì các địa phương đều bị hạn chế quân lực. Đến khi gặp ngoại xâm thì chỉ biết cầu hòa.
Hoàng trầm ngâm giây lát, rồi nói :
- Chỉ khoảng gần ba năm nữa là liên quân Pháp – Tây Ban Nha sẽ tấn công Đại Nam. Chúng ta phải khẩn trương chuẩn bị mới được. Hiện tại chúng ta có thêm 250 khẩu súng trường, 10 khẩu súng ngắn, có thể tuyển mộ thêm khoảng 200 người nữa.
Ông Cai Tuần Lê Văn Dật chợt hỏi :
- Sao chúng ta không bẩm báo lên triều đình ?
Ông Hoằng lắc đầu nói :
- Chúng ta báo lên, triều đình có tin không ? Hơn nữa, làm cách nào để chứng minh tin đó là thật ?
Hoàng nói thêm :
- Liên quân Pháp – Tây Ban Nha sẽ tấn công vào Huế. Từ đây ra đó đường xa diệu vợi, có báo cũng không kịp. Hơn nữa, địch mạnh ta yếu, chúng ta phải giữ kín tung tích, địch minh ta ám, rồi tìm cơ hội phục kích mới có thể chiến thắng được. Mặt đối mặt chiến đấu, chúng ta thua chắc.
Võ nói :
- Cũng giống như lần tập kích bọn hải tặc lúc trước vậy ạ ? Bọn chúng sợ ong với rắn rết lắm.
Hoàng mỉm cười nói :
- Đó cũng là một cách hiệu quả, nhưng chỉ sử dụng được khi tập kích bất ngờ mà thôi. Giờ ta bàn đến việc luyện binh.
Ông Hoằng đề xuất :
- Chúng ta lấy cớ đề phòng hải tặc, rồi tập trung trai tráng đến luyện tập. Chỉ cần giữ bí mật súng đạn, triều đình có biết cũng không thể trách được.
Đó là một cách hay, lại có thể mở rộng tầm ảnh hưởng ra các vùng lân cận. Mọi người đều tán đồng. Sau khi phân phó công việc cho mọi người, Hoàng lại nói :
- Ta định chiếm đảo Hải Nam, hiện tại triều đình Đại Thanh đang lo đánh nhau với người Tây Dương nên đó là cơ hội của chúng ta.
Thấy Tuấn Văn lo cả đường lùi, mọi người đều an tâm, chia nhau đi ai lo việc nấy. Mặc dù có thỏa thuận với Thống đốc Blundell ở Singapore, nhưng Hoàng cũng không tin tưởng nhiều vào lời hứa của ông ta. Hoàng đã có kế hoạch của riêng mình. Nếu mọi việc thuận lợi, Hoàng cũng cần ít nhất ba năm ổn định để chuẩn bị cho kế hoạch phản công. Còn không thuận lợi thì phải chờ thêm 15 năm nữa. Lúc đó Pháp quốc gặp một tai họa lớn, và sẽ là cơ hội cho bọn Hoàng.
Sau hai tháng chuẩn bị, đội thuyền của Hoàng lại nhổ neo rời bến, đội thuyền gồm hai chiếc thuyền gỗ, chiếc nhỏ có trọng tải 350 tấn, chiếc lớn có trọng tải 1000 tấn. Mỗi chiếc điều có máy hơi nước và một khẩu pháo nhỏ đặt trên mũi thuyền. Thủy thủ đoàn gồm 200 hộ vệ và 3 người gốc Tây Ban Nha, do Trịnh Võ chỉ huy. theo đoàn có thêm 36 hộ gia đình, 1 thầy lang và 1 thợ mộc.
Những khẩu súng thu được từ bọn hải tặc và Mua tại Philippins từ người là những khẩu súng trường Pattern 1851 Minié (gọi tắt là P1851), là một loại súng trường rất phổ biến thời bấy giờ, được sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến tranh Crime (1853 – 1856), Nội chiến Mỹ (1861 – 1865), chiến tranh Áo – Phổ (1866), chiến tranh Boshin ở Nhật Bản (1868 – 1869), chiến tranh giành độc lập lần thứ hai ở Ý (1859), cuộc binh biến ở Ấn Độ (1857), khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa (1850 – 1864) và các cuộc nổi dậy ở nhiều nơi trên thế giới. Súng trường Pattern 1851 Minié nặng 4,8 kilôgam, dài 0,958 mét, tầm bắn hữu hiệu 550 mét, tầm bắn tối đa 918 mét, tốc độ bắn 2 – 3 phát mỗi phút.
Còn những khẩu súng do Thống đốc Singapore tặng là loại Pattern 1853 Enfield (gọi tắt là P1853), tiên tiến hơn, là trang bị chủ yếu của quân đội Anh quốc. Súng trường Pattern 1853 Enfield nặng 4,3 kilôgam, dài 1,4 mét, tầm bắn hữu hiệu 1.140 mét, tầm bắn tối đa 1.800 mét, tốc độ bắn mặc định 3 phát mỗi phút, có thể nhiều hơn. Vì loại súng này tốt hơn nên được trang bị cho những hộ vệ tinh duệ nhất.
Trên thuyền còn mang theo nhiều loại vật tư cần thiết khác. Đạn dược 40.000 viên (mỗi khẩu súng 200 viên). Lương thực 10.000 phương, đủ cho 500 người dùng trong nửa năm. Số lương thực đó ông Hương Chánh đã cố thu mua trong lúc bọn Hoàng đi Singapore, đáng giá 7.500 quan, nhưng vì mua với số lượng lớn nên chỉ mất có 7.000 quan (khoảng 2.825 lượng bạc). Ngoài ra còn có rất nhiều hạt giống lúa, bắp, khoai lang; cùng nhiều loại thuốc nam, thảo dược. Tuấn Văn định xây dựng một căn cứ địa nơi hải ngoại, nên cho chuẩn bị đầy đủ mọi thứ.
Thuyền đi về phía đông, vượt qua quần đảo Philippine, lại tiếp tục đi về phía đông khoảng 800 kilômét nữa là đến một quần đảo nhỏ, trên bản đồ hàng hải mua ở Singapore ghi là Pelew, tức là quần đảo Palau ngày nay. Palau đã có quan hệ với các nước Âu châu khá sớm. Năm 1783, quốc vương Pelew đã cho thuyền trưởng Henry Wilson của tàu Antelope đưa con trai mình là vương tử Lee Boo đến Anh quốc. Vị vương tử này đến Anh vào năm 1784, chết sau đó ít lâu vì bệnh đậu mùa, được chôn cất ở Quảng trường nhà thờ thánh Mary, Rotherhithe, đông nam Luân Đôn và được Công ty Đông Ấn Độ thuộc Anh xây dựng một đài tưởng niệm cạnh đó. Điều này chứng tỏ vương quốc Pelew được Anh quốc thừa nhận.
Quần đảo Pelew gồm 8 hòn đảo lớn và hơn 200 đảo nhỏ, tổng diện tích đất liền 458 kilômét vuông, dân số rất ít (theo thống kê năm 2005, Palau có dân số chưa đến 20.000 người, trong đó hòn đảo lớn nhất Babeldaob chiếm 70% diện tích mà chỉ chiếm có 30% dân số, là “một trong những hòn đảo đông dân cư kém phát triển nhất ở Thái Bình Dương”, với các bộ tộc theo chế độ mẫu hệ). Tuấn Văn ước tính lúc này trên đảo Babeldaob chỉ có khoảng 2 – 3 nghìn dân, mà chủ yếu tập trung ở vùng Airai phía nam đảo. Phía nam Airai là đảo Koror có dân cư đông đúc. Tộc trưởng của bộ tộc lớn nhất ở đó tự xưng là quốc vương Pelew. Vì khu vực phía bắc ít dân, nhiều sông ngòi, nên Hoàng đã ra lệnh cho thuyền ghé vào bờ vịnh ở phía bắc đảo.
Đảo Babeldaob nằm trải dài từ bắc xuống nam, với bờ phía đông là những bãi cát dài và bờ phía tây là những khu rừng rậm. Trên đảo có nhiều đồi núi, cao nhất là núi Ngerchelchuus cao 210 mét; cùng với hơn chục con sông lớn nhỏ, nhiều hồ và thác nước đẹp. Đội thuyền cặp vào bờ vịnh phía nam. Sau khi khảo sát, Tuấn Văn đã cho đóng trại bên một con sông có nhiều cá sấu. Thịt cá sấu có thể ăn, da cá sấu có thể làm đồ trang sức, là một nguồn kinh tế đáng kể. Gần đó là núi Ngerchelchuus, dưới chân núi có khu rừng rậm lớn nhất đảo, nên không sợ thiếu gỗ. Trong lúc dựng trại thì hai tiểu đội 20 người do Trịnh Võ và Hùng thống lĩnh được phái đi trinh sát khu vực quanh đó.
Đảo Babeldaob không lớn lắm. Chỉ sau ba ngày là toán trinh sát của Lý Ngân đã thăm dò gần hết khu vực phía bắc và vẽ lại bản đồ địa hình đơn giản. Lấy trung tâm là ngọn núi Ngerchelchuus, Võ thấy có con sông thì vẽ một đường dài biểu diễn con sông, thấy có rừng thì ghi rừng, có núi thì ghi núi. Võ còn dùng một con thú săn được để dụ một người dân bản địa dẫn đường. Gã ta chỉ con sông, hô Ongimi, Lý Ngân ghi vào Ongimi; chỉ ngọn núi, hô Ngerchelchuus, Võ lại ghi vào Ngerchelchuus, ... Cứ như thế, một bản đồ địa hình đơn giản đã hoàn thành. Khi toán trinh sát về phục mệnh, Hoàng nhìn bản đồ, rất hài lòng. Võ đã chứng tỏ được tài năng của mình. Trên bản đồ không chỉ có địa hình, mà còn có vị trí các bộ tộc lân cận cùng với dân số mỗi bộ tộc (quan sát và ước đoán).
Quanh ngọn núi Ngerchelchuus có nhiều sông hồ, như sông Did, sông Sebeluu, sông Ongimi, hồ Ngerchetang, thác Taki, ... Nơi mọi người cắm trại là sông Ongimi, bắt đầu từ hồ Ngerchetang và đổ ra biển. Xung quanh có ba bộ tộc là Ngetbong, Ngerutoi và Urdmau, với dân số mỗi bộ tộc chỉ có khoảng 30 người. Xa hơn một chút, ở gần bờ biển phía đông là các bộ tộc Choll, Elab, Ngebuked, Ngkeklau, và Ulimang, với dân số mỗi bộ tộc từ 40 – 70 người. Về phía đông nam khu trại có một bộ tộc lớn là Ngiwal với khoảng 100 dân. Phía nam khu trại cũng có một bộ tộc lớn là Imeong với khoảng 150 dân. Gã hướng đạo bản địa chỉ biết những vùng lân cận đó, nên bọnVõ và Hùng cũng chỉ mới khảo sát được bao nhiêu đó. Hoàng cũng đã thấy tạm đủ, nên cho mọi người nghỉ ngơi, chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo.
Khu trại của bọn Hoàng dựng bằng gỗ, vuông vức mỗi cạnh 100 mét. Bên trong chia thành các dãy phố ngang dọc như bàn cờ, tuy đơn giản nhưng trật tự. Lương thực vật tư trên thuyền được chuyển hết lên trại, cất vào nhà kho.
Sau hai ngày nghỉ ngơi, Hoàng để lại 20 người canh thuyền và trại( theo Hoàng 200 hộ vệ và 36 hộ gia đình), tự mình dẫn 90 người đi chinh phục bộ tộc Imeong ở phía nam.Tuy đó là bộ tộc lớn nhất trong khu vực, nhưng lại nằm đan độc trong một vùng hẻo lánh, cách rất xa các bộ tộc khác. Phái 70 người súng đạn đầy đủ đi đối phó 150 người gồm cả già trẻ trai gái, cởi trần đóng khố, chỉ dùng gậy gộc, nên không có vấn đề gì. Phái Hùng, Phương, Trịnh Võ, Thanh mỗi người dẫn 30 người đi chinh phục các bộ tộc xung quanh.
Mấy ngày sau, Hoàng và mọi người đắt thắng trở về. Thủ lĩnh các bộ tộc điều được sử lý hết, cả bộ tộc bị buộc phải di dời đến trại của bọn Hoàng, , mang theo tất cả tài sản, kể cả những ngôi nhà gỗ đơn sơ của họ. sau cuộc chinh phục bọn Hoàng bắt được 286 người, Hoàng cho họ giữ lại tài sản của mình, và dựng lại nhà phía nam khu trại.
Qua những thành viên mới này, Hoàng phát hiện lương thực của người dân ở đây không phải là lúa gạo, mà là các loại khoai : khoai lang, khoai môn, khoai sọ đầm lầy khổng lồ (củ rất lớn). Đặc biệt, món ăn khoái khẩu của bọn họ là Demok, được làm từ lá khoai môn, nước cốt dừa và cua đất. Vì vậy, Hoàng ra lệnh trồng khoai ở khắp nơi xung quanh khu trại. Khoai có thời gian thu hoạch ngắn, nhiều tinh bột, là một nguồn lương thực thích hợp thay thế cho lúa gạo. Ở vùng này nếu không phải đồi núi thì là rừng rậm, đầm lầy hoặc bãi biển, Hoàng chưa thấy những vùng đất bằng phẳng có thể trồng lúa được. Có lẽ vì thế mà khu vực phía bắc này dân cư thưa thớt chăng ?
Có thêm nhân công, Hoàng cho xây dựng bến thuyền và một khu trại mới ở cửa sông Ongimi. Trong khi đó, Hoàng, Trịnh Võ, Hùng, Thanh mỗi người suất lĩnh 40 người đi chinh phục các bộ tộc Choll, Elab, Ngebuked, Ngkeklau, và Ulimang ở bờ phía Đông đảo. Tổng dân số của các bộ tộc này hơn 250 người, khi giết những người phản kháng thì còn lại 246 người.
Đến lúc này, khu trại đã có gần 1.000 người, đã tương đối có chút nhân khí.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92