Một tiếng đồng hồ sau khi anh em rút hết vào hang, bọn giặc từ mí vườn đã tràn tới khắp xóm Hòn Đất.
Anh Hai Thép đứng với anh em trên triền Hòn rậm rạp mít và vú sữa, nhìn thấy bọn giặc đi lúc nhúc dưới xóm. Bóng chúng loáng thoáng hiện ra sau những vòm lá mít, măng cụt, li ki ma. Có tên đã vội vã leo dừa. Tiếng chúng nói chuyện la hét ầm ĩ, mọi người đều nghe thấy. Trong ánh nắng sớm chiếu rực các vườn cây bên dưới, xóm Hòn Đất náo động cả lên, bởi tiếng giặc la ó, tiếng súng nổ "bóc đùng", tiếng gà kêu oang oác và cả tiếng bò rống nghe rất thảm thiết. Những thằng lính áo rằn ngồi dưới các gốc dừa thì coi hệt như những bụi lá. Lúc chúng đi đứng tới lui mới phân biệt ra chúng được.
Một toán vác xoong chảo vừa lấy được của đồng bào kéo đi lểnh nghểnh. Một toán khác cỡ chừng một trung đội lũ lượt tràn ra phía suối.
Con suối này chảy uốn quanh Hòn Đất, tên gọi suối Lươn. Bà con gọi thế vì dưới suối từ lâu có một cặp lươn trắng rất lớn. Trước nay không ai dám bắt cặp lươn đó cả. Nhất là từ cái dạo có ông già Khơ Me tên Suôn lén câu, chẳng những bao nhiêu lưỡi câu ông thả xuống đều bị cắn đứt, mà sau đó về nhà ông còn bị vật mình vật mẩy đau tới ba bốn tháng.
Chuyện ông Suôn thì không biết ra sao, chứ cặp lươn thì có thật, và suối Lươn rõ ràng là một suối nước lành, bao đời nay vẫn là nguồn tươi trong cho cả Hòn Đất.
... Bọn giặc xổ ra bờ suối đã bắt đầu đóng cọc che lều. Chúng cắm bốn năm cái lều vải bạt lớn cặp theo suối.
Anh Hai Thép lo lắng nói với Ngạn:
- Tụi này bộ tính đóng lâu nghe? Nó chiếm suối kìa!
Ngạn lẩm nhẩm:
- ờ, nó chiếm suối rồi!
Hai Thép nói:
- Nó chiếm cái suối thì ngặt cho mình lắm!
- Trong hang nói mình có trữ nước mà!
- Có, nhưng sợ không đủ, nếu kéo dài đôi ba bữa thì kẹt lắm!
Anh Hai Thép vẫn đau đáu nhìn xuống xóm, hỏi:
- Thôi, mình vô hang đi. Vô trỏng tính toán coi sao?
Anh day bảo chú Đạt ở lại gác nếu có gì chạy về cho hay, rồi cùng mọi người men theo vách đá, đi lần xuống phía miệng hang.
Hòn Đất có một chu vi bao bọc lối bốn cây số. Nó hơi dài, giống như một chiếc mai rùa. Chiều dài Hòn Đất trên một cây số, còn chiều ngang ước độ bảy trăm thước. Cả Hòn chỉ có một miệng hang độc nhất. Luồn quá miệng hang một chút là gặp cái hang nhỏ bùng binh. Tại đây có ba ngách tối om, chạy sâu hút vào trong.
Anh Hai Thép, Ba Rèn và Ngạn vừa khom lưng luồn vào tới hang nhỏ thì gặp hai anh em du kích ngồi gác.
Một anh nói:
- Anh em vô hang lớn hết rồi, mấy anh à!
Ngạn hỏi:
- Mấy anh ngồi đây dòm phía ngoài rõ không?
- Thấy.
Để tôi coi thử!
Ngạn quàng lại gộp đá. Anh du kích nánh sang một bên Ngạn ghé mắt nhìn ra ngoài. Anh thấy ở ngoài rất rõ, thấy bãi cỏ trống và những cây dừa trĩu quả sát Hòn, thấy cả bọn địch lố nhố. Anh reo lên:
- Hay lắm, ở đây quan sát được!
Rồi anh bước ra, đi theo anh Hai Thép và chui vào cách ngách bên trái, khi lộn qua phải. Có tới năm phút sau họ mới tới một cái hang khá rộng, sáng mờ, đang có tiếng người lao xao. Đấy gồm toàn những anh chị em cán bộ lộ mặt, không ở lại xóm được và những anh em du kích. Đáng lẽ càng vào sâu hang càng tối, nhưng ở trong chỗ này lại sáng dần ra. Những gộp đá xếp chất chồng trên vòm hang có nhiều kẽ hở, nhờ vậy ánh sáng từ ngoài lan vào được. Nhưng ánh sáng len vào cũng không nhiều, nó chỉ vừa tạo ra cái cảnh tranh tối tranh sáng, khiến những ai ở trong hang đều cảm thấy như mình ở giữa đêm sắp hầu tàn mà ngày thì chưa rạng. ấy là màu của buổi tinh mơ mới chớm, màu bóng đêm nhòa xóa, nhưng bình minh lại chưa đến. Trong hang có vẻ sinh động riêng biệt, hơi huyền ảo, với những bước chân không động, tiếng nói cười nghe cũng ấm hơn, và mọi người chỉ có thể vừa đủ nhận ra nhau chứ khôgn trông thấy rõ mặt nhau lắm.
Khi có người và hơi thở, khi có tiếng nói và những bước đi, cái hang liền khác trước, đến nỗi lúc Ngạn mới bước vào, anh nghe tiếng Quyên khẽ gọi, thì anh vẫn biết là tiếng Quyên đấy, mà sao nghe cứ lạ hẳn. Anh dừng lại, chưa trông thấy Quyên đâu, thì đôi bàn tay quen quen mát rượi của Quyên đã nắm chặt lấy tay anh. Đôi bàn tay ấy rờ rẫm người anh, rờ từ gáy dọc xuống lưng anh một cách gấp gấp, như để coi anh có phải thực là một Ngạn còn nguyên vẹn không vậy.
Quyên thì thào:
- Đánh chông kết quả quá, hả anh? Hồi nãy, em nôn quá, cứ đòi ra đó mà mấy ảnh không cho! Vậy thì hôm trước kêu em đi tập bắn súng chi uổng công...! Nghe nói tụi nó vừa bị chết vừa bị thương gần năm chục phải không anh? Trời ơi, em với chị Ba, với con Thúy đứng trên Hòn coi rõ hết. Coi thiệt là sướng!
- Chị Sứ với con Thúy đâu? - Ngạn hỏi.
Quyên không đáp, vội chạy đi kiếm Sứ dắt lại.
Ngạn thấy một bóngnhỏ vụt nhào tới ôm chặt mình:
- Dượng út, dượng út - Con bé Thúy kêu lên mừng rỡ.
- Sao con cũng vô đây? Thôi, nguy rồi!
Ngạn nói và nhắc bổng con bé lên. Chị Sứ nói:
- Nó đi theo chị từ sáng. Biểu ở nhà với má cứ không chịu... Bây giờ làm sao mà về được... Mày thấy chưa Thúy?
- Con không về, con ở hang con chơi!
Con bé ngẩng nhìn Ngạn:
- Vui quá hả dượng út! ở trong này vui quá. Hồi nãy dượng út có bắn chết tụi Mỹ - Diệm nào không? Con vỗ tay hoan nghinh ghê lắm, chắc dượng đâu có nghe.
Con Thúy nói rối rít. Nó vui vẻ, lăng xăng trong vòng tay Ngạn. Hình như được ở trong hang nó thấy thú vị lắm. Lẽ khác, người nào trong hang cũng đều quen với nó cả. Nó đi lọ mọ như thế mà ai cũng nhận ra và kêu đúng tên nó. Nên nó sung sướng.
- Ngạn à, nãy giờ em ở trên Hòn ngó thấy dưới xóm ra sao? - Chị Sứ hỏi.
- Ngó thấy rõ lắm, chị ạ. Tụi nó tràn vô khắp xóm rồi. Đông lắm. Lính vác xoong chảo đi nghễu nghện. Tụi nó chiếm suối Lươn rồi. Coi bộ nó tính đóng quân...
- Cha... - Quyên buột miệng kêu, lo lắng.
Và cô nói khẽ với Ngạn:
- Trong hang mình thì có nước nhưng ít quá. Hồi sáng vô hang, em với chị Ba đi coi lại những cà om nước thấy có chín cái mà bị chảy sạch không còn một giọt.
- Sao?
- Mấy cái cà om đất đó để lâu quá bị rỉ chảy. Em với chị Ba, Năm Nhớ phải đội cả cà om chạy ra suối múc nước. Đội ba chuyến đi được lại chín cà om như cũ... Mà cái cà om nước sau cùng thì Năm Nhớ làm rớt bể... lúc đó nghe anh Thẩm bị thương!
- Vậy thì bây giờ còn tất cả được mấy cà om?
- Cũng còn được tám cà om, nhưng mình hơi đông...
- Thôi được, để rồi... à, Thẩm với chú Bé bị thương giờ ở đâu?
- ở kia!
Quyên chỉ vào phía trong hang.
- Còn vợ chồng thằng cha trại đáy?
- Trói bỏ trong hang xẻo. Con vợ khóc thôi là khóc. Ngạn bảo Quyên dắt anh lại chỗ mấy anh bị thương. Bé Thúy cũng chạy theo.
Quyên vừa dẫn Ngạn đi vừa thì thào:
- Tội nghiệp thằng Bé quá! Cũng bị miểng mọt-chê như anh Thẩm. Bộ hồi nãy tụi nó thụt trúng ngay hả anh?
Ngạn gật đầu. Quyên lại nói:
- Em với Năm Nhớ mới rửa và băng vết thương cho hai người. Em thấy cánh tay của thằng Bé nặng lắm. Còn vết thương nơi bắp chân của Thẩm coi vậy chớ không sao...
Ngạn nói:
- Không sao mà đã có người khóc run lên rồi!
- Ai khóc? Năm Nhớ hả? - Ngừng lại một chút. Quyên khẽ bảo: - ờ, thì nó thương anh Thẩm nó mới khóc!
- Thương, thương mà hồi trước tới giờ sao không chịu hé ra, cứ êm ru, bây giờ mới...
- Bộ phải nói ra mới thương à? Tại anh Thẩm, anh Thẩm không nói với nó. Chớ Năm Nhớ thì làm sao nó dám nói trước được!
Ngạn nói giọng tỉnh như không:
- Vậy còn cô, sao hồi đó cô dám nói trước với tôi!
- Nói hồi nào, hồi nào?
Quyên quay phắt vào, vảnh tay phát vào người Ngạn, Ngạn cười rúc rích.
Đi gần đến góc hang. Quyên kêu:
- Năm Nhớ ơi!
- Quyên hả?
Ngạn sắp bước vào, chợt thấy bàn tay nhỏ xíu của con Thúy rút ra khỏi tay mình. Anh nghĩ bụng: "Chắc con nhỏ sợ". Anh bước tới, nhìn thấy Thẩm đang ngồi trên một phiến đá phẳng, lưng tựa vào vách hang, cái chân trái của Thẩm ruỗi ra, co co. Thằng Bé thì nằm dài trên chiếu, tay mặt bị thương đặt lên tấm khăn rằn xếp gấp lại. Năm Nhớ ngồi bên thằng Bé, tay cầm một cái khăn ve vẩy.
Thẩm cất tiếng hỏi:
- Mày đó hả Ngạn?
- ờ, tao đây, sao?
- Không sao...
- Coi miểng còn dính trong đó không?
Năm Nhớ nói:
- Không, em chắc là không có miểng. Nó bay luôn đi rồi!
- Chắc là vậy...
Ngạn tháo lấy cây đèn phin móc ở thắt lưng. Anh bấm đèn soi chân Thẩm. Con bé Thúy giờ cũng rón đến coi. Thẩm giơ tay nắm lấy tay con Thúy, bảo nó ngồi xuống cạnh anh.
Vết thương của Thẩm đã được băng kỹ. Máu không còn chảy nữa. Khi Ngạn cúi nhìn vết thương, anh nghe Thẩm nói khẽ:
- Tao biết, tao không hề gì đâu... Miểng mọt chỉ chém sơ qua bắp chuối thôi. Phải chú ý coi sóc cho thằng Bé, cái tay của nó nát quá. Thằng nhỏ ngoan lắm, không rên la gì hết!
Ngạn bước lại chỗ thằng Bé nằm. Anh bấm đèn nhìn. ống tay áo rách nát đã được cắt gọn, cánh tay thằng Bé đã được băng giáp tới sườn, và máu sẫm bết dính các lớp băng lại. Bàn tay phải còn lại của thằng Bé cứ cấu chặt xuống mặt chiếc đệm. Đôi mắt thằng Bé nhắm nghiền, miệng thở phập phào. Da mặt nó hơi tái lại, nhưng đôi môi vẫn tươi bậu, hênh hếch. Nó nằm đây tợ như nằm ngủ chớ không phải bị thương. Cái khuôn mặt trẻ thơ ấy thưởng như không phải đang đau đớn, tưởng như hãy còn vương tiếng cười khanh khách khi nó trườn giỡn với thằng út em nó trên bãi biển hay hí hửng vụt la ré khi cùng cha nó kéo lên khoang ghe một vạt lưới đầy cá. Nó còn nhỏ quá. Nhìn cặp mắt nhắm nghiền, đôi môi tươi bậu hênh hếch kia, Ngạn có cảm giác tim anh như bị một bàn tay nào bóp mạnh, rồi khi bàn tay đó thả ra, máu trong huyết quản anh như sôi lên. Đầu anh nhức nhói, hình dung ngay tới bóng mấy thằng giặc lom khom trí những khẩu mọt-chê lên mặt ruộng. Rồi thì cái bộ tịch loay hoay ngắm nghía của thằng pháo thủ, cùng những trái đạn đuôi chia, bộ chân súng có bàn rộng bè như chân vịt từ đó không rời ra khỏi đầu Ngạn nữa. Mãi đến lúc anh nghe thấy có tiếng anh Hai Thép gọi ở trước hang, anh mới đứng dậy. Anh khẽ bảo Quyên bấy giờ đang ngồi kéo lại ống tay áo, sửa lại áo quần cho thằng Bé:
- Mấy ảnh kêu họp kìa. Đi Quyên!
Con Thúy nãy giờ vẫn ngồi nép vào vai Thẩm. Quyên nói với nó:
- Thúy ở lại chơi với cô Năm, với mấy chú, nghe?
- Dạ.
Tất cả đảng viên hiện có mặt trong hang đều được triệu tập. Nhưng khi các đảng viên đã đến ngồi vây quanh thì anh Hai Thép lại nói:
- Ban nãy tôi định triệu tập các đồng chí đảng viên họp trước, nhưng có lẽ không cần, mình cứ họp tất cả anh em, trừ anh em đang có nhiệm vụ canh gác và trông coi thương binh. Các đồng chí thấy sao?
- Đồng ý, nên họp tất cả!
Ba Rèn chạy đi gọi anh em lại.
Anh Hai Thép lên tiếng.
- Không nói thì các đồng chí cũng biết lần này địch đánh lớn. Có thể nói đây là một trận càn quy mô hơn hết trong tỉnh. Sau khi đụng độ với ta ở ngoài Vạn Than, giặc đã tràn vô xóm. Ban nãy, chúng tôi có đứng trên Hòn coi thì thấy rõ ý đồ tụi nó định vây hang. Hiện tụi nó đã chiếm suối nước và vòng quân của địch đã ngăn cắt chúng ta với trong xóm. Mới đây, anh em gác trên Hòn về cho biết có người tàu mặt dựng vừa tới đậu cặp bãi, cánh bờ chừng một cây số. Theo tôi, tụi nó sẽ đánh hang. Tình hình là như vậy, nên chúng ta phải tìm cách đối phó...
Giữa lúc Hai Thép đang nói, thình lình có những tiếng nổ vang rền cắt ngang lời anh. Bụi cát trên vòm hang vụt đổ xuống rào rào. Mọi người đều nhổm bật dậy. Không ai biết là cái gì. Kế đó tiếng nổ dội đến liên tiếp, làm cho những gộp đá bên trên đều rung chuyển như sắp đổ xụp. Ngạn nói:
- Tôi nghi nó thụt mọt-chê 81 lên triền Hòn.
- Có lẽ!
Anh Ba Rèn phủi tay:
- ối, mình vẫn ở đây dẫu nó có bỏ bom tấn mình cũng khỏi sợ!
Tiếng nổ vẫn tiếp tục không ngớt. ở trong hang mọi người nghe tiếng rền vang dội rất lâu, có đến mươi phút sau mới dứt. Ai cũng lấy làm bực vì không biết bọn chúng đang làm gì. Mãi một lúc sau, Đạt nhỏ từ ngoài chạy xổ vào, la:
- Tụi nó bắn cà-nông lên Hòn quá sức. Bắn gãy cây gãy cối hết. Cháu núp sau mô đá, nghe tiếng nó đi rổng rẻng.
Hai Thép hỏi Đạt:
- Còn tụi ở dưới xóm có động tĩnh gì không?
- Tụi nó xiết chặt hơn hồi nãy. Quân nó đóng dày xung quanh đây hết. Từ chân Hòn mình trở ra chừng hai công đất đều có tụi nó!
- ở gần miệng hang thì sao?
- Nó chưa vô sát miệng hang.
Hai Thép nói:
- Tụi này bắn đại bác lên Hòn để dọn dẹp đây. Kiểu này thế nào nó cũng đánh vô. Tôi đề nghị bố trí ngay bốn tổ ba ba. Một tổ ở ngoài miệng hang, hai tổ thủ ở trong. Nên tập trung lựu đạn và tôm-xông cho các tổ đó. Ba Rèn và Ngạn đi bố trí liền đi. Còn bao nhiêu ở lại đây, tôi sẽ phân công.
Anh Ba Rèn và Ngạn đứng lên. Hai tổ du kích và hai tổ của đội võ trang được chọn đi ngay. Ra cửa hang, Ngạn nói với anh Ba Rèn bấy giờ đã rút cây mã tấu cầm lăm lăm:
- Anh Ba à, anh thủ ở ngách, để tụi tôi trấn ngoài bìa cho.
- Được, mà điều tôi dặn: nếu chú chịu với nó không xiết thì cứ rút. Tụi tôi đón nó.
- Đồng ý!
Ngạn cùng hai tổ của mình đi qua khỏi các bùng binh, tuồn ra miệng hang. Anh chọn những mô đá có lợi thế tốt nhất ở hai bên. Tới phụ trách một tổ và anh phụ trách một tổ. Tổ của Tới được phân cho hai khẩu tôm-xông và bảy quả MK3. Tổ của Ngạn thì có một tôm-xông, một trường mát và tám lựu đạn, cùng là lựu đạn MK3. Bố trí xong, Ngạn thấy Đạt ở trong hang chạy ra, hớn hở:
- Chú Hai biểu em ra đây với mấy anh.
- Vậy hả? Tốt lắm! Vậy em ở đây với anh. Cây cạc-bin của em được bao nhiêu đạn?
- Bốn mươi lăm viên.
- Nghe nói em bắn "cạc" khá lắm khả?
Đạt cười ngượng nghịu:
- Em bắn cũng được thôi. Chắc không bằng anh đâu.
- Anh chỉ bắn mắt, chớ "cạc" anh ít bắn lắm!
Đạt nói:
- Anh bắn mát giỏi thì nhứt định anh bắn "cạc" giỏi. Cây "cạc" bắn dễ trúng lắm. Mà bắn cây gì cũng vậy, em gẫm mình tinh thì bắn trúng.
Ngạn nhìn bộ mặt chất phác dễ thương của Đạt cười hỏi:
- Thường thường thì em có tinh không?
- Em tinh chớ!
Đạt đáp dứt khoát. Nghe Đạt đáp, Ngạn tin ngay là cậu ta nói thật. Đối với cậu thanh niên mười tám tuổi này, từ lâu Ngạn đã đem lòng thương mến. Mỗi lần gặp anh Tám trên huyện, Ngạn để ý thấy Đạt hay đi cắm câu, đi bẫy chim. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ Đạt còn ra sức cải thiện để anh Tám có được bữa ăn khá. Chính cậu ta đã đãi Ngạn mấy bữa cá nướng và chim cu đất "rô-ti" ngon lành. Nhưng điều khiến Ngạn thương Đạt hơn cả là hiện nay Đạt không còn cha mẹ. Mẹ Đạt chết khi sinh ra Đạt. Cha Đạtlà cán bộ xã hồi kháng chiến, năm năm mươi tám bị bọn Diệm bắt đập đầu vứt xác trong bàu rừng. Hài cốt của cha Đạt và những người khác được chính chị em Quyên, Sứ gom về, bây giờ cũng hãy còn để chung trong hang. Nay Đạt chỉ còn có bà ngoại, trên sáu mươi tuổi, hiện ở bên Linh Quỳnh, Đạt đi bảo vệ anh Tám được hai năm. Nghe đâu có lần bà ngoại Đạt nhớ Đạt quá cứ đi lần mò kiếm cậu thăm.
Ngạn hỏi:
- Chiều hôm qua về Linh Quỳnh, gặp bà ngoại rồi hả?
- Em gặp rồi... Ngoại em mừng quýnh, cứ ngồi rờ mình mẩy em mà khóc. Rồi ngoại em đi kiếm đu đủ hườm về nạo trộn gỏi cho em ăn. Em khoái ăn gỏi đu đủ trộn tôm xé lắm. Lần nào về ngoại cũng làm cho em ăn "đã" thôi.
- Món đó anh cũng khoái lắm - Ngạn nói.
- Em có đem về cho mấy anh năm xâu tôm lụi của ngoại em gởi...
Ngạn đặt tay lên khẩu cạc-bin của Đạt, hỏi:
- Cây "cạc" em lên đạn chưa?
Đạt gật đầu.
- Em lên rồi, nhưng đã khóa lại.
Ngạn dặn:
- Em lựa chỗ núp chỗ day cho thiệt ngon đi.
Đạt ngắm nghía chỗ mình, nói:
- Em ngồi đây được rồi!
Đạt nâng khẩu cạc-bin lên, chìa ra miệng hang nhắm nghiền mắt trái. Cậu ta nheo mắt mấy lượt, đoạn liếm môi, bảo:
- ở đây bắn sướng lắm!
Đạt để súng dựa vào đùi, mở lấy bi-đông nước ra uống. Hớp mấy hớp nước, Đạt đưa bi-đông về phía Ngạn:
- Anh uống?
Ngạn chỉ bi-đông nước đeo bên thắt lưng mình nói:
- Anh có đây... - Dừng lại một giây, anh bảo - Uống nước in ít thôi nghe Đạt. Khi khát lắm hãy uống!
Rồi Ngạn cũng dặn tất cả:
- Anh em nhớ phải tiết kiệm nước đấy. Trong hang có rất ít nước. Còn cơm khô, cốm dẹp của mỗi người là lương thực chính, đừng có buồn miệng đem ra nhai chơi đó!
Tới hỏi:
- ở trong hang có gạo mà?
- Có, nghe nói có hai giạ gạo. Nhưng hai giạ thì cao lắm là chịu được ba bốn ngày.
- Ba bốn ngày thì nó rút mất rồi, sợ gì?
- Chuyện đó chưa biết được. Ví dụ tụi nó vây riết mình độ tuần lễ thì sao?
Nghe Ngạn hỏi thế, không ai nói chi nữa.
Mọi người lựa chỗ, ngồi im. Tất cả các mũi súng đều chĩa ra miệng hang. Ngạn đăm đăm nhìn cái lối mòn trên bãi cỏ cú. Anh nhìn những cây dừa đứng yên, những tàu lá dừa nhẫy nhượt, loáng nắng. Thấp thoáng vài tên lính áo quần xám xịt đang tới lui khuân vác những thứ gì trông không thấy rõ. Anh nghe tiếng xoong chảo khua loảng xoảng, tiếng la ó nhốn nháo từ xa vẳng tới và có cả tiếng dừa rụng lịch bịch.
2.
Quyên bấm đèn pin cho chị Sứ coi lại những nồi cà om nước. Nhìn chị mình lòng bàn tay rà vuốt từng cái cà-om, Quyên hồi hộp hỏi:
- Sao, nó có rỉ chảy nữa không chị?
- Hơi ri rỉ...
Và Sứ bảo:
- Em đứng đây, để chị chạy đi lấy tấm ni-lông. Phải cho mấy cái cà om này vào ni-lông túm lại mới được. Nếu có chảy thì cũng chảy ra ni-lông.
Sứ chạy đi, lát sau chị trở lại tay cầm tấm vải nhựa rộng của chị. Chị mở tấm vải nhựa ra:
- Rọi đèn coi!
ánh đèn phin trong tay Quyên bật lên quơ quơ soi tấm vải nhựa màu cánh gián. Sứ chăm chú nhìn rồi nói:
- Không sao, không bị lủng...
Chị Sứ đem tấm vải nhựa trải xuống một chỗ phẳng nhất. Quyên soi đèn cho chị mình lần lượt khuân từng cái cà om đặt xuống. Khuân xong tám cái cà om nước, Sứ túm bốn chéo góc tấm vải nhựa, buộc lại. Vừa buộc chị vừa chép miệng:
- Phải Năm Nhớ nó không đập bể một cái thì có phải bây giờ được chín cà om nước không!
Buộc xong, chị đứng lên, bảo Quyên:
- Thôi, đi coi lại mấy khạp gạo coi!
Hai chị em đi vào tận trong một cái hang xẻo nhỏ ở bên phía tay trái. Chợt trong chốc hang bên tay mặt có tiếng thở khì khì của tên chủ trại đáy và tiếng nói lí rí của mụ vợ. Nghe tiếng người nói đi ngang, mụ vợ cất tiếng nói như rên:
- Mấy ông ơi, cho vợ chồng tôi xin miếng nước!
Quyên cấu tay chị:
- Nó xin nước kìa!
- Chuyện này để còn hỏi anh Hai đã.
Quyên bước dấn tới, nói lớn:
- Xin nước uống à? Khoan đã!
- Trời... Ai như cô út Quyên đó phải không? - Tiếng con mụ trại đáy kêu lên - Tôi lạy cô, cô út ơi, xin cô làm phước, xin cô nói giùm vài lời cho vợ chồng tôi được nhờ...
Hai chị em Quyên, Sứ trở ra hang lớn gặp anh Hai Thép, trình bày cho anh nghe về tình hình gạo nước. Anh Hai Thép cười bảo:
- Thì tùy hai cô thôi, có ít tính theo ít chứ biết sao!... Nhưng gì thì gì cũng phải ưu tiên cho anh em bị thương. Phải nấu cháo cho anh em đó!
Sứ và Quyên bắt đầu mò mẫm đi kiếm mấy hòn đá đem vào góc hang, kê bếp. ở đây có xoong nồi, cả củi khô chẻ sẵn phòng khi giặc càn quét.
Sứ móc bật lửa, quẹt xạch xạch.
Chị lúi húi, một lúc sau bếp lửa mới chịu cháy. Quyên nhấc cái xoong nhỏ đi lấy gạo nấu cháo.
Đem cái xoong vô đặt lên bếp xong, cô ngồi ấp hai tay vào má, nhìn ngọn lửa nhảy nhót. Con bé Thúy từ chỗ anh Thẩm mon men đi ra. Nó đến sau lưng Quyên, đưa tay lên ôm cổ Quyên. Quyên quàng tay ra sau như cõng lấy nó. Con bé thỏ thẻ:
- Dì út nấu cơm cho con ăn đó hả?
Quyên day lại, bậm trợn:
- Nấu cho mày? Không ở nhà với ngoại, vô đây cơm gạo đâu mà cho mày ăn. Nấu cháo cho chú Thẩm với chú út đó chớ!
Con bé Thúy cười lỏn lẻn trên cổ Quyên.
Sứ hỏi con:
- Nãy giờ con ngồi chơi với chú Thẩm có nghe chú ấy rên không?
Con bé lắc đầu:
- Chú Thẩm đâu có rên!
Nó buông cổ Quyên ra, tới ngồi bên mẹ nó, thủ thỉ:
- Má ơi, chú Thẩm mới nói chuyện đời xưa cho con nghe hay ghê lắm!... Chú nói hồi xửa hồi xưa có một con nhỏ con của vợ chồng người đốt than. Một hôm, má nó đau nặng. Nó nghe người ta nói ở trong rừng có một thứ lá trị bịnh hay lắm. Con nhỏ đi lơn tơn vô rừng kiếm hái lá đó. Ai dè hái được lá thuốc đó rồi, nó không nhớ đường về nữa. Nó đi lạc, gặp một cái nhà ở giữa rừng, chủ nhà là một bà già giàu có sung sướng lắm. Bà già đó rủ nó ở lại và hứa sẽ nhận nó làm con, sẽ cho nó vòng vàng, cho nó ăn uống đủ thứ... mà nó không chịu, tay nó cầm bó lá thuốc cứ nằng nặc hỏi thăm đường về. Lát sau, bà già hiện hình thành một cô tiên đẹp thôi là đẹp...
Khi con Thúy mới nói đến chỗ: "một cô tiên hiện ra đẹp thôi là đẹp...", khi đôi môi nhỏ của nó còn đang xuýt xoa về cái đẹp tuyệt trần của nàng tiên nọ, thì phía ngoài hang chợt có tiếng súng nổ vang. Trung liên rô lên hàng tràng dài giòn giã. Tiếp đó, những phát ga-răng nổ "bầm bầm bầm". Con Thúy vụt ôm mẹ nó chặt cứng. Quyên đứng phắt dậy:
- Chắc tụi nó mò vô cửa hang rồi!
Sứ nói:
- Sao chỉ nghe súng của tụi nó mà chưa nghe súng của mình?
Sứ mới dứt lời đã nghe tiểu liên tôm-xông bắn từng loạt ngắn "tạch tạch tạch", và tiếng súng trường, tiếng cạc-bin nổ "đoàng đoàng" từng phát một. Quyên la lên:
- Đó, đó, mấy ảnh bắn rồi!
Đoạn Quyên chạy vụt ra. Sứ gọi giật:
- Quyên, Quyên!
Nhưng Quyên vẫn không quay lại. Cô gặp anh Hai Thép và một số anh em ở ngách hang. Hai Thép nói:
- Nên ra thêm một tổ nữa đi với!
- Tôi.
- Tôi.
Quyên sấn tới giơ tay đòi đi nhưng anh Hai Thép kéo cô qua một bên, làm cô tiu nghỉu.
Hai anh du kích bước ra, đi theo Hai Thép. Chú Tư Nghiệp xách cây súng ngựa trời nói với anh Hai Thép:
- Cho tôi ra làm một phát này coi, ông!
- Còn một cây nữa đâu?
- Đây!
- Đem ra ngoài luôn đi!
Tổ do Hai Thép dẫn đầu đi ra gần tới ngoài thì nghe tiếng Ba Rèn cười rúc rắc sau gộp đá:
- Thôi mấy cha ơi, cứ ở trỏng nghỉ cho khỏe, chưa tới lượt tôi mà đâu đã tới lượt mấy cha! Tụi nó vô bao nhiêu bị tổ chú Ngạn ở ngoài đó vật chết rồi. Cha nào muốn coi thì lại đây coi. Tụi nó nằm trước hang cả đống đây nè.
- Đâu, đâu?
Ai cũng giành chen tới các gộp đá. Hai Thép ghé mắt nhìn qua kẽ đá hở. Anh đếm được sáu thằng giặc nằm rải dọc ngoài cửa hang. Hầu hết chúng đều nằm ngã ngửa, súng vất bên cạnh. Đạn địch vẫn bắn "cháo cháo" vào cửa hang. Quanh những cái thây sõng sượt, đạn cắm chít chịt, tóe từng bụm khói nhỏ cỡ bàn tay.
ánh nắng mặt trời chiếu qua kẽ hở các tàu lá dừa. Bóng lá dừa in xuống các thây chết những vệt đen dài, coi sắc tợ những lưỡi gươm. Đạn địch bắn xối xả, bay sướt sượt qua vành nón sắt của các tên lính chết. Những khuôn mặt của bọn này trông đen đúa, láng nhờn, gây cho mọi người một cảm giác tởm tởm, buồn bã, bởi chúng đã chết rồi mà đạn phía bên chúng vẫn không tha, vẫn bấu quanh và lát lát có một viên bắn xuyên qua một bàn chân khiến cho bàn chân chết đó lạia giật lên một cái.
Anh Hai Thép sốt ruột nhìn những khẩu ga-răng Mỹ báng đen mun, nòng bạc sáng loáng nằm bên các thây chết. Mấy khẩu tôm-xông báng đỏ au, mấy xanh-tuya đạn mới xanh còn dính trên mình chúng. Đó đều là những thứ mà anh và anh em ước ao bấy lâu, có khi nó là đầu đề cho cả một câu chuyện, một cuộc cãi vã, và có khi nó còn hiện ra ngay trong giấc mơ của anh. Bây giờ, các vũ khí Mỹ ấy hiện sờ sờ trước mắt, thật sự, tưởng như có thể với tay mà lấy được.
Nhưng rõ là bây giờ bọn giặc đang bắn để giữ các thứ đó không cho anh em xông ra cướp. Anh Hai Thép nôn nao mong sao cho hỏa lực địch dịu bớt. Anh nghĩ nếu tụi nó bắn lơi một chút thì thế nào cũng xông ra được. Nhưng lưới đạn của địch vẫn còn dày. Quanh trước miệng hang, đạn kêu "chóe chóe" như chuột lắc các ổ. Hai Thép ngó một lúc, chịu không nổi, quay lại bảo Ba Rèn:
- Phải tổ chức ra kéo súng vô hang mới được!
Ba Rèn gật đầu.
Hai người lách men ra ngoài tổ của Ngạn. Đạn xẹt vô hang chạm đá, nhoáng lửa. Họ phải đi mon men theo các mô đá, nhảy thoắt từ sau mô đá này sang phía sau các mô đá khác. Anh Hai Thép đến bên Ngạn, hỏi:
- Sao, nó bắn rát quá không ra nổi hả?
Ngạn lắc đầu. Vẻ mặt anh suy tính, căng thẳng. Trong lúc đó, Đạt ngồi chồm hổm dưới chân anh thì cứ nhăn mặt năn nỉ:
- Trời ơi, cứ để em bò ra... Em nhỏ, nó không bắn trúng đâu mà... Cho em ra đi! Em ra nghe anh, em bò ra à?
Đạt vừa nói vừa dợm mình nằm rạp xuống. Ngạn nhíu mày không đáp. Đạt ngỡ là Ngạn đã đồng ý, liền chống khuỷu tay trái xuống đất tính bò tới. Ngờ đâu Ngạn nghiêm nghị nói rành rọt từng lời:
- Tôi không cho chú đi. Chú không được đi, nghe chưa?
Đạt nghe bảo thế thì không dám trườn tới. Cậu ta cắn môi như sắp khóc:
- Anh không cho em đi, đây một chút nữa tụi nó tới lấy hết cho coi!...
Ngạn bảo:
Không đâu, nếu nó tấn công mình sẽ đánh cho nó dội lại như lần trước, không cho nó kịp lấy thây, lấy súng. Và lần này khi nó dội lại, tôi đề nghị mình sẽ ào ra giựt súng liền. Tôi sẽ cùng Tới, Trọng bắn kiềm cho anh em lấy súng đạn, anh em đồng ý không?
Hai Thép gật gù tán thành ý kiến Ngạn. Ai cũng cho đó là cách tốt nhất. Ngạn nói tiếp:
- Nếu làm thì phải làm thiệt mau... Còn bây giờ thì thôi, cho nó bắn "đã" đi, mình cứ ngồi nghỉ. Lát nữa đánh bật nó rồi, hễ tôi phóng ra là anh em theo tôi liền nghe!
- Được rồi!
Đạt nghe cái kế hoạch chớp nhoáng đó thì nét mặt cậu ta hớn hở lại. Tư Nghiệp lẩm bẩm:
- Làm vậy được. Nhưng phải cho lẹ đa!
Thế là mọi người ngồi đợi một cuộc tấn công mới của địch. Kế hoạch của Ngạn đề ra vừa táo bạo, vừa chắc ăn, khiến cho ai cũng vừa thích thú vừa hồi hộp. Trong lúc ấy, đạn địch vẫn bắn xối xả vào hang. Ngạn móc cái bì thuốc nhỏ nhỏ xinh xinh, lấy thuốc cuộn một điếu. Nguyên cái bì thuốc này do Quyên may cho anh. Vải túi là vải dù pháo sáng mà cô nhặt được trên bờ biển, của bọn khối xâm lược Đông Nam á tập trận năm ngoái thả xuống. Ngạn nhớ lại lúc anh cầm cái túi này của Quyên đưa cho, anh đã reo lên:
- A, hoan nghinh!
Thì Quyên lườm anh:
- Ghiền thuốc mà không biết kiếm cái gì đựng, người ta mới tội nghiệp may cho đó. - Rồi Quyên còn cấu tay anh - Chớ không phải xúi "ông" hút nhiều nữa đâu, nghe "ông"?
Mỗi lần móc thuốc từ trong bì ra vấn hút, anh lại tủm tỉm nhớ lại câu nói đe đó của Quyên.
Giữa những phút căng thẳng gay go, những câu nói như vậy chừng như đến với anh rõ hơn. Như lần anh bị bắt. Lúc chúng dắt anh đem bắn và lúc anh nung nấu cái ý định tự giải thoát, thì Quyên chính là cái bóng người vẫy gọi, thúc giục anh nhiều nhất. Hầu như anh có cảm tưởng là không đời nào anh lại chết mà không gặp lại Quyên cho được. Bây giờ cũng thế, dù cuộc xô xát sắp tới có quyết liệt đến dường nào, anh cũng tin rồi sẽ bình yên, sẽ ngó thấy lại khuôn mặt trái xoan đầy đặn của Quyên. Anh tin thế nào cũng sẽ được nhìn lại đôi mắt to đen luôn mở trố như ngạc nhiên, và rồi anh lại đặt cằm mình lên mớ tóc dày mướt mượt cứ ngan ngát cái mùi hương của những bông cau non tơ. Mà tất cả những cái ấy thực ra nào có phải chỉ là Quyên! Người con gái anh yêu vốn chỉ là biểu tượng kết đọng lại của bao nhiêu thứ khác. Trong Quyên hình như có trái măng cụt ngọt thau, có những cây tre vàng nắng, có lá cành lê ki ma xanh um, có tiếng nói yêu thương âu yếm của các mẹ già cùng tiếng bập bẹ ngây thơ của các em bé. Thật là trong Quyên như chứa đựng đủ mọi thứ đó. Từ tiếng xạc xào của rừng dừa, tiếng sóng biển vỗ lên bờ bãi, tiếng thét của đoàn người đấu tranh, ánh đuốc bập bùng, tiếng khóc và tiếng cười vui. Quyên là cô, nhưng đồng thời cũng là anh em đồng chí khác. Mối thương yêu riêng tây này gắn liền Ngạn với cái chung quý giá là cách mạng, là cuộc sống mới giành lại được ở miền đất nằm kề biển cả này.
Cứ mỗi một năm, mỗi một tháng, Ngạn lại càng thấy thương thêm những ngôi nhà sàn, những bà con Khơ Me thật thà, những đàn cò trắng chiều nào cũng trở về lượn cánh trên đầu các cô gái đi đội nước suối Lươn, vẩy vẩy đôi bàn tay dịu nhĩu, cười nói râm ran.
Mọi hình ảnh ấy giờ đây nổi lên rõ quá, gắn bó với Ngạn quá. Cho đến khi Ngạn ngó thấy những chiếc nón sắt nhô ra khỏi vườn dừa thì anh liệng vội tàn thuốc, nhét cất túi thuốc, kêu khẽ:
- Kia kìa, tụi nó ló ra rồi kia kìa!
Tất cả mọi người mím chặt môi, gật đầu. Ngạn nhắc Đạt:
- Mở khóa súng chưa?
- Em mở rồi!
- Tôi nhắc lại, lát nữa khi tôi, Tới, Trọng vọt ra thì anh em vọt theo, không sớm, mà cũng không chậm nghe chưa?
Miệng nói với anh em, mắt Ngạn dõi nhìn bọn giặc đang nổ súng và tiến tới. Chúng đi lom khom, súng cắp nách bắn vào miệng hang. Ngạn áng chừng bọn giặc cỡ khoảng hai trung đội. Đi trước là bọn biệt kích coi rất táo tợn. Ban đầu chúng còn đi, về sau chúng chạy tới như ngựa sải. Ngạn trông thấy một thằng ở trần ngực đeo lòng thòng những sợi dây bùa và một vật gì lóng lánh. Vừa lúc đó Ba Rèn chợt kêu lên:
- Thằng Xăm!
"à, đúng nó rồi!". Ngạn nhận ra và anh nheo mắt giương tôm-xông bắn nây một loạt. Tên trung úy biệt kích ác ôn chợt đứng sững, vai phải rủ xuống, chỗ ấy cách miệng hầm chừng mười bước. Ngay lúc đó hai thằng giặc nhảy vụt đến xốc nách thằng Xăm, lặt lia chạy đi. Tiếp theo loạt súng của Ngạn là những loạt súng của Tới, Trọng, Đạt bắn chĩa vào đám giặc đang ùa tới. Bọn chúng té nhào, la rú. Ngạn bắn hết băng đạn còn lại, đóng ngay một băng mới vào, lia tiếp. Bọn giặc xổ tới liền bị hất lật ngửa, nằm sát miệng hang. Nhưng chúng chưa bỏ chạy. Bọn còn lại lùi lũi xông lên. Tới mở trái MK3, để chậm tới ba tiếng mới vụt ra. Trái lựu đạn Mỹ nổ vang động, khói che kín cửa hang. Ngạn thét:
- Liệng một trái nữa!
Quả MK3 thứ hai của Trọng ném vút tới đám giặc vừa nhổm dậy. Quả này nổ ra đã chặn đứng ngay cuộc xung phong. Bọn giặc ùa trở lại hết cả. Ngạn thoáng thấy hai tên biệt kích cõng xác tên Xăm lên, chạy xồng xộc. Ngạn nổ theo một loạt ngắn. Chúng vẫn còn vác thằng Xăm chạy. Anh nhảy phắt ra, lia thêm một loạt nữa và thét to:
- Xung phong!
Rồi anh phóng vụt ra miệng hang.
Tới, Trọng cũng lao theo. Ba Rèn, Hai Thép và anh em ùa cả ra kéo súng, chạy vội vào. Chú Tư Nghiệp và Đạt lúi húi mở xanh-tuya trên những xác giặc, mãi một lúc sau khi vừa mở được hai cái xanh-tuya đang và mấy băng tôm-xông, thì địch đã bắt đầu dừng lại bắn trả. Hai người bò vào hang dưới làn đạn rát rạt của địch và làn đạn của anh em từ trong hang bắn ra yểm hộ. Đạt bò như một con ếch, hai cái đùi mập chắc của Đại cứ co lên duỗi xuống, còn một tay Đạt lôi hai cái xanh-tuya đạn. Chú Tư Nghiệp bò chậm nhưng kỹ hơn, đôi chân dài ngoẵn đầy lông của chú cứ chòi chòi, đạp đạp, Ngạn vừa bắn vừa theo dõi hai người. Còn có mấy với tay nữa là tới miệng hang, Hai Thép khích lệ: Ráng chút nữa!
...Rốt cuộc hai người bò vào đến nơi, mình mẩy sây sát, đầu gối đều rớm máu, nhưng không bị trúng viên đạn nào. Đôi mắt của Đạt sáng ngời. Cậu ta kéohai dây xanh-tuya đạn ga-răng vô hốc hang, dựa lưng vào vách đá ngồi thở và cười, cái miệng cậu ta chành bành. Còn chú Tư Nghiệp thì đặt hai bàn tay nơi đầu gối, thở dốc:
- Đạn nó đi biết nóng lưng nghe!
Chú cầm một băng tôm-xông lẩy ra một viên coi thử. Đạn mới tinh, vàng chóe, sau đít có một chấm sơn tím. Chú đưa viên đạn lên mũi ngửi rồi nói:
- Mẹ, thơm nhản hết sức mấy cha! Bộ nó mới khui đạn thùng ra mà!
Chú chuyển các băng đạn cho anh em bắn tôm-xông và hỏi:
- Lấy được mấy cây súng?
- Sáu cây, năm ga-răng, một tôm-xông.
Ba Rèn đáp, và phát ngay cho Tư Nghiệp một khẩu ga-răng kẹp đầy những lam đạn óng ánh nơi dây đai. Tư Nghiệp mừng quá, đưa tay ru run đỡ lấy cây súng nặng trĩu mà bụng dạ cứ bán tín bán nghi, ngỡ như chiêm bao. Chú ôm cây súng vuốt ve từ nòng tới báng.
Ba Rèn nói:
- Ông thấy đời ông tươi chưa? Mới vác "ngựa trời" đó mà bây giờ ông cầm ga-răng rồi!
- Thì phải tươi vậy mới được chớ... Có gan làm giàu mà! Ê, súng này phát luôn chớ ta?
- Phát luôn. Mình còn lấy nữa, thiếu gì!
- Tôi được thủ cây ga-răng này thì chơi với nó có chết cũng mát bụng.
Ngạn cười, móc vắt cơm ra. Trời đã gần đứng bóng. Ai cũng chợt thấy đói bụng, liền lấy cơm vắt hồi hôm ăn nghiến ngấu. Mọi người đang ăn nửa chừng thì Quyên từ trong luồn ra. Cô cầm một xâu tôm búi nước, rút chia cho từng người. Chia hết xâu tôm. Quyên ngồi nép vào vách đá, hớn hở rờ coi những cây súng mới lấy được. Lát sau, cô đến bên Ngạn, hai tay đặt lên ngực mình như nén nỗi hồi hộp còn dâng đầy:
- Hồi nãy, em thấy anh chạy vụt ra!
- Em ngồi ở gộp đá phía sau anh à?
Quyên gật đầu. Cô chăm chú nhìn Ngạn bẻ cơm đưa lên miệng ăn ngon lành. Lát sau, Quyên nói giọng giận dỗi:
- Mấy anh không tin tưởng em, không chịu cho đánh chác gì hết!
- Không phải không tin đâu, tại chưa cần đó thôi. Chừng nào cần tới em thì em đánh, đừng nóng.
Thằng Xăm từ từ mở hé mắt...
Hắn thấy bả vai trái đau ê ẩm dưới lớp băng. Hồi nãy hai viên đạn tôm-xông đã ghim vào đấy. Nhưng hai viên đạn đó chưa giết chết hắn. Bây giờ hắn tỉnh lại dần. Nằm trong lều vải, hắn nhớ lại sự việc vừa xảy đến. Cái khuôn mặt của tên Việt cộng nhú lên sau mô đá đã nổ súng vào hắn hình như là hắn đã gặp ở đâu rồi. Nhưng hắn không nhớ rõ. Làm sao hắn có thể nhớ hết được hàng trăm người mà hắn hoặc đã giết hụt. Tuy nhiên hắn ngờ ngợ ké bắn hắn là một trong số người đã từng giáp mặt với hắn mà hắn đã để sẩy. Đây là lần đầu tiên hắn bị bắn, phải bỏ cuộc. Hắn nghĩ bụng: "Đáng lẽ mình phải bóp cò trước nó".
Một tên chuẩn úy y tá trưởng đeo kính cận ngồi nhổm bên cạnh hắn, bảo:
- Vết thương của trung úy không sao đâu
- Không sao hả?
- Không... Nhưng có thể hơi lâu lành...
Xăm không hỏi nữa. Hắn đưa tay lên ngực, rờ rẫm cái hình mặt chằn có nanh ngà, mê muội nghĩ rằng nếu không có cái mặt chằn ấy, chắc đâu hắn còn sống. Lâu lắm rồi hắn m1i trở lại Hòn Đất, mà lần náy hắn lại bị đánh trả dữ dội. Đó là điều hắn không ngờ. Qua cái bãi chông ban sáng và hai lần thọc vào hang đều bị đánh giạt ra, hắn thấy Hòn Đất hôm nay có cái gì không giống với Hòn Đất thuở hắn còn làm xếp bót. Hắn ngạc nhiên và tức giận lồng lộn. Hắn nghĩ: "Không thể như thế được đâu, tao sẽ bắn nát đầu tụi bây". Hắn liếc nhìn vết thương rồi đột ngột hỏi tên y tá trưởng.
- Đã bắt đầu đánh vô hang nữa chưa?
- Thưa anh Hai chưa?
- Sao không đánh
- Chưa có lệnh của Bộ chì huy
Xăm vụt nhổm dậy, nghiến răng trèo trẹo:
- Đ.mẹ, gần một ngàn thằng mà không vô hang được, kể tụi nó bắn mình cứ té sụm sụm, tức muốn ói máu.
- Thưa anh Hai, tụi nó nấp trong hang đó có thế lắm!
Xăm nín lặng. Hắn thấy tên chuẩn úy y tá trưởng đó nói đúng. Thật, đánh vô cái hang có đâu phải dễ thì chính việc hắn bị thương nằm đây đã nói rõ điều đó.
- Hồi trưa có mấy ông cố vấn Mỹ đi trực thăng xuống. Nghe đâu mấy ổng cho lệnh cứ vây siết, thì tụi nó thế nào cũng chết đói chết khát. Tôi cũng mới được lệnh của mấy ông biểu bỏ thuốc độc xuống suối...
Tên Xăm nghe nói, giật mình nhổm dậy, hỏi lại:
- Bỏ thuốc độc à
Tên y tá gật đầu, Xăm lo lắng ra mặt. Hắn nói:
- Rồi nước đâu mình uống? Dân trên Hòn không biết, uống chết hết còn gì?
- Ngăn suối lại. Bỏ thuốc độc ở khúc gần hang thôi!
Thằng Xăm ngả đầu xuống. Hắn nghĩ tới mẹ hắn và Cà Mỵ. Hồi sáng, khi kéo quân đến, hắn có ghé qua nhà. Mẹ hắn hỏi hắn với giọng không hằn học, mà cóvẻ hơi mừng là khác. Thành ra hắn đâm vui. Bây giờ, hắn chợt nảy ra cái ý nghĩ giá hắn được về nằm ở nhà thì chắc sướng hơn nằm trong cái lều oi bức này. Hắn liền nói với tên y tá:
- Tao muốn về nhà bà già tao nằm quá!
Tên này lắc đầu:
- Không được, anh Hai nằm ở đây để làm thuốc chớ. Chừng nào vết thương của anh Hai lành miệng thì c về.
- Nhằm vài ngày nữa lành miệng chưa?
- Vài ngày nữa thì chắc khá!
Tên Xăm nằm im, không nói chuyện nữa.
Xung quanh hắn vẫn dậy lên những tiếng ồn ào. Bọn lính đang ăn cơm. Vòng vây của chúng bao quanh hang có tới hai lớp. Lớp ở gần hang và một lớp ở gần xóm. Vào giờ này, bọn lính ở xóm la cà thả rểu vào các nhà dân.
Một toán lính bảo an đến quán thím Ba ú ngồi nói chuyện om sòm. Thím ý tay không rời được cái cóng đong rượu. Hôm nay, thím tỏ ra một người chủ quán vui tính hết sức. Thím gọi bọn lính bằng cậu, nói chuyện với chúng ngọt xớt:
- Mấy cậu đi như vầy mỗi tháng được lãnh mấy ngàn?
- Mấy ngàn? Một ngàn tám chớ mấy! Thím coi nhắm bấy nhiêu đó có đủ đút lỗ miệng không?
Thím Ba ú liền trố mắt, vẻ ngạc nhiên:
- Một ngàn tám à, bộ mấy cậu nói giỡn sao chớ?
Một ngàn tám làm sao sống! Vậy vợ con chắc có lãnh riêng?
- Lãnh riêng cho mà ham. Nội vụ chỉ có bấy nhiêu đó thôi, bà ơi!
Thím Ba ú liền buông xuôi hai tay lên bắp vế, chặc lưỡi:
- Vậy mà lâu nay tôi cứ ngỡ mấy cậu ăn lương tệ gì cũng cỡ ba ngàn sắp lên!
Bọn lính đều cười về sự hiểu lầm của thím Ba. Một người hạ sĩ trạc tuổi băm lăm, mặt mày đen đúa, tóc bờm xờm trổ tới mang tai, uống hết ly rượu, chép miệng ngó thím Ba:
- Thím làm như tụi Mỹ nó không biết tiếc tiền.
- Nghe nói Mỹ nó giàu lắm mà?
- Thì tụi nó giàu chớ... Bởi giàu nên nó mới bỏ tiền ra mướn tụi tôi đi đây. Nhưng nó dại gì mướn giá cao. Chỉ có tụi tôi là dại...
Người hạ sĩ nói tới đó chợt dừng lại đưa bàn tay luồn vào mớ tóc bờm xờm của mình, vẻ mặt coi mòi chán ngán và rầu rĩ lắm, thím Ba ú hỏi y:
- Xin lỗi, cậu người xứ nào?
- Tôi gốc gác ở Mặc Cần Dưng!
Thím Ba ú sững sờ:
- ủa, té ra cậu ở Mạc Cần Dưng, tức làng Bình Hòa?
- Phải thím biết xứ đó sao?
- Trời đất, hồi chưa giặc giã, tôi lên đó làm mắm hoài mà!
Rồi thím Ba nói tiếp, vẻ hồ hởi:
- Cha chả... cái xứ gì mà tới mùa cá dại nổi đặc sống! Ai muốn xúc bây nhiêu thì xúc. Thiệt ham làm sao. Các lóc, cá trèn, cá lìm kìm, đủ hết, mạnh ai nấy bắt... Còn ruộng lúa sạ ở đó trúng đổ đồng cứ một công hai chục giạ cầm chắc!
Người hạ sĩ nhổm tới, nhìn thím Ba ú trân trân:
- ủa, coi bộ thím này biết xứ tôi rành dữ ha?
- Tưởng ở đâu, chớ Mặc Cần Dưng thì sao tôi không biết? ở đây đi Mặc Cần Dưng cũng gần xệu thôi, cậu à!
Bọn lính chẳng chú ý gì về cái làng mang tên Khơ-Me xa lắc xa lơ đó. Chúng uống rượu, trả tiền rồi vác súng đi lệt bệt về chỗ đóng quân. Chỉ còn người hạ sĩ đen đúa kia ngồi lại. Đôi mắt của y giờ đỏ hoe. Ngồi xốm gối trên bộ ván giữa tiệm, y cười coi như mếu, rồi lấy mu bàn tay vụng về chùi mấy giọt rượu giây trên bộ râu lún phún chưa cạo.
Thím Ba ú hỏi:
- Cậu uống nữa thôi?
Hai tay y vội chắp cái ly đưa tới.
- Cho tôi một ly nữa.
Thím Ba ú múc rượu trong hũ, rót đầy tràn cái ly người hạ sĩ đang cầm:
- Hồi ở Mặc Cần Dưng, cậu sanh sống nghề chi?
- Tôi mầm ruộng. Tháng trước thỉ dăng câu đặt lờ.
- Cậu đi lính lâu chưa?
- Hai năm rồi.
Thím Ba ú vảnh bàn tay chặn nhẹ ống tay áo của người hạ sĩ:
- Khoan cậu đợi chút xíu, để tôi đi nướng con mực cho cậu nhậu!
Nói đoạn, thím mau mắn với tay lên túm mực treo bán, rút lấy một con. Rồi cầm con mực, thím lạch bạch đi vào bếp. Người hạ sĩ để ly rượu xuống, ngồi đợi. Coi bộ y cảm động. Khi mùi mực nướng trong bếp tỏa lên thơm tho y hít hít cánh mũi:
- Cha... mực thơm quá!
Thím Ba ú trở ra, tay kẹp chiếc đĩa nhôm đựng con mực nướng. Trong đĩa còn có một cái chén nhỏ. Thím trỏ cái chén nói:
- Có chén dấm ớt đây, cậu chấm mà ăn!
- Da...
Người hạ sĩ cầm con mực, dứt mấy cái râu bỏ vô chén dấm, rồi lấy hai ngón tay kẹp vớt ra, thong thả đưa lên miệng nhai. Thím Ba ngồi khoanh tay rế nơi góc ván nhìn người hạ sĩ uống rượu. Chợt thím hỏi:
- Sao cậu không ở nhà mầm ruộng, đi lính chi cho cực?
Người hạ sĩ cầm để ly rượu xuống, lặng thinh, gãi gãi đầu. Một lát say y mới nói:
- Tại tôi ngu. Tôi ngu quá. Mà không phải chỉ có một mình tôi...
- Đi đây có cậu nào cùng xứ sở với cậu không?
- Có bốn năm đứa... Tụi nó không ở tại Mặc Cần Dưng nhưng cũng ở cận đó. Thằng thì ở Vĩnh Hanh, thằng thì ở Năng Gù...
- à xin lỗi cậu, nói chuyện nãy giờ mà tôi sơ ý quên không hỏi thăm cậu thứ mấy chớ?
- Dạ tôi tên Cơ, thứ chín.
Thím Ba ú gật đầu. Rồi thím nói, vẻ sợ sệt:
- Hồi sáng tới giờ "đụng" trong hang Hòn dữ quá, không biết ra sao? Nghe súng bắn điếc đai.
Hạ sĩ Cơ bảo:
- ồ tụi biệt kích đột vô hang đó, mà đều bị đánh chạy dột ra hết rồi. Mấy ổng ở trỏng bộ đông lắm hay sao mà chống cự gắt mấu. Hồi sáng tới giờ "liểm" tụi tôi gần hai chục thằng rồi!
- Tôi thấy bao nhiêu võng ở trong xóm đều bị lấy hết
- Thì để khiêng tụi bị thương mà...
Hạ sĩ Cơ cầm ly rượu nhóng tới, hỏi ngỏ:
- Nè, thím nói thiệt cho tôi biết, mất ổng rút vô trong hang có đông không thím?
- Tôi đâu có biết mấy ổng đông hay ít!
Hạ sĩ Cơ buông ly rượu, nét mặt rầu rầu:
- Thím mà không biết... Thím nói để tụi tôi còn biết mà lánh né. Đây rồi thế nào cũng tới lượt tụi tôi phải vô hang. Thiệt là ngán. Coi bộ mấy ổng trong hang quyết tử quá xá!
Thím Ba ú đập khẽ bàn tay xuống gối nghe cái "chách":
- Chớ không quyết tử? Tôi hỏi cậu, giả tỷ cậu bị người ta đè xuống cắt cổ, cậu muốn sống thì phải làm sao? ít ra cậu phải lừa thế chụp dao hoặc bóp họng cái người lính cắt cổ cậu, rồi phóc chạy, thì mới sống được, chớ cậu nằm im ắt cậu phải chết... Mấy ổng cũng vậy đó, cậu à!
Hạ sĩ Cờ gật đầu:
- ồ, con trùng đạp riết nó cũng phải oằn, huống chi là mấy ổng. Y dừng lại giây lâu, rồi tiếp:
- Nói thiệt với thím, tôi không ham đụng độ với mấy ổng đâu. Tôi muốn về nhà mầm ruộng, dăng câu đặt trúm bắt lươn bắt cá nhậu chơi khỏe hơn. Chắc thím biết kinh Hội đồng?... Vợ tôi nó ở đó dệt chiếu nuôi con. Tội nghiệp...
- Đó, đó!- Thím Ba ú kêu lên: - Rốt cuộc người đờn bà cũng chịu cảnh khổ, cậu thấy chưa? Tôi khen cho cậu đành lòng bỏ vợ con mà đi. Kể cậu cũng là người lòng gang dạ đá!
Hạ sĩ Cơ nghe nói đưa tay rờ rẫm bứt bứt cổ áo:
- Trời ơi, thím Ba, thím Ba... Tôi khổ lắm, thím Ba à! Y kêu lên rồi bỏ ly rượu, bước xuống đất, lê đôi giày bố có mắt cá đi xềnh xệch tới bên cây cột. Đứng dựa cột, người hạ sĩ ngó mông qua miệt Vàm Răng. Y ngó qua những cánh đồng nâu nhạt trải dài tới ven cây xanh mù. Và núi Ba Thê tim tím, vòi või ở trước mặt làm bụng dạ y chết điếng. Mãi một lúc lâu, y mới trở vào khoác cây súng trường mát, móc túi áo gom nhóp mấy đồng bạc lẻ:
- Thím tính bao nhiêu tôi trả.
Thím Ba lắc đầu:
- Thôi, chút đỉnh mà tiền bạc gì cậu!
Hạ sĩ Cơ ấp úng:
- Không, để tôi trả, để tôi trả mà!
- Tôi nói là tôi không lấy... Gặp cậu, tôi coi như người bổn sở...
Hạ sĩ Cơ nói:
- Vậy tôi cám ơn thím... Thôi tôi cề, nghe thím!
Trên đường về chỗ đóng quân, lòng hạ sĩ Cơ thấy vui vui khi nghĩ tới thím Ba ú, người đàn bà chủ tiệm béo mập mà tốt bụng. Và nhất là thím ta lại biết rất rõ xứ quê của y. Trời ơi, thím ta nhắc làm chi mùa cá, nhắc làm chi đồng ruộng khiến lòng y bồi hồi quặn thắt. Y nhớ ngày nào y đánh cộ trâu chở lúa mướn. Cộ trâu chạy băng băng trên đồng lúa mới gặt. Đó đây, các trại ruộng nổi khói cơm chiều. Rồi mùi thơm của những nồi cơm gạo mới, mùi cá lóc nướng trui khen khét. Lũ con nít đi bứt hôi cá đìa, đi mót lúa thấy y đánh cộ ngang đều chạy ùa theo kêu cho chúng đi ké. Thiệt là vui làm sao! ấy, cũng vào cái dạo tháng chạp này đây. Mùa tát đìa nối đuôi mùa gặt. Y nhớ khôn xiết cái cảnh ngày chạng vạng trong đồng. Sau bữa cơm mắm kho bông súng ngon lành, cái trại ruộng đốt đống un lên, sửa soạn cà lan đạp lúa tối. Và y cầm cây mó sẩy xốc lúa cho trâu kéo trục đạp qua. Tụi đàn bà con gái dê lúa gần đó cười nói vang rân. Rồi trăng lên. Y vẫn vừa tiếp tục xốc lúa, vừa nói cà rỡn với mấy đứa con gái dê lúa bên cạnh.
... Cái đời y cũng đã có lúc vui vẻ thảnh thơi như thế. Lúc kháng chiến, y cũng vô du kích đánh Tây. Hòa bình y cưới vợ, rồi cờ bạc. Y cờ bạc riết mà xa đồng ruộng, bỏ bê vợ con, bỏ cả cái lợp cái lờ để vô lính dân vệ. Từ dân vệ y trở thành lính bảo an không mấy chốc. Ban đầu còn đóng ở Long Xuyên, sau lên Rạch Giá. Y đi lính lâu mà không lên khỏi cái chức hạ sĩ, vì y không dám giết người như những tên lính khác. May thay, cái gốc của ruộng đồng còn giữ y lại ở mức người lính đánh thuê. Nhiều trận càn, tụi lính cứ đạp bừa lên mạ, nhưng y lại đi tránh lối khác, vì chính y đã có lúc gieo cây mạ đó. Cũng như chưa lúc nào y dám cầm súng nhắm một con trâu mà bắn.
Đến Hòn Đất này, y là một trong số những người lính chẳng thiết tha gì sự đánh chác. Lúc lên đường hành quân, y chỉ mong sớm sớm trở về. Khi thấy chỉ có một buổi sáng mà lính đã chết và bị thương ba bốn chục, y ghê quá. Y đâu lạ gì những người du kích. Y hay ngẫm nghĩ nếu y vót chông cặm ruộng thì cây chông của y cũng sẽ đâm chết bất cứ thằng nào xông qua ruộng y như vậy.
Cái khoảng cách biệt, cái rãnh ngăn đôi giữa hạ sĩ Cơ và những người mà bọn giặc gọi là "Việt Cộng" buộc y phải đánh đó, không có gì là sâu xa cả. Y cầm súng bắn vào họ không đành. Ngón tay y bóp cò súng không quả quyết chi hết.
Y thấy người du kích đó giống hệt như y, vì hầu hết họ cũng đều là dân làm ruộng, dăng câu đặt trúm, như y vậy.
Nghe nói cuộc bao vây này có thể kéo dài, y đâm lo. Trên đường đi từ quán thím Ba ú ở về tiểu đội, hạ sĩ Cơ tâm trí cứ để đâu ở miệt làng cũ. Và cái câu thím Ba ú nói "từ đây đi Mặc Cần Dưng gần xệu" cứ gợi đến cho y một ý định táo bạo.
4.
Cho tới chiều, không có một cuộc xô xát nào xảy ra. Người ta không nghe tiếng súng nổ dữ dội như ban sáng và trưa. Chỉ có tiếng súng của bọn giặc bắn trâu nổ lẻ tẻ ở ven đồng. Những con trâu bị bắn khuỵu giữa ruộng, rống dài. Khắp Hòn Đất ai cũng nghe tiếng rống thảm thiết của những con vật hiền lành ấy. Bấy giờ nắng bắt đầu nhòa đi trong vườn lá. Và khi gió biển mới thổi về Hòn mỗi lúc một nhiều hơn thì từ rặng Thất Sơn xanh mù kia thấy chớp trắng những cánh cò.
Chiều nào cũng vậy, vào lối này, đàn bò lại trở về. Sau một ngày đi kiếm ăn ở chốn xa, những con cò bay về Hòn Đất, nơi có không biết bao nhiêu cái tổ rơ, vắt vẻo trên đọt xoài, nơi chúng sống từ đời này đến đời khác. Đàn cò cứ mỗi lúc một hiện rõ, với những đôi cánh hình dấu ớ. Và sau lưng chúng sắc núi đã chuyển từ màu xanh lam sang màu tím ngắt thì đã có thể đếm được từng con cò bay vẫy, la lả. Nhưng chiều hôm nay đàn cò đầu tiên về tới vừa xuống vườn xoài Hòn Đất thì chúng xao xác vụt bay lên hết cả. Súng từ bên dưới bắn lên "bóc bùm, bóc bùm". Trong buổi chiều tà, có mấy con cò bị trúng đạn, xoạc đôi cánh trắng, từ không trung rơi thẳng xuống. Nhưng con cò sau sắp hạ cánh đều kinh hãi kêu ré, cất lên. Chúng liệng nhiều vòng trên cao rồi cuối cùng chớp chớp bay về phía Hòn Me.
Mẹ Sáu đứng nơi bậc thang nhà nhìn thấy đàn cò không hạ cánh xuống vườn được, lòng mẹ đau như cắt. Mẹ ngồi bệt xuống bậc thang, ngó về phía hang Hòn bị cây cối che phủ. Bụng dạ mẹ càng thêm lo bấn. Hồi sáng tới giờ mẹ có làm được công việc gì đâu. Hết chạy vào lại chạy ra. Bỗng dưng bây giờ cái nhà chỉ còn trơ lại có mỗi mình mẹ. Hai chị em Quyên, Sứ vào hang thì đã đành, đến như con bé Thúy nó vào trong đó làm chi, để mẹ đã lo lại càng lo thêm. Hồi sáng, khi bọn giặc vào tới xóm, thằng Xăm đã ghé vào nhà mẹ sục kiếm. Nó hỏi: - "Hai đứa con gái nhà bà đâu". Mẹ đáp - "Thấy mấy ông vô, tụi nó sợ chạy đâu tôi cũng không biết!" Bọn giặc nói: - "Trốn vô hang hết rồi chứ gì, tưởng tụi tôi không biết hả? Cho bà hay, chuyến này tụi tôi tiêu diệt hết Việt cộng ở đây rồi đóng bót luôn chớ không phải như lần trước đâu. Tưởng trốn vô hang là êm sao. Tụi tôi đánh vô, bắt được đứa nào mổ bụng đứa nấy cho coi!". Chúng nói thế rồi bỏ đi. Một lát sau, súng lớn ngoài tàu bắn lên Hòn nổ rung rinh nhà cửa. Mẹ Sáu phải xuống hầm núp. Dứt trận súng lớn rồi, mẹ vừa chui lên thì lại nghe súng to súng nhỏ rộ lên phía hang Hòn. Mẹ bắc thang leo lên dòm qua mái hà sau, thấy cây cối ở hang Hòn bị đạn chém sả, như có bàn tay vô hình đang phát cho các nhanh mãng cầu, nhánh xoài rụng xuống một cách không thương tiếc. Kế mẹ nghe súng từ trong hang Hòn bắn ra. Tiếng lựu đạn nổ ầm ầm. Chị Hai Thép bồng con từ đằng nhà chạy đến, kêu:
- Má sáu sơi!
Chị hai Thép chạy rầm rầm vô nhà. Không thấy mẹ Sáu đâu. Chị hốt hoảng kêu;
- Má Sáu, má Sáu!
- Tao đây nè!
Mẹ Sáu ở trên mái nhà nói. Chị Hai Thép ngước lên hỏi:
- Má lên trên đó coi đó hả? Có ngó thấy gì không?
- Đâu có thấy gì. Chỉ thấy nhánh cây ngã liệt.
Mẹ Sáu hai tay vịn thang, bước xuống. Mẹ nắm tay chị Hai Thép, nói tiếng được tiếng không:
- Đánh rồi, nó đánh vô hang rồi, vợ Hai Thép à!... Trời ơi, không biết trong đó anh em chống cự ra làm sao. Tao lo cho mấy đứa nó quá. Súng ống đâu có bao nhiêu...
Chị Hai Thép đặt thằng nhỏ ba tháng xuống ván, đứng im, lắng tai. Chị nói:
- Má nghe không, lính nó la gì dữ quá!
Mẹ Sáu cũng lắng tai cố nghe, nhưng tai mẹ không nghe được tiếng la ở xa vẵng tới. Chị Hai Thép hạ giọng:
- Không sao đâu, con nghe ba sắp nhỏ nói ở trong hàng đó vững lắm, tụi nó không dễ dầu gì tràn vô được đâu!
- ừ, nó không tràn vô được liền, nhưng cho là nó không vô được đi, mà nó cứ vây riết, rồi anh em ở trỏng lấy cơm gạo đâu ăn?
- Má đừng lo, có gạo!
Mẹ Sáu không nói nữa, kéo rỗ đựng trầu, têm gấp một miếng. Sắp bỏ miếng trầu vô miệng, bỗng mẹ lại nói:
- Tao hỏi vợ Hai Thép, có gạo là có vậy, chớ lấy nước đâu mà nấu cơm, không lẽ ăn gạo sống à?
Chị Hai Thép đang vảnh tay quệt mũi cho thằng con nhỏ lồm cồm bò trên ván, nghe Mẹ Sáu hỏi chị cũng lo, và chị cũng biết giặc đóng chiếm suối Lươn rồi. Nhưng chị đáp:
- Mấy ông mình thế thần dữ lắm, lẽ nào chịu ăn gạo sống... ít nhất cũng rang gạo mà ăn chớ.!
Suốt buổi sáng, mẹ Sáu thấp thỏm không yên.
Chị Hai Thép sang thăm mẹ Sáu một chút rồi bồng con về ngay. Từ tối hôm kia, anh Tám Chấn đã đến ở tại nhà chị mà không một ai trong xóm biết cả. Ngay mẹ Sáu cũng không biết nữa. Lúc chị Hai Thép trở về bên nhà rồi, mẹ Sáu đi cho heo ăn. Ngồi lùa tay vào máng cám, niệng mẹ lêu heo, nhưng lòng mẹ thì hướng cả về hang Hòn. Thật, bỗng nhiên mà tất cả ruột rà của mẹ đều bị dứt ra để trong hang Hòn đó. Con gái lớn, con gái út, con cháu ngoại cưng như trứng mỏng đó chẳng phải là nguồn sống của cả đời mẹ là gì! Rồi còn con rể và những anh em khác, đều như ruột thịt cả. Bây giờ tất cả đều đang đặt mình trong tình huống khó khăn. Sự sống và cái chết như đã để lên cân, mà bà mẹ là người đang hồi hộp nhìn coi cái cân ấy. Mặc dầu mẹ cũng đã từng nếm nỗi lo âu kiểu như thế, nhưng trước kia nỗi lo âu của mẹ dàn trải ra, chớ đâu có câu thúc, gom lại ghê sợ như bữa nay.
Đêm xuống tối mịt. Mẹ Sáu quờ quạng đi đốt đèn. Cây đèn ống khói cháy lên càng soi rõ sự trống trải của gian nhà. Mẹ Sáu ngồi dưới ván một lúc, bồn chồn chịu không nổi, mới đi thắp ba cây nhang. Mẹ thắp nhang đứng trước bàn thờ chồng, lâm râm khấn:
- Ông sống khôn thác thiêng, phen này ráng phò hộ cho sắp con cháu của ông được tai qua nạn khỏi...
Mẹ xá xá mấy cái rồi cặm nhang vào chiếc lư hương đặt trên bàn thờ. Vừa lúc ấy chợt trong xóm có tiếng loa đột ngột nổi lên. Mẹ giật mình chạy ra cửa, tiếng loa thét vang vang:
- Nghe đây, nghe đây. Quân đội Việt Nam cộng hòa thông báo cho dân trên Hòn được rõ, hôm nay quân đội đã chạm súng và tiêu diệt được nhiều tên cộng phỉ. Hiện chúng còn đang ngoan cố chui rúc trong hang để chống lại. Quân đội sẽ tiếp tục tiêu diệt chúng. Chúng tôi xin báo cho đồng bào biết bắt đầu từ chín giờ sáng mai cấm tuyệt không ai được léo hánh ra suối. Nghe đây, nghe đây, quân đội Việt Nam cộng hòa...
Mẹ Sáu nghĩ bụng: "Cấm dân không được ra suối à? Tụi mày mưu tính chi đây? Chà... nó nói nó tiêu diệt được nhiều anh em mình. Chắc nói láo. Hồi sáng nghe chỉ có hai người mình bị thương, một chú là Thẩm, hai là thằng Bé con Tư Râu... không biết sau còn có ai bị thương thêm không?"
Tiếng loa của giặc vẫn còn thét ré trong xóm. Lúc tiếng loa im đi, chợt có tiếng kêu cẩng cẩng ngoài ngõ. Mẹ Sáu vào nhà cầm cây đèn. Trở ra mẹ thấy một con chó mực nhỏ chạy quấn tới bậc thang. Đi sau con chó còn có bóng người. Mẹ Sáu nhướn mắt nhận ra là thằng út, con của chú Tư Râu. Thằng út mặc cái áo len dài tay, vạt áo nhét trong quần cụt. Nó đi lon ton tới bậc thang, nhảy riết lên. Mẹ Sáu hỏi:
- Mày đó hả út?
Thằng út vừa thở vừa đáp:
- Dạ, ba con biểu con vô đây ngủ. Ba con nói tối nay bà Sáu ở nhà một mình...
- Vởy à?... Bộ mày ở ngoài bãi chạy u vô đây sao mà thở hào hển dữ vậy?
- Dạ!
Thằng út nói và đi vào. Năm nay thằng út mới mười ba tuổi, mà coi tướng đã vạm vỡ. Nước da nó đen, đầu hớt trọc, tóc xửng rửng như bông gáo. Bộ mặt nó coi liếng lắm, nhất là cái trán vồ của nó coi mới lì lợm làm sao. Vô nhà rồi, nó vẫn không ngồi yên được cứ chạy lòng vòng, tắc lưỡi kêu con mực chạy theo. Giỡn với con chó một hồi, thằng út lăn kềnh ra ván. Lát sau, nó ngóc đẩu hỏi mẹ Sáu nhà có còn cơm nguội không. Mẹ Sáu ngạc nhiên nhìn nó:
- Bộ mày chưa ăn cơm sao?
- Con ăn cơm hồi xế lận!
Mẹ Sáu đứng dậy cầm đèn, nói với nó:
- Đi xuống đây!
Thằng út lồm cồm trở dậy, theo mẹ Sáu xuống bếp. Mẹ bưng nồi cơm và một ơ cá kho dọn ra bộ ván kê cạnh bếp. Thằng út lấy chén, leo lên ván. nó tự xúc cơm, chan nước cá, rồi ngồi xếp bằng ăn riết. Mẹ Sáu nói:
- Hồi chiều tao nấu cơm đó chớ tao có ăn hột nào đâu. Ba mày có ghé đây. Nghe nói thằng Bé anh mày bị thương, ba mày lo lắng mà không nói chi hết!
- Ba con nói không đánh giặc thì thôi chớ đánh giặc thì bị thương là thường.
Mẹ Sáu nói:
- Còn mày, nghe anh mày vậy, mày sợ không út?
- Con khỏi sợ, bà Sáu à. Con liệng lựu đạn chết bà nó hết chớ sợ!
Mẹ Sáu phì cười:
- Mày còn con nít ai dám giao lựu đạn cho mày mà mày liệng!
Thằng út ngó Mẹ Sáu, mấp máy môi tính nói gì rồi thôi, bưng chén cơm lên ăn. Và hết cơm, nó thọc chén vô nồi mà xúc. Mẹ Sáu la:
- Cái thằng này, có đũa bếp sao không chịu bới?
Thằng út cười hề hề:
- Xúc mau hơn. ở đó bới thì ăn thêm được một chén nữa rồi!
Mẹ Sáu hết biết nói sao với nó, lắc đầu:
- Cha con mày tánh hệt như nhau. Tới ăn cơm thì củng ăn hốt ăn táp!
Thằng út làm thinh, ăn thêm ba chán cơm nữa rồi bỏ đũa đứng dậy. Nó xớn xác bước ra sau lấy gáo múc nước trong lu uống ừng ực. Trở vô nó thè lưỡi liếm vòng quanh mép, đưa tay vuốt vuốt cái bụng to tướng, đủng đỉnh đi ra nhà trước. Ngồi nơi bộ ván, nó đong đưa chân chơi một lúc rồi nằm ngả ra:
- Con nằm đây, còn bà Sáu nằm trong ghen!
- Mày nằm đâu đó thì nằm!
Mẹ Sáu nói và liệng cho nó cái mền. Nó chụp cái mền, hất tung ra đắp kín cả người. Mẹ Sáu ngồi xổm một gối, ngoáy trầu, chép miệng:
- Cha... đêm nay không biết con Thúy ở trong hang ngủ nghê ra làm sao? Sợ tụi nó đánh vô nữa quá!
Thằng út nằm trong mền nói:
- Ban đêm tụi nó không dám vô hang đâu!
- Sao mày biết? Mày thì cái gì cũng biết hết hà!
- Thiệt mà... Phải chi con được ở trong hang con khoái gắt. Ngủ ở trỏng chắc ấm lắm! Mà hơn ngán...
- Ngán cái gì?
- ở trong hang có chôn xương mấy chú chết hồi đó. Ghê lắm! Sợ mấy ổng nhát lắm!
Mẹ Sáu nghiêm nét mặt bảo:
- Nói bậy nè, mất chú bác của mày hy sinh cho cách mạng mà không lẽ đi nhát mày sao? Từ rày tao cấm mày không được nói vậy nữa, nghe út?
Thằng út bị mẹ Sáu rầy, nó nằm im không nói nữa. Mẹ Sáu ngồi nhai trầu bỏm bẻm một lát rồi bước ra đóng cửa. Mẹ thổi tắt đèn, đi nằm. Thằng út tốc mền hỏi khẽ:
- Bà Sáu cài cửa kỹ hôn?
- Tao cài rồi!
Thằng út lại trùm mền. Nhưng nó cứ lăn qua trở lại. Mẹ Sáu hơi lấylàm lạ: "Thằng này bữa nay không biết có chuyện gì mà cứ rột rẹt hoài. Nó còn hỏi minh có gài cửa kỹ không. Mọi bữa lại đây ngủ, hễ nằm xuống là nó ngáy liền mà!"
Nhưng mẹ nghĩ chắc nó ăn cơm no nên tức bụng khó ngủ, và mẹ không để ý nữa. Mẹ nằm trăn trở, không sao dứt được nỗi lo. Mẹ lại hình dung ra hang Hòn. Cái hang đó càng chất thêm vào lòng mẹ bao nhiêu là lo âu, hồi hộp. Cứ mỗi lúc mẹ càng cảm thấy phảilàm một cái gì để ngăn chặn bớt sức tấn công của bọn giặc, để những vòng vây của chúng phải dãn ra. Mẹ muốn bứt cái vòng đai hung hãn siết chặt lại hòng dập tắc nguồn thương yêu và sự sống của đời mẹ.
Trong đêm tối, khi Mẹ Sáu trở về với nỗi lo lắng của mẹ thì thằng út vẫn chưa ngủ. Nó có nỗi lo riêng của nó mà mẹ Sáu không hề hay biết.
Thằng út đang mường tưởng nhớ lại dáng dấp một trái lựu đạn MK3 mới tinh, thực sự chính tay nó đã được cầm, và hiện giờ đang thuộc về nó. Suýt nữa thì ban nãy nó đã lộ ra với mẹ Sáu là nó có trái lựu đạn ấy rồi. May quá, nó kịp ghìm lại. Nó không thể nói với ai khác. Bây giờ mỗi một tiếng động ngoài ngõ, một tiếng chó sủa trăng cũng khiến thằng út giật mình, dợm bật dậy. Nó đã sửa soạn đôi chân của nó rồi. Hễ nghe tiếng giày lính đi vô là hắn sẽ vọt ngay ra cửa sau. Cái sàn lảnh nhà mẹ Sáu nó đã để ý, thấy có hơi cao, nhưng nó lượng sức nó có thể nhảy xuống để chạy.
Nhưng tại sao thằng út lại cứ lo ngay ngáy sợ lính vô nhà? Sao nó nằm đây mà nó cứ tính chuyện chạy trốn?
Chuyện này cũng chỉ có một mình nó biết.
Hồi xế, nhà nó ăn cơm sớm. Ba nó bảo: - "út à, tối nay mày đi lại nhà bà Sáu ngủ. Bà Sáu ở nhà có một mình". Thằng út liền "dạ" rồi lêu con Mực xuống cuồng bơi đi ngay. Nhưng lúc nó cặp xuồng đi tới vườn dừa thì một tốp lính ngồi dưới gốc dừa ngó thấy, ngoắc nó:
- Ê, lại đây taonói cái này nghe mày nhỏ?
- Ông nói cái chi? Nó hỏi.
Mày biết leo dừa không?
Thằng út mới dợm miệng đinh trả lời "không", mặc dù leo dừa là nghề của nó. Nhưng nó thấy tụi lính tháo xanh-tuya đạn và lựu đạn bỏ đầy trên tấm cải bạt thì nó lại đổi ý, sanh ra muốn cà rà làm quen với tụi lính. Nó đáp:
- Biết chớ... Mờy ông muốn bẻ dừa ăn hả?
- ồ, leo bẻ vài trái dừa mầy! Bẻ xuống tụi mình chặt uống chơi!
- Bẻ thì bẻ!
Thằng út nói rồi thót leo liền. Tụi lính đứa nào cũng khen thằng út leo dừa giỏi hơn sóc. Mà thật, trong nháy mắt, nó đã lên tới ngọn dừa. Nó vặn cho dừa rụng xuống bịch bịch. Tụi lính hí hửng ôm mỗi thằng một trái. Thằng út bẻ tất cả bốn trái rồi tuột xuống. Một thằng lính lăn về phía nó một trái. Nó lắc đầu:
- Tôi không uống đâu, thứ này tôi uống hoài!
Bọn lính lấy dao găm chém vạt dừa sạt sạt. Thằng út ngó thấy tụi lính chém vụng quá, nó mới giành dao chém. Nó chém trái dừa nào coi cũng muốn uống chớ không sần sùi dơ dáy. Nó ngắm nghía cây dao găm Mỷ của tụi lính, khen cây dao tốt, đoạn chồm tới đút do vô cái vỏ giắt nơi xanh-tuya. Tụi lính uống dừa xong nằm ngả ngớn ca vọng cổ. Thằng út vui vẻ bảo:
- Để tôi đờn miệng cho mấy ông hát, nghe!
Nói rồi nó uốn lưỡi tăng tẳng dạo qua một câu. Tới chỗ nhịp vào, nó tróc lưỡi một cái giòn khướu nghe hệt tiếng nhịp của song hoan. Tụi lính phục nó quá, hỏi:
- Ai dạy mày đời miệng vậy?
- Tự ên tôi!
- Dóc, mày phải bắt chước ai mới đờn được chứ?
- Tôi bắt chước ông Tư Đờn, tôi nghe rồi nhái theo ổng.
- Thằng nhỏ này tài quá bây!
Thằng út nghe bọn lính khen, mặt nó cứ tỉnh bơ, chẳng hề tỏ vẻ đắc chí như tụi con nít khác. Tánh nó vậy, nó đâu thèm hí hửng ra mặt. Thành ra bọn lính càng phục nó, cứ giữ nó nấn ná ở lại chơi. Thằng út thì từ nãy giờ đã nhắm một trái lựu đạn ở cái xanh-tuya. Nó rắp tâm đợi trời tối là lấy trái lựu đạn. Trong lúc chờ đợi, nó kể cho tụi lính nghe chuyện cặp rắn hổ mây lớn thường nổi lên ngoài biển, quãng giữa Hòn Me và Hòn Quéo. Bọn lính hỏi có thấy tận mắt lần nào chưa, thì nó nói:
- Tui ngó thấy có một con hè. Mà bây giờ cũng còn có một con thôi. Hồi còn nguyên cặp, nó hay nổi lên nhận chìm ghe, ăn thịt người ta thiếu gì! Ba tui nói hồi đó có một ông bự con lắm, kêu là ông cai Thoại. Bữa nọ vợ chồng ổng chạy ghe bườm ra gần Hòn Tre. ổng để vợ con lái, còn ông ngồi trước mũi thủ một cây roi tre mạnh tông dài. Lúc cặp rắn nổi lên xô ghe như mọi khi, ổng không thèm nói. Đợi lúc con rắn đực ngóc lên tính táp, ông quơ ngọn roi, quật ngang, con rắn gãy cổ chết... Từ đó chỉ còn lại con rắn cái... Chồng nó chết rồi, một mình nó không dám đón đường nhận ghe người ta nữa...
Thằng út để dứt câu chuyện cai Thoại giết rắn thì trời nhá nhem. Không chậm trễ, nó nhè nhẹ thò tay tháo trái lựu đạn. Miệng nó vẫn nói leo lẻo:
- Con rắn cái bây giờ cũng còn nổi lên hoài...
Lúc nó nói câu ấy thì trái lựu đạn đã nằm nặng trỉu trong túi áo nó rồi. Nó thọc tay vào túi nâng giữ trái lựu đạn, và đứng lên:
- Thôi, mấy anh nghỉ, tôi về!
- Ê, lâu lâu lại đây chơi nghe bồ!
- Mờy anh còn ở đây lâu lắm sao?
- Còn lâu, chừng nào tiêu diệt hết Việt cộng trong hang mới đi!
Thằng út bước chậm lại. Con mực vẫn theo sau. Đi khuất bọn lính, thằng út mới vụt chạy. Về gần tới nhà mẹ Sáu, nó tạt vô vườn lêkima, bới một cái lỗ ém trái lựu đạn. Nó làm dấu, khỏa đất kỹ lưỡng, rồi chạy về nhà mẹ Sáu.
5.
Giữa lúc thằng út đang nằm thao thức nghĩ tới trái lựu đạn thì thằng Bé anh nó ở trong hang Hòn đang trải qua những giờ phút gay go. Thằng Bé vốn gan là thố, mà hồi chiều tới giờ bỗng cất tiếng rên hư hư. Nó đòi uống nước liên tiếp, Quyên thay Năm Nhớ trông coi nó, chỉ cho nó uống thấm giọng bằng nước cháo chớ không dàm cho uống nước. Nó phều phào nói:
- Chị út ơi, sao không cho em uống nước? Em khát em chết...
Quyên cầm cây nến trắng mới thắp, dỗ dành:
- Em bị thương uống nước đâu được. Uống chút chút nước cháo thôi... Chừng nào em bớt thì chị cho em uống!
Thằng Bé vẫn phều phào:
- Cho em uống bây giờ đi!... Em uống một chút thôi. Quyên bậm môi, day mặt đi chỗ khác... Thằng Bé nói giọng giận dỗi:
- Chị út ơi, sao chị không cho em uống. Bộ chị không thương em à?
Quyên đang nhễu những giọt sáp nến xuống phiến đá, nghe thằng Bé nói cách đó thì không chịu nổi, nước mắt muốn trào ra. Cô cặm nến lên phiến đá rồi đi lại chổ anh Thẩm, nghèn nghẹn nói:
- Anh Thẩm à, em Bé đòi uống nước quá, tính làm sao bây giờ?
Thẩm lắc đầu:
- Đòi thì đòi chớ cũng không cho uống. Cô đừng cho Bé uống đấy!
- Em nói hết lời mà Bé không chịu. Nó nói em không thương nó...
Thẩm im lặng một chút rồibảo:
- Tôi thấy cánh tay của Bé phải tính sao chớ để bầy nhầy vậy không được. Về vụ này tôi có thấy rồi, để lâu e nguy hiểm đến tính mạng. Theo ý tôi phải thanh toán cái mớ xương thịt bầy nhầy đó đi. Phải chặt đứt đi!
... Dưới ngọn nến không lay động, thằng Bé từ từ mở mắt nhìn Quyên:
- Chị út đi đi! Em thấy cái tay em nó lướng vướng lắm. Nó... nó không phải là cái tay của em nữa...
Quyên quay nhìn thằn Bé đăm đăm rồi cô cúi xuống, quỳ một gối, đặt tay lên vầng trán ướt rịn mồ hôi của nó. Chợt thằng Bé hỏi:
- Chị út ơi, chị có nhớ anh La Văn Cỗu tự chặt tay mình hồi ảnh mấy tuổi không?
Quyên nhìn thằng Bé, bối rối, một lát mới đáp:
- Chị không nhớ rõ lắm, hình như lúc đó anh Cỗu hăm hai hăm ba tuổi...
Câu nói của thằng Bé làm Quyên lặng đi giây lâu.
Quyên từ từ đứng dậy, đi ngay. Cô sợ thằng Bé lại đòi uống nước, mà cô không cho, thì khổ lắm...
Vừa khi ấy, anh Hai Thép trở lại:
- Tôi đã nói chuyện với chú Bé, chú nói sẵn sàng chịu chặt khúc tay đó. Nhưng chú yêu cầu là làm cho mau...
Mọi người lại đưa mắt nhìn Ba Rèn lần nữa. Ba Rèn bấy giờ như cố sức hất tung một tảng đá vô hình đang đè trĩu trên ngực mình, rồi nói:
- Thôi được, để tôi!
Nói xong, Ba Rèn vùng đứng dựng:
- Nhưng tôi đề nghị nhân tiện để tôi xử luôn vợ chồng thằng Ba Phi cho rảnh, Không có gạo nước cho mình, có đâu để nuôi nó?
Anh Hai Thép nói:
- Khoan đã, để khai thác them vài bữa nữa rồi xử lý nó cũng không muộn. Nên để nó lại, có đông đủ bà con xử tội nó thì hay hơn...
- Phải, bây giờ nó ở trong tay mình, gấp gì?
Hai Thép nói:
- Thôi, Năm Nhớ đi lấy thuốc đỏ với bông băng lại đây. Chỉ cần Ba Rèn và tôi ở lại với chú Bé thôi. Còn tất cả các đồng chí trở về chỗ mình hết đi. Phải cảnh giác dữ mới được, biết đâu ban đêm tụi nó lại mò vô!
Ngạn đứng dậy cùng anh em xách súng trở ra ngoài. Quyên cũng đi theo. Lát sau, Năm Nhớ đã đem túi đựng dụng cu y tế vào. Anh Hai Thép nói với năm Nhớ:
- Cô nấu nước, để anh Ba Rèn khử cây mã tấu của ảnh. Nước đó để uống luôn. à, còn mũi thuốc tê nào không?
- Còn hai mũi.
- Vậy trước khi chặt, tiêm cho chú Bé được không?
- Được, tiêm thì đỡ đau hơn!
- Vậy cô nói với Ba Rèn chuẩn bị, chừng nào xong cho tôi hay!
Hai Thép cùng một anh du kích đi lại chỗ thằng Bé nằm. Thằng Bé ngó anh như có ý hỏi: "Sao lâu vậy?"
Hai Thép ngồi xuống bên nó. Anh nói chuyện bình thường, kể cho nó nghe hôm nay giặc bị đánh chạy khỏi hang ra sao, ta lấy đôực những súng gì. Thằng Bé nghe nói mặt sáng long lanh. Nó chặc lưỡi, tiếc rẻ:
- Phải chi cháu không bị thương...
- ờ, không bị thương thì tốt hơn... Nhưng bị thương rồi cũng không sao. Chắc đứt khúc tay bầy nhầy thì cháu khỏe. Có thuốc tê, cũng không đau lắm đâu!
- Có đau cháu cũng cắn răng chịu. Chỉ tiếc mất một tay.
- Mất một tay cháu buồn không?
Thằng Bé ngần ngừ giây lâu rồi đáp"
- Buồn mà không buồn!
Hai Thép khẽ nhếch miệng cười. Thằng Bé cũng cười. Nó nói:
- Cháu buồn là sợ không bắn được súng thôi, chớ cháu không sợ bị tật đâu hồi vô du kích, cháu gẫm mình giết được tụi nó khi minh cũng phải bị thương. Cháu tính rủi có chết, cháu cũng không buồn!
Anh Hai Thép rất đỗi ngạc nhiên về câu trả lời của thằng Bé. Bản thân anh cũng đã có lúc nghĩ như thế. Anh lẩm nhẩm: "Phải, nếu thấy rõ mọi cái đó để sẵn sàng chịu đựng thì sẽ không biết sợ. Thằng Bé mới mười bảy tuổi nhưng thật có đầy đủ tư thế của người cầm súng chiến đấu lắm!"
Anh day lại, khẽ bảo anh du kích:
- Ra coi Ba Rèn chuẩn bị xong chưa?
Thằng Bé chợt hỏi:
- Chú Hai ơi, chị út đâu rồi, sao chị út không vô đây với cháu? Kêu chị út vô đây đi!
- Được rồi, chú sẽ kêu chị út vô.
Anh Hai Thép nói với anh du kích:
- Kêu út Quyên vô đây luôn nghe!
Nét mặt thằng Bé vẫn không thay đổi. Khi Quyên vào đến thì nó day qua phía Quyên. Nó đưa cánh tay phải bíu lấy tay Quyên. Còn cánh tay trái bị thương của nó thì được Hai Thép khẽ nhấc đặt lên một chiếc khăn xếp dày. Hai Thép đốt thêm một cây nến nữa, cầm trên tay. Quyên nghe tiếng Năm Nhớ cưa ống thuốc và cả tiếng ngón tay Năm Nhớ búng khẩy cho đầu ống thuốc văng đi. Bàn tay phải của Bé lúc này lại bíu chặt tay Quyên hơn chút nữa.
Ngọn nến trắng cặm trên phiến đá đang cháy lụn, run rẩy. Mốu tim nến phựt lên lần chót giữa vũng sáp. Rồi bóng tối lại xóa nốt khoảng sáng cuối cùng trong hang động, xóa luôn bóng Quyên đang ngồi úp mặt vào lòng bàn tay, in lên vách đá. Cô gái thiếp đi giữa lúc ngọn nến đã tắt và thằng Bé đã yên ngủ.
Trời sắp sáng rồi.
Có lẽ bên ngoài đã tang tảng, thế nhưng trong hang bóng tối vẫn còn tràn ngập. Càng về sáng, hang cành lạnh. Chị Sứ chợt tỉnh dậy trên phiến đá, nghe chân mình lạnh buốt. Con Thúy vẫn ôm quàng lấy chị mật nó rúc vào ngực chị. Sứ với tay xuống sờ chân con, thấy chân nó cũng lạnh quá. Chị vội vàng kéo chân con kẹp giữa đùi mình. Nằm im một lúc, chị mới nhè nhẹ lần gỡ tay con ra. Nhưng dù đang ngủ, tay con bé cũng cứ bíu riết lấy người chị. Thật là khéo léo lắm, lâu sau Sứ mới gỡ tay con ra được. Chị ngồi dậy mò trong chiếc túi vải gối đầu, rút lấy một cây nến độ bằng ngón tay bật lửa đốt. Ánh sáng ngọn nến một lần nữa lại cháy lên, xua bớt bóng tối trong hang.
Chị Sứ cầm cây nến, đăm đăm nhìn con nằm ngủ. Không có chị, hai cánh tay con bé không biết bám rớ vào đâu, cứ duỗi trơ ra trên tấm vải nhựa, trông thật thương. Giấc ngủ con bé đang say. ánh nến lung linh soi rọi mớ tóc "bôm-bê" xấp xõa trên trán nó, chiếu óng ánh hàng mi đen ươn ướt che rợp cặp mắt nhắm im. Đôi môi đỏ chót của con Thúy như khẽ mấp máy và cánh mũi nhỏ của nó lên xuống nhè nhẹ. ấy, chính cái hơi thở ấy bảy tám năm nay đã để vương lại trên ngực áo căng căng của chị Sứ mùi thơm âu yếm, mùi của sữa, vị ngọt của quả chín: mùi và vị của hơi thở mát tươi trong trẻo đó chỉ có ở những đôi môi trẻ thơ.
Bảy tám năm nay, tình yêu của Sứ là ở đấy, ở nơi đứa con gái bé bỏng ngoan xinh, nửa của chị, nửa của chồng chị hiện còn ở ngoài Bắc.
Đã không biết bao nhiêu lần chị Sứ lặng lẽ ngồi nhìn con mình một cách mê đắm như thế. Chị lắng nghe từng hơi thở của con, đoái triều ngắm từng sợi lông mơ, sợi tóc, vầng trán hay những ngón tay búp măng nhỏ xíu trắng hồng của nó. Sứ tưởng chừng như có thể ngồi mà ngắm con mình mãi được, từ ngày này sang ngày khác. Nhưng cũng thật khổ sở cho chị biết bao khi có lần chị phải xa con tới ba bốn tháng. Đó là hồinăm kia, bọn tay sai Mỹ - Diệm bắt chị nhốt trong "chuồng cọp" nửa đứng nửa ngồi và trong "chuồng sấu" nước ngập lân đến gối. Nhưng lúc ấy nỗi khổ chính của chị vẫn không phải là những mảnh chai chú bén quanh người hoặc làn nước trong "chuồng sấu", khiến hai chăn chị tê cóng, mà nỗi khổ chính của chị là xa con, xa cái dáng chập chững và tiếng nói ngọng ngịu của nó.
Ai đời, một người phụ Nữ hăm tám tuổi như chị mà lại có lúc khóa òa lên, nướt mắt nước mũi chằm ngoàm như một đứa trẻ, khi chị được bà con ở Hòn Đất đấu tranh đòi giặc phải thả và về gặp lại con Thúy.
cuộc sống của những năm tháng qua thường đặt chị vào những cảnh ngộ lạ lùng, mà chị tính sau này thống nhất rồi gặp lại chồng, chị sẽ kê cho chồng nghe hoài, kể hết đêm này sang đêm khác, để chồng chị thông cảm sâu xa và thương mẹ con chọ hơn nữa mới được.
Giả dụ như ngày chị bị bắt, rồi những cuộc đấu tranh sống chết diễn ra sau đó. Hay như ngay trong lúc này giữa lòng hang thẳm, ngày chiến đấu ác liệt hãy còn dư vang tiếng súng, tiếng hò hét, tiếng kêu rú của lũ giặc cùng nỗi lo âu của chị khi thấy một cà om nước vợi hẳn xuống, khi chị nghe văng vẳng tiếng rên của thằng Bé sau lúc nó đã rứt bỏ một cánh tay. Ngay giữa lúc này đây, chị cảm thấy sự yên tĩnh của đêm thâu cũng thật khác thường. Đây là sự yên tĩnh của vườn lá mới bị cơn bão thổi thốc tới luồng gió mạnh đầu tiên. Nhưng dẫu thế, đối với Sứ, hiện tại vẫn là sự yên tĩnh, với ánh sáng tỏa ra từ tay chị, với khuôn mặt đứa con gái đang mê ngủ, với tiếng ngáy đều đều của những người đồng chí.
Chị chị nghĩ: "Bây giờ ở ngoài chắc ảnh cũng còn ngủ. Chắc ảnh đâu có biết mình với con Thúy đêm nay ngủ ở trong hang. Không, ảnh không thể biết được đâu...". Sực nhớ tới cái thư của chồng mà chị mới nhận được hôm trước, chị liền sờ túi áo. Cái thư vẫn còn nguyên đấy, cộm nhẹ. Lòng bình tĩnh và sung sướng, chị kéo khăn se sẽ đắp lại cho con thật kỹ lượt nữa rồi đứng dậy bước xuống phiến đá.
Nhưng mới vừa bước đi một bước, chợt con Thúy vụt cất tiếng ú ớ. Chị dừng lại. Tiếng con Thúy gọi:
- Mà, má...
Sứ đứng yên, định bụng con sẽ nằm ngủ lại. Không ngờ con bé lại kêu giọng như sắp khóc:
- Má, má ơi!
Chị Sứ không thể nín im được nữa, vội lên tiếng:
- Má đây nè, con! Con nằm đó ngủ, để má đi nấu nước cho mấy chú uống!
- Không, con không ngủ... Con đi nấu nước với má!
Chị Sứ ghé lưng vào cạnh phiến đá, bảo con:
- Lại đây!
Con bé lồm cồm bò tới, ôm choàng lấy cổ mẹ. Chị Sứ xốc con lên vai, tay trái với ra vịn lưng con, tay phải giơ ngọn nến soi lối. Chị bước qua chân những anh du kích đang nằm ngủ, đi về phía cái bếp mới bắc lên hồi sáng.
Đến nơi, Sứ rùn gối đặt nhng. Chị nhổm tới, chúc đầu nến lên một tảng đá phẳng mặt. Ngọn nến cháy ngược, nhỏ xuống mặt đá hơi sần sùi kia những giọt sáp trắng trong. Những giọt sáp đó mới rơi xuống mặt đá lạnh, liền đông lại. Sứ rà ngọn nến hơ cho sáp chảy ra rồi cắm cây nến xuống.
Trong lúc chị nhóm lửa, con Thúy nhích lại gần chị, thẩn thờ vẻ mặt, nói:
- Hồi nãy con nằm chơm bao...
- Nằm chiêm bao... chị Sứ sửa lại.
- Con nằm chiêm bao ... thấy cô tiên có cánh đẹp thiệt là đẹp... Chắc cô tiên mà chú Thẩm nói với con hồi sáng đó, má à. Mà cô tiên đó coi sao mà giống dì út quá hà. Cô kêu tên con, nghe cũng giống hệt như tiếng dì út kêu con vậy đó. Rồi cổ chớp chớp cánh biểu con: "Leo lên lưng cô mau, cô đưa con đi gặp ba!" Con mừng quá nói: - "Cô ơi, để con ch kêu má con đi với, được hôn?" Cô tiên gật đầu. Con vừa chạy vừa kêu má thiệt lớn, rồi con giựt mình thức dậy. Không thấy má đâu hết, con mới la lên đó chớ!
Nghe con nói, Sứ ngạc nhiên nhìn con, tò mò hỏi:
- Vậy ra lúc nãy con ú ớ kêu má là con thấy cô tiên còn đứng đó hả?
Con Thúy gật đầu một cách quả quyết. Và nó mở to mắt ngó trân trân ra phía cửa hang. Chừng như nó cho rằng cô tiên nọ đã đi khỏi giấc mơ của nó bằng chính cái lối ấy.
Ngọn lửa bếp giờ đã cháy lên. Tiếng củi nổ lép bép nghe vui vẻ. ánh lửa nhảy nhót soi sáng vầng trán ngẩn ngơ của con bé đang ngồ mơ tiếp giấc mơ đẹp đẽ vừa qua. Ngọn lửa rọi ửng hồng mặt con Thúy, cùng một lúc rọi vào lòng chị Sứ những hy vọng lấp lánh. Chị thích thú như chính chị được nằm mơ. Rồi cũng như con, trog đầu chị lại vẽ ra thêm những cảnh gặp gỡ nối tiếp, những cảnh đoàn viên sung sướng mà chị hằng ngóng đợi và đã mường tưởng ra không biết bao nhiêu lần.
Ngọn lửa bếp mỗi lúc một tỏa sáng rộng hơn. ánh lửa chập chờn soi rọi khuôn mặt của những người du kích đang ngủ, những chiến sĩ trẻ măng ôm quắp lấy nhau mà ngáy. ánh lửa soi rọi tới tận góc hang trong, in bóng Quyên chờn vờn trên vách đá. Chị Sứ cầm cây nến đưa cho con.
- Con cầm, soi cho má đi lấy nước!
Con Thúy cầm lấy ngọn nến, lanh lẹ đứng dậy Chị Sứ búng cái xoong lên. Hai mẹ con chị đi vào chỗ góc hang để những cà om nước.
Sứ nhắc một cà om, đổ nước vào xoong. Chị san nước cẩn thận không cho nhểu xuống đất một giọt. Mỗi giọt nước bây giờ quý lắm. Ngoài cà om nước chị mới đổ vào xoong đó, thì trong góc hang chỉ còn lại một cà om nước nữa mà thôi. Trọn ngày hôm qua, hai mẹ con Sứ mỗi người chỉ hớp một hớp sau khi ăn vốc gạo rang buổi chiều. Tất cả nước nấu sôi, phần lớn chị dành chia cho anh em chiến đấu, một phần dùng nấu cháo cho anh em bị thương. Mỗi lần bưng cà om nước đổ vào xoong nấu, Sứ hết sức lo lắng. Nếu cuộc chiến đấu còn phải kéo dài nhiều ngày thì rõ ràng sẽ không có nước uống.
Chị nói với con:
- Thúy à, con có khát nước cũng ráng uống in ít nghe! cái ca nước má để đó, lúc nào khát lắm con hẵng hớp một miếng. Không còn nước nhiều nữa đâu...
Con Thúy nhỏ nhẻ "dạ". Nó cầm nến rón rén bước đi. Sứ bưng xoong nước đi theo, trở lại bếp. Bắc xoong nước lên rồi, chị thổi tắt nến. Thì lúc ấy, trong góc hang, Quyên lại thắp ngọn nến của mình. Cô nhẹ nhàng đi lại bếp lửa, ngồi xuống bên cạnh con Thúy, ôm hôn cái chụt vào má nó. Con bé ôm cổ Quyên, ghé sát vào tai Quyên, sợ sệt hỏi:
- Dì út anh Bé có chết không... dì út?
- Chết đâu mà chết, nói bậy!
Quyên kéo con Thúy ngồi lên bắp vế mình. Cô quay sang nói với chị:
- Thằng Bé đỡ rồi, chị Ba à. Sau khi chặt đứt cái khúc tay nó đi, nó đuối hơn, nhưng không rên đau nữa. Đêm nay nó chợp mắt được một chút...
Sứ nói:
- Vậy thì tốt... nhưng phải coi chừng nó đuối quá thiếp đi luôn mà mình không hay thì nguy!
- Không, em cứ rờ ngực rờ mũi nó luôn. Hơn thở và tim nó vẫn nhảy đều. Nó cũng mới thức và kêu em hỏi: - "Chị út, gần sáng chưa chí út?". em nói gần sáng rồi. Em hỏi nó thấy trong người ra sao, nó đáp" - "Tay em bây giờ tê tê chớ không nhức nữa, chắc em sống rồi, em không chết đâu hả chị?".
Sứ nghe em nói, mắt chị chớp liền mấy cái. Phút chốc, khóe mắt chị rưng rưng, ướt đầy. Con Thúy chúi đầu vào ngực Quyên, Quyên nói:
- Em không dè thằng Bé nó gan đến như vậy. Thiệt lúc chặt tay nó em không dám ngó, em chỉ thấy nó bíu chặt tay em hơn, còn thì chẳng nghe nó kêu la tiếng nào hết...
Sứ im lặng mãi một lúc mới khẻ bảo:
- Nó cũng đau lắm chớ. Tại nó ráng không la đó thôi. Chặt tay mà không đau sao được! Hồi giờ cùng lắm là cưa chớ đâu có ai chặt...
- Có, hồi kháng chiến, trong trận Đông Khê có anh La Văn Cầu...
Sứ lẩm bẩm:
- ờ, có anh Cầu...
Quyên nhổm tới gần chị, thì thào:
- Lúc sắp chặt, Bé nó có hỏi em...
- Hỏi sao?
- Nó hỏi - "Anh La Văn Cầu năm đó mấy tuổi hả chị út?" em không nhớ rõ, nên nói chắc hăm hai hăm ba gì đó. Bé mới bảo: - "Anh Cầu ảnh dám chặt đứt tay ảnh thì em cũng dám để chặt đứt tay em!"
Chị Sứ nghe nói thế thì không chịu nổi nữa, nước mắt trào ra. Chị đưa ống tay áo quệt ngang, nghẹn ngào. Con Thúy nãy giờ giụi đầu vào ngực Quyên, nay cất tiếng khóc rấm rức. Quyên lại nói:
- Chặt rồi, em với Năm Nhớ đứa nào cũng khóc. Anh Hai Thép thì không... ông thằng Bé trong tay. Và thằng Bé ngất đi. Ai cũng hết hền. Lâu sau nó mới từ từ mở mắt ra, làm tụi em mừng thôi là mừng!
Chị Sứ đứng dậy nói:
- Để chị lại với thằng Bé một chút, út Quyên ở đây, chừng nào nước sôi thì lấy "bình toong" anh em đổ dùm chị. Nhớ đổ mỗi "bình toong" một ca thôi!
Sứ nói xong, bước đi ngay. Con Thúy cũng vùng ra khỏi tay Quyên, chạy theo.
Chỉ còn lại mình Quyên ngồi bên bếp lửa. Cô chụm gom củi vào. Lát sau, nước trong xoong sôi réo. Quyên nhắc xoong nước xuống, để cạnh bếp, rồi đi ra hang ngoài. Cô đi trong bóng tối nhợt dần. Bình minh bên ngoài đã đến lúc ban phát cho hang động chút ít ánh sáng, nhưng là cái ánh sáng của nó nửa tiếng đồng hồ trước. Qua đêm không ngủ, Quyên đi ra hang với cảm giác người mình nhẹ bỗng, lâng lâng. Sự căng thẳng trong cô giờ đã dịu đi, và nỗi xúc động của cô như tan thấm vào cơ thể. Ngày chiến đấu vừa qua cùng cái đêm không ngủ này mới kỳ lạ làm sao! Chỉ trong một ngày một đêm thôi mà trái tim Quyên đã đập lên bao nhiều lần vì lo âu, vì thương mến, vì sung sướng và hồi hộp.
Cô đi ra cửa hang, đến ngay chỗ Ngạn ngồi. Cho dù cái ngõ dẫn ra cửa hang bấy giờ cũng chưa lấy gì làm sáng, nhưng cô tìm đến đứng chỗ Ngạn, không lầm lẫn. Khác hẳn với mọi khi, cô ôm chầm lấy Ngạn, ôm rất chặt, khiến Ngạn cũng ngạc nhiên trước cái cử chỉ đột ngột ấy. Nhưng rồi anh liền hiểu. Đây không phải chỉ là sự thổ lộ tình yên thông thường. Anh hiểu thế. Hình như đây là sự thổ lộ những điều huyền diệu mà cuộc sống chiến đấu một ngày một đêm trong hang đã cho Quyên và Quyên không thể giữ một mình được, nên cô đem đến san sẻ cho anh. Vì thế anh cũng không đáp lại cử chỉ ấy bằng sự âu yếm đơn thuần. Anh cũng không hôn Quyên. Trong bóng tối mờ nhạt, anh đặt đầu Quyên tựa lên vai mình giây lâu. Rồi anh từ từ nhấc vai Quyên ra. Hai tay anh nâng lấy khuôn mặt còn ấm hơi lửa của Quyên mà nhìn. Anh nhìn không thấy rõ khuôn mặt ấy, chỉ nghe hơi thở nồng nàn, phả nhẹ vô mặt anh mùi xoài chín. Riêng đôi mắt lóng lánh của Quyên là để anh nhìn thấy được trong đó những gì cô xúc độnh.
- Có chuyện gì mà coi bộ phấn khởi dữ vậy Quyên?
Quyên buông Ngạn ra ấp úng:
- Đâu... có gì đâu?
Thực ra, chính Quyên cũng không biết lòng mình chan hòa xúc động bởi cái gì. Cô không biết được. Dường như là cái cảnh hôm qua cô nhìn thấy lũ giặc rú lên ngoài miệng hang, đâu như là cái cảnh chị Sứ chia cho mỗi người phần nước hiếm hoi, đâu như là cánh tay thằng Bé hồi đêm cứ bíu riết lấy tay cô. Phải rồi, dường như là tất cả những cái đó cộng lại, chứ không phải riêng một cái nào hết.
Quyên hỏi như sực tỉnh:
- Đêm hôm nay anh có ngủ không?
- Có, tụi anh thay phiên nhau tốp gác tốp ngủ.
- Em với Năm nhớ cũng vậy. Năm Nhớ thức coi Bé hồi đầu hôm. Còn em thức tới bây giờ.
- Thằng Bé khá rồi hả?
- Đỡ lắm. suốt đêm cứ lo. Lát lát em cứ phải rờ ngực rờ mũi Bé, sợ Bé chết...
- Qua được đêm nay là mừng rồi. Anh ở ngoài này mà bụng cứ phập phồng sợ nó không qua khỏi.
Quyên mò nơi thắt lưng Ngạn lấy cái bi-đông. Cô lắc nhẹ. Không còn một giọt nước. Cô lặng lẽ rời khỏi chỗ Ngạn, đi gom bi-đông của các anh em khác.
Quyên xách hai chùm bi-đông trở vào hang.
Lúc Quyên đem những bi-đông nước trở ra chưa tới chỗ Ngạn bỗng cô nghe tiếng Ngạn thép lên:
- Tụi nó!
Quyên nhác thấy có hai ba bóng đen từ hai bên mé hang nhảy xổ vào. Cô chưa kịp né mình thì một bàn chân của ai đã nhanh như cắt thò ra gạt mạnh chân cô, khiến cô ngã xuống. Liền đó, một băng tôm-xông nổ điếc tai. Rồi tiếp theo là hàng tràng khác. Quyên kịp thấy ngoài miệng hang rựng sáng có mấy bóng đen chợt đứng sững, loạng choạng khuỵu xuống. Cô vội bò vào một hốc đá. Cô nhìn thấy ở hốc đá bên kia anh Tới đang nhổm người lên, bắn từng đoạt tôm-xông ngắn. Thì ra người gạt chân cô té ng đó là Tới.
Lát sau, cô thấy cái miệng hang trống sáng, không còn bóng một tên giặc nào nữa.
Nhưng thình lình, bóng chúng lại chạy vụt ngang miệng hang nhanh như những con thoi. Có những cục gì đen tròn bằng nắm tay bay vào. Những cục đen ấy va nhằm mấy mô đá văng trở lại.
Tiếng Ngạn thét:
- Lựu đạn, núp vô!
Những trái lựu đạn lăn lốc cốc giữa ngõ. Nhưng nó chưa kịp nổ thì ngoài miệng hang bóng giặc lại liên tiếp vút qua. Lựu đạn cứ thế mà bay vào.
Những trái lựu đạn bắn vô vách đá ràn rạt chưa ngớt thì những trái sau đã nổ tiếp theo. Khói bốc mịt mù, che lấp cả miệng hang, ngõ hang. Đá bụi tung tóe văng nhạt sang hai bên, rớt xuống lưng Quyên mấy cục đá lớn bằng ngón chân cái. Quyên vội đưa tay sờ lưng, coi có máu chảy không. Từ đó trở đi cô điếc ù vì tiếng lựu đạn nổ không ngừng. Mũi cô nồng nặc mùi khói thuốc. Bỗng Quyên nghe tiếng Ngạn la lên:
- Chuẩn bị rút nới vô trong một chút. Chú ý chừng nào tôi la "chạy" thì chạy thiệt mau nghe!
Lời Ngạn bị lấp mất bởi những tiếng nổ "ầm ầm". Khác với những lần trước, sáng nay bọn giặc không tiến thẳng vô hang nữa. Chúng chạy ngang miệng hang, liệng lựu đạn, hoặc nấp ở hai bên miệng hang, chồm người vụt tới tấp những trái MK3 ấy vào. Những trái lựu đạn Mỹ này nổ mạnh đến nỗi ngực Quyên cứ như bị đá tảng dằn xuống, rất khó thở.
Giữa lúc này, rời bò những hốc đá để rút đi thật là khó, Ngạn cứ nhấp nhổm mãi mà những trái MK3 quái ác đó cứ dập tắt cái thời cơ chồm lên của anh. Nó nổ dữ dội và liên tục quá, nên mấy lượt anh mới nhổm dậy lại phải mọp xuống ngay. Anh nghĩ bụng: "Dứt đợt lựu đạn này tụi nó sẽ ào vô, có thể mình trở tay không kịp". Nghĩ thế anh tức khắc mở ngay chốt an toàn một quả MK3 rồi hạ lệnh:
- Lựu đạn chốt, cầm tay!
"Cùng lắm thì chết chung với nhau ở đây!" anh nghĩ thế, và sẵn sàng chờ đợi cái phút quyết liệt đó. Nhưng không thấy lựu đạn bay vô nữa. Anh lập tức chồm lên, tay trái xách khẩu tôm-xông, tay phải ném thẳng quả MK3 qua miệng hang rồi hô lớn:
- Rút!
Anh em lao đi. Ngạn liệng xong trái lựu đạn, cắp súng bắn từng loạt. Bắn chưa hết băng đạn, anh chạy theo anh em, Chạy qua khỏi đó một quãng, tới chỗ ngõ hang rẽ ngoặt, Ngạn kêu anh em dừng lại. Chỗ này lựu đạn từ ngoài khó liệng tới, mà nếu có liệng tới cũng bị nhiều vách đá chặn lại. Vào đến nơi, chợt Ngạn nghe anh em lao nhao kêu:
- út Quyên đâu, út Quyên đâu rồi?
Ngạn xộc tới, kêu giật giọng:
- Quyên, Quyên?
Không có tiếng đáp. Không có Quyên, Ngạn liền quay phắt người, chạy vụt trở ra. Tới chạt theo anh, kêu:
- Anh Ngạn, anh Ngạn trở lại để tôi đi cho!
Nhưng bóng Ngạn đã biến khuất hang. Anh trở ra chỗ cũ, bò từ hốc đá này sang hốc đá khác mà kêu:
- Quyên, Quyên ơi!
Nhưng vẫn không có tiếng Quyên đáp. mãi sau, Ngạn mò đụng chân Quyên trong hốc đá. Quyên nằm sấp, hai tay khoanh dưới ngực, Ngạn hoảng sợ ôm xốc lấy cô. Anh áp mặt mình lên mũi Quyên, nghe Quyên hãy còn thở thoi thóp. Anh vội rờ nhanh từ đầu đến chân Quyên. Không thấy có máu. Anh vội khoác súng lên vai, lòn tay bố bổng Quyn chạy lom khom vào trong.
Ngoài hang, trời đã sáng rõ.
Một tên đại úy to lớn, mặc quần cụt vằn đỏ sẫm tay cầm súng ngắn, la hét bọn lính:
- Liệng nữa! Tụi bây cứ liệng hết mấy thùng này cho tao!
Bịn lính xáp lại bên những thùng lựu đạn phếch sơn màu xám đã mở nắp. Chúng lấy trong đó ra những trái lựu đạn MK3 mới tinh, lánh lấy, chia cho nhau. Mỗi tên cầm hai trái, đưa lân ghé răng cắn chốt. Chúng lò dò đứng ở hai bên mép cửa hang rồi bất thần chạy vọt qua, liệng lựu đạn vào trong hang.
Từ sáng sớm, tên đại úy đã cho khiêng tới đây bốn mươi thùng lựu đạn, để thực hiện cái kế hoạch "tấn công dồn dập" mà hai tên cố vấn Mỹ mới xuống hôm qua đã đề ra. Mỗi thùng như thế chứa hai chục trái MK3. Từ nãy giờ chúng đã tọng vào hang gần mười thùng, vị chi tất cả khoảng trên dưới hai trăm trái. Khói đen che kín cả miệng hang, chẳng còn trông thấy gì nữa.
Nhưng tên đại úy vẫn chưa cho ngừng lại. Hắn ra lệnh bọn lính tiếp tục làm cái trò ấy đến nỗi chúng chạy mỏi cả chân, và có đứa ê ẩm cả hàm răng, vì phải cắn chốt lựu đạn nhiều quá.
Bọn giặc liệng hết bốn mươi thùng lựu đạn thì mặt trời đã lên cao.
Khói quyện dày ở cửa hang đang lắng dần xuống. Tên đại úy thét lính xông và. Thằng lính nào cũng chần chừ. Tên đại uý tức giận la lên:
- Tụi nó chết mẹ hết rồi mà còn sợ gì nữa!
Đoạn, hắc xốc khẩu côn 12 trong tay, hùng hổ gạt bọn lính:
- Đ.mẹ, đồ chết nhát, dang ra, để tao vô!
Hắn nghinh ngang cầm súng chạy vô miệng hang. Mờy tên "gạc-đờ-co" của hắn xách súng chạy theo, cũng nghinh ngang như hắn.
Tên đại úy vừa bước vào hang liền bị một phát đạn từ trong bắn trúng giữa miệng, té lật ngửa. Đôi chân đi dày da đen cao cổ của hắn chòi chòi đạp đạp vào giữa lớp khói, Tay hắn buông rơi khẩu súng ngắn chưa bắn được lấy một phát. Toàn thân hắn bỗng giãy lên tê tê như một con cá lóc bị đập đầu. Mờy tên "gạc-đờ-co" bỏ mặc hắn nằm đấy, chạy nhào trở lại. Bản mặt thằng đại úy bấy giờ loang máu, đỏ lòm như chiếc quần cụt hắn đang mặc. Và cái thân hình to lớn đỏ đầu đỏ đít ấy bị lớp khói trên vòm hang lắng xuống, dần dần mờ phủ.
2.
Quyên, Quyên!
Sứ bế em gái mình trên tay, gọi giật. Chị gọi mấy lượt như thế mà mắt Quyên vẫn nhắm nghiền. Con Thúy cũng nhào ôm lấy Quyên mà kêu:
- Dì út, dì út!
Rồi nó khóc thét. Chị Sứ đưa tay hấp tấp sờ khắp người Quyên nhưng chị không tìm thấy vết thương nào cả. Có lẽ đúng như Ngạn nói, Quyên bị tức hơi lựu đạn. Chị xoa mạnh ngực em, như Năm Nhớ đã xoa từ lúc Ngạn đem Quyên vào. Nhưng Quyên vẫn không động đậy. Cô nằm sõng trượt trên tay chị, tóc xổ ra, rũ chấm xuống mặt đá.
Bờy giờ đến lượt anh em thắp nến lên cho Quyên, như Quyên đã thắp nến lên cho thằng Bé.
Bên ngọn nến cháy nhểu ròng những giọt sáp trắng, khuôn mặt tái nhợt, cặp mày cong cong của cô hơi nhíu lại, và đôi môi khéo hờ của cô như muốn nói tiếp câu chuyện gì đang nói nửa chừng. Ôm gọn trong tay mình các cơ thể trẻ trung mềm mại của Quyên, Sứ bối rối lo lắng từng giây. Chị có cảm tưởng như bồng trên tay mình con bé Quyên nhỏ dại hồi nào, để dỗ cho nó ngủ, để hát ru nó những câu hát đưa em ầu ơ, vời vợi; những câu hát mà mẹ chị đã ru cho tuổi thơ của chị. Trong tay chị giờ đây là đứa em yêu dấu nhất đời, là đứa em mà cho chị chỉ thoáng thấy trên tay mẹ chị có một lần, giữa buổi chiều trời chuyển mưa to, khi những người lính mặc áo "bành tô" vàng dong cha chị đi ngang qua nhà để đem ra triền Hòn xử bắn. Đây là đứa em mà Sứ đã bế nó lần bước xuống bậc thang nhà một cách khó nhọc, ẵm nó đi chơi tha thẩn dưới những gốc xoài, gốc mít. Rồi khi nó lớn lên, chính chị đã đánh đũa chuyền hoặc búng me với nó, chính chị đã nhường nhịn cho nó gói bánh nhiều hơn, cũng như nhường nó những trái xoài chín hơn. Đứa em bây giờ đây đang nằm thiêm thiếp trên tay chị. Sứ cứ hối hận nghĩ rằng phải chi ban nãy chị không để Quyên đi châm nước; thay vào đó là chị, chị thấy phải hơn.
... Một lát, Ngạn đi vào, tới đứng dưới phiến đá. Anh đứng nhìn Quyên hồi lâu, mà Quyên không hay biết gì cả. Khuôn mặt anh hãy còn hết sức căng thẳng. Mồ hôi chảy ròng ở hai bên thái dương, nhễu từng giọt xuống cổ áo anh. Thấy Quyên nằm tư lự ngước nhìn lên vòm hang, Ngạn không nhịn được cười. Anh thò tay chộp lấy bàn tay Quyên, khiến cô giật mình rụt phắt ngay chân lại. Ngạn nhô hẳn đầu lên. Quyên trông thấy anh, cô mừng quá, nhổm ngay dậy chụp lấy anh, véo véo vào vai anh mấy cái:
- Làm người ta hết hồn!
Ngạn người, lắc đầu:
- Mới sống lại mà đã giỡn rồi, tôi phục "cô" quá!
- Phục gì, rút lui bỏ người ta mà còn nói...
Ngạn chỏi tay lên mặt phiến đá, nhảy lên. Báng súng tôm-xông anh khoác nơi vai va mạnh vào mỏm đá. Anh cởi súng ra, nằm ngả đại lên mình con Thúy, thở hì hì. Con Thúy thích chí cười không ra tiếng.
Ngạn nhìn Quyên:
- Hồi nãy, anh tưởng em chết thiệt rồi chớ!
- Chết, chết sao được!... Không có anh, em nằm đó một lát rồi cũng bò vô được thôi!
Ngạn trề môi:
- Làm tàng hoài. Cho em hay, hồi nãy anh mà không ra vác em thì tụi nó lượm em rồi. Lượm như lượm một củ khoai vậy!
Quyên nghe nói, cô im đi một giây rồi chì chiết:
- ờ, sao anh không bỏ con nhỏ làm tàng đó cho nó chết. Vác nó đi làm chi cho mệt?
Ngạn nhoẻn miệng cười, không nói gì cả. Con Thúy thì vẫn nằm yên để Ngạn gác đầu lên bụng nó. Ngạn nói:
- Hồi nãy đem em vô đây, anh trở ra, tụi nó vẫn còn liệng lựu đạn không biết bao nhiêu mà kể. Rồi tụi nó xông vô. Anh bắn một thằng coi "đã" hết sức. Thằng đó bạn quần cụt đỏ lòm. Hai thằng bò vào vác xác nó, liền bị chút Đạt nhỏ bắn chết một...
Ngạn nói:
- Bây giờ yên rồi. Anh Ba Rèn và anh Hai Thép đang ở ngoài đó.
Nói xong câu ấy, mắt Ngạn lim dim, Quyên còn định nói chuyện với anh nữa, nhưng mắt Ngạn đã nhắm lại. Chốc sau, Ngạn bắt đầu cất tiếng ngáy. Quyên nâng đầu Ngạn để con Thúy lăn ra, và cô kéo cái khăn trên cổ mình xuông, vo lại gối đầu Ngạn. Cô nhè nhẹ đưa tay quệt chùi mồ hôi ở hai bên thái dương Ngạn. Rồi ngồi đó, cô mê mải nhìn Ngạn ngủ. Bây giờ, khi Ngạn đã ngủ, nghĩa là khi anh không còn nhìn thấy cô nữa, thì là lúc cô để lộ hết lòng yêu thương ra mặt. Đôi mắt của cô cháy bỏng hơn, khi cô nhìn thấy mọi cái gì trên người Ngạn cũng đều còn in rành rạnh dấu vết của buổi sáng dữ dội. Chiếc áo sơ mi đen ngắn tay anh mặc rách toạc một đường nơi vai. Hình như khắp thân anh vẫn phảng phất mùi khói súng. Nơi cườm tay, khuỷu tay có nhiều vết sây sát rướm màu mà Quyên đoàn là bị đá cáo. Rất có thể là anh bị những vết sây sát đó trong lúc kiếm cô ở các hốc hang. Quyên lục lọi trong chiếc túi chị Sứ lấy ra một chai dầu cù là, dùng ngón tay trỏ bệt dầu thoa lên những chỗ rướm máu trên tay Ngạn.
Đang thoa dầu cho Ngạn, bất chợt Quyên nghe tiếng radio từ ngoài hang vọng vào.
Và tiếng anh Hai Thép kêu lớn:
- Anh em ơi, lại nghe Bác nói chuyện, lại nghe Hồ Chủ tích nói chuyện đây nè!
Trong hang mọi người reo ầm lên. Rồi tiếng chân chạy nghe thình thịch, Quyên luýnh quýnh lay Ngạn:
- Dậy, dậy anh Ngạn!
- Cái gì? Cái gì?
Ngạn giật mình ngơ ngác hỏi:
- Dậy Bác nói chuyện kìa, trời ơi, mau mau đi!
Ngạn ngồi bật ngay dậy, với tay xách súng. Con Thúy đeo vào cổ anh. Quyên nhảy từ phiến đá xuống, chạy nhào về phía có tiếng radio đang phát văng vẳng, Ngạn cõng con Thúy tất bật chạy theo.
Anh Hai Thép hai tay nâng chiếc "trăn-xi-to" đi về góc hang chỗ anh em bị thương. Mọi người ở trong hang vây quanh theo. Anh đi lại gần chỗ Thẩm và thằng Bé thì ngồi thụp xuống, mở máy to hơn. Trong máy, Hồ Chủ Tịch đang nói. Cả hang đang nhốn nháo bỗng im phắc. Chỉ còn giọng Người cất lên, ấm áp, sang sảng:
- Bước sang năm mới dương lịch một chín sáu mốt, miền Bắc đã tròn bảy năm ra sức khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam đã trải qua bảy năm đấu tranh cực kỳ gay go và anh dũng. Đế quốc Mỹ đang ra sức biến miền Nam nước ta thành một thuộc địa kiểu mới của chúng, nhưng đồng bào miền Nam nhất quyết không chịu làm nô lệ. Đế quốc Mỹ và bọn tay sai Ngô Đình Diệm đã gây ra không biết bao nhiêu cảnh chết chóc đau thương...
Người vừa nói đến đây thì trong hang đang im phăng phắc bỗng có tiếng khóc òa lên. Đó là tiếng khóc của chị Sứ. Tự nãy giờ, Quyên hết sức cố nén, nay nghe chị mình khóc, cô liền òa khóc theo. Và rồi sau Quyên, cả hang đều nức nở, giữa lúc tiếng nói của Hồ Chủ Tịch vẫn tiếp tục sang sảng cất lên trên tiếng sụt sùi của mọi người. Tiếng nói của người cha lớn và vị lãnh tụ yêy kính đời đời đó lan qua các phiến đá, dội lên vòm hang, thấm sâu từng chữ từng lời vào lòng mỗi người. Anh cũng cố nén bớt cái tiếng khóc của mình để nghe cho hết lời Người nói, nhưng vừa mới nén được thì lời nói của Người lại làm họ khóc lớn hơn...
Mà họ không khóc sao được! Chỉ riêng tiếng nói của Người cũng đã làm cho họ khóc rồi. Huống hồ Người đang nói về họ, nói đúng vào giữa lúc cái hang Hòn xa xôi bé nhỏ này đang diễn ra một trận đấu cực kỳ ác liệt.
Họ khóc là phải lắm.
Nhưng đây không phải là những giọt lệ thường. Đây là những giọt lệ lạ lùng nhất đã trào ra khi tiếng nói của người cha Việt Nam cất lên, khi hang động ngập tràn cái không khí thiêng liêng kỳ diệu, khi nước uống đã cạn, và trong hang hãy còn nồng nặc mùi khói súng. Đây là nỗi xúc động thần thánh chỉ có được trên mảnh đất miền Nam rướm máu, nỗi xúc động về lòng tự hào, lòng yêu kính, và về sự sung sướng trong đó hình như có pha chút gì xót tủi.
Tiếng nói của Hồ Chủ tịch vẫn đang nói:
- Mười bốn triệu đồng bào ta ở miền Nam đang vùng lên oanh liệt chống lại đế quốc Mỹ và tay sai. Cuộc đấu tranh ấy có được miền Bắc là chỗ dựa vững chức và được nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới đồng tình, hiện đang ngày càng giành nhiều thắng lợi. Đồng bào ta ở miền Bắc luôn hướng về miền Nam anh hùng, luôn hướng về miền Nam thành đồng Tổ quốc!
Ngạn đang cõng con Thúy đứng sững. Nghe tới đấy, anh rùng mình, cổ họng nghẹn lại. Quyên nép sát vào vai anh, nhưng tất cả mọi người đang đứng sát lại bên nhau. Bàn tay Quyên cứ mỗi lúc một nắm chặt tay Ngạn hơn. Trong kia, anh Thẩm gượng một chân, đứng lên, lưng anh Thẩm tựa vào vách hang, hai bàn tay anh bám vịn vách đá, rờ bấu, run run...
Còn thằng Bé, nó cũng đã chống cánh tay còn lại, nhổm dậy từ lúc nào. Đằng sau, chị Sứ đỡ nhẹ lấy vai nó. Trên mặt của hai chị em nước mắt đều đang rơi lã chã.
3.
Chiều hôm ấy, nước cũng không còn để nấu cháo cho anh em bị thương nữa. Anh Hai Thép đưa cả bi-đông nước của mình cho Sứ. Nước trong bi-đông là phần chia cho anh ban sáng, Anh chỉ mới uống vài hớp.
Tất cả những anh em khác ai cũng mau mắn cầm bi-đông đổ trút những giọt nước cuối cùng vào trong xoong chỉ được lưng một nửa. Nhìn nước trong xoong, Sứ biết trước là nồi cháo này sẽ đặt lắm. Bưng xoong nước đi gần tới bếp, chị dừng lại, nhớ sực tới nửa ca nước để dành cho con Thúy. Chị nghĩ: "Thêm nửa ca đó thì chú Thẩm và Bé mới có chút nước húp". Nghĩ vậy, chị liền bưng cái xoong đi vào chỗ phiến đá.
Con Thúy không có ở đấy, Sứ đặt xoong xuống phiến đá, mò tay vào hốc tìm ca nước. Cầm cái ca trong đó chỉ sóng sánh có một nửa nước, chị Sứ nhìn mãi, chưa đổ vào xoong. Chị nghĩ: "Nếu mình đổ hết chỗ này thì con Thúy khát, lấy đâu cho nó uống?". Cầm cái ca, chị Sứ cứ phân vân, do dự. nghĩ đến anh em bị thương, tay chị muốn nghiên đổ ca nước, nhưng nghĩ đến con, tình mẫu tử như níu bàn tay chị lại. Cuối cùng, chị tử tử đổ ca nước vào xoong, bưng xuống, lặng lẽ đi về phía bếp. Sứ vốc gạo bỏ vào xoong, bắc lên. Không có nước để vo, Sứ thấy bứt rứt trong lòng. Và từ đấy, ngồi coi nòi cháo, chị cứ nghĩ đốn nước. Thực ra thiếu nước thì cả hang đều lo, nhưng phần chị, sao chị vẫn cảm thấy như mình chịu trách nhiệm nặng hơn. Chị không phải là người trông coi căn cứ, nhưng khi chị lâm vào hoàn cảnh thiếu miếng ăn miếng uống, chị cắt rức nhiều hơn ai cả. ở chị, cái thiên chức phụ nữ bẩm sinh vốn đã thế. Trong gia đình cũng như trong anh em đồng chí, chị luôn nhường phần mình. Mà chị lấy thế làm sung sướng. ở đời, nếu có người đàn bà nào chỉ biết lấy sự thỏa mãn riêng mình làm sung sướng thì Sứ không phải là loại người đàn bà kiểu đó. Chị là người chỉ sung sướng bằng sự sung sướng của mẹ, anh, em, đồng chí, và khi có con, chị dành cho con tất cả những gì mình có. Từ lúc vào hang đến giờ, chị là người uống nước ít nhất. Chị uống có một ngụm từ trưa hôm qua tới nay. Việc này cũng chỉ riêng có chị biết mà thôi.
Nào là chị không khát! Chị khát lắm. Ngay bây giờ, sau khi nhai mấy vốc gạo rang, chị càng thấy thèm miếng nước. Chị mường tượng tới làn nước trong vắt và sưới Lươn, và thoáng có ý nghĩ nhân lúc ban đêm, biết đâu chừng có thể len lỏi bò ra đó múc nước được. Có thể lắm chứ! Đâu phải khúc suối nào cũng đều có giặc gác!
Sau kho xoong cháu đả sôi, Sứ rút bớt lửa. Đợi cháo nhừ, chị nhấc nồi cháo xuống.
Chị múa một ca cháo đem lại đưa cho Thẩm. Còn thằng Bé thì chị đút cho nó. Bữa nay, thằng Bé đã khá. Nó ăn hết ca cháo đầy. Đút nó ăn xong, Sứ lấy khăn chùi miệng cho nó. Chợt thằng Bé nói:
- Chịba, cho em miếng nước
Sứ đành phải nói thiệt cho nó biết là không còn nước nữa, thì nó im lặng, hấp háy mắt. Hình như nó ngỡ còn nước, mà tại nó không được uống.
Chị Sứ hiểu ý, liền dịu dàng vuốt tóc nó, nói:
- Hết nước thiệt rồi, em à, chị Ba không dối em đâu... Để tối, tối chị đi múc nước về nấu cho em uống...
Thằng Bé nói:
- Vậy chừng nào có nước chị đem liền cho em uống nghe!
- ừ, chừng nào có, chị sẽ cho em uống!
Thấy Sứ sắp đi, thằng Bé nắm tay Sứ, khẩn khoản:
- Chị Ba đừng đi, ngồi đây chơi với m. Em nằm một mình buồn quá hà!
Nghe thằng Bé nói thế, Sứ ngồi lại. Thằng Bé đưa mắt ngó lên vòm hang:
- Hồi trưa, nghe Bác Hồ nói chuyện, em tưởng như Bác biết mình hiện đương ở trong hang... Mà em lại cứ tưởng Bác biết em mới chặt tay vậy. Thiệt, nghe Bác nói. sao em ngờ ngợ Bác biết hết, biết mình quyết tử với tụi nó, biết mình khát nước...
Sứ nghe thằng Bé nói sao giống như mình nghĩ quá, chị cầm tay nó, bảo:
- Phải, bác Hồ biết hết, em à!... ở miền Nam mình cực khổ, đau đớn hay gan góc, bác đều rõ, nên Bác mới nói: "Miền Nam phải trải qua bảy năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng". Đó, em nhớ không, bác nói vậy là Bác biết rõ lắm nghe!
- Chị Ba có thấy tiếng Bác lúc đó hơi run run không? Chị Ba ơi, nghe Bác nói rồi, em thấy tay em bị cụt như vậy đâu có nhằm nhè gì. Em chỉ tức là mới xáp chiến một trận mà bị thương sớm quá, phải chi...
Sứ an ủi thằng Bé:
- Đừng lo, em cụt một tay là thường. Thiếu gì người cụt một tay mà vẫn chiến đấu.
- Tay em lành rồi em cũng xin ở du kích. Rủi có chết thì thôi, nếu tới ngày thống nhất, may phước em còn sống, em sẽ kiếm cách gửi thơ thưa với Bác rằng trong ngày đó, tháng đó, năm đó, em còn có một tay và em nằm trong hang Hòn này, em đã nghe Bác nói... chị nhắm được không?
Sứ nghe thằng Bé nói thì giật mình, không ngờ nó nghĩ ra đến như vậy. Chị ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Được chớ... Đâu cần gì tới thống nhất. Chừng nào mạnh rồi, em viết thơ cho Bác cũng được mà!
Thằng Bé nghe nói, vẻ mặt vừa rạng rỡ vừa lo lắng:
- Nói vậy chớ đâu được... Em nói chơi chớ em không dám viết đâu.
- Sao lại không... em viết được, em xứng đáng được viêt thơ cho Bác lắm.
- Không, không được đâu!
Thằng Bé vội nói rồi nó lại đưa mắt ngó lên vòm hang cao. Chẳng biết nó suy nghĩ những gì, chẳng biết nó có tính viết thư hay không viết thư, nhưng rõ ràng là nó đang sung sướng về điều nó nghĩ, cùng những lời chị Sứ, đã đem đến cho nó niềm vui ngay tự bây giờ.
Ánh sáng từ trên vòm hang đã mờ đi. Có lẽ bên ngoài chiều hôm buông xuống rồi. Dần dần, Sứ không nhìn thấy rõ mặt thằng Bé nữa. Chị chỉ nghe hơi thở nhè nhẹ và bàn tay của nó ấm lôn trong tay chị. Sứ mò mẫm định tìm đến đốt. Nhưng thằng Bé ngăn lại:
- Thôi, đừng đốt chị, hao lắm!
Sứ nghe thằng Bé, không đốt nến nữa!
Trong bóng tối tràn ngập, chị ngồi dụm ha gối chân lại, đưa tay xổ đầu tóc. Tóc chị xõa tràn bờ vai, rũ xuống mặt đá. Chị kéo tóc ra trước ngực, lần các ngón tay vuốt gỡ mớ tóc rối. Tóc chị Sứ dày và mượt lắm. Mỗi lúc xổ tóc ra để bới lại lần nào chị cũng nâng tóc mình vuốt ve, âu yếm. Không nói được thành lời làm sao suối tóc mát rượi của chị như có sự sống riêng, linh hồn riêng. Đối với chị, hình như là nó có tiếng nói, và mỗi lần nâng nó trên tay, chị liền có cảm tưởng trò chuyện rất đỗi yêu thương. Làn tóc gợi chị nhớ tới bàn tay anh San, bàn tay mẹ. Anh San ngày trước vẫn thường lùa tay vào mái tóc này. Còn mẹ chị thì vẫn hay ngồi bới lại đầu cho chị. Mẹ chị còn thường múc nước giội cho chị gội đầu nữa. Hình như mẹ chị sung sướng lắm khi được chính tay làm những việc đó, mặc dù có lúc bà cứ la lên: "Phật ơi, một chục bữa rồi tao chớ thấy mày gội đầu nghe Sứ!" hay là khi xối nước cho chị, mẹ cứ giục: "Quào mạnh tay một chút giùm cho tao nhờ coi!" Sứ mỉm cười nhớ lại những câu nói ấy của mẹ, lòng càng thêm lo lắng và tội nghiệp cho mẹ mấy hôm nay vò võ một mình.
Vừa bới lại đầu tóc xong, chị chợt nghe tiếng Quyên gọi. Chị đặt cây nến và cái bật lửa vào tay thằng Bé, dặn:
- Đây, chừng nào muốn sáng thì em thắp lên!
Sứ đứng dậy, đi ra. Gặp chị, Quyên ôm cổ chị, thì thào.
- Anh Trọng với anh Ba Rèn đã bò ra ngoài hang rồi! Mấy ảnh ra dọ thử tình hình ở ngoài...
- Vậy hả? Đi lâu chưa?
- Mới vừa đi!
- Con Thúy đâu rồi?
- Nó đang ngồi chơi với anh Hai ngoài kia!
Quyên và Sứ cùng đi ra ngoài. Hai chị em đến bên chỗ anh Hai Thép:
- Sứ hả? - Anh Hai hỏi.
- Dạ
Con Thúy nghe tiếng Sứ liền kêu "má". Chị bảo con:
- Ngồi đó chơi với bác Hai đi con! Má cũng ở đây chớ không có đi đâu đâu.
Rồi sứ nói:
- Anh Hai à, theo anh, liệu tụi nó vây mình lâu không?
- Vẫn chưa thấy triệu chứng gì tỏ ra là tụi nó rút. Hồi chiều, anh cho chú Đạt leo lên hang coi, thấy tụi nó đi vác rơm của đồng bào về chất có đống. Không biết nó tính làm gì.
- Hay là nó muốn đốt hang? Quyên nói.
- Cũng có thể. Căn cứ vào lối đánh của tụi nó từ hai hôm nay, anh thấy tụi nó lần này quyết tâm tiêu diệt mình lắm. Thiệt ra tiêu diệt trên dưới hai mươi người mình đây thì cũng không ăn nhằm gì, nhưng ý đồ thằng địch coi bộ muốn tiêu diệt ta ở đây để làm núng ta ở chỗ khác. Cho nên về phía ta cũng phải thấy rõ là nếu ta giải quyết được vấn đề nước uống trong hang và ở ngoài xóm tiến hành đấu tranh mạnh mẽ. Nhược điểm của thằng địch là không thể giam quân ở đây lâu đâu. Còn mình thì rất tiếc không nắm được tình hình ngoài xóm mấy hôm nay ra sao.
Sứ nói:
- Em tin bà con không để chúng yên đâu. ở ngoài đó chị Hai với mấy chị, lại được anh Tám Chấm giúp đỡ, thế nào cũng đấu tranh kết hợp chặt. Về vấn đề nước uống của mình thì đợi mấy ãnh đi bám về voi. Nếu có thể mò ra khúc suối nào đó múc được, tụi em sẽ đi. Tụi em đội cà om quen hơn...
Anh Hei Thép bảo:
- ờ, để đợi anh em bám về coi sao đã.
Anh Hai nói thế rồi ở radio rà đài Hà Nội. Từ trong máy vẳng ra tiếng đàn bầu đang dạo bản Câu hò trên bến Hiền Lương. Nghệ sĩ chơi đời có lẽ đang chơi với những ngón tay xúc động run rẩy. Hình như có lúc anh ta nén thở hay sao mà tiềng đờn cứ oằn oại, lắm lúc nghe như chới với rồi lại lắng đọng mãi một chỗ, tưởng như sợi tơ đời bị đứt ngang để rồi sau đó trở nên réo rắt, thiết tha hơn. Và tiếng đời cứ tâm sự mãi. Cho đến khi giọng người con gái trong máy cất lên điệp khúc thứ hai của bài hát thì tiếng đời cũng cứ còn vương vít quyền quyện không thôi...
Quyên bỗng thấy chị Sứ nhè nhẹ đưa tay ôm ngang thắt lưng mình, rồi cằm chị đặt lên vai mình.
Quyên biết chị Sứ cảm động, vì lời hát ấy đang nói về lòng thủy chung, đang nói về cảnh ngộ chị. Bài hát ấy chính Quyên đã có lần chép và rủ chị cùng học với mình, nhưng chị Sứ chỉ học để biết hát, chớ về sau Quyên không thấy chị mình hát bài hát đó bao giờ.
Khi tiếng hát trong đà đã dứt rồi, chị Sứ vẫn đặt cằm nơi vai em, lặng lẽ. Lâu sau, chị mới nhấc cằm ra, bước tới bảo con Thúy:
- Thôi đi ngủ, con!
Con Thúy ngoan ngoãn với tay choàng lên vai mẹ. Trước khi cõng con vào trong, Sứ khẽ dặn Quyên:
- Chừng nào mấy ảnh về thì kêu chị, nghe Quyên! Chị đem con Thúy vô cho nó ngủ cái đã...
Sứ cõng con đi mò vào ngõ hang. Dọc đường, con Thủy ngoẻo đầu xuống vai chị. Chị hỏi:
- Ngủ rồi hả Thúy?
Con bé không đáp. Hơi thở của nó phả nhè nhẹ vào mang tai chị, âm ấm, nhồn nhột. Chị dò dẫm, rén bước bi thật kỹ, cố sao cho con khỏi bị thức giấc. Về tới sát ohiến đá chị miết chặt mười ngón chân đặt trên tảng đá, bước lên. Rồi khi đã lên tới phiến đá, chị day lưng lại, rùn hai gối chân ngồi bệt xuống. Chị ngả người đặt con nằm xuống phiến đá khéo léo đến nỗi nó không hay biết gì cả. Tuy nhiên, với bản năng đặc biệt, đôi bàn tay bé bỏng của nó cứ bám riết lấy vai chị một lúc rồi mới chịu buông ra.
Sứ lấy cá khăn trên cổ mình xuống, đắp lên người con. Nghe chừng tiết trời đã bắt đẩu se se lạnh, chị sợ con không đủ ấm, liền cởi cả chiếc áo bà đa đen đang mặc đắp thêm cho con. Bây giờ chị chỉ còn mặc một chiếc áo túi ngắn tay bằng lụa đen. Chị nghĩ bụng: "bận cái áo này nếu có đi lấy nước cũng gọn!". Một lần nữa, chị sờ soạng từ đầu chí chân con Thúy, đắp vén kỹ cho nó, rồi mới cầm chiếc đèn pin quay lưng bỏ đi. Nhưng lạ thay, lần này con Thúy không giật mình gọi chị gì cả mà sao chị cứ nhấp nhứ bàn chân chưa muốn đặt xuống phiến đá bên dưới. Có cái mãnh lực gì ờ sau lông cứ níu kéo chị lại, không để chị bước hẳn. Cuối cùng, chị đã quay mình lại, lắng nghe hơi thở của con. Và cũng chỉ thế thôi, chị lại từ từ bỏ đi.
Nhưng có quay lại một chút như thế, bây giờ chị mới thấy yên tâm
Sứ ra tới hang bùng binh, anh em vẫn chưa về.
Anh Hai Thiệp hỏi sứ:
- Con Thúy ngủ rồi hả?
- Ngủ rồi!
- Con nít thiệt khỏe quá! Giặc giả gì nó cũng khỏi cần lo, cứ việc ngủ yên.
Quyên nãy giờ cứ đi ra cửa hang rồi lại đi vào. Cô thấp thỏm nói:
- Sao lâu quá mà mấy ảnh chưa về! Không biết có chuyện gì không?
Nói cong, cô ngồi ghé lên tảng đá. Thì ngay lúc ấy ngoài ngõ hang, có tiếng Trọng kêu:
- Anh Hai, anh Hai đâu?
- Đây, tôi đây!
Anh Hai Thép đứng ngay dậy. Trọng và anh Ba Rèn ùa vào hang. Anh Hai hỏi:
- Sao?
Ba Rèn nói:
- Chuẩn bị đi lấy nước đi. Tụi tôi bám rồi. Tụi nó chỉ đóng quân ở bên kia suối, còn trong mé vườn bên này thì êm ro không có gì
- Chắc ăn không?
- Chắc, nhưng phải ra liền,e tình hình thay đổi.
- Vậy thì đi... Quyên ơi, cà om có ở đây chưa?
Quyên mau mắn đáp:
- Có em đem ra rồi.
Anh Hai Thép nói:
- út Quyên còn yếu không đi được đâu.
- Em mạnh rồi, để em đi mà!
- Thôi con Quyên bây ở lại! - Anh Ba Rèn nói cương quyết.
Sứ cũng bảo:
- Thôi út Quyên đừng đi em. Em chạy vô lêu Năm Nhớ đi với chị!
Quyên miễn cưỡng chạy vào hang trong. Lát sau, cô cùng Năm Nhớ trở ra.
Ba rèn dặn Sứ và Năm Nhớ:
- Tuyệt đối không được nói chuyện nghe! Tụi tao đi trước mấy đức tụi bây đi sau, mà phải đi cho êm...
Trọng xốc khẩu tôm-xông lên:
- Đi đi!
Sứ và Năm Nhớ xắn ống quần lên quá gối. Hai người đội cà om theo Trọng và anh Ba Rèn luồn ra miệng hang. Ra tới miệng hang, Ngạn và anh em gác ở đó đều dặn họ phải cẩn thận.
Sứ bước ra tới gần cửa hang thì nghe mùi khói thuốc lựu đạn xông vào mũi nồng nồng. Và khi đã lọt ra tới bên ngoài, chị cảm thấy khỏe khoắn hơn lúc ở trong hang gấp bội. Chị thở hít luôn mấy hơi.
Bốn người cúi mình lom khom chạy qua bãi cỏ trống. Chị Sứ chạy sau, hai tay vịn cái cà om trên đầu. Vào tới vườn dừa, mọi người chậm lại, mò mẫm. Đimột đỗi, bỗng thấy phía trước có đèn pin xẹt ngang. Mọi người ngồi thụp xuống, im thin thít. Một tốp lính kéo qua trước mặt họ, cách chừng mười thước. ánh đèn pin vụt tắt ngắm. Có tiếng chân giầy giẫm sạt sạt trên các tàu lá dừa khô. Đợi chúng đi khỏi, bốn người lại đứng dậy, đi tới. Họ đã đến sát bên bờ con suối Lươn. Chỗ dẫn ra suối là một bải sỏi trống. Trọng với Ba Rèn ghìm súng, khoát mạ và Năm nhớ vội nhắc cà om trên đầu chạy xuống bờ suối. Năm Nhớ tới suối trước, vục ngay cái cà om xuống nước. Sứ cũng chạy nhanh xuống. Chị nghe tiếng bọn giặc nói chuyện lao xao ở bờ xuối bên kia. Trong các lều vải sáng ánh đèn khí đá, bọn giặc đang đánh bài "dì dách". Có tiếng thằng cầm cái hỏi: "Kéo nữa thôi?" và thằng tay con đáp - "Kéo chớ!". Sứ bình tĩng nghiên miệng cà om, múc đầy một cà om nước. Bên cạnh chị, Năm Nhớ đang vốc nước suối uống. Uống mấy vốc rồi cư ta mới đội cà om chạy lên. Sứ cũng định vốc nước uống nhưng thấy Năm Nhớ đã chạy lên, chị vội bợ cà om chạy theo Năm Nhớ.
Khi đã lẫn vào vườn dừa tối om om, Sứ nghĩ bụng: "Vậy là ổn, chỉ còn từ đây về hang nữa thôi!"
Trọng và anh Ba Rèn vượt lên trước, kế đó là Năm Nhớ rồi tới chị Sứ. Đi trong cườn tối, Sứ ngờ quạng đưa tay ra phía trước. Vậy mà mấy lần chị vấp phải rễ dừa, nước trong cà om cứ sóng sánh muốn đổ. Lát sau, giẫm phải một tàu lá rụng, chị liền dừng lại, đặt cà om xuống đất. Chị lè lẹ mò mẫm tước mấy cái lá dừa, vo khoanh lại bỏ vào miệng cà om. Khi chị sắp nhấc cà om đội lên đầu, thình lình có tiếng chân chạy tới, giẫm lạo xạo trên lá dừa, chị vội đứng nép vào một thân dừa. Nhưng muộn rồi, mấy ánh đèn pin cùng một lúc đã chiếu thẳng vào mặt chị. Một tên biệt kích đi đầu đã nhác thẳng vào mặt chị. Chị liệng mạnh cái cà om vào mặt nó, rồi vút chạy. Bọn chúng xổ theo. Một thằng túm được đầu tóc chị giật mạnh, khiến chị ngã ra phía sau. Rồi ba bốn thằng xúm lại đè chặt lấy chị. Tên thiếu úy Ba, chỉ huy phó đại đội biệt kích cầm lăm lăm khẩu súng cạc bin bước tới nhìn người phụ nữ lạ mặt đang bị lính của hắn trói. Hắn quay ra sau, gọi:
- Tụi bây thằng nào có ở Hòn Đất lại đây nhìn mặt con này coi!
Một tên lính từ sau len tới. Nó ngó qua mặt chị Sứ, thằng lính đó liền la lên:
- A, con Sứ!
- Mày biết nó à?
- Biết, con này là Việt cộng chánh hẩu!
Tên thiếu uý lừ lừ nhìn Sứ, nắm ngực áo Sứ, hất hàm hỏi:
- Phải mày tên là Sứ không?
Chị Sứ gật đầu:
- Phải.
- Mày đi với ai?
- Đi với nhiềungười. Giờ thì họ vô tới hang hết rồi.
- Có múc nước không?
- Sao lại không!
Thằng thiếu úy Ba nghe nói thế liền bậc cười ha hả:
- Tốt lắm! Nếu có múc nước thì tốt lắm!
Chị Sứ trố mắt nhìn hắn, không hiểu tại sao hắn lại bảo thế.
Tên thiếu úy thọc hai tay vào túi quần, đắc chí nói từng tiếng một:
- Tụi - ta - đã - bỏ - thuốc - độc - xuống - khúc - suối - này - rồi.
Sứ mở mắt to kêu "á" một tiếng đầy sợ hãi. Đột nhiên chị nhào tới, định chạy về hướng hang Hòn. Nhưng chị không chạy được. Một tên biệt kích đã giữ chặt tóc chị bấy giờ xổ tung cả ra.
Tên thiếu úy cười gằn:
- Chạy đi đâu? ... Tụi đồng chí của mày rồi sẽ chết nhăn răng hết ráo, hiểu chưa?
Hắn thét bọn lính:
- Dắt nó về!
Sứ bị bọn lính lôi đi xềnh xệch. Tóc chị rủ xuống gần chấm gót. Sứ mấy lượt vùng vằng cưỡng lại, không chịu đi. Mỗi bước chân rời xa hang Hòn lúc này của chị sao cứ nặng trịch như chì. Chị muốn thét lên thấu tới trong hang, bảo anh em đừng có uống nước trong cà om Năm Nhớ đội về đó. Chị lo sợ nghĩ tới con, tới em cùng những đồng chí thân yêu của mình. Đang đi chị quay lại, phẫn uất nghiến răng thét:
- Đồ độc ác, đồ hèn mạt!
Tên thiếu úy bị mắng, tức giận trở báng súng đánh quật ngang lưng chị, khiến chị té khuỵu xuống. Trong ánh đèn pin lia ngang, tên thiếu uý nhìn thấy nước mắt chị trào ra. Hắn chế giễu.
- Vậy mà cũng đi làm Việt cộng! Mới ăn một báng súng đã khóc rồi kìa!
Sứ thấy nó hiểu lầm về giọt nước mắt của mình quá, nên bĩu môi.
- Nè, bộ mày tưởng vì mày đánh mà tao khóc hả? Nói cho mày biết, vì anh em tao, tao mới khóc chứ không phải vì mày đánh tao đâu, nghe chưa?
Thằng Xăm mừng rơn lên khi hay tin tên thiếu úy bắt được Sứ. Đang nằm trong lều, hắn nhổm dậy, co ro cánh tay bị thương, đi lộc xộc qua lại rồi khom lưng chui ra khỏi lều.
Bọn lính biệt kích đã về tới bờ suối bên kia. Chúng lôi Sứ xuống suối. Chị té nhào, ướt cả mình mẩy. Nước ở quãng suối này chỉ lên đến đầu gối. Sứ dầm chân xuống dòng suối buốt lạnh, đi qua. Dòng suối cuốn áng tóc dày mượt của chị, trôi loang loáng. Đặt chân lên tới bờ sỏi bên, chị ngước nhìn thấy hai ba thằng lính đang đứng xách đèn khí sáng rỡ. Chúng giơ cao đèn lên. Liền lúc đó, Sứ nhác trông thấy thằng Xăm, hắn đang đứng im, tay trái vịn cằm, tay phải bị thương treo băng co lên. Sứ cất bước, giả như không trông thấy, đi ngang qua hắn. Thằng Xăm vẫn đứng im, không nhúc nhích, vẻ mặt hắn lạnh lùng như tạc bằng đá. Đợi Sứ vừa đi khỏi hai bước, hắn gọi giật:
- Đứng lại, con kia!
Chị Sứ dừng chân, nhưng không ngoảnh lại. Thằng Xăm bước sải tới sát bên Sứ, nhát mắt.
- Nè, quên tao rồi sao?
Sứ liếc hắn, rồi lại nhìn thẳng tới trước, không đáp. Thằng Xăm ngó chị một lúc rồi nói:
- Đ.mẹ, tao cứ tưởng tụi bay ở lì trong hang chớ!... Té ra tụi bay cũng biết khát nước. Mà tao ngỡ là bắt được ai kia chớ đâu dè là mày. Thiệt tao không dè năm kia thả mày về để mày theo Việt cộng!
Sứ nhếch miệng nói nho nhỏ:
- Mày nói không dè tao theo Việt cộng, còn tao thì tao không dè lâu ngày gặp mày, thấy mày vẫn y như trước.
- Y như trước là sao?
- Là ăn nói thô lỗ. Đến như mày là trung úy mà cũng ăn nói như vậy, hèn chi người ta chê "quân đội cộng hòa" tụi mày lưu manh là phải lắm...
Bị Sứ nói như tát nước sôi vào mặt, tên Xăm giận điếng người. Hắn nắm chuôi dap "cúp cúp" ở thắt lưng, rút soạt dao ra. Hắn đưa lưỡi dao dài và sáng đó ngang tầm mắt, ngắm nghía. Mấy giây sau, bỗng hắn cau mày, từ từ hạ lưỡi dao xuống, đút trả vào vỏ.
- Đóng cọc trói nó lại đây cho tao! - hắn thét lớn.
Bọn biệt kích chạy đi lấy cây, đẽo sàn sạt. Lát sau chúng xốc một cây cọc tràm trên bờ suối, rồi dắt Sứ lại trói ghịt vô. Thằng Xăm bước tới mặt Sứ, nghiến răng:
- Đáng lẽ tao mổ bụng mày liền bây giờ để coi lá gan của mày lớn tới bực nào. Ngặt làm như vậy mày chết mau quá. Tao cho mày sống đôi ngày nữa để chôn chung một lỗ với anh em đồng chí của mày!
Nói xong, thằng Xăm quay lưng đi vào lều. Bọn lính giơ những cây đèn khí ra sau lưng Sứ, rọi coi trói Sứ như vậy đã thật chắc chưa. Rồi chúng cũng xách đèn bỏ đi. Chỉ còn lại một mình tên lính cầm súng đứng gác trước cửa lều thằng Xăm.
Sợi dây dù thít chặt hai bắp tay trần của chị Sứ vào cây cọc. Cứ mỗi lúc, Sứ có cảm giác sợi dây ấy càng thít chặt bắp tay mình hơn. Chị Quỳ trên đất sỏi, mái tóc ướt đẫm sau lưng chị rũ đầy, xõa che kín phủ cả hai gót chân. Đêm bỗng nhợt dần, vì trăng sắp lên. Từ chỗ bị trói, Sứ có thể nhìn ra biển cả. Trước đó một chút thì chị chẳng thấy gì đâu nhưng bây giờ chị đã nhìn thấy biển trước mặt mình. Chị tự nhủ: "Trăng lên rồi!" và mở to đôi mắt, chị nhìn sóng biển chợt hiện ra, lao xao. Bây giờ hầu như chị đã quên phắt ngay lưỡi dao của thằng Xăm, quân mình đang bị trói, quân cả tên lính gác đang đi đi lại lại kia. Giờ chị chỉ trông thấy có mỗi mặt biển đang nhấp nhô sáng rộng ra đó, chị chỉ trông thấy cái ánh biếc ngời như tự lòng biển thẳm đang xô dậy trên đầu các ngọn sóng đó.
Vầng trăng mười tám ngoi lên, vàng rực. Rồi trăng treo cao lên mải. Đến lúc màu trăng đọng lại vàng ối, Sứ liền thấy mặt trăng giống hệt trái xoài Hòn chín, không có cuống, treo lư lửng giữa không trung xanh nhạt.
Đêm nay trời lặng. Sóng biển rì rầm như kể những chuyện không bao giờ hết. Thỉnh thoảng, gió biển từ ngoài khơi lùa qua bờ bãi, thổi vào hơi thở ấm ấm mang vị muối. Tấm áo lụa mỏng ngắn tay của Sứ se se khô lại. Tóc chị rồi cũng dần dần được gió biển vuốt cho ráo đi. ánh Trăng đổ tràn trên bờ suối, làm nối rõ bóng Sứ đang quỳ, nổi rõ cây cọc nhú lên quá đầu chị độ trong gang tay. lát sau, tóc Sứ chợt vờn nhẹ. Thế rồi mái tóc ấy bồng lên, bay xõa theo chiều gió. Chẳng còn thấy đầu cây cọc kia đâu nữa. Chỉ có áng tóc tắm ánh trăng của Sứ đang bay lượn. Đêm càng khuya, gió thổi càng nhiều. Sứ không nhìn vầng trăng nữa. Chị ngoảnh về Hòn Đất đen sẫm một vòm, ở sát kề bên chị. Lòng chị rối bời lên vì không biết sự thể trong đó bây giờ ra sao. Có lẽ anh em đồng chí đều bị trúng độc cả rồi cũng nên. Đang khát mà gặp cà om nước của Năm Nhớ đem về ai lại không uống! Trời ơi, anh em có biết đâu nước trong cà om có thuốc độc. "Năm Nhớ ơi, chúng nó giết em rồi!" Sứ kêu lên trong lòng, và rùng mình nhớ lại ban nãy chính chị cũng đã định vốc nước đó lên uống. Nhìn xuống dòng sông đang loang loáng chảy xiết, Sứ giật mình sực nhớ lại quãng suối nước ban nãy hình như không chảy. Phải rồi, nước ở đó không chảy như ở đây. Chúng nó ngăn lại đổ bỏ thuốc độc mà! "Anh San ơi, anh ở ngoài đó có thấu không, tụi Mỹ - Diệm nó ác độc thế đó, anh có biết không?"
Trong đêm thâu bàng bạc ánh trăng, chị Sứ gọi chồng mà nói. Chị nói với chồng từ xa, lòng đau đớn không ngờ mình lại nói ra những lời ấy tại lòng suối mà tám năm về trước đã có lần chồng chị đứng dưới khoát nước lên cho chị gội đầu. Rồi chính tay anh ấy cầm lược chải gỡ từng mớ tóc rối cho chị. Tại bên bờ suối này đây, chị đã từng có những phút giây sung sướng. Bây giờ thì trái ngược hẳn. Bây giờ, sợi dây dù buộc chặt đến nỗi từ bắp tay chị trở xuống đã tê đi không còn có cảm giác gì nữa. lưng chị loi lói thốn đau vì cái báng súng thằng thiếu úy đánh chị ban nãy. Nhưng bây giờ cái làm chị khổ sở nhất vẫn là nỗi lo đang vò xé lòng chị. Chị lo cho mình thì ít mà lo cho anh em đồng chí trong hang, lo cho em gái và nhất là đứa con bé bỏng thương yêu của chị.
Suốt đêm, Sứ mở mắt trao tráo. Vầng trăng lên cao đến đỉnh đầu, rồi khuất ra sau lưng chị, mà nỗi lo của chị vẫn không vơi.
Gần sáng, mệt mỏi, Sứ ngoẻo đầu ngủ thiếp đi, trong lúc dòng suối bên dưới vẫn chày, reo theo khe khẽ. Và gió biển khưi vẫn ùa vào, thổi thay tóc chị ra phía sau như những làn sóng.
... Sứ thiếp đi được một giấc dài. Lúc chị tỉnh dậy, trời đã rạng sáng. Bọn lính từ trong các lều vải kéo ra đứng đầy bên bờ suối. Thằng Xăm dẫn hai thằng Mỹ đi xồng xộc đến bên Sứ. Hắn đưa mũi giày nhấc cằm chị lên. Hai thằng Mỹ nhìn mặt Sứ chăm chăm rồi xì xồ nói với nhau thứ tiếng của nó.
- Con Việt cộng này có đôi mắt ương ngạnh nhưng rất đẹp!
- Nói chung là nó đẹp!
Bọn lính tập hợp trên bờ đã bắt đầu lũ lượt lội ngang suối, qua bên kia. Hai tên Mũ rời chỗ chị Sứ một cách tiếc rẽ, men xuống suối. Bọn lính biệt kích khom lưng cõng chúng lội qua. Thằng Xăm cũng quay đi, nhưng mới đi mấy bước, hắn quay lại nói với Sứ:
- Mày ráng quỳ đợi đó. Bữa nay, tụi tao vô hang xách cổ hết đồng bọn của mày về cho mà coi!
Hắn nói và co co cánh tay buộc băng, bước xuống vệ suối. Một thằng lính đứng lom khom đợi sẵn, cõng hắn lên, lội sồn sột. Hôm nay, thằng Xăm cũng đi. Chị Sứ ngoảnh nhìn bọn chúng kéo vào Hòn, lòng hồi hộp chờ đợi. Trên bờ suối bây giờ chỉ còn lại năm bảy tên lính vừa nấu cơm vừa coi chừng chị. Bọn chúng ngồi bên bếp lửa mới nhóm, ngó chị Sứ, kháo chuyện với nhau:
- Tụi mình không dễ dầu gì kiếm được một con vợ ngộ như con nhỏ này đâu!
- ờ, đàn bà có nhan sắc mà theo Việt cộng, thiệt uổng!
Sứ nghe chúng nó nói, lấy làm khó chịu mà hơi tức cười. Chị làm thinh, ngước mắt nhìn ra phía biển. Trời đã sáng rõ. Hồi đêm, Sứ nhìn thấy những lạng sóng vàng lấp lánh ánh trăng, bấy giờ trước mặt chị là những lạng sóng hồng, lao xao, rối rít. màu tím nhạt trên bầu trời biển đã ngả sang mày hồng sen, phơn phớt. Buổi sáng mát rợi mở ra cho Sứ nhìn thấy tất cả những gì đêm qua chị còn chưa thấy rõ. Ban mai như kế tục cái đêm trăng thanh, òa vào lòng chị, an ủi thêm chị bằng những sắc màu của nó. Và chính nó đã cho chị nhìn thấy toàn cảnh Hòn Đất.
Chị Sứ yêu biết bao nhiêu cái chốn này, nơi chị oa oa cất tiếng khóc đầu tiên, nơi quả ngọt trái sai đã thắm hồng da thịt chị. Chính tại dẻo đất này, mẹ chị đã hát ru chị ngủ, và đến lúc làm mẹ, chị lại hát ru cho con những câu hát ngày xưa. Chính tại đây chị đã giơ nắm tay nhỏ nhắn lên chào lá cờ Đảng, nên từ đó chị càng biết yêu thêm cha mẹ, chồng con, anh em, đồng chí. Chị Sứ đả yêu Hòn Đất bằng cái tình yêu hầu như là máu thịt. Chị thương ngôi nhà sàn lâu năm có cái bậc thang, nơi mà bất cứ lúc nào đứng đó chị cũng có thể nhìn thấy sóng biển, thấy xóm nhà xen lẫm trong vườn cây, thấy ruộng đồng, thấy núi Ba Thê vòi või xanh lam cứ mỗi buổi hoàng hôn lại hiện trắng những cánh cò.
Có lẽ chưa lúc nào chị Sứ yêu Hòn Đất oặn lòng như buổi sáng hôm nay. Lúc quỳ trước cái chết lại là lúc chị thấy yêu hơn sự sống, yêu hơn mảnh đất chôn nhau mà mình minh giờ đang trải ra một ngày mới.
ánh nắng lên tới bờ cát, lướt qua những thân tre nghiêng nghiêng, vàng óng. Nắng đã chiếu sáng lòa cửa biển. Và xóm lưới cũng ngập trong nắng đó.
Sứ nhìn những làn khói bay lên từ cái mái nhà chen chúc của bà con làm biển. Sứ còn ngó thấy rõ những vạt lưới đan bằng sợi óng ánh, phất phơ, bên cạnh những vạt lưới đen ngăm, trùi trũi.
Nắng sớm đẫm chiếu người Sứ. ánh nắng chiếu vào đôi mắt chị, tắm rợp mái tóc, phủ đầy đôi bờ vai tròn trịa của chị.
Nhưng tất cả những ánh nắng đó bất thần như động đậy lên cả một lúc. Một loạt súng nổ ran ở phía hang Hòn. Sứ giật mình ngoảnh lại. Súng nổ mỗi lúc một dữ dội. Chị nghe tiếng tiểu liên, tôm-xông bắn ngắt quãng và tiếng súng trường "bầm bầm" nhịp từng phát một. Bọn lính chạy ùa cả ra bờ suối, ngóng về hang Hòn. Mắt Sứ vụt sáng rựa. Ban đầu chị ngờ là tiếng súng của giặc, nhưng giờ chị nhận rõ là tiếng súng của anh em trong hang bắn ra. Chị lắng tai nghe thấy giữa những loạt súng nổ, dậy lên tiếng la chói lói,. văng vẳng. Mừng quá, Sứ muốn tung cả dây tróu mà nhảy lên vỗ tay hoan hô thỏa mãn. Sứ sung sướn nghĩ: "Vậy là anh em còn sống, còn chiến đấu..."
Một thằng lính đứng trên bờ suối vọt miệng:
- Súng nổ "mũng" này thì bữa nay thế nào cũng có khiêng về vài "con" nữa cho coi!
- Nè, saonói tụi nó uống nhầm thuốc độc rồi?
- Biết đâu... Nói vậy chớ có khi tụi nó uống mà không chết. Khúc suối minh mông dài nhằng như vậy mà bỏ thuốc độc thì có ăn thua mẹ gì!
Thằng biệt kích vừa nói xong câu ấy chợt nhớ có mặt Sứ, nó quay lại hầm hầm nhìn chị, giơ ngón tay lên dọa:
- Ê, nói vậy chớ đừng có mừng nghe "em"! Thân "em" như con cá trê bị chặt ngạnh để trên thớt rồi...
Sứ liếc nhìn nó muốn nói lại một câu. Nhưng chị nghĩ: "Nói với nó chỉ uổng lời mình". Thật ra thì chị chẳng mừng cho thân chị đâu. Chị mừng đây là mừng trong hang vẫn nổ súng, nghĩa là anh em vẫn còn sống, còn chiến đấu, chớ không phải để tụi nó vô xách ra, như thằng Xăm vừa nói.
Giữa lúc đó, tiếng súng trong hang đột nhiên im bặt. Lát sau tiếng trung liên rộ lên hàng tràng dài, không ngớt. Sứ biết bọn giặc đang bắn trả lại. Chị nghĩ bụng: "Không lo, giỏi lắm thì cũng như ngày hôm qua hôm kia thôi"
lát sau, giữa tiếng súng hãy còn nỗ giòn giả. Sứ bỗng thấy từ trong vườn dừa nhô ra một tốp lính. Chúng khiêng những tên bị thương xồng xộc ra suối. Tốp lính bên này suôi cũng vừa trông thấy. Thằn ban nãy nói:
- Thấy chưa tụi bây? ... tao đã nói rồi mà!
Tên này vụt chạy xuống sát mé suối , hỏi to:
- Ê, thằng nào đó tuị bây?
Bọn lính đang khiêng không trả lời. Chúng cố rị chân để xuống cái dốc thoai thoải. Tới bờ suối, chúng để lại bọn bị thương xuống cát. Trong số đó có một tên Mỹ đang chòi đạp và rống lên dữ dội. Tụi lính đưa tay vuốt mồ hôi, hổi hển.
- Đ.mẹ trung úy nói tụi nó uống thuốc độcc hết hết rồi... biểu tụi tao vô hang... Mới nhảy vô, tụi nó ở trong xổ ra, chết hết sáu thằng, còn năm thằng bị thương. Có một thằng Mỹ gần xí lắc léc rồi đây nè!
- Bộ tụi nó cũng vô hang sao?
- Không, nó đứng ở ngoài xa, bị lạc đạn!
Bên kia suối, tên Mỹ to lớ đang giãy giụa. Hai tay nó cào cấu, bươi bươi lớp cát. Hồi sau, nó không la rống nữa, chân đạp mạnh mấy cái rồi nghẻo vật đầu sang một bên. Chiếc mũ ba rèm úp chặt lấy mặt nó, tối om om. Tên lính biệt kích cúi xuống để tay lên mũi tên Mỹ. Tên lính kêu lên:
- Nó chết rồi!
- Chết rồi à?
- Hết thở rồi.
Tên biệt kích lặp lại với giọng thản nhiên. nó đứng chàng hãng, hai tay chống mạnh nhìn xác tên Mỹ nằm im dưới đất. Một tên bên này bảo:
- Ê, khiêng nó đưa qua đây đi. Để nó nằm đó lát nữa bị "cạch" da!
- "Cạch" mẹ gì, bộ có mình nó biết chết sao! Khiêng mấy thằng còn sống của mình qua trạm cứu thương trước đã!
Bọn lính xốc khiêng bốn bên ngụy bị thương lội qua suối. máu từ các vết thương của chúng nhểu giọt xuống suối đỏ loang. Lúc chúng khiêng qua mặt Sứ, chị thấy rõ từng giọt máu rơi xuống cát, vấy thành hàng, dẫn rải theo gót chân của bọn lính đang khiêng.
Xác tên Mỹ bên kia bờ suối rồi cũng được bọn lính đưa sang. Chiếc mũ ba rèm trụt khỏi gáy tên Mỹ, rớt lại giữa dòng suối, trôi cuối đi. Sứ thấy lướt qua mặt mình một mớ tóc hoe hoe đỏ, xõa xượi và chiếc mũ khoằm khoằm nhô cao.
Tiếng súng trong hang đã ngớt
Tâm linh Sứ bỗng như báo trước một điều gì ghê gớm sắp xảy đến. Chị chuẩn bị tinh thần sẵn sàng chịu đựng. Lời nói của anh San chợt vẳng lên rất rõ bên tai chị: "Chuyện gì mình cũng có lường tính trước thì tới lúc xảy ra mình vẫn vửng tâm hơn"
Và Sứ bắt đầu thầm nói với chồng:
- "Được rồi, em sẽ làm theo lời anh, anh ơi! Bây giờ, em vững tâm lắm rồi... Chắc lần này em không còn gặp anh nữa. Vậy khi trở về, anh cũng đừng buồn, Em thương cho anh lắm, vì em biết bảy năm qua anh vẫn nhớ tới mẹ con em. Em biết ngày trở về không có em, chắc anh sẽ buồn nhiều. Tha lỗi cho em, nghe anh! Nhưng nếu còn con Thúy, thì anh hãy coi đó là sự đền đáp của tình em. Anh hãy nhìn con, tức là anh nhìn thấy em rồi... Tới giờ phút này, em cũng chưa biết con ra sao, nhưng em tin là con mình còn sống, vì các đồng chí trong hang đều còn nắm chặt tay súng..."
Sứ thầm nói và chị cảm thấy như có chồng đứng bên cạnh mình thực. Rồi chị thủ thỉ với mẹ và em gái:
- "Má, bây giờ má đương làm gì? Má đương dọn vườn hay cho heo ăn? Ba ngày rồi con không thấy mặt má... E con cũng không còn thấy má được nữa... Nếu con chết, má nuôi con Thúy cho con, nghen má! Má hãy coi con Thúy như là con Sứ của má hồi nhỏ. Vậy thì con vẫn còn ở với má hoài chớ con không chết... Em Quyên oi, em xây dựng với Ngạn là phải đó. Ngạn là một thanh niên tốt, một đảng viên tốt. Chị chắc không dự được đám cưới của em. Nhưng không sao, chị vui và tin rằng đời em sẽ sung sướng. Em ráng công tác, thay chị săn sóc má, săn sóc con Thúy. Em thương con Thúy nhiều nhiều cho chị, nghe em út..."
Thổ lộ câu này. Sứ cũng có cảm tưởng rằng mẹ và em gái đang nghe mình nói. Nhớ tới con Thúy, chị khẽ kêu: - "Thúy ơi, con đừng chết, nghen con..." Và rồi chị âu yếm với con trong tưởng tượng. Chị ôm chầm lấy đầu con mà vuốt ve, hôn hít. Nhưng đều là trong tưởng tượng.
Quả nhiên, Sứ lường lính không sai. Việc chị ngờ đến đã đến.
Giữa lúc chị còn mải mê âu yếm với đứa con trong tưởng tượng thì mấy tên lính chạy từ trong hang Hòn về đến suối, lội gấp qua, chạy thẳng đến trước mặt chị. Một thằng mở phăng sợi dây trói buộc ngang mình chị:
- Đứng dậy!
Sứ tính đứng lên, nhưng đứng không được. Quỳ suốt đêm qua tới giờ, chân chị tê hết cả. Tên lính xốc tay chị lôi đi. Hai chân chị bị kéo lết trên sỏi. Xuống tới mé suối, chị vùng vằng:
- Buông tôi ra, để tôi đi!
Tên lính buông tay chị
Sứ co co chân một lúc mới nhón đi được. Chị chậm rãi lội ngang quãng suối mà hồi đêm hôm chị đã lội qua. Đến bờ bên kia, một tên lính khoát tay chỉ vào hang Hòn. Rồi nó đi xốc lên trước. Tên lính đi sau nói:
- Nè, chị biết đắt chị đi đâu không?
- Không
- Thiếu tá chỉ huy kêu đem chị về trỏng đấy. Số mạng chị còn lớn lắm!
Nghe tên lính nói, Sứ nghĩ: "Nó tính làm gì mình? Chắc nó có âm mưu gì đây. Được, cứ đổ coi, làm gì thì làm, tụi mày cẫn là tụi mày, tao vẫn là tao..."
Hai tên lính dắt Sứ vào trong vườn dừa, đưa chị đến trước mặt tên thiếu tá chỉ huy hành quân.
Tên thiếu tá này mặt xương, nước da đen nhánh. Hắn không đội mũ kết gì cả. Có lẽ hắn muốn chưng bộ tóc hớt kiểu tài tử, chải láng mướt, ốp sát vào gáy. Hắn nhịp nhịp trong tay một cái que gỗ đánh "vec-ni" nâu bóng loáng, ở đầu thanh que có bịt bạc (ấy là hắn bắt chước các tên trung tướng tay sai, hồi này đang bắt đầu có cái mốt ra trận không cầm súng mà cầm gậy chỉ huy)
Cùng đứng với tên thiếu tá, còn có thằng Xăm và lũ biệt kích.
Thấy Sứ, tên thiếu tá liền nhìn chị với đôi con mắt lấy lại vẻ nghiêm nghị. Hắn cầm thanh que, khẽ nhịp vào lòng bàn tay trái xòe ra. Sau một lúc ngắm nghía và nhoẻn một nụ cười gian giảo, hắn vẫn cứ nhịp nhịp thanh que vào lòng bàn tay:
- Cha, mặt mày coi sáng sủa như vầy mà lại theo Việt cộng à?
Sứ day nhìn chỗ khác.
- Nghe nói cô có người chồng tập kết, tôi cũng chẳng nói chi, có lẽ tôi còn khen cô nữa đó. Nhưng cô đi theo Việt cộng thì tôi không khen cô đâu. Đi theo Việt cộng là đi vô con đường chết...
Sứ mỉm cười. Nụ cười của chị như nói: "Mày không còn có chuyện khác nữa sao? Chuyện đó tụi mày nhai tới nhai lui tao nghe chán ra rồi, thôi đi!..."
Nhưng tên thiếu tá không chịu thôi. Trái lại, đứng trước Sứ hình như hắn muốn trổ tài. Hắn ba hoa một lúc về chủ nghĩa "nhân vị", về "đồng tiến xã hội", về lực lượng hùng hậu của "chính phủ quốc gia" do Ngô tổng thống lãnh đạo mà những người lính chiến như hắn là những người tiêu biểu. Cuối cùng, hắn kết luận:
- Cô đừng có trông đợi gặp chồng cô cho mất công. Không có thống nhất đâu. Còn chúng tôi và còn nước bạn Huê-Kỳ thì ở đây không có thống nhất gì ráo!
Về điểm này, chị Sứ không nhịn được nên chị trả lời:
- Tụi Mỹ với mấy người thì tính như vậy, nhưng nhân dân thì tính khác. Nhân dân tính sớm muộn gì cũng tiêu diệt mấy người, để có thống nhất!
Nghe Sứ nói, tên thiếu tá trố mắt, cười hẹ hẹ:
- Tiêu diệt tụi tôi? Chừng nào mới tiêu diệt được tụi tôi?
Hắn vung tay chỉ về phía miệng hang:
- Cô cứ coi kia, tụi đồng chí của cô trong hang cao lắm thì ngày mai cũng phải bò ra. Có mấy đứa với mất cây súng quèn mà đòi tiêu diệt...
- Anh em tôi trong hang chưa bò ra đâu!
Nụ cười gian giảo vụt tắt trên khuôn mặt thằng thiếu tá. Mặt hắn dần dần tái sạm lại. Hắm im đi một lúc để nén cơn giận, rồi day qua hỏi bọn lính:
- Đem máy nói lại chưa?
Bọn lính bảo rằng máy nói đã đem ra, và dây điện cũng xong. Tên thiếu tá khoát tay:
- Thôi, dắt nó đi!
Bọn lính biệt kích của thằng Xăm đẩy chị Sứ chúi nhào về phía trước. Tên thiếu tá và thằng Xăm xồng xộc đi theo sau lưng.
Một thằng thiếu uý tâm lý chiến mặt non choẹt, lấm chấm đầy mụn, tay cầm chiếc ng chực sẵn.
Tên thiếu tá bước lên sát chị Sứ:
- Nãy giờ tôi nói chuyện hòa nhã với cô, bây giờ thì tôi nói chuyện cứng rắn. Nghe tôi hỏi đây, bây giờ cô muốn sống hay chết? Nếu cô muốn sống, tôi hứa đảm bảo cho sống, nếu cô muốn chết tôi sẵn lòng cho cô chết trong nháy mắt. Cô trả lời đi, trả lời liền đi!
Chị Sứ nhìn thẳng vào mặt hắn. Lát sau, chị nói:
- Sao tôi lại muốn chết? ở đời đâu có ai muốn chết!
Nụ cười tái hiện trên đôi môi của thằng thiếu tá:
- à, tè ra cô cũng muốn sống...
Hắn cầm thanh que trỏ về phía miệng hang:
- Dễ thôi. Chỉ cần cô cho tôi một câu: cô hãy nói với tụi trong hang rằng cô đã đầu hàng, và kêu gọi tụi nó ra đầu hàng như cô... Cô hãy nói rằng tụi tôi đối xử tử tế với cô, đối xử tử tế với bất cứ ai bỏ súng xuống, đi ra khỏi hang... Được chớ?
Tên thiếu tá dừng lại, chờ đợi. Trong lúc ấy, tên thiếu úy tâm lý chiến cầm cái mi-crô bước nhón tới, để cái micrô lên ngay trước mặt chị Sứ. Đồng thời, thằng Xăm cũng đả rút soạt lưỡi dao "cúp cúp" Mỹ đeo lên hông bước thoắt đến đứng sát một bên Sứ. Tên thiếu tá chắp tay sau lưng, mắt dõi cử chỉ của Sứ. Hắn tin rằng chị sẽ khuất phục trước cái chết. Hắn tin chắc như vậy, vì thể theo bụng dạ của hắn, thì nếu lâm vào cảnh ngộ này, hắn sẽ còn làm hơn thế nữa để được sống. Vả chăng trước mặt hắn, chị Sứ là người phụ nữ, mà chị lại là một phụ nữ có nhan sắc, thì lẽ nào chị có thể cưỡng lại sự sống hay sao. Chính hắn, hắn còn tiếc thay huống hồ là chị.
Nhưng chị Sứ vẫn đứng yên, chị nhìn chiếc micrô bằng bụm tay, mặt lỗ chỗ như tổ ong, bụng nghĩ nếu mình nói vào đây tất tiếng nói sẽ lớn hơn. Nhìn về phía miệng hang, chị biết rõ từng anh em lúc nào cũng có mặt đó, và nếu chị nói, anh em đều có thể nghe thấy cả.
Tên thiếu tá sốt ruột hất hàm hỏi:
- Sao? Chịu hay không, trả lời đi!
Chị Sứ bước lên một bước, gật:
- Được, để tôi nói!
5.
Trong hang, anh em vẫn ghìm súng đợi. Sau lúc địch xộc và rồi bị đánh bật ra, chúng không xộc vào nữa. Đã gần một tiếng đồng hồ rồi, địch không mở thêm một trận tấn công nào mới. Nhưng anh em vẫn ngó thấy chúng còn lố nhố, thấp thoáng qua lại trong vườn dừa, cho nên anh em vẫn ở nguyên chỗ cũ súng không rời tay.
Ngạn nói với anh Hai Thép:
- Sợ chị Sứ bị bắt hay bị tụi nó bắn chết rồi quá!
- Có thể bị bắt. Hồi đêm đâu có nghe tiếng súng nổ!
Anh Hai Thép đáp thế và im lặng. Suốt đêm qua cho tới sáng nay, người lãnh đạo cuộc chiến đấu này bị đặt trước những sự biến không ngờ. Đêm qua, cô Nhớ sau khi đưa nước về tới hang, liền ôm bụng kêu đau và một lát sau mặt cô tái nhợt, người toát đầy mồ hôi lạnh, Anh Hai sinh nghi, hỏi cô có uống vốc nước suối nào không. Cô đáp là có. Vừa đáp xong, cô liền ngã vật xuống. Anh Hai lập tức thọc tay chọc cổ cô. Năm Nhớ ói ra một bãi nước lõng bõng, vàng lè. Từ bãi ấy xông lên một mùi nồng nồng rất khó chịu. Anh Hai Thép kết luận rằng địch đã đầu độc suối, chính Năm Nhớ đã uống phải vốc nước suối có thuốc độc rồi. Nhưng nhờ kịp thời là, cho Năm Nhớ nôn tháo nên cô nằm mê man một lúc thì tỉnh lại. Cái cà om nước của Năm Nhớ đem về lập tức bị đổ bỏ. Thế là trong hang vẫn ở trong cá tình trạng thiếu nước như cũ. Hơn thế, trong chuyến đi lấy nước, chị Sứ đã bị mất tích. Sứ không trở về, việc đó làm cho tất cả hang suốt đêm qua không ai ngủ được. Vào lúc nửa đêm, con Thúy giật mình thức giấc trên phiến đá, kêu: "Mà, má ơi!", rồi không có tiếng má nó đáp và ôm lấy nó như mọi khi, nó òa khóc. Quyên phải đến dỗ cho nó ngủ lại. Nhưng sáng ra thì con bé khóc thực sự, vì nó đi kiếm khắp hang mà chẳng thấy má nó đâu cả. Quyên phải nói dối má nó đi công tác ra ngoài xóm.
Việc chị Sứ đi lấy nước không trở về khiến cho cả hang hết sức lo lắng. Phải chi chính mắt họ trông thấy chị bị bắn chết thì sự việc cũng là rõ ra. Đằng này họ không biết cái gì đã xảy đến với chị. Đêm hôm qua, khi Trọng và anh Ba Rèn về tới hang, thấy thiếu Sứ, hai anh liều quay lại, nhưng không tìm gặp chị. Lượt sau chính Ngạn xách súng cùng hai anh đi kiếm chị nữa. Họ mõ mẫm, sờ soạn từng gốc dừa, ngờ rằng chị đang nằm mê man bất tỉnh cạnh một gốc dừa nào đó ở lối đi lấy nước, vì họ ngờ chị cũng có thể vốc nước suối mà uống như cô Năm Nhớ. Nhưng rồi cả Ngạn cũng thất vọng. Anh đã quần giáp một khu vườn mà vẫn không thấy gì cả.
Đêm hôm qua, có thể nói là một đêm mà cả hang thấp thỏm, lo âu. Mất chị Sứ ai cũng cảm thấy như mình có lỗi, và lòng cứ dấy lên sự nhức nhối, hối hận. Ai cũng tưởng như chính mình phải gánh lấy trách nhiệm ấy. Dộu rằng trong cuộc chống trả này, chị chưa trực tiếp cầm súng, nhưng chị đã lo cho họ từng miếng ăn, giọt nước. Có chị là có sự chăm sóc, có những bước đi nhẹ nhàng không động, có sự dịu dàng đưa cho, và là vì từ **** lớn thành người con gái, chị đã để lại trong lòng họ nhiều tình thương mến. Cũng giống như dòng suối, lá cành, hoa quả, chị Sứ như thuộc về Hòn Đất, không tách ra được, chị thuộc về niềm hãnh diện của xóm làng, kể cả sắc đẹp lẫn tính tình. Hơn nữa, chị còn là tấm gương chung thủy, là một người phụ nữ ôm riết lấy xóm làng đó, bà con đó, mà vượt qua mọi điều thử thách.
Anh Hai Thép lòng giày vò hối hận vì đêm qua đã để Sứ đi, mặc dầu anh thấy rằng mình nghĩ như thế là không được. Trong chuyến đi lấy nước ấy, nếu không là chị Sứ thì là người khác, và rốt cuộc cũng sẽ có một người gặp nạn cũng đều gây ra tổn thất trong lòng anh. Tuy nhiên, việc không may xảy ra với chị Sứ làm cho người bí thư này bị bứt rứt, giày vò hơn. Nếu như trong những năm gian khổ, mọi người đều phải vất vả của người vợ trẻ có chồng tập kết. Cũng cách đây hai hôm, Sứ đã đưa cho anh em lá thư của chồng từ miền Bắc gởi về, Anh còn nhớ rõ lúc đưa thư cho anh, mấy ngón tay của Sứ run quá và anh thấy đôi mắt Sứ lúc ấy ánh lên biết bao hy vọng. Nhớ lần sau lúc chị bị bọn trên quận bắt, Sứ đã bảo với anh: - "Em không tiếc cho thân em đâu, rủi em có chết em cũng không tiếc, chỉ thương cho con Thúy, với lại em chết thì tội nghiệp cho anh Ba. Thống nhất trở về không có em, thế nào ảnh cũng buồn nhiều".
Anh Hai Thép đã từng thấy trong những lúc cách mạng gặp khó khăn, có những người phụ nữ như thế. Họ muốn giữ mình được mãi mãi trọn vẹn là một đứa con gái yêu của Đảng, của chamẹ, của quê hương. Và đồng thời họ cũng cố sức giữ sao cho tấm thân mình được trinh nguyên, để khi đất nước được thống nhất, họ vẫn dành cho chồng mình những điều hạnh phúc. Thật không ai tin tưởng thống nhất và đấu tranh chờ đợi cái ngày ấy bằng họ.
Trong số phụ nữ đó, nổi rõ lên trước mặt anh là Sứ. Đêm hôm qua, anh đã nghe con Thúy giật mình cất tiếng gọi mẹ. Suốt từ đấy, anh cảm thấy gánh nặng của cuộc chiến đấu như càng đè trĩu lên vai anh. Đến sáng, khi nỗi lo của anh chưa trút được thì súng lại nổ. Anh chạy ra miệng hang. Cũng như những lần trước, lần này anh em đã đánh bật chúng nó ra ngay tức khắc. Có điều hơi lạ là sáng nay chúng xộc vào hang rất táo bạo. Vì thế mà chúng nằm lại trước miệng hang cũng nhiều hơn. Phần đông chúng đều nằm lật ngửa. Có tên chưa chết, chân duỗi soàn soạt, kêu hồng hộc như heo bị thọc huyết. Cuối cùng chúng nó cũng không còn kêu nữa.
Từ bấy đến giờ, anh em đón đợi chúng đột nhập lần thứ hai, nhưng vẫn chưa thấy chúng động tĩnh gì. Từ khi rút ra, chúng chỉ quạt trung liên vào chớ không thấy bóng một đứa nào xông vào hết. Anh Hai Thép luôn nhắc:
- Phải luôn luôn sẵn sàng. Có thể tụi nó tính mưu kế gì mới.
Nắng đã lên. Quyên đả đem túm gạo rang ra, đi đến từng chỗ phân phát cho anh em. Những tên giặc trước hang đều đã chất hẳn. Chúng nằm im, phơi mặt dưới ánh mặt trời. Trong vườn dừa, bọn giặc đi qua đi lại, lóng ngóng, nhấp nhỏm. Lâu lâu, chúng lại xổ vào miệng hang một băng trung liên. Rồi lại yên lặng. Có thể nghe thấy tiếng chim bắt đầu kêu chin chít, tiếng sóc chạy sột soạt trên các tàu lá dừa, và xa hơn là tiếng rì rào của sóng biển. Phút giây yên tĩnh này thật là căng thẳng, nó không cho mọi người nghỉ, cứ bắt mọi người phải để tay nơi cò súng. Và nếu những bóng xám đột nhiên lại xuất hiện ở cửa hang, thì sẽ không có chút yên tỉnh nào nữa. Súng sẽ nổ và những bóng xám sẽ quỵ xuống.
Anh em cầm súng ngồi sau các hốc đá ngày càng tin chắc hơn, rằng bọn giặc không thể nào lại có thể tránh được những phát đạn của họ. Cửa hang như một khoảnh định rất chuẩn xác, chỉ cần họ bình tĩnh mà bắn thì thế nào họ cũng bắn trúng. Càng ngày cái hang càng lộ rõ lợi thế cũng như nhược điểm. Lợi thế ấy là địa hình phòng ngự vững chắc. Nhược điểm ấy là thiếu nước. Chính vì vấn đề nước mà Năm Nhớ suyết chết, còn chị Sứ không trở về. Ngay bây giờ, ai cũng thấy họng mình khô khốc. Sau lần chiến đấu, mồ hôi lại đổ, cái khát càng dày vò mọi người dữ hơn. Anh Ba Rèn cứ rít lên từng chặp:
- Thiệt là quân chó đẻ! Tới suối nước mà nó cũng bỏ thuốc độc.
Anh chửi luôn mấy câu rất tục, bất chấp sự có mặt của Quyên ở đó, rồi thề rằng tên giặc nào bây giờ nhảy vô mà anh bắn hụt nó thì anh không phải là con người. Anh lại vung tay đấm vô ngực mình, vật vã oán mình sao hồi đêm mình lại không đi cản hậu.
- Tôi cứ ngỡ là tụi tôi đi đầu, nếu có đụng tụi nó thì đụng trước.
- Cũng tại tôi - Anh Hai Thép nói - Tại tôi không lường tới chỗ tụi nó bỏ thuốc độc. Đáng lẽ thì phải lường được hết sự hung ác của tụi nó, đằng này...
Chưa nói hết câu, chợt anh Hai dừng lại. Bên ngoài vụt có tiếng gì "rè rè", và tiếng loa phóng thanh đột ngột cất lên:
- a-lô! Nghe đây, nghe đây!
Tất cả đều nín im. Tiếng loa vọng vào hang ồm ồm:
- Quân đội Việt Nam Cộng hòa loan báo cho các phần tử Việt cộng trong hang được rỏ, cô Nguyễn Thị Sứ là đồng bọn với các người, nay đã lọt vào tay quân đội và đã quy thuận chánh nghĩa quốc gia. Sau khi đã quy thuận, nay cô Sứ có lời nói chuyện với các người...
Tiếng loa ngưng lại. Máy nói kêu khọt khẹt. Trong hang, mọi người sửng sốt ngó ra. Nhưng họ không thấy gì cả. Bọn giặc đặt cuộc nói chuyện ấy ở một nơi mà tầm súng trong hang không thể bắn ra được. Cặp mắt người này nhìn người kia, như hỏi nhau rằng có cái tiếng loa ấy thật không, hai tai mình nghe lầm. Không ai tin ở tai mình nữa. Nhưng sự thực là ai cũng nghe thấy. Không thể ngộ nhận về tiếng loa ấy được. Lúc đó, Quyên mới vốc một vốc gạo rang định đưa cho Ngạn là người cô phân phối sau cùng, thì chợt nghe tiếng loa. Tay cô lẫy bẩy buông xòa vốc gạo đổ xuống lòng bàn tay Ngạn. Mặt cô tái hẳn lại. Cô đứng im, mắt mở to đầy vẻ kinh hoàng, môi dưới của cô giựt giựt luôn mấy cái, tưởng chừng cô sắp òa lên khóc. Nhưng không, cô cắn chặt lấy môi dưới đang giựt giựt đó, hai bàn tay từ từ nắm chặt lại, và vẫn đứng im. Cô lặng người đi mà đợi một sự việc ghê gớm xảy đến. Chưa bao giờ Ngạn thấy Quyên hoảng sợ run rẩy đến tội nghiệp như thế. Bất giác Ngạn nhớ đến sự hiểu lầm của Quyên trước kia đối với anh, và anh tưởng như thấy lại được phần nào cái dáng dấp vật vã đau đớn của Quyên dạo nọ.
Anh Hai Thép cau mày nhìn ra cửa hang. Anh cũng không nhìn thấy gì. Anh nghĩ: "Rõ ràng là Sứ bị bắt cưỡng ép, nhưng lẽ nào Sứ lại nghe theo sự cưỡng ép của tụi nó. Không, không bao giờ Sứ lại như thế... Nhưng biết đâu được... Cô ta còn trẻ, còn con nhỏ, còn mẹ, còn nhiều cái ràng buộc với sự sống. Nếu cô ta nghe theo tụi nó mà nói những lời phải bội nthì thật hết sức tai hại. Chắc chắn sẽ ảnh hưởng không tốt đến cuộc chiến đấu đang giữa lúc gay go. Nhất là Sứ, người mà ai cũng thương cũng quý. Lời nói của một người như Sứ lúc này rất hệ trọng..."
Tiếng khọt khẹt phát ra từ cái micrô kia đã dứt. Giọng nói ồm ồm của tên giặc giờ lại hăm hở sủa vào máy:
- Các người trong hang chú ý, chú ý! Đây, tiếng nói của chị Nguyễn Thị Sứ...
Mọi người trong hang đều nhìn ra. Đây cũng là những phút giây chờ đợi căng thẳng, thử thách. Nhưng mọi người không phải đợi lâu. Ngoài kia đã vọng vào tiếng nói hết sức quen thuộc, ai cũng nhận ra ngay là tiếng nói của Sứ:
- Thưa các đồng chí, tôi là Sứ đây...
Tiếp đó, bỗng chị vụt nói rất nhanh:
- Các đồng chí đừng tin, tụi nó nói láo, tôi không bao giờ đầu hàng. Các đồng chí ơi, đừng uống nước suối, đừng bỏ súng. Trong đó còn mạnh giỏi hết không, con tôi còn sống không? Nếu còn thì bắn một phát súng cho tôi mừng!...
Mấy lời cuối cùng chị Sứ nói sao mà vội vã, sao mà dồn dập, khẩn thiết! Tiếng chị như gào lên trong máy, cấp bách, dữ dội.
Mọi người trong hang đều ngẩng mặt, đứng hết cả dậy. Trên những khuôn mặt ấy bỗng chãy ròng nước mắt. Anh Ba Rèn nhảy phắt ra giữa hang. Anh xoạc chân đưa khẩu ga-răng lên vai, bắn chĩa ra ngoài luôn ba phát "bầm, bầm, bầm"...
6.
Nghe Sứ nói đến đấy, thằng thiếu tá tái mặt chửi lớn. Thằng Xăm thì co chân đá chị ngã chúi xuống rồi nhảy lên người chị, giẫm đạp. Nhưng huyền diệu thay cho cái tiếng súng. Nó làm rạng rỡ khuôn mặt đang áp sát đất của chị Sứ. Hình chị như không hề bị đạp tá. Chị sung sướng quá, chị mừng quá. Tiếng súng đã đáp lời chị, đáo lại hy vọng sau rốt mà chị hết lòng mong mỏi. "Như vậy là vẫn còn, vẫn còn sống!" Chị nghĩ thế và gượng nhổm lên, nhìn vào hang Hòn. Đôi mắt chị mở to ngoái nhìn về cái hang ấy. Có thể là chị nhìn qua cái hang ấy. Trong đôi mắt có ánh vui mừng, ánh cháy bỏng, đau đáu. Đôi mắt đó lưu luyến không nỡ rời, ngập ngựa những yêu thương, những hy vọng, vừa mãn nguyện vừa căm oán, vừa sung sướng nhưng lại vừa mông mênh cái đau giã biệt. Cho nên đôi mắt đó vốn đã đẹp nay càng tuyệt đẹp.
Tên thiếu tá hạ lệnh:
- Treo nó lên cây! Treo nó lên dừa ngã kia kìa, cho đồng bọn nó được ngó thấy!
Ba bốn tên biệt kích xông tới, túm lấy Sứ, lôi Sứ dậy. Chùng dùng một sợi dây dài buộc thêm vào hai khuỷu tay đã bị trói của chị. Thằng Xăm co ro cánh tay, dớn dác chạy tới ngắm nghía một cây dừa ngã xoài thân trước mặt hang. Hắn nói:
- Treo nó lên!
Hắn hất hàm sai một tên lính có đeo dao:
- Mày leo lên vạt một cái khất để tròng dây cho khỏi tuột. Mau đi
Tên lính nghe lời thằng Xăm, leo lên. Leo được nă, sáu thước, tên lính rút dao chặt bồm bộp vào thân dừa. Thằng Xăm đứng dưới ngước nhìn. Khi tên lính đả chặt được một khắc quanh thân dừa, thằng Xăm nói:
- Thôi, được rồi, xuống đi!
Tên lính ném lưỡi dao, tuột xuống. Hắn vừa tuột xuống gần tới gốc thì thằng Xăm chộp mối dây buộc Sứ đưa cho hắn, bảo hắn leo trở lên mắc vào cái khấc mới vạt đó.
Bọn lính giữ chặt lấy Sứ. Hai tên đứng đón mối dây, sửa soạn kéo sểng Sứ lên.
Sứ nói:
- Tụi mày treo tao lên thì anh em tao ở trong hang có thể ngó thấy tao, nhưng anh em tao càng thêm căm thù tụi mày chớ không sợ tụi mày đâu!
Lời nói của Sứ làm hai tên lính cầm mối dây ngần ngừ chưa kéo. Thằng Xăm tức giận nạt:
- Kéo!
Hai tên lính giật mình kéo rị mối dây...
Chúng còn ghì chân Sứ để chị không vùng vẫy được. Lúc chân Sứ đã bị kéo khỏi mặt đất, bọn chúng mới bỏ ra. Một tên không may bị Sứ xỉa trúng ngón chân vào mặt. Nó bưng mặt la lên:
- Đ.mẹ, con nhỏ này dữ quá!
Sứ bị sợi dây kéo lên mỗi lúc một cao, lơ lửng, nghiêng nghiêng. Hai bắp tay trần trắng tươi của chị bị sợi dây rút ngược, tréo ngoặt... Đây là đôi tay đẹp đẽ và mát rượi. Đây là đôi tay làm lụng và vén khéo. Đôi tay này đã có khi rụt rè, đã nhiều lần âu yếm, đã có lúc run lên ôm lấy chồng, ôm lấy con, mẹ và em, cô bác và đồng chí. Nên đôi tay đó bị trói ngoặt trông sao mà tàn nhẫn, trông mà uất, mà thương. Sợi dây tàn bạo cứ kéo lấy đôi tay, lôi sểnh tấm thân mảnh khảnh. Trên tấm thân đó cái gì cũng mịn màng, từ mái tóc rủ gần tới gót chân, từ khuôn mặt tái đi vì đau đớn, từ bộ ngực căng căng sau lần áo lụa đen mỏng. Sợi dây tàn bạo kéo lên không trung người con gái xứ Hòn, người con gái miền Nam, đã một lần sinh hạ, ngóng trông, chung thủy. ở đây, trong lúc này, cái gì cũng tàn bạo. Từ đường dây đó, từ những tên giặc đứng bên dưới đó, ngoại trừ ánh mặt trời và cây cối. ánh nắng xuyên qua lá dừa mà gội đẫm mái tóc tốt dày của Sứ, gội tờ đầu đến chân Sứ. Và làn gió sang xuân, và hơi thở của biển. Sứ vẫn phân biệt được làn gia man mác của đồng bội và hơi gió biển mặn mòi, âm ấm. Trong lúc đôi cánh tay đau điếng, trái sái, Sứ cố nhìn tới hang Hòn bị những tàu lá dừa che xõa. Ôi, sao làn gió không thổi vẹt những tàu lá nọ, để may ra vào những giờ phút quý báu này, chị có thể nhìn thấy những bóng người thương mến! Biết đâu chừng chị có thể nhìn thấy Quyên đang cõng con Thúy? trời ơi, giá mà giữa lúc này chị được nhìn thấy con Thúy, dù là chỉ nhìn thấy nó một thoáng mà thôi! Trong phút chốt, Sứ nhớ lại đêm hôm qua. Chị nhớ đôi bàn tay bé bỏng của con bám riết lấy vai chị. Lúc rời phiến đá, chị đã dừng bước như thế nào, chị đã cảm thấy có một sức mạnh vô hình trì níu chị lại như thế nào. Chị nhớ mình đã cởi áo đắp cho con. Phải rồi, đó chính là những phút giây sau rốt, gần nhất, giữa chị và con. Đó chính là cái mốc của tình mẫu tử, cũng như đêm rạng ngày anh San lên đường tập kết và cái mốc gần nhất của tình chồng vợ mà chị hằng ghi dấu.
Sứ nhớ từ hai cái mốc ấy nhớ đi. Chị tự nhủ: "Bữa nay, có lẽ mình chết. Nhưng mình chỉ thấy tiếc chớ không ân hận, mắc cở gì cả... Tới phút này đối với Đảg, mình vẫn y nguyên, như chị Minh Khai, như Võ Thị Sáu... nên từ phút này trở đi, mình cũng phải giữ được như vậy..."
Bị treo lơ lửng giữa cây dừa lão ngã rạp, Sứ luôn chuẩn bị tinh thần kiên trì cho tới cùng. Nhưng chừng hai mươi phút trôi qua mà bọn giặc không đả động gì thêm. Thằng Xăm bỏ đi đâu một lúc, giờ mới quay lại. Hắn đứng bên dưới, ngước mắt, ngó chị lườm lườm. Rồi hắn rảo bước tới lui, vẻ nôn nóng như chờ đợi một cái gì. Thằng thiếu tá thì nửa ngồi nửa nằm, lưng dựa vào một gốc dừa. Hắn cắn cái ống đót bằng ngà, nheo nheo mắt nhìn Sứ, qua làn khói mà hắn nhả ra không ngớt.
"Nó tính làm gì mình nữa đây?" Sứ lại tự hỏi. Và chị lo sợ nghĩ đến một việc mà chị ngờ rằng bọn giặc có thể làm. "Trời ơi, nếu tụi nó đem má mình tới... Đừng... đừng, má ơi, má đừng tới đây!..."
Sự hồ nghi của Sứ không sai. Khi chị mới ngờ và kêu lên trong lòng như thế, thì lúc ngoái nhìn ra sau, chị đã trông thấy mẹ. Bà đi giữa hai tên biệt kích. Vẫn cái dáng gầy gầy, hiền hậu, quen thuộc ấy. Vẫn chiếc khăn rằn đỏ vắt vai và bộ quần áo tơ dệt ngả màu. Nhưng không phải chỉ có mỗi mình mẹ. Đằng sau có tiếng ồn ào của đông đảo bà con và tên lính biệt kích cứ đi day lui, tay ghìm khẩu cạc bin. Rồi một toán lính giăng ngang lối đi thành một cái hàng rào. Tên thiếu tá dụi dụi cái ống đót xuống rễ dừa, đứng bật dậy hỏi:
- Cái gì đó, cái gì mà họ la ó rần rần vậy?
- Thưa thiếu tá, họ đòi thả bà già. Họ nói bà già không cọ tội gì, tại sao lại vô cớ bắt bà?
Tên thiếu tá bảo một tên thiếu uý đứng cạnh: - Anh cho chặn họ lại. Không được để họ tràn lên, nghe chưa?
Rồi hắn bảo tên Xăm:
- Dắt bà già đó lên cho bả giáp mặt với con bả đi!
Thằng Xăm bước tới trước mặt mẹ Sáu, khoát tay chỉ về phía cây dừa treo Sứ:
- Con của bà nó cứng cổ lắm, nên nó đã bị treo lên kia kìa! Bà tới nói phải quấy cho nó nghe đi! Ông thiếu tá hứa nếu bà nói nó ưng chịu đầu hàng và kêu gọi tụi trong hang đầu hàng thì ổng cho hạ dây thả nó liền.
Thằng Xăm nói chưa hết câu, mẹ Sáu đã dang tay vẹt mấy tên lính trước mặt, chạy nhào về phía Sứ.
Sứ trông thấy đôi tay nghều ngào, mái tóc bạc trắng bay xõa của mẹ. Và chiếc khăn rằn đỏ trên vai mẹ chị rơi xuống đất. Còn mấy bước nữa đến chỗ Sứ, mẹ không đi được nữa, chân mẹ lóng cóng, khuỵu xuống. Nhưng mẹ nhổm lên, chạy tới. Cuối cùng, Sứ nhận ra đôi tay mẹ lập cập quàng lấy bắp chân mình, ôm riết. Rồi đầu mẹ, mặt mẹ giúo vào chân chị. Liền đó, chị nghe sao bắp chân mình ướt nóng, giàn giụa. Tiếng mẹ chị bắt đầu nấc lên ở bên dưới, nghẹn tắt. Sứ mở to mắt, nhìn xuống mái tóc bạc phơ và đôi vai gầy của mẹ đang rung rung. Lòng đau điếng, Sử ngoảnh nhìn nơi khác. Đôi mắt Sứ vụt đỏ hoe, không chớp. Nhưng Sứ cố nén, để nước mắt khỏi trào ra. Sứ muốn khóc, nhưng chị cưỡng lại. Chị không muốn để bọn giặc hiểu lầm một lần nữa, và để mẹ mình khỏi đau đớn thêm. Chị hồi hộp mong sao mẹ đừng thốt một lời nào, đừng nói một tiếng nào. Giữa lúc này, chị mong mẹ cứ im lặng, và thương chị, mẹ hãy cứ ôm chị thế đó, như ngày nào chị còn bé dại. Như chị cũng đã tính, nếu như vì quá thương chị mà mẹ lỡ nói với chị lời nói không phải, thì chị cũng không nghe theo đâu. nhưng như vậy ắt chị sẽ đau đớn. Thật là chưa bao giờ, chưa lần nào Sứ phải riết giữ lòng mình một cách quyết liệt đến thế. Cũng chưa lần nào chị có cái cảm giác xao xuyến lạ lùng đến thế. Đôi tay đó, khuôn mặt đó giờ đang áp vào chân chị, truyền khắp người chị một tình yêu giãy giục.
Hơn cả con mình, mẹ Sáu còn oằn oại gấp bội. Hai mươi bảy năm đẻ con ra và nuôi con lớn lên, mẹ đã nặn vắt từng giọt sửa, chắt chiu từng tấm áo. Đôi chân thon thả treo lư lửng này đây, chính mẹ là người trông thấy nó cất bước đi chập chững đầu tiên. Còn suối tóc mượt mà rủ xuống tới vai mẹ đây, chính mẹ cũng đã vuốt ve khi nó hảy còn lơ thơ bệt dính trên đầu. Rồi những tiếng ngọng nghịu, rồi những ngày mẹ lâm vào cảnh góa bụa, chính đứa con gái này đã cảm hiểu và đỡ đần cho mẹ nhiều nhất trong những năm tháng gieo neo. Mà lúc lớn lên, đứa con ấy nào có sung sướng gì cho cam! Nó lại cun cút nuôi con. Đới mẹ thế nào, đời con gái lớn mẹ cũng thế ấy. Một đứa con như thế mà lại phải dứt ra, mẹ Sáu không đau lòng sao cho được!
Nhưng muốn giữ lấy con, mẹ càng không thể nói những lờn bọn giặc buộc mẹ nói.Thiêng liêng hơn đứa con mang nặng đẻ đau đó còn cả xóm làng này, còn cả cái hang đang chống trả quyết liệt này. Thiêng liêng hơn đứa con của mẹ là cuộc cách mạng mà mẹ suốt đời tin tưởng và gắn bó.
- Bà già, bà nói đi! Nếu bà muốn cho con bà sống thì bà nói sao cho nó nghe đó thì nói!
Thằng thiếu tá đứng bên lại nhắc. Đôi chân hắn rậm rịch cứ như dẫm lên ổ kiến lửa. Thình lình, Sứ bỗng thấy mẹ buông rời chân mình ra. Mẹ chị day qua phía thằng thiếu tá. Sứ nghe rõ từng tiếng mẹ mình nói:
- Con tôi lớn rồi, nó có khí khôn của nó... ý nó muốn sao xin cứ để nó liệu lấy!
Nghe mẹ nói thế, Sự chịu không nổi nữa, nước mắt chị trào ra, chảy ròng ròng. Chị vặn mình trên dây la lớn:
- Cởi dây cho tao xuống, mau đi!
Tên thiếu tá nhìn thằng Xăm, nháy mắt. Thằng Xăm ướm hỏi:
- Sao, chịu rồi hả?
- Được rồi, mở dây cho tao đi! - Sứ nói
- Mở dây cho nó... tụi bây. Đem micro lại đây!
Bọn lính tháo dây buộc nơi cái cọc cặm bên dưới. Sợi dây từ từ buông hạ Sứ xuống. Người chị nghiêng nghiêng, trông chừng không thể đứng được. Bà mẹ giơ cả hai tay đỡ lấy con. Do đó, lúc chân Sứ mới chạm đất, thì đầu chị đã áp vào vai mẹ. Rồi cứ thế, chị ôm chặt lấy mẹ. Chị hôn khắp khuôn mặt nhăn nheo giàn giục nước mắt của mẹ. Chị hôn gấp gấp và sau rốt chị chỉ nghẹn ngào thốt được một câu đứt quãng: - Mà, má... má nuôi con Thúy cho con nghe má!...
Tên thiếu tá bước tới, tách bà mẹ ra khỏi Sứ. Hắn nói:
- Thôi, đủ rồi, bấy nhiêu đủ rồi!
Hắn đưa hai tay chỉ về phía tên thiếu ủy tâm lý chiến đang cầm micro chực sẵn bảo Sứ:
- Nói đi!
Sứ hỏi:
- Nói sao?
- Nói như lần đầu tao biểu, kêu mấy thằng đó buông súng đầu hàng. Cứ vậy mà nói!
- Mở trói cho tao đi!
- Không. Nói rồi sẽ mở trói!
Sứ không thốt thêm một lời nào nữa. Chị bước tới và nhanh như cắt, chị co chân đá thốc cái micro trên tay thằng thiếu úy. Chiếc micro văng hắn đi, lôi thốc theo cả sợi dây điện. lăn lông lốc.
Tên thiếu tá kêu ré lên một tiếng như bị ai bóp cổ. Hắn nhảy tới, đấm túi bụi vào mặt Sứ. Bà mẹ xổ vào. Hắn vung tay gạt mẹ ngã quay lơ ra, la lớn:
- Xăm chặt đầu con nhỏ này cho tao!
Thằng Xăm rút soạt lưỡi "cúp cúp" sáng loáng xông tới như một con thú. Hắn co thúc cánh tay bị thương sát vào bụng, vung dao lên chém mạnh vào gáy Sứ. Nhưng kỳ lạ quá, nhát dao đầu tiên đó mới chạm vào bỗng thấy bật trở lại. Thằng Xăm chém tiếp hai nhát thiệt mạnh nữa. Đầu Sứ chỉ chúi giật tới trước. Cả ba nhát dao đều chém không đứt đầu chị. Thằng Xăm chùn tay, thở hồng hộc. Hắn liếc nhìn lưỡi dao, ngờ vực. Nhưng đây nào phải vì lưỡi dao Mỹ không bén! Đây tại bởi tóc chị Sứ dày quá. Đây chính bởi lưỡi dao chạm phải một suối tóc tốt tươi nhất, suối tóc của hai mươi bảy tuổi đời con gái, vừa mượt vừa dày, gồm muôn ngàn sợi bền chặt rủ từ đỉnh đầu bất khuất đó tủ chấm xuống sát đôi gót chân bất khuất đó.
Bà mẹ đã ngất đi trên bãi cỏ.
Mãi khi hai tên biệt kích xông vào phụ lựa, hè hụi chụp tóc Sứ kéo ngược ra phía trước, thì thằng Xăm mới chém một nhát trúng gáy Sứ. Nhưng chị vẫn chưa chết. Thằng Xăm vung dao lên định chém nữa thì bỗng tên thiếu tá giơ tay ngăn lại:
- Thôi đừng, đừng chém, treo nó lên!
Bọn giặc lại rút Sứ lên thân dừa, tên thiếu tá hậm hực nói:
- Để nó ngắc ngoải như vậy, hay hơn. Để nó rên cho thấu tới tai tụi trong hang!
... Sau khi chém đến dao thứ tư, thằng Xăm bỗng liệng dao ôm vai lảo đảo đi tới bên gốc dừa. Hắn tựa lưng vào thân dừa, mở cúc sáo ngựa. Nơi bả vai bên trái của hắn, chỗ có buộc băng, thấy nhuộm đỏ máu. Không phải do ai đâm ai chém, mà là vì hắn đã ráng quá sức để chém Sứ, nên vết thương của hắn bị chấn động, phá miệng và máu hắn mới ồng ộc tuôn ra thế đó.
Sau ba phát súng bắn đáp lại lời yêu cầu của Sứ, mọi người trong hang không nghe thấy gì nữa. Họ không rõ những gì đã xảy đến với Sứ ngoài đó nữa. Đứng tại chỗ của mình, tay họ ghìm chặt súng, mắt rưng rưng. Anh Ba Rèn và một số anh em đòi đánh ra giải thoát cho Sứ. Nhưng anh Hai Thép lắc đầu không cho.
Hai Thép mím chặt môi, lẩm bẩm:
- Chắc tụi nó giết cô Sứ rồi!
Không ai nói sao cả. Nhưng ai cũng nghĩ là Sứ đã hy sinh.
Hôm nay, lần đầu tiên trong cuộc chiến đấu, sao người nào cũng cảm thấymình như vừa mất đi một cái gì hết sức quý giá. Mà đồng thời họ lại như tiếp nhận được một cái gì rất đỗi lớn lao. Trong trái tim của từng người đang cầm súng này vừa chứa nỗi đau, vừa chứa đầy căm oán. Tưởng chừng mỗi trái tim đều đang tuôn ra khắp châu thân những luồng máu nóng sôi, cứ trào lên, trào lên không ngớt. Chưa có ai, dù chỉ một đôi khi, lại được nghe cái tiếng tuyệt diệu như tiếng nói của Sứ vừa nói với họ. Chưa có ai, dù chỉ là một lần, mà lòng lại yêu thương nhiều đến thế, căm thù và siết chặt ý chí chiến đấu của mình mạnh đến thế.
Trong hang, Quyên đã khóc. Nhưng bây giờ thì cô không thể khóc nữa. Cô phải gạt nước mắt, vì con Thúy lại bíu lấy cô mà hỏi má nó đi đâu, mà nó đi chừng nào về? Quyên lại nói dối con Thúy rằng má nó ra xóm công tác rồi sẽ về thôi. Cô không thể nói thực với cháu mình. "Nó còn bé quá, nó không thể kìm giữ như mình đâu!" Quyên nghĩ thế. Trong hang tối, Quyên ôm cháu, đau đới nghĩ rằng lần này chắc nó mất mẹ thực rồii. Nâng trên tay mình tấm áo của chị Sứ còn để lại, nước mắt Quyên cứ ứa ra. Cô đưa chiếc áo đó lên miệng day day, dứt dứt. Từ tấm áo, Quyên nghe rõ mùi mò hôi âm ấm. Mùi vị này sao mà âu yếm, sao mà dịu ngọt, hệt như chính cái hơi thở của chị Sứ thường khi vẫn phả vô mặt Quyên. Chiếc áo bà ba đen này chính mẹ cô đã dệt mót những sợi tơ càng, vừa đủ may một cặp áo, cho cô một chiếc và chị Sứ một chiếc. Chiếc áo của cô thì cô đang mặc trong mình. Mà chiếc áp của chị Sứ thì chị ấy cũng còn đang để lại đây. Lúc ra suối, chị đã cởi đắp cho con. Đêm hôm qua, chắc chị lạnh lắm. "Chị Sứ ơi, mặc chiếc áo má may cho chị em mình một lươợt này, em sẽ nhớ chị lắm thôi. làm sao em quên được chị hồi nhỏ, chị hồi còn con gái, và lúc chị làm người mẹ nuôi con. Thôi thì từ nay em sẽ phải là chị, nuôi má, nuôi con Thúy, em phải là người con gái như chị, người đảng viên như chị, rồi em cũng sẽ phải là một người mẹ như chị vậy!"... Trong cơn thổn thức, tay Quyên mày mò túi áo chị, đụng nhằm cái thơ. Nhưng hang mờ tối,cô không biết, liền móc cất vào áo của mình.
Bên ngoài chợt có tiếng gì lanh lảnh, ồm ồm. Nghe đâu như lại có tiếng loa. Quyên giằng con Thúy ra:
- Con ở đây, dì ra ngoải một chút!
Quyên chạy ra hang. Tiếng ồm ồm không còn nữa. Cô gặp Ngạn. Mắt Ngạn long lên coi rất dữ tợn. Anh hổn hển bảo:
- Tụi nó mới bắc loa vô nói là đã chém chị Ba rồi treo lên. Nó lại kêu mình đầu hàng nữa!
Quyên kêu "trời ơi" rồi chạy xổ ra miệng hang. Anh Hai Thép chồm người kéo cô lại. Cô khóc tức tưởng trên vai anh Hai Thép. Bấy giờ Ngạn, anh Ba Rèn và bốn anh em khác lại đề nghị cho họ đánh thốc ra. Anh Hai Thép vẫn lắc đầu.
Ngạn nói:
- Tôi phải ra, tôi không chịu nỗi nữa đâu!
- Tôi cũng vậy - Anh Ba Rèn xốc cây súng lên - Tôi chết tôi chịu, chớ nó giết cô Sứ, tôi ở đây tôi chịu không nổi.
Anh Hai Thép nói:
- Vì cuộc chiến đấu cần phải được giữ vững, tôi nhắc lại, không anh nào được tự ý xông ra hết!
Bốn năm người, trong đó có Ngạn và Ba Rèn, đều khựng lại. Anh Hai Thép nói:
- Trở về chỗ của mình ngay đi!
Dừng lại một giây, anh dứ dứ bàn tay:
- Trả thù cho Sứ phải là ở đây, là phải đánh thắng trận này!
Bốn năm người không ai bảo ai, kẻ trước người sau lặng lẽ lui về chỗ. Quyên cũng đã bớt khóc. Anh Hai Thép đến bên, để tay lên vai cô, khẽ nói:
- Thôi, vô trong hang đi Quyên! Vô trỏng với con Thúy. Đừng khóc nữa em, đừng thèm khóc...
Quyên nghe lời anh Anh, cắn cắn ngón tay, bước từng bước một đi vào hang trong. Khi Quyên đi rồi, Anh Hai Thép ngồi xuống tảng đá, vê một bộ râu mép mấy bữa không cạo mọc ra rất rậm, nói giọng như thường:
- Tụi này nó bắt đầu đem loa phóng thanh gắn trước hang để chơi cái trò tâm lý chiến rồi đó. Không dè vừa rồi bị Sứ mượn loa phóng thanh nói chuyện với mình, cổ võ mình; thành ra phản tác dụng ráo trọi. Sứ khá lắm cứng lắm. Tội nghiệp, Sứ cứ tưởng mình chưa biết nuối suối có thuốc độc, Sứ dặn mình đừng uống. Anh em coi Sứ còn dặn tụi mình đừng buông súng, đừng bao giờ buông súng...
- Còn lâu mình mới buông súng - Anh Ba Rèn nói - Trừ phi mình chết hết...
Chú Tư Nghiệp bĩu môi:
- Chừng nào mình mới chết hết? Còn một cái be sườn, tôi cũng chơi với nó hết cái be sườn đó. Mà nhắm có chết, mình cũng tháo súng vụt bỏ chớ ai thèm để cho nó lấy!
- Chú Tư nói phải quá! Cháu cũng làm y như chú, nhưng bây giờ chú còn nước cho ... cho cháu uống miếng đi, khát quá!
Đạt nhỏ nói, rồi chú Tư cười "ngoại giao". Chú Tư Nghiệp bảo:
- Cái thằng uống nước thiệt dữ, uống như là trâu uống...
Chú Tư Nghệp trao bi-đông cho Đạt. Đạt cầm bi-đông đưa lên miệng. Trong bi-đông không chảy ra một giọt nước nào cả. Đạt định la: "ối, ông già chơi không sướng!" nhưng Đạt ghìm lại không la. Đạt giả dò chép miệng như mới tu xong ngụm nước, rồi cậu chuyển bi-đông qua Tới nói:
- Anh Tới làm tạm một miếng cho thông cổ đi!
Tới bị mắc lừa, đỡ bi-đông kề miệng uống. Đạt nón không được, cười rũ. Tới đỏ mặt, liệng cái bi-đông vô hốc đá. Chú Tư Nghiệp cũng cười ngất, rồi còn hỏi:
- Uống "đã" chưa?
- ổng cho tụi mình uống bi-đông không mà ổng còn hỏi nữa chớ!
Chú Tư Nghiệp càng cười lớn:
- Hồi sáng tôi đã nói là hết rồi. Ai biểu mấy ông...
Chú Tư Nghiệp đứng tuổi rồi, mà lắm khi vẫn cứ gọi bọn nhỏ bằng ông. Chú trước vốn là tín đồ Hòa Hảo, mới cắt tóc và ăn mặn hai năm nay. Con người ấy vừa tin Trời Phật, nhưng lại rất nghịch ngợm. Sự thật cái bi-đông của chú đã hết nước từ đêm hôm qua. Đêm hôm qua thì còn một chút, chú đã dốc hết cho thằng Bé.
Bây giờ cả hang đều hết không còn một giọt. Cơn khát càng vò xé cổ họng mọi người. Anh Ba Rèn nói:
- Cứ mửng này chắc đái mà uống quá!
- Chắc giống la-ve lắm. Hồi kháng chiến có đồng chí mình vượt Côn Đảo, ra giữa biển khát quá cũng phải đái mà uống.
Năm Tấn lắc đầu:
- Cái gì chớ thứ la-ve đó tôi không ghé. Thà là nhịn khát:
Anh Ba Rèn bảo Năm Tấn:
- Ông sao khó tánh quá? Thời buổi giặc giã đâu phải lúc nào ông cũng ngồi tréo ngoảy sai vợ con pha trà cho ông uống được.
Mọi người đều cười. Tới xế chiếu, sau khi nhai mấy vốc gạo rang. Ba Rèn khát quá không chịu được, anh ta đái vô bi-đông. Nhân lúc anh Hai Thép đã đi vào trong, anh cầm bi-đông nước đái lắc lắc, rủ mọi người uống. Chưa ai hưởng ứng theo, anh liền uống trước. Tợp xong một ngụm anh "khà" một cái ra vẻ khoái trí, rồi kêu lên:
- Khá quá, anh em ơi!... Cứ việc làm đi, chết tôi chịu cho.
Dần dà có mấy anh cũng uống theo. Lúc đó, anh Hai Thép đi ra, thấy thế muốn can họ nhưng anh không mở miệng can họ được. Bản thân anh, anh cũng khô khát cả cổ. Với lại, cái chuyện đó đối với anh cũng không có gì là ghê gớm. Năm đen tối, tuy chưa phải đái ra để uống, nhưng có lần anh phải nhịn đói bốn hôm liền, bắt con còng sống nhai rau ráu., Có đêm anh bị cảm nặng trong "cứ’ rừng, chính Ba Rèn đây đã cắt máu cho anh bằng một con dao phay. Đêm ấy, trong chòi không đèn đóm. Ba Rèn phải bật lửa xành xạnh. Khổ nỗi, cái bật lửa của Ba Rèn lúc đó cũng đã mòn tin cứ phải rút gòn ở đít. Quẹt phừng lên được một cái thì Ba Rèn lại vội vàng kề dao phay cắt vào sống lưng anh, nặn vọt máu bầm ra. ấy thế mà rồi anh cũng qua khỏi cơn cảm đó. Thuở giờ, người ta nói ăn tấm heo như nói đến một thức ăn tồi tệ, nhưng tấm heo thì anh củng đã ăn. Cái bàn chân trái bị thương cụt mất hai ngón của anh buộc anh dạo đó cứ mỗi lần mò ra xóm, anh đều phải trần mình lội dưới rạch, vì bọn địch đã có lần nhận được dấu chân anh trên đường đi cề xóm, nên chúng lùng anh ráo riết. Kể ra thì còn không biết bao nhiêu gian khổ khác mà anh đã trải qua. Vì vậy, cái chuyện khát quá phải đái để uống, tuy khiến anh bơi bất nhẫn, nhưng không khiến anh ghê gớm.
Nhưng đột nhiên anh sực nhớ mang máng đâu hình như bữa trước anh nhác ngó thấy trên tảng đá nào đó trong hang có đọng vài vũng nước. Anh bảo anh em:
- Thôi, đừng uống nữa. Để tôi đi kiếm coi có nước vũng không, may ra.
Nói rồi anh đi vào hang, bấm đèn dọi coi từng tảng đá một. Kiếm mải mới gặp trên một tảng đá hơi trũng mặt, còn đọng lại một vũng nước mưa hàng hai bụm tay. Anh khoát thử một miếng nước đưa lên ngửi. Từ vốc nước bốc lên mùi lá mục, nghe thôi thối. Anh chặc lưỡi nghĩ: "Ăn thua gì?". Anh rời tảng đá trở ra kêu người nào khát nhất đi theo anh. Tất cả năm người trong đó có cả anh Ba Rèn, chú Diệp nhỏ. Riêng anh Năm Tấn thì không đi. Anh ta nói:
- Thôi mấy ông đi đi, thứ nước thúi hoắc đó, tôi không chơi!
Đứng trên tảng đá, anh Hai Thép với tay kéo từng người lên. Anh bấm đèn chỉ vũng nước. Anh Ba Rèn nói: - Đỡ quá! - Đoạn anh vỗ vai cậu Diệp học sinh:
- Thôi, nhường chú em đẹp trai này làm trước.
Diệp nhìn vũng nước vàng màu cà phê, do dự. Anh Ba Rèn bảo:
- Làm đi chú em, có bịnh tôi chịu cho. Thuở giờ tôi biết chú em ở Sài Gòn uống rặt la-ve xá xị, bây giờ lâm cảnh ngặt nghèo, chú em phải nhắp đỡ vài hớp đặng chịu động. Còn đánh lâu lắm đa, chú em!
Cậu thanh niên học sinh nhoẻo miệng cười, rồi ngoan ngoãn khuỵu hai gối chân, nằm sấp xuống tảng đá. Dưới ánh đèn pin, bộ mặt trắng trẻo của cậu ta nhóng tới bên vũng nước. Cậu thè lưỡi uống ực ực hai ba hớp rồi đứng nhổm ngay dậy. Một tay phủi đít quần "đạc-cơ-rông", một tay cậu ta đưa lên quẹt mép, cười chành bành cái miệng. Anh Ba Rèn nháy mắt hỏi:
- Có khá không bồ?
- Cũng đỡ...
- Thì tôi nói đỡ lắm mà. Tới tôi...
Anh Ba Rèn lại nằm sấp xuống y như cậu Diệp. Anh tợp hai hớp, đứng dậy khoát tay bảo người bên cạnh:
- Làm đi!
Người đó cũng làm y như động tác của anh Ba Rèn. Cứ thế lần lượt hết người này tới người khác. Vũng nước phút chốc cạn queo. Cuối cùng, khi đến phiên anh Hai Thép thì nước chỉ còn lấp xấp, thành ra anh phải thè lưỡi liếm.
Anh Hai liếm khô chỗ nước đọng, đứng dậy. Chợt anh nghe phía trong vẳng ra tiếng thằng Ba Phi ho khúc khắc. Anh Ba Rèn hất hàm về hướng có tiếng ho"
- Tôi đã nói thế, để thứ đó chỉ tốn gạo hao nước. Thôi, cứ giao tôi, tối nay tôi đưa nó đi theo ông bà ông vải cho rồi!
Anh Hai Thép nói:
- Chưa được, muốn xử nó phải có trên thông qua. Vả lại, để có đủ mặt bà con thì tốt hơn. Ông nóng quá! Giết một thằng, dù thằng đó là ác ôn, cũng phải để quần chúng hỏi tội rõ ràng. Có cái là tôi thấy để nó ở hốc hang này không ổn, mình bàn công chuyện nó nghe ráo. Có lẽ tối nay phải dời hai đứa nó vô sâu hơn chút nữa.
- Phải đó, tối nay nên dời nó đi!
Ra ngoài, anh Hai Thép gọi Ngạn đến bàn:
- Lát tối, cho một tổ bám ra ngoài coi sao? Với lại kiếm cách leo bẻ một ít dừa. Bẻ được dừa thì đỡ lắm, vừa có nước uống, lại vừa có cái để nhấm nháp.
Ngạn bảo để Ngạn đi với Tới và Trọng. Anh Hai Thép hỏi:
- Hai cậu đó leo dừa giỏi không?
- Leo khá.
- Vậy thì được. Nhưng phải hết sức cẩn thận, dò dẫm từng bước. Đêm nay trăng còn tỏ, phải thận trọng mới được.
- Tôi sẽ chú ý, anh đừng lo - Ngạn nói.
Ngạn dạy sang anh Ba Rèn cười cười:
- Nè, tụi tôi có công thộp thằng Ba Phi. Có xử thì tôi phải xử nó, chớ việc đó không phải phần anh đâu! Ba Rèn trề môi:
- Chú mà chém chắc nổi gì, chú chém run tay đâu có ngọt bằng tôi được!
- Không, nếu tôi chém, tay không không run đâu!
Ngạn nói thế và anh đi gọi Tới, Trọng chuẩn bị.
Ba người lột áo ra, buộc ngang đầu. Mỗi người chỉ mặc độc cái quần cụt, thắt mấy băng đạn tôm-xông và mấy quả MK3 nơi sườn. Họ cầm tôm-xông ngồi chồm hổm dưới hốc đá đợi trời tối.
Ngạn nhìn cái lối mòn ngoằn ngèo ngoài miệng hang cứ mỗi lúc một đẫm bóng chiều hôm. Nắng đã tắt từ lâu, và ngày cũng sắp không còn nữa. Xa xa ngoài kia, vườn dừa bỗng rì rào. Những tàu lá dừa ngả sang màu biếc sẫm, lả lay trong gió, trong lúc âm vang của sóng biển vẫn mạnh mẽ, ầm ã. Vườn dừa ngan ngát như đắm mình trong sương khói. Chẳng mấy chốc, cả vườn dừa nổi gió và cái lối mòn ngoằn ngoèo ấy nhòa đi - Đêm tối tràn ngập. Địch bắt đầu bắn súng. Bây giờ Ngạn nghe tiếng sóng rõ hơn. Anh thấy bóng đêm như cái bàn tay có phép vỗ im được mọi tiếng động nhỏ khác để cho biển, chỉ mỗi mình biển là được cất cao giọng nói. Triệu triệu lớp sóng từ ngàn khơi vỗ vào bờ lộng đó, muôn đời vẫn là cái tiếng nói lớn lao bền bỉ nhất của quả đất.
Mấy đêm qua, đêm nào mà Ngạn lại không nghe tiếng biển dội vào, và anh nghe tiếng biển ấm hẳn hơn trước. Anh có cảm tưởng vách hang như là chất da thịt mặt trống, mà sóng dội liên hồi vào đó thì nghe rùng rùng chứ không gầm gào và rền rĩ.
Hôm nay mới mười tám tháng chạp âm chạp, nên đêm không đen lắm. Mới vào đêm một chốc, ngoài hang đã tái nhợt. Ngạn lại trông thấy cái lối mòn mờ mờ hiện ra và những tàu lá dừa ngoài kia lại đung đưa, lấp lánh.
Ngạn xách súng, nhổm dậy, khẽ nói qua hơi thở:
- Đi được rồi!
Tới và Trọng đứng vụt lên. Họ cùng dừng lại miệng hang một giây, rồi mới bước thoát ra ngoài. Súng cắp nách, Ngạn khom lưng, tay trái đưa ra phía trước. Anh không đi theo lối mòn, mà đi một lối khác, ngang đó. Cả ba lom khom, bò vào ven vườn dừa. Họ vào được tới ven vườn một cách êm thấm.
Mới lẩn vô được mươi thước, bỗng Ngạn nghe mấy phát ga-răng nổ sát bên. Địch bắt đầu bắn cầm canh. Sau đó, nghe trong vườn tụi lính nói chuyện lào xào, Ngạn rỉ tai Tới và Trọng:
- Nó bắn cầm chìa không có gì đâu!
Tới nói:
- Bẻ dừa đi. Bẻ để đây, một chốc mình quẩy về!
- Bẻ thì bẻ!
Tới và Trọng chọn hai cây dừa thấp, ở trên chóp loáng thoáng những quày dừa rất sai quả. Hai anh đưa súng cho Ngạn, sửa soạn leo lên. Ngạn khẻ dặn:
- Đợi nó bắn súng hẵng buông xuống, để tụi lính khỏi nghe thấy!
Tới gật đầu.
Hai anh leo dừa giỏi, nên không cần có nài. Trong nháy mắt, cả hai đã biến mất trên chót ngọn. Tới và Trọng vặt cuống dừa trèo trẹo. Đợi lúc súng giặc vừa bắn "bóc đùng", hai anh thả dừa rớt xuống. Tiếng dừa rụng bị tiếng súng át mất. Trong vòng ba phát súng nổ, họ buông xuống đất sáu trái. Trái dừa nào rớt xuống Ngạn cũng lượm gom lại, để một đống. Thấy bẻ nhiều không thể mang hết. Ngạn khẽ vỗ bộp bộp vào thân dừa. Tới và Trọng biết ý, tuột xuống. Ngạn đưa súng lại cho họ. Cả ba để đống dừa ở đấy, men vào vườn sâu hơn chút nữa. Mới đi được vài bước, bỗng Ngạn giơ tay ra sau chặn Tới và Trọng lại. Anh ngó thấy phía trước có ba bốn chấm lửa bằng đầu đũa. Đó là bọn lính đang ngồi buồn hút thuốc. Mùi thuốc lá Thủ bay thoảng tới, găn gắt. Ba người nép mình sau cây dừa, ngồi thụp xuống. Ngạn chĩa họng súng về hướng đó. Mấy tên địch ngồi rất gần, đến nỗi khi chúng rít thuốc thì đầu những điếu thuốc đỏ rực lên, soi rõ từng cái sống mũi, từng bộ mặt nhờn nhờn của chúng. Những bộ mặt đó lúc biến đi, lúc lại hiện lên. Chợt Ngạn nghe một thằng nói:
- Đ.mẹ, hôm rồi tụi nó bắn đại úy mình tè bật ngửa miệng hang ngó ớn quá! Liệng gần một ngàn trái MK3 vô đó mà không ăn nhậu gì hết!
Một tên khác thở ra:
- Nấn ná ở đây hoài rầu thấy mẹ! Tụi nó núp ở trỏng coi bộ quyết lòng sanh tử với mình quá. Bốn bữa rày tụi nó tém mình gần một trăm đứa chớ ít sao?
- Còn mình chỉ bắt được một đứa phụ nữ. Thiếu tá dự dỗ nó hết lời mà không ăn thua. Con nhỏ đó mặt mũi hiền lành dễ coi mà thiệt là gan mật! Đưa micro để nó kêu tụi kia đầu hàng thì nó lại kêu tụi kia đừng buông súnb. Thiếu tá cho treo nó lên cây dừa rồi bắt dẫn bà già nó tới. Ngó thấy bà già, con nhỏ rưng rưng nước mắt. Ông thiếu tá tưởng nó xiêu lòng, hạ dây cho nó xuống, biểu nó kêu gọi tụi trong hang lần nữa ai dè nó co chân đá cái micrô văng đi... - Ngừng một chút, tên lính tiếp: - Nói thiệt với tụi bay, lúc trung úy Xăm rút dao chém, sao tao mắc cỡ hết sức...
- Trung úy Xăm chém cô ta không chết mà ông bị chấn thương ộc máu coi ghê quá!
Một tên lính chép miệng:
- Không biết bây giờ chết chưa?
- Ai chết?
Cái cô đó đó!
- Chết rồi. Nghe đâu mới chết hồi tắt nắng...
Ngạn gục mặt xuống bãi cỏ, cổ nghẹn lại. Tên lính lại nói:
- Trung úy Xăm chém bốn dao mới trúng một dao. Lúc đó cổ chưa chết, ông thiếu tá sai treo lên, tính để cô oằn oại rên la cho Việt cộng trong hang nghe mà thối chí. Nhưng từ đó cho tới chiều, cổ không rên la chi hết.
- Không, hồi gần chết cô có la. Tao nghe cổ giãy mình trên dây rồi la với đám dân chúng ngoài xóm lúc đó vừa tràn tới: - "Cô bác ơi, hãy trả thù cho con!" Cổ la vậy, lại kêu cụ Hồ, giãy mấy cái nữa mới chết!
Đang nói, giọng tên lính bỗng hổn hển:
- Tao chỉ... chỉ kịp nghe vậy... rồi bỗng thấy đám dân chúng hét lên, rần rần xổ tới. Toàn là đờn bà với ông già, con nít. Họ cấu xé, chửi rủa, đánh đạp tụi tao không sợ gì súng ống. Có một bà Thổ vác dao dâu nhào vô tính chém trung úy Xăm. Tụi biệt kích cản lại bị bả chém xoạc vai một thằng.
Tụi lính tính bắn trả thì trung úy Xăm kêu: "Đừng bắn, đừng bắn!". Nghe nói bà Thổ đó là bà già ruột trung úy Xăm... Còn tao mới hoạn nạn chớ, tao bị họ xô té ngửa, rồi một con mẹ mập ú chạy đạp lên người tao... muốn nín thở. Lúc tao ngồi dậy được thì dân chúng họ đã chặt dây hạ xác cô phhụ nử xuống. Họ cùng bà mẹ cổ cõng xác cổ chạy đi. Thiếu tá ra lệnh giựt xác lại. ổng la" - "Tôi bắn mấy người không còn một con đỏ bây giờ! Mấy người bao bọc chôn thây Việt cộng hả?". Dân chúng họ trả lời: "Chúng tôi chôn con cháu chúng tôi chớ chúng tôi không biết là Việt cộng gì hết!". Họ nói vậy rồi cứ khiêng đi. Thiếu tá phải nhượng bộ, để họ khiêng. Mà không nhượng bộ sao được, họ bất kể súng đạn, cứ rần rần, rần rần!... Lúc đó, tụi tao mà bắn thì thế nào họ cũng có chết, nhưng tụi tao không bắn...
Tên lính ngừng nói. Chúng lại im lặng mồi thuốc, hút thuốc. Lát sau, có mấy thằng đứng dậy. Một tên bảo:
- Chưa tới phiên gác, mình thả bậy vô xóm chơi. ở trong xóm có một ông già mù đờn độc huyền hay lắm...
Mấy thằng lính đi về phía Ngạn. Anh nín thở, nép sát sau gốc dừa. Chúng đi ngang, nhả khói thuốc bay tạt vào mũi anh.
Khi chúng đi khỏi rồi, chỗ ban nãy cũng còn lại vài tên. Một tên thở ra cái "khì":
- Cha... Tết này không biết mình ăn Tết ở đâu đây?
- Tao ngán nhứt là xuống miệt Cà Mau!
- Nói Cà Mau chi cho xa! Mình mà còn láng cháng ở đây, thì Tết này cũng không về được với vợ con đâu!
- Thôi thì ráng né, đừng vô cái hang thảm thiết đó nữa. Hết võng khiêng rồi nghe, mậy?
- Biết làm sao mà né, nó bắt vô mày không vô mà được à?... Trời ơi, hôm qua tao đi ngang trường học, nghe tụi bị thương nằm đó kêu la dữ quá?
- Tao thấy nghe theo hạ sĩ Cơ thì may ra mới toàn tánh mạng được!
- Chín Cơ hả? Y nói sao?
Đến đây, hai tên lính cùng hạ thấp giọng, thì thào. Ngạn không còn nghe rõ chúng nói gì với nhau. Anh mằm in một lát rồi đưa chân khèo Tới,Trọng, ra ý bảo họ bò lui ra. Ba người lần mò trở lại chỗ để đống dừa ban nãy. Trong bóng tối, họ tước vỏ dừa, hì hục buộc lại thành cặp. Mỗi người khoác lên cổ mình một cặo, rồi theo đường cũ, đi về phía hang. Suốt quãng đường trở lại hang, Ngạn đau đớn nghĩ: "Thế là chị Sứ không còn nữa, chị ấy chết thiệt rồi!". Nỗi thương tiếc và căm oán ngập ngụa lòng anh. Trong khi đó,hai quả dừa anh vắt qua cổ cũng mỗi lúc một thêm nặng trĩu.
2.
Nơi hốc đá tận cùng mà vợ chồng thằng Ba Phi bị trói bỏ đấy không lúc nào có ánh sáng, dù là thứ ánh sáng hiếm hoi mờ ảo của hang động. Trong hốc hang này, ngày cũng như đêm, chỉ có bóng tối, thứ bóng tối ở chỗ hẹp tuồng như đặc sệt lại. Mỗi ngày một lần, khi thì Quyên, khi thì Năm Nhớ, đem đến cho vợ chồng tên gián điệp đó những vốc gạo rang. Nước lúc nàp chúng cũng được uống. Quyên nói với chúng.
- ở đây không có nước nhiều đâu!
Lúc Quyên đi khỏi, thằng chồng rít lên trong cổ họng:
- Không có nước? Nó không muốn cho mình uống chớ không có!
Mụ vợ nín im, lo sợ và rầu rĩ. Thằng Ba Phi lại nói, giọng nó pha tiếng cười:
Mấy bữa rày bị vây siết dữ rồi...Mẹ, chịu không thấu đâu! Sớm muộn gì mấy "ổng" cũng tràn vô hang cho coi!
Y còn vỗ về vợ:
- Tao bảo đừng có khóc, đừng có lo, không chết đâu mà sợ! Mấy "ổng" mà tràn vô hang là mình sống, nhứt định sống!
Rồi y gầm gừ:
- Đ.mẹ, chừng đó rồi biết tay tao!... Tao chặt không chừa một đứa. Thứ nhất là thằng Hai Thép, thằng đó cầm đầu ở đây, rồi ến mấy thằng bắt mình đêm nọ, rồi thằng Ba Rèn, chặt ráo!
- Trời oi, im đi ông ơi!... Tôi sợ lắm! Tôi sợ tới cùng mấy "ổng" tràn vô thì mình cũng không còn. Thế nào họ cũng giết mình trước.
Nghe vợ nói, thằng chồng nín lặng. Câu nói của mụ vợ một lần nữa lại tới bên nỗi lo sợ trong lòng y khiến mấy bữa nay y vẫn phập phồng. "Có thể như vậy lắm. Có thể tụi nó sẽ ra tay xử mình trước lắm". Mỗi khi nghĩ tới điều đó, đôi khuỷu tay bị trói chặt của y bỗng dưng run lên cầm cập. Nhưng trong nỗi kinh sợ, y vẫn hy vọng được giải thoát. Và y bấu níu lấy hy vọng đó, bằng cái tâm địa bất lương cố hữu của y, bằng tất cả sự căm oán và hằn học lúc nào cũng rắp sẵn, nung nấu. Trong con người thằng chỉ điểm hói trán này đang diễn ra một tâm trạng đợi chờ thấp thỏm. Khi thì hy vọng thúc y chồm lên, khi thì thất vọng xô y khuỵu xuống. Con cáo độc mắc bẫy thế nào, y cũng thế ấy. Nhưng còn hơn con cáo, y chẳng những muốn thoát bẫy,mà lại còn muốn cấu xé sau khi xổ ra được. Sự hy vọng cùng sự thất vọng của y lộ ra rõ nhất lúc địch mở các đợt đột kích vào hang. Lúc súng hoặc lựu đạn nổ ầm ầm,là lúc y chồm dậy, khấp khởi. Tay chân y lúc ấy tưởng như mọc móng mọc vuốt. Trong bóng tối xó hang, y không ngớt lấy cẳng hích đùi vợ, tính đâu cái giờ phút thoát bẫy đã đến. Nhưng khi nghe những phát súng lẻ nổ chắc chắn từng phát một, y lại hoài nghi. Rồi, các đợt đột kích bị đánh bật, trả về cho hang động sư yên tĩnh thường lệ. Đợi mãi vẫn không có ai vào mở trói, lúc đó y lại thất vọng lại vật lưng vào vách đá mà thở hổn hển. Mỗi lần anh em trong hang phản xung phong thắng lợi là một lần mối hy vọng độc ác giãy giụa trong người thằng Ba Phi bị dập tắt. Và tấn bi kịch của y vẫn hoàn nguyên. Vẫn là vòng dây siết lấy đôi khủyu tay, vẫn là hốc hang sâu thẳm đầy bóng tối chớ không hé ra được một tia sáng.
Song dù thế, y vẫn chờ đợi. Với hai lỗ tai giảo hoạt, y rình nghe mọi lời nói và mọi tiếng động từ bên ngoài lọt vào. Vì thế, tuy bị giam cầm ở hốc hang trong cùng, nhưng y vẫn biết được phần lớn cái gì đã xảy ra trong bốn ngày đêm quyết chiến.Y đã bắt đầu có cái thói quen nhổm dậy kể từ khi loạt súng thứ nhất của bọn giặc nổ ran. Buổi sáng lựu đạn nổ ngót một ngàn trái là một trong những buổi sáng mừng rỡ của đời y. Đêm chặt tay thằng Bé đối với y là một đêm hả hê. Hôm Quyên bị bất tỉnh về những quả lựu đạn MK3 và Năm Nhớ bị trúng độc, y khoái trá. Cả về việc chị Sứ ra đi không trở về hang, y cũng biết. Rồi cái chuyện giặc bắc loa buộc chị Sứ kêu gọi đầu hàng cũng gieo vào lòng y nỗi mừng khấp khởi, nhưng y rất dỗi kinh ngạc và hậm hực khi biết bị Sứ đã nói ngược lại. Không có nước uống, cổ họng y cũng khô khát như ai. Nhưng trong nỗi khổ thiếu nước, lòng y cũng vẫn dấy lên cái hy vọng độc địa là nếu không có nước thì mọi người trong hang này không thể chống trả lâu được. Riêng khi biết rằng chị Sứ có thể chết đi thì y lo nơm nớp. Không phải lo cho tính mệnh Sứ, mà lo cho tính mệnh của y: "Chắc tụi nó giết mình để trả thù". Đôi khi y cũng không muốn đám người trong hang bị đánh nột quá, vì thế theo sự suy đoán của y, một khi nột quá họ có thể xử tội y trước.
Ngày cũng như đêm, y cứ lo quẩn về số phận của vợ chồng y, nhất là của y. Trước sự đe dọa của cái chết,thằng chỉ điểm ác ôn này có nhiều ý nghĩa diễn biến hết sức lạ lùng. Tất cả mọi ý nghĩa đó đều đen như chính cái bóng tối đang vây quanh y.
Đêm này, giữa lúc mụ vợ thở dài sườn sượt. Trước sự đe dọa của cái chết, tên Ba Phi bỗng giật mình thấy có cái chi rọi sang sáng trước mặt.
Thì ra đó là ánh nến. Người cầm nến đi xồng xộc về phía y. Mấy bữa nay, trước mặt y chỉ tuyền là bóng tôi nên y bị lóa chưa kịp nhận ra ai, thì đã nghe:
- Đứng dậy!
Người nói ấy là anh Hai Thép
Tên Ba Phi vội vã đứng lên. Cả mụ vợ cũng rối rít đứng lên theo. Nhưng anh Hai Thep giỡ ngón tay ngăn mụ lạibảo mụ cứ ngồi đó. Anh quắt mắt nhìn tên Ba Phi:
- Nghe tao hỏi, mấy bữa nay mày đã thấy ra tội của mày chưa? Như vậy mày đáng chết chưa?
Thằng chỉ điểm cúi thấp chiếc đầu hói, im lặng:
- Nói - Anh Hai Thép lớn tiếng giục.
Bây giờ, y đáp một tiếng cụt ngủn:
- Đáng!
Anh Hai Thép gật đầu:
- ờ, đáng chết!
Ngừng một giây, anh nhìn y nói tiếp:
- Thôi đi!
Tên Ba Phi thoạt nghe thế thì liền lúc đó, hai gối chân y tự nhiên rủn xuống. Nhưng ở phía sau, anh Ba Rèn đã lách tới, lẹ làng đưa cánh tay lực lưỡng xốc ngay nách y dậy.
Anh Ba Rèn chợt thấy thằng Ba Phi như không còn có chân nữa. Đôi chân đó giờ cứ như cái gọng bún, cứ ngoặt ngoẹo rủn xuống.
Anh Hai Thép giơ cao ngọn nến soi lối cho Ba Rèn vừa lôi xốc thằng Ba Phi đi vừa càu nhàu:
- Thằng này sở quá, chưa chi đã xỉu rồi!
Anh Ba Rèn đem nó vào cuối hang. Chỗ này ở gần chỗ để một cái lu mái lớn màu thổ chu đựng di cốt sáu đồng chí bị giặc thảm sát. Đó là những xương cốt mà hồi năm ngoái chị em Sứ đã lén lút mò nhặt từ trong bàu rừng.
Bọn giặc đập đầu các đồng chí ta bằng cột chèo rồi liệng xác xuống tàu. ba ngày trời, Sứ và Quyên đi kiếm không gặp. Tới bữa trưa ngày thứ tư, hai cô mò vô rừng tràm thì bỗng nghe tiếng chó hoang tru từng hồi dài. Hai cô lẩn tới đó, thấy một bầy chó bốn năm con từ dưới tàu chạy lên, mồm ngoạm những chiếc xương tước thịt lòng thòng. Chính Sứ vác cây tất tả đuổi đánh bầy chó, giật lại từng cái xương, còn Quyên thì xăng quần lội xuống quờ tay mò. Hai người mò hết tất cả những xương dưới bàu, túm vào vải nhựa vác về Hòn giấu. Bấy giờ thì chẳng còn nhận ra xương là của ai nữa. Đồng khởi lên rồi, xương đó mới được đặt vào lu mái để ở đây.
Xốc thằng Ba Phi quá khỏi cái lu để xương một chút, anh Ba Rèn đặt dựa y vào vách đá. Đầu thằng chỉ điểm vẫn nghẹo xuống. Anh Ba Rèn và anh Hai Thép đứng đợi mãi, một lát sau y mới tỉnh dậy.
Hai người lôi y vào tận trong cùng. Lúc trở ra, Anh Hai Thép nói với anh Ba Rèn:
- Tôi coi tụi ác ôn thì đứa nào cũng vậy, ông à.Tụi nó có gan giết người, chớ không có gan chịu chết. Hồn nãy, nó ngỡ mình đưa nó đi giết nên nó chết giấc đó!
- Thì thứ đó mà gan góc mẹ gì! Có tài chỉ chọc chớ nhát hít thôi.
Hai người ra tới ngoài miệng hang thì Ngạn cũng vừa về tới. Anh liệng cặp dừa xuống đất giữa tiếng vỗ tay hoang hô rôm rốp của mọi người. Tới và Trọng cũng vào đến nơi, tháo cặp dừa trên cổ để xuống. Quyên sờ soạng tìm đến bên Ngạn. Ngạn đứng hồi lâu mới nặng nhọc nói:
- Chị Ba hy sinh rồi!
Tất cả mọi người đều đứng sững lại ở cái động tác của mình. Có những bàn tay đang vỗ trong bóng tốt, chợt từ từ để xuống, Ngõ hang bỗng chốc trở nên hết sức im lặng. Anh Hai Thép đến sát bên Ngạn, khẽ hỏi giọng đau đớn:
- Chú lần tới được chỗ cô Sứ chết à?
- Không, chị ấy không còn ở đó nữa, bà con đã đem chị về xóm rồi. Tụi tôi nghe bọn lính nói chuyện với nhau.
... Ngạn ngồi bệt xuống giữa ngõ hang, kể lại với anh em câu chuyện mấy tên lính trò chuyện ban nãy. Đến cuối, lúc lặp lại lời chị Sứ gọi bà con, gọi Bác trước lúc giãy mình chết, Ngạn nghẹn ngào không nói được nữa. Quyên vùng khóc nức nở. Cô gục vào vai Ngạn, Đầu cô cứ rung lên trên chiếc vait rần rịn ướt mồ hôi của Ngạn. Mọi anh em đều úa nước mắt. Nhưng ai cũng cố nén không để bật khóc thành tiếng, dù trước đó, họ vẫn nghĩ là Sứ khó sống được, nhưng họ chưa biết chắc Sứ đã chết và biết chết như thế nào. Bây giờ nghe Ngạn kể, họ mới thấy đau đớn thật sự. Và cùng một lúc, ai cũng chợt nhận ra hình như tình yêu mến và sự hiểu biết của bản thân mình trước nay đối với Sứ đều là không đủ. Dường như người con gái đó đang ở trên cao, mà họ còn đứng thấp, nên với lên chưa tới. Đức kiên trinh và cái vẻ đẹp dịu dàng của người con gái đó chừng như bây giờ mới lộ ra hết, mà lại rất gần, rất quen. Kìa, chị đang khẽ mỉm cười và lặng lẽ. Kia, khuôn mặt trái xoan thon thả của chị đang mở to đôi mắt đẹp đẽ chân thật. Kia là mái tóc óng mượt tươi tốt mà cả Hòn Đất ai cũng lấy làm hãng diện. Những nét đó từ nay chẳng thể phôi pha trong lòng họ. Những tiếng nói sau cùng của chị củng không sao tắt được giữa lòng họ.
Thế là một lần nữa trong đời, anh Hai Thép cảm thấy tim mình như bị những móng sắc vô hình quào cấu. Anh từ từ đứng dậy, run run nói:
- Các đồng chí thấy không, sống với anh em đồng chí Sứ lo từng miếng cơm giọt nước, hiền lành nhường nhịn tất cả, nhưng giáp mặt với kẻ thù, Sứ thiệt cứng cỏi, thiệt không chịu thua chúng nó một tấc? Sự dặn chúng ta đừng buông súng, chúng ta phảinhớ lấy. Sứ dặn chúng ta trả thù cho Sứ, chúng ta cũng phải nhớ lấy!
Dưới ánh nến chập chờn, mọi người không ai bảo ai đều đứng lên, im phăng phắc. Đầu họ hơi cúi xuống. Họ hình dung ra Sứ, nghĩ đến chị với tất cả tình yêu mến. Trong phút đó, họ nắm chặt súng, lòng càng riết siết cái quyết tâm chiến đấu tới giọt máu chót.
... Từ đấy trở đi, không ai khóc nữa. Họ gạt những giọt lệ còn sót lại trên mi mắt.Họ móng lòng mang đêm qua mau, để rạng ngày địch tấn công vào, họ có cơ hội trả thù cho Sứ lập tức.
Anh Ba Rèn nói:
- Vậy mới biết vàng thiệt không sợ lửa. Cô Sứ là vàng thiệt đó, anh em à! Đâu có như thằng Ba Phi ban nãy, chưa chi mà đã té chết rồi.
- Chết thiệt à? - Ngạn hỏi.
- Không, chết giấc thôi!
Anh Hai Thép day hỏi Ngạn:
- Bẻ được mấy trái dừa chú?
- Sáu!
- Bẻ dễ không?
- Cũng dễ. Nhưng ở sát bên vòng vây tụi nó, phải đợi nó bắn súng mới dám buông dừa rớt xuống. Nghe tụi lính nói chuyện không sót một câu. Tụi nó hút thuốc, rít thở phào phào, thấy mặt mũi hết ráo. Coi bộ tụi nó hoang mang dữ. Thằng nào củng sợ vô hang. Tụi nó gọi cái hang mình đây là cái hang thảm thiết...
Anh hai nói:
- Nó đặt tên như vậy cũng phải, nhưng thảm thiết đây là thảm thiết đối với tụi nó, chớ đối với mình thì đây vẫn là hang Hòn Đất thôi.
Chú Tư Nghiệp gật đầu:
- Phải, tên Hòn Đất nghe hiền khô, vậy mà thằng nào ăn hiếp ăn đáp thì không được, dứt khót không được!
Ngạn nói:
- Nè, trận này có tụi Mỹ theo nữa. Chết một thằng rồi!
- Vậy sao?
- Nghe tụi lính nó là ngày hôm qua trực thăng xuống chở thằng Mỹ và mấy thằng sĩ quan ngụy bị thương về rồi. Tụi lính tức lắm, vì mấy thằng Mỹ lái trực thăng từ chối không chịu chở lính bị thương nặng!
- Tụi chó đẻ quá!
- Vậy cho lính nó sáng mắt ra chút đỉnh chớ! Tưởng đi theo Mỹ sướng lắm! Mỹ may ra chỉ có tình nghĩa với chó thôi, chứ cái thứ lính mướn mỗi tháng từ tám trăm tới một ngàn hai đó bị cụt cẳng đổ ruột thì nó dại gì mà cứu. Có cứu sống cũng là lính bị loại khỏi vòng chiến rồi, đánh cách mẹ gì được!
Ngạn nói:
- Tình hình này tôi coi bộ tụi lính thối chí dử.
Phải chi mình vừa đánh vừa kêu gọi cho tụi nó rã tinh thần thì hay quá!
Anh Ba Rèn bảo:
- May ra chỉ trông cậy ông Tám Chấn và bà con ngoài xóm làm chuyện đó, chớ mình ở đây hễ thấy thằng nào nhào vô là mình phải "bửa" lật thôi, chớ còn kêu rèo gì nữa?
- Không, mình cũng có thể làm được chớ - Chú Tư Nghiệp nói - Phải chi mình có vài cái loa!... Một mặt đánh, một mặt kêu. Như vậy tụi nó mau rã đám hơn.
- Có lý lắm, hay lắm. Nhưng làm sao kiếm được loa? - Ngạn hỏi.
Chú Tư Nghiệp ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Không có loa bằng thiếc thì làm như vầy cũng đặng... Tôi để ý thấy trên nắp cái lu mái đựng hài cốt các anh em hy sinh có đậy nhiều tầm mo cau. Lấy mo cau đó làm loa tàm tạm được. Tôi chắc vong linh anh em cũng không buồn phiền gì mình đâu!
Ba Rèn bảo:
- Buồn gì, phải chi mình đội mo cau đó đi đầu hàng thì mấy chả mới buồn, chớ đằng này... Mà chết rồi còn buồn khỉ gì nữa, cha nội!
- ấy, đừng nói vậy chớ Ba Rèn - Giọng chú Tư trở nên nghiêm trang thật sự - Anh em khuất rồi thì phải để anh em yên nghỉ, tôi ngại là ngại mình mó máy làm động xác thể anh em, tội nghiệp...
Anh Ba Rèm im đi một chốc rồi nói nhỏ, giọng hơi kéo dài ra:
- Sao lóng rày tôi để ý thấy ông đâm mê tín trở lại quá!
- Không phải mê tín, tôi... tôi... - Chú Tư Nghiệp ấp úng cãi.
Anh Hai Thép cười, xua tay:
- Thôi đi!... Anh Tư nói vậy không hẳn là mê tín đâu. Nhưng thấy tấm mo cau có thể dùng làm loa, thì cứ lấy làm, không sao. Vong linh anh em đồng chí mình còn mừng nữa chớ không buồn đâu. Anh cứ lấy mo cau đó làm loa đi anh Tư!
- Được để tôi làm... Nhưng nói là nói..
Chú Tư Nghiệp bằng lòng làm loa bằng những tấm mo cau nọ, nhưng vẫn còn tấm tức về câu nói của Ba Rèn. Đối với chữ "mê tín", chú không chịu, mặc dù từ lâu chú vẫn tin rằng có Trời, có Phật. Trong một cuộc nhậu nào đó, đã có lần chú cào sườn nói: "Nè, giả tỷ trên mặt địa cầu ba ngàn triệu con người ta đều không tin có Trời, Phật thì vẫn sót một người còn tin nghe đa!". Đoạn chú Tư trỏ vào ngực mình, nhấn mạnh từng tiếng một: "Người đó là Tư Nghiệp". Bây giờ chú Tư Nghiệp không còn ăn chay nữa, vì như chú nói - "Tôi tu tại bụng, chớ không tu tại miệng. Ăn chay cày ruộng đuối lắm, mà mặt mày xanh rời, coi kỳ quá!".
Lạ thay, con người còn tin Trời tin Phật đó lại có cái nguyện vọng hết sức tha thiết là được kết nạp Đảng. Nhiều lần, chú thắc mắc, hỏi anh Hai Thép liệu như chú có thể được vô Đảng không. Anh Hai Thép bảo: - "Được chớ, nhưng muốn làm người Đảng thì phải thực tế. Người Đảng tôn trọng sự tín ngưỡng của tín đồ các đạo, nhưng không tin có Chúa, có Phật, có Trời. Cái đó tôi nói thiệt, không giấu giếm ông làm chi. Nhưng tụi tôi tin là có kẻ bóc lột và người bị bóc lột. Tụi tôi tin là nếu mình đồng lòng đánh Mỹ - Diệm thì mình sẽ sung sướng, nông dân có đất càt, đạo giáo được gìn giữ".
Cái gì chứ đánh Mỹ - Diệm thì chú Tư Nghiệp chịu lắm. Nhưng nghe anh Hai Thép nói kiểu người Đảng như thế thì chú nghĩ mình khó vô Đảng được. Bởi vậy chú lấy làm đau khổ.Vì chú chưa rút được cái này nhưng lại muốn với tới cái kia.
Lời nói của anh Ba Rèn vừa rồi tự nhiên khơi lại nỗi khổ tâm đó của chú, chớ chú không giận anh Ba Rèn. Tánh chú không giận ai đâu. Lát sau, chú đã mò mẫm vào trong hang, thắp nến đi lấy mo cau. Rồi đến sau phiến đá mà mọi đêm mẹ con Sứ vẫn ngủ, chú lựa chỗ cắm nến, và bắt đầu hì hục gò mo cau lại để làm thành những cái loa.
... Bên trên phiến đá đó, Quyên vừa đặt lưng xuống cạnh con Thúy. Con bé đã ngủ. Nó vẫn chưa hay biết gì về cái chết của mẹ nó. Nằm bên cháu, Quyên mở mắt nhìn lên vòm hang tối đen. Đôi mắt Quyên ráo hoảng cay nóng. Cô lăn qua, ôm cháu vào lòng. Trên người con Thúy đêm nay vẫn đắp thêm chiếc áo của mẹ nó. Và dưới lần tay ve vuốt của mình, Quyên thấy mớ tóc xấp xõa trên đầu đứa cháu chừng như cũng đã mọc dày, mườn mượt, hệt như mái tóc chị Sứ ở một ngày xa xôi mà cô mang máng nhớ.
3.
Nhà vợ chồng Hai Thép có một cái hầm bí mật. Hầm này nguyên đã sẵn có hồi mấy năm đen tối. Sau khi đồng khởi lên rồi, anh Hai Thép chẳng những không lấp mà còn ra sức củng cố. Hầm trổ miệng ngay giữa nhà, nhưng có còn có tới ba bốn nhánh ăn thông ra ruộng. Nếu địch có khui miệng, cũng không dễ gì phăng ra được. Mấy hôm nay anh Tám Chấn ở dưới hầm, đêm đêm anh mới lên thở hít không khí cho khỏe rồi cũng trở xuống đốt nến làm việc. Chiều hôm ấy, vừa lúc trời vừa tắt nắng, chị Hai Thép từ ngoài xóm về giậm khẽ mấy gót chân xuống miệng hầm, và dở hầm. Anh Tám Chấn mới trồi lên, chị nghẹn ngào nói:
- Cô Ba Sứ chết rồi!
Anh Tám đau đớn lặng đi giây lát. Lát sau, anh mới khẻ hỏi:
- Chết hồi giấc nào?
- Mới chết hồi nãy, cách đây gần non một tiếng Thằng Xăm chém cô ấy. Tụi tôi đã cùng bà con giành được xác cô. Cô Sứ chết làm cả xóm đều khóc, bà con kéo ra đường ùn ùn. Lúc giành giật xác cô Sứ, đã xảy ra một cuộc ẩu đã giữa tụi tôi và lính.
- Hiện thi thể của Sứ để ở đâu?
- ở nhà má Sáu. Bà con bây giờ đã kéo tới đó đông lắm! Anh Tám Chấm đứng thẳng lên, hai tay choàng qua hai mé miệng hầm, ngó đăm đăm vào khoảng không trước mặt. Chốc sau, anh nói:
- Bây giờ thím phải ra đó ngay. Tổ chức hàng ngũ bà con lại cho chặt chẽ để đưa đám Sứ. Cần phải biến đám tang thành một cuộc biểu tình, đi khắp xóm, nhơn đó mà làm cho bà con căm thù thêm.
chị Hai Thép đáp:
- Tụi tôi cũng tính vậy. Để tôi trở ra ngoài liền...
Nói rồi, chí đứng nhổm lên định sửa soạn đậy nắm hầm. Chợt nghe anh Tám chấn lại bảo:
- Khoan đã!... Thím Hai, theo tính, liệu có thể nào điều động đám tang cô Sứ đi qua cận cửa hang Hòn được không?
Chị Hai Thép tỏ vẻ ngạc nhiên?
- Chi vậy anh?
Anh Tám Chấn không đáp, kéo áo chị ngồi xuống. Và anh dặn điều gì rất khẽ, rồi hỏi:
- Sao, thím nhắm liệu bề có được không, nếu được thì rất tốt!
Chị Hai Thép im đi một lát mới nói:
- Để tôi bàn với chị em coi, hễ có cơ hội thì kết hợp làm luôn. Thôi, tôi đi nghen anh?
- Thím Hai, thím phải cân nhắc cho kỹ, không nhường bước và cũng không để căng quá, đừng để xảy ra tình trạng ẩu đã với binh sĩ nữa... Phải tranh thủ lôi kéo họ là chánh... Mà thím nè, mấy đứa nhỏ đi đâu mất hết rồi.
- Tôi gửi tụi nó ở nhà bên rồi.
Chị Hai Thép đáp, và khi anh Tám tụt xuống, chị lẹ làng đậy nắp hầm lại, rồi lấy chổi quét qua mấy nhát. Chị Hai Thép ngắm nghía coi lại nắp hầm lượt nữa rồi dựng chổi, bươn bả đi tới nhà mẹ Sáu.
Bây giờ trời đã chập choạng. Trước sân và quanh nhà mẹ Sáu, bà con lối xóm đến đông nghịt.
Chị Hai Thép đến một lúc thì cuộc tẩm liệm bắt đầu. Khi chị và chị Ba Rèn sắo sửa đặt Sứ vào hòm, mẹ Sáu gác nhẹ đầu Sứ trên đùi, rồi cầm cái lược chải tóc cho con. Mẹ chải kỹ lưỡng, như mọi bữa mẹ vẫn chải cho Sứ. Cũng với chiệc lược thưa bằng sừng trâu đen huyền ấy! Nhưng lần này, mẹ chải rất lâu, chải mãi. Vừa chảy mẹ vừa lần gỡ hết các món tóc rối. Chải xong, mẹ bảo chị Hai Thép với giọng tỉnh hắn:
- Vợ Hai Thép coi phía sau tủ thờ có chai dầu bông bưởi, lấy dùm tao! Con Sứ nó ưa xức thứ dầu đó lắm. Hôm rồi nó kiếm ở đâu đem về để đó, chắc tính xức mà chưa kịp xức...
Chị Hai Thép mò tìm được chai dầu, mở nút, đem lại đưa cho mẹ Sáu. Mẹ Sáu cầm chai dầu, nhểu mấy giọt vào giữa lòng bàn tay, xức lên tóc con gái. Dỗu bông bưởng thoảng khắp nhà mùi hương thơm dìu dịu, trinh bạch. Mẹ sáu xức cạn chai dầu, rồi cầm lược chải lại tóc con một lần nữa. Chừng đó mẹ mớt bắt đầu bới tóc cho con, nhẹ nhàng và khéo léo. Biết bao lần mẹ đã bới mái tóc ấy, nên mẹ quen lắm. Chiều bài và tính nết của làn tóc ấy ra sao mẹ thuộc lắm.
Mẹ Sáu bới cho đứa con mình một đầu tóc thực là khéo. Đầu tóc đó trò trịa, đầy đặn hơn cả khi Sứ còn sống. Có lẽ đây là cái đầu tóc khéo nhất của Sứ, kể từ thời tóc kẹp đuôi gà của Sứ qua đi, kể từ lúc Sứ biết ham bới tóc và có đủ tóc để bới. Đầu tóc đó được bới khéo như vậy tưởng cũng không lạ. Vì đây là lần cuối cùng mà một người mẹ bới cho con, với đôi bàn tay trút hết tình âu yếm.
Bới xong, mẹ Sáu cũng chưa yên tâm rời con ra được. Mẹ với tay ra sau đầu tóc mình, rút chiếc lông nhím đồng, ghim vào đầu tóc con. Còn mớ tóc của Sứ bị thằng Xăm chém đứt hồi trưa, bà con đem về, mẹ nâng đặt lên mặt bàn thờ.
Bây giờ, mẹ mới bắt đầu khóc lặng.
Bà con nới nhẹ tay mẹ Sáu ra, dìu mẹ đến bên giường. Chị Hai Thép và chị Ba Rèn đỡ lấy Sứ, đặt Sứ vô chiếc hòm sơn màu chu. Bà con chuyền tay nhau những súc vải mùng trắng tinh đắp liệm lên mình Sứ.
Khi nắp hòm sắp sửa đậy lại, mẹ Sáu giằng mọi người ra, chạy đến. Nhưng mẹ khưng còn thấy gì nữa. Trong tiếng khóc nấc của mẹ, nắp hòm đậy xuống, liền mí, và cái hòm bấy giờ hoàn toàn đỏ, đỏ thẫm. Cái hòm trong đó có Sứ đặt giữa san nhà gỗ, nơi chị sinh ra và lớn lên, nơi chị đùa giỡn thuở còn tấm bé. Tại đây chị đã khóc, đã cười, đã chơi đánh búng và chuyền đũa. Bây giờ, tại đây chị ngủ rồi, chị ngủ mãi mãi. Nhưng cả cuộc đời hai mươi bảy năm thì chị vẫn để lại, nhất là những giờ phút chót của cuộc đời ấy.
Người ta nghe tiếng chị Hai Thép dõng dạc ra lệnh cho những bà con ở trong nhà và đứng dài từ bậc thang đổ xuống sân:
- Đốt đuốc lên!
Các bà các chị bắt đầu đốt đuốc lá dừa và đuốc rơm đánh vội. Nhiều người, trong đó cá cả Cà My, đang bó túm những vật gì vào vạt áo. Lát sau, ánh đuốc cháy sáng sân nhà.
Mẹ Sáu xin cho chôn Sứ bên mộ cha chị. Đáng lẽ bà con đưa Sứ đến thẳng chỗ mộ cha chị dưới chân Hòn thì gần hơn. Nhưng bà con không đi cái lối gần đó. Bà con đưa Sứ qua các vườn, đi qua xóm. Đám đưa tang biến thành một cuộc diễu hành đi ngang các nhà, đi ngang vườn cây, quê hương yêu dấu của người con gái đã chết. Toán lính tuần đêm đầu tiên bắt gặp đám người đó giữa một khu vườn vú sữa. Chúng thét:
- Giờ thiết quân luật mà mấy người kéo đi đâu rần rần vậy?
Thím Ba ú bước sấn lên:
- Mấy người giết con cháu chúng tôi, thì chúng tôi phải đi chôn chớ đi đâu!
Tên cầm đầu tpán đi tuần nghe nói, đưa hai tay về phía trước:
- Được, cứ đi đi!... Mấy người biểu tình luôn cũng được nữa.
Tên này nói xong, quay lưng thoát tay ra hiệu toán lính gạt ra hai bên. Đoàn người dẫn đầu là chị Hai Thép và thím Ba ú, lại tràn tới. Đuốc lá dừa trên tay họ cháy kêu lép bép. Đuốc rơm cháy dáng trên tay, họ còn cầm theo một bó đuốc dự trữ, chưa đốt. Đoàn người và lửa đuốc, cứ ồ ồ, phừng phừng, lũ lượt tốp trước tốp sau nối đuôi cái hòm ghè đầy những vai phụ nữ. Lửa đuốc chiếu cái hòm đỏ chói giữa đường đêm lòa sáng. Lửa đuốc còn rọi óng ánh những mái tóc bạc phơ của các mẹ, rọi bóng nhãy vòm lá trên đó từng chùm vú sữa tím căng da bóng lưỡng.
Mẹ Sáu đi ngay sau cái hòm, bên chị Ba Rèn và các mẹ Hòn Đất. Hai chị dìu mẹ. Nhưng mấy lần mẹ gạt tay hai chị ra, bươn tới. Giờ mẹ không khóc. Cuốn theo dòng người ồ ạt, mẹ không còn muốn khóc nữa. Có cái gì đó cứ nóng sôi trào lên trong bộ ngực già nua lép kẹp của mẹ. Ban nãy, mẹ đau đớn chia lìa con gái. Giờ đây, đi giữa đoàn người, mẹ thấy hình như không phải chỉ có mỗi con của mẹ hy sinh. Biết bao người cùng đi với mẹ đây có chồng con, anh em đã chết hoặc bị đánh dập phổi, dập gan, kẻ không còn chân, người không còn tay! Có biết bao thân nhân ruột thịt với họ giờ còn trong lao tù hoặc bị đọa đáy ngoài hải đảo! Bảy năm nay cả Hòn Đất không có mấy gia đình thoát khỏi cảnh tang tóc, khảo tra, bức hiếp. Xương người còn đó, máu người còn đây.
... Không, không phải chỉ có mỗi mình mẹ riêng chịu cảnh ấy, mà là tất cả xóm giềng. Không phải chỉ có mỗi mình mẹ tranh đấu, mà còn có trăm, ngàn người ở Hòn Đất, triệu người ở miền Nam đi tranh đấu. Sóng biển đánh ầm ầm sau lưng mẹ như bảo mẹ hãy dấn lên đau khổ mà đi. Vườn lá rào rào nỗi gió như giục giã mẹ thù kia phải trả. Xương đòi xương, máu đòi máu. Không phải chỉ có mẹ và bà con đang đi đây, còn đám con đám cháu của mẹ đang bị vây trong hang kia nữa! Năm ngày đêm ròng rã, đám con cháu đó nhịn đói nhịn khát chống trả quyết liệt. Chỉ có một người bị sa vào tay giặc, nhưng người đó không đầu hàng, người đó là con gái ruột củamẹ. Còn đứa cháy mới mồ côi, còn con rể, còn chồng hai người đàn bà đang đi bên mẹ đây - chị Hai Théo và chị Ba Rèn - còn thằng Bé con chú Tư Râu, còn bao nhiêu người mà mỗi lần nghĩ tới, thì mẹ thấy yên yên trong dạ.
Đoàn người đã kéo đến bên bờ con suối Lươn. Quân giặc đóng trên bờ suối khi nhìn thấy ánh đuốc như một đám cháy lớn trườn về phía chúng, chúng liền la lên và chạy xổ ra. Tên đại úy Cao, chỉ huy tiểu đoàn lính chủ lực vừa ở trong lều chui ra, nhác trông thấy đám người khiêng cái hòm đỏ chói thì gã hiểu ngay. Gã lập tức ra lệnh cho bọn lính cầm súng dàn hàng ngang, chắn lấy một quãng suối. Rồi gã chạy xồng xộc tới trước đoàn người, khoát mạnh tay:
- Không được đi tới!
Thím Ba ú vẫn nhẹ nhàng:
- Ông à, cháu chúng tôi bị mấy ông giết, phải để chúng tôi đem chôn chớ!
- Thiếu tá cấm chôn ba đêm.
Giọng thím ú vẫn nhẹ nhàng:
- Ông à, cháu tôi bị mấy ông giết thế đó, để lâu đâu có tiện!
- Không tiện thì mặc kẹ. Việt cộng mà cho chôn là quý rồi!
- Thưa ông, cháu tôi có theo Việt cộng đi nữa thì nó cũng là cháu tôi. Chúng tôi đem chôn nó ở chân Hòn thì có mất mát gì mấy ông đâu? Tội nghiệp, nó bị mấy ông giết cách thảm thiết quá mà!
- Con mẹ mập này ăn nói cà xốc dữ hôn? Đã nói là ban đêm ban hôm, thiếu tá không cho ai léo lánh đi đâu hết, nghe chưa?
Thím Ba ú buông tay xuội lơ, vẻ thất vọng:
- Vậy mà tôi tưởng ông có quyền ở đây, té ra ăn thua ở ông thiếu tá! Thôi đươc, vậy ông cho tôi gặp thiếu tá đổ tôi xin ổng!
Gã đại úy Cao niễng đầu qua, niễng đầu lại như để nhận dạng thím Ba ú, đoạn gã gằn giọng:
- Đòi gặp thiếu tá đặng đấu tranh hả! Coi bản mặt chị, tôi biết là dân cầm đầu đấu tranh liền mà!
Một tên lính nói chen vào:
- ối, cái chị này tôi gặp chị đi biểu tình ở Rạch Giá hoài đây!
- Ê, đừng nói bậy nghe! Tôi đang nói chuyện với ông đại uý, mấc mờ gì anh mà anh xía vô?
Thím Ba mắng tên lính xong, lại bóp bóp hai bàn tay nói với tên đại uý, vẫn với giọng nhẹ nhàng như trước:
- Ông làm ơn để chúng tôi gặp ông thiếu tá đi, thế nào ổng cũng cho. Mấy ông đánh nhau với Việt công trong hang, mấy ông bắt được họ đem giết là đủ rồi, lẽ nào lại không cho chôn?
- Không cho, gã nạt - cứ nói dai nhách!
Không nhịn được nữa, thím ba ú thét:
- Chẳng cho chúng tôi cũng đi!
Rồi bước thoắt qua mặt tên đại uý, thím khoát tay kêu mọi người tiến lên. Đoàn người ồ theo, xô rẹt những tên lính, tràn xuống suối. Gã đại uý gào lên:
- Đứng lại không tôi bắn!
Đoàn người vẫn không dừng lại. Ho giơ cao đuốc. Lội sồn sộn qua suối. Lòng suối phút chống sáng rực ánh đuốc. Tên đại uý chạy lại bảo khẽ mấy tên lính:
- " Bắn bổng đi!" Bọn lính tuân lệnh cất cao họng súng bắn "đoành đoành". Dòng người đuốc vẫn lội qua suối, tràn tới bờ bên kia. Chiếc hòm đỏ đã được đưa lên bờ. Chị Hai Thép nới chuyền ra sau:
- Nó bắn bổng, đừng sợ, đi đi!
Kinh nghiệm các cuộc đấu tranh đã từng dạy cho mọi người rằng giữa giờ phút này chỉ có tiến chớ không được lùi. Mà họ cũng nghe những phát súng bắn bổng kiểu đó nhiều lần rồi, nên họ vẫn bình tĩnh. Vả lại, mỗi người đi đây đều biết rõ ngoài việc đưa Sứ, họn cò có mục đích khác hết sức quan trọng là nhân lúc kéo tới chân Hòn, một số chị em sẽ chạy đến miệng hang liệng vào đấy những gói cơm, thức ăn và những chai nước mà họ đã chuẩn bị, đã bó chặt và giấu kín trong người từ lúc chạng vạng.
Gã đại úy Cao là một tên đã từng có kinh nghiệm đàn áp các cuộc đấu tranh nên việc hạ lệng bắn thẳng vào đoàn người gồm cả ngàn phụ nữ này là việc gã rất thận trọng. Đã đôi lần, chính gã suýt chết vì những quả đấm, những gậy gộc hoặc đá cục liệng vào ngườo khi gã cho nổ súng giết chết mấy người trong đoàn biểu tình nị. Ban đầu, gã cứ ngỡ là nếu bắn một người chết, ngàn người phải chùn lại. Lạ thay, lần nào hễ có một người chết, ngàn người đều tràn tới, đấm đạp, cấu xé vào gã và đồng bọn một cáh dữ dội. Nên bây giờ sau sáu phát súng bắn bổng, gã vẩn chưa dám hạ lệnh bắn thật. Hơn nữa, ngay từ hôm tới đây, tên thiếu tá đã căn dặn bọn gã: "Muốn tiêu diệt được tụi Việt Cộng trong hang, cần nhứt là không nên để nổ ra một cuộc đấu tranh chánh trị nào tại đây. Chọc ổ tụi đàn bà thì bô bối lắm!... Có gì mấy anh cũng phải đợi lệnh của tôi!"
Hôm đó, gã thầm phục thiếu tá là người sân sắc, thấy đơợc sự lợi hại. Bây giờ thì ổ đã động, đám đờn bà lội qua suối ùn ùn không chờ lệnh gì cả, gã biết làm sao được. Chỉ còn cách là gọi điện thoại cho thiếu tá.
Nghĩ thế, gã liền chạy tới lều truyền tin, chui vào vơ lấy ống điện thoại quay liên hồi. Bên kia đầu dây vọng lại tiếng ồ ồ ngái ngủ của tên lính trực máy:
- Ai kêu?
- Tôi đây, đại uý Cao ở tiểu đoàn ba đây. Cho tôi nói chuyện gấp với thiếu tá:
- Thiếu tá à, ổng ngủ rồi!
- Kêu dậy, kêu ổng dậy!.. Dân chúng họ biểu tình tràn qua suối rồi, mau đi!
Gã để ống nói nơi tai chờ. Tới năm phút sau, tờ bên kia mới có tiếng tên thiếu tá hỏi:
- Sao, dân chúng biểu tình hả?
- Dạ, phải. Họ đòi đem con nhỏ bị chém đi vô chân Hòn chôn, tôi không cho, họ kéo lại qua suối.
- Bắn dọa cho họ lui lại. Bắn đi!
- Thưa, bắn rồi mà họ vẫn không lui. Thưa, cho phép tôi bắn thật may ra...
- Bắn thiệt à... không, không, rắn rối lắm! Họ đã qua suối rồi hả, rượt theo, rượt theo ngăn cắt họ lại!
- Dạ dạ...
Gã đại uý bỏ ống nói ra, chạy ra ngoài, nhưng đã muộn rồi... Đứng trên bờ suối, gã chẳng còn thấy bóng một người bào nữa. Ngọn đuốc cuối cùng đã khuất vào vườn dừa. Chỉ còn thấy ánh đuốc hắt lên lá dừa chập chờn, loang loáng.
Khi gã đại úy dẫn một trung đội vượt suối rượt kịp khúc đuôi đoàn người thì cũng đúng lúc từ trong đoàn người vụt tách ra nhiều cái bóng đen, chạy riết về phía hang Hòn. Đó chính là những chị em đã được chị Hai Thép giao cho nhiệm vụ đem cơm nước vô miệng hang.
Cái bóng vụt lên trước tiên là Cà Mỵ. Một tay cô xách chai nước đã được bó lại bằng rơm, còn tay kia cô xách một gói cơm nếp nén chặt. Cà Mỵ chạy nhào tới, tất cả theo sau cô là những cô, những chị khác cũng xách nước xách cơm như cô.
Lúc Cà Mỵ chạy gần tới miệng hang, thình lình một phát súng từ trong bắn ra, nổ vang. May cho cô, viên đạn chỉ bay sướt qua tóc. Cô hoảng quá, đứng khựng lại, la ré lên, giọng lơ lớ:
- Tui đây, tui là Cà Mỵ đây, mấy anh ơi!... Tui tui đem cơm cho mấy anh mà!
Trong hang, người vừa bắn phát súng là một du kích. Anh rụng rời chúi mũi súng xuống:
- Trời ơi, Cà Mỵ đó hả? Có sao không?
- Không sao, không sao...
Cà Mỵ lắp bắp. Bóng cô lao tới miệng hang. Và cô chuồi nhẹ chai nước, gói cơm vào hang
- Mấy anh còn đủ không?
- Còn.
- Chị Sứ chết rồi, tụi tui đi đưa chị Sứ đây!
Cà Mỵ chỉ kịp hỏi và nói thế rồi chạy ngược trở ra. Người sau lại tới. Cứ thế mà liệng cơm, liệng chai nước vào. Mỗi một bóng người đều xưng tên, hỏi thăm trong hang ai còn ai mất, rồi chạy đi. Thoáng thấy bóng đen nào, từ trong cũng vẳng ra tiếng nhắn nhủ.
- Nói bà con yên tâm, tụi tôi chỉ bị thương có hai, tụi còn chiến đấu như thường!
- Bà con ngoài đó ráng đấu tranh với tụi nó. Phải đòi bồi thường tài sản bị phá. Phải làm rã ngũ tụi lính. Nhớ nghe, nhớ đấu tranh gắt lên, nghe!
- ờ, nhớ rồi, nhớ rồi!
Chợt có tiếng chú Tư Nghiệp thốt lên:
- Trời ơi, ai phải má con Lụa không?
- Phải... Phải, tía nó đó hả?... Tôi đây nè, tía nó ơi!.... Thôi tôi đi!...
Những câu hỏi hấp tấp và những câu trả lời vội vã. Người bên ngoài hỏi dồn người trong hang. Người trong hang nhắn gởi người ở ngoài. Tiếng những chai nước, gói cơm rơi lịch bịch xuống ngõ hang. Rồi tiếng thở hổn hển, tiếng chân phụ nữ lụi dụi chạy tới. Cái miệng hang sáng ánh trăng trong phút chốc đổ dồn hết bóng người này tới bóng người khác, mà bóng người nào cũng quen, cũng có kẹp tóc, búi tóc cả. Anh em du kích nhận ra em họ, con họ, vợ họ. Còn từ ngoài trông vào, các chị và các em gái chỉ thấy hang tối om, thấy những bàn tay chĩa ra chụp lấy họ. Tuy vậy, nghe tiếng nói, họ biết liền là chồng mình, là anh mình hay họ hàng lối xóm. Đều là những tiếng người thân thiết với mình cả. Năm ngày qua, họ không gặp mặt nhau, lo lắng cho nhau. Đêm thứ năm này, vầng trăng đã chứng kiến cái cảnh họ gặp nhau. Một nguồn cổ vũ kỳ lạ truyền đến cho từng người, ở trong cũng như ở ngoài, tại cửa hang mà năm ngày năm đêm địch không vào nổi. Nhữg người trong hang lòng náo nức biết rằng mình không cô độc. Những chị em sau khi vội vã chạy đi, họ mang theo cả niềm hy vọng rằng hang sẽ được giữ vững. Họ tin rằng đêm gặp gỡ hôm nay sẽ không phải là đêm cuối cùng.
Nhưng khi chị em đã chạy đi hết thì vẫn còn một bóng đen thấp bé ở lại với bóng một con chó chạy quẩn theo. Cái bóng đó tọt vào hang, đụng nhằm anh Ba Rèn.
Anh túm lấy, hỏi:
- Ai đây, sao không chạy đi?
- Tui, tui không về, tui có một trái lựu đạn!
Anh Ba Rèn chợt kêu:
- Trời ơi thằng út, mấy ông ơí
- Tui ở lại, tui không về đâu
Thằng út nói thế rồi luồn ra khỏi tay anh Ba Rèn, xớn xác quờ tay đi tới, đụng ai nó ôm nấy, ngọ ngoạy cái đầu trọc xửng bông gáo vô bụng những người đó. Nó cười khúc khích vẻ đắc chí.
- Mấy thím đó về thấy mất tui chắc hoảng hồn dữ
- út, út, mày đó hả út?
Bên trong có nhiều tiếng hỏi mừng rỡ. Thằng út nhận ra anh Năm Tấn. Nó nói:
- Chú Năm hả? Eo ơi, thím Năm ở nhà sợ chú chết rồi cứ thắp nhang vái tối ngày!
- Cái thằng dóc quá.... Nè, anh mày bị thương nằm trong kia, vô thăm anh mày đí
Thằng út đáp, giọng thản nhiên:
- Tui biết rồi, gấp gì, chút xíu tui vô thăm ảnh. Ba tui cũng biết nữa, ba tui nói đánh giặc bị thương là thường... à mà quên, tui chộp được của tụi lính một trái "láng", tui có đem theo đây nè. Mai, hễ tụi nó đánh vô tui rút chốn chia hai!
Trong hang mọi người nghe nói đều cười ồ:
- Mày thiệt con nít, chừng nào nột quá mình mới làm vật, chớ nó còn ở xa thì cứ liệng thôi, chia hai chi cho uổng mạng?
- Thằng út ậm ờ, nhưng nó nói bọc theo ngay:
- Thì... thì tui nói là gặp nột đó chớ
- ồ, nếu vậy thì được. Nhưng ở đây không đến nỗi ngặt quá phải chơi vậy đâu, bồ ơi! Hễ tụi nó vô là mình bắn hoặc liệng lựu đạn thôi!
- Vậy thì ngon quá
Thằng út xắng xở nói. Nó chợt hỏi:
- Chị út Quyên đâu mấy chú, chị út Quyên đâu?
- ở trong hang
Chợt thằng út đứng sững lại. Thình lình, mọi người nghe nó khụt khịt mũi liên tiếp mấy cái. Bỗng dưng nó nức nở òa lên kêu: - "Mấy chú ơi, chị Ba chết rồi...ư...ư....ư...".
Đứng giữa ngõ hang, nó khóc hù hụ. Ai kéo tay nó dỗ, nó cũng vùng ra, càu nhàu, tuồng như giận dỗi mọi người lắm vậy. Rồi cũng như lúc bắt đầu khóc, nó đột ngột ngưng khóc, đưa tay quệt nước mắt, hít mũi sẹt rẹt. Anh Hai Théo kéo tay nó, nói:
- út à, thôi, bây giờ mày ở lại đây với tụi tao. Nhưng tao dặn sau đây vô trong hang, có gặp con Thúy, mày không được hở miệng nói má nó chết nghe chưa? Nó mà biết thì nó khóc tụi tao dỗ không xiết đâu... à, còn mày nói mày có một trái láng hả? Đâu, đưa đây, đưa tụi tao cất cho!
Thằng út móc trái lựu đạn MK3 lộn ở lưng quần cụt ra đưa co anh Hai Théo. Nó dặn.
- Chú cất giùm tui. Hễ mất thì tui mắc đền chú!
- ừ, mất tao đền trái khác cho mày. Tụi tao có thứ này thiếu gì?
Anh em đã lượm gom lại số lương thực của đồng bào tiếp tế. Họ bấm đèn kiểm lại thấy có tới mười hai chai nước, mười hai gói ốp bẹ chuối bọc cơm nếp, cơm tẻ, và vài cái gói mo cau non bọc sáu bánh thuốc lá giông, một túi thuốc thơm hiệu Ru-bi, Những ốp bẹ chuối đựng cơm còn in dấu dau rọc tươi rói, rỉ nước. Anh em mở thử ra một ốp thì thấy cơm nếp nén, bên trong còn ấm... Giữa cơm nếp, nhét đầy những miếng thịt gà chiên vàng, thơm sực mùi tỏi sả. Anh em reo lên.
Phen này tươi rồi, nghe!
Anh Ba Rèn bảo:
Tối nay, phải bù lại mới được! Cho anh em ăn no, uống đã khát rồi tính gì thì tính. Sau đó mình hút Ru-bi, phun khói ra ngoài cho tụi lính ngửi chơi!
Anh Hai Thép nói:
Ru-bi thì có thể hút, nhưng ăn thì phải dè xẻn và uống đỡ khát thôi. Phải để dành... Có thể tụi nó còn vây mình lâu. Đề nghị giao tất cả những thứ này cho út Quyên giữ, để cô ta trọn quyền phân phối!
Phải, để út Quyên giữ, nhưng còn thuốc hút tôi lãnh giữ cho!
Chú Tư Nghiệp bảo. Mọi người đều cười rộ và đồng ý. Anh Ba Rèn le lưỡi.
Chú Tư Nghiệp nghiêm giọng:
Đừng nói vậy chớ Ba Rèn!... Tui coi trọng của chung chớ có "cá nhơn" cho tui đâu!
Ba Rèn cười hà hà