Ngày hôm sau, vào lúc mặt trời mọc, cơn bão vẫn còn tiếp tục hoành hành với tất cả sự hung dữ của nó. Mặt biển hiện ra trắng xóa cho đến tận chân trời xa tít. Ở đầu mũi đá, sóng biển sủi bọt lên cao tới hơn sáu mét và đám bụi nước, bị gió cuốn lên cao mãi tới thành vách đá. Nước triều xuống và các con sóng gặp nhau ở cửa vịnh Elgor, sự va chạm đó vô cùng khủng khiếp, không một tàu thuyền nào có thể vào ra ở cửa vịnh. Bầu trời vẫn còn u ám đe dọa, có thể thấy là trận bão này sẽ còn kéo dài thêm vài ngày nữa và điều này cũng chẳng lạ gì ở vùng biển Magellan này.
Hiển nhiên chiếc thuyền buồm của bọn cướp cũng không thể nào nhổ neo vào sáng nay. Ta dễ dàng hình dung ra cơn giận dữ của Kongre và bọn cướp trước tình hình thời tiết này. Và sau đây là những gì mà Vasquez biết được khi anh thức dậy sáng hôm sau vào lúc ánh bình minh mới ló dạng, giữa những cơn lốc của cát.
Quang cảnh hiện ra dưới mắt anh: Trên bờ bắc của mũi biển, ở khoảng cách hơn hai trăm bước chân, tức là bên ngoài vịnh, là xác con tàu bị đắm. Đó là một chiếc tàu ba buồm, trọng tải khoảng năm trăm tấn. Bộ cột buồm của nó chỉ còn lại là ba khúc gỗ gãy nham nhở. Căn cứ vào tình trạng đó, ta có thể đưa ra giả thiết: hoặc ông thuyền trưởng cho phép đốn hạ chúng để tàu thăng bằng, hoặc chúng bị gãy lúc tàu mắc cạn. Không có mảnh vỡ tàu nào được tìm thấy trên mặt biển, nhưng dưới sức gió như thế này có thể các mảnh vỡ đó đã trôi giạt ra ngoài vịnh Elgor cả. Nếu như thế thì giờ đây, bọn Kongre chắc cũng đã biết đêm qua có một chiếc tàu lâm nạn trên bãi đá của mũi San Juan.
Vasquez đã phải hết sức thận trọng và anh chỉ tiến ra khi đã chắc chắn không có tên cướp nào còn ở ngoài cửa vịnh. Chỉ mất vài phút là anh đã tới được chỗ xảy ra thảm họa. Nước triều lúc này xuống, anh có thể đi quanh con tàu lâm nạn và trên tấm biển gắn phía lái tàu anh đọc đã hàng chữ Century - Mobile.
Vậy ra đây là một tàu buồm Mỹ mà cảng xuất phát của nó là thủ phủ của bang Alabama ở phía nam, trên vịnh Mexique.
Chiếc Century đã bị mất sạch cả người lẫn của. Không thấy có ai còn sống sót ở quanh chỗ tàu đắm, còn về con tàu thì nó chỉ còn là đống gỗ sắt không hình thù. Vì va vào đá nên vỏ tàu đã vỡ làm hai mảnh. Sóng biển đã cuốn đi hầu hết hàng hóa. Các mảnh vỡ của vỏ tàu, rẽ sườn, trục căng buồm... nằm chỏng chơ, rải rác trên bờ đá cho thấy sức mạnh kinh khủng của gió bão. Những chiếc thùng gỗ, hòm gỗ và các ba lô rải rác trên cát và trên bờ đá.
Khung tàu của chiếc Century lúc này khô ráo, điều này giúp cho Vasquez có thể đi vào trong. Sự tàn phá trong tàu có thể coi như hoàn toàn. Sóng biển đã làm xáo tung tất cả lên. Sóng đã phá tung các tấm gỗ của boong tàu, mang đi cả tháp chỉ huy, làm long cả bánh lái tàu. Sau cùng, tất cả những bộ phận còn lại của tàu đã bị phá nát lúc tàu va chạm vào bờ đá. Không một ai còn sống sót từ sĩ quan cho đến thủy thủ đoàn!
Vasquez cất tiếng gọi rất to nhưng không nghe một tiếng người nào trả lời. Anh đi sâu vào tận trong khoang tàu nhưng vẫn không thấy xác một người nào cả. Hoặc những kẻ đáng thương ấy đã bị sóng biển cuốn đi từ trước, hoặc họ đã chết cả lúc tàu va vào bờ đá.
Vasquez lại đi lên bờ đá sau khi đã rõ chắc chắn là không có tên cướp nào trong bọn Kongre đang đi về phía con tàu lâm nạn; đoạn anh đi ngược lên đỉnh núi San Juan, mặc cho gió bão vẫn còn đang tiếp tục.
“Biết đâu - anh tự nhủ - mình lại không thể tìm thấy ai đó trên chiếc Century vẫn còn sống và như vậy là có thể cứu họ”.
Công cuộc tìm kiếm thật là vô vọng. Trở lại bờ đá, Vasquez đứng nhìn những gì còn sót lại của con tàu nằm rải rác trên cát.
“Biết đâu đấy - anh tự nhủ - mình lại tìm được một thùng lương thực nào giúp mình sống được vài ba tuần lễ!"
Ngay sau đó, anh kiếm được một chiếc thùng gỗ và một phuy tròn mà sóng biển đã ném chúng lên bờ đá. Những gì đựng trong thùng đã được ghi rõ bên ngoài: đây là thùng đựng bánh bích quy, còn chiếc phuy thì đựng thịt bò sấy khô. Chỗ lương thực này có thể nuôi sống anh ít ra là hai tháng.
Vasquez vác ngay thùng bánh về hang cách đó khoảng hai trăm mét, còn chiếc phuy thì phải lăn nó về.
Sau đó anh bèn quay về phía đầu mũi đá và đứng ngắm ra ngoài vịnh. Chắc chắn là Kongre phải biết có tàu đắm ở đảo. Đêm qua, từ trên tháp đèn làm gì mà bọn chúng không biết có con tàu đang lao vào bờ. Khi chiếc Maule còn đang kẹt trong vũng tàu, chắc chắn bọn cướp sẽ phải chạy ra cửa vịnh Elgor, để kiếm chác được chút gì qua vụ đắm tàu này không. Biết đâu lại chẳng có những thứ có giá trị, làm sao chúng lại bỏ qua một cơ hội tốt như vậy?
Khi tới khúc quanh của vách đá, Vasquez mới bất ngờ làm sao trước sự tàn phá khủng khiếp của gió bão.
Đúng lúc đó, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi khi mưa bão tạm ngưng, có một tiếng rên rỉ vọng đến. Đấy là một tiếng kêu đau đớn bằng một giọng yếu ớt gần tắt hơi.
Vasquez lao vội về phía có tiếng nói, về phía hốc đá mà anh đã núp trước khi tìm thấy cái hang. Đi được mới năm mươi bước, anh trông lên một người đàn ông nằm dài duỗi chân một tảng đá. Bàn tay ông ta vẫy vẫy như muốn cầu cứu.
Vasquez lập tức bước đến bên ông ta, người đàn ông khoảng từ ba mươi đến ba lăm tuổi trông có vẻ lực lưỡng. Ông ta mặc quần áo của thủy thủ, nằm nghiêng người về bên phải, mắt nhắm nghiền, hơi thở gấp gáp, thỉnh thoảng người lại co giật nhưng có vẻ như ông ta không bị thương tích gì, vì trên quần áo không có một dấu máu nào.
Người đàn ông này có thể là người sống sót duy nhất của tàu Century, ông ta không hề biết có Vasquez đến gần. Tuy nhiên, khi Vasquez đưa tay lên ngực thì ông ta cố gắng ngồi dậy, nhưng vì còn quá yếu nên lại buông người xuống cát. Sau đó ông ta mở to mắt ra và nói:
- Cứu tôi! Cứu tôi với!
Vasquez quỳ xuống bên người đó, cẩn thận đặt ông ta ngồi dựa vào bờ đá và nói:
- Này anh bạn... anh bạn... có tôi đây, nhìn vào tôi này... tôi sẽ cứu anh...
Đưa tay mình lên, đó là tất cả những gì mà con người bất hạnh kia còn có thể làm. Sau đó ông ta không còn biết gì nữa.
Cần phải chăm sóc đúng cách và không chậm trễ một chút nào nữa với tình trạng mong manh như thế của người đàn ông này.
“Nhờ Trời mà mình còn đến kịp” - Vasquez tự nhủ.
Cần phải lập tức đi khỏi nơi này vì bất cứ lúc nào bọn cướp cũng có thể đến đây, hoặc bằng xuồng, hoặc đi bộ men theo bờ vịnh. Mang ngay anh ta về hang đá vì ở đó sẽ an toàn hơn, đấy là điều mà Vasquez cần làm ngay. Sau khi đi được khoảng một trăm mét, mất khoảng mười lăm phút, anh lách mình vào hang, người đàn ông nằm bất động trên lưng anh. Sau đó anh để ông ta nằm dài trên một cái chăn, đầu gối lên bọc quần áo.
Người đàn ông vẫn chưa tỉnh lại nhưng vẫn thở đều. Tuy nhiên, nếu bề ngoài không có thương tích gì, nhưng bên trong, tay, chân có bị gãy không nếu va phải đá? Đó là điều làm Vasquez lo sợ, vì trong trường hợp ấy, chính anh cũng không biết phải làm gì! Anh bèn dùng tay sờ nắn tay chân nạn nhân và cảm thấy có thể ông ta vô sự.
Vasquez cho một ít nước vào tách, pha thêm vài giọt rượu mạnh còn sót lại trong bình toong và đổ vào miệng nạn nhân; đoạn anh xoa nắn tay và ngực nạn nhân, rồi thay quần áo ướt của ông ta bằng các quần áo tìm được ở trong hang đá của bọn cướp. Như thế là tất cả những gì mà anh có thể làm không thể nào làm hơn được. Cuối cùng thì anh được hài lòng khi thấy nạn nhân đã tỉnh lại. Người này còn tự ngồi dậy được, đoạn nhìn Vasquez, lúc này đang đỡ mình, ông ta nói bằng một giọng nghe đã khá hơn trước:
- Cho tôi uống... cho tôi uống…
Vasquez bèn đưa cho ông ta tách nước có pha rượu mạnh.
- Anh khá hơn rồi chứ? - Vasquez hỏi.
- Tốt!... tốt!... - Nạn nhân trả lời.
Rồi như muốn nhớ lại những chuyện vừa xảy ra, ông ta hỏi:
- Đây là đâu? Còn ông là ai?... Tôi đang ở đâu thế này? - ông ta vừa nói vừa nắm chặt lấy tay người đã cứu mình.
Ông ta nói tiếng Anh - ngôn ngữ mà Vasquez cũng biết.
Anh đáp:
- Anh đang ở nơi an toàn. Tôi tìm thấy anh ở trên bờ đá sau khi chiếc Century bị đắm.
- Century à!... Vâng, tôi nhớ ra rồi...
- Tên anh là gì?
- Davis... John Davis
- Anh là thuyền trưởng của tàu à?
- Không... tôi là thuyền phó... còn những người khác đâu?
- Tất cả đã chết... Vasquez trả lời - Chết hết. Anh là người duy nhất còn sống.
- Tất cả à?
- Phải, tất cả!
John Davis bàng hoàng trước sự thật đó. Anh là người duy nhất sống sót! Và do đâu mà anh lại còn sống! Anh hiểu cả, anh đã chịu ơn cứu mạng của một con người không quen biết đang ân cần cúi xuống bên anh.
- Cám ơn, cám ơn anh... - Anh nói trong khi một giọt lệ lớn đang lăn trên má.
- Anh có đói không? Anh muốn ăn chút gì không? Một cái bánh bích quy với thịt sấy nhé? - Vasquez hỏi.
- Không... không... cho tôi uống nước nữa!
Nước lạnh trộn với rượu mạnh thật tốt cho John Davis, bởi vì anh đã có thể trả lời mọi câu hỏi của Vasquez.
Sau đây là vắn tắt về những gì anh kể:
Tàu Century là tàu ba cột buồm, trọng tải năm trăm tấn, xuất phát từ hải cảng Mobile, rời bờ biển nước Mỹ từ hai mươi ngày trước. Thủy thủ đoàn của tàu bao gồm: thuyền trưởng Harry Stewart, thuyền phó John Davis và mười hai người nữa, trong đó có một thiếu sinh quân và một bếp trưởng. Tàu chở Niken, một số hàng không cước đi Melbourne ở Úc. Hải trình của nó suôn sẻ cho đến tận vĩ độ năm mươi lăm nam ở Đại Tây dương. Rồi một trận bão lớn ập đến từ đêm hôm qua và ngay từ đầu, chiếc Century đã bị gãy cột buồm lái cùng với toàn bộ buồm sau. Một lúc sau, một con sóng khủng khiếp đã tràn qua tàu, cuốn theo tháp chỉ huy cùng hai lính thủy. Ý định của thuyền trưởng Stewart là cố tìm một chỗ để trú ẩn sau hòn đảo Đa Quốc gia trong eo biển Lemaire. Ông ta tự tin vào tình hình của tàu và đã định trước đường đến nơi trú ẩn ngay từ lúc ban ngày. Con đường này có vẻ thuận lợi cho việc vượt qua mũi Horn rồi sau đó ngược lên về phía bờ biển châu Úc.
Nhưng cho đến đêm thì cường độ cơn bão đã tăng gấp đôi. Toàn thể buồm đều bị rách trừ lá buồm mũi và lá buồm nhỏ trên đài, thế là con tàu bị gió cuốn đi.
Vào lúc ấy thuyền trưởng cứ tưởng là còn cách bờ biển đến hơn hai chục hải lý và cho rằng sẽ chẳng có nguy hiểm nào đến với con tàu, chừng nào còn chưa thấy được ánh đèn của ngọn hải đăng. Chiếc Century tiếp tục đi theo hướng gió và Harry Stewart cho rằng một giờ đồng hồ nữa tàu sẽ gặp hải đăng vì ánh đèn hải đăng chiếu xa mười hải lý.
Nhưng ông ta đã không thấy ánh đèn và cho là tàu còn cách bờ đá khá xa, chợt một tiếng đập khủng khiếp vang lên cho biết tàu đã va vào đá. Ba lính thủy, lúc đó đang ở trên cột buồm, đã bị bắn xuống biển cùng với hai cột buồm mũi và buồm giữa. Đồng thời nước biển tràn như thác đổ vào khoang tàu lúc đó đã vỡ toác ra, rồi thuyền trưởng, thuyền phó và những thủy thủ còn lại bị ném qua boong lên bờ đá mà không ai hy vọng sống sót.
Như vậy chiếc Century đã thiệt hại vừa người vừa của.
Duy chỉ có thuyền phó toàn Davis là thoát chết, nhờ sự cứu giúp của Vasquez.
Giờ đây chính Davis cũng chưa rõ con tàu của ông đã va vào bờ đá của bờ biển nào.
Ông bèn hỏi lại Vasquez:
- Chúng ta đang ở đâu thế?
- Ở đảo Đa Quốc gia.
- Đảo Đa Quốc gia! - John Davis bật ngửa trước câu trả lời.
- Đúng thế... đảo Đa Quốc gia - Vasquez nhắc lại - đảo này ở cửa vịnh Elgor!
- Thế còn ngọn hải đăng trên đảo?
- Hải đăng không được thắp sáng!
John Davis với nét mặt vô cùng ngạc nhiên chờ Vasquez giải thích thì bỗng nhiên anh này đột ngột đứng dậy, lắng tai nghe. Anh tưởng mình và nghe thấy những tiếng động đáng ngờ và muốn xác định lại xem băng cướp có ở đâu đó không. Anh lách mình qua khe đá ở cửa hang và phóng tầm nhìn xuống bờ biển kéo dài tới mũi San Juan.
Không một bóng dáng người trong khi sóng gió vẫn tiếp tục gào thét. Sóng biển vẫn liên tục đập vào bờ đá bằng một sức mạnh vô song, mây đen vẫn vờn đuổi nhau đầy đe dọa nơi chân trời, tung tóe bụi nước mù mịt khắp nơi.
Tiếng động mà Vasquez vừa nghe được là do sự vỡ tan tành của chiếc Century. Dưới sức mạnh của gió, đuôi tàu quay ngược lại, gió lùa vào khoang tàu, thổi thốc nó bay lên bờ đá. Con tàu quay lông lốc như một cái thùng rỗng, sau cùng nó va vào vách đá vỡ tan tành. Ở chỗ con tàu mắc cạn, chỉ còn lại xác của nửa con tàu, xung quanh nó là hàng ngàn mảnh vỡ rải rác khắp nơi.
Vasquez bèn quay vào hang, nằm dài ra cát bên cạnh John Davis. Lúc này người thuyền phó của chiếc Century đã lại sức, ông ta đã có thể tự đứng dậy và nhờ vịn vào tay người bạn mới, ông đã có thể đi xuống bờ biển. Nhưng Vasquez đã giữ lại và sau đó John Davis hỏi anh lý do tại sao cây đèn biển lại không hoạt động đêm đó.
Vasquez liền cho ông biết về những điều ghê tởm đã diễn ra bảy tuần trước đây ở vịnh Elgor. Sau khi chiếc tuần dương hạm Santa-fé quay về, trong vòng hai tuần lễ tiếp theo, không có điều gì đã ngăn trở công việc ở hải đăng, lúc đó được trao cho tồ bảo vệ đèn gồm có Vasquez và hai người bạn anh là Felipe và Moriz. Trong thời gian đó đã có nhiều tàu thuyền qua lại đảo và những tàu đó đã trao đổi tín hiệu đều đặn với đảo.
Nhưng đến ngày 26 tháng Chạp, vào khoảng tám giờ có một chiếc thuyền buồm xuất hiện ở cửa vịnh. Từ trên phòng trực lúc ấy là ca của Vasquez, anh đã theo dõi đèn hiệu trên tàu và anh đã chứng kiến cách thức di chuyển của nó. Theo nhận xét của anh thì viên thuyền trưởng này biết rất rành rẽ về bờ biển này vì con tàu đã lướt đi một cách rất tự tin.
Khi đến vũng ở ngay dưới chân của hải đăng thì chiếc thuyền buồm này neo đậu lại. Ngay tức thì hai bạn anh là Felipe và Moriz liền đáp xà lúp từ hải đăng ra tàu, bước lên boong để sẵn sàng giúp đỡ họ, và họ đã bị bọn cướp sát hại một cách hèn hạ. Họ đã ngã xuống khi trong tay không có một phương tiện tự vệ nào cả.
- Họ thật bất hạnh! - John Davis thốt kêu lên.
- Vâng! Họ là những đồng sự bất hạnh của tôi! – Vasquez nhắc lại trong khi nỗi buồn trở lại với anh cùng với những kỷ niệm đau thương ấy.
- Còn anh thì sao, Vasquez? - John Davis hỏi.
- Tôi lúc đó đang ở trên hành lang của tháp đèn, tôi có nghe tiếng kêu của các bạn tôi. Tôi đã hiểu chuyện gì vừa xảy ra... thì ra đó là một con tàu của hải tặc, chiếc thuyền buồm đó... Chúng tôi có ba người trong tổ bảo vệ đèn!... Chúng đã giết hai và tỏ ra không lo ngại gì về người còn lại.
- Anh làm thế nào để có thể thoát khỏi tay chúng? – John Davis hỏi.
- Tôi lập tức chạy xuống cầu thang, lao vào trong phòng ở, nhặt vội chút lương thực và chạy vào rừng trước khi bọn cướp đổ bộ và tôi ẩn mình trong khu vực này từ đó.
- Bọn khốn nạn... bọn khốn nạn! - John Davis nhắc lại - Chúng đã làm chủ hải đăng mà lại không chịu thắp đèn lên nữa chứ. Chính chúng đã gây ra thảm họa cho tàu Century. Chính chúng đã gây ra cái chết của thuyền trưởng cùng thủy thủ đoàn của tàu!
- Phải, đúng là bọn chúng đã bày ra trò này - Vasquez nói - và sau lần nghe được cuộc nói chuyện giữa tên đầu đảng cướp với một đồng bọn, tôi mới hiểu ra ý định của chúng.
Lúc đó John Davis mới hiểu là băng cướp đã ở nhiều năm trên hòn đảo Đa Quốc gia này, chúng tìm cách để lừa tàu nào đi ngang qua đây sẽ ghé vào để đụng phải đá, sau đó tàn sát các nạn nhân, rồi cướp bóc các thứ quý giá đem về cất trong một hang đá, chờ cho đến khi đoạt được một con tàu. Giữa thời gian đó thì có sự kiện xây dựng hải đăng. Thế là băng cướp buộc phải bỏ vịnh Elgor, lùi vào mũi Saint Barthélemy thuộc đầu kia của đảo để ẩn nấp, và không bị ai phát hiện.
Việc xây dựng hải đăng kết thúc, băng cướp quay lại đây đã hơn một tháng rưỡi, nhưng lần này chúng đã chiếm được một chiếc thuyền buồm mắc cạn ở mũi Saint - Barthélemy, toàn thể thủy thủ đoàn của tàu đó đã chết.
- Thế tại sao chúng chưa bỏ đi cùng với số của cải cướp được? - John Davis hỏi.
- Đó là do con tàu cần phải sửa lại mới ra khỏi được và đấy là lý do đã giữ chân chúng lại đảo cho đến hôm nay... Nhưng, tôi đã nghe ngóng là những sửa chữa đã xong, hàng hóa, của cải cũng đã mang lên tàu và chúng có thể sẽ khởi hành ngay sáng nay.
- Chúng đi đâu?
- Đi về những đảo trên Thái Bình dương, nơi mà bọn chúng cho là an toàn để tiếp tục làm cướp biển.
- Và chiếc thuyền buồm ấy sở dĩ chưa nhổ neo là do có cơn bão này?
- Đúng thế - Vasquez đáp - và theo tình hình thời tiết này thì sự chậm trễ ấy có thể còn kéo dài đến cả tuần lễ.
- Và chừng nào chúng còn ở đó thì hải đăng vẫn chưa được thắp lên?
- Đúng thể.
- Và sẽ còn nhiều tàu thuyền khác sẽ phải chịu chung số phận như chiếc Century?
- Quá đúng đi chứ!
- Thế ta không thể từ bờ biển ra hiệu cho các tàu thuyền khi chúng lại gần bờ à?
- Có chứ... có thể đốt lửa trên bờ đá, ở đầu mũi San Juan. Đấy là điều tôi đã thử làm để cảnh báo cho tàu Century. Tôi định nhóm một đống lửa bằng các mảnh ván của xác tàu và cỏ khô. Nhưng gió thổi quá mạnh nên lửa không cháy.
- Này anh Vasquez, điều anh chưa làm được chúng ta sẽ làm - John Davis đề nghị - Gỗ thì ở đây không thiếu, có thể lấy ngay ở xác con tàu đáng thương của tôi... Bởi vì nếu chiếc thuyền buồm chưa ra khơi được, nếu ngọn hải đăng mà còn chưa được các tàu thuyền nhận ra thì sẽ còn xảy ra nhiều thảm họa khác.
- Dù sao chăng nữa - Vasquez nói - bọn chúng cũng không thể kéo dài thời gian ở đảo nhiều hơn. Thế nào chiếc thuyền buồm cũng sẽ khởi hành ngay khi thời tiết cho phép…
- Tại sao? - John Davis hỏi.
- Bởi vì chúng phải biết là tổ gác đèn thay thế thế nào cũng sẽ tới đảo trong nay mai.
- Có tổ thay thế à?
- Có chứ, họ sẽ đến đảo vào đầu tháng ba, mà bây giờ đã là 18 tháng Hai rồi.
- Như vậy là sẽ có một con tàu đến đây?
- Đúng thế, tuần dương hạm Santa-fé sẽ từ Buenos Aires ra đây vào ngày 10 tháng Ba hoặc sớm hơn.
Có lẽ John Davis cũng vừa thoáng có một ý nghĩ như của Vasquez.
- A! - Anh vụt kêu lên - nếu thế thì tình hình sẽ thay đổi. Mong sao thời tiết cứ tiếp tục xấu cho đến lúc đó, và mong sao Trời cứ bắt bọn khốn ấy chôn chân ở đây cho đến lúc chiếc Santa-fé đến buông neo trong vịnh Elgor!
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Bọn chúng tất cả mười hai tên, không kể hai tên cầm đầu là Kongre và Carcante. Tất cả đều có chung bản năng là thích cướp bóc.
Đêm hôm trước, khi mặt trời sắp khuất sau chân trời, từ trên hành lang của tháp đèn, Carcante đã phát hiện ra con tàu ba buồm đang đi tới từ phía đông. Khi được nghe báo, Kongre cho rằng con tàu này bị gió bão bất ngờ nên muốn đến eo biển Lemaire tìm chỗ núp trong bờ biển phía tây của đảo. Lúc trời còn sáng, hắn có thể theo dõi đường đi của con tàu, nhưng khi đêm đã xuống, căn cứ vào đèn hiệu của tàu, chẳng mấy khó khăn, hắn cũng nhận ra lúc này con tàu đã bị hư hại một phần và hắn hy vọng không thấy đèn hải đăng con tàu sẽ đâm vào bờ biển. Nếu Kongre cho thắp đèn lên, thì ắt là con tàu sẽ thoát nạn. Hắn cương quyết không làm điều đó và đã thấy các đèn hiệu của chiếc Century biến mất thì không còn nghi ngờ gì nữa, con tàu đã vỡ tan tành ở khoảng giữa mũi San Juan và mỏm Several.
Hôm sau, giông bão vẫn không giảm, vẫn vô cùng tàn khốc. Không thể nào nghĩ tới chuyện đưa chiếc thuyền buồm ra khơi. Một sự chậm trễ không thể nào tránh được, một sự chậm trễ có thể kéo dài vài ngày và điều này có thể có hậu quả rất nghiêm trọng, trước viễn cảnh con tàu đưa tổ gác thay thế ra đảo sẽ đến bất chợt không biết khi nào.
Dẫu cho Kongre và đồng bọn có bực mình đến đâu đi nữa thì chúng vẫn phải đợi. Vả lại, dù sao thì hôm nay mới là 19 tháng Hai. Từ bây giờ đến cuối tháng thế nào bão cũng dứt. Và chỉ cần trời yên biển lặng là ngay lập tức chiếc Carcante sẽ nhổ neo để ra khơi.
Nhưng giờ đây vừa có một con tàu bị đắm, phải chăng đây là cơ hội để vơ vét thêm vài món đồ quý giá, làm tăng thêm của cải chất lên tàu? Sự gia tăng của cải này ít ra cũng bù đắp cho những trục trặc mà bọn chúng đã phải chịu đựng.
Vấn đề không cần bàn cãi lâu, có thể nói tất cả bọn chúng đều là những con chim đói mồi cả. Chiếc xà lúp ngay lập tức đã chuẩn bị để lên đường. Bọn chúng phải vật lộn vất vả với sóng gió mới đưa được chiếc xuồng tiến lên. Chỉ cần một tiếng rưỡi đồng hồ là chúng có thể đến chỗ vách đá. Nhưng lúc về, nhờ xuôi gió nên có thể nhanh hơn.
Chiếc xà lúp cặp bờ bắc của vịnh, ngay phía trước hang đá. Toàn băng cướp vội vã nhảy xuống và đi về phía xác con tàu. Chính lúc ấy là lúc mà câu chuyện giữa John Davis và Vasquez phải tạm ngưng vì những tiếng kêu của bọn cướp vọng đến.
Vasquez ngay lập tức bò đến trước cửa hang, cố để không bị phát hiện. Một lát sau thì John Davis đã bò đến bên anh:
- Này anh! - Vasquez nói - Để mặc tôi xoay xở! Anh cần phải nghỉ ngơi.
- Không cần đâu - John Davis đáp - Tôi đã lại sức, vả lại tôi cũng muốn xem mặt mũi chúng ra sao.
Thuyền phó của chiếc Century này đúng là một con người nghị lực, một người con của châu Mỹ có ý chí sắt đá. Ông thuộc loại người hễ muốn là làm, trừ phi hồn lìa khỏi xác như người ta thường ví von. Đồng thời với nghề thủy thủ, ông ta cũng thuộc loại cừ, đã từng phục vụ trong hải quân Hoa Kỳ với chức vụ trung úy, trước khi chuyển sang dân sự. Nếu chuyến đi của chiếc Century vừa qua suôn sẻ thì sau khi trở về cảng Mobile, Harry Steward sẽ về hưu và chức thuyền trưởng sẽ được trao cho John Davis. Với cá nhân ông, thì đấy cũng là một nguyên nhân làm ông nổi giận. Con tàu mà nay mai ông sẽ là thuyền trưởng, giờ đây chỉ còn là một đống gỗ sắt không hình thù.
Nếu như Vasquez có bao giờ cảm thấy cần một ai đó để vực dậy lòng can đảm nơi anh, thì con người đó chính là John Davis.
Nhưng cho dù có cương quyết và can đảm đến đâu thì chỉ với hai người làm sao có thể đương đầu với Kongre và cả băng cướp?
Núp đằng sau một tảng đá, Vasquez và John Davis cẩn thận quan sát bờ biển bắt đầu từ đây kéo dài cho đến mũi San Juan.
Kongre, Carcante và những tên khác lúc này đang dừng chân ở chỗ mà gió bão đã cuốn nửa chiếc vỏ của tàu Century lên đập vào vách đá vỡ tan tành. Bọn cướp chỉ đứng cách cửa hang đá khoảng hai trăm bước, vì thế có thể thấy rõ những đặc điểm của chúng. Chúng đều mặc áo choàng kín đầu bằng vải nhựa bó sát người, trên đầu đứa nào cũng đội một cái mũ cũng bằng vải nhựa, buộc chặt vào cằm. Bọn chúng cũng phải vất vả chống đỡ với mưa bão, điều này cũng dễ thấy. Đôi khi chúng phải cong người lại, tay bám vào một khúc gỗ của xác tàu hay một mỏm đá để khỏi bị gió thổi lật ngã. Vasquez liền chỉ cho John Davis những tên mà anh đã biết từ hôm vào hang của chúng.
- Cái thằng to lớn kia - anh nói - nó đứng gần xác tàu Century ấy, nó chính là Kongre.
- Tên đầu đảng phải không?
- Đúng thế.
- Thế còn cái tên đang nói chuyện với hắn là ai?
- Đó là Carcante, phó băng... Tôi đã trông thấy nó từ trên cao, chính nó là một trong những tên đã giết bạn tôi.
- Và anh sẵn sàng đập vỡ mặt nó ra chứ? - John Davis hỏi.
- Tôi sẵn sàng đập chết hắn và tên đầu sỏ như đập những con chó dại! - Vasquez đáp.
Bọn cướp mất gần một giờ đồng hồ cho việc tìm tòi ở chiếc vỏ tàu vỡ nát đó. Chúng lục lọi mọi chỗ. Chỗ Niken chứa trong khoang tàu, chúng không biết dùng để làm gì nên vứt bừa bãi trên bờ đá. Nhưng trong đám đồ tầm tầm mà tàu chở theo, có những thứ hợp với chúng. Vì thế, nên chúng khuân đi ba thùng lớn cùng nhiều chiếc ba lô chất lên xà lúp.
- Nếu bọn khốn này muốn tìm vàng bạc, tiền nong, nữ trang có giá trị... thì chúng sẽ không thấy gì đâu – John Davis nói.
- Đúng là chúng muốn tìm những thứ ấy thật - Vasquez đáp - Trong hang đá của chúng có rất nhiều của cải và như vậy thì các tàu thuyền bị đắm ở vùng biển này phải chở nhiều đồ quý giá lắm. Như vậy, chiếc thuyền buồm hiện giờ phải chứa cả một kho của cải đáng giá đấy, Davis ạ.
- Tôi hiểu - Davis đáp - và bọn chúng rất nóng lòng muốn mang số của cải đó đi... Nhưng chúng sẽ không có được cái may mắn đó đâu!
- Nếu vậy thì thời tiết cần phải cứ xấu như thế này trong nửa tháng nữa - Vasquez nói.
- Hoặc giả chúng ta tìm ra một kế nào khác.
John Davis chưa thể nghĩ gì hơn thế... Tóm lại, làm thế nào để ngăn chiếc thuyền buồm ra đi khi bão tố giảm dần, trời sẽ đẹp và mặt biển êm ả lại?
Giữa lúc đó bọn cướp đã rời nửa con tàu này để bước về phía nửa kia, nằm ở nơi mắc cạn gần mũi vịnh. Từ chỗ nấp, Vasquez và John Davis vẫn còn có thể trông thấy bọn chúng nhưng hơi xa một chút. Nước triều đang xuống và mặc dầu gió vẫn còn lạnh nhưng các mỏm đá đã lộ ra phần lớn. Bây giờ có thể dễ dàng đi xuống gần xác chiếc tàu ba buồm.
Kongre và hai tên nữa chui vào trong xác tàu. Đó là phần sau của thân tàu, mà theo lời John Davis nói với Vasquez thì đó chính là kho chứa lương thực của tàu. Rất có thể kho lương thực đã bị sóng biển cuốn đi. Tuy nhiên vẫn còn khả năng còn lại một số.
Đúng như thế, nhiều tên trong bọn cướp khuân từ trong đó ra nhiều hòm gỗ, nhiều thùng phuy mà chúng lấy chân đẩy cho lăn trên cát về hướng chiếc xà lúp. Nhiều ba lô đựng áo quần cũng được bọn chúng lôi ra từ trong xác tàu và mang về xà lúp.
Cuộc vơ vét kéo dài khoảng hai tiếng đồng hồ, sau cùng Carcante cùng hai tên nữa dùng búa tháo gỡ bảng mang tên con tàu, chỉ cách mặt đất chừng một mét.
- Chúng làm thế để làm gì nhỉ? - Vasquez hỏi - Còn có gì ở cái xác tàu đó nữa mà còn đập phá thêm? Tại sao chúng làm vậy?
- Điều chúng muốn, tôi đã đoán ra - John Davis đáp – đó là chúng muốn xóa sạch dấu vết con tàu để lại, từ cái tên tàu đến quốc tịch của nó, nghĩa là sẽ không có ai biết là đã có một con tàu mang tên Century lâm nạn ở vùng biển Đại Tây dương này.
John Davis đã không lầm. Vài phút sau Kongre đi từ trong tháp chỉ huy ra với chiếc cờ Mỹ mà hắn tìm được trong cabin của thuyền trưởng và nó xé chiếc cờ ra hàng trăm mảnh.
- A! Tên khốn nạn! - John Davis kêu lên - nó xé lá cờ của đất nước tôi!
May mà Vasquez còn kịp giữ lấy tay anh ta lại, vào lúc không làm chủ được mình, anh định lao xuống bờ đá.
Rồi cuộc vơ vét cũng kết thúc. Chiếc xà lúp đã chất đầy hàng. Kongre và Carcante trở lại phía chân vách đá. Trong lúc chúng đi qua đi lại bên ngoài cửa hang mà Vasquez và John Davis đang ẩn núp, hai anh còn nghe chúng nói chuyện với nhau:
- Như vậy là ngày mai chúng ta chưa ra khỏi đây được.
- Ừ, tao sợ là cái thời tiết ôn dịch này còn kéo dài thêm vài ba ngày nữa.
- À! Mà ta đâu bị lỗ vốn về chuyện chậm trễ này.
- Đúng vậy, nhưng tao đã hy vọng là sẽ tìm được nhiều thứ trên một con tàu Mỹ như chiếc này!... Chiếc cuối cùng mà chúng ta kéo được nó vào bãi đá chỉ mang lại cho ta có khoảng năm chục ngàn đô la.
- Tàu bị đắm đâu phải chiếc nào cũng giống chiếc nào - Carcante nói với giọng triết lý – Lần này mình đụng phải một bọn nghèo mạt rệp, thế thôi.
Trong một phút giận dữ không kiềm chế nổi, John Davis định lấy súng lục ra bổ vào đầu tên cướp, nếu Vasquez không giữ tay anh lại một lần nữa.
- Đúng, anh làm như vậy là rất đúng! - John Davis công nhận - Nhưng tôi không thể nào quen với ý nghĩ rằng bọn khốn kiếp này sẽ không bị trừng trị... Và mai đây, chiếc thuyền buồm của chúng có rời được khỏi đảo, thì biết chúng ở đâu mà tìm, biết chúng đi đâu mà theo dõi?
- Cơn bão này chưa tan ngay được đâu - Vasquez nhận xét - Cho dù gió có yếu đi thì biển vẫn còn động trong nhiều ngày nữa. Chúng chưa thể ra khỏi vịnh được, hãy tin tôi đi.
- Tôi tin anh, Vasquez ạ, nhưng có chắc là từ nay đến đầu tháng sau chiếc tuần dương hạm sẽ đến đảo không. Anh nói với tôi điều đó phải không?
- Có thể còn sớm hơn thế, Davis ạ, biết đâu đấy.
- Cầu Trời được như thế!
Điều chắc chắn là cơn bão chưa muốn dịu đi và ở vĩ tuyến này, ngay cả trong mùa đẹp trời, thì những biến động thời tiết cũng kéo dài cả nửa tháng. Nếu gió thổi từ phía nam lên, nó sẽ mang theo hơi lạnh của mùa đông địa cực. Bắt đầu từ bây giờ, các tàu săn cá voi đã chuẩn bị rời địa cực, bởi vì từ tháng Ba trở đi là địa cực sẽ có những tảng băng nổi. Nhưng, cũng có thể trong bốn, năm ngày nữa biển sẽ tạm ngưng gió bão trong một khoảng thời gian ngắn và chiếc thuyền buồm sẽ lợi dụng lúc này để ra khơi.
Mãi cho đến bốn giờ chiều hôm đó, Kongre và đồng bọn mới lên xà lúp trở về. Sau khi buồm được kéo lên, chiếc xà lúp nhanh chóng khuất dạng ở phía bờ bắc của vịnh. Đến đêm thì gió bão có vẻ như mạnh hơn. Một trận mưa lạnh buốt tuôn xối xả từ những đám mây đến từ hướng đông nam.
Vasquez và John Davis không thể nào rời khỏi hang đá. Khí lạnh tỏa ra nhiều đến nỗi hai người phải đốt lửa lên sưởi. Đống lửa nhỏ được nhóm lên ở một góc hang đá. Bờ biển lúc này vắng lặng, bóng đêm dày đặc, họ không có gì phải lo sợ cả.
Đêm hôm đó thật kinh khủng, sóng biển vẫn đập liên tục vào bờ đá. Đôi lúc người ta nghe như cả một cơn sóng thần đang đổ bộ vào bờ biển phía đông. Chắc chắn là một cơn sóng lừng khủng khiếp đi vào trong lòng vịnh và Kongre sẽ phải rất vất vả để giữ cho con tàu Carcante ở yên nơi neo đậu.
- Chiếc Carcante chắc bị tan tành thành mảnh vụn thôi - John Davis nói - và những mảnh vỡ của nó thế nào cũng trôi ra bể cùng với nước triều buổi sáng? Còn về cái vỏ tàu Century, ngày mai chắc chắn sẽ không còn gì ngoài những mảnh vỡ rải rác trên bờ đá.
Cơn thịnh nộ của đất trời có lẽ đã đạt tới đỉnh điểm. Đó là tất cả những gì mà Vasquez cùng người bạn mới đã nhận xét vào sáng hôm sau. Tất cả không còn gì nữa. Không ai có thể hình dung ra một cuộc xáo trộn đến như vậy của tạo vật. Nước mưa trên trời lẫn vào biển cả.
Và thời tiết cứ tiếp tục như thế suốt ngày hôm đó và cả đêm hôm đó nữa. Trong khoảng bốn mươi tám tiếng đông hồ đó, không có con tàu nào xuất hiện ngoài khơi của đảo, và ta có thể hiểu rằng những con tàu đó muốn bằng mọi giá, tránh xa cái vùng biển Magellan nguy hiểm đang bị bão táp dập vùi này. Cả trong eo biển Magellan và eo biển Lemaire, đều không thể tìm ra một nơi trú ẩn cho qua cơn phong ba dữ dội như thế này. Điều duy nhất giúp họ thoát nạn là sự chạy trốn, và trước mũi tàu của họ chỉ là biển cả bao la.
Đúng như dự đoán của John Davis và Vasquez, chiếc vỏ tàu Century đã bị gió bão phá hủy hoàn toàn và vô vàn mảnh vỡ, đủ phủ kín bờ đá kéo dài tới chân vách đá.
May mắn thay, vấn đề lương thực không còn là mối bận tâm của hai người nữa. Với số đồ hộp kiếm được từ chiếc Century, họ có thể sống được hơn một tháng nữa. Mà trong khoảng thời gian ấy chỉ chừng mười hai ngày nữa là con tàu Santa-fé sẽ đến đây. Lúc ấy bão chắc hẳn đã tan và chiếc tuần dương hạm sẽ dễ dàng nhận ra mũi San Juan này.
Chính con tàu mà cả hai đang nóng lòng mong đợi đó đã trở thành đề tài quen thuộc của các cuộc nói chuyện giữa hai người.
- Mong sao cho gió bão thế này cứ kéo dài để cản không cho chiếc thuyền buồm của bọn cướp ra khơi, và cũng cầu sao cho mưa gió sẽ tạnh để cho chiếc Santa-fé đến đảo. Đó là tất cả những gì mà tôi muốn bây giờ - Vasquez thường hay kêu lên một cách ngây thơ như vậy.
- A! - John Davis đáp - nếu chúng ta mà chi phối được mưa gió thì điều đó nhất định xảy ra. Tiếc thay, mưa gió lại là của Trời. Mà Trời cũng không muốn cho lũ khốn nạn kia thoát khỏi sự trừng phạt về những tội ác của chúng - John Davis nhận định bằng cách dùng những chữ vốn hay được Vasquez dùng trước đây.
Cả hai cùng nung nấu khát vọng trả thù và họ đã gặp nhau trong cùng một ý tưởng.
Ngày 21 và ngày 22, tình hình cũng không mấy thay đổi, ít ra là như vậy. Có thể gió có hơi chếch về đông bắc. Nhưng sau một giờ tạm lắng dịu, gió đã trở lại như cũ và giáng xuống đảo hàng tràng cơn giông khủng khiếp.
Không cần phải nói, trong bọn cướp không một đứa nào ló mặt ra bên ngoài. Có lẽ bọn chúng lại lo cho chiếc thuyền buồm sao cho nó tránh khỏi mọi hư hại để có thể đến trong cái vũng tàu mà nước triều đã đầy ắp do mưa bão.
Ngày 23, trong buổi sáng, thời tiết đã khá hơn một chút. Ngay sau một lúc ngập ngừng, cuối cùng hướng gió cố định ở hướng đông - đông bắc. Rồi những khoảng trời quang đãng xuất hiện, trước còn hẹp, sau cứ lớn dần và làm lộ ra chân trời phía nam. Mưa đã lạnh và nếu gió còn thổi mạnh thì điều đó chỉ càng làm cho trời quang đãng thêm.
Biển vẫn còn động, sóng vẫn đánh dữ dội vào bờ biển. Cửa vịnh vẫn chưa thể khai thông và dĩ nhiên là chiếc thuyền buồm vẫn chưa thể ra khơi trong vài ngày sắp tới. Liệu Kongre và Carcante có nhân lúc thời tiết đã khá hơn để đi tới mũi San Juan quan sát tình hình mặt biển không?
Có thể lắm, rất có thể là đằng khác và những biện pháp thận trọng phải không được lơ là. Tuy nhiên, bọn chúng chắc không thể đến ngay lúc sáng sớm. Do đó John Davis và Vasquez cũng thử liều ra khỏi hang đá một lát. Đã hai ngày các anh không ra khỏi hang rồi.
- Gió này chắc vẫn tiếp tục thổi mạnh chứ? – Vasquez hỏi.
- Tôi e rằng như vậy - John Davis đáp.
Bản năng thủy thủ trong anh không bao giờ sai lầm. Trời sẽ còn tiếp tục xấu ít nhất là mươi hôm nữa. Anh đứng khoanh tay ngắm trời, ngắm biển. Lúc này, Vasquez đã tiến lên phía trước vài bước chân, Davis liền đi theo bạn dọc theo vách đá.
Đột nhiên, chân anh đá vào một vật gì bị vùi lấp một phần trong cát, qua tiếng vang anh biết là vật ấy bằng kim loại. Anh cúi xuống và nhận ra đấy là thùng đựng thuốc súng dùng cho hai khẩu đại bác để bắn pháo hiệu trên tàu Century.
- Cái món này không biết dùng làm gì đây - anh nói - A! Nếu có thể ta sẽ dùng nó để đốt cháy chiếc thuyền buồm cùng với bọn cướp?
- Không được nghĩ như thế - Vasquez lắc đầu đáp - Dẫu sao ta cứ mang nó về cất trong hang đá sẽ có lúc dùng đến.
Hai người tiếp tục đi xuống bờ biển và cùng đi về phía mũi đá mà những lúc nước triều lên họ không thể ra được.
Sóng lừng vẫn đập dữ dội vào các tảng đá. Vasquez chợt trông thấy trong hốc đá một khẩu súng và cả chiếc giá súng cũng nằm lăn lóc bên cạnh.
- Chúng là của tàu anh đấy phải không Davis, cả mấy viên đạn kia nữa phải không?
- Cái món này không biết dùng làm gì đây!
- Biết đâu đấy - Vasquez đáp - Bởi vì chúng ta có cả súng lẫn đạn và thuốc súng, khi có cơ hội, ta sẽ dùng đến nó...
- Tôi không tin có chuyện ấy - Davis đáp.
- Tại sao không? Bởi vì hải đăng đã bị chúng tắt, ban đêm nếu có con tàu nào qua như chiếc Century hôm trước ấy ta có thể bắn bằng khẩu đại bác này để báo cho tàu ấy biết chứ.
John Davis nhìn bạn bằng một cái nhìn đặc biệt. Có vẻ như vừa có một ý tưởng khác vừa đến với đầu óc anh. Nhưng anh chỉ trả lời lấp lửng:
- Ừ, mà ý kiến của anh cũng được đấy Vasquez?
- Chứ sao, Davis, tôi không nghĩ rằng đấy là một ý kiến dở. Chắc chắn là tiếng nổ sẽ vang lên... Chúng sẽ tố cáo sự có mặt của tôi và anh ở trên đảo... Bọn cướp sẽ đi lùng sục... có thể chúng tìm thấy chúng ta... và điều đó sẽ nguy cho mạng sống của ta!... Nhưng có bao người khác sẽ được cứu sống và như thế chúng ta sẽ làm tròn bổn phận của mình.
- Nhưng chúng ta sẽ có một cách làm khác để thực hiện bổn phận của mình!
John Davis lẩm bẩm nói mà không giải thích gì hơn. Tuy nhiên, anh cũng không phản đối gì Vasquez về việc khuân súng về hang đá; sau đó họ cũng khuân về hang cả hòm thuốc súng, những viên đạn và cái giá súng. Công việc thật vất vả và mất nhiều thời gian. Khi Vasquez và John Davis nghỉ tay để về hang ăn bữa sáng thì mặt trời đã lên cao khỏi đường chân trời, lúc đó chắc đã tới mười giờ sáng.
Nhưng lúc hai người vừa khuất dạng thì cũng là lúc Kongre, Carcante và tên thợ mộc Vargas xuất hiện ở khúc quanh ở chân vách đá. Vì chiếc xà lúp sẽ gặp nhiều khó khăn do gió bão nếu muốn tới chỗ này, nên bọn chúng đành phải đi bộ về theo cách men theo bờ đá. Lần này thì chúng không đến để săn lùng của cải.
Sau khi đã quan sát bầu trời, mặt biển từ lúc trời bắt đầu quang đãng ra, chúng quyết định đến đây, đúng như điều mà Vasquez dự đoán. Chắc chắn chúng biết là chiếc Carcante sẽ gặp nhiều nguy hiểm khi muốn ra khỏi vịnh, chiếc thuyền buồm không thể chống đỡ nổi những đợt sóng không lồ đổ từ biển vào. Trước khi vào được eo biển để đi về phía tây, thuyền phải vượt qua mũi San Juan, như vậy nhiều khả năng thuyền bị mắc cạn hay ít ra cũng phải hứng chịu những trận gió lớn thổi từ biển vào.
Đấy là ý kiến của Kongre và Carcante. Bọn chúng dừng chân ở nơi mà tàu Century mắc cạn đêm trước, giờ đây không còn gì ngoài những mảnh vỡ của phần lái tàu. Chúng đã phải khó nhọc để đứng vững trước gió bão. Chúng trao đổi huyên náo, chỉ trỏ chân trời và đôi lúc phải lùi lại để tránh những con sóng bạc đầu đánh vào mỏm đá.
Cả Vasquez lẫn bạn anh, không ai rời mắt quan sát chúng trong suốt nửa tiếng đồng hồ: chúng quan sát lối vào vịnh. Sau cùng chúng bỏ đi, thỉnh thoảng vẫn không quên ngoái đầu lại, rồi chúng khuất dạng ở khúc quanh của vách đá thẳng đường về hải đăng.
- Thế là chúng lại biến rồi - Vasquez nói - Tôi dám cá cược một ăn mười với anh là chúng sẽ trở lại đây trong vài hôm nữa để quan sát mặt biển ở ngoài khơi của đảo!
Nhưng John Davis lắc đầu. Anh thấy quá rõ ràng là cơn bão sẽ chấm dứt trong vòng bốn mươi tám tiếng. Sóng lừng sẽ hết, nếu không hoàn toàn thì cũng yếu dần, để cho chiếc thuyền buồm có thể vượt qua mũi San Juan.
Suốt ngày hôm đó Vasquez và John Davis phần lớn ở ngoài bờ biển. Sự thay đổi của thời tiết càng lúc càng rõ rệt. Sức gió thổi gần như cố định ở hướng bắc - đông bắc, và tàu có thể hạ hết buồm để đi vào eo biển Lemaire.
Đêm đến, Vasquez và John Davis trở về hang đá; hai người dùng bữa tối bằng bánh bích quy, thịt bò sấy khô và nước có pha rượu mạnh. Rồi vào lúc mà Vasquez định chui vào chăn ngủ thì John Davis ngăn lại.
- Trước khi đi ngủ, Vasquez à, anh hãy nán lại, nghe tôi trình bày một kế hoạch.
- Anh cứ nói, Davis ạ.
- Vasquez à, tôi chịu ơn cứu mạng của anh và tôi không muốn làm điều gì mà không có sự đồng ý của anh... Đây mới chỉ là một gợi ý của tôi mà thôi. Anh hãy nghe và sau đó cho tôi biết ý anh, anh đừng sợ làm tôi mếch lòng.
- Tôi nghe anh đây, Davis.
- Thời tiết đang thay đổi, cơn bão sẽ tan đi, mặt biển sẽ lặng yên trở lại. Tôi cho rằng chiếc thuyền buồm đang chuẩn bị để đi muộn nhất là bốn mươi tám tiếng nữa.
- Đáng tiếc là dự đoán của anh quá đúng.
Vasquez ngắt lời Davis và nhún vai tỏ ý muốn nói: "Mà chúng ta không làm gì được!”
John Davis nói tiếp:
- Đúng, chỉ hai ngày nữa là con tàu sẽ xuất hiện ở cuối vịnh. Nó sẽ ra khỏi, nó sẽ vượt qua mũi biển, rồi nó khuất dạng ở phía tây. Chúng ta sẽ không gặp lại nó nữa và như thế hai bạn của anh, viên thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của chiếc Century sẽ không được trả thù!
Vasquez cúi đầu xuống, rồi anh ngẩng lên và nhìn Iohn Davis lúc này nét mặt rạng rỡ lên dưới ánh lửa.
- Chỉ có một khả năng duy nhất có thể ngăn cản sự ra khơi của chiếc thuyền buồm: đó là có một sự hỏng hóc nào xảy đến với nó để nó phải trở lại cuối vịnh... Thế này nhé, chúng ta có một khẩu đại bác, có thuốc súng, có đạn... Ta hãy mang khẩu súng đó đặt lên giá đỡ và đem đặt nó ở chỗ quanh của vách đá, ta hãy nạp đạn cho nó và khi chiếc thuyền buồm đi qua, ta sẽ nổ súng vào vỏ thuyền... Cho dù nó chưa đắm hẳn, chắc là vậy, nhưng nó cũng bị hư hại tới mức mà bọn cướp không thể liều lĩnh cho nó vượt biển... Thế là bọn khốn đó sẽ lại phải quay lại để sửa chữa... lại phải dỡ hàng ra khỏi tàu... Điều đó đòi hỏi cả tuần lễ... và từ nay đến lúc đó, chiếc Santa-fé sẽ…
John Davis vụt im lặng, anh ta nắm lấy tay Vasquez mà bóp chặt lấy.
Không chút ngần ngại, Vasquez đáp:
- Anh cứ làm.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Sáng ngày 25, sương mù bao phủ kín chân trời, đấy cũng là hiện tượng thường tiếp sau một cơn bão lớn. Gió đã có chiều hướng giảm đi và những dấu hiệu của một sự thay đổi thời tiết bắt đầu lộ ra.
Hôm ấy là ngày mà bọn cướp quyết định cho chiếc thuyền buồm rời khỏi nơi neo đậu. Kongre cho tàu chuẩn bị để ra khơi vào buổi chiều. Mặt trời thế nào cũng sẽ làm tan đám sương mù tạo thành từ lúc sáng. Nước triều sẽ rút vào sáu giờ chiều, rất thuận lợi cho con tàu rời khỏi vịnh Elgor. Đến bảy giờ tối thì con tàu sẽ chạy ngang qua mũi San Juan và buổi hoàng hôn kéo dài trên vĩ độ cao này cho phép nó vượt qua mũi biển trước khi đêm xuống.
Đương nhiên là con tàu cũng có thể ra khơi lúc triều xuống buổi sớm, nếu không có sương mù. Thực vậy, mọi chuyện trên tàu đã được sắp sẵn, hàng hóa, lương thực dồi dào, các đồ quý giá lấy từ chiếc Century và từ các kho trên hải đăng. Kongre chỉ để lại trên tháp đèn những đồ đạc như giường tủ, bàn ghế, vì hắn không muốn cho khoang tàu bị quá tải. Mặc dầu đã bỏ lại nhiều thứ như vậy tàu cũng đã ngập sâu hơn mớn nước đến vài ngón tay.
Quá trưa một chút, trong lúc hai đứa đi dạo trong khuôn viên tháp đèn, Carcante nói với Kongre:
- Sương mù bắt đầu tan và chúng ta sẽ nhìn rõ mặt biển. Khi có sương mù thì thường gió lặng đi và biển sẽ yên tĩnh trở lại.
- Lần này thì tao tin là chúng mình sẽ thoát - Kongre đáp - và không gì có thể ngăn cản chúng ta ra đến eo biển.
- Và xa hơn nữa tao mong như vậy - Carcante tiếp lời - Tuy nhiên đêm sẽ tối thui. Chúng ta mới chỉ ở đầu tuần trăng và trăng lưỡi liềm sẽ lặn cùng lúc với mặt trời.
- Không cần, Carcante, tao cóc cần trăng lẫn sao để men theo bờ đảo này!... Tao đã thuộc lòng bờ biển phía bắc và mình sẽ vượt qua đám cù lao New - Year và mũi Colnett với khoảng cách đủ để không bị va vào đá.
- Ngày mai chúng ta sẽ đi xa rồi, với ngọn gió đông bắc này, buồm sẽ kéo tàu đi phăng phăng.
- Ngày mai, bọn mình sẽ đi khuất mũi Saint – Barthélemy và tao hy vọng là đến tối thì đảo Đa Quốc gia sẽ ở sau ta khoảng hai mươi hải lý.
- Như thế cũng không lấy gì làm quá sớm, phải không Kongre?
- Mày còn tiếc phải không Carcante?
- Không phải thế, bây giờ mọi chuyện đã xong xuôi. Chúng ta đã có một tài sản, đã giàu có và giờ đây lại có một con tàu ngon lành để đi cùng với số tài sản của mình!...
- Nhưng, mẹ kiếp, có lúc tao tưởng mọi chuyện đã đi đời nhà ma lúc con tàu Maule... à không, con tàu Carcante đi vào vịnh với cả một vòi nước bên hông, bọn mình nếu không sửa kịp thì biết còn phải ở lại đảo bao lâu nữa. Rồi đến chiếc tuần dương hạm nó mà đến thì mình phải trở lại mũi Saint - Barthélemy... tao ngán đến tận cổ cái mũi Saint - Barthélemy đó rồi!
- Đúng thế - Kongre đáp mà nét mặt hắn chợt sa sầm - Lúc ấy tình hình sẽ nghiêm trọng hơn... Khi thấy hải đăng không có người gác, chỉ huy chiếc Santa-fé sẽ phải có ngay biện pháp... Hắn sẽ cho người đi truy lùng... Hắn sẽ lục tung cả hòn đảo này lên và biết đâu hắn sẽ tìm ra chỗ trú của bọn mình?... Và hắn lại có thể gặp lại tên gác đèn thứ ba, cái tên đã chạy thoát đấy?
- Điều ấy khỏi lo, Kongre. Bọn mình không thấy dấu vết nào của hắn và làm thế nào sống nổi hai tháng nếu không có gì vô miệng? Phải, đã hai tháng nay, chiếc Carcante... À, lần này tao nói đúng tên mới của tàu đấy nhé. Phải, chiếc Carcante đã đến đậu ở vịnh Elgor này hai tháng rồi, có thấy động tĩnh gì đâu, trừ phi nó ăn được cá sống và rễ cây.
- Tóm lại, bọn mình sẽ đi trước khi chiếc tuần dương hạm trở lại đảo - Kongre nói - và như thế sẽ an toàn hơn.
- Căn cứ vào sổ trực trên hải đăng thì sớm nhất cũng phải tám ngày nữa, chiếc tàu đó mới tới - Carcante nói.
- Và trong tám ngày nữa - Kongre nói thêm - thì chúng ta đã xa mũi Horn rồi và sẽ đang trên đường tới quần đảo Salomon hay Nouvelles - Hébrides.
- Nhất định là thế, Kongre. Tao phải lên hành lang của tháp một lần cuối để quan sát mặt biển xem có thấy con tàu nào không.
- Thôi! Mặc kệ chúng nó - Kongre nhún vai nói - Đại Tây dương và Thái Bình dương là của mọi người mà. Và chiếc Carcante có giấy tờ hợp lệ mà. Về mặt đó mày cứ tin ở tao, tao đã làm tất cả những gì cần làm. Và ngay cả khi chiếc Santa-fé có gặp chiếc Carcante ở lối vào eo biển, hai bên cũng phải chào nhau đúng với truyền thống đi biển, phép lịch sự đâu có thừa.
Kongre không chút nào ngờ sự thành công của kế hoạch của hắn. Có vẻ như mọi việc đều thuận lợi.
Trong lúc Kongre bước xuống bờ biển thì Carcante leo lên hành lang bao quanh tháp đèn, hắn đứng trên đó khoảng một tiếng đồng hồ để quan sát.
Trời lúc này hoàn toàn quang đãng và đường chân trời, xa hơn mười hải lý, hiện ra vô cùng rõ nét. Mặt biển tuy còn động nhưng không còn những đợt sóng bạc đầu, và sóng lừng tuy còn hơi mạnh nhưng chắc cũng không ngăn trở chiếc thuyền buồm. Vả lại, một khi đã vào trong eo biển rồi thì mặt biển sẽ đẹp, và thuyền sẽ lướt như chạy trên sông vậy, vừa xuôi gió vừa có bờ biển che chở.
Ngoài khơi lúc này không có gì khác ngoài một con tàu ba buồm xuất hiện ở phía đông vào lúc hai giờ và ở khoảng cách mà chiếc ống nhòm của Carcante không nhìn rõ những cánh buồm của nó. Vả lại, nó đi về hướng bắc. Nó không đi vào Thái Bình dương và nhanh chóng khuất dạng.
Một giờ sau, một lần nữa, Carcante lại có một mối lo và tự hỏi là không biết có cần cho Kongre biết hay không. Lần này thì có một làn khói xuất hiện ở hướng bắc - đông bắc, hãy còn ở khá xa. Đấy là một chiếc tàu thủy đang đi về hướng đảo Đa Quốc gia hay đi về phía bờ biển của vùng Đất lửa.
Những kẻ xấu thường hay lo sợ phập phồng. Vì vậy chỉ một làn khói mỏng manh kia cũng làm Carcante bồn chồn lo lắng.
“Có thể là chiếc tuần dương hạm chăng... - hắn tự hỏi - Đúng ra thì hôm nay mới là ngày 25 tháng Hai, mà chiếc Santa-fé thì phải đến đầu tháng ba mới đến đây!... Hay là tàu ra sớm vài ngày?... Nếu đúng nó thì chỉ còn hai giờ nữa, nó sẽ đến ngang mũi San Juan... Tất cả mọi hy vọng có thể sẽ tan thành mây khói, có lẽ nào phải từ bỏ tự do vào đúng lúc sắp sửa đạt được, để rồi phải quay về với cuộc sống khốn khổ ở mũi Saint – Barthélemy”.
Dưới chân hắn, Carcante thấy chiếc thuyền buồm đung đưa mới duyên dáng làm sao, cứ như thể nó cũng muốn coi khinh hiểm nguy. Tất cả đều đã sẵn sàng. Chỉ còn việc kéo neo lên là dong buồm ra khơi... Nhưng nó không thể đi ngược gió, ngược nước triều đang dâng và phải hai giờ rưỡi nữa thì mặt biển mới tràn đầy.
Không thể nào ra khỏi đây trước khi chiếc tàu thủy kia tới và nếu đúng nó là chiếc tuần dương hạm. Carcante không thể nào kìm nổi tiếng chửi thề. Tuy nhiên hắn cũng không muốn quấy rầy Kongre lúc này đang bận rộn với những chuẩn bị khác, trước khi sự việc trở nên rõ ràng, hắn vẫn đứng một mình trên hành lang của hải đăng để quan sát.
Nhờ xuôi gió và thuận nước triều nên chiếc tàu thủy nhanh chóng tiến lại gần. Thuyền trưởng của tàu vừa mới táng áp lực của nồi hơi làm cho một làn khói đen phụt ra từ chiếc ống khói khuất sau những lá buồm nên Carcante không trông thấy. Cùng lúc con tàu rẽ ngoặt sang phải và tiến nhanh ve mũi San Juan, Carcante không rời mắt khỏi ống nhòm và mối lo của hắn càng tăng khi khoảng cách tới con tàu giảm dần. Khoảng cách ấy nhanh chóng giảm xuống chỉ còn vài hải lý đến mức thấy rõ vỏ tàu.
Nhưng đúng vào lúc nỗi lo sợ của Carcante lên cao nhất thì nó cũng đột ngột tiêu tan. Chiếc tàu thủy vừa đổi hướng đi, nó đang hướng vào eo biển, và tất cả các cánh buồm của nó đang phơi ra trước mắt Carcante.
Đấy là một con tàu chạy hơi nước, trọng tải khoảng từ ngàn hai đến ngàn rưỡi tấn, không thể nào lầm nó với chiếc Santa-fé được.
Carcante cũng như Kongre và các đồng bọn của chúng đều biết rõ chiếc tuần dương hạm mà bọn chúng trông thấy nhiều lần khi nó còn thả neo ở vịnh Elgor. Nó được trang bị buồm chảo giống như chiếc thuyền buồm, trong khi chiếc tàu hơi nước vừa rồi là một chiếc tàu ba buồm.
Carcante cảm thấy rất hài lòng, tự khen mình là đã không làm cho đồng bọn phải lo lắng một cách vô ích. Hắn còn nán đứng lại thêm một giờ nữa trên hành lang để ngắm chiếc tàu thủy đi xa dần về phía bắc của đảo, với khoảng cách ba, bốn hải lý, nghĩa là quá xa để con tàu có thể gửi tín hiệu vào, những tín hiệu mà chẳng bao giờ nó được phúc đáp, vì những lý do đã rõ. Bốn mươi phút sau, với vận tốc ít nhất là mười hai hải lý giờ, con tàu mau chóng khuất dạng.
Carcante bước xuống từ hành lang hải đăng, sau khi đã chắc chắn là không còn con tàu nào trên mặt biển nữa.
Lúc này giờ nước triều xuống đã đến gần. Đây là thời điểm để chiếc thuyền buồm rời vịnh. Mọi khâu chuẩn bị đã hoàn tất, các lá buồm sẵn sàng được kéo lên. Một khi các dây neo buồm được kéo căng, những lá buồm sẽ nhận được gió thổi chếch và chúng sẽ căng phồng lên đẩy chiếc Carcante lướt nhanh ra khơi.
Đúng sáu giờ, Kongre và hầu hết đồng bọn đã ở trên tàu. Chiếc xuồng sẽ ghé hải đăng đón nốt đám còn lại, sau cùng xuồng sẽ được kéo lên giá đỡ.
Nước triều bắt đầu rút từ từ. Nó để lộ ra bãi cát mà trước đây chiếc thuyền buồm được kéo lên để sửa chữa.
Bên kia vũng tàu, những tảng đá bắt đầu phơi ra những chiếc mỏm nhọn hoắt. Gió luồn qua những kẽ hở trên vách đá dựng đứng, và những đợt sóng nhồi nhẹ đang tan ra ở bờ biển.
Giờ khởi hành đã tới. Kongre phát lệnh kéo neo. Dây neo được kéo căng, nó rít lên kêu ken két, và khi chiếc mỏ neo đã được kéo lên, nó liền được gác lên giá đỡ chuẩn bị cho một chuyến hải trình có thể phải kéo dài nhiều ngày.
Các cánh buồm được định hướng và dưới sức đẩy của cánh buồm mũi, cánh buồm lớn, cánh buồm vẹt cùng những cánh buồm phụ khác đã được kéo căng, chiếc thuyền buồm bắt đầu có đã lướt ra khơi mở đầu cho một chuyến đi kéo dài.
Nhờ có gió thổi từ đông - đông nam lại mà chiếc Carcante dễ dàng vượt qua mũi San Juan. Chỗ bờ biển này ít khi có tai nạn vì bờ biển toàn là vách đá dựng đứng. Kongre biết rõ điều ấy. Hắn rất quen thuộc vịnh biển này. Do đó, đứng bên bánh lái, hắn cho con tàu tăng tốc một cách táo bạo để mau chóng đạt tốc độ cao nhất có thể được.
Thực ra thì sự di chuyển của con tàu cũng khá đặc biệt. Nó đi chậm lại khi gió yếu đi và khi những đợt gió đến dồn dập, tàu lại lướt nhanh trên sóng.
Đến sáu giờ rưỡi thì chiếc Carcante chỉ còn cách đầu mũi xa nhất của bờ đá một hải lý. Kongre đã nhìn thấy đại dương bao la, trải dài đến chân trời. Mặt trời gần khuất và ngay lập tức các ngôi sao nhấp nháy trên bầu trời, lúc này trời tối xẩm hẳn dưới bức màn của hoàng hôn địa cực.
Vừa lúc đó Carcante lại gan Kongre nói:
- Rốt cục bọn mình cũng sắp ra khỏi vịnh! - Hắn tỏ vẻ rất hài lòng.
- Sau hai mươi phút nữa - Kongre đáp - tao sẽ cho nới thêm dây neo buồm và sẽ cho tàu rẽ sang phải để đi vòng mũi San Juan.
- Có cần cho thuyền đi vát khi qua eo biển không?
- Tao nghĩ là không cần - Kongre đáp - Ngay sau khi qua mũi San Juanl tao sẽ cho đổi dây néo buồm và sẽ để buồm chếch sang trái cho đến khi tới mũi Horn. Mùa đẹp trời cũng bắt đầu rồi và tao nghĩ là ta có thể trông cậy vào ngọn gió đông. Dù sao chăng nữa, vào trong eo biển mình sẽ tìm mọi cách có thể, và đừng có nghĩ rằng gió biển sẽ từ chối chúng ta và bắt ta phải đi ngoắt ngoéo.
Nếu đúng như Kongre hy vọng thì hắn sẽ tránh được chuyện phải thay đổi dây néo buồm và sẽ lợi được một số thời gian đáng kể. Trong trường hợp cần thiết, Kongre sẽ cho hạ những lá buồm vuông xuống và chỉ để nguyên những lá buồm dọc, buồm hình thang và buồm áp mũi. Như thế chiếc thuyền buồm vẫn lợi dụng được gần hết sức gió.
Đúng vào lúc này, một tên đứng gần giá neo bỗng kêu lên:
- Cẩn thận, phía trước!
- Có chuyện gì thế? - Kongre hỏi.
Carcante chạy tới bên người vừa kêu và nghiêng người bên thành tàu:
- Từ từ thôi, cho tàu tiến từ từ thôi! - hắn kêu to lên với Kongre.
Chiếc thuyền buồm lúc này đang đi qua phía trước cửa hang đá mà bọn cướp đã ẩn náu suốt thời gian dài. Đúng ở chỗ đó có một phần của chiếc sóng tàu Century đang trôi vật vờ trong nước triều. Nếu va vào đó thì có thể xảy ra hậu quả nghiêm trọng, vì vậy phải kịp thời tránh xa nó. Kongre bèn bẻ lái cho tàu sang trái. Chiếc thuyền buồm đi sát bên chiếc sóng tàu và cái vật đó chỉ quệt nhẹ vào mũi thuyền.
Cú né tránh của con thuyền làm cho nó đi vào gần bờ bắc hơn. Chỉ còn khoảng gần năm chục mét nữa thì thuyền sẽ qua khúc ngoặt của vách đá, Kongre có thể bẻ lại bánh lái cho tàu quay trở lại hướng đi cũ.
Vào lúc ấy một tiếng rít sắc gọn, xé không khí và một cú va chạm mạnh làm rung chuyển vỏ chiếc thuyền buồm, kèm theo một tiếng nổ lớn.
Cùng lúc đó, một làn khói trắng đục mà gió thổi từ biển vào phía bờ đã làm cho nó bốc lên cao.
- Cái gì vậy? - Kongre kêu lên.
- Có người bắn vào tàu chúng ta - Carcante đáp.
- Mày hãy cầm lấy bánh lái! - Kongre hạ lệnh.
Chạy vội về phía sườn trái của tàu, hắn nghiêng đầu qua lan can tàu và nom thấy một cái lỗ trên vỏ tàu, cao hơn đường mớn nước khoảng hơn mười xăng-ti-mét. Tất cả thủy thủ đoàn của tàu đổ xô về phía đó của tàu.
Như vậy là tàu đã bị tấn công từ trên bờ đá!
Vào đúng lúc rẽ ra khơi, chiếc Carcante đã trúng một viên trái phá, đúng vào sườn tàu và nếu chỉ xuống thấp chút xíu là có thể làm chìm tàu! Người ta có thể hiểu là vụ tấn công này đã gây cả khiếp sợ lẫn ngạc nhiên cho bọn cướp biết bao.
Kongre và đồng bọn sẽ làm gì bây giờ? Thả ngay xuồng cứu hộ xuống nước, tất cả lên đó, chèo vào bờ ngay chỗ có làn khói bay lên, khống chế kẻ nào đã bắn, tiêu diệt chúng hay ít nhất cũng đuổi chúng chạy khỏi chỗ đó? Nhưng biết đâu bọn người tấn công đó lại đông hơn, như vậy tốt hơn cả là ở nguyên tại chỗ để xem sự hư hại có nghiêm trọng không? Quyết định đó càng được cho là cần thiết khi khẩu đại bác lại khai hỏa lần thứ hai nữa. Một làn khói trắng tụ lại ở ngay chỗ cũ, trên bờ đá, chiếc thuyền buồm lại một lần nữa rung chuyển mạnh: viên đạn thứ nhì vừa trúng vỏ tàu, vết đạn hơi chếch về phía sau, so với viên đầu.
- Bẻ lái cho tàu xa bờ! Hạ buồm trượt xuống. Chuẩn bị tránh đạn! - Kongre vừa thét lên vừa chạy lại phía sau tìm gặp Carcante lúc ấy đang vội vã thực hiện mệnh lệnh của y.
Ngay lập tức, chiếc thuyền buồm được bẻ lái, nó nghiêng mình và rẽ về bên trái. Chưa đầy năm phút sau, tàu đã ra xa bờ và ra khỏi tầm bắn của khẩu pháo vẫn đang chĩa về phía nó.
Tuy nhiên, đã không có tiếng nổ nào thêm. Bờ biển lại trở nên vắng lặng cho đến đầu mỏm núi. Có lẽ cuộc tấn công đã dừng lại ở đó.
Công việc cấp thiết nhất là kiểm tra tình trạng của vỏ tàu ở trong tàu, công việc kiểm tra rất khó thực hiện vì vướng víu hàng hóa chất đầy trong khoang. Nhưng có một điều mà không còn ai nghi ngờ gì nữa, đó là hai viên đạn đã xuyên qua vỏ tàu và bị vướng lại trong khoang tàu.
Chiếc canô được hạ thủy trong khi chiếc Carcante đã bị hư hại và lúc này đang thả trôi theo thủy triều đang xuống.
Kongre và tên thợ mộc xuống cũng để kiểm tra lại vỏ tàu xem chỗ thủng có thể sửa ngay tại chỗ không. Cả hai đều thấy hai viên trái phá đã xuyên thủng vỏ tàu ở hai chỗ cạnh nhau. May mắn làm sao, hai lỗ đạn nằm đúng chỗ bắt đầu của vỏ sắt và ngay trên đường mớn nước. Chỉ chệch xuống phía dưới vài phân nữa là chiếc tàu sẽ hết đường cứu chữa, lúc đó khoang tàu sẽ nhanh chóng bị tràn ngập và chiếc Carcante sẽ chìm trước khi ra khỏi vịnh.
Dĩ nhiên là Kongre và băng cướp có thể vào bờ bằng canô, nhưng như vậy thì chiếc thuyền buồm sẽ vô phương cứu chữa.
Tóm lại, chỗ hư hại không đến nỗi trầm trọng lắm nhưng chắc chắn nó không cho phép chiếc Carcante mạo hiểm ra xa ngoài khơi. Chỉ cần nghiêng sang trái một chút là nước sẽ tràn ngay vào khoang tàu. Việc cần làm ngay là bịt kín hai lỗ đạn trước khi tiếp tục cuộc hải trình.
- Những tên khốn kiếp nào đã bắn chúng ta vậy? - Carcante cứ hỏi đi hỏi lại mãi.
- Có thể là tên gác đèn đã thoát khỏi tay chúng ta bữa nọ! - Vargas đáp - Và cũng có thể có thêm vài tên sống sót của tàu Century mà tên gác đèn đã cứu sống. Bởi vì, muốn bắn mấy viên trái phá đó phải có một khẩu pháo mà khẩu pháo ấy không phải từ mặt trăng rớt xuống được.
- Đúng vậy - Carcante tán thành - Không còn nghi ngờ gì nữa, khẩu pháo ấy phải từ chiếc tàu ba buồm. Đáng giận là mình đã không tìm ra nó trong đám gỗ xác tàu.
- Thôi, không phải lúc nói chuyện ấy nữa - Kongre đột ngột cắt lời - bây giờ là phải sửa chữa ngay càng nhanh càng tốt.
Đúng vậy, lúc này phải gác chuyện đi tìm xem kẻ nào đã bắn vào tàu mà phải bắt tay vào việc sửa chữa ngay. Cùng ra thì đành đưa tàu vào phía bờ đối diện gần mũi Diegos, chỉ cần một tiếng đồng hồ là tàu có thể đến nơi. Nhưng, đến đấy rồi thì tàu sẽ bị đưa mình ra hứng gió biển, mà từ đó đến mũi Sereval sẽ không còn chỗ nào khác để tránh gió bão. Chỉ cần thời tiết biến động là ngay từ phút đầu tàu sẽ va ngay vào đá. Kongre ra quyết định là sẽ cho tàu quay vào sâu trong vịnh Elgor ngay đêm ấy để công việc sửa chữa được an toàn và nhanh chóng.
Nhưng vào lúc này, nước triều đang xuống và chiếc thuyền buồm không tài nào đi ngược nước được. Bắt buộc phải chờ nước triều lên trở lại như vậy là phải chờ ít nhất bốn tiếng đồng hồ nữa. Nhưng vào lúc này chiếc Carcante lại bắt đầu bị sóng lừng đẩy đi và theo đà này, có thể nó sẽ trôi xuống tận mũi Several với nguy cơ bị vô nước bất cứ lúc nào. Giờ đây, người ta đã có thể nghe thấy tiếng nước róc rách tràn qua hai lỗ thủng ở vỏ tàu mỗi khi tàu lắc ngang. Kongre buộc phải ra lệnh buông neo ở nơi cách mũi Diegós mấy trăm mét.
Tóm lại, tình hình lúc này rất đáng lo ngại. Đêm đã xuống và bóng tối sẽ mau chóng trở nên dày đặc, Kongre phải rất thông thạo vùng biển này mới giữ cho tàu khỏi va vào những bãi đá rải rác xung quanh.
Cuối cùng thì vào lúc mười giờ đêm, nước triều lên. Neo được kéo lên và ngay trước lúc nửa đêm, chiếc Carcante, sau bao hiểm nguy, đã quay trở về nơi neo đậu cũ trong vũng tàu của vịnh Elgor.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Kongre, Carcante và đồng bọn đã tức giận đến mức nào, chắc chúng ta cũng dễ hình dung ra được. Đúng vào lúc sắp giã từ vĩnh viễn hòn đảo này thì một trở ngại cuối cùng đã ngăn chúng lại. Và chỉ trong bốn hay năm ngày nữa, có thể sớm hơn nữa, chiếc chiến hạm lại xuất hiện ở cửa vịnh Elgor! Chắc chắn, nếu chỗ hư hại ở vỏ tàu không nghiêm trọng lắm thì Kongre cũng chẳng ngần ngại gì đi tìm một nơi neo đậu khác. Bọn chúng có thể tìm đến ẩn náu ở cảng Saint-Jean, nằm ngay phía sau của mũi đá, sâu hơn về phía bờ bắc của đảo. Nhưng trong tình trạng hiện nay của tàu, chẳng ai điên mà dám đi xa như vậy. Tàu rất có thể bị chìm trước khi đến được mũi đá. Trong suốt đường đi ấy, tàu sẽ phải chạy ngược gió, chiếc thuyền buồm sẽ mau chóng bị ngập nước vì những cú tròng trành liên tục.
Tóm lại, trong mọi trường hợp thì số hàng chở trên tàu cũng bị mất trắng, vô phương cứu gỡ.
Như vậy, việc quay lại neo đậu trong vùng biển dưới chân ngọn hải đăng là điều bắt buộc, và Kongre khôn ngoan đành phải chịu phương ấy.
Trong đêm hôm đó, tất cả bọn cướp đều thức và cắt phiên nhau ra mà trực và chúng buộc phải căng mắt ra mà canh phòng cẩn mật mọi lúc, mọi nơi. Không ai có thể biết được liệu tàu có bị tấn công nữa hay không? Không ai biết có phải đã có cả một đội quân mà quân số còn lớn hơn bọn cướp, vừa mới đổ bộ lên một nơi nào đó của đảo? Cũng không ai biết rằng liệu bọn cướp đã bị Buenos Aires biết được, chính phủ Argentina đang tìm cách tiêu diệt chúng?
Ngồi phía sau tàu, Kongre và Carcante bàn luận về tất cả những điều trên. Đúng ra thì chỉ có Carcante nói còn Kongre thì vì phải suy nghĩ nên chỉ trả lời nhát gừng. Chính Carcante đã đưa ra giả thuyết: quân đội đã được phái đến đảo Đa Quốc gia để truy lùng Kongre và đồng bọn. Nhưng theo hắn thì quân đội chưa đổ bộ lên đảo mà mới chỉ có một đơn vị đặc biệt hành động. Toán này có thể tấn công trực diện hay chỉ bố trí vài ba vật cản ở lối vào vịnh, những chốt chặn này có thể đón bắt chiếc thuyền buồm bằng vũ lực hay làm cho nó bị hư hao không thể tiếp tục hải trình. Dù sao chăng nữa, đơn vị đặc biệt này sẽ không chui xuống đất trốn sau khi đụng độ, như những kẻ tấn công vô danh kia đã làm và như vậy sự thận trọng của toán này chỉ nói lên sự yếu kém mình.
Nhưng Carcante đã bác bỏ ngay giả thuyết này để theo ý kiến của Vargas:
- Đúng ra bọn tấn công ta đêm trước chỉ có mục đích duy nhất là ngăn cản chiếc thuyền buồm ra khơi và đấy chỉ là vài tên còn sống sót của tàu Century. Bọn chúng có thể tìm gặp được tên gác đèn thứ ba và được tên này thông báo về chuyến quay lại đảo của chiếc tuần dương hạm. Khẩu súng bắn chúng ta là do chúng nhặt được ở đống xác tàu!
- Chiếc tuần dương hạm chưa đến - Kongre nói như quát - và và trước khi nó tới thì chiếc thuyền của ta đã đi xa.
Thực ra thì giả thuyết của Vargas cũng có nhiều điều không chắc chắn. Cứ cho là người gác đèn đã gặp được những người sống sót của tàu Century, mà bọn người này nhiều nhất cũng chỉ độ hai, ba tên. Cơn bão khủng khiếp đến vậy, làm sao có được nhiều tên thoát chết? Bọn chúng chỉ có một dúm người như vậy thì làm gì nổi một đội ngũ đông đảo, vũ trang tốt hơn? Chiếc thuyền buồm một khi được sửa chữa xong, sẽ lại dong buồm ra khơi, mà lần này nó chỉ đi ở khoảng giữa vịnh. Chuyện gì đã xảy ra hôm trước sẻ không bị lặp lại lần thứ hai.
Bây giờ chỉ còn lại duy nhất vấn đề thời gian: Phải mất bao nhiêu ngày để sửa chữa chỗ hư hại mới của chiếc thuyền buồm?
Đêm hôm ấy không có một báo động nhỏ nhặt nào và ngày hôm sau cả bọn bắt tay vào công việc.
Trước tiên là phải dỡ chỗ hàng hóa chứa trong khoang, cũng phải mất nửa ngày cho công việc đó, chỗ hàng dỡ ra được để tạm trên boong tàu. Không cần thiết mang hàng lên bờ để sau đó kéo tàu lên bãi cát. Vì hai lỗ thủng ở gần đường mớn nước, nên có thể ghé xuồng vào mạn bên của tàu rồi bịt kín lỗ thủng lại. Vấn đề chủ yếu là phải xem xét bộ rẽ sườn của tàu có bị đạn làm hư hại không.
Kongre và tên thợ mộc cùng chui xuống khoang tàu, chúng thấy hai viên đạn chỉ mới chạm vào bộ phận cạp vỏ tàu, nó xuyên qua vỏ tàu và có thể dễ dàng tìm thấy sau khi dỡ hàng sang một bên. Những rẽ sườn của tàu chưa bị hư hại gì cả. Hai lỗ thủng do hai viên đạn xuyên khoan rất dễ bịt lại bằng cách nêm gỗ, sau cùng có thể gia cố thêm bằng một lá tôn hay kẽm gì đó.
Tóm lại, hư hại này không nghiêm trọng. Nó chưa làm tổn thương đến tình trạng chung của con tàu, và nó sẽ được sửa chữa ngay tức khắc.
- Bao giờ thì sửa? - Kongre hỏi.
- Bây giờ tôi chuẩn bị những thanh gác bên trong và chúng sẽ được đặt vào ngay tối nay - Vargas đáp.
- Còn các nêm gỗ?
- Chúng sẽ được làm sáng mai và đến chiều thì sẽ đem đóng vào.
- Như vậy là trong tối mai có thể xếp lại hàng hóa và sáng sớm ngày mốt sẽ chuẩn bị buồm chảo để ra khơi?
- Chắc chắn như vậy - Tên thợ mộc đáp.
Sáu mươi giờ có thể cho là đủ cho việc sửa chữa và con tàu Carcante chỉ ra khơi chậm hơn dự định có hai ngày.
Carcante liền hỏi Kongre xem trong buổi sáng hay buổi chiều hôm sau, có thể đảo một vòng qua mũi San Juan được không.
- Để xem chuyện gì đã xảy ra ở đó? - hắn nói.
- Để làm gì cơ chứ? - Kongre đáp - Chúng ta chưa rõ kẻ thù của mình là những ai. Như vậy là phải kéo cả bọn đi, từ mười đến mười hai người, do đó chỉ còn vài ba người ở lại coi tàu. Và biết đâu sẽ xảy ra chuyện gì lúc chúng ta vắng mặt?
- Đúng vậy - Carcante tán thành - và ngẫm cho cùng, chúng ta sẽ được gì ở ván bài đó? Sẽ lôi cổ bọn tấn công ra xử tội chắc? Vấn đề quan trọng bây giờ là phải rời đảo, càng sớm càng tốt.
- Sáng ngày mốt, chúng ta sẽ ra khơi! - Kongre tuyên bố một cách chắc nịch như thế.
Thế là chắc chắn sẽ thoát được, khi chiếc tuần dương hạm chỉ đến sau vài hôm nữa, khi chiếc Carcante đã ra khơi.
Nhưng thực ra, nếu Kongre và đồng bọn có đến lùng sục ở mũi San Juan, bọn chúng cũng không tài nào tìm ra dấu vết của Vasquez và John Davis.
Trong suốt buổi chiều hôm trước, cả hai đã bàn bạc kế hoạch của John Davis cho tới tối. Địa điểm được chọn để đặt súng sẽ là đầu núi ngay khúc quanh của vách đá. Giữa những tảng đá đầy rẫy ở khúc quanh đó, Vasquez và John Davis dễ dàng tìm được chỗ đặt bệ súng. Hai người rất vất vả khi kéo nòng súng đến đó. Phải kéo lê nó trên cát, qua một bãi đất lởm chởm các mỏm đá. Nhiều chỗ phải cần đến đòn bẩy để di chuyển nòng súng. Công việc đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực.
Gần tới sáu giờ thì khẩu pháo mới nằm yên vị trên bệ pháo, nòng pháo hướng ra mặt biển ngay lối vào của vịnh. John Davis phụ trách khâu nạp đạn cho súng, một liều thuốc nổ mạnh được nhồi vào đáy nòng cùng với một búi tảo khô mà viên trái phá sẽ được đặt lên đó. Mồi thuốc được đặt vào lỗ nạp, lát nữa chỉ việc khai hỏa vào đúng lúc.
Nạp đạn xong, John Davis nói với Vasquez:
- Tôi đã suy nghĩ kỹ về công việc phải làm. Điều cần thiết là đừng bắn cho chiếc thuyền buồm đó đắm. Vì nếu đắm, bọn cướp sẽ chạy cả lên bờ và chúng ta khó lòng thoát khỏi tay chúng. Chủ yếu là làm sao cho chiếc thuyền bị hư hại, buộc phải quay lại nơi neo đậu và ở lại đó ít lâu để sửa chữa.
- Đúng thế - Vasquez nhận xét - nhưng nếu chỉ thủng một lỗ thì chúng có thể bít lại nội trong một buổi sáng.
- Không - John Davis đáp - chúng còn phải dỡ hàng ra để sửa vỏ tàu. Tôi cho là chúng sẽ phải mất ít nhất bốn mươi tám tiếng để sửa, mà hôm nay đã là 28 tháng Hai rồi.
- Nhưng nếu chiếc tuần dương hạm một tuần nữa mới đến thì sao? Hay là ta nổ súng vào cột buồm, hơn là vào vỏ tàu?
- Đúng thế Vasquez, một chiếc thuyền buồm mà gãy cột buồm thì vô phương cứu chữa. Chúng sẽ phải ở lại đảo rất lâu. Nhưng bắn trúng một cái cột buồm thì rất khó, khó hơn bắn vào vỏ tàu nhiều. Các viên đạn của ta phải vô cùng chính xác.
- Đúng - Vasquez đáp - nhất là bọn cướp sẽ rời đảo vào lúc nước triều xuống buổi tối. Lúc đó trời đã nhập nhoạng tối rồi. Ta cứ bắn vào vỏ tàu cho chắc ăn, Davis ạ.
Tất cả đã sẵn sàng, Vasquez và bạn chỉ còn có việc chờ đợi. Họ nằm phục bên khẩu súng, sẵn sàng bắn khi chiếc thuyền buồm đi qua khúc quanh bên dưới vịnh.
Chúng ta đã được biết kết quả của cuộc tấn công đó và trong những điều kiện nào mà chiếc Carcante phải trở về nơi neo đậu cũ. John Davis và Vasquez không rời chỗ phục kích cho tới khi nhìn thấy chiếc thuyền buồm về tới chỗ đậu nơi cuối vịnh.
Và giờ đây, sự thận trọng đã mách bảo các anh phải tìm một chỗ ẩn nấp tại một địa điểm khác của đảo.
Theo Vasquez suy luận thì có thể sáng hôm sau Kongre và một bộ phận của băng cướp sẽ quay lại mũi San Juan. Có thể chúng muốn săn lùng những người đã tấn công tàu đêm trước.
Họ lập tức tìm ra một lối thoát. Rời khỏi hang đá, đi tìm một nơi trú ẩn khác, cách nơi cũ khoảng hai hải lý, sao cho từ nơi đó họ có thể thấy được mọi con tàu đến từ phương bắc. Nếu chiếc Santa-fé xuất hiện, họ sẽ đánh tín hiệu cho nó, sau khi họ quay lại mũi San Juan. Ông thuyền trưởng Lafayate sẽ cho xuồng cứu hộ đón họ lên tàu, họ sẽ cho ông thuyền trưởng rõ tình hình. Lúc ấy, hoặc chiếc thuyền buồm còn ở trong vịnh, hoặc trường hợp xấu hơn là nó đã ra khơi.
- Cầu Trời cho điều này không xảy ra! - John Davis và Vasquez đồng thanh nhắc lại.
Ngay giữa đêm tối, hai người cùng lên đường mang theo lương thực, vũ khí và thuốc súng. Họ men theo bờ vịnh khoảng sáu hải lý, bằng cách đi vòng cảng Saint - Jean. Sau khi tìm tòi hồi lâu, cuối cùng họ phát hiện ở bên kia vịnh đó một cái hốc đá giúp họ ẩn núp cho tới lúc chiếc tuần dương hạm tới.
Tuy nhiên, nếu chiếc thuyền buồm mà ra khơi thì họ lại trở về hang đá.
Suốt cả ngày, Vasquez và John Davis chỉ chăm chú quan sát. Khi nước triều lên, họ biết rằng chiếc thuyền buồm không thể nào ra khơi, và họ không cần bận tâm. Nhưng khi nước triều xuống, nỗi lo lại đến với họ, họ nghĩ rằng có thể chiếc thuyền buồm đã được sửa xong trong đêm và Kongre sẽ lợi dụng nước triều mà ra khơi. Trong khi Kongre sợ chiếc Santa-fé xuất hiện thì John Davis và Vasquez luôn chờ mong con tàu đó mau tới nơi.
Mặc cho hai người chăm chú canh phòng bờ biển, nhưng Kongre và đồng bọn vẫn chưa xuất hiện. Thực ra, như ta đã biết, Kongre nhất định không chịu phí thì giờ cho những tìm kiếm vô ích. Mau chóng kết thúc việc sửa chữa trong thời gian ngắn nhất, đó là điều tốt nhất phải làm lúc này và hắn đã làm như vậy. Thay những tấm gỗ hư hại, đóng nêm vào lỗ đạn khoan... những việc đó tên thợ mộc Vargas hoàn thành đúng như đã nói. Vasquez và John Davis không hề thấy gì lạ trong ngày mùng 1 tháng Ba. Nhưng ngày ấy thật là dài!
Buổi tối, sau khi canh chừng chiếc thuyền buồm và sau khi chắc chắn là nó vẫn còn nằm nguyên chỗ neo đậu, hai người lại về núp trong hốc đá, nơi mà một giấc ngủ sẽ mang lại sự nghỉ ngơi cần thiết.
Hôm sau, hai người lại thức giấc từ sáng sớm. Việc đầu tiên của họ là nhìn ra ngoài biển.
Vẫn không có con tàu nào xuất hiện. Chiếc Santa-fé còn ở mãi đâu và cũng không một làn khói nào bay lên ở chân trời.
Liệu chiếc thuyền buồm có lợi dụng nước triều sáng để ra khơi? Nước triều đang xuống. Nếu nó biết lợi dụng hiện tượng này thì nó có thể vượt mũi San Juan trong một tiếng nữa...
Còn để lại lặp lại cuộc tấn công như hôm trước thì John Davis không dám nghĩ tới. Kongre sẽ cảnh giác hơn. Hắn sẽ cho tàu đi xa bờ hơn và tầm bắn của súng sẽ không tới.
Ta dễ dàng hiểu được sự sốt ruột cùng nỗi lo sợ của John Davis và Vasquez lúc này. Từ lúc này trở đi, Kongre sẽ không thể đưa tàu ra khơi, trước lúc nước triều rút buổi tối.
Trời tối, gió nổi lên và duy trì ở hướng đông bắc. Mặt biển không còn dấu vết gì của cơn bão vừa qua. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ, những đám mây mỏng bay rất cao mà gió không thổi tới được.
Lại một ngày dài vô tận nữa đang đến với Vasquez và John Davis. Cũng như hôm trước, không có gì lạ. Bọn cướp vẫn chưa rời vũng tàu. Không bóng dáng một tên cướp nào ló dạng từ sáng cho đến chiều.
- Điều đó chứng tỏ bọn khốn kiếp đều bận rộn cả - Vasquez nói.
- Đúng, chúng đang vội vã - John Davis đáp - Rồi chả mấy lúc mà những lỗ thủng trên thân tàu được bít lại. Không còn gì để giữ chân chúng lại.
- Có thể là... tối nay... dù nước triều xuống muộn - Vasquez nói thêm - Bọn chúng biết rất rõ quy luật nước triều ở vịnh này, đó là một thực tế! Chúng chả cần có hải đăng soi đường. Tối qua chúng đã đi ngược lên. Và tối mai nếu chúng đi xuôi xuống phía dưới thì chiếc thuyền buồm sẽ mang chúng đi xa... Chỉ tiếc là - Vasquez nói với vẻ thất vọng - anh không bắn vào cột buồm của chúng!
- Anh còn muốn gì nữa, Vasquez? - Davis đáp - chúng ta đã làm tất cả những gì có thể! Phần còn lại cứ để Thượng đế lo.
- Chúng ta sẽ giúp Thượng đế.
Vasquez nói, có vẻ như anh đã tìm ra một giải pháp nào cương quyết hơn. John Davis, vẻ trầm ngâm, đi đi lại lại trên bờ đá, mắt luôn dõi về phía bắc, không có gì ở chân trời cả!
Đột nhiên, anh đứng dừng lại. Rồi anh bước lại gần Vasquez và nói:
- Vasquez à... hay là chúng ta đến chỗ ấy xem bọn chúng đang làm gì?
- Lại gần cuối vịnh ấy à, Davis?
- Phải... ta tới để xem tình trạng của chiếc thuyền buồm... xem nó đã sẵn sàng để ra khơi chưa.
- Và điều đó sẽ giúp ta được gì?
- À, để biết mà thôi, Vasquez ạ - John Davis nói - Tôi sốt ruột đến điên lên mất thôi. Không thể nào ngồi yên một chỗ được... không tài nào chịu nổi!
Mà quả thật, viên thuyền phó của chiếc Century đã không còn kìm được.
- Này Vasquez, từ đây đến hải đăng bao xa nhỉ?
- Không quá ba hải lý, phải qua mấy quả đồi và sau đó cứ thẳng được tới cuối vịnh.
- Thế thì, tôi sẽ tới đấy, Vasquez ạ... Khoảng bốn giờ tôi xuất phát... tôi sẽ tới nơi trước sáu giờ... tôi sẽ tìm cách luồn vào trong sao cho không ai thấy tôi... còn tôi, tôi sẽ trông thấy!
Biết rằng có tìm cách căn ngăn thì John Davis cũng chẳng nghe cho nên Vasquez im lặng, và khi Davis nói:
- Anh hãy ở lại đây. Anh canh chừng mặt biển. Tôi đi một mình và tối nay sẽ quay về.
Vasquez liền trả lời như đã có sẵn một kế hoạch:
- Tôi đi cùng anh, Davis ạ. Tôi cũng muốn làm một vòng quan sát ở ngọn hải đăng.
Quyết định như thế họ liền làm ngay. Trong mấy tiếng đồng hồ trước lúc khởi hành, Vasquez để Davis một mình trên bờ đá, còn mình thì chui vào hốc đá, nơi hai người ẩn nấp, để bí mật chuẩn bị công việc gì đó. Viên thuyền phó của chiếc Century bắt gặp anh đang cẩn thận mài sắc một con dao lớn trên một tảng đá, rồi lần thứ hai ông thấy Vasquez đang xé một chiếc áo sơ mi để bện một sợi dây dài. Khi được hỏi đang làm gì thì Vasquez chỉ trả lời qua quýt là đến tối sẽ rõ. John Davis cũng không gặng hỏi thêm.
Vào lúc bốn giờ chiều, sau khi ăn một miếng bánh bích quy và thịt bò khô, cả hai lên đường, mang theo hai khẩu súng lục.
Một thung lũng hẹp giúp họ trèo lên đồi một cách dễ dàng, chẳng mấy chốc đã đến đỉnh đồi.
Trước mắt hai người trải ra một cao nguyên khô cằn chỉ có vài bụi cây gai mọc. Không một cây to nào được trông thấy trong tầm mắt. Vài con chim biển đang bay về phương nam, tiếng chim kêu vang điếc tai. Con đường dẫn đến cuối vịnh Elgor đang rộng ra trước mắt họ.
- Kia kìa! - Vasquez nói và lấy tay chỉ về phía ngọn hải đăng đang hiện ra trước mắt họ, với khoảng cách hơn cây số.
- Đi nào! - John Davis đáp.
Hai người rảo chân bước nhanh hơn. Chỉ khi gần đến vũng đậu tàu, họ mới cần thận trọng. Sau khi đi khoảng nửa tiếng đồng hồ, cả hai dừng lại thở hổn hển, nhưng họ không thấy mệt.
Còn phải đi khoảng gần cây số nữa mới đến nơi. Giờ đây họ bắt đầu phải cẩn thận đề phòng trường hợp Kongre hay đồng bọn nhìn thấy từ trên hành lang của tháp đèn. Ở khoảng cách này, họ có thể bị phát hiện.
Nhờ trời trong nên tháp đèn rõ mồn một. Không có một ai trên đó vào giờ này nhưng rất có thể Carcante hay một tên nào khác đang ở trong phòng trực. Ở đấy có những cánh cửa sổ hẹp mở ra mọi hướng nên dễ dàng quan sát đảo trên một phạm vi rộng.
John Davis và Vasquez luồn qua những tảng đá rải rác đó đây, cả hai lom khom, đôi lúc phải trườn mình qua những khoảng trống. Tốc độ của họ chậm lại đáng kể trong khoảng đường cuối này.
Vào lúc gần sáu giờ tối thì họ tới được mỏm cao cuối cùng của dãy đồi bao quanh vũng đậu tàu. Họ cùng phóng tầm nhìn xuống bên dưới. Ở chỗ này, không ai có thể thấy được họ, trừ phi có tên nào cũng leo lên trên đồi. Ngay từ trên hải đăng cũng không ai có thể phân biệt họ với những mỏm đá lô nhô xung quanh.
Chiếc thuyền buồm vẫn nằm kia, neo đậu giữa vịnh với những cột buồm, thừng chảo sẵn sàng cho một chuyến đi xa. Thủy thủ đoàn đang bận rộn đem hàng hóa từ trên boong đưa vào khoang. Chiếc xuồng cứu hộ cũng được kéo lên giá đỡ ở phía sau, nó không còn đậu bên trái chiếc thuyền buồm nữa chứng tỏ mọi việc sửa chữa đã hoàn tất, nghĩa là hai lỗ đạn khoan đã được bít lại.
- Chúng đã sẵn sàng - John Davis thì thầm, anh như cố nén cơn giận dữ đang chực bùng nổ.
- Ai biết được là chúng sẽ không nhổ neo trước khi nước triều xuống, tức chỉ còn vài tiếng đông hồ nữa thôi.
- Mà chúng ta thì không làm gì được! – John Davis ấm ức nhắc lại.
Thực tế là tên thợ mộc Vargas đã làm đúng như lời tuyên bố. Công việc sửa chỗ hư hại của vỏ tàu đã được thực hiện một cách nhanh chóng và thích hợp. Không còn ai nhận ra chỗ vỏ tàu hư hại nữa. Hai ngày qua vừa đủ. Hàng hóa đã xếp trở lại khoang tàu, chiếc Carcante đã sẵn sàng để ra khơi lần nữa.
Thời gian trôi qua, mặt trời xuống thấp rồi lặn mất tăm, đêm xuống mà không điều gì chứng tỏ là chiếc thuyền buồm sắp sửa ra khơi. Từ nơi ẩn nấp, Vasquez và John Davis nghe rõ mồn một những tiếng động từ phía dưới vịnh vọng lên. Đó là những tiếng cười, tiếng kêu, tiếng chửi thề, tiếng các kiện hàng kéo lên trên sàn boong tàu nghe ken két. Vào khoảng mười giờ, hai người còn nghe rõ tiếng cửa khoang tàu đóng lại. Sau đó là im lặng hoàn toàn.
Davis và Vasquez vẫn chờ đợi, lòng buồn rười rượi, chắc chắn bọn chúng đã hoàn tất mọi việc, đã đến lúc khởi hành chăng? Không, chiếc thuyền buồm vẫn lắc lư trên mặt vịnh, neo vẫn còn thả vào, buồm vẫn còn xếp trên cột.
Một tiếng đống hồ trôi qua. Viên chỉ huy phó của chiếc Century nắm lấy tay Vasquez:
- Triều lại lên rồi. Nhìn sóng kìa.
- Vậy là chúng sẽ không đi!
- Hôm nay thì không. Nhưng ngày mai thì...?
- Không ngày mai, và sẽ không bao giờ cả - Vasquez quả quyết nói - Anh lại đây - Vasquez nói thêm trong khi chui ra khỏi hốc đá mà họ đang nấp.
Davis bước theo Vasquez để tiến về phía hải đăng với một trí tò mò bị kích thích đến cực độ. Chỉ trong chốc lát, họ tới chân ụ đất đắp cao làm chân đế cho tháp đèn. Đến nơi, Vasquez tìm tòi giây lát và đẩy vào một tảng đá, tảng đá xoay sang một bên không mấy khó khăn.
- Anh hãy chui vào trong đó đi - Vasquez nói và lấy tay chỉ cho Davis cái hốc - Đây là một chỗ trú ẩn mà tôi đã tình cờ tìm ra lúc tôi còn gác ở ngọn hải đăng. Tôi luôn nghĩ là sẽ có lúc phải dùng đến nó. Nó không phải là một cái hang mà chỉ là một cái hốc đủ cho hai người trú ẩn. Nhưng nếu có ai đó đi qua đi lại hoài bên ngoài cũng không thể nào biết là trong ấy có người.
Davis nghe theo và chui vào trong hốc mà sau đó Vasquez cũng chui vào theo. Hai người nép sát vào nhau và thì thầm trao đổi.
- Anh hãy nghe kế hoạch của tôi - Vasquez nói - Anh hãy chờ tôi ở đây.
- Chờ anh ư? - Davis hỏi lại.
- Phải, còn tôi, tôi sẽ bơi ra thuyền buồm.
- Bơi ra thuyền buồm? - Davis kinh ngạc hỏi lại.
- Tôi đã cương quyết không để cho lũ khốn này ra khơi - Vasquez quả quyết nói.
Anh ta moi trong túi áo khoác ra hai gói lớn và một con dao.
- Đây là một gói mìn mà tôi tự chế từ chỗ thuốc súng và chiếc áo sơ mi. Chỗ thuốc còn lại với hai tay áo tôi làm sợi dây ngòi. Tôi sẽ đội tất cả lên đầu và bơi ra chỗ thuyền đậu. Sau đó tôi sẽ leo lên chỗ bánh lái ngồi và dùng con dao này để khoét một cái lỗ vào vỏ tàu. khoảng gần đuôi tàu. Tôi sẽ nhét gói thuốc nổ vào đó cùng với sợi dây ngòi, sau đó đốt ngòi và bơi về. Đấy là kế hoạch của tôi và không ai có thể ngăn được tôi thực hiện nó.
- Thật tuyệt vời! - John Davis phấn khởi kêu lên – Nhưng tôi sẽ không để anh một mình chịu nguy hiểm đâu, tôi sẽ theo anh.
- Để làm gì? - Vasquez gạt phắt - Một người sẽ dễ thành công hơn, chỉ một người là đủ rồi.
Mặc cho Davis năn nỉ. Vasquez vẫn cương quyết từ chối. Anh là người vạch ra kế hoạch và anh sẽ thực hiện nó.
Không thuyết phục nổi Vasquez, Davis đành chấp nhận ở lại.
Vào lúc trời tối nhất của đêm, Vasquez liền cởi hết quần áo chui ra khỏi hốc và đi về phía bờ biển. Xuống tới biển, với đôi tay mạnh mẽ anh bơi ra chiếc thuyền buồm lúc đó đang bập bềnh trên sóng cách bờ khoảng hai trăm mét. Càng đến gần chiếc thuyền thì hình dáng nó càng trở nên tối đen và to lớn. Không có động tĩnh nào trên boong, tuy nhiên bọn cướp vẫn có người gác. Vasquez đã nhận ra bóng dáng tên cướp đang canh gác. Hắn ngồi trên boong mũi của tàu, hai chân buông thõng trên mặt nước, miệng huýt gió một bài ca của lính thủy, những nốt nhạc vang lên mồn một trong đêm lặng lẽ. Vasquez bơi vòng về phía bánh lái, anh nhanh chóng lẩn vào bóng tối do con tàu tạo nên. Chiếc bánh lái nằm ngay trên đầu anh. Anh đưa tay nắm lấy bề mặt trơn tuột của nó và báng một sức mạnh phi thường, anh cố đu mình lên và bám được vào cần bánh lái.
Dùng hai chân kẹp lấy như cưỡi ngựa, hai bàn tay, lúc này đã được tự do, anh tháo chiếc túi buộc trên đầu ra. Lấy răng cắn chặt chiếc túi, anh moi các thứ trong túi ra. Với con dao đã mài sắc anh khoét một cái lỗ rộng và sâu ở ngay bên cạnh bánh lái tàu; khoảng một giờ sau, chiếc lỗ đã được đục thủng. Vasquez lấy gói thuốc nổ ra nhét vào trong, anh tra ngòi vào rồi cúi xuống tìm chiếc bật lửa ở đáy túi.
Vào lúc đó hai đau gối anh chợt lơi lỏng ra tí chút. Anh thấy mình như trôi tuột xuống nước và nếu thế thì kế hoạch của anh sẽ thất bại nếu chiếc bật lửa mà thấm nước nó sẽ không làm lửa được. Trong một hành động cố gắng lấy lại thăng bằng, chiếc miệng túi nghiêng sang một bên và con dao trong túi bị rớt xuống nước, gây ra một tiếng động nhỏ.
Bài hát trên miệng tên gác đột ngột ngừng bặt. Vasquez nghe rõ tiếng chân bước lên tháp canh trên boong. Chiếc bóng của hắn in rõ trên mặt nước. Tên thủy thủ đó cúi nhìn xung quanh như để tìm ra nguyên nhân của tiếng động mà hắn vừa nghe thấy. Hắn đứng như thế hồi lâu làm cho hai chân Vasquez tê dại, ngón tay anh bám vào chiếc bánh lái cứ bị trơn tuột đi. Sau cùng, vì không phát hiện được điều gì khả nghi, tên thủy thủ đi xuống boong tàu và tiếp tục bài hát dở dang.
Vasquez lôi bật lửa từ trong túi ra và quẹt lửa. Vài tia lửa nhỏ phát ra, bén vào sợi dây ngòi làm nó bốc cháy.
Ngay lập tức, Vasquez buông bánh lái tàu ra, thả mình vào nước và nhanh chóng bơi vào bờ.
Từ trong hốc đá nơi John Davis ẩn nấp, anh thấy thời gian như kéo dài vô tận. Mười lăm phút, nửa giờ, rồi một giờ đã trôi qua. Không thể kiên nhẫn thêm nữa, Davis bò ra ngoài và sốt ruột ngóng ra phía biển. Không biết đã có chuyện gì xảy đến với Vasquez? Dù sao, anh ta cũng không thể bị phát hiện vì không nghe thấy tiếng động nào cả.
Đột nhiên, một tiếng nổ inh tai vang lên, được núi đồi vọng lại như sấm rền, tiếp theo là tiếng la hét, tiếng chân chạy rầm rập trên tàu. Một lúc sau, một con người mình mẩy ướt sũng nước và bùn chạy lại, lấy tay đẩy Davis ra để có lối chui vào hốc đá. Liền ngay sau đó, một toán người vừa chạy lên đồi vừa la hét. Tiếng chân rầm rập trên bờ đá cũng không át được tiếng nói của chúng.
- Nào cố lên! - Một tên kêu lên - Bắt lấy nó.
- Tao đã trông thấy nó chạy, rõ như trông thấy mày mà - một tên khác nói - Thằng này chỉ có một mình. Nó chỉ còn cách mình cỡ chục mét thôi.
- A! Thằng khốn kiếp! Tao sẽ cho mày biết tay - Tiếng bước chạy xa dần, rồi tắt hẳn.
- Thành công chứ? - Davis khẽ giọng hỏi.
- Tốt - Vasquez đáp.
- Và anh nghĩ là sẽ thành công?
- Tôi hy vọng thế - Vasquez đáp.
Đến lúc rạng đông thì những tiếng búa đóng vào gỗ dưới thuyền vang lên làm tiêu tan mọi nỗi nghi ngờ về sự thành công. Tiếng búa gõ dưới tàu chứng tỏ tàu đã bị hư hại, và như vậy hành động của Vasquez đã thành công. Tuy nhiên thành công đến mức nào thì cả hai đều chưa rõ.
- Mong sao cho nó hư nặng đến mức bọn chúng phải ở lại trong vịnh cả tháng trời! - Davis nói lớn mà quên rằng trong trường hợp ấy cả anh và bạn anh sẽ không còn gì để sống trong cái nơi trú ẩn này.
- Im lặng - Vasquez thì thầm và lấy tay giữ Davis lại.
Có một toán người đang im lặng tiến lại gần. Có thể vẫn là bọn trước. Bọn chúng im lặng chẳng nói chẳng rằng, chỉ có tiếng chân rầm rập bước qua.
Cả buổi sáng hôm đó, Vasquez và Davis cứ phải nghe những tiếng chân đó đi qua đi lại. Từng tốp người, thay nhau vào cuộc truy tìm. Tuy nhiên, thời gian dần qua và cuộc tìm kiếm lơi lỏng dần. Sau cùng thì sự im lặng lại đến và khoảng giữa trưa, có ba, bốn tên đứng dừng lại cách chỗ Davis và Vasquez ẩn nấp chỉ chừng vài bước chân.
- Chắc chắn là không tìm được hắn rồi - một tên đứng ngay bên hốc đá nói.
- Tốt hơn cả là kết thúc cuộc săn lùng thôi - một tên khác gợi ý - Mọi người đều lên tàu rồi.
- Và chúng ta cũng làm như họ thôi. Nhất là cái thằng khốn kiếp ấy đã đánh hụt phen này mới hay chứ.
Nghe thấy thế, Vasquez và Davis giật mình, và càng chăm chú nghe.
- Đúng thế - tên thứ tư lên tiếng - Mày không thấy là nó định phá bung cái bánh lái!
- À! linh hồn của con tàu đấy à!
- May mà cái gói thuốc nổ của nó không mạnh lắm. Sự thiệt hại chỉ là một lỗ nhỏ ở vỏ tàu và vài cái đinh bị bật ra. Còn trục bánh lái thì gần như không suy suyển.
- Tất cả sẽ được sửa nội trong hôm nay - một tên nói - Và tối nay, khi nước triều xuống, ta lại nhổ neo, phải không chúng mày? Còn tên khốn kiếp kia, cứ để hắn chết đói, nếu hắn muốn vậy!
- Thế nào, Lopez, mày nghỉ ngơi thế đã đủ chưa? - Một giọng nói ồm ồm vang lên - Ba hoa như thế làm gì. Về tàu thôi.
- Nào thì về - cả ba tên kia cùng phụ họa theo. Sau đó chúng cùng đi xuống bờ đá.
Trong hốc đá, nơi hai người ẩn nấp, cả Vasquez và Davis đều bàng hoàng, chán nản về tất cả những điều vừa nghe được. Họ nhìn nhau im lặng.
Hai giọt nước mắt lớn từ từ lăn ra từ khóe mắt Vasquez, người thủy thủ gan dạ này cũng chẳng tìm cách giấu đi nỗi thất vọng lớn lao. Vậy là tất cả những hành động của anh chỉ đem lại được một kết quả không ra gì. Kết cục cũng làm cho bọn cướp chậm ra khơi thêm có mười hai tiếng đồng hồ nữa. Chỉ tối nay thôi, sau khi sửa chữa xong, chiếc thuyền buồm lại ra khơi và sẽ khuất dạng nơi chân trời.
Tiếng búa rộn rã vang lên từ dưới thuyền chứng tỏ Kongre và đồng bọn đang tích cực làm việc sao cho chiếc Carcante có thể ra khơi tối nay. Vào hơn năm giờ chiều một chút, tiếng búa đóng ngừng hẳn trong sự thất vọng của Vasquez và Davis. Họ hiểu rằng việc sửa tàu đã xong. Vài phút sau, tiếng xích kéo neo đập vào thành tàu xác nhận điều đó Kongre cho dây neo treo thẳng đứng. Giờ phút khởi hành đang đến gần.
Vasquez không còn kiên nhẫn được nữa. Lấy tay đẩy phiến đá che cửa hốc đá, anh thận trọng quan sát bên ngoài.
Về phía tây, mặt trời xuống đến đỉnh các ngọn núi che khuất tầm nhìn phía đó. Vào thời điểm này, ngày thu phân đến gần và phải một tiếng đồng hồ nữa, mặt trời mới lặn hẳn. Về phía đối diện, chiếc thuyền buồm vẫn còn đứng trong vũng tàu. Những chỗ bị hư trên vỏ thuyền đã được vá lại hoàn hảo, không còn dấu vết gì. Tất cả mọi chuyện đều diễn ra bình thường trên tàu. Dây neo vẫn để thẳng đứng và theo Vasquez thì nó sẽ được kéo lên giá đỡ vào phút chót.
Anh như quên mọi thận trọng, nhô hẳn nửa người ra ngoài hốc đá. Sau lưng Vasquez, Davis nép vào vai anh. Cả hai hồi hộp quan sát.
Cần hết băng cướp đã lên cả trên thuyền. Một vài tên còn ở lại dưới đất. Trong số đó, Vasquez nhìn thấy rõ Kongre cùng với Carcante đang đi đi lại lại bên tháp đèn.
Năm phút sau, một mình Carcante đến gần cửa vào hải đăng.
- Cẩn thận nhé - Vasquez thì thầm - Tên này có thể leo lên trên tháp đèn.
Cả hai cùng trườn vào bên trong đáy hốc đá. Đúng thế, Carcante định leo lên đỉnh tháp đèn một lần cuối. Chiếc thuyền buồm sắp ra khơi. Hắn muốn quan sát phía chân trời để xem có con tàu nào xuất hiện nơi cửa vào vịnh không.
Tuy nhiên, đêm vẫn yên tĩnh, gió lặng và mọi thứ đều hứa hẹn một ngày đẹp trời vào sáng mai, lúc mặt trời mọc.
Khi Carcante lên đến hành lang bao quanh tháp, cả John Davis và Vasquez đều nhìn thấy rõ mồn một. Tên này đi quanh hành lang, chiếc ống nhòm trong tay hắn luôn chĩa ra ngoài chân trời.
Bỗng nhiên, một tiếng kêu thất thanh bật ra từ miệng Carcante. Kongre và bọn cướp đều nhìn về phía hắn. Bằng một giọng mà mọi người đều nghe rõ, Carcante kêu lên:
- Tuần dương hạm... nó đang tới!
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Làm thế nào để tả được cảnh náo loạn đang diễn ra nơi đây, chỗ tận cùng của vịnh biển? Những tiếng kêu: "Chiếc tuần dương hạm...?" vang lên như một tiếng sét, như bản án tử hình giáng xuống đầu lũ khốn nạn. Chiếc Santa-fé, thần Công lý, đang tới đảo, đó là sự trừng phạt cho bao tội ác mà bọn cướp đã nhúng tay vào, và lần này chúng không thể nào chạy thoát.
Nhưng Carcante có trông nhầm không? Con tàu đang tới kia có đúng là chiếc tuần dương hạm của hải quan Argentina? Chiếc tàu đó có đến vịnh Elgor không? Hay nó chỉ vượt qua eo biển Lemaire hoặc tới mũi Several để đi về phía nam của đảo? Ngay từ lúc nghe thấy tiếng kêu hốt hoảng của Carcante, Kongre liền chạy lên bờ, rồi nhanh chóng trèo lên cầu thang, và chỉ sau năm phút hắn đã tới hành lang của hải đăng.
- Đâu, con tàu ấy đâu? - hắn giật giọng hỏi.
- Kia kìa, ở hướng bắc - đông bắc.
- Còn xa không?
- Gần mười hải lý.
- Nó không thể đến cửa vịnh trước khi trời tối phải không?
- Đúng vậy.
Kongre giằng lấy chiếc ống nhòm. Hắn chăm chú nhìn con tàu, không nói một câu. Chắc chắn là chúng nó đang đối đầu với một chiếc tàu hơi nước. Nhìn những cuộn khói đen tuôn mạnh mẽ ở ống khói, có thể đoán biết con tàu đang chạy hết tốc lực.
Và chiếc tàu thủy đó chính là tuần dương hạm Santa-fé, cả Kongre lẫn Carcante không thể lầm lẫn điều đó. Đã bao nhiêu lần bọn chúng trông thấy con tàu Argentina này trong thời gian xây dựng hải đăng, cả lúc nó đến lẫn khi nó rời đảo. Hơn nữa, con tàu này đang thẳng đường đi đến vũng đậu tàu. Nếu nó chỉ đi qua eo biển Lemaire, thì nó phải đi chếch ve phía tây hơn nữa, còn nếu muốn qua mũi Several để ra đại dương thì phải vòng xuống phía nam.
- Đúng nó rồi - sau cùng Kongre nói - đúng là chiếc tuần dương hạm!
- Đúng là đồ chết tiệt, cái xui xẻo đáng nguyền rủa đã níu chúng ta cho đến tận bây giờ! - Carcante kêu lên - Mấy thằng chó chết, đã cản trở chúng ta đến hai lần, nếu không thì mình đã ra đến Thái Bình dương rồi.
- Thôi, nói lại tất cả có ích lợi gì - Kongre ngắt lời – Chúng ta phải liều thôi.
- Liều cách nào?
- Chuẩn bị ra khơi luôn.
- Khi nào?
- Ngay lập tức.
- Nhưng, trước khi mình ra được ngoài biển thì chiếc tuần dương hạm đã đứng ở cửa vịnh rồi.
- Đúng vậy, nhưng nó còn ở bên ngoài.
- Tại sao?
- Bởi vì ngọn hải đăng không hoạt động, bọn chúng không dám liều đi vào vịnh trong đêm tối.
Cái lập luận quá đúng mà Kongre nêu lên đó, chính John Davis và Vasquez cũng đã nghĩ đến. Hai người chưa muốn rời chỗ núp, chừng nào trên hành lang của tháp đèn còn có thể trông thấy họ. Trong cái hốc đá chật hẹp đó, hai người cũng đưa ra cái ý kiến giống hệt cách lập luận của tên cầm đầu băng cướp. Giờ này lẽ ra ngọn hải đăng phải được bật sáng, vì mặt trời đã khuất. Nếu không thấy được ánh đèn, thì mặc dù rất thông thạo đảo này, ông thuyền trưởng Lafayate sẽ không dại gì mà không dừng lại chờ ở ngoài khơi?... Nói cho đúng ra thì đã mười lần, viên chỉ huy này đi vào vịnh, nhưng toàn vào ban ngày cả, nay không có hải đăng soi đường. ông ta sẽ không dám mạo hiểm vào vịnh trong đêm đen. Hơn nữa, ông ta phải nghĩ đến khả năng đã xảy ra biến cố gì nghiêm trọng trên đảo, vì thế các nhân viên mới không có mặt ở tháp đèn.
Vả lại Vasquez nói, nếu ông chỉ huy mà không trông thấy đất liền, nếu ông cứ liều lĩnh đi với hy vọng thấy ánh đèn, biết đâu lại chẳng xảy ra vụ tàu Century thứ hai? Ông sẽ lại gặp rắc rối với những bãi đá của mũi San Juan?
Với những câu hỏi trên, John Davis chỉ dám trả lời lấp lửng. Khả năng mà Vasquez đề cập đến rất có thể xảy ra. Dĩ nhiên là hôm nay trời không giông bão và chiếc Santa-Fé không giống chiếc Century. Nhưng, cuối cùng thì tai họa là điều rất có thể.
- Chúng ta hãy chạy ra bờ biển - Vasquez tiếp lời - chỉ cần hai tiếng đồng hồ là chúng ta sẽ tới vũng tàu. Có thể vẫn còn thời gian để thắp sáng hải đăng lên để báo hiệu cho chiếc Santa-fé.
- Không được - John Davis đáp - đã quá trễ rồi, chỉ một giờ nữa là chiếc chiến hạm sẽ ở cửa vịnh.
- Vậy ta phải làm gì?
- Phải chờ thôi - John Davis đáp.
Lúc này đã hơn sáu giờ và hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Tuy nhiên, mọi việc chuẩn bị để ra khơi đang được thực hiện trên chiếc Carcante, Kongre muốn ra khơi bằng bất cứ giá nào. Quá nôn nóng, tên này quyết định rời chỗ neo đậu ngay lập tức vì nếu chờ đến lúc nước triều xuống vào sáng mai, thì có thể chạm trán với chiếc chiến hạm. Khi đó viên chỉ huy Lafayate sẽ không cho chiếc thuyền buồm ra khơi. Ông ta sẽ bắt thuyền dừng lại và chất vấn thuyền trưởng. Chắc chắn, ông ta sẽ hỏi tại sao hải đăng không hoạt động. Sự có mặt của chiếc Carcante là một nghi vấn với ông. Khi chiếc Carcante dừng lại, ông sẽ sang thuyền để đòi gặp Kongre và các thuyền viên khác; và chỉ cần căn cứ vào nhân dạng của đám người này, ông hoàn toàn có lý do để nghi ngờ. Ông sẽ ra lệnh cho thuyền quay mũi trở lại trong vịnh để làm sáng tỏ mọi vấn đề.
Lúc đó, sự vắng mặt của ba nhân viên gác đèn sẽ chỉ được giải thích bằng một vụ tấn công mà họ là nạn nhân.
Và viên chỉ huy chiếc tuần dương hạm có lý do để tin là tác giả của cuộc tấn công chính là những người trên chiếc thuyền buồm đang chạy trốn.
Điều rắc rối sau cùng có thể xảy ra là: một khi Kongre và đồng bọn đã nhận ra chiếc Santa-fé ở ngoài khơi, thì chắc chắn rằng, nhóm người đã hai lần tấn công chiếc Carcante, cũng đã nhận ra nó. Những kẻ thù giấu mặt đó có thể theo dõi mọi động thái của con tàu và khi chiếc Santa-fé đã vào trong vũng tàu thì bọn họ cũng đã có ở đó, và nếu trong số đó có tên gác đèn thứ ba thì Kongre và đồng bọn không thể nào tránh được sự trừng phạt cho những tội ác mà chúng đã gây ra.
Kongre đã hình dung ra tất cả các khả năng đó và hậu quả của chúng. Từ đó, lối thoát duy nhất cho hắn là: chuẩn bị buồm chảo ngay tức thì, gió đang thổi từ hướng bắc tới, vậy là rất thuận lợi, có thể lợi dụng đêm tối, dong buồm lên mà ra khơi. Trong khi chiếc thuyền buồm thấy rõ đại dương ở trước mũi tàu thì chiếc tuần dương hạm, vì chưa thấy ánh sáng của hải đăng, nếu không muốn đi vào vịnh trong đêm tối, lúc này nó còn ở ngoài xa đảo Đa Quốc gia.
Nếu cần, thay vì đi qua eo biển Lemaire, Kongre sẽ cho thuyền đi về phía nam, vượt qua mũi Several rồi né sang bờ biển phía nam. Nghĩ thế nên Kongre mới cấp tốc chuẩn bị buồm chảo.
John Davis và Vasquez, hình như cũng đoán được ý định bọn cướp nên cũng đang tự hỏi, làm thế nào để ngăn cản bọn chúng thực hiện ý đồ ấy. Cả hai đang vò đầu bứt tai về sự bất lực của mình!
Vào lúc bảy giờ ba mươi, Carcante cho gọi tất cả những tên còn ở trên bờ xuống tàu. Khi toàn bộ thủy thủ đoàn đã ở trên boong, chúng cho kéo chiếc ca nô lên và chuẩn bị kéo neo.
John Davis và Vasquez nghe rõ tiếng dây xích kéo neo rít lên ken két và trông rõ chiếc neo đang được kéo lên.
Sau năm phút, chiếc mỏ neo đã được đặt trên giá. Chiếc thuyền buồm rùng mình chuyển động. Bao nhiêu buồm lớn buồm nhỏ trên tàu đều được giương lên để tận dụng sức gió lúc này còn yếu. Chiếc thuyền từ từ lướt ra khỏi vịnh và để nhận được nhiều gió hơn nữa, nó đi ở giữa vịnh.
Tuy nhiên, chẳng mấy chốc mà sự đi chuyển của chiếc thuyền trở nên khó khăn. Nước triều đã xuống thấp, không còn đủ sức đẩy thuyền đi và với cách đi chếch gió này, nó chẳng tiến được bao xa. Thuyền ì ạch tiến lên, có lúc dừng lại. Nếu cứ cho là mọi chuyện đều tốt đẹp, thì phải đến nửa đêm, con thuyền mới đến được mũi San Juan.
Tuy nhiên, cũng không có chuyện gì đáng phải lo.
Chừng nào mà chiếc Santa-fé còn chưa vào được trong vịnh thì Kongre càng ít có khả năng chạm trán với chiếc chiến hạm. Con tàu đó cũng phải chờ lúc nước triều lên, như vậy cũng phải tới sáng hôm sau.
Thủy thủ đoàn của chiếc Carcante đã làm hết mình để chiếc thuyền tiến nhanh hơn. Tuy nhiên chúng tỏ ra bất lực trước một hiểm nguy rõ rệt, đó là bị gió biển thổi trôi giạt đi. Dần dà gió cứ đẩy con thuyền về phía bờ nam của vịnh Elgor. Bờ biển phía nam đó, Kongre biết rất lờ mờ, hắn chỉ biết là ở đó có nhiều mỏm đá lởm chởm rất nguy hiểm cho tàu bè qua lại. Một tiếng đồng hồ sau lúc xuất phát, để khỏi trôi giạt tới đó, hắn nghĩ đến phương án cho đổi hướng tiến của tàu. Nhưng thay đổi cách néo buồm lúc này không dễ dàng chút nào, nhất là gió càng lúc càng yếu đi.
Tuy nhiên, việc thao tác được coi là khẩn cấp. Các dây kéo buồm phía sau được kéo căng, còn các dây kéo phía trước được tháo chùng ra, nhưng vì không có đà, nên chiếc thuyền buồm không tài nào lái về phía gió được, nó tiếp tục trôi giạt về phía bờ biển.
Kongre đã thấy được sự nguy hiểm và chỉ còn một lựa chọn cuối cùng. Và hắn đành chấp nhận. Chiếc xuồng cứu hộ được cho hạ thủy, sáu người được đưa xuống đó cùng với một sợi dây chảo. Nhờ sức của mái chèo, bọn chúng đã làm chiếc thuyền buồm nhích lên cùng với sự hỗ trợ của những cánh buồm trái. Mười lăm phút sau, chiếc thuyền lấy lại hướng đi ban đầu mà không sợ va phải bờ đá nữa.
Bất hạnh thay, gió rồi cũng chẳng thổi nữa; những cánh buồm cứ rũ xuống thân cột buồm. Chiếc xuống cứu hộ ra sức kéo chiếc Carcante ra cửa vịnh mà không nổi. Tất cả những gì nó làm được chỉ là chống lại với sức sóng, lúc này đã bắt đầu xuất hiện. Còn vượt lên trên sóng, chưa ai dám nghĩ tới. Kongre buộc lòng phải cho neo đậu thuyền tại chỗ, tại một địa điểm cách vũng đậu tàu khoảng hai hải lý.
Sau khi chiếc Carcante kéo neo, John Davis và Vasquez cùng đứng cả lên và đi xuống bờ biển theo dõi chuyển động của chiếc thuyền buồm. Gió lúc này đã tắt hẳn và cả hai đều hiểu rằng sớm muộn Kongre phải cho thuyền neo lại, đợi kỳ nước triều xuống vào sáng mai. Nhưng từ giờ đến sáng mai, hắn có thể tới được cửa vịnh và vẫn còn nhiều cơ may cho Kongre có thể đi thoát mà không bị bắt gặp.
- Không thể được! Chúng ta phải tóm cổ chúng! - Đột nhiên Vasquez kêu to lên.
- Nhưng làm thế nào? - John Davis hỏi.
- Lại đây... anh hãy đi theo tôi!
Vasquez kéo tay bạn mình và hai người nhanh chóng chạy về phía hải đăng. Theo ý Vasquez, chiếc Santa-fé sẽ phải cho tuần tra trước lối vào đảo. Tàu có thể đã ở rất gần đảo do đó với mặt biển lặng như thế này, cũng không mấy nguy hiểm. Chắc hẳn là ông thuyền trưởng Lafayate sẽ rất ngạc nhiên khi thấy hải đăng không hoạt động, nhưng ông phải chờ đến sáng hôm sau.
Đó cũng là tất cả những gì mà Kongre đã nghĩ trong đầu; nhưng hắn cho là mình có nhiều cơ may để đánh lạc hướng chiếc chiến hạm. Ngay sau lúc nước triều xuống buổi sáng, chẳng cần đợi có gió, chiếc Carcante sẽ ra khơi ngay và chỉ trong vòng một giờ, chiếc thuyền buồm đã ở đại dương.
Ra được ngoài khơi rồi, Kongre không ra ngay đại dương. Hắn sẽ lợi dụng những cơn gió bất thần, lúc nào chả có, ngay cả những khi trời yên biển lặng, và những dòng nước đổ về phía nam, để đi men theo bờ biển ngay trong đêm. Sau khi vượt qua mũi Several thì chiếc thuyền sẽ được che chở bởi các vách đá dựng đứng.
Hiểm nguy duy nhất cần đề phòng, đó là bị những thủy thủ cảnh giới trên tàu Santa-fé bắt gặp, nếu như con tàu này đứng khuất trong vịnh mà không đậu ở ngay mũi San Juan. Lúc đó thì chắc chắn là viên chỉ huy tàu Lafayate sẽ không để cho chiếc Carcante đi qua, có thể ông ta chỉ hỏi tại sao chiếc hải đăng lại không hoạt động. Chiếc thuyền buồm Carcante làm sao có thể qua mặt một chiếc chiến hạm chạy bằng hơi nước được.
Lúc này mới có chín giờ tối, Kongre đành phải neo đậu lại để chờ nước triều xuống. Như vậy cũng phải chờ đợi trong sáu tiếng nữa vì phải sớm nhất là ba giờ sáng, nước triều mới bắt đầu thuận lợi cho tàu ra khơi. Chiếc thuyền buồm lúc này chòng chành xung quanh dây neo, mũi tàu hướng ra khơi. Chiếc xuồng cứu hộ đã được kéo lên giá. Kongre chỉ chờ lúc nào thuận lợi là sẽ nhanh chóng quay mũi ra khơi.
Đột nhiên, tất cả đám cướp cùng kêu to lên, tiếng kêu tướng chừng ở trên đảo cũng nghe thấy.
Một chùm ánh sáng vừa mới bừng sáng lên xuyên thủng màn đêm. Đó chính là ánh sáng của cây hải đăng đang sáng rực lên, soi tỏ mọi nơi từ mặt biển đến bờ đá.
(THIẾU 208-209)
được cũng không thể nào dùng búa phá khóa ra. Carcanter, sau khi làm thử, đã hiểu ra điều đó. Sau vài cố gắng vô ích, hắn quay xuống gặp Kongre và đồng bọn còn ở phía dưới.
Làm sao bây giờ? Có cách gì leo lên tháp từ phía ngoài để có thể tới chỗ đặt đèn? Nếu không còn cách gì để thực hiện điều đó thì toàn băng cướp chỉ còn có cách bỏ chạy khỏi đảo để tránh bị rơi vào tay ông thuyền trưởng Lafayatte và thủy thủ đoàn của ông ta. Còn như quay trở lại thuyền buồm ư, để làm gì nhỉ? Vả lại, thời gian còn lại không nhiều. Chắc chắn giờ này chiếc chiến hạm đã vào vịnh và đang trên đường đến nơi neo đậu.
Còn trong trường hợp trái lại, vài phút nữa mà tắt được hải đăng đi, không những chiếc Santa-fé không vào được vũng đậu tàu, mà nó còn phải quay mũi trở lại, và lúc đó chiếc thuyền buồm sẽ thẳng tiến ra khơi? Nhưng, làm cách nào để lên được trên hành lang?
- Phải lấy dây cáp của ống thu lôi! - Kongre vụt kêu lên.
Thực vậy, dọc theo tháp đèn có gắn một sợi cáp bằng kim loại, nối từ cột thu lôi trên đỉnh tháp xuống đảo cứ ba bộ lại có một chiếc móc sắt cố định đôi cáp lại. Nếu dùng tay bám vào đó để leo lên hành lang thì có khả năng gây bất ngờ cho những tên trong phòng trực.
Kongre đã chọn lối thoát sau cùng đó. Carcante và Vargas leo lên trước hắn. Cả hai tên nắm lấy sợi cáp và lần lượt trèo lên, hy vọng sẽ không bị bắt gặp nhờ có bóng tối.
Cuối cùng hai tên cũng lên tới tay vịn của lan can tháp đèn, chúng chỉ còn có việc leo qua... Đúng lúc đó, hai phát súng lục vang lên, thì ra là John Davis và Vasquez đã đứng thế thủ ở đó tờ bao giờ. Hai tên cướp bị đạn trúng đầu, buông tay ra và ngã lộn cổ xuống, đầu đập vào nền đá.
Tức thì những tiếng còi vang lên bên dưới chân tháp đèn. Chiếc tuần dương hạm đã vào tới vũng đậu tàu. tiếng còi tàu vang lên những tiếng lanh lảnh vào không gian.
Bây giờ thì chỉ còn có nước bỏ chạy. Trong vài phút nữa là chiếc Santa-fé sẽ neo đậu lại. Biết rằng không còn lối thoát nào khác, Kongre và đồng bọn vội vàng lao ra ngoài khuôn viên hải đăng và bỏ chạy vào phía trong đảo.
Mười lăm phút sau, vào lúc thuyền trưởng Lafayate cho lệnh thả neo thì chiếc xà lúp của tổ gác cũng vừa áp mạn chiếc chiến hạm.
John Davis và Vasquez cùng leo lên chiếc tuần dương hạm.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này