Nhà thương Phủ Doãn sáu giờ rưỡi chiều hôm đó, quang cảnh không khác gì một buổi chiều thường. Những lớp nhà thấp ở các khu yên lặng đợi đêm dưới những hàng cây cao lớn. Một vài người ốm trong bộ quần áo trắng của nhà thương lác đác đứng ở gần nhà bệnh, hoặc lững thững đi ở mấy lối gần. Thỉnh thoảng một người khán hộ vội vàng đi qua. Gió thổi đã bớt nóng và cùng với bóng tối ngày tàn, đưa một chút dễ chịu đến cho mọi người, sau những giờ nóng bức. Thời khắc bình tĩnh lặng lẽ trôi. Không ai có thể ngờ rằng trong bầu không khí hiền lành ấy lại có những tâm trí đang hồi hộp âm thầm để chờ đến những chuyện kịch liệt.
Một thiếu nữ ăn mặc lối nữ khán hộ bước lên khu Pasteur B. Cô nhanh nhện đi tới buồng số 1, đưa mắt trông lại đằng sau, rồi khẽ võ vào mặt cửa ba tiếng. Trên cửa, một mảnh giấy lớn dán vào mặt kính mấy chữ ĐINH VÕ THẠC rõ rệt như nhãn hiệu của một nhà hàng.
Người thiếu nữ vặn nắm cửa bước vào, rồi khép lại cẩn thận. Trong buồng này chỉ có hai giường, một giường để không, trên phủ một chiếc chăn trắng mép chấm gần tới đất. Cô đến ngồi lên đó, lẳng lặng nhìn cái giường kê đối diện, áp với cái cửa sổ trông ra đầu hiên. Trên giường này, một người ốm nằm thẳng, đầu chìm trong những gối bông to và mình đắp một tấm khăn giường nhỏ. Tuy lúc ấy nhá nhem tối và trong phòng không mở đèn, nhưng ai có nhìn cũng nhận ra người ốm kia chính là Lê Phong. Anh hé mắt nhìn người mới vào rồi nhắm mắt lại. Một lát im lặng. Hai người cùng có vẻ nghe ngóng. Bỗng thấy Lê Phong thở một tiếng dài. Anh kéo chăn phủ xuống tới thắt lưng, rồi khẽ hỏi :
- Bảy giờ chưa?
Người thiếu nữ lắc đầu :
- Chưa, còn kém hai mươi.
- Những ai đến rồi?
- Đến đủ cả.
- Đủ? Mai Trung với Kỳ Phương?...
- Họ đợi ở phòng số 3. Họ cùng đến một lúc với người của ta...
- Họ ăn mặc thường?
- Không. Lúc gặp họ lần sau, em nói họ hiểu ý ngay, họ cũng ăn mặc lối khán hộ.
Lê Phong mỉm cười :
- Tử tế nhỉ. Nhưng tôi chắc họ vẫn chưa tin mình. Chúng ta làm việc có vẻ trò quỷ thuật lắm. Nhưng không hề gì. Chỉ mấy giờ nữa họ không tin cũng không được. Thôi thế là chu đáo. Bây giờ Mai Hương đi ra đi. Dặn mọi người nhớ lấy các dấu hiệu. Bình, Lịch với Thanh ở bên buồng số 2 đấy chứ?
- Vâng.
- Ngoài cửa sổ, chỗ ẩn có kín hẳn không?
- Kín. Em mượn nhà thương được hai cái thùng “tôn” có nắp.
- Được. Cô cẩn thận đi soát lại một lượt, đến bảy rưỡi thì “ngậm tăm”.
Phong đưa tay cho Mai Hương bắt. Cô nắm tay anh rất chặt, trong cử chỉ đó Phong đoán thấy sự khăng khít của bạn và cả sự lo sợ thay cho anh.
- Mai Hương đừng ngại gì, nó không biết được tôi đâu.
- Nhưng anh cũng phải coi chừng... Em sợ lúc cùng nó đâm liều thì nguy hiểm lắm cơ đấy...
- Mai Hương cứ yên tâm.
Người thiếu nữ kéo tấm chăn tới cằm Phong, đặt một chiếc khăn ướt lên trán anh, ép hai mép gối vào hai bênmá, nhẹ nhàng ý tứ như một người khán hộ chăm sóc cho một bệnh nhân. Phong nhắm mắt, thấy một sự êm dịu phủ lên khắp mình, và cả tâm hồn anh như thu nhỏ lại.
Khi Mai Hương ra khỏi, những cảm giác khoan khoái cũng bắt đầu mất dần. Cả sự im lặng buồn bã ở nhà thương đều như dâng lên cùng bóng tối im lặng.
Phong nằm yên, nghe quả tim đập, nghe những tiếng nhỏ của lá cây khẽ động và tưởng đến những bước chân rón rén bước lại gần phòng anh.
Lần đầu tiên trong cả vụ này, lúc đó Phong mới biết hồi hộp. Bởi vì anh tự hiến mình làm một thứ mồi để nhử ác thú. Anh nhận lấy cái việc nguy hiểm, thay cho người sẽ bị giết chết để đón lấy khí giới của kẻ giết người đêm nay... Phong đợi mãi mà chưa thấy đến bảy giờ. Giây phút đi chậm lạ thường, hình như cùng với sự bí mật tiến lên bằng những bước dè dặt.
Anh ôn lại các điều dự định, tưởng lại các trường hợp, trông thấy hiện trong trí các cử chỉ và nghe thấy các lời nói của các nhân vật trong vụ này. Nguyên nhân vụ án mạng thứ nhất anh đã biết rõ như đọc trong cuốn sách. Vụ án mạng thứ hai đối với anh là một thứ kết quả dĩ nhiên, do cái án mạng thứ nhất gây nên. Vậy theo luận lý của anh thế nào cũng phải có cuộc mưu sát đêm nay. Anh tin một cách rất vững vàng rằng hung thủ có hết các lẽ quan trọng để phạm tội ác nữa. Trong sự bình tĩnh của tâm trí và của hoàn cảnh, Phong thấy óc mình sáng suốt và giác quan tinh tường thêm. Bất giác Phong mỉm cuời. Nụ cười đạo mạo, nghiêm nghị, chỉ nở trên miệng người phóng viên trong những trường hợp kỳ dị như những lúc này.
Bỗng Phong chau mày. Một tiếng động vừa chợt nghe thấy đâu đây. Một tiếng động rất nhỏ, nhưng lúc ấy không thoát khỏi cái tay người vẫn chú ý.
Anh hé mắt liếc nhìn về phía cửa, thì thấy nắm cửa trắng dần dần quay. Cửa nhẹ nhàng mở ra và một người mặc âu phục sẫm lách vào, khắp người trùm một thứ mặt nạ bằng vải đen, chỉ để hở hai con mắt long lanh sáng.
Phong hiểu ngay, lẳng lặng mỉm cười tự nghĩ :
- Trên sân khấu “bí mật” ai cũng muốn đóng những vai dị kỳ...
Người lạ mặt cẩn thận khép cửa lại thong thả đến bên giường Phong, nhìn người phóng viên lúc đó nằm thẳng dưới làn chăn mỏng trắng. Hắn thấy Phong có vẻ hoàn toàn như một người bị thương nặng: trên đầu buộc khăn, hai má khuất vì hai mép gối; cái bộ mặt biến gần hết và đổi khác hẳn: phải là người biết trước hoặc tinh ý lắm mới nhận được ra là anh. Hắn gật đầu rồi ghé xuống gần tai Phong, hạ thấy giọng xuống nói :
- Ông đợi tôi có nóng ruột không?
Phong hơi lắc đầu. Hắn lại hỏi :
- Đèn bật hay cứ để tối? Có lẽ để tối hơn.
Phong lắc đầu. Người kia ra ý hiểu :
- Phải cứ bật đèn lên có lẽ tự nhiên hơn. Tôi bật đèn nhá?
Bấy giờ Phong mới nói :
- Bật đèn nhưng để lát nữa đã. Bây giờ ông nghe tôi. Lúc vào đây, ông có chắc là nó chưa đến không?
Người đeo mặt nạ đáp, tiếng nói thều thào sau làn vải che trước miệng :
- Chắc. Tôi đã xem xét rất cẩn thận...
- Người sinh viên gác dẫn ông vào phải không?
- Vâng. Ông ấy lại cho tôi biết tên những người ra vào nhà thương từ sáu giờ rưỡi đến bây giờ.
- Những người được phép vào?
- Vâng.
- Mấy người?
- Ba người, mà không ai đáng chú ý. Vì toàn là những người vẫn ra vào đây.
- Việc canh gác nhà thương chu đáo chứ?
- Vâng.
- Được. Ông vào đây, ngoài người sinh viên, có ai trông thấy nữa không?
Người lạ mặt hơi ngập ngừng :
- Chỉ có một cô nữ khán hộ... nhưng cô ấy không để ý đến tôi...
- Ông gặp cô ta ở lối vào đây phải không?
- Vâng... sao kia?
- Cô ấy để ý lắm cơ đấy, nhưng không hề gì, vì đó là cô Mai Hương. Ông không thấy gì khác nữa chứ?... Nghĩa là không có gì khác có thể để cho nó nghi ngại chứ?
- Không.
- Mấy giờ rồi?
Người lạ mặt xem đồng hồ tay :
- Bảy giờ kém mười hai phút.
- Ông có khí giới gì không?
- Tôi không cần khí giới: chân tay không cũng đủ.
- Được. Bây giờ ta chỉ có việc đợi. Nửa giờ nữa hay một, hai giờ nữa cũng không chừng. Thế nào nó cũng đến, để giết Đinh Võ Thạc mà tôi thay mặt nằm ở đây....
Phong cười nhạt :
- Tôi sẽ dành cho hung thủ nhiều sự ngạc nhiên... cho hung thủ cũng như cho nhiều người... thí dụ như ông Mai Trung, ông Kỳ Phương và người bạn thân của tôi và ông Văn Bình. Thực là một món quà đột ngột mà họ không ngờ tới...
Phong chợt hỏi :
- Các khẩu hiệu ông biết cả rồi chứ?
- Bức thư của ông rành mạch lắm. Ông có điều gì dặn thêm nữa không?
- Không. Nhưng tôi tưởng nên nhắc lại cho ông nhớ lần nữa, vả lại có một vài chỗ quan trọng phải sửa đổi. Vậy ông nghe đây: Từ giờ đến đêm, không kể chuông đồng hồ, thì các chuông nhà thương đều không bao giờ đánh. Hễ có tiếng chuông đánh thì ta phải hiểu là có sự khác thường. Sự khác thường ấy có nghĩa là: hung thủ đã qua cổng. Từ lúc hung thủ qua cổng sẽ còn nhiều cách báo hiệu khác mà ta phải nhớ kỹ lấy thứ tự: một đoạn bài “Guitare d’amour” thổi sáo miệng, tức là hung thủ đang tới đầu khu Pasteur B. Khi hung thủ qua những buồng cạnh đây thì bài “Guitare d’amour” sẽ hát thành tiếng. Lúc có tiếng văng vẳng rên của một vài người ốm trên gác, thì hung thủ đã bước tới cửa buồng này. Hung thủ bước vào sẽ ra ngay, vì nó chỉ cần ở có nữa phút cũng đủ làm xong công việc của nó. Khi ấy tiếng còi của tôi thổi giật lên ba lượt thì mọi người phải xông vào. Nhưng nếu còi chưa thổi thì không ai được động cựa. Phần ông thì ông chỉ phải theo những dấu hiệu trên để cầm nhừng. Hiệu còi chỉ người khác cần nhớ. Còi thổi mà chưa ai kịp xông đến, ông cũng không ngại, ông cứ làm theo lời tôi dặn trong thư... ông hiểu chưa?
- Hiểu rồi.
- Nhất là không được đánh chết hung thủ. Dù nó chực đâm chết ông để thoát thân cũng vậy... Ông có thể thắng được nó không?
- Cái đó ông không lo! Tôi không sợ ai hết...
- Được lắm. Ông đưa cái bấm điện đây cho tôi để lát nữa tôi bật đèn. Bây giờ ông hãy bắc ghế, lấy mảnh giấy ở đầu giường tôi che ngọn đèn điện đi để tôi khỏi chói mắt... và để hung thủ không nhận được tôi...
Lúc ấy trong buồng Phong đã tối. Một chút ánh sángở những đèn điện bên ngoài chỉ lờ mờ đưa qua cái cửa sổ bên giường nằm. Người đeo mặt nạ chỉ là một cái bóng đen mơ hồ đương cử động theo lời Phong bảo.
Hắn bắc ghế, với tay vừa tới ngọn đèn điện giữa phòng, loay hoay để giắt tờ giấy lên chỗ cuống lắp bóng đèn, lựa cho tờ giấy có thể che khuất mặt Phong khi đèn bật cháy.
Phong lại bảo :
- Ông cất ghế vào chỗ cũ rồi vặn khuy đèn ở trên tường kia...
Người lạ mặt theo lời, nhưng trong phòng vẫn om tối. Hắn lại gần hỏi Phong :
- Kìa, sao đèn không cháy?
Phong cắt nghĩa :
- Vì tôi bấm tắt từ trước rồi. Đèn sáng mà ông ở đây thì người ta có thể trông thấy được. Đó là cách phòng xa. Vậy trước khi tôi bấm đèn sáng, ông phải ẩn đi đã.
Lúc Phong bật đèn thì trong phòng lại vắng như trước. Anh đưa mắt nhìn qua tứ phía rồi thở một tiếng dài. Sự chờ đợi bắt đầu, sự chờ đợi lặng lẽ và nặng nề, trong đó sự tịch mịch như lớn lao thêm, và lòng người xôn xao những ý nghĩ nghiêm trọng.
Tiếng náo động của thành phố vang tới đây như từ một nơi xa khuất. Nhà thương hình như là một cõi biệt tịch mà người đời không nhớ đến. Thời giờ càng về muộn càng làm cho vẻ quạnh vắng rõ rệt hơn lên.
Đủng đỉnh và rõ ràng, đồng hồ nhà thờ điểm hồi chuông bảy giờ, và Phong ngạc nhiên vì đêm đến quá chậm.
Bảy giờ mười lăm.
Rồi bảy giờ rưỡi.
Chuông đồng hồ xa điểm tiếng sau cùng một cách đạo mạo khác thường.
- Bảy giờ rưỡi rồi.
Đó là câu giản dị mà Phong nghĩ thầm.
Mai Hương, trong bộ áo nữ khán hộ ở phòng bên, cũng nghĩ thầm :
- Bảy giờ rưỡi rồi.
Kỳ Phương và Mai Trung ở phòng số 3 thì đưa mắt ra ý bảo nhau :
- Bảy giờ rưỡi rồi đấy.
Viên thanh tra mật thám vốn là người không để bụng được lâu một ý nghĩ, toan nói, nhưng Phương đưa tay bảo im. Một lát ông ta mới gật gù, lẩm bẩm mấy tiếng nhỏ.
Mai Trung thừa dịp nói :
- Ông có chắc hung thủ bị Lê Phong lừa vào trong phòng?
Phương trầm ngâm rồi lại gật đầu :
- Tôi đã hơi tin rằng Lê Phong có lý.
- Có lý thế nào? Tên Thổ để cho người ta bắt dễ thế sao?
Phương vẫn một vẻ trầm ngâm :
- Có nhiều khi sự vô lý cũng thành được sự thực...
- Tôi không hiểu...
Phương mỉm cười nhìn Mai Trung một cách ý tứ để Trung hiểu câu mà Phương không nói: “Ông thanh tra khéo nhún mình!”
Mai Trung bất đắc dĩ phải làm ra vẻ người thông minh và khiêm tốn. Cái ý tưởng tên Thổ bị Lê Phong tìm được trước sở liêm phóng làm ông ta khó chịu, nhưng ông lại tự an ủi bằng một ý tưởng khác: bắt được tên Thổ, Lê Phong vừa tỏ ra người khôn khéo lại thú nhận sự vụng tính của anh. Vì Lê Phong đã công bố ngay từ đêm hôm qua rằng tên Thổ không phải thủ phạm... Vậy sự thành công của anh về công việc lại chính là sự thất bại về lý thuyết: bắt được tên Thổ, Lê Phong chỉ bênh vực những lý thuyết mà anh phản đối, những lý thuyết mà Phương và ông ta vẫn theo...
Trung đoán rằng Kỳ Phương cũng nghĩ như mình, nên không bàn bạc gì thêm nữa.
Ông ta mím miệng lại, vẻ mặt nghiêm nghị, nhưng đôi mắt tươi cười. Bỗng ông ta cau mày hỏi Phương :
- Còn một điều này nữa, ông nghĩ sao?
Kỳ Phương đưa cao lông mày lên để đợi câu Trung nói tiếp :
- Còn một điều này nữa: tại sao Lê Phong lại biết rằng hung thủ vào đây hôm nay?
- Vì Lê Phong đăng báo rằng Thạc chưa chết. Các báo khác cũng đăng theo tin ấy, cả mọi người trong nhà thương này cũng tưởng thế, trừ những người trực tiếp coi xác Thạc như ông y sĩ, một, hai người khán hộ và sinh viên... Những người này, Lê Phong đã xin họ giữ kín sự thực cho đến khi hung thủ bị bắt.
- Nhưng sao Lê Phong biết là hung thủ cần phải giết Thạc? Thạc bị đâm tôi tưởng chỉ vì tên Thổ muốn tháo thân... Thoát thân rồi tên Thổ cần gì phạm tội ác lần nữa? Bảo rằng để Thạc không tiết lộ tên hung thủ thì thật là vô lý, vì tên Thổ chẳng để cái danh thiếp của nó ở cạnh Thạc đấy sao?
Kỳ Phương không trả lời, chăm chú lắng tai nghe động tĩnh.
- Mà còn cái danh thiếp.... với những chữ lạ lùng mà Lê Phong khoe đã hiểu nghĩa?... Tên Thổ để lại cái danh thiếp để làm gì?...
Phương vẫn ngậm tăm, mắt lơ đãng liếc nhìn về một góc phòng, đôi mày cau xuống làm cho quầng mắt tối den, hai ngón tay vân vê điếu thuốc lá mà ông ta chưa châm hút. Phương chợt hỏi :
- Trước khi Thạc bị giết, trước khi đó lâu lắm, nghĩa là ngay từ lúc ông và tôi còn tra xét trong nhà 44 bis phố Richaud, ông có thấy Lê Phong hỏi Thạc một câu lạ lùng không?
Mai Trung còn đương cố nhớ lại thì Phương đã nói, tiếng hạ thấp xuống, và mặt nghiêm trọng hơn.
- Một câu khác thường, vì người ta không hỏi nhau trong những trường hợp thảm đạm ấy. Phải, một câu vô nghĩa lý mà bây giờ tôi mới nghĩ đến, nhưng lúc ấy tôi chỉ thấy chướng tai, Phong nhìn ác Đường, rồi lại gần bắt tay một người, cười nói như giữa một tiệc vui, hỏi Thạc: “Anh trả tôi gói thuốc lá chứ?” Thạc cũng thấy cử chỉ của Phong là khó chịu, chưa kịp đáp thì Phong nói luôn: “Gói thuốc lá anh mượn tôi từ lúc còn ngồi trong nhà chiếu bóng ấy mà!” Thạc trả gói thuốc lá thì Phong nhoẻn miệng cười và nhìn tôi một cách ngạo nghễ rất khó hiểu. Bây giờ tôi mới nghĩ ra. Phong quả thực là một tay phi thường nếu không là một anh chàng gặp những cái may hiếm có. Gói thuốc lá kia hẳn có một liên lạc tối quan trọng trong mấy vụ ám sát này. Cái liên lạc ấy Lê Phong tìm ngay được, hay ngờ sự tình cờ nào mà trông ngay thấy, trong lúc chúng ta ít may mắn hơn, còn đương ở trong vòng điều tra? Dù chưa đoán được rõ ràng, nhưng tôi cũng dám chắc một điều này, xin anh nhớ cho: gói thuốc lá kia hẳn là một cách... một thứ... một “sự bí mật” mà Lê Phong nắm giữ được. Phải, tôi vừa chợt nghĩ đến từ lúc nãy, và xin nhắc lại rằng: điều vô lý nhiều khi cũng có thể tin là sự thực được.
Mai Trung biểu lộ sự hết sức suy nghĩ trong các đường răn trên trán để hiểu Kỳ Phương. Ông gật đầu, nhưng đôi mắt ông chớp luôn trước những điều quá rắc rối. Ông hỏi như người đã nhận ra các lẽ tối tăm :
- Vì gói thuốc lá mà Lê Phong tìm thấy tên giết Đường trước chúng ta?
Phương gật đầu :
- Và sau khi Thạc bị giết, Phong nghĩ cách bắt được hung thủ đêm hôm nay... Lê Phong biết vụ án mạng thứ hai duyên do ở vụ án mạng thứ nhất và là nguyên nhân vụ ám sát sắp tới đây... Phải rồi... Ta nên nhận rằng Lê Phong tính việc này cũng khá... Chỉ còn một điều tôi vẫn ngờ là tại sao Phong vẫn chưa chịu rằng tên Thổ Nông An Tăng là hung thủ?
Trung cười :
- Cái lầm to lớn của Phong ở đấy. Nếu hung thủ đến để cho người ta bắt được thì Lê Phong sẽ thấy bại ngay trong lúc thành công...
Kỳ Phương bỗng đưa tay để ngăn tiếng cười hơi ầm ỹ của viên mật thám. Hai người lặng im để nghe ngóng thì vừa lúc chuông đồng hồ xa điểm ba khắc: bảy giờ bốn lăm.
Mai Trung cắn lấy môi, mặt biến hẳn sắc và, lần thứ nhất, chịu ảnh hưởng của người bạn mà ông ta tín phục. Trung thấy giây phút đó nghiêm trọng và tin rằng Lê Phong có tài.
Hai phút chưa qua, bỗng Trung đứng vùng lên, đi lại phía cửa. Một tiếng chuông đồng hồ nhà thương vừa dóng và liền đó một hồi sáo miệng thổi mấy câu đầu bài “Guitare d’amour”.
Bên ngoài, dưới ánh mấy ngọn đèn quạnh hiu ở lối đi, một người đàn ông đang vừa chậm chạp bước về khu Pasteur B. Vừa nhìn đó đây, dáng điệu bỡ ngỡ như người tìm tòi: hắn ăn mặc như một tên đầy tớ. Tay hắn mang một cái đèn cồn, một gói to bọc nhật trình và một chiếc va ly nhỏ. Hắn có vẻ một tên người nhà đem mấy thức ăn cần dùng vào cho chủ ở nhà thương.
Bài “Guitare d’amour” thổi sai cung bậc nhưng người thổi đứng khuất đâu đó vẫn thích cho người ta nghe.
Rồi cao hứng, người ấy lại cất tiếng hát. Giọng hát ấy cũng không đúng, nhưng tiếng hát cứ to mãi cho đến lúc tên đầy tớ từ cuối khu Pasteur B bước tới những căn phòng riêng có số.
Hắn dừng lại trước phòng có số 1, đọc những chữ dán trên cánh cửa, ngơ ngác nhìn trở lại, vì có tiếng rên của mấy người ốm ở gần quanh.
Không thấy qua một ai, và tiếng rên mà hắn tưởng đưa từ phía sau lưng, lúc đó nhận kẽ ra mới biết từ trên gác đưa xuống, hắn vụng về đưa tay ra vặn nắm cửa rồi bước vào.
Trong phòng, người ốm nằm thẳng dưới lớp chăn, cả khuôn mặt chìm sâu và khuất dưới những khăn bông và mép gối. Hắn chỉ trông thấy đôi mắt của người ốm lúc đó nhắm lại. Hắn nghe ngóng một lát, thấy không có chi đáng lo ngại, liền bỏ hẳn vể ngờ nghệch, đặt nhanh những đồ đạc xuống đất, rồi lẹ làng một cách lạ, hắn rút một con dao nắm gọn trong tay.
Lê Phong, trong trang phục người bị thương vẫn nằm im, đôi mắt nhắm, hơi thở đều, và hình như không để ý tới hắn. Hắn bình tĩnh nhưng quả quyết, không vội vã, không sợ hãi, đến bên giường, chọn trước một chỗ nguy hiểm nhất trên ngực Lê Phong, rồi đâm con dao xuống rất mạnh.
Ngay lúc ấy, một cái chớp bừng lóe lên trong phòng cùng với một tiếng động khẽ ở giường Phong. Hắn kinh ngạc nhìn lên thì thấy hai người đã đứng đợi hắn ở sau khung cửa sổ. Một người chĩa về hắn một cái máy ảnh nhỏ, còn người kia sắp sửa trèo vào. Nhảy lùi lại một bước, hắn toan mở cửa phòng, nhưng cửa phòng đã bị ai khóa chặt lại. Lê Phong tuy bị con dao cắm giữa ngực, cũng vừa ngồi dậy. Trúng kế, hắn đánh liều xông đến, định cố chết vượt qua cửa sổ tháo thân. Nhưng một quả đấm dữ dội của Lê Phong đẩy hắn về phía sau, hắn ngã ngửa lên chiếc giường bỏ không và tức khắc bị một người, ở dưới gầm giường chui lên, chẹn lấy cổ.
Đó là người đeo mặt nạ.
Phong lại gần cúi xuống kéo lấy hắn dậy, vừa rút con dao cắm trên ngực ra vừa cười :
- Trước khi giết người, anh nên xem người đó có phải là Lê Phong không đã...
Tên thủ phạm kêu lên một tiếng sợ hãi :
- Lê Phong!
Phong ngả đầu :
- Phải, Lê Phong đây. Lê Phong vẫn đợi nhát dao đây! Nhát dao rất nguy hiểm cho mọi người thường, nhưng Lê Phong thì không thể chết được. Vậy lại xin hiến anh một lời khuyên nữa: trước khi đâm Lê Phong, anh nên xem trên ngực hắn có cái gì thì bỏ đi đã rồi hãy đâm.
Phong lấy ra một đệp giấy bản dầy ngót một gang anh độn trong áo sơ-mi :
- Nếu không có cái này thì trong làng báo An Nam hẳn đã bớt đi một phóng viên, và trong lương tâm anh có thêm một án mạng nữa. Kể ra thì tôi không phải dùng cái mưu nguy hiểm ấy mới bắt được anh. Nhưng tôi muốn báo Thời Thế ngày mai có một bức ảnh khác thường để kèm vào bài tường thuật. Mấy khi một nhà báo được một thứ tài liệu hiếm có ấy: một bức ảnh chụp giữa lúc hung thủ đương phạm tội ác! Thực anh là một người đáng cho tôi cám ơn.
Phong ngoảnh lại bảo người đeo mặt nạ trói hắn lại, lấy khăn bông buộc chặc lấy mặt hắn, chỉ để lộ hai con mắt, rồi rút cái còi trong túi ra thổi ba tiếng dài :
- Anh chịu khó một chút, buộc thế thì hơi khó thở thực, nhưng anh không phải khó chịu lâu.
Nói vừa dứt lời thì cửa phòng bật mở, sáu, bảy người cùng dồn vào. Phong tươi cười đưa mắt nhìn khắp một lượt :
- Không thiếu một ai đấy nhỉ: nhà liêm phóng, nhà báo, nhà y sĩ, nhà sự chủ và cả nhà nghệ sĩ hát bài “Guitare d’amour” bằng cái giọng khàn khàn. Đến chứng kiến tấn kịch này, thực có cả một công chúng hoàn toàn, đủ mọi hạng người trong xã hội.
Bỗng đổi ra vẻ đạo mạo, lấy giọng một người đăng đàn diễn thuyết, Phong nói luôn :
- Thưa các ngài, trước hết xin giới thiệu với các ngài một người rất đáng chú ý trong vụ án mạng vừa xảy ra đêm hôm qua, một người sở liêm phóng đã giúp tôi tìm ra, một kẻ mang rất nhiều vẻ dị kỳ mà hai ông Kỳ Phương và Mai Trung rất muốn gặp; một người bí mật người ta thấy tên họ ở bên cạnh người bị giết thứ nhất cũng như người bị giết thứ hai; một người... “xuất quỷ nhập thần” mà tôi hưa sẽ nộp trong tay hai ông bạn của tôi ở sở liêm phóng. Người ấy, thưa các ngài, hiện đang ở trước mặt các ngài.
Mai Trung mở hết sức mắt nhìn người bị trói ở cột giường, cau mày hỏi Phong :
- Xin ông nói vắn tắt cho. Nông An Tăng ở trong phòng này phải không?
- Vâng, Nông An Tăng đang đợi lệnh của ông thanh tra mật thám đấy ạ.
Trung chỉ người bị tróii :
- Mà hắn ăn mặc giả làm tên đày tớ này?
Phong lắc đầu, mỉm cười. Cả Kỳ Phương cũng ngạc nhiên. Hai người cùng hỏi :
- Thế nào? Ông bảo sao?
Phong đủng đỉnh thưa :
- Tôi không bảo sao hết. Tôi chỉ xin giới thiệu với các ngài một người đắc lực cộng tác với tôi trong việc bắt hung thủ và cũng như tôi, có một tật xấu đáng khoan thứ, là ưa làm cho người khác ngạc nhiên. Người ấy là ông Nông An Tăng đây.
Người đeo mặt nạ liền bỏ cái mũ chùm đi và cúi đầu mỉm cười.
- Thế nào? Tên Thổ này không phải là hung thủ sao?
Phong nhã nhặn trả lời :
- Thưa ông Mai Trung, ông Nông An Tăng chưa hề phạm một tội ác nào hết. Hung thủ là người chính tay Nông An Tăng trói lại để chờ sự phán đoán của ông Mai Trung.
- Thế ra hung thủ lại là thằng này?
- Vâng. Chính thị.
- Hung thủ giết Đường ở 44 bis Richaud và giết Thạc ở ngõ Hội Vũ?
- Vâng, hung thủ trong cả hai vụ án mạng, và gần là hung thủ vụ án mạng thứ ba.
- Ông biết trước nó sẽ vào nhà thương đêm nay?
- Vâng.
- Vậy nó tên là gì?
Phong mỉm cười, thong thả lấy gói thuốc lá ra, thong thả đánh diêm châm, thở một hơi khói lên trần nhà, rồi thản nhiên như ta nói một lời bình thường, anh trả lời viên thanh tra mật thám :
- Thưa ông Mai Trung, hung thủ hai vụ án mạng, người bị trói trước mặt các ngài đây, tên là Đinh Võ Thạc.
- Sao? Sao? Đinh Võ Thạc! Thạc là hung thủ?
Sự kinh dị thực đã tới cực điểm khi Lê Phong nói ra câu ghê gớm vừa rồi.
Những người có mặt lúc đó trong gian buồng nhà thương: Mai Trung, Kỳ Phương, Văn Bình, người sinh viên gác đêm, hai người phóng viên báo Thời Thế và cả đến người Thổ Nông An Tăng nữa, ai ai cũng dồn mắt nhìn Phong.
Người ta tưởng anh muốn bông đùa chơi, muốn làm ngạc nhiên mọi người trong chốc lát. Nhưng Phong không có vẻ đùa cợt. Anh nhắc lại :
- Phải, hung thủ vụ án mạng ở phố Richaud và ở ngõ Hội Vũ chính là Đinh Võ Thạc, người bị trói chân ở giường kia!
Nói đoạn, anh lại gần Mai Trung, lễ phép hỏi :
- Thưa ông thanh tra mật thám, ông có đem theo trong túi một tờ trát bắt và một cái khóa tay?
- Có, tôi có đem theo.
- Cảm ơn ông. Đó là một nhã ý. Điều đó là chứng cớ cho tôi biết rằng dù sao ông cũng có bụng tin cái tài sức nhỏ mọn của tôi. Tuy trong hai vụ án mạng đêm qua, chúng ta có một vài lý thuyết tương phản, nhưng khi ông nhận đến chứng kiến việc bắt hung thủ ở đây tức là ông chắc rằng hung thủ thế nào cũng bị bắt. Vậy hung thủ đấy, xin gửi lại ông...
- Nhưng mà...
- Nhưng sao nữa? À, tôi hiểu. Trước khi bước chân vào đây, ông vẫn đinh ninh hung thủ là người Thổ Nông An Tăng... Nhưng hung thủ là người mà ta không bao giờ ngờ đến. Cái đó không hề gì. Xin ông cứ coi đó là một sự thay đổi nhỏ. Điều cần nhất bây giờ là xin ông nhận lấy Đinh Võ Thạc, mời ông Thạc về ở một nơi xứng đáng với ông ấy, nghĩa là về chỗ ở của một kẻ giết người. Cái trách nhiệm săn sóc ông Đinh Võ Thạc là về phần ông Mai Trung. Tôi hứa tìm thấy kẻ giết người, nay tôi tìm thấy rồi, phận sự của tôi thế là hết.
Mai Trung toan nói, nhưng Kỳ Phương lúc đó mới bỏ sự yên lặng, tiến đến đưa tay giữ lại. Phương mỉm cười bảo Lê Phong :
- Hãy gượm! Ông Lê Phong chưa làm hết phận sự!
Vẻ đạo mạo của Phương không còn trên nét mặt người tài tử trinh thám. Chàng ta tỏ ra một thái độ rất nhã nhặn và nhìn Phong một cách thân thiện và mến phục như trước một người có tài. Phương đưa mắt trông mọi người, gật đầu với Nông An Tăng và sau cùng nhìn Thạc, Phương nói :
- Tôi tưởng lúc này là lúc đáng ghi nhớ nhất, vì là lúc cho tôi biết chân giá trị một người sáng suốt lạ thường. Sự bí mật đối với ông Lê Phong chỉ là một bài tính rất dễ. Khi người ta đã coi là việc dễ, người ta đã sẵn một khiếu phán đoán sâu sắc như thế thì người ta không hay mắc những cái lầm như chúng ta. Tuy vậy, trong vụ này, cách làm việc nhanh chóng của ông Lê Phong thực quá sức tưởng tượng. Ông đã cho thấy kết quả. Ta nên nhận lấy cái kết quả đó và ngờ vực mình là người tỏ ra kém độ lượng, không biết phục thiện và phụ lòng người có tài. Song ta cũng nên yêu cầu ông cho biết những bí thuật của ông và xin đừng bỏ dở cái phận sự quý hóa của ông, cắt nghĩa cho ta hiểu tại sao ông tìm được những manh mối kỳ dị kia một cách mau chóng đến thế...
Đó là những lời khen ngợi, nhưng đó cũng có những thâm ý mà Lê Phong trông thấy ngay. Kỳ Phương, tuy chịu là Lê Phong không lầm, nhưng vẫn mong rằng anh vì may mà biết được những lẽ kín đáo trong vụ án mạng. Nài Lê Phong phân giải những “lý thuyết” của anh ra, Phương có ý cho mọi người thấy rằng lý thuyết ấy không có gì sâu sắc lắm. Sự đắc thắng của anh sẽ vì thế mà kém phần rực rỡ và có thể khiến cho sự thất bại của Mai Trung nhẹ bớt đi.
Phong hiểu thế, và muốn cho sự thành công của mình không làm phiền lòng ai, nên vui vẻ đáp :
- Xin vâng lời ông Kỳ Phương. Trong vụ bí mật này, quả thực không còn gì là lạ lùng khi người ta đã rõ các manh mối. Nếu các ông không nóng ruột, tôi xin đem hết những mánh khóe nhà nghề ra nói để các ông nghe... Nhưng trước hết, tôi muốn nhân lúc đông đủ mọi người đây, cám ơn ông Mai Trung là người đã giúp tôi đõ tốn được rất nhiều công việc khó nhọc.
“Thực vậy, vì cách tổ chức cuộc săn bắt của ông rất chu đáo, nên chỉ phải bàn mấy câu nhỏ với cô Mai Hương là tìm được ông Nông An Tăng. Sau khi biết tin Đường bị giết và sở liêm phóng ngờ cho mình là hung thủ, ông Tăng cố tìm cách trốn chạy nhưng không thể nào thoát được Hà Nội, vì ông thấy chỗ nào cũng có người của sở liêm phóng bổ vây.
Tôi biết thế nên nhờ cô Mai Hương đi dặn trẻ bán báo ở đây để ý tìm ông Tăng và khi gặp ông thì đưa bức thư của tôi cho ông. Bức thư tôi nói cho ông yên lòng rằng tôi đã biết hung thủ là ai và đang tìm cách bắt nó cho ông khỏi phải tội oan, luôn thể nhờ ông giúp tôi một việc như ta đã thấy. Trẻ bán báo ở Hà Nội, đối với tôi là những người bạn cộng tác nhỏ, nhưng rất hết lòng. Đó là nguồn tin tức của tôi và đó cũng là những tay trinh thám phụ rất đắc lực. Họ theo lời chỉ dẫn của cô Mai Hương, tức khắc tổ chức một cuộc điều tra rất nhanh và chỉ không đầy ba giờ đồng hồ, nghĩa là từ mười giờ rưỡi sáng đến quá một giờ trưa, ông Tăng đã nhận được thư của tôi và đến tìm tôi ở nhà riêng, rồi lại đến báo Thời Thế. Ông đến hơi sớm một chút nên chỉ gặp Văn Bình và thiếu chút nữa Văn Bình làm hỏng việc của tôi vì trông thấy Tăng, Bình chực đuổi bắt. Bình sốt sắng nhưng không được kín đáo, nên tôi không dám bàn bạc gì với anh ấy, và ép ở cả ngày ở tòa báo để khỏi bắt gặp người Thổ mà anh vẫn có ý tìm.
Tôi sở dĩ tìm Nông An Tăng là vì tôi muốn hỏi lại xem những điều tôi đoán về sự liên lạc của ông Tăng với anh Đường có đúng không. Lúc hỏi ra thì quả nhiên đúng. Ông Nông An Tăng không những không có thù oán gì với Đường, lại có thể gọi là bạn của anh Đường được. Sự hiềm khích gây nên bởi ông thân sinh ra Đường và ông Lý trưởng Điềm He ngày trước, nay chỉ còn trong trí tưởng tượng của Đường, chứ thực ra Tăng không bao giờ mang oán. Vừa rồi Tăng về Hà Nội hỏi chỗ ở của Đường, để cho Đường biết một việc rất có lợi, là khu đất ông Bố Chánh bán lại cho một người Thổ có họ xa với Tăng ở Lạng Sơn hiện có một ít của gia bảo và tiền bạc người ta mới đào được, và người có đất muốn nhường lại cho Đường một phần. Hai lần ông Tăng muốn gặp Đường, nhưng Đường vẫn e sự hiềm khích ngày xưa, tìm cách tránh mặt. Người Thổ dân không hiểu ra sao cả, sau mới vỡ chuyện nên lại định tìm tôi để tôi phân giải, và nhờ tôi đem việc ở Lạng Sơn nói lại với Đường. Không ngờ, tối hôm qua ông Tăng muốn gặp tôi thì tôi đi xem chiếu bóng với Thạc, Huy, và Bình và xảy ra vụ án mạng mà ai cũng tương ông Tăng là hung thủ”.
Kỳ Phương hỏi :
- Ai cũng tưởng ông Tăng là hung thủ vì bề ngoài có nhiều chứng cớ rõ rệt quá làm ai cũng có thể làm được, trừ có ông Lê Phong. Nhưng vì sao mà ông không ngờ cho Tăng? Ngay từ lúc đầu, vì sao chưa có chứng cớ gì, ông đã biết ngay là ông Tăng bị tiếng oan?
Phong đáp :
- Có nhiều chứng cớ lắm chứ! Trước hết, ông Tăng đến tìm tôi lúc gần mười giờ, nghĩa là lúc Đường bị giết. Một tên hung thủ, cho giảo quyệt đến đâu nữa, cũng không dám giáp mặt người bạn của kẻ bị giết, nhất là khi người bạn ấy lại là... Lê Phong. Không phải là tôi có ý khoe khoang, nhưng cái danh hiệu phóng viên trinh thám nhỏ mọn của Lê Phong cũng có thể làm cho nhiều kẻ gian phi chột dạ. Vả lại, sau đó hơn một giờ, lúc các ông đương tra xét ở nhà Đường, Ông Tăng lại đến tìm tôi lần nữa, và nếu không có cái thái độ vô lý của Văn Bình thì ông Tăng sẽ không sợ hãi, sẽ tin theo tôi và không tìm cách tháo thân, sau quả đấm gửi lại dưới má Văn Bình. Nhưng đó là những điểm phụ. Chứng cớ quan hệ nhất tỏ ra người Thổ không phải là thủ phạm, tôi tìm thấy ngay từ lúc Văn Bình đến báo tin cho tôi đêm hôm qua.
“Theo các việc xảy ra, thì cái chết của Đường rất bí mật: cửa đóng kín, hung thủ vào ra lúc nào không ai biết, nghĩa là cách giết người của hung thủ rất kín đáo và chu tất. Vậy mà hung thủ lại để các dấu hiệu để bất cứ ai cũng có thể đoán ngay được ra mình. Đó là điều mâu thuẫn rất dễ thấy. Có phải không? Người Thổ giết người rồi để danh thiếp lại cho người ta theo đó mà đi tróc nã mình ư? Rồi lại còn nói một hồi tiếng Thổ ở dưới đường, nói rõ ràng như có ý cho người ta nghe thấy? Phải là một người điên hoặc là một kẻ giết người siêu việt thì mới dám làm những điều khác thường như thế. Trong hai cái giả thuyết: điên và siêu việt thì ông Kỳ Phương chọn lấy thuyết thứ hai. Ông thấy vụ án mạng kia có đủ các điều dị thường, ông tìm được ra âm loại của những tiếng nói ngoài đường lúc hơn chín giờ đêm và đoán ngay rằng người Thổ chính là thủ phạm. Theo ý nghĩ của ông, thì người Thổ giết Đường vì thù oán, và hắn để lại nhiều dấu vết cho người ta tưởng là kẻ khác muốn vu oan cho mình... Đó là lý luận rất khéo, nhưng sự thực thì khác hẳn với lý luận của ông. Người Thổ không phải là người điên, cũng không phải là hạng cao đẳng thủ phạm. Vậy người Thổ không có liên can gì. Họa chăng chỉ có một chút liên lạc rất nhỏ với án mạng là đã bị hung thủ lợi dụng cái chuyện thù oán cũ để đổ tội ác cho. Đây, tôi xin theo thứ tự từng điều để phân giải.
Trước khi nói đến cách hành động của hung thủ, tôi hãy xin nói đến nguyên nhân vụ án mạng. Cái nguyên nhân đó tôi tìm thấy ở những chữ viết sau tấm danh thiếp của ông Nông An Tăng. Tấm danh thiếp đó ông Tăng để lại hôm thứ Năm lúc muốn gặp Đường. Đường không tiếp và giữ tấm danh thiếp. Lúc đó thì những chữ X. A. E. X. I. G. chưa có, và giá không vì một sự tình cờ không có nghĩa lý gì hết thì chữ ấy không viết lên đó bao giờ. Ai viết lên? Điều đó trước khi xem lại các tang vật và trông thấy nét chữ tôi đã đoán ra, và sau lại có cớ để tin một cách chắc chắn: đó là chữ của người bị giết, chữ của Đường, Đường viết lên lúc ngồi buồn một mình, và lúc trong lòng có một sự tiếc hận”.
- Sao lại tiếc?
- “Tiếc là chỉ sai có một chút nhỏ, nếu không thì Đường giàu to. Đây, tôi xin cắt nghĩa: Những chữ cái ta tưởng là những lời bí mật đó chỉ là những chữ số dịch ra chữ cái: A là 1, B là 2, C là 3 v. v... Tại sao tôi lại biết thế, chỉ vì tôi thấy trong đó có 6 chữ, trừ hai chữ giống nhau, còn những chữ khác không chữ nào theo thứ tự mà ở quá số 10. Tôi liền thử đổi lại chữ cái bằng chữ số xem thì thấy đó là một hàng bốn chữ số 1597 và hai chữ X. Chữ X, nếu theo thứ tự, sẽ là số 23, nhưng nếu muốn dùng số 23, sao không viết chữ B. C? Vậy chữ X là số vô danh theo khoa toán pháp và ở đây, đó là một chữ có thể thay cho số 0. Tôi ghép lại thử xem. Không ngờ thử mà thành ra thực. X. A. E. X. I. G. tức là 015097, con số trúng độc đắc trong kỳ xổ số Đông Dương vừa rồi. Đó là điều tôi tìm ra trong ức đoán tình cờ và tự nhiên thấy hợp lý. Nhưng sự tình cờ bao giờ cũng đáng coi chừng nên tôi tìm cách thử ngay lại. Trong lúc các ông tra vấn ở giữa nhà, thì tôi bấm thằng nhỏ đến một góc hỏi nó xem anh Đường có mua vé số bao giờ không. Thằng nhỏ nhớ rằng có, mà chính Đường đưa cho nó một đồng bạc đi mua. Hỏi số bao nhiêu thì nó nói là không biết chữ. Tôi chợt để ý đến một số báo đã ra từ mấy hôm trước vứt gần đó; tôi liền lượm lấy và xuống nhà xem một mình. Thì ra đó là số báo có đăng kết quả cuộc xổ số, nhưng xem kỹ thì số độc đắc in ở báo này là số 015098 chứ không phải là 015097 như trên mọi tờ báo khác. Sao lại thế nhỉ. Báo này cũng là một tờ báo đứng đắn, sao lại có sự lầm to lớn đến thế được Bỗng nhiên tôi nghĩ ra một điều rất dị kỳ! “Hẳn là có người biết Đường trúng số, và vì Đường bị ốm ở nhà mấy ngày, nên đã tìm cách thuê in mấy số báo riêng để cho Đường không ngờ là mình trúng”. Đường vốn là người kín đáo, mua số chỉ cho thằng nhỏ biết và lúc tưởng là không trúng thì chỉ phàn nàn riêng một mình, phàn nàn bằng cách loay hoay viết những con số không may ra chữ hoa, trong lúc ngồi buồn môt mình và ngẩn ngơ tiếc. Đáng tiếc nhất là số trúng độc đắc thấy trên báo chỉ sai với số mình mua có một con rất gần. Những điều phỏng đoán vừa rồi, sáng ngày tôi đã có thì giờ thử lại, đều đúng cả. Nhà báo in số báo kia có một người thợ nhận thực với tôi rằng có người cho hắn hai chục để hắn đổi mấy con số nói trên kia. Việc tráo đổi rất dễ dàng: phải dán lên cột báo một khoảng giấy rồi cho in, xong rồi bóc ra, sắp chữ riêng và in lại những chỗ nào thiếu...
Nhưng người định chiếm cái số độc đắc kia là ai? Tất nhiên là người hay chú ý đến Đường, là người tâm giao của Đường và tất nhiên là mấy người bạn ở cùng nhà Đường, là Huy và Thạc. Tôi tìm hung thủ trong hai người này chăng? Thoạt tiên thì đó là điều vô lý hết sức. Huy là người tôi biết đã lâu lắm, hiền lành, ngay thẳng... Còn Thạc cũng là người tôi quen, hoạt bát, thông minh và ăn nói dễ thương. Vả lại, chính lúc xảy ra án mạng, cả hai người cùng đi xem chớp bóng với tôi, Huy ngồi bên cạnh tôi, và Thạc cũng ngồi liền một bên. Tôi ngồi giữa... Tuy vậy, một sự gì rất bí nhiệm, một điều quan sát không mấy khi ta lưu tâm đến - có thể gọi là một sự nhận xét vô tình của... tiềm giác bao giờ cũng tinh tường - nghĩa là có một điều lúc thường tôi bỏ qua, nhưng bấy giờ đến mách bảo tôi, khiến tôi ngờ rằng hung thủ là Thạc. Thạc có những cử chỉ khác mọi ngày. Mọi ngày bẻm mép và to tiếng thì lúc ngồi trong nhà chiếu bóng, anh ta lại im lặng, và cả trong những đoạn phim vui nhất, anh ta cũng ít khi cười. Thường thường, không bao giờ Thạc xức nước hoa, mà tối hôm qua người anh ta thơm phức; rất ghét những ca-vát sặc sỡ, Thạc hôm qua đeo một cái ca-vát đỏ chói vừa mới mua được hai hôm. Sự thực đến như một luồng ánh sáng, tôi gần như thấy cách hành động của hung thủ, và nhân một lúc tôi giả vờ nói những câu điên dại, (các ông hẳn còn nhớ lúc ngạc nhiên đấy chứ?) nói những lời cốt làm cho mọi người không hiểu gì hết, tôi liếc mắt nhìn kỹ vẻ mặt con người mà tôi đã bắt đầu ngờ. Tôi lại nghĩ ra được một mẹo nhỏ, và sau đó mười phút tôi đến gần bảo Thạc: “Anh trả tôi gói thuốc lá chứ! Gói thuốc lá anh mượn từ lúc ngồi xem xi-nê kia mà!” Thạc hình như chợt nhớ ra, lấy gói thuốc lá trả tôi, và tôi hiểu rằng mưu của tôi đã thành. Vì thực ra thì trong lúc ngồi ở nhà chiếu bóng, tôi có cho Thạc mượn gói thuốc lá nào đâu? Và cũng không một lần nào Thạc hỏi tôi hay tôi mời Thạc hút thuốc. Bây giờ thì hẳn anh Huy và cô Mai Hương đã hiểu ra ý nghĩa câu hỏi vu vơ của tôi lúc chiều; lúc ấy tôi đòi Huy một cái bật lửa mà tôi không có và bởi vậy không hề cho Huy mượn bao giờ... Đó cũng là một cách “thử ngược bài tính”. Nếu Thạc tối hôm trước cũng ngạc nhiên như Huy chiều hôm nay thì tôi còn mất công phu tìm tòi nhiều hơn. Nhưng Thạc lấy gói thuốc lá của mình để trả tôi và bị trúng kế tôi ngay lúc đó.
Vậy cái anh Thạc ngồi trong nhà chiếu bóng đã có một vài lúc không phải là Thạc chính hiệu. Đó là Thạc giả hiệu, Thạc số hai. Mãi mười giờ sáng hôm nay tôi mới tra căn cước tìm ra là Đinh Võ Tạc, em đẻ sinh đôi với Thạc, và là một đứa lêu lỏng, bỏ nhà, bỏ học và bị gia đình từ.
Thạc ghét em và không bao giờ hắn muốn gặp mặt, nhưng hôm mở số, bỗng nghĩ đến hắn và lợi dụng khuôn mặt giống nhau của hai anh em, Thạc tính kế giết Đường.
Trước hết, Thạc thuê in tờ báo đổi số trên đem về cho Đường xem, để Đường không biết là mình được số độc đắc. Rồi ngay hôm sau, bàn tính với Tạc các kế hoạch. Thạc có khôn ngoan rủ Huy đi xem chiếu bóng và nhân thể mời Văn Bình và tôi cùng đi. Ba người có đủ tín nhiệm để làm chứng rằng Thạc không thể nào về nhà trong lúc Đường bị giết. Đến cửa nhà chiếu bóng, nhân lúc mọi người không để ý, Thạc lẻn ra tức khắc, Tạc vào thế chân. Hai người ăn mặc không khác nhau một tí gì, - (hai cái ca-vát, cùng màu đỏ chói làm điểm quan trọng cho mọi người nhớ rõ khi nghĩ lại) - và thứ nước hoa sức trên mình cùng một hiệu. Ai ngờ được sự tráo lộn của hai giọt nước ấy? Cho nên tôi cũng như Huy và Bình vẫn yên trí rằng Thạc ngồi với mình.
Trong lúc đó thì Thạc về nhà, hẳn là đi xe cho nhanh, bắt chước tiếng trọ trẹ gọi cửa nhà số 44 bis Richaud, hỏi ông cụ mấy câu, và khi ông cụ đóng cửa vào, vặn khóa ở trong thì Thạc dùng chìa khóa riêng lựa đẩy cho chiếc ở trong ổ rơi ngay xuống đất. Công việc ấy làm rất khéo khiến cho ông cụ tưởng mình vụng tay và lẩm cẩm đánh rơi.
Đợi ông cụ nhặt chìa khóa cất đi. Thạc tiến ra rìa đường nói mấy tiếng Thổ mà Thạc học được. Thạc biết Đường vẫn e dè sự báo thù của người Thổ, và chắn hắn bàn với Đường, gửi cho tôi bức thư kể chuyện lo sợ của Đường, cố ý để cho tôi cũng phải ngờ người Thổ.
Nghe ngóng một lúc, khi biết ông cụ đã ngủ yên, Thạc cẩn thận mở chìa khóa rất êm, lên nhà Đường còn ngồi đọc sách, nhưng lúc đó không cử động nữa vì Đường đã bị cái khói thuốc trừ muỗi của Thạc chế riêng làm mê đi từ lúc Thạc còn ở nhà. Thuốc này lúc sau không ai tìm ra, tôi phải nhờ thằng nhỏ lên quét lại nhà mới thấy còn có một mẩu ngắn và đã tắt.
Không vội vã, Thạc rút con dao Thổ sắm sẵn từ trước, giết chết Đường một cách rất êm lặng; lục ví Đường lấy cái vé trúng độc đắc, xóa các vết tích có thể tố cáo Thạc, bình tĩnh xuống nhà, rồi thản nhiên đến nhà chiếu bóng thay chân cho Tạc sau hồi “tạm nghỉ”.
Thạc không lộ vẻ bối rối, lại đóng vai bạn người bị giết một cách rất tự nhiên. Cái danh thiếp có những chữ kỳ dị mãi lúc xem chiếu bóng trở về Thạc mới để mắt tới tuy vẫn có ở trên cuốn sách đã lâu. Vì chưa nghĩ ra những chữ đó là những chữ số nên mách cho Huy và Bình trông thấy, mãi sau mới chợt hiểu, Thạc liền lượm lấy, nhân tiện để cho câu chuyện rắc rối thêm lên.
Và muốn làm cho việc bí mật càng thêm tối tăm, lúc các nhà chuyên trách đã ra về, Thạc lại bày ra một tấn kịch ghê gớm và rất khôn khéo nữa. Lúc đó, dưới nhà chỉ còn ông cụ, Huy, Thạc, và Bình. Thằng nhỏ tìm hộ tôi “mẩu hương đốt muỗi” tôi dặn nó tìm ở trên gác. Nghe tiếng động, Huy, Bình, Thạc cùng lên và không có duyên cớ gì, Thạc chạy ra cửa sổ nhìn xuống đường và kêu lên rằng có người đứng rình, rồi chạy xuống đuổi. Người đứng rình đó, trong trí Huy và Bình, chỉ có thể là hung thủ, là người Thổ bí mật; nhưng sự thực là Tạc, em Thạc, đến để gọi anh xuống sách nhiễu hoặc hỏi han gì.
Thạc trỏ cho Tạc chạy về ngõ Hội Vũ là chỗ vắng nhất lúc ấy, rút dao ra lừa giết chết Tạc. Tạc ăn mặc giống Thạc và lúc đó cũng bỏ áo ngoài như Thạc, Thạc chỉ có việc móc túi quần Tạc lấy cái ví có thẻ căn cước của Tạc, rồi quẳng cái danh thiếp của người Thổ xuống đó và chạy trốn một vụ án mạng nữa, để bắt buộc tội cho người Thổ, để làm tan hết những mối nghi ngờ mà Thạc biết rằng có thể xảy ra trong trí người đáng gờm nhất là Lê Phong. Nhưng giết Tạc đi, Thạc còn có một chủ ý quan trọng nữa. Thạc muốn trừ người có thể tố cáo mình sau này.
Vụ án mạng thứ hai, đúng như ý Thạc muốn, quả nhiên làm cho ông Tăng thành một hung thủ táo bạo quỷ quyệt theo trí tưởng tượng của mọi người. Thạc theo sự tin tưởng của mọi người cũng đã bị giết. Vậy hung thủ chính thức là Thạc chỉ có việc yên tâm đem chiếc vé độc đắc, đổi tên khác lĩnh mười vạn bạc, rồi đi xa để hưởng cuộc đời giàu sang.
Thạc tưởng ai cũng mắc mưu mình, từ sở liêm phóng đến báo Thời Thế. Báo Thời Thế cũng đăng rằng Thạc bị giết. Nhưng Thời Thế lại đăng thêm một tin bịa đặt nữa để lừa hung thủ vào tròng. Đó là tin người bị ám sát còn có thể cứu được. Kẻ phải chết có thể sống được, có thể nói được, và sẽ khai tên kẻ giết người! Thạc tất nhiên phải lo, và tìm cách làm cho hoàn toàn cái tội ác mà hắn tưởng còn dở dang, nghĩa là Thạc tất nhiên phải vào giết người lần nữa. Nhưng lần này thì Thạc không may mắn lắm, vì người bị giết lại là Lê Phong...”
Phong nói đoạn, Mai Trung lẳng lặng lại gần cởi cái khăn bịt ngang miệng người bị trói ở chân giường ra, và, lúc cả khuôn mặt Thạc hiện dưới ánh đèn, thì mọi người đều sửng sốt. Da mặt Thạc tái mét, miệng mím chặt lại, hai mắt trừng trừng mở và mất hết tinh thần. Một dòng nước rãi lẫn chút máu chảy từ bên khóe mép xuống dưới cằm. Sờ chân, tay lạnh toát và cứng đơ: Thạc đã chết.
Trung gật đầu :
- Chết rồi! Mà chết mới độ một, hai phút...
Phương hỏi :
- Tự tử?
- Phải. Uống thuốc độc. Có lẽ thuốc độc hắn mang theo từ trước. Phải, phải, đích thị thuốc độc! Nhưng hắn tự tử lúc nào?
Phong im lặng.
Nhưng một lúc sau anh bảo nhỏ Mai Hương :
- Thạc biết lo xa cả đến sự có thể bị bắt. Quả là một trí khôn đáng gờm... Thôi thế cũng xong... Tôi trông thấy hắn lần tay, cố bỏ một vật vào mồm mười mấy phút về trước rồi kia! Nhưng tôi để yên. Hắn làm thế phải hơn. Đó vừa là cách thú tội, vừa là cách tự xử.