Xopy trằn trọc trên chiếc ghế ở công viên Madison trong một buổi tối khi mùa đông sắp đến gần. Một chiếc lá vàng nhẹ nhàng rơi vào lòng Xopy. Đó là bức thông điệp thần Giá Rét báo tin cho những khách trọ thường xuyên của công viên về sự hiện diện của mình.
Thật ra Xopy không có tham vọng gì cao xa. Anh không hề mơ tưởng tới chuyến du hành ngang Địa Trung Hải hay tìm đến bầu trời nắng ấm của miền Nam, mà chỉ khao khát được sống qua ba tháng mùa đông yên ổn ở Khám lớn, nơi đảm bảo có cơm ăn, có giường ngủ, có bạn đồng cảnh ngộ và nhất là tránh được những ngọn gió bấc rét căm căm.
Nói nào ngay, từ mấy năm nay, Khám lớn vẫn là nơi trú đông của Xopy. Nếu như những thị dân New York giàu có cứ đến mùa đông lại rời thành phố tìm đến các bờ biển vùng Florida, hoặc sang trọng hơn thì sang tận các bờ biển nước Pháp, thì Xopy cũng khiêm tốn thu xếp cho chuyến đi của mình tới Khám lớn. Nay thời điểm ấy đã gần kề, bởi đêm qua ba tờ báo – sử dụng thay mền – lót dưới lưng, đắp trên chân và phủ trên bụng đã không đủ sức chống chọi với cái rét nữa rồi.
Thế là trong đầu Xopy, hình ảnh Khám lớn lù lù hiện ra, và các viên cảnh sát chính là tâm điểm mà anh nhắm đến. Sau khi quyết định, Xopy nhanh chóng bắt tay thực hiện ngay nguyện vọng của mình.
Tất nhiên cách đơn giản và dễ chịu nhất là đi thẳng đến một nhà hàng sang trọng, gọi một bữa ăn hết sức đắt tiền, sau khi ních đầy bụng thì thản nhiên tuyên bố không có tiền trả! Thế là sẽ được nhà hàng giữ lại và trao cho cảnh sát. Một vị quan tòa khả kính sẽ làm nốt những việc còn lại.
Xopy đứng lên, lững thững ra khỏi công viên cổ kính, băng qua con đường nhựa phẳng lì nơi đại lộ Broadway và đại lộ thứ Năm giao nhau. Anh đi theo đại lộ Broadway và dừng chân trước một nhà hàng lộng lẫy.
Xopy uể oải rời khỏi đại lộ Broadway. Cuộc hành trình đến Khám lớn bước đầu xem ra không được hoàn toàn thuận lợi. Cần phải suy nghĩ ra một kế hoạch khác để được… vào tù. Ở cuối đường của đại lộ thứ Sáu, ánh đèn rực rỡ chiếu sáng những món hàng đẹp đẽ bày biện khéo léo sau tấm kính dày của một cửa hiệu. Xopy tiện tay nhặt một hòn đá phang thẳng vào cửa kính. Tiếng thủy tinh vỡ lôi kéo mọi người đổ xô đến, dẫn đầu là một viên cảnh sát. Xopy đứng im tại chỗ, hai tay đút túi quần và thậm chí hơi mỉm cười khi trông thấy những chiếc khuy đồng lấp lánh. Viên cảnh sát nghiêm giọng hỏi:
- Ai đã ném vỡ cửa kính?
- Thế ông không nghĩ chính là tôi sao? – Xopy sởi lởi nói, y như đang đón chào vận may đến với mình.
Đáng tiếc viên cảnh sát nhất định không chịu tin lời Xopy, bởi theo ông ta những kẻ đập vỡ cửa kính không bao giờ đứng lại để đàm đạo với đại diện của pháp luật mà chắc chắn chúng ù té bỏ chạy ngay. Nhác thấy giữa phố có một người đàn ông đang cố sức chạy đuổi theo một chiếc xe buýt, viên cảnh sát bèn rút dùi cui ra và cấp tốc đuổi theo.
Chán ngấy sau hai lần thất bại, Xopy lầm lũi bỏ đi. Bên kia đường có một quán ăn làng nhàng. Loại quán này chuyên phục vụ những cái dạ dày to nhưng túi tiền lại bé, bầu không khí trong quán đặc sệt nhưng nước súp thì loãng, bát đĩa dày cộm nhưng khăn bàn thì mỏng dính.
Xopy thong thả lê đôi giày tố giác và chiếc quần lộ tẩy của mình vào trong quán mà không gặp một trở ngại nào. Anh ngồi vào bàn, gọi bít-tết, bánh pa-tê và bánh nướng. Ăn xong, anh nhỏ nhẹ nói với tay hầu bàn rằng mình chẳng có lấy một đồng dính túi và ra vẻ thách thức:
- Bây giờ hãy mau đi gọi một tên cớm lại đây và đừng để một người lịch sự như ta phải chờ lâu.
- Không cần thiết phải gọi cớm với cái ngữ như mày, đồ ăn quịt!
Tay hầu bàn đáp, giọng vẫn ngọt ngào như phết mật trong khi cặp mắt long lên như quả anh đào trong ly cocktail kiểu Manhattan. Hai gã hầu bàn thẳng tay quẳng Xopy ra cửa khiến mang tai trái anh đập mạnh xuống vỉa hè gồ ghề.
Xopy gắng gượng đứng dậy, nắn từng khớp xương đau như dần và phủi bụi quần áo. Một viên cảnh sát đứng trước cửa hiệu tạp hóa chỉ cách đấy hai căn nhìn Xopy cười phá lên rồi bỏ đi xuống cuối phố.
Thế mới thấy để bị bắt có vẻ như là một giấc mộng vàng và Khám lớn xem ra quá tầm tay với! Phải đi qua hết năm dãy nhà, Xopy mới lấy lại can đảm. Lần này dường như vận may đã đến: một phụ nữ trẻ xinh đẹp, ăn mặc thanh lịch đang đứng ngắm nghía hàng trước cửa tiệm bách hóa một cách thích thú, cạnh đó một viên cảnh sát cao lớn bộ dạng nghiêm nghị đang đứng tựa vào tường. Xopy quyết định đóng vai một gã ghẹo gái mất dạy. Vẻ mặt hiền lành của nạn nhân cùng với sự có mặt của viên cảnh sát đầy tinh thần trách nhiệm khiến lòng anh rộn lên niềm tin chắc rằng chỉ lát nữa thôi, bàn tay êm dịu của pháp luật sẽ nắm chặt lấy mình, đảm bảo cho anh được trải qua mùa đông lạnh lẽo trong một gian phòng ấm cúng ở Khám lớn.
Xopy nắn lại cổ áo, kéo hai tay áo sơ mi nhăn nhúm cho thò ra ngoài, hất lệch cái mũ thật nghiêng rồi sán lại gần người phụ nữ trẻ. Anh đưa mắt liếc tình, cười nụ, trơ tráo giở đủ trò thô bỉ của một tên ghẹo gái hạ cấp. Người phụ nữ e dè nhích ra xa mấy bước rồi lại chăm chú nhìn vào tủ kính. Liếc mắt thấy viên cảnh sát đang theo dõi mình, Xopy mạnh bạo bước đến gần cô ta hơn nữa, nhấc mũ chào và cất giọng cợt nhả:
- Ô kìa, em gái! Có muốn đến chơi nhà anh không?
Viên cảnh sát vẫn nhìn theo. Chỉ cần người phụ nữ vẫy một ngón tay là Xopy sẽ thật sự lên đường tới nơi trú ngụ ao ước và anh hầu như đã cảm nhận được không khí ấm áp dễ chịu của đồn cảnh sát, thì bất ngờ người phụ nữ trẻ quay lại và vui vẻ đặt tay lên vai Xopy:
- Có chứ, anh Michael, nếu anh bằng lòng thết em một chầu rượu – và cô ta hạ giọng – Đáng lẽ em đã mời anh từ khi nãy kia, nhưng vì tên cớm đang theo dõi.
Thế là tay trong tay với người phụ nữ trẻ, Xopy rầu rĩ đi ngang qua mặt viên cảnh sát. Hình như số mệnh buộc anh cứ phải sống tự do. Tới góc đường, anh vùng ra khỏi tay người đẹp và đâm đầu bỏ chạy.
Xopy dừng lại tại một khu phố về đêm có những con đường nhiều ánh đèn nhất, nơi có những cô gái nhẹ dạ nhất, những lời thề chóng quên nhất và những vở ca cẩm hời hợt nhất. Đường sá tràn ngập những người đàn bà mặc áo lông thú, đàn ông mặc áo khoác ngoài vui vẻ bước đi trong không khí giá lạnh.
Bỗng nhiên Xopy cảm thấy lo sợ khi nghĩ đến một phép lạ bí ẩn nào đó khiến mình không sao có thể bị bắt được. Vì vậy, khi nhìn thấy một viên cảnh sát bệ vệ đi tuần ngang qua trước cửa một rạp hát rực rỡ ánh đèn, anh như người sắp chết đuối vội vơ lấy cọng rơm trước mắt: “Làm rối loạn an ninh”.
Thế là Xopy gân cổ gào toáng lên, thốt ra những câu nhố nhăng như một đệ tử lưu linh chính hiệu. Anh nhảy nhót, la hét, nói huyên thuyên như một thằng điên và làm đủ các trò kỳ dị.
Viên cảnh sát múa tít cây dùi cui, quay đi phía khác và nói với người qua đường:
- Một sinh viên Đại học Yale đấy! Họ ăn mừng trận chiến thắng bóng rổ mới đây, có ồn ào một chút nhưng vô hại. Chúng tôi đã được lệnh để mặc họ.
Hoàn toàn thất vọng, Xopy chấm dứt cái trò huyên náo vô hiệu quả. Rõ ràng cảnh sát sẽ không bao giờ chịu sờ đến anh và giờ đây Khám lớn hiện ra như một bồng lai tiên cảnh thật xa vời trong trí tưởng tượng của Xopy! Anh buồn bã cài lại khuy chiếc áo mỏng tanh, những mong chống lại cơn gió buốt.
Ngang qua hiệu bán thuốc lá, Xopy thấy một người đàn ông ăn mặc sang trọng đang châm điếu xì gà vào ngọn lửa chập chờn. Trước khi bước vào đó, ông ta dựng chiếc dù bằng lụa bên ngạch cửa. Xopy bèn tiến đến gần, ngang nhiên cầm lấy chiếc dù và ung dung bước đi. Người đàn ông vội vã chạy theo. Ông ta tức giận nói:
- Ô, ghê chưa! Đã ăn cắp lại còn khiêu khích.
Xopy vừa tiếp tục bước vừa cười khẩy:
- Ông bảo chiếc dù này của ông à? Tôi lấy đấy! Thế sao không gọi cảnh sát? Có một tên đứng ở góc phố kia kìa.
Người đàn ông bỗng dừng bước, Xopy cũng đi chậm lại và linh cảm mình lại không gặp may rồi. Viên cảnh sát tò mò nhìn hai người. Người chủ chiếc dù ấp úng:
- À không… ông cũng biết đôi khi có những chuyện nhầm lẫn xảy ra như thế… Nếu đấy là chiếc dù của ông thì xin thứ lỗi… Sáng nay tôi tình cờ nhặt được nó ở một hiệu ăn. Nếu ông nhận ra nó là của ông… Vâng, tôi mong ông sẽ…
- Tất nhiên là dù của tôi. – Xopy ngán ngẩm nói.
Người đàn ông rút lui êm thấm, còn tay cảnh sát thì vội vã chạy tới giúp một cô gái tóc vàng khoác áo choàng cao dong dỏng đang băng ngang đường trước mũi một chiếc xe buýt đang lao tới.
Đến một đường phố bị đào bới ngổn ngang vì đang sửa chữa, Xopy giận dữ quăng chiếc dù vào một cái hố. Anh lầm bầm nguyền rủa bọn người đầu đội nón sắt tay mang dùi cui. Anh thèm muốn được rơi vào nanh vuốt của họ, thế mà họ hình như lại coi anh như một công dân khả kính không bao giờ có thể làm điều sai trái.
Cuối cùng Xopy đến một trong những đại lộ ở phía đông thành phố, nơi ánh đèn và tiếng ồn ào đều yếu ớt. Hóa ra anh đang trên đường quay về công viên Madison! Thế mới thấy, dù cho tổ ấm chỉ là một chiếc ghế lạnh lẽo ở công viên thì cái bản năng trở về với tổ ấm vẫn thôi thúc con người ta.
Tới một góc phố tĩnh mịch, Xopy bỗng đứng sững lại. Nơi đây có một nhà thờ cổ kính kiến trúc lạ mắt và khá cầu kỳ. Một luồng ánh sáng dịu dàng lọt qua khung cửa kính màu tím. Bên trong văng vẳng tiếng nhạc êm đềm, chắc hẳn người chơi đại phong cầm đang nhẹ tay lướt trên phím đàn, dợt lại bản thánh ca cho ngày Chủ nhật tới. Tiếng nhạc du dương rót vào tai Xopy, lôi cuốn anh đến sát bên dãy hàng rào sắt.
Trăng đã lên cao, dịu dàng và thanh bình. Đường phố im vắng, xe cộ qua lại thưa thớt, khách bộ hành đã không còn. Chỉ có bầy sẻ líu ríu dưới các mái hiên khiến cho giờ đây cảnh vật tựa hồ như một nghĩa trang miền thôn dã.
Xopy như bị trói chặt vào hàng rào sắt. Trong giây lát, giai điệu trầm mặc của bản thánh ca bỗng chốc đưa anh trở về cái thời mà anh còn có mẹ, có bạn bè, với những ý nghĩ trong sáng cùng bao ước mơ bay bổng.
Ngôi nhà thờ cổ kính cùng với âm nhạc làm dịu lòng người đã khiến tâm trạng Xopy trở nên nhạy cảm một cách lạ thường. Đột nhiên, anh kinh hoàng nhìn lại cái vực sâu mình đã rớt xuống, những thèm khát thấp hèn, những hoài vọng đã tắt, những năng khiếu bị hủy hoại và những động cơ đê tiện đã đưa đẩy anh đến tình cảnh ngày hôm nay. Trong chốc lát, tâm hồn Xopy thật sự rúng động trước những cảm nghĩ đau đớn này.
Những nốt nhạc đại phong cầm trang nghiêm mà êm dịu kia làm dấy lên một thay đổi sâu sắc trong lòng Xopy. Một xúc động mãnh liệt đột ngột thôi thúc anh chiến đấu chống lại số phận hiện tại. Anh sẽ cố gắng ra khỏi vũng bùn, sẽ chiến thắng cái xấu đang chiếm lĩnh con người mình. Vẫn chưa muộn, bởi anh hãy còn tương đối trẻ. Anh sẽ khôi phục lại những ước mơ đẹp đẽ ngày xưa và sẽ kiên tâm theo đuổi chúng.
Ngày mai Xopy sẽ tới khu buôn bán ồn ào náo nhiệt của thành phố để xin việc làm. Anh sẽ tìm đến một nhà nhập khẩu lông thú đã từng muốn thuê anh làm lái xe. Anh sẽ là một lao động bình thường trong xã hội như mọi người. Anh sẽ…
Xopy bỗng cảm thấy có một bàn tay lạnh ngắt đặt lên vai mình. Anh vội quay lại và thấy ngay bộ mặt khó ưa của một cảnh sát.
- Anh làm gì mà rình rập ở đây? – Viên cảnh sát tra gạn.
- Không, tôi chẳng làm gì cả, có tội tình gì đâu! – Xopy hốt hoảng.
- Thế thì yêu cầu đi theo tôi.
Bạn làm ơn vỗ vào mặt nhà thơ líu lo với bạn những ngôn từ ca ngợi tháng Năm. Đó là một tháng thống trị cái hiểm độc đen tối nhất và cái điên rồ.
Vào tháng Năm, Cupidon ném những mũi tên dò dẫm. Các nhà triệu phú cưới các nàng nhân viên đánh máy chữ. Những giáo sư thông thái tán tỉnh mấy cô hầu bàn mặc tạp dề trắng nhai kẹo cao su đàng sau các quầy bán hàng tự động. Những cậu choai choai rón rén băng qua bãi cỏ và đi trồng cây thang dưới cửa sổ viền dây trường xuân, nơi đó nàng Juliette lắp đặt kính viễn vọng và đang ngóng đợi họ. Những cụ già 60 tuổi đeo ghệt trắng dạo chơi loăng quăng gần ngôi trường sư phạm của các thiếu nữ xinh tươi mơn mởn. Đám đàn ông có vợ sẽ thể hiện lòng dịu dàng và tình cảm bất thường với vợ họ bằng cách vỗ lưng các bà mà lẩm bẩm: “Sao rồi bà, có khỏe không?”.
Tháng Năm này không phải là thiên thần, mà là một ác thần. Tháng này làm cho chúng ta điên loạn.
Lão Coulson hơi càu nhàu và nhổm dậy trên chiếc ghế tàn tật của lão. Lão mắc bệnh thống phong, có một căn nhà gần công viên Grammercy, nửa triệu đô-la và một đứa con gái. Lão cũng có một bà già giúp việc nhà – đó là bà Widdup. Tất cả chỉ ngắn gọn có thế thôi.
Lão thường ngồi bên cửa sổ trông ra những đám hoa thủy tiên, huệ, dạ hương, mơ hạc và hoa pensée. Tức thì rộ lên một cuộc chiến dai dẳng giữa hương thơm các loài hoa và thứ hơi thuốc bôi rất mạnh và hiệu quả để chữa bệnh thống phong của lão. Hơi thuốc mang đến sự dễ chịu cho lão, nhưng hương hoa thoang thoảng lại có đủ thì giờ để chui thẳng vào mũi Ngài Coulson. Tác phẩm quyến rũ của tháng Năm, người phù phép khắt khe và gian xảo, vừa được hoàn thành. Các sợi dây thần kinh của ngài Coulson phải đương đầu với các dấu hiệu không thể lầm lẫn được xuất phát từ công viên, những mùi hương chào mời từ mùa xuân, đặc biệt cho thành - phố - lớn - bên - trên tàu - điện - ngầm, thành phố của mùi nhựa đường nóng, của mùi các hang xe điện ngầm, của xăng, hoa hoắc hương, vỏ quả cam, hơi cống rãnh, của mùi những điếu thuốc lá Ai Cập, của xi-măng và mực ẩm trên các tờ báo. Không khí ùa vào căn phòng ấm cúng và êm dịu. Bọn chim líu lo cuống quýt trên các hè đường. Bạn hãy coi chừng tháng Năm!
Lão Coulson vuốt hai đầu ria mép trắng bạc của mình, rủa cái chân chết tiệt của thân thể và lay động quả chuông nhỏ đặt trên chiếc bàn gần đó.
Bà già Widdup bước vào. Tóc vàng, 40 tuổi, bận rộn và ranh mãnh, bà già rất sẵn sàng có mặt.
- Higgins đi rồi, thưa ông, bà nói với nụ cười nhỏ đề nghị xoa bóp cho ông, hắn đi bỏ thơ ngoài bưu điện. Tôi có thể làm được gì cho ông đây?
- Đã đến giờ lo cho cây phụ tử của ta rồi, ngài Coulson trả lời, mang thuốc giọt đến đây cho ta. Cái chai ở đàng kia. Rỏ 3 giọt vào nước. Trời tru đất diệt cái thằng Higgins này. Chẳng ai trong căn nhà này lo lắng xem ta có chết không trong cái ghế của ta, chẳng săn sóc gì cả!
Bà Widdup thở dài sườn sượt.
- Đừng nói thế, thưa ông. Có người còn lo cho ông hơn cả mạng sống của mình nữa kìa. Ông bảo 13 giọt à?
- 3 giọt, lão Coulson nói.
Lão cầm ống nhỏ giọt và cùng lúc ấy cầm luôn cả bàn tay bà Widdup. Bà đỏ ửng mặt. Ô đúng rồi, có thể lắm chứ!
- Bà Widdup này, ngài Coulson nói, chúng ta cảm thấy mùa xuân sắp đến với chúng ta, hử?
- Quả vậy, bà Widdup trả lời, trời nóng rồi đấy. Đã có những bảng quảng cáo bia hơi ở từng góc đường. Còn công viên thì rực một màu vàng, hồng, xanh của hoa. Tôi thì bị chuột rút kinh khủng ở hai chân và như có kiến cắn khắp châu thân.
- Mùa xuân, ngài Coulson nói vừa hếch ria mép lên, một sự trẻ trung... tôi muốn nói đến một người đàn ông có những ý nghĩ tình ái lướt qua đầu.
- A! Bà Widdup hô lên, thêm một ý hay! Người ta bảo khí trời đất tụ lại.
- “Mùa xuân, ngài Coulson tiếp, một sắc cầu vồng rực rỡ trên thân con bồ câu láng mịn”.
- Chà, có thể nói là dân Ái Nhĩ Lan hoạt bát gớm, bà Widdup trầm tư nhận xét.
- Bà Widdup này... lão Coulson tỉnh lại, nhăn mặt nhớ lại cái bệnh thống phong của mình, không có bà chắc căn nhà này sẽ trống trải. Tôi là... là lão già. Nhưng tôi đáng nửa triệu đô-la...
Cô Van Meeber Constantia Coulson bất ngờ xuất hiện, cứng nhắc như quan tòa. Dáng cao xương xẩu, thô cứng, mũi dài, lạnh buốt, học vấn cao, 35 tuổi, đấy là một mẫu mực của khu công viên Grammercy.
- Tôi tưởng Higgins ở đây với các người chứ, cô Van Meeber Constantia nói.
- Higgins đi vắng rồi, cha nàng giải thích, và bà Widdup. Tôi chẳng cần gì nữa đâu.
Bà già giúp việc rút lui, đỏ người dưới cái nhìn lạnh cóng và dò xét của cô Coulson.
- Thời tiết mùa xuân tuyệt vời chứ con gái của ta? Lão già hỏi, ngầm hiểu ra một sự khó chịu gì đó.
- Tuyệt đối đúng, cô Van Meeber Constantia Coulson đáp lời với vẻ hơi tăm tối, Khi nào bà Widdup đi nghỉ mát?
- Một tuần nữa thôi, ngài Coulson đáp.
Cô Van Meeber trù trừ một chút bên cửa sổ, dán mắt vào khu công viên nhỏ ngập ngụa nắng vàng buổi chiều. Bằng con mắt của một nhà thực vật học, ả đánh giá những bông hoa này, thứ vũ khí hùng mạnh của tháng Năm, lắm mưu mẹo. Khí chất lạnh băng như một trinh nữ xứ Cologne, ả xua đi những đợt tấn công của màu xanh êm dịu. Những sợi nắng êm ái rơi xuống, đông lại sau khi va phải bộ vũ khí lạnh buốt của một bộ ngực kiên cố. Hương hoa không gợi dậy được một âm hưởng nào trong các hang hốc chưa được thăm dò của con tim say ngủ của ả. Tiếng hót líu lo của bọn chim sẻ chỉ tổ làm ả đau đầu. Ả chế nhạo tháng Năm.
Nhưng dù ả có thể chống lại mùa màng, ả không ngầm hiểu được sức mạnh của nó. Ả biết rằng các lão già và đám đàn bà mũm mĩm nhảy cỡn, như đám bọ chét thông thái trong cỗ xe kỳ cục tháng Năm, bông lơn nhất trong các tháng. Ả từng nghe nói chuyện các ông già ngu đần đi cưới người đàn bà giúp việc nhà của họ. Thật là mỉa mai nhục nhã cho cái tình cảm được tôn xưng là tình yêu này!
Sáng hôm sau, lúc 8 giờ, khi thợ làm nước đá đi ngang nhà, bà già làm bếp nhắn gã rằng cô Coulson muốn gặp gã ở tầng hầm.
Do tình thế, gã phải hạ ống tay áo sơ mi xuống, quăng cuốc vào bụi cây sơn mai rồi đi xuống tầng hầm. Gã cởi mũ lưỡi trai khi cô Van Meeber Constantia nói với gã:
- Tầng hầm này có một lối vào đằng sau, có thể đến được bằng lối đi qua bãi đất hoang, ở một bên, nơi người ta đào mống cho một căn nhà. Tôi muốn anh đi theo đường đó mang đến đây 500 kí-lô nước đá trong vòng 2 giờ nữa. Anh có thể tìm thêm một hay hai người nữa giúp sức. Tôi sẽ chỉ chỗ cho anh để nước đá và cứ thế suốt bốn ngày và giao cùng một cách như vậy. Hãng của anh sẽ gửi giấy tính tiền đến cho tôi. Còn đây là phần cho anh.
Cô Coulson đưa cho gã tờ 10 đô-la. Gã cúi người từ biệt, hai tay cầm mũ lưỡi trai.
- Cảm ơn bà. Mọi sự sẽ theo ý bà!
Than ôi, tháng Năm khốn khổ!
Khoảng giữa trưa, lão Coulson đánh đổ hai ly nước ra bàn, bẻ gãy lò xo chuông, vừa hét gọi Higgins.
- Mang cái rìu ra đây, lão ra lệnh thật cay độc, hay mang đến cho ta một ca acide, hoặc gọi một nhân viên cảnh sát đến đánh ta. Sao cũng được, còn hơn là để ta phải chết cóng!
- Thưa ông, hình như trời bắt đầu trở lạnh, Higgins nói, trước đây tôi không chú ý! Tôi đóng cửa sổ ngay thưa ông.
- Đóng lại đi, lão Coulson nói. Vậy mà cũng là mùa xuân! Nếu sự thể còn tiếp diễn, ta sẽ quay về Palm Beach. Nhà này giống như nhà xác!
Chập sau, cô Coulson đến xem có cần nhỏ thuốc không.
- Stantia này, lão già nói, thời tiết bên ngoài thế nào?
- Tươi tắn nhưng khá mát, cô Coulson đáp lời.
- Ta thì chắc rằng mùa đông đây!
- Có lẽ, Constantia nói và ném một cái nhìn lơ đễnh ra cửa sổ.
Chập sau nữa ả đi dọc theo công viên, theo hướng Đông ra Broadway để mua hàng.
Một chập sau nữa, bà Widdup bước vào phòng lão già tàn tật.
- Ông gọi tôi à? Tôi nhờ Higgins đi gặp người bán thuốc và tôi có nghe tiếng chuông.
- Ta đâu có lắc chuông?
- Tôi e là hôm qua ông bị quấy rầy trong khi ông muốn nói gì đó.
- Trời, sao mà tôi thấy quá lạnh trong căn nhà này?
- Lạnh à, thưa ông? Để tôi nói ông nghe, hình như trời lạnh trong căn phòng này. Nhưng bên ngoài, thưa ông, trời đẹp và nóng như tháng 6. Lúc này ông phải vui lên chứ! Còn dây trường xuân ở góc nhà ông đang ra lá. Cây đàn thiên nhiên đang rung, bọn trẻ nhảy nhót ngoài vỉa hè, đây đúng lúc phải cởi mở. Hôm khác ông sẽ...
- Thôi đi! Lão Coulson gầm lên, bà điên rồi. Ta mướn bà để chăm sóc căn nhà này. Ta lạnh cóng muốn chết trong phòng mà bà cứ nhét vào tai ta đủ chuyện ấy. Đưa áo khoác cho ta mau. Coi chừng giữ kín cửa cái, cửa sổ đó. Bà già tối tăm như bà mà cứ huyên thuyên về mùa xuân, bông hoa giữa mùa đông này! Nhớ khi Higgins về, bảo nó mang đến cho ta một cốc rượu đun sôi. Còn bây giờ, bà ra đi!
Nhưng ai sẽ bẽ mặt giữa tháng Năm sáng rực này?
Đó là một kẻ ranh mãnh? Đúng, và hắn quấy rối đầu óc những người đàn ông khôn ngoan. Nhưng không có sự mưu mô, không có cái lạnh nào được tích giữ trong con tim của trinh nữ khôn ngoan có thể chỉnh ả giữ lễ độ cho được trong dải thiên hà sáng rực của các tháng.
Mà chuyện đến đây chưa dứt!
Một đêm trôi qua. Sáng hôm sau Higgins giúp lão Coulson ra chỗ ghế ngồi gần cửa sổ. Cái lạnh đã biến mất khỏi phòng. Những mùi hương tuyệt vời lại ngập mũi lão.
Bà Widdup đi vào phòng như cơn gió, tiến lại bên ghế. Lão Coulson chìa bàn tay xương xẩu tóm lấy bàn tay béo tròn.
- Bà Widdup, lão nói, không có bà thì căn nhà này sẽ không là tổ ấm. Tôi có nửa triệu đô-la. Vậy thì, sự trìu mến của con tim tuy không còn xuân sắc nữa nhưng đã không còn lạnh lẽo, có thể...
- Tôi đã tìm ra nơi phát ra cái lạnh, và Widdup nói, vừa tỳ tay vào ghế. Đó là nước đá, hàng tấn nước đá dưới tầng hầm, trong nồi hơi, ở khắp nơi. Tôi đã đóng các vòi đưa hơi lạnh này vào phòng ông, thưa ông chủ tội nghiệp của tôi. Còn bây giờ, tháng Năm trở lại rồi.
- Một con tim tốt đẹp, lão Coulson nói, rồi do dự một chút, đã làm sống lại mùa xuân... nhưng bà Widdup này, con gái tôi sẽ nói sao?
- Ông đừng lo, bà Widdup trả lời vui vẻ, cô Coulson đã bỏ trốn cùng với gã làm nước đá vào đêm qua rồi!
Một người gầy lêu đêu, khỏe mạnh, mặt đỏ rực, có cái mũi khoằm của tướng Wellington, đôi mắt đã đỏ lại được đôi lông mi đỏ hoe tôn lên làm cho đỏ như cội, ngồi trên sân ga Los Pinos, hai chân đung đưa. Ngồi bên cạnh là một người to béo, trầm tư, dáng buồn, hình như họ là bạn thân của nhau. Họ mang dáng dấp của những người mà cuộc đời như một cái áo khoác mặc được cả hai mặt - mặt nào cũng là trái được.
- Không gặp cậu đến bốn năm nay rồi, Ham ạ, - người ủ rũ nói. - Cậu đi những đâu thế?
- Bang Texas, - người mặt đỏ nói. - Ở Alaska lạnh lắm, còn ở Texas tôi thấy ấm áp. Tôi sẽ kể cậu nghe về một vụ nóng mà tôi đã trải qua ở đó.
*
* *
Vào một buổi sáng, tôi xuống xe tốc hành bên một hồ chứa nước và để mặc cho xe đi tiếp không cần có tôi. Chỗ đây là một trang trại nhà cửa nhiều hơn ở thành phố New York. Chỉ có điều người ta xây cách xa nhau khoảng hai chục dặm để có ngồi ăn thì nhà khác không ngửi thấy mùi, còn hơn là chỉ xây cách cửa nhà ông hàng xóm một tí.
Chẳng thấy đường sá gì cả, vì vậy tôi đành phải cuốc bộ qua đồng quê. Cỏ mọc lún mắt cá chân và cây mesquite mọc trồng như một vườn đào. Trông hệt như cơ ngơi của một nhà qúy tộc, nên lúc nào ta cũng có cảm tưởng bị đàn chó xồ ra đớp. Phải đi mất đến hai mươi dặm tôi mới nhìn thấy một căn nhà nhỏ, to độ bằng một nhà ga nổi.
Dưới gốc cây trước cửa nhà có một người nhỏ bé mặc áo sơ mi trắng và bộ quần áo lao động màu nâu, cổ thắt một chiếc khăn tay màu hồng.
“Xin chào”, tôi nói. “Có gì cho uống, tiền thù lao hay một công việc cho một người khách tương đối lạ hay không?”
“Ồ, xin mời vào”, người đó nói, giọng nghe tao nhã. “Xin mời ngồi xuống cái ghế đẩu kia. Tôi không nghe thấy có tiếng ngựa”.
“Còn xa”, tôi nói. “Tôi đi bộ đến đây. Tôi không muốn phiền ông, nhưng giá ông cho tôi xin xô nước thì tốt quá”
“Trông anh bẩn ghê”, ông ta nói, “mà việc thu xếp để tắm thì…”
“Tôi chỉ cần nước để uống thôi”, tôi nói. “Ồ, bụi bặm bên ngoài, ngại gì”.
Ông ta lấy cho tôi độ một môi nước ở trên cái bình đỏ treo lủng lẳng, rồi nói tiếp:
“Ông cần có việc làm à?”
“Tạm thời thôi”, tôi nói. “Nơi này kể cũng khá vắng vẻ đấy nhỉ?”
“Đúng vậy”, ông ta nói. “Đôi lúc, người ta nói, có đến hàng tuần cũng không có một mống nào qua lại. Tôi mới ở đây có một tháng nay. Tôi mua cái trang trại này của một người định cư cũ. Ông ta muốn chuyển xa hơn nữa về phía tây”.
“Rất hợp với tôi”, tôi nói. “Yên tĩnh và an trí đôi lúc cũng tốt cho con người ta đấy. Nhưng tôi cần một việc làm. Tôi biết phục vụ bar, các mỏ muối, giảng bài, phát hành cổ phiếu, đấm bốc ở hạng trung, và chơi đàn piano”.
“Anh biết chăn cừu chứ?”, viên chủ trại nhỏ bé hỏi.
“Ý ông muốn hỏi tôi đã chăn cừu chưa chứ gì?”, tôi hỏi.
“Anh có biết chăn không? Nghĩa là quản lí đàn cừu ấy?”, ông ta nói.
“Ồ”, tôi nói, “tôi hiểu ra rồi. Ý ông muốn nói là xua chúng và sủa chúng như chó côli sủa chứ gì. Ồ, tôi làm được”, tôi nói. “Thực ra tôi chưa bao giờ đi chăn cừu cả, nhưng qua cửa ô tô cũng thường hay nhìn thấy chúng nhai hoa cúc, trông không có gì dữ tợn cả nhỉ!”
“Tôi thiếu một người chăn cừu”, viên chủ trại nói. “Đừng có bao giờ trông cậy gì được người Mexico đâu. Tôi chỉ có hai đàn cừu thôi. Buổi sáng anh đưa khoảng tám trăm con đi chăn cho tôi, có đáng mấy. Tôi trả anh hai mươi đôla một tháng và bao thêm cả ăn uống. Anh ở trong trại lều trên đồng cỏ với đàn cừu. Anh thổi nấu lấy, nhưng tôi cho người mang củi và nước đến cho anh. Công việc cũng chả có gì là vất vả”.
“Tôi đồng ý”, tôi nói. “Tôi xin nhận việc đó, dù cho tôi có phải quàng quanh trán một vòng hoa, tay bám vào cái gậy, mặc quần áo thụng và chơi kèn ống như những người chăn cừu trong các bức ảnh”.
Vậy là đến sáng hôm sau, viên chủ trại nhỏ bé giúp tôi dẫn đàn cừu từ bãi quây đến gặm cỏ bên sườn đồi nhỏ trên đồng cỏ cách đấy độ hai dặm. Ông ta dạy tôi nhiều điều, nào là đừng có để từng đám cừu tách khỏi đàn, nào là đến trưa phải đưa chúng về máng nước để uống nước.
“Tôi sẽ cho xe chở lều bạt, các đồ để cắm trại và thức ăn đến cho anh vào trước lúc trời tối”, ông ta nói.
“Được”, tôi nói. “Mà đừng có quên thức ăn đấy, cả các đồ cắm trại nữa. Nhớ mang cả lều nhé. Tên ông là Zollicoffer phải không?”.
“Tên tôi là”, ông ta nói, “là Henry Ogden”.
“Ồ, vậy là ông Ogden”, tôi nói. “Tên tôi là Percival Saint Clair”.
Tôi chăn đàn cừu được năm ngày ở trang trại Chiquito, lông cừu thấm cả vào lòng tôi. Con người mình sống hầu như gần với thiên nhiên. Tôi trở nên cô đơn hơn cả con dê của Crusoe (1). Tôi đã từng gặp bao người bạn đường thú vị hơn những con cừu đó. Tối tối tôi lùa chúng về bãi quây và nhốt chúng ở đó, rồi nấu ăn, có bánh ngô, thịt cừu và cà phê, sau đó vào nằm ngủ trong một cái lều to bằng cái khăn trải bàn, nghe chó sói sủa và chim đớp muỗi hót quanh lều. Đến buổi tối của ngày thứ năm, sau khi tôi đưa lũ cừu đắt tiền mà tẻ nhạt đó vào bãi quây, tôi đi về khu nhà trại và bước vào cửa.
“Ông Ogden”, tôi nói, “tôi và ông cần phải đánh bạn với nhau. Lũ cừu cũng làm đẹp cho phong cảnh và giúp làm nên những bộ quần áo lông trị giá tám đôla cho con người đấy, nhưng để chuyện trò tâm đầu ý hợp, thì chúng chỉ ngang hàng những vật vô tích sự. Nếu ông có bộ bài hay cờ, hay sách thì mang ra đây cho chúng ta hoạt động trí óc một tí. Tôi phải làm một việc gì đó về mặt trí tuệ, dù chỉ là đấu trí, với ai đó”.
Tay Henry Ogden này là một chủ trại kì quái. Hắn ta đeo nhẫn và một cái đồng hồ vàng to bự, cổ đeo cà vạt cẩn thận. Bộ mặt hắn lúc nào cũng trầm tĩnh và cặp kính kẹp ở mũi lúc nào cũng bóng loáng. Có một lần ở Muscogeei tôi đã nhìn thấy một kẻ ngoài vòng pháp luật bị treo cổ vì đã giết chết sáu người, tên này trông giống hệt hắn ta. Nhưng tôi lại còn biết một cha cố ở Arkansas, anh mà nhìn cứ tưởng đấy là ông anh hắn. Dù gì cũng mặc xác hắn; điều tôi cần là muốn có bạn cùng chung vui, dù là thánh thần hay là những kẻ tội lỗi không còn hi vọng hoán cải cũng mặc, không phải cừu là được.
“Ồ, ông Saint Clair”, hắn nói, đặt quyển sách đang đọc xuống. “Tôi nghĩ lúc đầu anh thấy hơi cô độc đấy. Mà tôi cũng không chối rằng tôi cũng thấy đơn điệu. Anh đã lùa cừu vào bãi quây cả rồi phải không? Không lạc mất con nào đấy chứ?”
“Chúng bị nhốt nghiêm ngặt như là một ban hội thẩm xử một tên giết nhà triệu phú”, tôi nói. “Và tôi sẽ quay lại ngay, trước khi cô y tá có qua lớp đào tạo đến”.
Vậy là Ogden tráo bài và chúng tôi cùng chơi. Năm ngày năm đêm ở ngoài trại chăn cừu qua đi tựa như một tiếng còi ô tô trên đường Broadway. Lúc tôi thắng ván to, tôi cảm thấy hồi hộp như mình thắng đến hàng triệu đôla ở Trinity. Rồi hắn có vẻ hơi thoải mái nên ngồi kể chuyện về người đàn bà trên toa xe lửa làm tôi cười đến năm phút.
Điều đó chứng tỏ đời đâu có phải là cái gì tuyệt đối. Người ta mà nhìn đủ thứ chán mắt quá thì chẳng buồn quay đầu lại nhìn ngôi biệt thự bừng sáng ánh đèn trị giá đến ba triệu đôla hoặc ngắm biển Adriatic. Nhưng cứ để hắn ta đi chăn cừu một vụ đi, và ta sẽ thấy hắn ta cười đến vỡ bụng trước bài ca “Tối nay lệnh giới nghiêm không ban hành”, hay thoả thích chơi bài với các bà các cô.
Dần dà Ogden lôi ra một bình rượu buôcbông, và thế là đàn cừu bị lãng quên hẳn.
“Anh có nhớ đã đọc các báo cách đây một tháng”, hắn nói, “về một vụ cướp tiền trên tàu thuộc Công ty Xe lửa K.T. không? Nhân viên an ninh của chuyến tàu bị bắn lủng cả vai và mất khoảng mười lăm nghìn đôla. Người ta đồn chỉ có một người hành động”.
“Hình như tôi có nhớ”, tôi nói, “nhưng những chuyện như thế xảy ra thường xuyên đến nỗi chẳng bao giờ ở lại lâu trong đầu người Texas. Thế họ có đuổi theo và tóm được tên ăn cướp không?”
“Hắn chạy thoát”, Ogden nói. “Và hôm nay tôi vừa đọc đến tin nói các viên cảnh sát đã truy lùng hắn ta đến tận nơi xó xỉnh này. Hình như tiền mà tên cướp cướp được đều là loại tiền phát hành lần đầu tiên của Nhà băng quốc gia Thứ hai của thành phố Espinosa. Người ta đã theo dõi dấu vết xem tiền đó được tiêu ở đâu, dấu vết ấy đưa họ theo lối này”.
Ogden rót thêm rượu và đẩy cái chén đến chỗ tôi.
“Tôi thiết nghĩ”, tôi nói, sau khi uống một hơi cạn chút rượu ngon tuyệt vời, “tên cướp tàu hoả nào mà không chạy xuống ẩn náu ở đây một thời gian ngắn thì chẳng khôn ngoan chút nào. Một trang trại nuôi cừu bây giờ là nơi ẩn náu tuyệt nhất đấy. Ai ngờ được một kẻ đầu trâu mặt ngựa lại ở chỗ những con chim hót, đàn cừu và những đám hoa dại này cơ chứ? Nhân tiện đây”, tôi nói, nhìn khắp lượt H. Ogden, “người ta có tả diện mạo tên khủng bố đơn thương độc mã đó không? Nét mặt hắn ra sao, cao hay thấp, béo hay gầy, răng như thế nào, quần áo kiểu gì, họ có in những cái đó trên báo không?”
“Ồ, không”, Ogden nói, “không ai nhận được mặt hắn ta vì hắn ta đeo mặt nạ. Nhưng họ biết tên cướp đó tên là Bill Đen, vì hắn luôn hành động một mình, và vì hắn đánh rơi chiếc khăn tay trên chuyến tàu tốc hành có ghi tên hắn trên đó”.
“Tôi cũng đồng ý với Bill Đen là nên chạy về các khu trại nuôi cừu. Đố ai tìm được hắn ta”.
“Người ta treo giải một nghìn đôla nếu ai bắt được hắn đấy”, Ogden nói.
“Tôi không cần loại tiền ấy”, tôi nói, nhìn thẳng vào mặt người chủ cừu. “Một tháng ông trả cho tôi hai mươi đôla là đủ rồi. Tôi cần nghỉ ngơi, vả lại tôi có thể dành dụm đến khi đủ tiền để trả tiền tàu đi Texarkana, nơi bà mẹ góa bụa của tôi đang sống. Nếu Bill Đen”, tôi nói tiếp, nhìn Ogden đầy ý nghĩa, “mà đi theo con đường này, giả dụ cách đây độ một tháng và mua một trang trại nuôi cừu và…”
“Câm họng đi”, Ogden nói, nhảy phắt khỏi ghế và nhìn dữ tợn. “Có phải anh định ám chỉ…”
“Không”, tôi nói, “không ám chỉ gì hết. Cứ coi như một liều tiêm dưới da thôi. Tôi nói giả dụ Bill Đen mà đến đây và mua một trại nuôi cừu, đối xử với tôi thẳng thắn và tử tế như ông đây, thì ông ta chẳng có gì phải sợ tôi. Người vẫn là người, dù cho anh ta có mắc mứu gì với cừu hay với tàu hoả cũng không sao. Bây giờ ông biết lập trường của tôi rồi”.
Ogden nhìn, mặt xám ngoét như món cà phê phải uống cho nhanh ở ngoài lều trại, rồi cười vui vẻ.
“Đúng, anh sẽ làm như vậy, Saint Clair ạ”, hắn nói. “Nếu tôi có là Bill Đen, tôi hoàn toàn tin ở anh, không có gì phải lo cả. Tối nay chúng ta chơi độ một, hai ván thôi. Ồ mà nếu anh thấy không có gì đáng ngại phải chơi với một tên cướp”.
“Tôi đã nói với ông tình cảm của tôi, không có gì mờ ám trong tình cảm đó cả”, tôi nói.
Trong lúc tôi còn đang chia bài sau ván thứ nhất, tôi hỏi Ogden, làm như vô tình là hắn ta từ đâu tới.
“À”, hắn ta nói, “từ thung lũng sông Mississippi”.
“Chốn ấy cũng đẹp đấy chứ”, tôi nói. “Tôi cũng thường hay dừng chân ở đấy. Nhưng ông có thấy là ở đấy khá ẩm ướt, thức ăn thức uống nghèo nàn không? Tôi từ bờ Thái Bình Dương đến đây. Ông đã ở đấy bao giờ chưa?”.
“Chỉ rặt gió là gió”, Ogden nói. “Nhưng nếu anh có đến miền Trung Tây, chỉ cần nhắc đến tôi là có chỗ sưởi chân và được uống cà phê phin ngay”.
“Ồ được”, tôi nói, “tôi không đi tìm số điện thoại riêng của ông và cái tên đệm giữa của bà cô đã quyến rũ viên mục sư giáo hội Trưởng lão Cumberland đâu. Không sao. Tôi chỉ muốn ông biết là ông được an toàn trong bàn tay của người chăn cừu của ông. Này, đừng có lấy quân cơ đánh quân bích, mà đừng có lo lắng thế”.
“Cứ lải nhải mãi”, Ogden nói, lại cười. “Thế anh không cho rằng nếu tôi là Bill Đen và nghĩ rằng anh nghi ngờ tôi, mà trong tay tôi lại có viên đạn súng Winchester thì tôi kết liễu đời anh và chấm dứt sự lo lắng của tôi sao?”.
“Không”, tôi nói. “Một người mà đã có gan cướp đoàn tàu một cách đơn độc không bao giờ lại chơi xỏ nhau thế cả. Tôi đã từng sống lang thang đây đó nên biết họ là loại người biết đánh giá bạn bè. Hơn nữa, tôi đâu dám coi mình là bạn của ông, ông Ogden ạ. Tôi chỉ dám coi mình là người chăn cừu của ông thôi; nhưng trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn, biết đâu chúng ta có thể là bạn của nhau rồi”.
“Tôi yêu cầu tạm thời hãy quên đàn cừu đi”, Ogden nói. “Thôi chia bài đi”.
*
* *
Khoảng bốn ngày sau, trong lúc đàn cừu của tôi đang nghỉ trưa trên vũng nước, còn tôi đang lúi húi tranh thủ pha ấm cà phê, bỗng có một người bí mật đi nhẹ nhàng trên cỏ, mặc bộ quần áo mà người đó muốn tỏ ra mình là ai. Quần áo anh ta ở điểm trung gian giữa một thám tử thành phố Kansas, một ông bầu gánh xiếc, và một người được cửa ra nhốt chó cho thành phố Baton Rouge. Cằm và mắt anh ta biểu hiện tư thế chiến đấu, do đó tôi biết người đó chỉ là một gã mật vụ.
“Chăn cừu hả?”, người đó hỏi tôi.
“Vâng”, tôi nói, “trước một con người tinh đời như ông, tôi không dám nói mình làm việc đánh bóng đồng thau hay tra dầu mỡ cho xe đạp”.
“Trông cách ăn nói và dáng dấp của anh không có vẻ gì là người chăn cừu cả”, người đó nói.
“Nhưng ông nói thì tôi đoán ngay ra ông là ai”, tôi nói.
Rồi người đó hỏi tôi đang làm việc cho ai, tôi liền chỉ tay về phía trang trại Chiquito cách đấy độ hai dặm núp dưới bóng một ngọn đồi thấp, sau đó người đó bảo với tôi rằng ông ta là phó cảnh sát quận.
“Có một tên cướp tàu tên là Bill Đen hiện nay đang ẩn nấp đâu đây”, gã cảnh sát nói. “Hắn bị truy lùng đến tận San Antonio và có thể còn xa hơn nữa. Thế anh có nhìn hay nghe thấy kẻ lạ mặt nào quanh đây vào tháng trước không?”
“Không”, tôi nói, “trừ có một thông báo về một người ở khu Mexico của trại Loomis trên sông Frio”.
“Anh biết gì về người đó?”, viên cảnh sát lại hỏi.
“Chẳng hay biết tí gì”, tôi nói.
“Người mà anh đang làm thuê trông ra sao? Ông già George Ramey còn sở hữu cái khu này không? Ông ta nuôi cừu ở đây đã mười năm rồi, nhưng chưa bao giờ làm ăn phát đạt cả”.
“Ông già đã bán khu này và đi về Miền Tây rồi”, tôi nói. “Một người ưa chuộng chuyện nuôi cừu khác đã đến mua khu này cách đây một tháng”.
“Trông ông ta thế nào?”, viên cảnh sát phó gặng hỏi.
“Ồ”, tôi nói, “đó là một người gốc Hà Lan to béo, ria để dài và đeo kính râm. Theo tôi ông ta chẳng biết gì về cừu đâu. Tôi nghĩ ông già George cũng bán cho ông ta với cái giá cắt cổ đấy”, tôi nói.
Sau khi tôi cung cấp cho ông ta những tin chẳng ra đâu vào đâu và ăn gần hết bữa cơm thì ông ta cưỡi ngựa đi.
Tối hôm đó, tôi nói lại chuyện đó cho Ogden nghe.
“Họ đang lần dấu vết của Bill Đen”, tôi nói. Sau đó tôi kể cho ông ta nghe về viên phó cảnh sát, cách tôi tả hình dáng của ông ta cho viên cảnh sát nghe và viên cảnh sát phó đã có ý kiến gì về vấn đề này.
“Ồ, hay lắm”, Ogden nói, “thôi chúng ta đừng có chuốc lấy rắc rối của Bill Đen làm gì. Chúng mình có mấy người với nhau thôi mà. Anh vào lấy trong tủ bupphê ra đây chai buôcbông và ta hay uống chúc sức khỏe cho ông ta - trừ phi”, ông ta nói, cười khúc khích, “anh thành kiến với những người ăn cướp trên tàu”.
“Tôi sẽ uống chúc ai có lòng mong muốn người với người là bạn”, tôi nói. “Và tôi tin rằng Bill Đen sẽ là người như vậy. Bây giờ tôi xin nâng cốc chúc Bill Đen, chúc anh ta gặp may mắn”.
Cả hai chúng tôi nâng cốc uống.
*
* *
Hai tuần sau đến thời kì xén lông cừu. Cừu được đưa đến trại và nhiều người Mexico đầu tóc bù xù đến, dùng kéo cắt ngược lông. Vì vậy, vào chiều hôm trước khi những người thợ đó đến, tôi lùa vội những con cừu chưa xén lông qua đồi, rồi qua thung lũng nhỏ, xuống con suối ngoằn ngoèo rồi lại leo ngược lên khu trại, sau đó nhốt chúng vào bãi quây và chào tạm biệt chúng. Lúc đó trời đã tối.
Tôi về khu trại, thấy H. Ogden đang nằm ngủ trên một chiếc giường nhỏ. Tôi nghĩ có lẽ hắn ta bị cơn bệnh ngủ nhiều, còn gọi là phản mất ngủ, hay một số bệnh chỉ có làm nghề nuôi cừu mới có. Mồm và áo vét của hắn đều mờ và hắn thở như cái bơm xe đạp cũ. Tôi nhìn vào hắn ta và thả cho những ý nghĩ ngộ nghĩnh có dịp bộc lộ. “Hoàng đế Caesar cũng ngủ như thế thôi, chỉ có điều phải ngậm mồm, cho gió khỏi lọt vào mà thôi”.
Người đàn ông nằm ngủ rõ ràng là cảnh khiến cho các thiên thần phải khóc. Không hiểu tất cả những thứ như trí óc, cơ bắp, sống lưng, thần kinh, sự ảnh hưởng và những mối quan hệ gia đình còn ý nghĩa gì không? Anh ta nằm phó mặc vận mệnh cho kẻ thù, còn hơn thế, cho bạn bè định đoạt. Và anh ta đẹp gần như là con ngựa kéo xe đứng gần rạp hát thành phố vào lúc mười hai giờ rưỡi sáng, mơ về những cánh đồng Ả Rập. Còn người đàn bà nằm ngủ ta thấy khác hẳn. Dù cho mặt mũi cô nàng có trông như thế nào, ta vẫn cứ muốn nhìn cô ta nằm nguyên như thế càng lâu càng tốt.
Sau đó tôi cạn một chén rượu buôcbông và một chén khác vì Ogden, rồi rúc vào nhà nghỉ, kệ cho hắn đánh một giấc trưa. Trên bàn hắn để vài cuốn sách về những chủ đề xa lạ như Nhật Bản, cống rãnh, thể dục - và một ít thuốc lá sợi, mà có lẽ cái sau cùng mới là cái chính.
Ngồi hít mấy hơi thuốc và nghe H. Ogden thở phì phò, tôi vô tình nhìn ra ngoài cửa sổ về phía bãi quây cừu, nơi có một con đường mòn tiếp con đường chạy qua một thung lũng con ở phía xa.
Tôi thấy có năm người đang cưỡi ngựa về phía căn nhà. Tất cả đều quàng súng qua yên ngựa, trong đó có cả viên cảnh sát phó mà tôi đã nói chuyện ngoài trại.
Họ tiến cẩn thận, theo đội hình tấn công, súng lăm lăm. Đặc biệt tôi nhìn chăm chú vào một người tôi tin chắc đấy là ông trùm của đội kị Binh giữ gìn an ninh trật tự này.
“Xin chào các ngài”, tôi nói. “Xin mời các ngài xuống ngựa”.
Ông trùm cưỡi ngựa tiến sát đến chĩa họng súng vào mũi tôi.
“Không được động đậy, sau khi ngươi và ta đã có một cuộc trao đổi cần thiết”.
“Tôi sẽ không động đậy”, tôi nói. “Tôi không câm điếc, vì vậy không việc gì phải cưỡng lại lệnh của ngài”.
“Chúng tôi đang truy lùng Bill Đen, kẻ đã cướp mười lăm nghìn đôla trên tàu của Công ty K.T. vào tháng năm. Chúng tôi đang đi lục soát các trang trại và mọi người ở đây. Tên anh là gì và anh làm gì trên cái trại này?”.
“Thưa đại úy”, tôi nói, “Percival Saint Clair là nghề của tôi và tên tôi là chăn cừu. Tôi chăm đàn bê, à không đàn cừu, tôi nay được mang nhốt ở đây. Những người kiểm soát ngày mai sẽ đến để xén lông, bằng rư… ợu thì phải”.
“Ông chủ trại này đâu?”, viên đại úy hỏi.
“Xin ngài chờ một tí, ngài đại úy”, tôi nói. “Thế không có giải thưởng cho ai bắt được kẻ liều lĩnh mà ngài có nói trong lời nói đầu của ngài à?”.
“Có treo giải một nghìn đôla”, viên đại úy nói, “nhưng đấy là thưởng cho ai bắt và đem hắn ra nộp. Chứ không có điều khoản nào nói về việc thưởng cho ai chỉ điểm cả”.
“Trời trông như ngày một ngày hai nữa thì mưa ấy”, tôi nói, mệt mỏi nhìn lên bầu trời xanh.
“Nếu anh biết địa điểm, tính tình hay cái mật danh của tên Bill Đen này”, ông ta nói nghiêm nghe đặc giọng địa phương, “mà không bẩm báo thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
“Tôi có nghe thấy một người chăn ngựa”, tôi nói, giọng không được mạch lạc, “kể là có một người Mexico bảo với cậu bé chăn bò tên là Jake bên cửa hàng ở phố Nueces rằng ông ta có nghe thấy người anh họ của một người chăn cừu nói đã nhìn thấy Bill Đen ở Matamoras cách đây hai tuần”.
“Nghe tôi nói đây, anh chàng Miệng Ngậm Tăm ạ”, viên đại úy nói, nhìn tôi một lượt rồi mặc cả, “nếu anh chỉ cho chúng ta tóm được Bill Đen, ta sẽ lấy tiền túi của ta, à của bọn ta thưởng anh một trăm đôla. Thế là hào phóng rồi đấy. Anh chẳng mất cái gì cả. Nào, nói đi”.
“Đặt tiền ra chứ”, tôi hỏi.
Viên đại úy bàn bạc gì đó với những người cùng đi, rồi sau đó tôi thấy họ dốc túi ra. Kết quả họ có tất cả một trăm linh hai đồng ba hào tiền mặt và thuốc lá bánh trị giá ba mươi mốt đôla.
“Lại gần đây, đại úy”, tôi nói, “và nghe đây”. Viên đại úy tiến lại gần.
“Tôi nghèo rớt và là kẻ hèn hạ ở trên đời này”, tôi nói. “Tôi làm việc để mong kiếm mỗi tháng mười hai đôla, chăn đàn súc vật, mà bọn cừu này lúc nào cũng chỉ nghĩ làm sao tách nhau ra thôi, dù cho tôi có tự cho mình có gì khấm khá hơn cái bang Nam Dakota thì cũng thấy vận mình sa sút, từ xưa đến nay chỉ tiếp xúc với cừu dưới dạng những miếng thịt sườn. Sở dĩ có cái cảnh bĩ cực ấy cũng là do những tham vọng của mình bị tan thành mây khói, tại đủ các loại rượu người ta bày suốt dọc đường trên tàu của Công ty Đường sắt PRR từ Scranton đến Cincinnati, nào rượu rum, nào rượu gin, nào vécmút Pháp, ông ạ. Nếu ông có đi theo con đường ấy, đừng quên thử xem sao. Vả lại tôi không bao giờ phản thùng bạn bè cả. Tôi ở bên họ khi họ dư dật, và khi vận nghịch đến với tôi, tôi cũng không bao giờ bỏ rơi họ”.
“Nhưng”, tôi nói tiếp, “đây hoàn toàn không phải trường hợp một người bạn. Mười hai đôla một tháng chỉ là món tiền gọi là quen thuộc sơ sơ thôi. Tôi cũng không coi những hạt đậu nâu và bánh ngô là thức ăn của tình bạn. Tôi là kẻ nghèo”, tôi nói, “và tôi có một mẹ già góa bụa ở Texarkana. Ngài sẽ tìm thấy Bill Đen đang nằm ngủ trong căn nhà này, trên một cái giường con trong buồng về phía bên phải ngài. Đó chính là người ngài cần, vì qua lời nói và những buổi nói chuyện tôi biết đúng hắn ta rồi. Hắn ta cũng phần nào đó gọi là bạn được”, tôi giải thích, “và nếu tôi là con người trước kia thì toàn bộ sản phẩm của các khu mỏ vàng Gondola cũng chẳng quyến rũ nổi tôi phản bội hắn ta. Nhưng hàng tuần có đến một nửa số đậu tôi ăn có sâu và đêm không có đủ củi sưởi ngoài lều trại”.
“Nên đi vào cẩn thận, các ngài ạ”, tôi nói, “có những lúc hắn ta có vẻ rất sốt ruột và khi ta mà nghĩ đến hành động ăn cướp chuyên nghiệp vừa qua của hắn, chắc ta sẽ có những hành động kịp thời nếu đột nhiên bắt gặp hắn”.
Toàn đội cảnh sát xuống ngựa và buộc ngựa lại, sau đó tháo vũ khí đạn dược ra, rón rén đi vào nhà. Còn tôi thì đi theo, cứ như nàng Delilah phản bội, nộp Samson cho những tên Philip Stein.
Viên đội trưởng lay lay đánh thức Ogden dậy. Và khi hắn chồm dậy, thêm hai người đi săn giải thưởng nữa tiến đến tóm hắn. Mảnh khảnh vậy mà hắn rất khỏe và hắn dùng chân đánh bạt cả viên cảnh sát đi, trông ngon lành chưa từng thấy.
“Thế này là thế nào?”, hắn nói, sau khi họ lôi hắn xuống.
“Ông đã bị bắt, ông Bill Đen ạ”, viên đại úy nói. “Chỉ có thế thôi”.
“Đây là một sự xúc phạm trắng trợn”, H. Ogden nói, càng vùng vẫy điên cuồng hơn.
“Đúng vậy”, con người ưa chuộng hoà bình và có thiện chí nói. “Đoàn tàu của Công ty K.T. không làm phiền ông, nhưng còn có luật để chống lại việc táy máy những cái gói tiền trên chuyến tàu tốc hành chứ?”
Sau đó ông ta ngồi lên bụng Ogden và lần lượt sờ khắp các túi của hắn một cách cẩn thận.
“Tôi sẽ làm cho các ông phải toát mồ hôi ra vì chuyện này”, Ogden nói, người hắn cũng thấy toát mồ hôi. “Tôi sẽ chứng minh tôi là ai”.
“Ta cũng có thể làm được”, viên đại úy nói, khi ông ta rút từ trong túi áo khoác của H. Ogden một nắm đầy những tiền mới toanh của Nhà băng Quốc gia Thứ hai của thành phố Espinosa. “Những thiếp mời in nổi vào ngày thứ Ba và thứ Sáu của nhà ngươi cũng không thể chứng minh hùng hồn bằng những đồng tiền này. Bây giờ ngươi có thể ngồi dậy và chuẩn bị đi theo chúng tao đến nơi thanh toán tội ác của ngươi”.
Ogden đứng dậy, nắn lại khăn quàng cổ. Sau đó hắn không nói gì nữa khi họ đã lấy hết tiền khỏi người hắn.
“Một ý đồ vô cùng trơn tru”, viên đại úy nói, tỏ vẻ tán thưởng. “Xuống ẩn náu tại nơi này và mua một trại cừu nhỏ để không ai có thể tìm ra tung tích. Thật là một nơi ẩn náu khôn ngoan nhất đấy”.
Rôi một viên cảnh sát đến chuồng xén lông, lùng được một người chăn cừu khác, một người Mexico tên gọi là John Sallies, bảo anh ta đóng yên ngựa của Ogden, sau đó tất cả cảnh sát cưỡi ngựa sát quanh hắn, súng lăm lắm trong tay, chuẩn bị đưa tù nhân về thành phố.
Trước khi lên đường, Ogden trao cái trại cho John Sallies cai quản và bảo anh ta xén lông cừu, dẫn đàn cừu đi gặm cỏ ở đâu, cứ như hắn ta có ý định đôi ba ngày nữa sẽ quay lại. Và một hai giờ sau người ta có thể thấy một Percival Saint Clair, một người chăn cừu cũ của trang trại Chiquito, có một trăm đôla tiền thưởng ở trong túi, cưỡi trên con ngựa khác của trại đó về phía nam.
*
* *
Người mặt đỏ dừng lại và lắng nghe. Tiếng còi của chuyến tàu hàng vang lên xa xa giữa những khu đồi thấp.
Người béo tốt, buồn bã ngồi bên cạnh khịt khịt mũi, rồi từ từ lắc cái đầu bẩn một cách khinh miệt.
“Gì thế, Snipy?”, người kia hỏi. “Lại buồn chán gì rồi?”.
“Không phải”, người buồn trả lời, lại khịt khịt mũi. “Nhưng tôi không thích câu chuyện của cậu. Tôi và cậu là bạn của nhau, tuy rằng có những lúc xa nhau, trong mười lăm năm trời; và tôi chưa bao giờ nghe chuyện cậu đi khai báo người khác cho pháp luật cả - một người cũng chưa. Vậy mà đây lại là một người đã cho cậu ăn và đã ngồi bên chiếu bạc, cứ cho là thế đi, đánh bạc với cậu. Thế mà cậu lại đi bẩm báo người đó để được tiền thưởng. Tôi nghĩ, cậu chẳng bao giờ lại như thế cả”.
“Sau này tôi có nghe nói rằng anh chàng H. Ogden”, người mặt đỏ kể tiếp, “nhờ có một luật sư và nhờ vào những điều luật khác, đã chối phăng lúc đó mình không có mặt ở đấy và anh ta đã vô tội. Anh ta đã giúp tôi, vậy mà tôi lại ghét anh ta và khai báo anh ta”.
“Thế còn những đồng tiền họ tìm thấy ở trong túi anh ta thì sao?”, người buồn hỏi.
“Tôi để vào đấy”, người mặt đỏ trả lời, “trong lúc anh ta đang ngủ, vì tôi thấy có cảnh sát đang đi ngựa lại. Tôi mới là Bill Đen, Snipy, tàu đến kia rồi! Chúng ta lên ngồi ở chỗ hãm xung trong lúc tàu còn lấy nước đi!”
[COLOR=red"]Mối tình của ngài khoán dịch viên[/COLOR]
Nguyên tác: The Romance of a Busy Broker
Dịch giả: Trần Thanh Phương
Bộ mặt thường ngày vẫn kín đáo của Pitcher, thư ký văn phòng của ngài khoán dịch viên Harvey Maxwell, trong một giây thoáng lộ vẻ thú vị và ngạc nhiên, khi vào lúc chín giờ rưỡi sáng Maxwell bước nhanh vào phòng cùng với cô tốc ký trẻ. Vừa đốp một câu “chào Pitcher” ông ta vừa đâm bổ tới chiếc bàn làm việc như muốn nhảy vọt qua rồi ngay lập tức chúi đầu vào một biển những điện báo và thư từ đang chờ đợi ông ta.
Cô tốc ký trẻ làm việc cho Maxwell đã được một năm. Sắc đẹp của cô tuyệt nhiên không có gì dính dáng đến cái nghề tốc ký cả. Cô coi khinh vẻ lộng lẫy của kiểu chải tóc pompadour. Cô không đeo dây chuyền, không đeo vòng xuyến hay kim khánh. Cô không có cái vẻ trau chuốt của một người lúc nào cũng sẵn sàng nhận lời mời đi ăn tiệm. Chiếc váy màu ghi giản dị ôm sát thân hình cô một cách duyên dáng và khiêm nhường. Chiếc mũ xếp đen trang nghiêm được tô điểm bằng một lông vẹt màu xanh. Sáng hôm đó cô tươi tắn như tỏa ra một luồng ánh sáng dịu dàng, e thẹn. Đôi mắt cô ánh lên vẻ mơ mộng, đôi má ửng hồng như hai trái đào, và sự hồi tưởng còn như vương trên khuôn mặt hạnh phúc của cô.
Quan sát cô tốc ký với một sự thú vị có mức độ như vậy Pitcher nhận thấy sáng hôm đó thái độ của cô không được hoàn toàn bình thường. Đáng lẽ đi thẳng sang phòng bên, nơi làm việc của mình, thì cô ta, dường như đang chờ đợi điều gì đó, lại chần chừ ở văn phòng. Thậm chí, một lần cô tiến đến bàn của Maxwell – gần tới mức để ông ta có thể nhận ra cô.
Thế nhưng, người đàn ông đang ngồi sau bàn lúc này không còn là một con người nữa. Đó là ngài khoán dịch viên New York đang ngập đầu trong công việc – một cỗ máy đang chuyển động bởi các lò xo và bánh răng.
- Hừ! Thế nào? Có việc gì? – Maxwell xẵng giọng hỏi. Những bức thư đã bóc nằm đầy trên bàn ông ta như một đống tuyết giá. Đôi mắt sắc màu ghi, thô bạo và không bản sắc, sáng quắc lên nhìn cô gần như tức giận.
- Dạ, không có gì ạ. – Cô trả lời và mỉm cười quay đi.
- Ông Pitcher này, – cô nói với viên thư ký, – chiều qua ngài Maxwell đã nói với ông về việc mời một nữ tốc ký mới chưa?
- Nói rồi. – Pitcher đáp – Ông ấy có sai tôi tìm một nữ tốc ký mới. Chiều hôm qua tôi đã nhắn phòng tốc ký gửi cho chúng ta một vài mẫu để chọn. Bây giờ đã mười giờ bốn mươi lăm rồi mà vẫn chưa thấy bóng dáng một cô nàng nào.
- Vậy tôi sẽ làm việc, như bình thường, – người phụ nữ trẻ nói, – khi chưa có ai thay.
Rồi ngay lập tức cô đi về bàn làm việc của mình và treo cái mũ xếp đen có chiếc lông vẹt xanh lên chỗ mọi ngày.
Ai chưa nhìn thấy ngài khoán dịch viên New York trong những giờ làm việc cao điểm trong cơn sốt chứng khoán, người đó không thể tự coi mình là sành sỏi về nhân chủng học. Nhà thơ vẫn nói về “một giờ trọn vẹn trong cuộc đời vinh hiển”. Còn đối với ngài khoán dịch viên, không chỉ cả giờ trọn vẹn mà từng phút từng giây trong đó đều vô cùng căng thẳng như được buộc lại và treo lên những cái giá đệm và giá đỡ.
Hôm nay là một ngày nóng bỏng đối với Harvey Maxwell. Chiếc máy điện báo hối hả nhả băng, điện thoại trên bàn đến khốn khổ với những hồi chuông triền miên. Từng toán người lũ lượt kéo vào văn phòng và nói chuyện với ông qua rào chắn – người thì vui vẻ, kẻ lại bực dọc, người thì cục cằn, kẻ lại xúc động. Các viên tùy phái chạy ra chạy vào với các bức điện. Các nhân viên văn phòng lao vùn vụt như các thủy thủ khi có bão. Ngay đến diện mạo của Pitcher cũng thể hiện một cái gì đó sôi động.
Giông tố, đá lở và bão tuyết, động đất và núi lửa đã dồn tụ vào ngày hôm đó ở sở giao dịch chứng khoán, và tất cả những sự lộn xộn này của thiên nhiên đã được thu nhỏ lại trong văn phòng của ngài khoán dịch viên. Maxwell đặt ghế sát tường và, vừa nhón chân ông ta vừa ký vào các hợp đồng. Ông ta nhảy từ máy điện báo đến điện thoại, từ bàn đến cửa ra vào với sự khéo léo thuần thục của một diễn viên xiếc.
Giữa lúc sự căng thẳng đang lên cao ngài khoán dịch viên bỗng nhìn thấy trước mặt một bờm tóc vàng ẩn dưới chiếc mũ bằng nhung và lông đà điểu, chiếc xắc bằng lông sư tử biển và một trái tim bạc nằm ở đầu của một chuỗi các hạt cườm to như quả hồ đào dài gần chấm đất. Những đồ trang sức rườm rà này gắn liền với một người đàn bà đầy vẻ tự tin. Pitcher cũng đứng ngay tại đó sẵn sàng giải thích về việc này.
- Bà ta từ phòng tốc ký, đến xin việc. – Pitcher nói.
Maxwell ngoái lại, hai tay ông ta đầy những thư từ và băng điện báo.
- Việc nào? – Ông ta cau có hỏi.
- Chân tốc ký ạ. – Pitcher nói – Hôm qua ngài nói là trong ngày hôm nay tôi phải triệu tập tới đây một cô tốc ký mới.
- Anh điên đấy à, Pitcher? – Maxwell nói. – Làm sao tôi có thể ra lệnh cho anh như vậy? Cô Leslie suốt cả năm đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ của mình. Chừng nào cô ấy chưa muốn ra đi thì chỗ này vẫn là của cô ấy. Thưa bà, chúng tôi không cần người. Hãy báo cho phòng tốc ký, Pitcher, không cần điều ai tới và đừng có dẫn thêm một người nào đến gặp tôi nữa.
“Trái tim bạc” phẫn nộ bỏ ra khỏi phòng. Bà ta ngúng nguẩy va bừa cả vào bàn ghế. Nhân lúc đó Pitcher nói với viên kế toán rằng “lão già” đúng là ngày càng lẩm cẩm và đãng trí.
Ngày làm việc mỗi lúc thêm sôi động. Tại sở giao dịch người ta giẫm đạp và tranh cướp nhau từng nửa tá cổ phiếu các loại mà khách hàng của Maxwell đã đầu tư vào những khoản tiền lớn. Lệnh mua và bán ra bay tới bay lui như cánh én. Túi tiền của Maxwell phần nào bị lâm nguy, và ông ta làm việc như một cỗ máy lớn, phức tạp, tinh vi, những lời nói, những quyết định, những hành động tuôn ra nối tiếp nhau với sự mau lẹ và chính xác của một bộ máy đồng hồ. Cổ phiếu và chứng khoán, công trái và các quỹ tiền, văn tự cầm cố và tiền cho vay – đó là thế giới tài chính, ở đó không có chỗ cho thế giới con người và thế giới thiên nhiên.
Gần đến giờ ăn trưa, công việc bỗng lắng xuống một lúc.
Maxwell đứng bên bàn, hai tay đầy ắp giấy tờ và điện báo; chiếc bút máy quanh năm thòi ra ngoài vành tai phải, từng cụm tóc rối bù lòa xòa trước trán. Cửa sổ được để ngỏ vì mùa xuân đáng yêu đang túc trực ngoài cửa đã vặn chặt các lò sưởi lại và một chút hơi ấm vẫn còn lan tỏa khắp mặt đất theo các đường ống của hệ thống sưởi trung tâm.
Hương tử đinh hương phảng phất, dìu dịu, rất có thể do nhầm lẫn mà lạc qua cửa sổ vào phòng và trong một giây đã chôn chân ngài khoán dịch viên tại chỗ. Vì rằng hương thơm này là của cô Leslie. Đó là hương thơm của cô ấy và chỉ của cô ấy mà thôi.
Hương thơm đã mang cô ta – gần như nhìn thấy được và sờ mó được – lại cho ông và đặt trước mặt ông. Thế giới tài chính bỗng thu lại thành một chấm nhỏ. Còn cô ấy thì ở ngay phòng bên, chỉ cách có hai mươi bước chân.
- Lấy danh dự mà thề, ta sẽ làm điều đó. – Ngài khoán dịch viên nhủ thầm – Ta sẽ hỏi cô ấy ngay bây giờ. Thật lạ, tại sao bấy lâu nay ta không làm điều đó?
Ông ta đâm bổ vào phòng cô tốc ký với sự vội vã của tay chơi cổ phiếu muốn “làm cho xong” trước khi người khác nẫng tay trên. Ông ta xông tới bàn của cô.
Cô tốc ký ngước nhìn ông mỉm cười. Má cô thoáng ửng hồng, và cái nhìn của cô vừa âu yếm vừa thẳng thắn. Maxwell chống khuỷu tay lên bàn. Hai tay ông ta vẫn giữ nguyên chồng giấy, và chiếc bút máy vẫn thòi ra khỏi vành tai.
- Cô Leslie, – ông ta vội vã bắt đầu – tôi chỉ có đúng một phút. Tôi cần phải nói với cô đôi lời. Hãy làm vợ của tôi! Tôi không có thời giờ để tình tự với em, điều mà lẽ ra tôi phải làm, nhưng quả thật tôi rất yêu em, hãy trả lời tôi mau lên, cái bọn vô lại ở công ty “Thái Bình Dương” đang thở hắt ra rồi.
- Anh nói gì kỳ vậy? – Cô tốc ký thốt lên. Cô ta đứng dậy, nhìn ông bằng đôi mắt mở to.
- Em không hiểu tôi ư? – Maxwell hờn giận hỏi. – Tôi muốn em sẽ làm vợ của tôi. Leslie, tôi yêu em. Đã từ lâu tôi muốn nói với em và lúc này tôi tranh thủ được một phút rảnh rỗi, khi mà ở bên kia, trong văn phòng, công việc tạm ngừng một lúc. Đấy đấy, người ta lại gọi tôi nghe điện thoại… Pitcher, bảo họ đợi một chút… Leslie, sao em?
Cô tốc ký cư xử rất kỳ lạ. Thoạt tiên cô ta dường như rất kinh ngạc, rồi thì những giọt nước mắt trào ra từ đôi mắt ngỡ ngàng của cô, sau đó cô cười rạng rỡ qua làn nước mắt và một tay âu yếm quàng lấy cổ ông.
- Em hiểu rồi. – Cô dịu dàng nói – Cái sở giao dịch chứng khoán này đã loại tất cả mọi cái còn lại ra khỏi đầu óc anh. Thế mà thoạt tiên em hốt quá. Harvey, chẳng lẽ anh quên rồi sao? Chúng ta mới làm lễ đính hôn tối hôm qua, lúc tám giờ tối tại Nhà thờ nhỏ ngoài góc phố.
Đoàn tàu tốc hành buổi chiều dừng lại bên trạm bơm nước cách Tucson hai mươi dặm về phía tây để lấy nước. Ngoài nước ra, chiếc đầu máy của con tàu nhanh nổi tiếng này còn mang theo đôi thứ không lấy gì làm bổ ích lắm cho nó.
Trong lúc anh thợ đốt lò tháo chiếc vòi mềm dẫn nước thì Bob Tidball, “Cá mập” Dodson và một người lai da đỏ từ bộ lạc Cricơ biệt hiệu John Đại Cẩu trèo lên đầu máy và chĩa ba đầu lỗ tròn của khẩu súng cá nhân vào các lái tàu. Điều này đã gây cho bác lái tàu một ấn tượng mạnh đến nỗi ngay tức khắc bác ta giơ hai tay lên trời, giống như người ta vẫn làm khi kêu lên: “Ô hay! Không thể như vậy được”. Theo mệnh lệnh ngắn gọn của “Cá mập” Dodson – tên cầm đầu toán cướp, bác lái tàu bước xuống đường ray và tách đầu máy và toa chở than ra. Rồi John Đại Cẩu trèo lên đống than, nghịch ngợm chĩa hai khẩu súng lục vào bác lái tàu và anh thợ đốt lò, ra lệnh cho họ lái đầu máy chạy cách xa đoàn tàu năm mươi yat và đợi lệnh tiếp theo.
“Cá mập” Dodson và Bob Tidball không thèm đếm xỉa đến thứ quặng nghèo vàng như đám hành khách. Chúng tiến thẳng về phía mỏ hạt sa khoáng ở trong toa thư. Viên trưởng toa trở tay không kịp. Ông này vẫn hoàn toàn tin tưởng là chuyến tàu tốc hành buổi chiều đã không thu nhận gì tai hại và nguy hiểm hơn nước lã. Trong lúc Bob Tidball dùng cán của khẩu côn đánh bật sự nhầm lẫn nguy hại này ra khỏi đầu ông ta, “Cá mập” Dodson không để phí thời gian, đã đặt khối thuốc nổ xuống dưới chiếc két sắt của tem thư.
Chiếc két sắt nổ vỡ toang đã cho ra ba mươi ngàn đôla lợi nhuận ròng bằng vàng và tín phiếu. Đây đó các hành khách thò cổ ra ngoài cửa sổ xem tiếng sấm rền vang này ở đâu ra. Viên phó tàu giật dây chuông, nhưng cái dây thừng, treo lơ lửng một cách không sinh khí, không thể hiện bất kỳ sự phản ứng nào. Quẳng những thứ ăn cướp được vào chiếc túi vải bạt chắc chắn, “Cá mập” Dodson và Bob Tidball nhảy xuống đất và chạy về phía đầu máy, chân vấp lia lịa trong những đôi giày gót cao.
Bác lái tàu, tuy hằm hằm nhưng vẫn ngoan ngoãn tuân theo lệnh của chúng, đã cho đầu máy chạy xa khỏi đám toa xe bất động. Nhưng trước đó viên trưởng toa thư, như bừng tỉnh khỏi cơn thôi miên, đã nhảy bổ đến một mô đất với khẩu súng trường Uynchextơ trong tay và tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu. John Đại Cẩu đã đi sai một nước cờ là ngồi trên toa than: hắn để lộ mình dưới luồng đạn và viên trưởng toa đã cho hắn ăn kẹo đồng ngay lập tức. Tên lục lâm cướp đường ngã lăn xuống đất vì bị viên đạn đúng giữa hai bả vai, và như vậy là phần ăn cướp được của mỗi tên đồng bọn của hắn đã tăng lên một phần sáu.
Cách trạm bơm nước hai dặm, bác lái tàu được lệnh dừng lại. Bọn cướp phẩy tay chào bác ta một cách khiêu khích và nhảy xuống theo một sườn dốc dựng đứng, rồi mất hút trong đám bụi cây rậm dày đặc bao quanh con đường. Năm phút sau, đi xuyên qua các bụi cây choparan làm cành cây gãy răng rắc, chúng đã có mặt ở chỗ rừng thưa, ở đó có ba con ngựa đã được buộc sẵn vào những cành cây thấp. Một con trong số đó đang đợi John Đại Cẩu mà bây giờ bất kể ngày cũng như đêm, không bao giờ hắn còn được cưỡi trên mình nó nữa. Sau khi tháo yên cương của con ngựa này, bọn cướp thả nó ra. Quẳng chiếc túi lên mỏ yên, chúng cưỡi lên hai con còn lại và phi vút đi, nhưng mắt vẫn láo liên nhìn quanh. Thoạt tiên chúng phóng qua một khu rừng, rồi sau đó qua một hẻm vực hoang dại, vắng ngắt. Đến đây con ngựa của Bob Tidball bị trượt trên một hòn đá bám đầy rêu và gãy một chân trước. Ngay tức khắc chúng bắn chết nó và ngồi xuống họp bàn. Đã đi được một đoạn đường dài, quanh co nên tạm thời chúng vẫn còn được an toàn, không cần phải vội vã. Những dặm đường và khoảng thời gian lớn đã ngăn cách chúng với ngay cả cuộc truy đuổi nhanh nhất. Lê sợi dây cương trên mặt đất và lắc lư mạn sườn, con ngựa của “Cá mập” Dodson ngoan ngoãn gặm cỏ bên bờ suối. Bob Tidball mở cái túi, và vừa cười như một đứa bé con, hắn vừa móc ra những cọc tín phiếu mới toanh được dán cẩn thận và một túi vàng con duy nhất.
- Hãy nghe đây, tên cướp già đời kia, – hắn vui vẻ gọi Dodson, – thế mà hoá ra mày có lý, công việc vậy là rất suôn sẻ. Chà, cái đầu của mày, đúng là đầu bộ trưởng tài chính. Với bất cứ ai ở Arizona này cũng có thể chấp cả một trăm điểm được đấy.
- Chúng ta làm gì với con ngựa bây giờ hả Bob? Không nên ngồi lâu ở đây. Trước lúc rạng đông bọn họ sẽ đuổi theo chúng ta.
- Hừm, con Bolivar của mày tạm thời cũng mang được cả hai đứa. – Bob vui vẻ trả lời. – Chúng ta sẽ chiếm lấy con ngựa nào bắt gặp đầu tiên. Mẹ kiếp, mẻ này cũng khá đấy chứ, phải không mày? Nếu tin vào dòng chữ được in trên giấy thì chỗ này là ba mươi ngàn, mỗi thằng mười lăm ngàn.
- Tao nghĩ sẽ hơn thế cơ đấy, – dùng mũi giày khẽ đá vào bọc tiền, “Cá mập” Dodson nói. Và hắn trầm ngâm nhìn hai bên sườn ướt đẫm của con ngựa mệt mỏi của hắn.
- Con Bolivar già nua gần kiệt sức rồi. – Hắn nói rành rọt từng chữ. – Tiếc là con ngựa hồng của mày gãy mất một chân.
- Còn phải nói, – Bob hồn nhiên đáp lời, – nhưng làm gì được với nó bây giờ. Con Bolivar của mày còn khỏe. Nó sẽ đưa chúng ta đến nơi cần thiết, và ở đó ta sẽ thay ngựa. Mẹ kiếp, mà kể cũng buồn cười, mày từ miền đông tới, xa lạ với vùng này, còn chúng tao ở miền tây, ngay tại quê nhà, thế mà chúng tao không đáng đi xách dép cho mày. Mày từ bang nào nhỉ?
- Bang New York, – ngồi xuống tảng đá tròn và nhai một cành cây, “Cá mập” Dodson đáp lại. – Tao sinh ra tại một điền trang vùng Onxtơ. Năm mười bảy tuổi tao bỏ nhà ra đi. Và tình cờ tao đã lọt đến miền tây. Với gói hành lý trong tay tao đi trên đường, những mong tới được New York. Tao nghĩ rằng tới được đó tao sẽ bắt đầu đi kiếm tiền. Tao luôn có cảm tưởng rằng tao sinh ra là để làm việc đó. Tao tới một ngã ba đường và không biết nên đi theo ngả nào. Suốt nửa giờ tao nghĩ ngợi quẩn quanh, rồi sau đó tao ngoặt sang bên trái. Đến tối thì tao đuổi kịp một gánh xiếc rong và thế là đi cùng với họ về miền tây. Tao vẫn thường nghĩ, cái gì sẽ xảy ra với tao nếu như lúc ấy tao chọn con đường khác?
- Theo tao, cũng sẽ như vậy thôi. – Bob Tidball trả lời một cách triết lý. – Vấn đề không phải ở con đường chúng ta chọn, mà là ở chính cái nằm trong lòng chúng ta dẫn tới việc chọn con đường.
Dodson đứng dậy và tựa vào một thân cây.
- Tao rất tiếc là con ngựa hồng của mày bị què cẳng, Bob ạ. – Hắn nhắc lại với vẻ thông cảm.
- Tao cũng vậy, – Bob đồng ý – con ngựa tuyệt thật. Thôi được, con Bolivar sẽ mang chúng ta đi. Có lẽ, cũng đến lúc khởi hành rồi đấy, “Cá mập” ạ. Bây giờ tao sẽ xếp hết tất cả những cái này vào túi và lên đường. Con cá đi tìm chỗ nước sâu, còn con người thì tìm chỗ nào tốt hơn.
Bob Tidball bỏ những thứ ăn cướp vào túi và buộc chặt lại bằng sợi dây thừng. Vừa ngước mắt lên, hắn nhìn thấy ngay nòng khẩu côn 45 mà cánh tay không hề run rẩy của “Cá mập” Dodson đang chĩa vào hắn.
- Bỏ cái trò đùa ấy đi. – Bob vừa cười gằn vừa nói. – Đến lúc phải đi rồi.
- Ngồi im tại chỗ! – “Cá mập” nói. – Bob, mày sẽ không đi khỏi nơi này. Tao rất phiền lòng phải nói ra điều đó, nhưng chỉ có chỗ cho một người. Con Bolivar kiệt sức rồi, nó không thể mang nổi hai đứa.
- Tao với mày là chiến hữu của nhau đã ba năm nay, “Cá mập” Dodson ạ. – Bob bình tĩnh trả lời. – Chúng ta đã cùng nhau liều mạng không phải chỉ một lần. Tao luôn thành thật với mày, nghĩ rằng mày là một con người. Tao đã nghe đôi điều không tốt về mày, hình như mày đã giết oan hai người chẳng có tội tình gì, nhưng tao không tin. Nếu mày đùa, “Cá mập” ạ, thì hãy cất ngay khẩu côn và chúng ta chạy cho mau. Còn nếu mày muốn bắn, thì bắn đi, đồ đểu, đồ nhện độc!
Bộ mặt của “Cá mập” Dodson lộ vẻ buồn sâu sắc.
- Chắc mày không tin đâu, Bob ạ, – hắn thở dài, – tao thật lòng tiếc là con ngựa hồng của mày bị gãy chân.
Và bộ mặt của hắn đột nhiên thay đổi – giờ đây nó biểu lộ sự tàn bạo lạnh lùng và lòng tham vô đáy. Trong một phút, tâm hồn của con người này đã lộ ra, giống như đôi khi, bộ mặt của một kẻ ác độc ló ra ngoài cửa sổ một ngôi nhà tư sản đáng kính.
Trong thực tế, số phận đã không cho Bob rời khỏi chỗ này được nữa. Tiếng súng của thằng bạn phản trắc đã vang lên và các vách đá của hẻm vực đã đáp lại bằng những hồi âm phẫn nộ. Còn kẻ tình cờ đồng lõa với tên giết người – con Bolivar đã nhanh chóng mang đi tên cuối cùng trong bọn cướp chuyến tàu nhanh buổi chiều – con ngựa đỡ phải mang tải trọng gấp đôi.
Nhưng khi “Cá mập” Dodson phi ngựa trong rừng, cây cối phía trước hắn dường như bị sương mù che khuất, khẩu súng lục trong tay bỗng biến thành cái tay vịn cong cong của chiếc ghế bành làm bằng gỗ sồi, miếng vải bọc yên thật là kỳ lạ, và mở mắt ra, hắn nhìn thấy chân hắn đang tì vào không phải là bàn đạp mà là chiếc bàn làm việc bằng gỗ sồi.
Vậy xin nói rằng, Dodson – chủ văn phòng chứng khoán “Dodson và Decker”, phố Uôn đã mở mắt ra. Peabody, viên thư ký tin cẩn đang đứng bên chiếc ghế bành, ngập ngừng muốn nói. Dưới cửa sổ tiếng bánh xe lăn ầm ầm, chiếc quạt máy kêu vo vo như ru ngủ.
- Hừm! Peabody, – chớp chớp mắt, Dodson nói. – Hình như tôi đã thiếp đi. Tôi đã thấy một giấc mơ cực kỳ lạ lùng. Có chuyện gì thế, Peabody?
- Dạ, thưa ông, ông Williams ở hãng “Tracy và Williams” đang đợi ông. Ông ta tới để thanh toán mấy cái X, Y, Z. Ông ta bị mắc kẹt với chúng, thưa ông, nếu ông nhớ ra.
- Phải, tôi có nhớ. Thế giá của chúng hôm nay là bao nhiêu?
- Thưa ông, một đôla tám mươi nhăm xu.
- Vậy hãy thanh toán cho ông ta theo giá đó!
- Xin ông tha lỗi, – Peabody hồi hộp nói, – tôi đã nói với ông Williams. Ông ấy là bạn cũ của ông, thưa ông Dodson, mà ông là người đã mua tất cả X, Y, Z. Tôi thiết tưởng giá ông, nghĩa là… Có lẽ, ông nhớ là ông ấy đã bán chúng cho ông với giá là chín mươi tám xu. Nếu ông ấy phải thanh toán theo giá hiện nay, ông ấy sẽ mất hết cả vốn liếng và đến phải bán cả ngôi nhà của mình.
Bộ mặt của Dodson đột nhiên thay đổi – giờ đây nó biểu lộ sự tàn bạo lạnh lùng và lòng tham vô đáy. Trong một phút, tâm hồn của con người này đã lộ ra, giống như đôi khi, bộ mặt của một kẻ ác độc ló ra ngoài cửa sổ một ngôi nhà tư sản đáng kính.
- Kệ cho ông ta trả với giá một đôla tám mươi nhăm xu. – Dodson nói. – Con Bolivar không thể mang được hai người.