TP- Xuân Lộc, tỉnh lỵ ở phía đông nằm gần Sài Gòn nhất là nơi diễn ra trận chiến ác liệt nhất vào ngày 8/4, trong lúc chính trường Sài Gòn vẫn nghiêng ngả mất định hướng.
Lý do buộc Thiệu từ chức
Ngày 5/4, Thủ tướng Khiêm từ chức vì bất đồng với Thiệu và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn được Thiệu chọn thay Khiêm là Thủ tướng.
Ngày 11/4, trận chiến Xuân Lộc vẫn ác liệt Cẩn lại cùng cố vấn mới của mình tổ chức họp báo quốc tế để tìm cách cải thiện hình ảnh của Sài Gòn với ngoại quốc.
Bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH thì hoàn toàn thoát ly khỏi thực tế. Đến ngày 14/4, nội các VNCH vẫn tê liệt, CIA Sài Gòn chỉ còn đối mặt với một vấn đề chính là di tản.
Về chuyện di tản, Polgar nhận ra cách nghĩ của Đại sứ Martin có sự xung đột với quan điểm của Washington. Nhận mật lệnh từ Kissinger phải thu xếp giảm số người Mỹ ở Phái bộ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam chỉ còn 1.250 vào ngày 19/4, Martin nói với Polgar rằng giờ đây ông ta có toàn quyền quyết định thiết lập điều mình muốn để duy trì tình hình.
Martin đề xuất giảm bớt lực lượng quân Mỹ hỗ trợ di tản nhưng đòi Nhà Trắng phải miễn cưỡng chấp nhận việc lập kế hoạch di chuyển bất kỳ người Việt nào làm cho Mỹ.
Polgar cũng không muốn người Việt bị lờ đi trong cuộc di tản, đồng thời lo ngại rằng Văn phòng Tùy viên Quân sự Mỹ (DAO) với trách nhiệm lập kế hoạch di tản đang bị cuốn vào tình huống “rời đi mà hoàn toàn không quan tâm tới yêu cầu di tản của người Việt”.
Khả năng này bồi thêm sự lo lắng của Polgar về việc di tản. “Càng nghĩ đến vấn đề này tôi càng tin chắc rằng CIA buộc phải đi theo hướng có một giải pháp chính trị cho cuộc di tản, thời gian thì không còn để trì hoãn nữa”-Polgar cay đắng.
Một yếu tố củng cố thêm nhận định của Polgar là việc tiên đoán rằng Quốc hội Mỹ sẽ không chấp nhận khoản viện trợ quân sự khẩn cấp cả gói cho VNCH mà Tổng thống Ford đệ trình vào phiên họp ngày 19/4 (tức 20/4 giờ Sài Gòn).
Hà Nội có thể tăng thêm sức mạnh và lực lượng nhanh hơn nhiều dự đoán của VNCH. Một thúc ép với Polgar lúc này là vẫn phải loại bỏ Thiệu và thiết lập một chính phủ liên hiệp có thể đàm phán ngừng bắn với Bắc Việt.
Nhưng Đại sứ Martin kiên quyết chống việc người Mỹ ép buộc Thiệu từ chức, nên Polgar phải dùng tiểu xảo đưa Martin đến việc buộc phải chấp nhận một thực tế phũ phàng.
Tổng hành dinh CIA gửi lại cho Polgar đầu bài của kế hoạch di tản và Polgar trả lời rằng đang phải đối phó với một áp lực mới từ nhu cầu di tản của một số người Việt là vợ của nhân viên CIA.
Polgar cũng báo cáo ông ta đã hoàn tất kế hoạch nhằm giảm số nhân viên CIA ở Nam Việt Nam còn 270 người, trong khi Kissinger yêu cầu ông Martin phải giảm số người duy trì trong Tòa Đại sứ Mỹ còn 1.500.
Ông Martin không có dấu hiệu sẽ giảm thêm người của CIA. Tuy nhiên, Martin buộc phải chấp nhận một điều là chiến thắng của Hà Nội đang đến rất gần mà ông ta vẫn chưa khuyến cáo Thiệu ra đi. Ngày 15/4, Polgar gửi cho Martin báo cáo của CIA Sài Gòn rằng Thiệu còn tại vị thì không thể có một chính phủ liên hiệp để đàm phán như người Mỹ mong muốn.
Báo cáo chốt lại với thông điệp tối hậu thư là “nếu không buộc Thiệu ra đi ngay thì người Mỹ sẽ đối mặt với thảm họa chỉ trong vòng một tuần nữa”. Nhưng thực tế thì Phan Rang vừa thất thủ, tư lệnh mới của lực lượng tử thủ ở đây, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, bị quân đội Bắc Việt bắt sống.
Và nguồn tin tình báo của Polgar ngày 16/4 cho biết, Bắc Việt sẽ tổng tấn công Sài Gòn “cho đến thắng lợi cuối cùng mà không quan tâm việc chính quyền Thiệu sụp đổ hay Nhà Trắng quyết định viện trợ quân sự khẩn cấp cho VNCH hay không”.
Tức là không có đàm phán ngừng bắn và không có chính phủ liên hiệp ba bên nào cả, mà “Bắc Việt hạ quyết tâm kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 19/5 ngay tại Sài Gòn”.
Âm mưu đi vòng qua người Hungary
Bộ Chỉ huy Chiến dịch tổng công kích và nổi dậy giải phóng Sài Gòn đã đề nghị Bộ Chính trị đặt tên chiến dịch là “Chiến dịch Hồ Chí Minh” và 19 giờ ngày 14/4/1975, bằng bức điện số 37/TK, Bộ Chính trị đã “Đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Ngày 22/4/1975, Bộ chỉ huy Chiến dịch duyệt lại lần cuối cùng kế hoạch chính thức của Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bản đồ quyết tâm chiến dịch được trải rộng ra trên bàn. Tư lệnh Chiến dịch Văn Tiến Dũng và Chính ủy Phạm Hùng cùng ký vào bản đồ quyết tâm đó.
(Nguồn: Đại thắng Mùa xuân của Đại tướng Văn Tiến Dũng)
Mặc dù dấu hiệu việc Hà Nội sắp đập tan chế độ Sài Gòn bằng sức mạnh quân sự đến tay Polgar rất nhiều, Polgar vẫn không từ bỏ hy vọng về một cuộc đàm phán ngừng bắn.
Ngày 17/4, Polgar phản ứng mạnh đối với tuyên bố chính thức của Nhà Trắng rằng cơ quan ngoại giao quá bận rộn không thể đàm phán một giải pháp chính trị và ngừng bắn ở Nam Việt Nam.
Polgar tìm được sự ủng hộ của Giám đốc CIA Colby về một cuộc vận động chính sách ngoại giao ở Mỹ để tiếp tục đàm phán với Bắc Việt trong tuyệt vọng.
Polgar khăng khăng nài nỉ rằng “sự thất bại của Mỹ đã dẫn sang bước thực hiện chiến lược ngoại giao, và chỉ nhờ ngoại giao mới có thể ngăn cản hoặc trì hoãn được một kết cục bi thảm sẽ ghim lên nước Mỹ về trách nhiệm chống một cuộc đổ máu không cần thiết”.
Ngày 18/4, Polgar lại phản ứng với trả lời gây sốc của ông Philip Habib, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, trên báo chí Mỹ rằng Nhà Trắng lo lắng cho những người Việt làm việc cho Mỹ ở VNCH, và có kế hoạch di tản nhân viên người địa phương.
Nếu tuyên bố này là đúng và lan tới Sài Gòn thì đúng là “một đòn trời giáng” gây ra cơn hoảng loạn mới ở Nam Việt Nam. Đại sứ Martin có cớ lén lút lên kế hoạch di tản cho 350 nhà báo, và tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh của Thiệu, nói với Martin một cách thân mật rằng chính quyền VNCH sẽ không phản đối. CIA Sài Gòn tiếp tục giả vờ như họ sẽ di tản những người bản xứ cùng thân nhân.
Polgar lúc ấy tin rằng, tùy thuộc hoàn cảnh, Nhà Trắng sẽ khuấy lên một sự hoảng loạn nếu cho hoặc không cho di tản người Việt. Nhưng bất kể trường hợp nào, Sứ quán Mỹ cũng đã tính toán với Cơ quan Nhập cư Mỹ là nhân viên làm cho Mỹ cùng thân nhân họ có thể được di tản, và sẽ mất thời gian nhiều giờ.
Với cách này thì cộng đồng Mỹ kiều ở Nam Việt Nam được di tản sẽ bị cắt giảm, bởi mỗi ngày đang có hàng trăm người xin thẻ cư trú và hệ thống ở Sứ quán Mỹ đang vận hành êm dịu.
Polgar không có lý do gì để xem xét việc di tản cho nhân viên người Việt ở văn phòng CIA Sài Gòn với các nhà báo. Báo cáo gửi về tổng hành dinh CIA, Polgar nhận định, với sức tấn công hiện nay, Bắc Việt có thể vào đến Sài Gòn vượt trước dự tính của Washington một vài tuần, nên cần di tản Phái bộ Mỹ nhanh hơn.
Đồng thời Polgar (dù không được độc lập cung cấp chi tiết) muốn tổng hành dinh CIA biết rằng “Đại sứ Mỹ Martin và Đại sứ Pháp Merillon đã có sáng kiến để Tổng thống Thiệu tự nguyện từ chức”.
Cùng ngày 18/4, đại tá Janos Toth, thành viên đoàn quân sự Hungary đóng tại Trại Davis đến gặp Polgar. Toth là đại diện cho trưởng đoàn Hungary tại Ủy ban Liên hiệp Quân sự Quốc tế giám sát thực thi Hiệp định Paris nên thường làm việc với phái đoàn quân sự Bắc Việt trong sân bay Tân Sơn Nhất.
Toth ám chỉ với Polgar rằng việc kết thúc cuộc chiến ở Nam Việt Nam sẽ sớm hơn độ một tuần và, theo phân tích của các sĩ quan Hungary dựa trên “tư duy logic của những người xã hội chủ nghĩa” thì Bắc Việt chắc phải thu hẹp sức tấn công hơn là mở rộng tổng công kích vào Sài Gòn.
Những ngày tiếp theo, việc Polgar tiếp xúc với Toth và những người đồng hương Hungary khác được nhận thông tin từ những đồng nghiệp từ Hà Nội của họ, đã dẫn ông ta đến nhiều kết luận. Đầu tiên là việc Bắc Việt thời gian qua quyết định dồn sức tấn công quân sự mà chưa cần giải pháp đàm phán. Thứ hai, Bắc Việt thực sự sẵn sàng nối lại đàm phán nếu Thiệu ra đi khỏi ghế Tổng thống VNCH.
Một chính phủ kế nhiệm sẽ làm công việc “chấm dứt chiến tranh như trong điều khoản Hiệp định Paris” và Sứ quán Mỹ sẽ được giới hạn hoạt động ngoại giao ở mức “bình thường và truyền thống”. Những người Hungary nghĩ chỉ cần một vài ngày để thiết lập kênh đối thoại theo hướng này vì Bắc Việt chân thật, không muốn làm Mỹ bẽ mặt. Nhưng Toth đã suy đoán ngờ nghệch.
Dù vậy Martin và Polgar vẫn chia sẻ quan điểm theo đuổi một cuộc đàm phán ngừng bắn. Đại sứ Martin chớp thông tin mà Polgar lấy từ người Hungary với Kissinger. Mãi đến 19/4, khi Toth phản ánh rằng “khát khao giải phóng Nam Việt Nam của Hà Nội xác đáng hơn ý định của người Mỹ về đàm phán trong khuôn khổ Hiệp định”, Martin mới thất vọng.
Ông ta buộc phải đưa ra thảo luận kế hoạch đưa quân đội Mỹ vào yểm trợ cho cuộc di tản người Mỹ bằng trực thăng, và tạm quyết định sẽ thiết lập một cầu hàng không trực thăng một chiều sẽ chở ra tàu khu trục của Hải quân Mỹ khoảng 1.600 người; cầu hàng không trực thăng hai chiều sẽ chở đi 3.200 người.
Nhưng, để thực hiện được, Mỹ phải đưa vào Sài Gòn một sư đoàn lính thủy đánh bộ và một sư đoàn không quân thuộc Hải quân để hỗ trợ di tản. Martin dự kiến thời gian thực hiện cuộc di tản này là trong ba tuần nữa.
Đồng thời, để an toàn cho cuộc di tản, Martin cho Polgar dùng đường điện thoại riêng của Đại sứ để báo cáo kế hoạch này với Kissinger, để yêu cầu Kissinger liên lạc với Liên Xô nhờ ra tín hiệu với Bắc Việt để họ dành vài ngày cho người Mỹ di tản.
Nhưng Kissinger điện trả lời là “không thể” dù sáng đó Kissinger có một cuộc liên lạc với Liên Xô.
Kỳ 12: Kịch bản cứu Nam Việt Nam của Đại sứ Pháp Mérillon
TP - Kế hoạch di tản người Mỹ khởi động từ ngày 21/4/1975. Liên tục suốt ngày đêm, máy bay C-141 và C-130 chở những người không quan trọng đi trước.
Nhưng ngày 23/4, nguồn tin của bộ phận CIA ở Vùng 3 chiến thuật đóng ở Biên Hòa báo về cho Polgar biết Tỉnh trưởng Lưu Yêm biển thủ tiền từ ngân khố và đưa gia đình chuồn ra nước ngoài. Vì muốn tránh sự hoảng loạn của Sài Gòn có thể dẫn đến thảm họa quân Mỹ đụng độ với binh lính VNCH, Đại sứ Martin phải ra sức làm chậm lại cuộc di tản.
Trong khi đó, Đại sứ Martin vẫn liên tục điện về cho Kissinger để yêu cầu Nhà Trắng nhờ Liên Xô đám phán với Bắc Việt ngừng bắn hai tuần để Mỹ thực hiện kế hoạch di tản quy mô, sau khi Thiệu từ chức.
Nhưng Kissinger chưa trả lời mà lại lệnh cho Polgar và Phái bộ Mỹ làm mọi cách để hỗ trợ cho nội các của ông già Trần Văn Hương, lại vừa tập trung thực hiện nhanh chóng cuộc di tản.
Polgar phản ứng lệnh này là “chẳng gì có thể hỗ trợ được ông Hương khi mà Mỹ không còn B-52 đem ra bầu trời Hà Nội”.
Theo Polgar, tất cả tướng lĩnh và nội các VNCH lúc này chẳng ai nghe lời ông già Hương nữa. Và Đại sứ Pháp Mérillon thì vận động được hầu hết tướng lĩnh ủng hộ tướng Big Minh, tức Dương Văn Minh lên làm Tổng thống VNCH. Thậm chí, lúc này còn có tới bốn tướng của Pháp có mặt tại Sài Gòn với tư cách cá nhân để giúp quân đội VNCH lập kế hoạch phòng thủ Sài Gòn.
Trong tình thế này, muốn thực hiện cuộc di tản an toàn, tòa đại sứ Mỹ phải duy trì sự tồn tại chế độ Sài Gòn càng lâu càng tốt. Vì vậy, Đại sứ Martin đành chấp nhận quan điểm của Đại sứ Pháp Mérillon là ủng hộ Dương Văn Minh thay thế Trần Văn Hương. Thật sự thì ông Minh chẳng có ảo tưởng gì về cái ghế tổng thống VNCH- lúc này chẳng còn là quyền lực và địa vị. Dù vậy vẫn còn một tia hy vọng góp phần đưa Nam Việt Nam đến một kết thúc bớt được những đổ máu vô ích.
Đại sứ Pháp Mérillon đến gặp ông Minh tại nhà riêng. Pháp là quốc gia duy nhất lúc đó có tòa đại sứ đồng thời tại Sài Gòn và Hà Nội, một thế ngoại giao rất thuận lợi để đóng vai trò trung gian trong kết thúc chiến tranh Việt Nam. Đại sứ Pháp Mérillon, tin rằng Paris có thể đóng vai trò trung gian với Hà Nội để thương thuyết một giải pháp chính trị nếu ông Minh làm Tổng thống VNCH.
Thời gian còn lại không còn nhiều nhưng ông Hương vẫn không chịu rời khỏi cái ghế quyền tổng thống của mình bất kể áp lực từ các sứ quán Pháp và Mỹ. Bám vào lập luận mình thay Thiệu đúng theo hiến pháp, ông Hương buộc những người muốn thay ông cũng phải thông qua hiến pháp và quốc hội.
Là một người ngấm ngầm say mê quyền lực, ông Hương vẫn mơ làm tổng thống và tự coi minh là một De Gaulle-vị cứu tinh của Pháp trong thế chiến thứ hai- mà ông rất ngưỡng mộ. Ông Hương thì ảo tưởng rằng sứ mạng của mình là cứu Sài Gòn trước “cuộc tấn công của Bắc Việt”.
Đại sứ Pháp Mérillon và Đại sứ Mỹ Martin tăng cường áp lực với ông Hương nhằm đưa ông Minh vào chức vụ tổng thống với hy vọng “được Hà Nội chấp nhận đối thoại”. Để giành tối đa thời gian ít ỏi còn lại, Martin và Mérillon gặp trực tiếp ông Hương và thuyết phục ông rút lui nhường quyền lãnh đạo cho ông Minh. Nhưng ông Hương nhất định từ chối, viện lẽ chính ông cũng có thể đứng ra thương thuyết với cộng sản và chắc gì ông Minh được cộng sản chấp nhận.
Thế là Martin và Mérillon quay sang vận động Quốc hội. Lập tức một phiên họp lưỡng viện được triệu tập vào ngày 26/4/1975, có mặt 136 dân biểu nghị sĩ trên tổng số 219 (vì nhiều dân biểu đã vội di tản ra nước ngoài), để nghe tình hình quân sự và quyết định người thay thế Trần Văn Hương.
Tướng Trần Văn Đôn với tư cách Tổng trưởng Quốc phòng, tướng Cao Văn Viên - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội VNCH, tướng Nguyễn Khắc Bình - Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia, tướng Nguyễn Văn Minh – Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, thuyết trình cho các nghị sĩ và dân biểu nghe tình hình quân sự tuyệt vọng của Sài Gòn với những dẫn chứng cụ thể trên bản đồ.
Quân lực VNCH chỉ có sáu vạn lính để bảo vệ Sài Gòn, trong khi quân đội Bắc Việt tăng lên nhanh chóng từng giờ. Cuối cùng lưỡng viện biểu quyết phế truất ông già 71 tuổi Trần Văn Hương (chỉ sau bốn ngày rưỡi nắm quyền) và bầu tướng Dương Văn Minh lên thay.
TP - Ngay sau khi tướng Dương Văn Minh thay ông Hương làm Tổng thống, Polgar đề nghị Sài Gòn tiến hành cuộc tiếp xúc với đại tá Võ Đông Giang, đại diện phái đoàn Bắc Việt trong Ủy ban Quân sự Bốn bên tại Trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất, để kiểm tra phản ứng của Bắc Việt trước việc thay đổi này.
Song chỉ nhận lại thông tin rằng, hy vọng có thể có được bình luận nào đó về việc này sau đó nhiều giờ. Cùng hôm đó, Polgar thông báo cho Đại sứ Martin biết rằng một đài phát thanh của quân giải phóng đã loan tin ông Martin kêu gọi cho tàu hải quân Mỹ vào vùng biển nam Việt Nam, nhưng không đề cập gì về cuộc di tản của tòa đại sứ Mỹ.
CIA Sài Gòn vẫn hy vọng vào một nỗ lực đàm phán ngừng bắn mới có thể bắt đầu, và ông Dương Văn Minh vẫn cố gắng tìm cách gửi một đoàn đàm phán ra Hà Nội.
Còn tại Sài Gòn, thậm chí ông Minh tìm cách liên lạc để đàm phán ngừng bắn với đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam của luật sư Nguyễn Hữu Thọ.
“Nhưng tất cả các động thái không làm thay đổi được tình thế là một quyết định quân sự của Bắc Việt đối với Sài Gòn”-
Polgar cay đắng khi tin tức tình báo đổ về cho thấy, CIA chỉ còn cơ hội cuối cùng với viễn cảnh là tổ chức cho nhanh một cuộc di tản hoàn tất “trong vòng 48 giờ” mà thôi.
Polgar được Giám đốc CIA Colby ủng hộ (ông Martin phản đối di tản sớm, nên Polgar lúc này có một vài liên lạc về Washington không thông qua Martin), và CIA Sài Gòn lúc này được tổng hành dinh yêu cầu riêng tập trung vào nắm tin về sự tấn công của Bắc Việt quanh Sài Gòn, bên cạnh việc xúc tiến cho cuộc đàm phán của Dương Văn Minh với Bắc Việt, để quyết định thời điểm bắt đầu cho một cuộc di tản bằng trực thăng khỏi Sài Gòn.
Đại sứ Graham Martin lại lo nghĩ nhất về tình huống hỗn loạn ở Sài Gòn có thể làm đổ vỡ việc di tản 6.000 người Mỹ, nên ông cố câu giờ. Sự hoảng loạn có thể trở thành “kẻ giết người“ hoặc “kẻ phá đổ và làm tê liệt mọi việc, vào giờ chót. Kế hoạch để di tản của Mỹ mang mật hiệu Talon Vise với bốn lựa chọn.
Lựa chọn thứ nhất là di tản bằng những máy bay lớn từ phi trường Tân Sơn Nhất, yểm trợ bằng quân lực Mỹ. Nhưng, mang quân đội Mỹ vào Sài Gòn lại là sai lầm lớn.
“Nguy hiểm là quân đội Bắc Việt sẽ pháo kích các sân bay. Đặc biệt, khả năng ác liệt khác là quân đội VNCH sẽ quay súng bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất, vào Tân Cảng, hay bắn vào chính bãi đáp trực thăng trên nóc tòa đại sứ Mỹ nữa, nếu chỉ những người Mỹ được di tản - Ông Martin viết trong mật điện rất dài gửi Kissinger.
Tại Cần Thơ, trực thăng Mỹ phải bay trong đêm tới một khu chung cư của người Mỹ để bốc họ đi, vì viên sĩ quan chỉ huy sân bay quân sự ở đây nói với ông Lãnh sự Mỹ rằng không thể bảo đảm được kỷ luật của quân lính dưới quyền mình nếu người Mỹ cố di tản bất cứ ai ra khỏi phi cảng.
Và khi Tòa Lãnh sự Mỹ di tản, chỉ có đủ máy bay để chở người Mỹ, những lính gác Mỹ phải chĩa súng vào số nhân viên để họ khỏi tràn ngập máy bay.
Trước đó, kể từ ngày 22/4, Trưởng phân ban Đông Á của CIA Shackley phải hoạt động gần như kiệt sức ở Thái Lan để thu xếp một cầu hàng không di tản đợt đầu những người nằm trong danh sách 3.000 người Việt cộng tác với CIA Sài Gòn mà Polgar xây dựng.
Hầu hết di tản từ Sài Gòn, một số tập trung về đảo Phú Quốc, trước khi được đưa sang căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái Lan bằng máy bay.
Mỹ đã tập hợp một đoàn hạm đội ở vùng Biển Đông cho kế hoạch di tản. Đoàn này gồm bốn hàng không mẫu hạm: Hancock, Coral Sea, Midway và Enterprise. Một đơn vị 2.200 lính thủy quân lục chiến được huy động tới bốn mẫu hạm này và những tàu hộ tống khác.
Mãi tới ngày 25/4, trước thời điểm Sài Gòn sụp đổ chỉ năm ngày, Đại sứ Martin mới nhận được ủy quyền từ Nhà Trắng cho phép tòa đại sứ Mỹ cấp thủ tục nhập cảnh tạm nới rộng cho người Việt di tản tổng cộng 13 vạn người, tức thêm khoảng tám vạn người thuộc đối tượng là bà con, thân nhân của công dân Mỹ cộng với năm vạn người Việt có “mức rủi ro cao độ” được Wasshington đồng ý từ ngày 19/4.
Kissinger sau đó nói: “Tin rằng, ngay trước mắt, sự hoảng hốt ở Sài Gòn còn đáng lo ngại hơn kế hoạch tấn công của Hà Nội, Martin đã cố gắng để cho cuộc di tản chậm hơn ý muốn của Tổng thống Ford và tôi – kẻ diều hâu trong chính phủ - cho là thích hợp”. (còn nữa).
TP - Đối với Nhà Trắng, cuộc chiến Việt Nam thực chất kết thúc từ ngày 23/4/1975 (ngày 24/4 giờ Sài Gòn), khi Tổng thống Ford trước hàng ngàn sinh viên đại học Tulane (New Orleans) chậm rãi dằn từng tiếng: “Đối với Mỹ, chiến tranh Việt Nam kết thúc rồi”.
Trong lúc chờ Liên Xô hồi đáp đề nghị của Mỹ từ ngày 20/4 về việc “nhắn Hà Nội ngừng khoảng hai tuần cho người Mỹ di tản“, ngày 25/4, Kissinger gửi mật điện cho Đại sứ Martin “Liên Xô cho biết Hà Nội sẽ không làm trở ngại cuộc di tản”.
Lúc đó, Đại sứ Martin là người duy nhất ở Sài Gòn nhận được thông tin này, nên ông tiếp tục sinh hoạt hết sức bình tĩnh để không đổ thêm dầu vào lửa.
Ông Martin nhất định không đóng gói đồ đạc, sách vở, hồ sơ, hình ảnh... dù Polgar đóng gói xong đồ đạc và dành mọi thời gian còn lại để tiếp xúc với Trưởng đoàn Hungary ở Trại Davis với hy vọng có tín hiệu đàm phán nào đó cho tướng Minh và nội các mới, ngõ hầu ngăn hoặc làm chậm lại cuộc tấn công quân sự của Bắc Việt vào Sài Gòn.
Chủ nhật ngày 27/4/1975, tướng Dương Văn Minh được lưỡng viện VNCH bầu làm tổng thống, song vấn đề xúc tiến “đàm phán ngừng bắn với Bắc Việt” vẫn còn nguyên, lại thêm việc tướng Kỳ kiên quyết chống đối ông Minh.
Nhưng Kissinger lo sợ rằng một “nỗ lực song song có thể làm trật đường ray” viễn cảnh sáng sủa mà ông mong đợi từ Liên Xô, nên ông ta quở mắng Polgar, đồng thời chuyển thông điệp lạc quan đến Đại sứ Martin rằng “Tôi nghĩ Dương Văn Minh là một điều kiện tốt để đàm phán lập một chính phủ ba bên, và tôi đang chờ tin tốt từ Liên Xô”.
Viễn cảnh thành công của cuộc di tản bị mờ đi bởi một tin xấu: Bắc Việt đã cắt đứt đường bộ từ Sài Gòn xuống Vũng Tàu và Thái Lan từ chối cho Mỹ sử dụng căn cứ Năm Phon là nơi tập kết người di tản.
Nửa đêm 27/4, trong tiếng pháo kích, Martin vẫn ngoan cố gửi điện cho Kissinger khẳng định “sẽ không có cuộc tổng tấn công trực tiếp của Bắc Việt vào Sài Gòn”.
Polgar buộc phải cử chuyên viên phân tích của CIA Sài Gòn là Frank Snepp cùng hai người nữa đi khảo sát thực địa về vành đai tử thủ Sài Gòn của quân lực VNCH để thuyết phục Martin. Kết quả cho thấy, tình hình rất nguy ngập vì quân đội Bắc Việt đã áp sát Sài Gòn và giao tranh đang rất ác liệt ở Biên Hòa.
Trong lúc đó, Đại sứ Martin và Đô đốc Gayler (Tư lệnh quân Mỹ ở Thái Bình Dương) vẫn chưa thống nhất được các bước cụ thể của kế hoạch di tản mà tòa đại sứ xây dựng. Quân đội Mỹ sẵn sàng cho bước cuối cùng để di tản, nhưng ông Martin sợ điều đó tạo hoảng loạn cho Sài Gòn, nên ông không cho chặt một cây me cổ thụ trong sân tòa đại sứ để làm bãi đáp cho trực thăng.
Một tin tốt đến với Sài Gòn, Mỹ được người Thái cho sử dụng căn cứ Năm Phon (rất gần đảo Phú Quốc) để thực hiện cuộc di tản. Đô đốc Gayler chỉ còn lo việc Tân Sơn Nhất liệu sử dụng được mấy ngày nữa, vì đường băng tại đây vừa bị đánh bom, và theo tin tình báo nó đang nằm trong tầm pháo của Bắc Việt.
Những chuyến di tản khẩn trương bằng máy bay C-130 từ Tân Sơn Nhất vẫn tiếp tục trong ngày 28/4, trong đó có chuyến bay chở cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, tướng Nguyễn Khắc Bình Tư lệnh Cảnh sát cùng các quan chức cảnh sát và gia đình họ.
Polgar điện về tổng hành dinh CIA rằng, vẫn chưa thấy ý định cụ thể của ông Minh, song ông ta ghi chú rằng “có thể có sự đối thoại theo một điều khoản của Hiệp định Paris” và phỏng đoán việc này nếu có thì sẽ diễn ra tại thủ đô Paris. Polgar gần như kiệt sức.
Hồi 17 giờ ngày 26/4/1975, tiếng súng đầu tiên của Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn đã nổ ở hướng đông. Theo kế hoạch, sáng 27/4, quân giải phóng đồng loạt các hướng đánh vào vùng ven Sài Gòn. Riêng hướng tây nam phải cắt đứt được đường số 4 trên nhiều đoạn từ cầu Bến Lức đến phà Mỹ Thuận. Từ ngày 29/4 sẽ đồng loạt đánh vào nội thành.
(Nguồn: Đại thắng mùa xuân của Đại tướng Văn Tiến Dũng)
Kỳ 15:Bức công hàm cuối cùng của chính quyền Sài Gòn
TP - Chiều 28/4/1975, lúc 16 giờ 45, buổi lễ bàn giao giữa ông Trần Văn Hương và ông Dương Văn Minh diễn ra tại Dinh Độc Lập.
Khi ông Dương Văn Minh bắt đầu đọc diễn văn nhậm chức, giông sét đánh ầm ầm. Một trận mưa to chưa từng có ập xuống Sài Gòn, quan khách không nghe được ông Minh nói gì. Nhiều người cho đó là điểm gở cho tân chính phủ.
Sáng 28/4, lúc 8 giờ 25 phút, Mỹ đáp lại lời nhắn với Liên Xô (qua Đại sứ Liên Xô tại Washington) rằng, như phúc đáp của phía Liên Xô, phía Mỹ đang tiến hành cuộc di tản với tin tưởng là điều kiện sẽ tiếp tục thuận lợi.
Tổng thống Ford hứa “cuộc di tản không bị cản trở trong bao lâu thì cũng thời gian đó Mỹ cũng sẽ không hành động gì khiến tình hình trầm trọng hơn".
Kissinger nói rằng, đến ngày 27/4, Mỹ vẫn đầy hy vọng là Hà Nội không định đi tới một chiến thắng hoàn toàn quân sự mà còn muốn điều đình với ông Dương Văn Minh. Tại Sài Gòn, Đại sứ Martin cũng không mấy lo về phía Hà Nội.
Ngoài vợ một nhân viên CIA cao cấp, Đại sứ Martin đã sắp xếp để đưa 2.000 người gồm khá nhiều phi công VNCH và gia đình họ đi di tản sớm sang căn cứ Utapao ở Thái Lan, với mục đích là giảm thiểu khả năng trả thù và đụng độ với lực lượng Mỹ.
Ông Martin cho rằng phi công là những phần tử uất hận nhất nên có thể phản ứng điên rồ, ngăn chặn cuộc di tản cuối cùng của người Mỹ.
Ông Minh có hai áp lực lớn lúc đó: Quân đội VNCH dù rất xơ xác nhưng vẫn còn điều kiện để phản ứng điên rồ nếu họ thấy mình bị “phản bội”; mặt khác phải chứng minh được với “phía bên kia” đây là một chính phủ không đeo đuổi chiến tranh, mà mong được thương thuyết hòa bình.
Việc nghiêng hẳn sang bắt tay với quân giải phóng của ông Minh khiến đồn đại về một cuộc đảo chính râm ran khắp nơi, đặc biệt từ phía không quân thuộc ảnh hưởng của tướng Nguyễn Cao Kỳ. Lực lượng không quân ở Tân Sơn Nhất đóng cổng từ chối nhận lệnh điều động của tổng thống Minh.
Trước đó, tối 27/4/1975 tướng Kỳ điện thoại cho tùy viên quân sự của ông Minh để yêu cầu gặp ông Minh, bàn về sự hợp tác trong cuộc đối đầu với sự tiến quân của Bắc Việt, nhưng được trả lời rằng ông Minh đang bận họp, sẽ gọi điện lại. Sáng 28/4, vì quá muộn để có thể làm gì, tướng Kỳ không gặp ông Minh cho đến lúc ông ta lên trực thăng bay ra tàu sân bay của Hạm đội 7.
Vừa rời lễ nhậm chức về nhà riêng, ông Minh nghe những tiếng nổ làm rung chuyển cả Sài Gòn. Tất cả đều nghĩ phe tướng Kỳ đảo chính. Sau đó mới hay, tiếng nổ là do máy bay Bắc Việt oanh kích xuống phi trường Tân Sơn Nhất bằng năm chiếc phi cơ A-37 mà quân giải phóng mới chiếm được, xuất phát từ Nha Trang tham gia cuộc tấn công dưới sự dẫn đường của phi công Nguyễn Thành Trung. Điều này khiến cho giới quân sự Sài Gòn và Mỹ kinh ngạc. Ông Minh vẫn không liên lạc với không quân ở Tân Sơn Nhất.
Tối 28/4 (sáng 27/4 giờ Washington), việc đầu tiên ông Minh làm trên cương vị Tổng thống là viết một công hàm gửi Đại sứ Martin (văn bản được chuyển giao sáng 29/4). Lúc này có lẽ ông Minh biết chuyện thương thuyết với quân giải phóng là vô vọng. Các tin tức từ Đại sứ Pháp Mérillon không có sự tiến triển nào, vai trò trung gian của Pháp trở nên vô vọng.
Ông Minh yêu cầu: “Tất cả người Mỹ rời khỏi Nam Việt Nam trong vòng 24 giờ kể từ ngày 29/4 (tức 28/4 giờ Washington)“. Công hàm này có tính lịch sử vì nó là văn kiện cuối cùng của Chính quyền Sài Gòn gửi Nhà Trắng, và thực sự cấp cho người Mỹ một quota "danh chính ngôn thuận" để rời Nam Việt Nam. Kissinger nói rằng "nó thực sự giúp cho chúng tôi thoát ra mà không bị chỉ trích là Mỹ bỏ rơi đồng minh, vì nó trùng hợp với lịch trình rút lui của Mỹ".
Đêm 28/4, Polgar điện cho Shackley báo cáo về lễ nhậm chức của tướng Minh kèm nhận định của CIA Sài Gòn. Shackley vẫn lạc quan về việc có được hai tuần trong thời gian ông Dương Văn Minh đàm phán với Bắc Việt, nhưng cũng chỉ rõ khả năng Hà Nội pháo kích vào Tân Sơn Nhất là “bất cứ lúc nào”.
Vẫn chưa biết chắc chắn về mục tiêu của Hà Nội nên tướng Homer Smith, trưởng văn phòng tùy viên quân sự Mỹ tại Sài Gòn chưa ra quyết định đình chỉ các chuyến bay di tản người Mỹ bằng phi cơ C-130. Shackley khuyên Polgar nên di tản các nhân viên CIA người Việt, sang căn cứ Năm Pon (Thái Lan) và Đài Bắc (Đài Loan), trong lúc Shackley cố gắng duy trì các máy bay C-130 cho CIA Sài Gòn sử dụng.