Winston tìm lối trên con đường nhỏ sáng rợp từng quãng, chân giẫm vào vũng nắng vàng mỗi khi bụi rậm giãn cách. Dưới hàng cây bên tay trái anh, hoa huệ dại phủ đầy đất. Khí trời lướt nhẹ trên da thịt anh. Hôm ấy là mồng hai tháng năm. Từ trong rừng thâm vọng lại tiếng gù của chim cu cườm.
Anh đến sớm hơn giờ hẹn một chút. Anh không gặp phải khó khăn trong chuyến du hành; quá hiển nhiên cô gái là một người từng trải, cho nên anh ít sợ hãi hơn bình thường. Chắc hẳn có thể tin được rằng cô đã kiếm ra một nơi hẹn an toàn. Thông thường miền thôn dã không thể được coi như an toàn hơn London. Đã đành là ở thôn quê không có máy truyền hình, nhưng vẫn còn mối nguy của máy ghi âm thâu lại tiếng nói của bạn để rồi vì đó bạn bị nhận dạng. Đi xa dưới một trăm cây số không cần xin chiếu khán trên thẻ thông hành, nhưng đôi khi gặp phải đội tuần tra lởn vởn quanh nhà ga, Đảng viên có thể bị xét giấy và hỏi han lôi thôi. Tuy sao Winston không thấy đội tuần tra xuất hiện, và trên đường rời nhà ga anh đã cẩn thận liếc nhìn lại phía sau mấy lần cho chắc không có ai theo dõi. Tàu hỏa đầy dân đen thản tính vì khí xuân. Toa tàu có ghế gỗ nơi anh ngồi bị tràn ngập bởi một gia đình lúc nhúc gồm từ một bà cụ móm đến một đứa bé một tháng, về quê chơi chiều nay với "ông bà xui" nhân thể kiếm một ít bơ để bán chợ đen như họ thành thật thổ lộ với anh.
Lối đi rộng ra, và một phút sau anh tới con đường mòn mà cô gái chỉ, một con đường nhỏ do vết chân bò vạch ra, lút vào giữa bụi rậm. Anh không có đồng hồ nhưng chưa thể tới mười lăm giở. Dưới chân anh hoa huệ dại rậm đến nỗi anh không tài nào tránh khỏi giẫm lên hoa. Anh quỳ xuống và ra tay hái vài mớ, vừa để cho qua thì giờ, vừa vì có ý nghĩ vẩn vơ muốn có bó hoa tặng cô gái khi giáp mặt cô. Anh hái được một bó lớn và đang ngửi mùi thơm hơi nặng của hoa thì một tiếng động, rõ ràng tiếng rắc của cành cây khô bị giẫm chân lên, làm anh ớn mình. Anh tiếp tục hái hoa. Đó là thái độ hay hơn nhất. Có thể đó là cô gái, cũng có thể vẫn có người theo dõi anh. Nhìn quanh là tỏ ra mình có hành vi tội lỗi. Anh hái hết hoa này đến hoa khác. Một bàn tay đặt nhẹ trên vai anh.
Anh ngước mắt nhìn lên. Đó là cô gái. Cô lắc đầu, hiển nhiên để ra hiệu cho anh phải giữ im lặng, rồi gạt lùm cây đi nhanh theo con đường mòn vào trong rừng. Rõ ràng cô ta từng đến nơi đây vì cô tránh né ổ lầy như người quen thói. Winston theo sau, tay vẫn ôm bó hoa. Thoạt đầu anh cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng khi nhìn vào tấm thân thanh mạnh uyển chuyển trước mặt anh với chiếc thắt lưng đỏ buộc đủ chặt để lộ đường cong của bộ hông, mặc cảm tự ti đè nặng tim anh. Ngay bây giờ anh tưởng chừng cô gái vẫn có thể chùn mình rút lui nếu cô ngoảnh mặt lại nhìn anh. Không khí êm ả và sắc xanh của lá làm anh nản lòng. Đã rồi, trên đường rời nhà ga, nắng xuân đã làm anh cảm thấy mình héo hắt dơ bẩn, đúng một động vật nội thất với lỗ da thấm bụi bồ hóng Luân Đôn. Anh chợt nghĩ rằng cho tới nay cô gái chưa bao giờ nhìn thấy anh ngoài trời dưới ánh sáng ban ngày. Họ đi đến cây sụp mà cô nói tới. Cô gái nhảy qua cây và rẽ mạnh lối qua khóm bụi rậm thoạt coi tưởng không có kẽ lọt. Lúc Winston băng theo cô, anh thấy mình ở trong một khu rừng trống thiên nhiên, một con gò nhỏ phủ cỏ, bao quanh bởi lùm cây non cao bít kín lấy nó. Cô gái ngừng chân và quay mặt lại.
"Chúng ta đã tới nơi," cô ta nói.
Anh đứng trước mặt cô, cách cô vài bước. Dường như anh chưa dám lại gần cô hơn nưă.
"Tôi không muốn nói gì trên đường mòn," cô tiếp lời, "vì sợ có máy ghâm giấu ngoài đó. Tôi không nghĩ là có máy, nhưng biết đâu đấy. Luôn luôn có cái rủi bị một tên chó săn nhận ra tiếng nói của mình. Ở đây mình không sao."
Anh vẫn không có can đảm lại gần cô. "Ở đây mình không sao thật hả ?", anh ngờ nghệch nhắc lại.
"Phải. Anh coi đám cây kia. Đó là cây tần bì nhỏ, xưa bị đốn tận gốc nhưng nay đã nảy lại thành một rừng nhánh không cành nào dày hơn cổ tay. Không có cành nào đủ lớn dể che một máy ghâm. Vả lại, tôi đã từng đến nơi này rồi."
Họ chỉ giả vờ nói chuyện. Bây giờ anh đã kiếm cách lại gần cô gái hơn. Cô đứng thật thẳng trước mặt anh, với một nụ cười hơi có vẻ riễu cợt trên môi, như thể cô tự hỏi tại sao anh hành động chậm chạp quá vậy. Hoa huệ dại đã tuôn rơi xuống đất. Hoa hình như tự ý rơi xuống. Anh cầm tay nàng. "Em có tin rằng cho tới lúc này anh không biết mắt em mầu gì không ?" anh nói. Anh nhận thấy mắt nàng nâu, mà màu nâu nhạt, dưới cặp mi đen. "Nay em nhìn rõ anh ra sao, em còn chịu để ý đến anh không ?"
"Có chứ, dễ ợt."
"Anh đã ba mươi chín tuổi. Anh đã có vợ mà không bỏ được. Anh bị bệnh giãn tĩnh mạch. Anh lại có năm chiếc răng giả."
"Chẳng can hệ gì," nàng nói.
Lát sau, khó nói được do ai khởi sự, nàng đã ngả trong lòng anh. Thoạt đầu anh không có cảm tưởng gì ngoài mối hoài nghi đơn chất. Tấm thân trẻ trung ép sát người anh, mái tóc đen xòa vào mặt anh, và thật ! Nàng vừa ngẩng mặt lên và anh đã hôn vào cái miệng đỏ rộng. Nàng vòng tay quanh cổ anh, nàng gọi anh là anh yêu, anh quý, anh cưng. Anh đẩy nàng xuống đất, nàng hoàn toàn không chống cự, anh có thể làm gì với nàng cũng được. Nhưng sự thực thì anh không có cảm giác thể xác nào ngoài xúc giác đơn sơ. Anh chỉ biết hoài nghi và tự hào. Anh sung sướng vì sự thể đang xảy ra nhưng anh không có nhục dục. Quá sớm, tuổi trẻ và sắc đẹp của nàng làm anh sợ hãi, anh quá quen sống không có đàn bà — anh không biết lý do nào đúng. Cô gái đưa mình ngồi dậy, vuốt một bông huệ dại ra khỏi tóc. Nàng ngồi sát vào anh, tay vòng quanh mình anh.
"Không sao, cưng. Không việc gì vội. Mình có cả buổi chiều lận. Chỗ ẩn này thật tuyệt, phải không anh ? Em khám phá ra nó nhân một bữa du hành tập thể bỗng bị lạc đường. Nếu có ai lại, cách một trăm thước có thể nghe thấy họ rồi.
"Tên em là gì ?" Winston hỏi.
"Julia. Em biết tên anh. Là Winston — Winston Smith."
"Sao em biết được ?"
"Cho là em giỏi khám phá mọi sự hơn cưng. Nói cho em hay. Anh nghĩ gì về em trước ngày em dúi mẩu giấy cho anh ?"
Anh không có rắp tâm nói dối nàng. Nói ra những điều tệ nhất ngay lúc đầu chính là một cách dâng hiến cho tình yêu.
"Thấy em là anh ghét," anh trả lời. "Anh muốn hiếp dâm em rồi sau đó giết em. Hai tuần trước anh thực sự tính lấy đá đập nát sọ em. Nếu em thật muốn biết, thì anh tưởng em dính dáng với Cảnh Sát Tư Tưởng."
Cô gái cười khoái trá, hiển nhiên coi đó như một sự công nhận tài ngụy trang của nàng.
"Cảnh Sát Tư Tưởng ư ? Bộ anh quả nghĩ vậy hả ?"
"Hừm, có lẽ không hẳn vậy. Nhưng theo toàn thể bộ điệu em — chỉ tại em tươi trẻ khỏe mạnh, em hiểu không — anh nghĩ có thể —"
"Anh nghĩ em là một Đảng viên tốt. Lời lẽ cũng như hành vi trong sạch. Cờ xí, đám rước, khẩu hiệu, thể thao, du hành tập thể — mọi cái trò đó. Và anh cho rằng nếu em có dịp nhỏ nào em sẽ tố cáo anh là một tội phạm tư tưởng để cho anh bị giết, phải không ?"
"Phải, đại khái như vậy. Rất nhiều cô gái trẻ như thế, em biết chứ !"
"Tại cái vật khốn kiếp này nó làm cho như vậy," nàng vừa nói vừa tháo chiếc thắt lưng nhỏ của Liên Đoàn Thanh Niên Chống Tình Dục rồi quăng nó trên một cành cây. Và như thể sờ vào bụng làm nàng nhớ tới điều gì, nàng lục túi bộ áo liền quần của nàng lôi ra một thanh xúc cô la nhỏ. Nàng bẻ nó ra làm hai, đưa cho Winston một phần. Chưa cầm nó, mới ngửi mùi anh đã biết ngay đó là một thứ xúc cô la rất khác thường. Nó đen bóng và được bọc trong giấy bạc. Thông thường xúc cô la là một chất dễ vụn mầu nâu xỉn có vị tả đúng nhất là vị khói lửa rác. Nhưng thỉnh thoảng anh có được thưởng thức thứ xúc cô la như miếng nàng cho anh. Hớp thơm đầu của nó gợi trong ký ức anh một kỷ niệm khó nhận ra nhưng mạnh mẽ, khắc khoải.
"Em kiếm ra thứ này ở đâu vậy ?", anh hỏi.
"Chợ đen," nàng thờ ơ nói. "Đúng em thuộc loại gái đáng coi chừng. Em chơi thể thao giỏi này. Em là một đoàn trưởng trong Đội Gián Điệp này. Em lại tình nguyện giúp việc cho Liên Đoàn Thanh Niên Chống Tình Dục ba tối một tuần. Em mất hàng giờ dán văn nhăng thối của chúng khắp Luân Đôn. Cuộc biểu tình nào cũng có em vác cờ. Em luôn luôn tỏ vẻ hân hoan và không bao giờ trốn việc. Bao giờ cũng hò hét với đám đông, đó là tuyên ngôn của em. Chỉ có cách ấy mới an toàn."
Mảnh xúc cô la đầu đã tan trên lưỡi Winston. Ngon lành làm sao. Nhưng cái kỷ niệm kia vẫn lởn vởn quanh tâm thức anh, mạnh mẽ nhưng không qui được vào một hình ảnh nhất định, giống như một vật nhìn qua khóe mắt. Anh gạt nó ra, duy vẫn ý thức rằng đó là ký ức của một hành động anh muốn xóa bỏ nhưng không xóa nổi.
"Em quá trẻ," anh nói. "Em kém anh những mười, mười lăm tuổi. Em thấy có gì quyến rũ trong một con người như anh ?"
"Có cái gì đó trên mặt anh. Em thấy nên xem sao. Em có tài nhận ra những kẻ không lệ thuộc. Vừa nhìn thấy anh em biết ngay anh chống chúng."
Chúng đây hẳn chỉ Đảng và đặc biệt Đảng Trong bị nàng nhắc tới với một nỗi căm thù mỉa mai ra mặt, khiến cho Winston e ngại mặc dầu anh biết nơi đây an toàn, nếu sự an toàn có thể có tại một nơi nào. Một điều nơi Julia làm anh ngạc nhiên là cách ăn nói thô tục của nàng. Đảng viên được coi như không biết chửi thề, và chính Winston rất ít khi chửi thề hay ít nhất to tiếng chửi. Thế mà Julia hình như không thể không dùng loại danh từ thấy viết phấn trên các ngõ hẻm lầy lội mỗi khi nhắc tới Đảng, nhất là Đảng Trong. Anh không ghét cách ăn nói đó. Nó chỉ là một triệu chứng của lòng phẫn nộ của nàng đối với Đảng và các đường lối của Đảng, có thể coi đó như là một phản ứng tự nhiên lành mạnh cũng như cái hắt hơi của một con ngựa ngửi thấy cỏ khô tồi. Họ đã rời khu rừng thưa và đang dạo bước trở lại dưới bóng cây ô quãng, tay người nọ choàng quanh mình người kia mỗi khi lối đi không đủ rộng cho hai người sánh đôi. Anh nhận thấy không có dây thắt, lưng nàng mềm mại hơn nhiều. Họ không nói to hơn tiếng thì thầm. Ngoài khu rừng thưa, nên giữ im lặng, Julia nói vậy. Hiện họ đã tới biên rừng nhỏ. Nàng ngăn chàng lại.
"Chớ có ra ngoài trời trống. Ngộ có ai dòm ngó. Mình chỉ an toàn nếu lấp mình sau cành cây."
Họ đang đứng dưới bóng lùm cây hạt dẻ. Ánh nắng, dù đã được lọc qua muôn lá, vẫn đốt nóng mặt họ. Winston nhìn ra phía cánh đồng bên kia rừng, và bị xúc động bởi một sự kiểm nhận lạ lùng, chậm chạp. Anh biết cảnh này kìa. Một cánh đồng cỏ xưa bị gặm sát đất, có một con đường nhỏ xuyên qua và có đất đùn lổm chổm. Tại hàng rào tơi tả bên kia đồng, cành du khẽ đong đưa dưới gió mát, lá cây nhẹ rung thành mớ như tóc đàn bà. Chắc hẳn, đâu đó gần đây, nhưng ngoài tầm mắt, có một giòng suối với nhiều vũng xanh có cá vàng bơi chăng ?
"Có một giòng suối đâu đó gần đây phải không ?" anh khẽ hỏi.
"Phải, có một con suối. Tại rìa cánh đồng kế bên, đúng ra trong đó có cá, cá rất lớn. Có thể thấy chúng vẫy đuôi bơi trong các vũng nước dưới cây liễu."
"Đây là Xứ Vàng — gần vậy," anh thì thầm.
"Xứ Vàng nào ?"
"Không có chi cả, thật ra. Đó là một phong cảnh anh thỉnh thoảng nằm mơ thấy."
"Coi kìa !" Julia xì xào.
Có một con chim chích chòe đậu trên một cành cây cách họ không tới năm thước, gần ngang mặt họ. Có lẽ nó không nhìn thấy họ. Nó ở dưới nắng, còn họ ở trong bóng rợp. Nó xòe cánh ra rồi xếp gọn cánh lại cẩn thận, cúi đầu xuống một lúc như để tỏ lòng tôn kính với mặt trời, bắt đầu tuôn ra một tràng bài hót. Giữa buổi chiều thanh vắng, âm lượng của tiếng hót mạnh kỳ lạ.
Winston và Julia bám chặt vào nhau, như bị thôi miên. Tiếng nhạc tiếp tục, phút này sang phút khác, bổng trầm khác lạ, không điệu nào lập lại điệu nào, như thể con chim cố ý trổ tài điêu luyện. Thỉnh thoảng nó ngưng vài giây, xòe cánh ra rồi gấp cánh lại, xong phồng bộ diều lốm đốm lên và bật vang tiếng hót trở lại. Winston ngắm chim với một lòng kính trọng mơ hồ. Chim hót cho ai, vì sao ? Không có bầu bạn, không có tình địch nào nhìn nó. Cái gì khiến nó đậu tại ven rừng vắng và đổ nhạc trong hư không ? Anh tự hỏi liệu cuối cùng có máy ghi âm dấu đâu gần đây không. Anh và Julia chỉ khẽ thì thầm với nhau, nên nó không thâu được tiếng họ, nhưng nó có thể ghi lại tiếng chim hót. Có thể tại đầu kia máy một tên bọ hung đang cố tình nghe ngóng — nghe đó. Nhưng dần dần suối nhạc quét mọi ưu tư khỏi óc anh. Như thể nó là một chất nước dội trên khắp ngưởi anh, pha trộn với ánh nắng xuyên qua lá. Anh thôi suy nghĩ, chỉ biết thưởng thức. Lưng người con gái trong vòng tay anh vừa mềm vừa ấm. Anh xoay người nàng lại cho hai người chạm ngực vào nhau; thân thể nàng như tan hòa vào thân thể anh. Tay anh rờ vào chỗ nào cũng thấy xiêu dịu như nước. Mồm họ gắn lấy nhau; cái hôn này khác hẳn cái hôn mạnh bạo mà họ trao đổi trước đây. Khi họ buông mặt nhau ra, cả hai thở dài não nề. Con chim sợ hãi vỗ cánh bay đi.
Winston kề môi bên tai nàng. "Bây giờ nhé" anh thì thầm.
"Không ở đây được," nàng khẽ trả lời. "Mình trở về chỗ ẩn. An toàn hơn."
Nhanh nhanh, thỉnh thoảng giẫm lên cành khô kêu rắc, họ len lối về khu rừng thưa. Khi họ vào giữa vòng cây non, nàng quay người giáp mặt với chàng. Cả hai đều thở hồng hộc, nhưng nụ cười đã tái hiện trên quanh mép miệng nàng. Nàng đứng nhìn chàng một lúc, rồi sờ vào cái khóa kéo của bộ áo liền quần của nàng. Và phải, sự thể gần như trong giấc mơ của Winston. Gần nhanh như anh mơ tưởng, nàng giứt quần áo ra, và khi nàng quẳng nó sang bên, nàng có cái cử chỉ tuyệt vời như muốn qua nó khiến cả một nền văn minh bị tiêu diệt. Thân hình nàng trắng trẻo dươi ánh mặt trời. Nhưng lúc này anh không nhìn vào thân hình nàng; mắt anh dính vào khuôn mặt đầy tàn nhang với nụ cười mỉm táo bạo. Anh quỳ xuống dưới chân nàng và cầm tay nàng trong tay anh.
"Em đã làm thế trước đây chưa ?"
"Dĩ nhiên rồi. Hàng trăm lần - hừm ít ra cũng hàng chục lần."
"Với Đảng viên ư ?"
"Vâng, luôn luôn với Đảng viên."
"Với thành viên Đảng Trong hả ?"
"Không, không đời nào với lũ chó chết ấy. Vậy mà có nhiều tên chỉ mong thế nếu được dịp. Chúng không thánh thiện như chúng giả bộ đâu."
Tim anh chồm lên. Nàng đã làm thế hàng chục lần: anh mong đó là hàng trăm hàng ngàn lần. Bất cứ gì gợi ý sự hủ hóa khiến anh đầy ngập một mối hy vọng rồ dại. Biết đâu, có thể Đảng thối nát dưới vỏ bề ngoài, có thể sự sùng bái nghị lực và lòng hy sinh chỉ là một trò bịp bợm cốt để che đậy sự đồi bại. Giá làm được cho cả đám chúng mắc phải bệnh hủi hay bệnh giang mai, anh sẽ sung sướng ra công làm sao ! Bất cứ gì làm chúng hư mục, suy yếu, xói mòn ! Anh kéo nàng xuống cho hai người quỳ trước mặt nhau.
"Em nghe đây. Em càng có nhiều cuộc dan díu với đàn ông, anh càng yêu em. Em hiểu không ?"
"Có, rõ lắm."
"Anh ghét sự tinh khiết, anh ghét sự tốt lành ! Anh không muốn có đức tính tồn tại nơi nào cả. Anh muốn mọi người ai cũng hư thối tận xương."
"Vậy thì tốt, em chắc hợp anh, cưng ạ. Em hư hỏng thấu xương cốt."
"Em thích làm thế không ? Anh không muốn nói với anh đâu: anh muốn nói làm thế vì thích thế ?"
"Em mê làm thế."
Đó là điều anh muốn nghe thấy hơn hết. Không chỉ tình yêu con người mà thú tính, tình dục đơn giản không phân hóa: đấy là sức mạnh có thể làm Đảng tan tành. Anh ghì nàng xuống cỏ giữa đám huệ dại bị rớt. Lần này không khó khăn gì. Hiện thì ngực họ đã phập phồng xuống tốc độ bình thường, và họ đã bất đắc dĩ khoan khoái buông nhau ra. Trời hình như nóng hơn. Cả hai người đều buồn ngủ. Winston với bộ áo liền quần bị vứt bên đem phủ lên một phần thân nàng. Gần lập tức họ lịm giấc và ngủ khoảng một nửa tiếng.
Winston tỉnh giấc trước. Anh ngồi dậy ngắm khuôn mặt đầy tàn nhang, vẫn ngủ yên lành, gối trên lòng bàn tay nàng. Ngoại trừ cái miệng, không thể cho là nàng đẹp được. Nếu nhìn kỹ, thấy một hai vết nhăn quanh mặt nàng. Mái tóc đen mềm dày lạ thường. Anh bỗng nghĩ rằng anh chưa biết tên họ nàng cũng như địa chỉ nàng.
Tấm thân trẻ mạnh, bây giờ bất lực trong giấc ngủ, khêu gợi trong anh lòng thương hại che chở. Nhưng lòng trìu mến vô tư cảm thấy dưới cây hạt dẻ đương lúc chim chích chòe hót, không hoàn toàn trở lại. Anh kéo bộ áo liền quần sang bên để xét bộ sườn trắng mịn của nàng. Thuở xưa, anh nghĩ, một người đàn ông ngắm thân hình một phụ nữ và thấy nó gợi tình, thế là hết chuyện. Nhưng ngày nay không thể có tình yêu hay tình dục đơn thuần. Không có cảm xúc nào đơn thuần vì cái gì cũng lẫn lộn với sợ hãi và thù hận. Cuộc giao hợp của họ là một chiến thắng. Đó là một cú mạnh chống Đảng. Đó là một hành động chính trị.
"Mình có thể tới đây một lần nữa," Julia nói. "Thường thì chỗ ẩn nào cũng dùng được hai lần một cách an toàn. Nhưng không được trở lại trước một, hai tháng, dĩ nhiên."
Mới ngủ dậy xong, nàng đổi thái độ liền. Nàng đâm lanh lẹn, bận rộn, mặc quần áo vào người, buộc thắt lưng đỏ quanh bụng, và bắt đầu sắp xếp chi tiết cho chuyến về. Nhường cho nàng việc này là lẽ tất nhiên. Rõ ràng nàng có cái trí thông minh thực tế mà Winston thiếu, cùng một sự thông thuộc chốn quê quanh London góp nhặt sau vô số cuộc du hành tập thể. Con đường về mà nàng chỉ cho anh khác hẳn con đường anh mượn khi tới, và đưa anh đến một trạm tàu hỏa khác. "Chớ bao giờ đi với về cùng một lối," nàng nói như thể phát biểu một nguyên lý đại cương. Nàng sẽ rời bước trước, và Winston phải đợi nửa tiếng nữa mới đi theo nàng.
Nàng cho chàng biết một nơi hai người có thể gặp nhau khi tan sở, bốn giờ chiều tối sau. Đó là một con phố thuộc một khu nghèo, nơi có một phiên chợ họp ngoài trời, thông thường đông đảo và náo nhiệt. Nàng sẽ lảng vảng giữa sạp hàng, giả vờ kiếm dây buộc giầy hay chỉ khâu. Nếu nàng cho rằng không có gì trở ngại, nàng sẽ xịt mũi khi chàng lại gần; nếu không chàng phải phớt lờ qua mặt nàng. Nhưng nếu gặp may, giữa đám đông, hai người có thể nói chuyện an toàn với nhau chừng mười lăm phút và sắp xếp một bữa hẹn khác.
"Bây giờ em phải đi," nàng nói sau khi chàng đã thuộc lòng điều nàng dặn." Em phải về tới nhà vào mười chín giờ rưỡi. Em phải dành hai tiếng cho Liên Đoàn Thanh Niên Chống Dục Tính, phải phát truyền đơn hay chi khác cho chúng. Thế có khốn không ? Anh phủi người cho em một chút được không ? Em có cành khô nhỏ lẫn tóc không ? Anh chắc chứ ? Thôi, chào anh, anh yêu, chào anh !"
Nàng ôm choàng lấy chàng, hôn chàng như bão táp, rồi một lát sau nàng len lối qua cây non và biến dạng trong rừng không tiếng động. Đến giờ anh vẫn chưa biết tên họ và địa chỉ nàng. Tuy sao, biết cũng chẳng hơn gì, vì không thể tưởng tượng được rằng hai người có thể gặp nhau trong nhà hay trao đổi thư từ với nhau.
Số là họ không bao giờ trở lại chốn rừng thưa. Suốt tháng năm, họ chỉ kiếm được một cơ hội khác để thực sự ân ái. Chuyện xảy ra tại một chỗ ẩn khác do Julia biết, đó là tháp chuông một nhà thờ đổ nát tại một vùng quê bị bỏ bom nguyên tử ba mươi năm trước. Chỗ ẩn ấy tốt khi vào được tới nơi, nhưng đạt tới đó rất nguy hiểm. Ngoài ra họ chỉ gặp nhau trên đường phố, mỗi chiều tối tại một nơi khác nhau, và không bao giờ quá một nửa tiếng mỗi lần. Ở ngoài đường, biết cách, thường có thể nói chuyện được với nhau. Đương lúc đưa mình trên vỉa hè giữa đám đông, không hẳn sát cánh nhau và không bao giờ nhìn vào mặt nhau, họ đeo đuổi một câu chuyện lạ lùng, gián đoạn, bật tắt như đèn pha, vụt im lìm khi có một bộ đồng phục của Đảng lại gần hay ở kế cận một máy truyền hình, rồi bắt lại giữa một câu vài phút sau, rồi bị cắt ngang tới chỗ họ đã định trước là phải rời nhau, để rồi được tiếp tục gần như không cần mào đầu ngày hẹn sau. Julia tỏ ra rất thạo kiểu nói chuyện này, được nàng mệnh danh là "nói chuyện từng đợt". Nàng cũng giỏi lạ lùng lối nói không mấp môi. Chỉ có một lần trong gần một tháng hẹn hò đêm hôm, họ trao đổi được một nụ hôn. Họ đang lặng lẽ theo một ngõ ngang (Julia không bao giờ nói gì khi họ ra khỏi phố lớn), bỗng bùng lên một tiếng nổ điếc tai, đất văng tung, trời tối đặc, và Winston thấy mình nằm nghiêng, bầm sướt và khiếp sợ. Hẳn một trái bom lửa đã đổ xuống rất gần đây. Đột nhiên anh nhận ra khuôn mặt Julia cách anh vài phân, tái mét, trắng bạch như phấn. Đến môi nàng cũng trắng. Nàng chết rồi ! Anh ôm nàng vào lòng và thấy mình hôn lên một khuôn mặt ấm áp của người sống. Nhưng môi anh chạm phải một chất phấn. Mặt của hai người phủ đầy thạch cao.
Có những chiều tối họ tới nơi hẹn nhưng phải qua mặt nhau không một dấu hiệu, vì có đội tuần tra ở ngay góc đường hay máy trực thăng lượn trên đầu họ. Mà gặp nhau có kém nguy hơn, họ cũng vẫn khó tìm ra thì giờ để hò hẹn. Winston làm việc sáu mươi tiếng một tuần, Julia còn làm nhiều hơn nữa, và ngày nghỉ của họ thay đổi tùy theo sự dồn dập của công việc, không hay trùng nhau. Dù sao chăng nữa, Julia ít khi có một chiều tối hoàn toàn nhàn rỗi. Nàng dành nhiều thì giờ phát sợ cho sự tham dự các cuộc diễn văn hay biểu tình, cho sự phát văn liệu cho Liên Đoàn Thanh Niên Chống Dục Tính, cho sự sửa soạn cờ xí cho Tuần Lễ Hận Thù, cho sự quyên tiền cho phong trào tiết kiệm, và cho nhiều hoạt động đại loại. Làm vậy có lợi, nàng nói, đó là một cách ngụy trang. Có theo được qui tắc nhỏ, mới phá được qui tắc lớn. Nàng còn xúi Winston đầu tư một buổi chiều tối của anh bằng cách nhận một việc phụ liên quan đến đạn dược, được các Đảng viên sốt sắng tham gia. Thành thử, mỗi tuần một tối, Winston mất bốn tiếng chán ngắt ngồi vặn liền vào nhau mấy mẩu kim khí nhỏ, chắc hẳn là bộ phận của bom lửa, trong một xưởng tồi tàn, thiếu ánh sáng, ầm tiếng búa đập pha trộn inh tai với tiếng nhạc phát từ máy truyền hình.
Khi họ gặp nhau tại tháp nhà thờ, những lỗ hổng trong câu chuyện ngắt đoạn của họ được bù lấp. Bữa ấy là một buổi chiều sáng chói. Không khí trong căn phòng vuông nhỏ trên chuông nóng hãm, hôi xì mùi *** chim bồ câu. Họ ngồi nói chuyện hàng giờ trên sàn gác bụi bậm, lát cành gỗ khô, thỉnh thoảng một trong hai người đứng dậy, liếc nhìn ra ngoài qua lỗ châu mai xem có ai tới không.
Julia lên hai mươi sáu tuổi. Nàng sống trong một cư xá với ba mươi cô gái khác ("Luôn luôn sặc mùi đàn bà ! Sao em ghét đàn bà thế !" nàng chua miệng), và việc làm của nàng, như chàng dự đoán, liên quan đến máy soạn truyện tại Cục Truyện. Nàng thích công việc của nàng, phần lớn gồm việc cho chạy và tiếp liệu một máy điện mạnh nhưng phức tạp. Nàng không "thông minh" nhưng ưa dùng đến tay và thành thạo máy móc. Nàng có thể tả cả tiến trình việc soạn truyện, từ chỉ thị tổng quát xuất phát từ Ủy Ban Kế Hoạch đến bản sửa cuối cùng của Toán Tái Biên. Nhưng nàng không để ý đến sản phẩm hoàn bị. Nàng nói "không ưa đọc mấy". Sách chỉ là một phẩm vật bắt buộc phải sản xuất, cũng như thịt muối hay dây giầy.
Nàng không có kỷ niệm gì trước những năm sáu mươi, và người duy nhất hay nói chuyện về thời trước Cách Mạng mà nàng biết là một người ông mất tích khi nàng lên tám. Hồi đi học nàng là đội trưởng trong Đoàn Gián Điệp và làm thư ký ban cho Liên Đoàn Thiếu Niên trước khi gia nhập Liên Đoàn Thanh Niên Chống Dục Tính. Nàng luôn luôn được coi là một phần tử ưu tú. Nàng còn được chọn để làm việc trong Ban Khiêu Dâm (một biểu hiện chắc chắn của tiếng tốt), là một tiểu ban của Cục Truyện chuyên soạn dâm thư rẻ tiền để cung cấp cho dân đen. Ban ấy được những người làm việc trong đó đặt tên là Chuồng Phân, nàng phê. Nàng làm một năm nơi đó, giúp việc soạn những tập sách nhỏ được đóng thành bộ có nhan đề như Chuyện giật gân hay Một đêm trong trường nữ sinh được thanh niên dân đen vụng trộm mua, tưởng mua vậy là hành động bất hợp pháp.
"Các sách đó ra sao ?" Winston tò mò hỏi.
"Ồ, nhảm nhí thảm hại. Chán ngắt à, thật đấy. Chỉ có sáu cốt truyện, được đem pha trộn quanh quẩn đôi chút. Dĩ nhiên em chỉ có phận sự với kính vạn hoa thôi. Em không bao giờ có chân trong Toán Tái Biên. Em không biết hành văn, cưng ạ — dù là văn cho thứ đó."
Anh ngạc nhiên khi hay rằng mọi nhân viên trong Ban Khiêu Dâm, trừ các trưởng ban, đều là thiếu nữ. Theo lý thuyết, đàn ông khó kiềm chế bản năng sinh dục hơn đàn bà, cho nên dễ có nguy bị nhiễm uế bởi những câu văn tục tĩu do họ sử dụng.
"Ngay phụ nữ đã có chồng, chúng cũng không muốn cho làm ở đó," nàng nói thêm. "Con gái luôn luôn được coi như trong trắng hơn. Thế nhưng ít nhất có một đứa không vậy là em đây."
Nàng có chuyện dan díu đầu tiên hồi mười sáu tuổi với một Đảng viên sáu mươi tuổi sau đó phải tự tử để khỏi bị bắt. "Thế cũng hay," Julia nói, "nếu không thế nào chúng cũng khiến hắn khai ra tên em". Kế sau nàng có nhiều tình nhân khác. Đời sống theo nàng rất giản dị. Mình muốn hưởng đời; "chúng", đây chỉ Đảng, muốn ngăn mình hưởng; mình ra sức phá lệ. Nàng có vẻ coi như đương nhiên "chúng" phải muốn cướp những thú vui của con người, cũng như con người phải muốn tránh sao khỏi bị bắt. Nàng thù ghét Đảng và thể hiện cái ghét đó bằng những danh từ sống sượng nhất, nhưng nàng không phê bình Đảng một cách tổng quát. Trừ phi nó đụng tới đời sống cá nhân của nàng, nàng không quan tâm đến chủ thuyết của Đảng. Winston nhận thấy nàng không bao giờ dùng danh từ Ngôn Mới ngoại trừ những chữ đã được thông dụng. Nàng không hề nghe nói tới Hội Tình Thân và không tin vào sự hiện hữu của nó. Nàng cho cuộc nổi loạn có tổ chức nào chống Đảng cũng ngu xuẩn, vì nó bó buộc thất bại. Khôn là phải vừa phá lệ vừa sống sót. Anh mơ hồ tự hỏi có bao nhiêu người khác giống nàng trong thế hệ trẻ — những người sống trong thế giới của Cách Mạng, không biết gì hơn, chấp nhận Đảng như một hiện tượng bất di bất dịch, như trời, không nổi loạn chống uy quyền của Đảng, chỉ đơn thuần thoát ly Đảng như thỏ chuồn chó.
Họ không bàn tới chuyện cưới nhau. Chuyện này quá xa vời, không đáng nghĩ tới. Không một Ủy ban nào dám chấp thuận cho hai người lấy nhau, ngay trong trường hợp vì lẽ nào đó, Katharine, vợ Winston, không còn vướng chân anh.
"Vợ anh, chị ấy như thế nào ?" Julia hỏi.
"Cô ta đầy ý tốt, em có biết danh từ Ngôn Mới ấy không ? Có nghĩa là chính thống tự nhiên, không thể có tư tưởng xấu."
"Không, em không biết danh từ đó, nhưng em biết mẫu người ấy, quá biết."
Anh bắt đầu kể cho nàng nghe cuộc đời có vợ của anh, nhưng lạ thay nàng dường như biết những đoạn chính của câu chuyện. Làm như nàng là nhân chứng hay người trong cuộc, nàng tả cho anh sự căng thẳng mình lại của Katharine mỗi khi anh đụng tới chị ta, cách Katharine vẫn có vẻ hết sức đẩy anh ra mặc dầu tay chị ôm chặt lấy anh. Với Julia anh không ngại ngùng nói về những chuyện đó: dù sao chăng nữa, Katharine đã hết là một kỷ niệm đau đớn từ lâu, chỉ còn là một kỷ niệm khó chịu.
"Anh có thể chịu đựng được tình cảnh chừa duy một điều," anh nói. Anh kể cho nàng cái nghi thức lãnh dục nhỏ mà Katharine bắt anh phải tuân theo mỗi tuần. "Cô ta bảo thế là — nhưng em không bao giờ đoán được."
"Bổn phận của chúng ta đối với Đảng," Julia nói nhanh.
"Sao em biết ?"
"Em cũng đã từng đi học, cưng ạ. Mỗi tháng một lần nữ sinh trên mười sáu tuổi được giảng về tình dục. Tại Phong Trào Thanh Niên cũng vậy. Chúng nhồi sọ con người ta hàng năm trời: Em dám bảo chúng thành công nhiều. Nhưng dĩ nhiên khó mà chắc, vì dân chúng đạo đức giả chết đi ấy."
Nàng bắt đầu nới rộng vấn đề. Với Julia, chuyện gì cũng xoay về sinh hoạt dục tình của chính nàng. Hễ dính dáng chút nào tới chuyện này, là nàng tỏ ra rất sáng suốt. Khác với Winston, nàng nắm được thâm ý của sự chặt chẽ về tình dục của Đảng. Đó không phải chỉ vì dục tính tạo ra một thế giới riêng biệt ngoài vòng kiểm soát của Đảng cần phải bị hủy diệt nếu được. Điều quan trọng hơn là sự thiếu thốn tình dục đưa đến sự cuồng loạn, một trạng thái được Đảng mong muốn vì dễ được cải biến thành cơn sốt chiến tranh hay lòng tôn thờ kẻ lãnh đạo. Nàng giảng như sau:
"Khi mình làm tình, mình dùng hết năng lực; sau đó mình cảm thấy sung sướng chẳng màng gì tới khác. Chúng muốn mình lúc nào cũng phải sôi sục nghị lực. Các cái trò đi lên đi xuống, vỗ tay vẫy cờ chỉ là giới tính biến chua. Nếu mình sung sướng trong lòng, mình đâu cần tự kích thích với Bác, với Kế hoạch ba năm, với hai phút Hận Thù hay những trò chết thối khác của chúng ?"
Nhận xét này rất đúng, anh nghĩ. Giữa lòng trinh tiết và sự chính thống chính trị có một mối quan hệ mật thiết trực tiếp. Vì có cách nào giữ được đúng cường độ cho lòng sợ hãi, nỗi căm thù cũng như trí cuồng tín mà Đảng đòi hỏi nơi Đảng viên, ngoài cách khóa lại một bản năng mạnh mẽ để rồi dùng nó làm động lực ? Xung động tình dục nguy hiểm đối với Đảng, nên Đảng xoay chuyển nó theo hướng có lợi cho Đảng. Chúng chơi trò tương tự với tình gia đình. Gia đình thực ra không thể loại được, vậy nên dân chúng được khuyến khích yêu thương con cái, gần theo lối xưa. Mặt khác, con cái được triệt để xúi dục chống lại cha mẹ và dạy phải rình mò và báo cáo những sự trệch đường lối của cha mẹ. Gia đình đâm trở thành một chi nhánh của Cảnh Sát Tư Tưởng. Đấy là một mẹo làm cho ai cũng bị một lũ chỉ điểm thân cận vây quanh đêm ngày.
Hốt nhiên, anh lại nghĩ tới Katharine. Katharine chắc chắn đã tố cáo anh với Cảnh Sát Tư Tưởng rồi, nếu nàng không quá ngu xuẩn không dò ra tính bất chính thống của các quan điểm của anh. Nhưng cái khiến anh nhớ đến nàng lúc này là khí chiều nóng nực làm trán anh đầm đìa mồ hôi. Anh đem kể cho Julia một chuyện xảy ra, hay đúng hơn xuýt xảy ra, vào một buổi chiều hạ nực nội khác, mười một năm về trước.
Lúc đó vào khoảng ba bốn tháng sau khi anh và Katharine lấy nhau. Hai người lạc đường nhân một chuyến du hành tập thể đâu đó ở vùng Kent. Họ chỉ lẽo đẽo theo sau những người khác có vài phút, nhưng họ rẽ lầm lối và chốc sau thấy mình bị chặn ngang bởi ven một công trường đá vôi cũ. Đó là một sườn đồi cao chừng mười, hai mươi thước, lổm chổm đá bên dưới. Không có ai để hỏi đường. Khi hiểu rằng mình lạc đường, Katharine đâm ra bồn chồn khó chịu. Xa đám du hành ồn ào dù chỉ một lát đủ làm cho nàng có cảm tưởng mình hành động xấu xa. Nàng muốn quay nhanh trở lại con đường mới theo rồi tìm lối theo hướng khác. Nhưng lúc ấy Winston để ý thấy vài cụm trân châu mọc trên khe vách đá dưới chân họ. Một cụm có hai mầu, đỏ thắm và đỏ gạch, hình như mọc trên cùng một rễ. Anh chưa bao giờ thấy một chuyện như vậy trước đây, nên gọi Katharine lại xem.
"Coi kìa, Katharine ! Nhìn khóm hoa kia ! Cái cụm ở dưới chân mình. Em có thấy nó có hai mầu không ?"
Nàng đã quay đi rồi, nhưng cũng miễn cưỡng trở lại chốc lát. Nàng còn cúi mặt xuống vách đá để nhìn vào chỗ anh chỉ. Anh đứng sau lưng nàng một chút, tay đặt trên eo nàng để đỡ cho nàng đứng thẳng. Lúc đó anh bỗng nhận thấy sự hoàn toàn trơ trọi của hai người. Không một sinh vật nào xung quanh, không một nhánh lá dao động, không đến cả một con chim thức giấc. Tại một chốn như thế này, mối nguy có máy ghi âm rất nhỏ, mà có máy ghi âm chăng nữa nó cũng chỉ ghi được tiếng động thôi. Lúc đó vào giờ ngủ trưa nóng nhất. Mặt trời cháy rực trên đầu họ, mồ hôi đổ giọt trên mặt Winston. Và trong óc anh nảy ra ý nghĩ...
"Sao anh không đẩy mạnh chị ấy một cú ?" Julia nói. "Nếu là anh thì em đã làm thế rồi."
"Đúng, chắc em đã làm vậy. Anh cũng thế, nếu anh giống như anh bây giờ. Hay có thể anh cũng đã thế — anh không chắc nữa."
"Anh có tiếc đã không làm vậy không ?"
"Có. Xét cho cùng, anh có tiếc."
Họ đang ngồi cạnh nhau trên sàn bụi bậm. Anh kéo nàng sát lại gần anh hơn. Đầu nàng đặt trên vai anh, mùi thơm của tóc nàng át hẳn mùi *** chim bồ câu. Nàng quá trẻ, anh nghĩ, nàng còn trông đợi nơi đời sống, nàng không hiểu rằng đẩy một chướng ngại nhân xuống vách đá không giải quyết gì.
"Thật ra, làm hay không làm vậy cũng như nhau," anh nói.
"Thế tại sao anh tiếc không làm vậy ?"
"Chỉ vì anh thích có một hành động tích cực hơn tiêu cực. Trong ván bài đời, mình không thắng được. Có những sự thất bại này hay hơn sự thất bại khác, thế thôi."
Anh cảm thấy vai nàng nhún lên phản đối. Nàng luôn luôn nói ngược anh khi anh nói vậy. Nàng không chấp nhận như một định luật của tạo hóa sự cá nhân bao giờ cũng thất bại. Có thể nói, nàng ý thức nàng bị kết án, trước sau gì Cảnh Sát Tư Tưởng cũng bắt giết nàng, nhưng trong một phần tâm tư nàng nàng tin rằng sao đó, con người có thể xây dựng được một thế giới thầm kín để thỏa lòng sống trong đó. Chỉ cần có may mắn, mưu mô và bạo dạn. Nàng không hiểu rằng hạnh phúc là một thứ không hề có, sự đắc thắng duy nhất nằm trong một tương lai xa xôi, rất lâu sau khi mình đã chết, khi mình bắt đầu tuyên chiến với Đảng nên coi mình như một thây ma là hơn.
"Chúng ta là kẻ chết," anh nói.
"Chúng ta chưa chết," Julia bình dị chữa.
"Chỉ thể xác chúng ta còn thôi. Cho còn sáu tháng, một năm — năm năm nữa đi. Anh sợ chết. Em còn trẻ nên có lẽ em còn sợ hơn anh. Dĩ nhiên chúng ta sẽ hết sức đẩy lui cái chết. Nhưng làm thế chẳng thay đổi gì mấy. Con người còn giữ tính chất con người, cái chết với cái sống như một."
"Ồ, bậy nào ! Mới đây anh ngủ với ai, với em hay một thây ma ? Anh không vui sống sao ? Anh không thích cảm giác: đây là tôi, đây là tay tôi, đây là chân tôi, tôi có thật, tôi chắc nịch, tôi sống ! hay sao ? Anh không thích thế này à ?"
Nàng xoay người lại và áp ngực vào anh. Anh cảm thấy ngực nàng chín chắc qua bộ áo liền quần của nàng. Thân hình nàng hình như đổ ra một ít sức trẻ mạnh vào người anh.
"Có, anh thích chứ."
"Vậy thì anh ngưng nói chuyện chết chóc đi. Nghe này cưng, mình phải ấn định cuộc hẹn sau. Mình có thể trở lại chỗ trong rừng. Mình để yên chỗ ấy khá lâu rồi. Nhưng lần này anh phải tới đó bằng lối khác. Em trù tính hết cho anh. Anh lấy tàu — nhưng coi, để em vẽ ra cho anh."
Và theo tính thực tiễn của nàng, nàng gạt bụi lại thành một đống vuông, rồi với một cành khô nhỏ rút từ ổ chim câu, nàng bắt đầu họa một bản đồ trên sàn gác.
Winston nhìn quanh căn phòng ở trên gác cửa tiệm ông Charrington. Cạnh cửa sổ, cái giường kếch sù đã được làm sẵn với khăn phủ rách và gối ống không áo. Chiếc đồng hồ cổ xưa với cái mặt chia làm mười hai giờ kêu tích tắc trên hòm sưởi. Trong góc, trên chiếc bàn gấp, cái chặn giấy thủy tinh được anh mua bữa trước lóe sáng nhẹ dưới bóng mờ.
Trong chỗ chắn lò sưởi có một cái bếp dầu bằng thiếc rập, một cái xoong và hai cái tách do ông Charrington cấp. Winston châm mỏ đốt, đặt xoong nước lên đun. Anh có mang theo một bao thư đầy cà phê Chiến Thắng và vài thẻ đường tinh. Kim đồng hồ chỉ mười giờ rưỡi: thực ra là mười chín giờ hai mươi. Nàng sẽ đến vào lúc mười chín giờ rưỡi.
Điên rồ, điên rồ, tim anh không ngưng bảo anh vậy: một sự điên rồ ý thức, vô cớ, tự sát. Trong các tội trạng một Đảng viên có thể phạm phải, tội này khó giấu diếm nhất. Thực thì ý tưởng đã lởn vởn đầu tiên trong óc anh dưới lốt hình ảnh của cái chặn giấy thủy tinh chiếu trên mặt bàn gấp. Như anh dự đoán, ông Charrington không làm khó dễ trong việc cho thuê buồng. Ông ta vui mừng rõ rệt trước mấy đôn lời kiếm được. Và ông ta không tỏ vẻ khó chịu hay đồng tình thô bỉ khi hiểu Winston muốn dùng căn phòng làm nơi hẹn hò ân ái. Ngược lại, ông ta nhìn ra khoảng trung và nói chuyện xã giao, một cách ý nhị đến nỗi anh có cảm tưởng ông ta gần như vô hình. Sự đơn mật, ông ta nói, là một điều quý giá. Ai cũng muốn có một nơi để thỉnh thoảng được ở yên một mình. Và khi ai kiếm được một nơi chốn như vậy, lẽ lịch sự thông thường bắt người khác biết được phải giữ kín sự biết đó. Ông ta còn nói thêm, và khi nói vậy ông ta gần như thoát trần, căn nhà có hai lối ra vào, trong đó có một lối thông qua sân sau dẫn tới một ngõ hẻm.
Dưới cửa sổ có một người đang hát. Mặt trời tháng sáu vẫn còn cao trên không và ngoài sân đầy nắng ở dưới, một người đàn bà khổng lồ, chắc như cột Rô Man, có cánh tay đỏ vạm vỡ và một chiếc tạp dề vải buộc bụng, đang loạng choạng giữa một chậu giặt và một dây quần áo, phơi lên một loạt thứ trắng vuông được Winston nhận ra là tã con nít. Mỗi khi miệng không ngậm kẹp áo, bà ta hát lên bằng một giọng nữ trầm mạnh:
Đó chỉ là một giấc mơ vô vọng,
Thoáng qua như một buổi xuân,
Một cái nhìn, một lời nói, khuấy bao mơ mộng !
Cuỗm xa đi mất trái tim tôi !
Bài hát này lan tràn Luân Đôn mấy tuần nay. Đó là một trong vô số bản hát tương tự do một tiểu ban thuộc Cục Ca Nhạc phát hành cho dân đen. Lời của những bài đó được soạn trên một khí cụ gọi là máy làm thơ, không cần sự can thiệp của một người nào. Nhưng người đàn bà hát với một giọng du dương đến nỗi cái khúc ngớ ngẩn dễ sợ biến thành một bản ca hợp tai. Anh nghe thấy cả tiếng hát của người đàn bà lẫn tiếng giầy bà ta cào trên đá lát, tiếng la ó của trẻ con ngoài phố cùng tiếng ầm nhẹ của xe cộ ngoài xa đâu đó, mặc vậy căn phòng hình như yên tịnh lạ, nhờ sự vắng mặt của máy truyền hình.
Điên rồ, điên rồ, điên rồ ! anh lại nghĩ. Không thể tưởng tưởng được rằng hai người có thể tới lui chốn này hơn vài tuần mà không bị bắt. Nhưng sự thèm muốn có một chỗ ẩn thực sự của họ, ngay trong nhà và ở gần, quá lớn đối với họ. Một thời gian sau lần gặp nhau tại gác chuông nhà thờ, họ không sắp xếp được một cuộc hẹn nào. Giờ làm việc bị tăng khắc nghiệt để chuẩn bị Tuần Lễ Hận Thù. Còn hơn một tháng nữa mới tới tuần lễ này, nhưng công vụ sửa soạn đồ sộ phức tạp mà nó đòi hỏi đổ thêm việc vào đầu mọi người. Cuối cùng hai người sắp được một buổi chiều rảnh cùng một ngày. Họ đồng tình trở lại chỗ rừng thưa. Tới hôm trước ngày hẹn, họ gặp nhau một lát ngoài phố. Như thường lệ, Winston chỉ hé nhìn Julia khi hai người đưa mình về phía nhau, nhưng qua cái liếc đó anh thấy nàng có vẻ xanh xao hơn bình thường.
"Hỏng rồi," nàng thì thầm khi nàng thấy có thể cất tiếng an toàn. "Em muốn nói ngày mai ấy."
"Sao vậy ?"
"Chiều mai. Em không thể lại được."
"Sao vậy ?"
"Ồ, lý do thường lệ. Lần này bắt đầu sớm hơn."
Trong một lúc, anh nổi cơn phẫn nộ. Trong tháng giao du với nàng, tình dục của anh đối với nàng đã đổi chất. Hồi đầu có ít thú vui nhục dục trong đó. Sự làm tình đầu tiên của họ chỉ là một hành động của ý chí. Nhưng sau lần thứ hai, nó khác hẳn. Mùi tóc nàng, vị mồm nàng, xúc giác về da thịt nàng hình như ăn vào người anh hay vào không khí quanh anh. Nàng đã trở thành một nhu cầu thể xác, một thứ không những anh cần mà anh còn cảm thấy có quyền có. Khi nàng nói nàng không thể tới nơi hẹn được, anh có cảm tưởng nàng lừa dối anh. Nhưng đúng lúc đó, đám đông ép họ lại gần nhau và bàn tay họ vô tình chạm nhau. Nàng bóp nhanh đầu ngón tay anh, cái bóp có vẻ như không phải gợi tình dục mà tình thương của anh. Anh chợt nghĩ rằng khi sống với một phụ nữ, sự thất vọng đặc biệt này là một sự kiện bình thường, định kỳ; và một sự trìu mến thắm thiết như anh chưa từng cảm thấy trước đây đối với nàng, bỗng xâm nhập anh. Anh ước ao hai người là một cặp vợ chồng lấy nhau đã được mười năm. Anh ước ao anh đang đi chơi ngoài phố với nàng như bây giờ, nhưng một cách công khai, không sợ hãi, vừa đi vừa nói chuyện tầm phào và mua hàng lặt vặt cho gia đình. Anh ao ước nhất có một chỗ cho hai người có thể ở một mình với nhau, không có cảm tưởng bắt buộc phải làm tình mỗi khi gặp nhau. Thực ra, không phải lúc đó mà ngày hôm sau anh mới nghĩ tới việc thuê căn phòng của ông Charrington. Khi anh nêu ý đó ra với Julia, nàng chấp thuận một cách nhanh nhẩu bất ngờ. Cả hai đều biết đó là một sự điên khùng. Như thể họ cố ý tiến sát mồ họ. Ngồi đợi trên mép giường, anh lại nghĩ tới hầm Bộ Tình Yêu. Lạ sao cái ấn tượng ghê rợn tiền định ấy cứ ẩn hiện trong tâm thức anh. Kìa nó đó, ấn định trong tương lai, dẫn theo cái chết, chắc nịch như 99 đứng trước 100. Không thể tránh nó được, nhưng may ra hoãn được nó: nhưng mặc vậy, có nhiều lúc bằng một hành động hữu ý tự nguyện con người vẫn chọn rút ngắn quãng thời hoãn đó.
Anh nghĩ tới đây thì có tiếng chân bước nhanh trên cầu thang. Julia xông vào phòng. Nàng xách một túi dụng cụ bằng vải thô nâu như anh thỉnh thoảng thấy nàng xách qua lại trong Bộ. Anh nhào ra ôm lấy nàng vào lòng, nhưng nàng thoát người ra khá vội vàng, có phần vì nàng còn cầm túi dụng cụ.
"Nửa giây nữa nào," nàng nói. "Để em cho anh xem em mang gì đến hãng. Anh có đem một ít cà phê Chiến Thắng thổ tả tới không ? Em cho là có. Anh có thể bỏ nó lại, vì mình sẽ không cần tới nó. Coi này."
Nàng quỳ xuống, mở rộng túi ra và lôi ra một vài cái chìa vặn cùng một cái chìa vít chất trên mặt túi. Ở dưới là một số gói bọc giấy gọn ghẽ. Gói thứ nhất nàng đưa cho Winston có một vẻ lạ lùng tuy hơi quen thuộc. Nó đầy một chất nặng giống như cát, vụn tan mỗi khi chạm vào.
"Có phải đường đây không ?" anh hỏi.
"Đường thật. Đường, không phải đường tinh. Và đây là một ổ bánh mì — đúng là bánh mì trắng chứ không phải cái hàng chết tiệt của tụi mình đâu — và đây là một lọ mứt nhỏ. Đây nữa là một hộp sữa — nhưng coi này ! Cái này thì em thật lấy làm hãnh diện. Em phải lấy ít vải bọc nó vì —"
Nhưng nàng không cần cho chàng biết tại sao nàng phải bọc nó lại. Mùi thơm đã tỏa ra đầy phòng, một mùi thơm dồi dào ấm áp như xuất phát từ thời thơ ấu của anh, ngày nay cũng có khi bắt đón được, lúc bay ra từ một ngõ hẻm trước khi cửa đập mạnh, lúc phảng phất một cách huyền bí giữa đường phố đông người, được hít một lát sau tan biến mất.
"Đây là cà phê," anh thì thầm, "cà phê thật."
"Đó là cà phê của Đảng Trong. Có cả một ký đây này," nàng nói.
"Làm sao em kiếm ra các thứ này ?"
"Toàn là thực phẩm của Đảng Trong. Không có gì, không gì mà lũ lợn đó không có. Nhưng dĩ nhiên, bồi bàn, đầy tớ với dân chúng ăn cắp ra, mà coi này, em có cả một gói trà nhỏ nữa."
Winston đã ngồi xổm xuống cạnh nàng. Anh xé một góc gói ra.
"Đây là trà thật. Không phải lá dâu."
"Gần đây có một lô trà xuất hiện. Chúng mới chiếm được Ấn Độ hay sao đó," nàng mơ hồ nói. " Nhưng nghe này, cưng. Em muốn anh xây lưng lại em độ ba phút. Anh ra ngồi bên kia mép giường. Chớ có lại gần cửa sổ. Và chớ ngoảnh mặt lại trước khi em bảo anh."
Winston lơ đãng nhìn qua màn the. Ở dưới sân người đàn bà có cánh tay đỏ vẫn đi đi lại lại từ chậu giặt tới dây phơi quần áo. Bà ta rút thêm hai cái kẹp ra khỏi miệng rồi hát lên một cách thắm thiết:
Họ nói thời gian hàn mọi vết,
Họ nói ta luôn luôn quên hết;
Nhưng tháng năm tiếng cười với nước mắt
Vẫn quặn đau mãi mãi phím lòng ta.
Ra chiều bà ta thuộc lòng bài hát lẩm cẩm. Giọng bà ta bay bổng lên cao với khí hạ êm dịu, thật du dương nhưng đượm một vẻ buồn mãn nguyện. Có cảm tưởng như bà ta sẽ hoàn toàn vừa lòng nếu buổi chiều tối tháng sáu này bất tận, và nếu số tã vô hạn để bà ta đứng đây muôn ngàn năm phơi tã với hát lảm nhảm. Anh đột thấy lạ rằng anh chưa bao giờ được nghe một Đảng viên tự nhiên ca hát một mình. Hành động đó sẽ bị coi như hơi bất chính thống, như một sự kỳ quặc nguy hiểm, tương tự như sự nói chuyện một mình. Có lẽ chỉ khi nào dân chúng tới mức gần chết đói, họ mới có lý do để hát.
"Anh có thể quay lại được rồi," Julia nói.
Anh ngoảnh mặt lại và trong một giây anh suýt không nhận ra nàng. Thật ra anh tưởng sẽ thấy nàng lõa thể. Nhưng nàng không lõa thể. Sự biến hóa còn bất ngờ hơn thế nữa. Nàng đã vẽ mặt.
Chắc nàng đã lẻn vào một tiệm nào đó trong khu dân đen và đã mua cho mình một bộ son phấn đầy đủ. Môi nàng được tô đỏ sẫm, má nàng được đánh hồng và mũi nàng được điểm phấn lên; có cả một chút chất gì dưới mắt làm cho mắt sáng hơn. Nàng điểm trang không khéo mấy, nhưng chuẩn tắc của Winston về vấn đề này không cao lắm.
Trước đây anh chưa bao giờ thấy hay tưởng tượng ra một nữ Đảng viên với bộ mặt chát son phấn. Sự tăng sắc của nàng làm anh giật mình. Với vài vệt màu đúng chỗ, nàng trở thành không những xinh đẹp hơn nhiều, mà trên hết còn có nữ tính hơn nhiều. Mái tóc ngắn và bộ áo liền quần trẻ trung chỉ gia tăng tác hiệu đó. Khi anh ôm nàng vào lòng một luồng mùi hoa tím trút vào mũi anh. Anh liên tưởng đến một cảnh tối mờ trong hầm bếp và một miệng đàn bà hang hốc. Bà ta cũng dùng thứ nước hoa này, nhưng hiện điều đó không quan hệ.
"Cả nước hoa nữa !" anh nói.
"Phải, cả nước hoa nữa đó, cưng. Và anh có biết em sẽ làm gì nay mai không ? Em sẽ kiếm ra đâu đó một bộ đồ đàn bà thực sự, rồi mặc nó vào thay vì cái quần chết tiệt này. Em sẽ đeo bí tất lụa và đi giầy cao gót ! Trong buồng này em sẽ là một thiếu phụ chứ không phải là một đồng chí Đảng."
Họ vứt tung quần áo và leo lên cái giường to lớn bằng gỗ gụ. Đây là lần đầu tiên anh cởi truồng trước mặt nàng. Cho tới bây giờ anh quá xấu hổ vì tấm thân xanh còm của anh với tĩnh mạch trướng lồi trên bắp chân và vết khử mầu nơi mắt cá. Giường không có khăn trải, nhưng tấm khăn phủ dưới người họ sờn mịn, và kích thước cũng như đàn tính của giường làm cả hai ngạc nhiên. "Chắc nó đầy rệp, nhưng thây kệ," Julia nói. Ngày nay, chẳng thấy đâu có giường hai người, trừ phi tại nhà dân đen. Winston đã được thỉnh thoảng ngủ trong một cái giường như vậy hồi thiếu thời. Nhớ lại thế nào, Julia cũng thấy mình chưa được nằm trong đó trước đây bao giờ.
Chẳng bao lâu họ thiếp đi một giấc ngắn. Khi Winston tỉnh dậy, kim đồng hồ đã quay gần tới số chín. Anh không đụng đậy vì Julia còn ngủ gối đầu trên tay anh. Phần lớn son phấn của nàng đã chuyển sang mặt anh hay gối ống, nhưng một vết son đỏ nhẹ vẫn làm nổi bật nét đẹp của gò má nàng. Một tia nắng xế chiều rớt ngang chân giường, chiếu sáng lò sưởi nơi xoong nước đang sôi sùng sục. Dưới sân, người đàn bà đã ngưng hát, nhưng tiếng kêu của trẻ con vẫn dạt vào từ ngoài phố. Anh mơ hồ tự hỏi, nằm trên giường như thế này, trong khí ấm áp của một buổi chiều hạ, một người đàn ông với một người đàn bà lõa thể, làm tình với nhau khi hứng, nói chuyện với nhau về điều muốn nói, không cảm thấy bắt buộc phải dậy, chỉ nằm đó nghe tiếng an tịnh bên ngoài, liệu trong quá khứ đã bị hủy diệt, một sự như vậy có là một kinh nghiệm bình thường không ? Chắc không bao giờ có thời điều đó được coi như chuyện thường. Julia tỉnh giấc, rụi mắt và nhắc người trên khuỷu tay nhìn vào bếp dầu.
"Nước cạn mất một nửa rồi," nàng nói. " Để em dậy làm một ít cà phê. Mình còn một giờ nữa. Điện khu nhà anh bị cúp vào giờ nào ?"
"Hai mươi ba giờ rưỡi."
"Ở cư xá em họ cúp vào lúc hai mươi ba giờ. Nhưng phải về sớm hơn vì — Ê ! Cút đi, đồ súc sinh gớm ghiếc !"
Nàng bỗng xoắn người lại trên giường, vồ lấy một chiếc giầy trên sàn gác ném mạnh vào góc phòng, cánh tay tráng kiện bật như lò so, hệt như anh thấy nàng ném quyển tự vị vào Goldstein, buổi sáng trước, trong hai phút Hận Thù.
"Cái gì vậy ?" anh ngạc nhiên hỏi.
"Một con chuột. Em thấy nó thò cái mõm quỷ của nó ra ngoài bản gỗ bọc tường. Dưới đó có một lỗ hổng. Gì thì em cũng làm cho nó một phen bở vía."
"Chuột !" Winston lẩm bẩm. "Trong căn phòng này !"
"Đâu chẳng có chúng," Julia thản nhiên vừa nói vừa nằm xuống trở lại. "Tại cư xá em chúng ở ngay trong bếp. Có nhiều khu Luân Đôn đầy nhúc chuột. Anh có biết chúng tấn công con nít không ? Thật đó, ở vài phố, các bà không dám để trẻ con một mình tới hai phút. Dữ là cái giống to con, mầu nâu ấy. Gớm nhất là cái của quỷ ấy bao giờ cũng —"
"Đừng nói tiếp nữa !". Winston ngắt, mắt nhắm chặt.
"Cưng ơi là cưng ! Mặt anh tái mét à. Sao thế ? Bộ chúng làm anh buồn nôn ư ?"
"Khắp thế giới cái khủng khiếp nhất — một con chuột !"
Nàng ép người vào anh và vòng tay ôm anh như để làm anh vững lòng nhờ khí nóng của thân thể nàng. Anh không mở mắt ra ngay. Trong vài lát anh có cảm tưởng trở về cơn ác mộng vẫn thỉnh thoảng ám ảnh đời anh. Nó luôn luôn diễn ra tương tự. Anh đứng trước một bức tường đen tối, phía bên kia có một vật ngoài sức chịu đựng, một vật quá hãi hùng không thể chạm mặt được. Trong giấc mơ, cảm tưởng sâu đậm nhất của anh bao giờ cũng là sự tự dối lòng, vì thực ra anh biết rõ cái gì nấp sau bức tường đen. Nếu cố gắng chí tử, làm như móc một mẩu óc mình ra, anh có thể lôi vật đó ra ngoài ánh sáng. Luôn luôn khi tỉnh giấc, anh không khám phá được ra vật đó là gì: nhưng có thể nói là nó dính dáng tới điều Julia đang nói khi anh ngắt lời nàng.
"Anh xin lỗi em," anh nói. "Không có gì cả. Anh không thích chuột, thế thôi."
"Đừng phiền, cưng, mình sẽ không để cho lũ quỷ đó phá ở đây. Em sẽ bịt cái lỗ kia với ít rẻ trước khi mình ra về. Lần sau tới đây em sẽ mang một ít thạch cao bít kín nó lại."
Chửa chi chốc kinh hoảng đen tối đã có phần bị quên lãng. Hơi sượng mình, Winston ngồi dựa lưng vào đầu giường. Julia ra khỏi giường, mặc bộ áo liền quần vào rồi đi pha cà phê. Mùi thơm thoát ra từ xoong mạnh và kích thích đến nỗi họ phải đóng cửa sổ lại kẻo có người ở ngoài để ý rồi đâm tò mò. Điều thích thú hơn vị cà phê là cái thể chất sánh mịn của nó do đường gây ra, một cảm giác mà Winston đã gần như quên mất sau bao năm dùng đường tinh. Một tay đút túi quần, một tay cầm một khúc bánh mì giăm bông, Julia rảo bước quanh phòng, lơ đãng nhìn vào kệ sách, chỉ cách sửa chữa hay nhất cái bàn gấp, ném mình vào chiếc ghế bành rách xem nó có tiện khoái không, ngắm nghía cái đồng hồ hai mươi tư tiếng vô nghĩa với một điệu đùa bỡn khoan dung. Nàng mang cái chặn giấy thủy tinh tới giường để ngắm nó dưới nhiều ánh sáng hơn. Anh nhấc nó lên khỏi tay nàng, bị thôi miên như lúc đầu bởi vẻ dịu như nước mưa của thủy tinh.
"Theo anh, cái này là gì vậy ?" Julia hỏi.
"Anh cho nó chẳng là vật gì cả — Anh muốn nói, anh nghĩ nó chẳng bao giờ cốt dùng vào việc gì. Đó là điều anh thích nơi nó. Nó là một mảnh lịch sử chúng đã quên ngụy tạo. Nó là một mẩu tin xuất phát từ trăm năm trước nếu mình biết cách đọc nó."
"Còn tấm tranh kia ?" — nàng hất mặt về phía bức tranh khắc bên kia tường — "nó có được một thế kỷ không ?"
"Hơn nữa. Dám hai thế kỷ lắm. Chẳng biết chừng. Ngày nay, không thể phát giác ra tuổi tác của bất cứ vật gì."
Nàng đi lại phía bức tranh để ngắm kỹ nó. " Đây là chỗ cái con quỷ kia thò mõm ra," nàng vừa nói vừa đá vào tấm bản gỗ ở ngay dưới tranh. "Nơi này là nơi nào nhỉ ? Em đã thấy nó đâu đó trước đây rồi."
"Đó là một nhà thờ, hay ít nhất nó từng là vậy. Lấy tên Thánh Clement Danes". Đoạn bài hát mà ông Charrington dạy anh hiện lại trong óc anh, và anh nói thêm với phần luyến tiếc: "Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo ".
Trước sự ngạc nhiên của anh, nàng tiếp lời:
Anh nợ tôi ba xu, chuông Thánh Martin reo,
Khi nào anh trả tôi ? Chuông Già Bailey reo —
"Em không nhớ sau câu đó là gì. Nhưng dầu sao, em nhớ bài này tận cùng bằng: Đây là nến để đưa anh đi ngủ, đây là dao để chặt cái đầu anh."
Y như hai nửa phần chữ tiếp ký. Phải có một câu khác sau "Chuông Già Bailey". May ra nặn được nó khỏi ký ức ông Charrington nếu khéo khích lệ ông ta.
"Ai dạy em thế ?" anh hỏi.
"Ông em. Ông thường hát bài ấy cho em khi em còn nhỏ. Ông đã bị hóa hơi khi em lên tám — dù sao chăng nữa, ông mất tích. Không hiểu chanh là gì nhỉ ?" nàng bất nhất nói thêm. "Em đã được thấy cam. Đó là một thứ quả vàng tròn, có vỏ dày."
"Anh còn nhớ quả chanh," Winston nói. "Đó là một hàng rất thường vào những năm năm mươi. Nó chua đến nỗi ngửi nó thôi cũng thấy ê răng."
"Em cuộc tấm hình này có rệp đằng sau," Julia nói. " Sẽ có ngày em tháo nó xuống lau cho thật sạch. Em ước chừng đã tới giờ mình phải đi. Em phải rửa cho hết son phấn đã. Ngại ghê ! Sau thì em sẽ chùi mặt cho anh khỏi vết son."
Winston đợi vài phút nữa mới dậy. Căn phòng sầm tối. Anh quay mình về phía ánh sáng, nằm nhìn cái chặn giấy thủy tinh. Điều vô cùng thú vị không phải là mảnh san hô mà chính là cái mặt trong của thủy tinh. Nó sâu thẳm làm sao, thế mà nó lại gần trong suốt như không khí. Làm như thể mặt thủy tinh là vòm trời, bao gồm một thế giới nhỏ bé với đầy đủ khí quyển. Anh có cảm tưởng anh có thể vào trong đó, và thực sự anh đang ở trong đó cùng cái giường gỗ gụ, cái bàn gấp, cái đồng hồ và tấm tranh khắc cùng chính cái chặn giấy. Cái chặn giấy là căn phòng anh đang ở, và miếng san hô là cuộc đời Julia với cuộc đời anh được đóng chặt kiểu như muôn kiếp trong lòng thủy tinh.
Syme đã biến mất. Một buổi sáng anh không đến sở: vài người không biết nghĩ bình phẩm sự vắng mặt của anh. Ngày hôm sau không còn ai nhắc tới anh. Ngày thứ ba Winston ra tiền sảnh thuộc Cục Văn Khố xem bảng thông cáo. Một bản bố cáo kê danh sách thành phần Ủy Ban Cờ Tướng trong đó vẫn có Syme. Tờ bố cáo coi gần giống hệt trước — không có gì bị gạch — nhưng ngắn hơn một tên. Thế là đủ. Syme đã hết sống: anh không bao giờ sống trên đời.
Trời hừng nóng. Trong trận đồ Bộ, các phòng không cửa sổ được điều hòa không khí vẫn giữ nhiệt độ bình thường, nhưng bên ngoài, đá lát đốt rát chân và mùi hôi trong tàu hầm vào giờ nghẹt thật gớm. Việc chuẩn bị Tuần Lễ Hận Thù đương lúc tột độ, nhân viên các Bộ phải làm việc quá giờ. Các đám rước, phiên họp, duyệt binh, diễn văn, hình sáp, triển lãm, phim ảnh, chương trình truyền hình, việc nào cũng cần được tổ chức; phải dựng gian hàng, đắp hình nộm, đề biểu ngữ, viết bài ca, phao tin đồn, mạo hình ảnh. Đơn vị của Julia trong Cục Truyện được cất việc sản xuất truyện dài và dồn dập xuất bản một loạt văn đả kích tàn bạo. Winston, ngoài việc thường lệ, mất rất nhiều thì giờ xem lại các tập Thời Báo cũ để sửa sai hay tô điểm những tin tức sẽ được nhắc tới trong các bài diễn văn. Đêm khuya, khi đám dân đen ồn ào lũ lượt dạo phố, thành phố có vẻ bồn chồn kỳ lạ. Bom lửa đổ xuống thường hơn bao giờ hết, và thỉnh thoảng ngoài xa tít có tiếng nổ to tát không ai giải thích được xuôi nên nhiều tin đồn hoang dại.
Bản nhạc mới sẽ được dùng làm bài ca chủ đề của Tuần Lễ Hận Thù (được gọi là Hận ca) đã được soạn xong và không ngưng phát thanh trên máy truyền hình. Nó có một điệu sủa man dại, không thể được gọi hẳn là nhạc, nhưng giống tiếng trống đánh. Gào bởi hàng trăm giọng cùng nhịp với tiếng chân đi ình ịch, nó thật hãi hùng. Dân đen say mê bản đó, và nửa đêm trên đường phố nó cạnh tranh với bản "Đó là một giấc mơ vô vọng" vẫn được ưa chuộng. Con nhà Parsons chơi bản ấy vào mọi giờ ngày đêm trên lược hay giấy vệ sinh, không chịu đựng nổi. Buổi chiều tối của Winston bận rộn hơn bao giờ. Các toán tình nguyện do Parsons tổ chức sắp sửa phố cho Tuần Lễ Hận Thù, họ khâu cờ hiệu, dựng cán cờ trên mái nhà, liều mạng ném dây băng phố để chăng biểu ngữ. Parsons huyênh hoang rằng một mình Căn Nhà Chiến Thắng sẽ phô trương được bốn trăm thước cờ xí. Anh ta ở trong môi trường bẩm sinh của mình nên vui như chim sơn ca. Trời nóng và việc chân tay cho anh cớ để mặc quần đùi và áo hở ngực vào chiều tối. Anh ta có mặt một lúc khắp nơi, nào đẩy, nào kéo, nào cưa, đập lúa, ứng tác, vỗ về mọi người bằng những lời khuyến khích thân mật, và toát ra từ từng nếp thân hình anh một khối mồ hôi chua vô tận.
Một tấm bích chương mới bỗng nhiên xuất hiện khắp Luân Đôn. Nó không có chú từ, chỉ hình dung hình dáng quái dị của một tên lính Âu Á, cao ba bốn thước, đang tiến bước với khuôn mặt Mông Cổ trơ ì và đôi giầy ống kếch sù, một khẩu súng máy chĩa ra từ hông hắn. Bạn nhìn tấm bích chương từ góc nào chăng nữa, mõm súng được phóng đại bởi thuật thâu phóng vẫn hình như chĩa thẳng vào bạn. Cái ấy được dán tại khắp chỗ trống trên mọi bức tường, nhiều hơn cả hình Bác. Dân đen, thường ra thờ ơ đối với chiến tranh, bị cài vào một trận yêu nước nồng nhiệt định kỳ. Như để hòa âm với tính khí chung, bom lửa giết nhiều người hơn thường lệ. Một quả rơi xuống một rạp chiếu bóng tại Stepney, chôn vùi hàng trăm nhân mạng dưới đống nhà đổ nát. Toàn thể dân chúng vùng lân cận đến dự đám ma kéo dài dằng dặc hàng tiếng, nhưng kỳ thực đấy là một cuộc biểu tình bất bình. Một trái bom khác rớt xuống một miếng đất bỏ hoang dùng làm sân chơi, khiến hàng tá trẻ con bị tung thành mảnh. Sau đó lại có nhiều cuộc biểu tình giận dữ, hình nộm Goldstein bị đốt, hàng trăm bích chương hình dung lính Âu Á bị xé rách vứt vào lửa, và một số cửa tiệm bị cướp nhân lúc lộn xộn; rồi có tin đồn rằng bom lửa do quân gián điệp hướng dẫn nhờ làn sóng điện, và một cặp vợ chồng già bị nghi là người gốc ngoại quốc bị đốt nhà chết ngạt trong đó.
Trong căn phòng ở trên cửa tiệm ông Charrington, lúc họ tới đó được, Julia và Winston nằm cạnh nhau trên chiếc giường không khăn trải, trần truồng cho mát dưới cửa sổ mở toang. Con chuột không hề trở lại, nhưng trời nóng làm rệp sinh sản gấp bội phát gớm. Thế cũng chẳng sao. Bẩn hay sạch, căn phòng là thiên đàng. Tới nơi là họ rắc ngay khắp nơi hồ tiêu mua tại chợ đen, cởi quần áo ra và làm tình với thân thể ướt đẫm mồ hôi, rồi ngủ thiếp đi và tỉnh dậy để thấy đàn rệp đã tụ họp nhau lại sẵn sàng phản công.
Trong tháng sáu họ gặp nhau bốn, năm, sáu — bẩy lần. Winston đã bỏ thói uống rượu gin vào bất cứ giờ nào. Anh cơ hồ không thấy nó cần thiết nữa. Anh mập ra, chứng loét giãn tĩnh mạch đã lặn biến để lại một vết nâu ngoài da dưới đầu gối, cơn ho sáng sớm của anh đã ngưng. Cuộc đời không còn bất kham nữa, anh không còn xung lực nhăn mặt về phía máy truyền hình hay gân cổ chửi thề. Nay họ có một chỗ ẩn an toàn gần như một tổ ấm rồi, sự họ hiếm khi gặp nhau và mỗi lần chỉ được vài tiếng không còn làm họ đau buồn nữa. Điều quan trọng là cái căn phòng trên tiệm đồ cũ có thực. Biết nó còn đó, không bị ai xâm phạm, cũng gần như ở đó. Căn phòng là một thế giới, một túi quá khứ trong đó thú vật đã tuyệt giống còn đi lại được. Ông Charrington, theo Winston, là một thứ thú tuyệt giống ấy. Anh thường dừng chân nói chuyện với ông ta vài phút trên đường lên cầu thang. Ông già có vẻ ít khi ra khỏi nhà, và mặt khác dường như không có khách hàng. Ông ta sống một cuộc đời ma quái giữa cửa tiệm nhỏ bé tối đen và một căn bếp sau nhỏ hơn nữa, là nơi ông soạn cơm và chứa nhiều đồ đạc trong đó có một cỗ máy hát cũ kỹ với cái vành loa kếch sù. Ông ta có vẻ thích thú được dịp chuyện trò. Khi ông đi giữa khối hàng vô giá trị, với cái mũi dài dưới cặp kính dày và đôi vai khom trong chiếc vét nhung, ông luôn luôn mơ hồ có dáng của một nhà sưu tập hơn là một nhà buôn. Với một thứ nhiệt tình lỗi thời, ông có thói mân mê mảnh vật này hay mảnh vật kia — một lọ sành, một nắp hộp thuốc hít vỡ có họa màu, một chiếc mề đay bằng vàng giả đựng một cuộn tóc trẻ con đã chết từ lâu —, nhưng ông không bao giờ bảo Winston mua nó, chỉ khiến anh ngắm nó thôi. Nói chuyện với ông cũng như nghe tiếng leng keng của một hộp nhạc cũ rích. Ông đã lôi được ra khỏi ký ức ông vài mẩu nhạc đã bị quên bẵng. Có một khúc nói về hai mươi tư con chim sáo, một khúc khác nói về một con bò cái gẫy sừng, và một khúc khác nữa về cái chết của con gà Robin đáng thương. "Tôi bỗng chợt nghĩ có thể ông ưa bản này chăng ?" ông ta thường vừa nói vừa cười trừ nhẹ mỗi khi ông xướng một mẩu nhạc mới. Nhưng bài nào ông ta cũng không bao giờ nhớ nhiều hơn vài giòng.
Cả Julia lẫn Winston đều biết — có thể nói ý nghĩ này không bao giờ rời họ — rằng chuyện đang xảy ra cho họ không thể kéo dài lâu được. Có những lúc cái chết sắp đến nơi cơ hồ có thể sờ thấy được cũng như cái giường đang nằm lên, và họ ôm chặt lấy nhau với cả mối tình dục tuyệt vọng, y như một linh hồn phải sa địa ngục cố bíu lấy thú vui cuối cùng năm phút trước khi giờ điểm. Nhưng cũng có lúc họ có ảo tưởng không những được an toàn, mà còn được vĩnh cửu. Cả hai cảm thấy rằng họ còn ở trong căn phòng này, không có gì hại được họ. Tới nơi vừa khó vừa nguy hiểm, nhưng vào trong, căn phòng là một điện kín. Hệt như khi Winston nhìn vào lòng tấm chặn giấy với cảm tưởng có thể bước được vào trong thế giới thủy tinh và rồi ngăn chặn được thời gian khi vào tới trong. Nhiều khi họ thả mình mơ màng chuyện thoát ly. Vận may của họ sẽ vững mãi, họ sẽ tiếp tục dan díu như thế này cho tới mãn kiếp thiên nhiên của họ. Hay Katharine sẽ chết và nhờ khéo vận động Winston và Julia sẽ được phép lấy nhau. Hay họ sẽ tự tử cùng nhau. Hay họ sẽ biến mất, cải trang cho không ai nhận ra được, học nói giọng dân đen, kiếm việc làm tại một xưởng máy, và sống suốt đời không bị lộ tẩy trong một phố hẻo lánh. Toàn là chuyện ngớ ngẩn, cả hai đều biết vậy. Thực ra, không có lối thoát. Ngay cái dự tính có thể thực hành được, tức là tự tử, họ cũng không có ý định đem ra thực hiện. Bám vào ngày này sang ngày khác, tuần này sang tuần khác, kéo dài một hiện tại không tương lai cơ hồ là một bản năng không dằn được, hệt như buồng phổi mãi mãi hít thở khi còn không khí để thở.
Thỉnh thoảng họ cũng nói chuyện lao đầu vào sự phản kháng tích cực chống Đảng, nhưng họ không biết bước đầu phải làm sao. Dù cho Hội Tình Thân có thật, vẫn còn sự khó khăn kiếm ra cách vào hội. Anh kể cho nàng tình thân thiết lạ lùng đã có, hay hình như có, giữa anh và O Brien, cái động lực có khi thúc đẩy anh đến thẳng trước mặt O Brien khai với ông ta anh là kẻ thù của Đảng và yêu cầu ông ta giúp đỡ. Khá lạ lùng, điều này không làm nàng sửng sốt và cho là một hành động khinh suất. Nàng quen theo mặt xét người, và đối với nàng đương nhiên Winston có thể căn cứ trên cường độ của ánh mắt mà tin O Brien. Lại nữa, nàng cho rằng mặc nhiên mọi người hay gần hết mọi người thầm ghét Đảng và sẵn sàng phá lệ nếu làm vậy vẫn an toàn. Nhưng nàng từ chối tin là có, hay có thể có, một tổ chức đối lập rộng rãi. Những chuyện về Goldstein và đội quân ngầm của ông, theo nàng, chỉ là một tràng tin nhảm do Đảng bịa ra vì mục đích riêng, mình phải giả vờ tin. Quá nhiều lần, tại các buổi tập họp của Đảng và các cuộc biểu tình tự phát, nàng đã ra sức hét đòi xử tử những người nàng không bao giờ nghe thấy tên, bị khép vào tội nàng không hề tin có thật. Khi xảy ra các vụ xử án công cộng, nàng có chân trong biệt đội Liên Đoàn Thanh Niên bao quanh tòa án từ sáng tới tối thỉnh thoảng hát câu: "Xử tử quân phản nghịch !" Trong Hai Phút Hận Thù nàng luôn luôn vượt hết mọi người trong việc chửi Goldstein. Thế nhưng nàng chỉ có một ý niệm rất mơ hồ về Goldstein và những học thuyết mà ông mang tiếng biểu thị. Nàng lớn lên sau Cách Mạng và còn quá trẻ để có kỷ niệm về những cuộc đấu tranh tư tưởng thời các năm năm mươi, sáu mươi. Một phong trào chính trị độc lập là một chuyện ngoài sức tưởng tượng của nàng: dù sao chăng nữa Đảng vô địch. Đảng bao giờ cũng có và sẽ mãi mãi như vậy. Chỉ có thể chống Đảng bằng cách bất tuân ngầm, hay quá lắm, bằng những hành động lẻ tẻ như giết một người hay làm nổ vật gì.
Trên vài phương diện, nàng sáng suốt hơn Winston nhiều, và ít bị nhiễm bởi sự tuyên truyền của Đảng hơn. Có một lần, nhân trong một câu chuyện anh có nhắc qua tới chiến tranh chống Âu Á, nàng làm anh sửng sốt vì thản nhiên bảo anh rằng, theo ý nàng, chiến tranh không hề xảy ra. Các trái bom lửa đổ hàng ngày xuống Luân Đôn hẳn do chính Chính Phủ Đại Dương thả, "vừa đủ để giữ cho dân chúng khiếp sợ". Đó là một ý tưởng không bao giờ lòe trong óc anh. Nàng cũng gợi trong anh một chút lòng ganh tị khi kể cho anh rằng trong Hai Phút Hận Thù nỗi khó khăn lớn của nàng là làm sao nhịn phá lên cười. Nhưng nàng chỉ đặt thành vấn đề sự dạy bảo của Đảng khi nó có cơ dính dáng đến đời sống của chính nàng. Thường nàng sẵn sàng chấp nhận huyền thoại chính thức, chỉ vì sự khác biệt giữa sự thật và sự giả dối không quan hệ đối với nàng. Giả dụ, nàng tin Đảng sáng chế ra tàu bay vì đã học như thế ở trường. (Winston nhớ rằng thời anh còn đi học, vào những năm cuối năm mươi, Đảng chỉ tuyên bố chế ra trực thăng; mười hai năm sau, khi Julia đi học, Đảng đã nhận tàu bay do Đảng phát minh; một thế hệ nữa, sẽ tới lúc Đảng đòi chế ra máy hơi.) Và khi anh bảo nàng tàu bay có từ trước khi anh ra đời, trước Cách Mạng nhiều, nàng ngạc nhiên cho điều đó hoàn toàn không đáng lưu tâm đến. Vả lại, biết ai là kẻ sáng chế ra tàu bay có tích sự gì ? Anh khá bị xúc động hơn khi tình cờ phát giác nàng không nhớ rằng bốn năm trước Đại Dương đánh nhau với Đông Á và hòa với Âu Á. Đã đành nàng coi cả cuộc chiến như một trò hề: nhưng hiển nhiên nàng không để ý cả đến sự tên kẻ địch đã thay đổi. "Em tưởng bao giờ mình cũng đánh nhau với Âu Á," nàng mơ hồ nói. Điều này làm anh hơi sợ hãi. Việc sáng chế tàu bay có từ lâu trước khi nàng ra đời, nhưng sự thay đổi chiều hướng chiến tranh xảy ra có bốn năm trước, khi nàng đã khôn lớn. Anh tranh luận với nàng về điều đó khoảng chừng mười lăm phút. Cuối cùng anh thành công bắt nàng ôn lại ký ức cho tới khi nàng nhớ lờ mờ rằng có thời kẻ thù là Đông Á chứ không phải là Âu Á. Nhưng vấn đề đối với nàng vẫn không quan trọng gì. "Ai mà để ý ?" nàng sốt ruột nói. "Đó chỉ là một cuộc chiến chết băm này đến cuộc chiến chết tiệt kia, với lại các tin tức đều là tin bịa cả."
Có lúc anh nói chuyện với nàng về Cục Văn Khố và các sự giả mạo do anh làm trong đó. Những việc này không có vẻ làm nàng ghê tởm. Nàng không cảm thấy vực thẳm mở rộng dưới chân nàng khi nghĩ tới những sự dối trá trở thành sự thật. Anh kể cho nàng chuyện Jones, Aaronson và Rutherford, và mảnh giấy chủ yếu mà anh đã có lần cầm giữa ngón tay. Điều này không gây xúc động cho nàng. Vả lại, thoạt đầu nàng không nắm được mấu chốt chuyện.
"Họ có phải là bạn của anh không ?" nàng hỏi.
"Không, anh không hề biết họ. Họ là thành viên Đảng Trong. Ngoài ra, họ lớn tuổi hơn anh nhiều. Họ thuộc về những ngày xa xưa, trước Cách Mạng. Anh chỉ hơi biết mặt họ thôi."
"Vậy có việc gì phiền đến anh ? Lúc nào chẳng có người bị giết, không phải ư ?"
Anh cố gắng giảng cho nàng hiểu. "Đây là một trường hợp đặc biệt. Không phải chỉ là một chuyện giết ngưòi. Em có ý thức rằng quá khứ, kể từ hôm qua, đã thực sự bị hủy diệt không ? Nếu nó tồn tại nơi nào, nó chỉ ở tại vài vật bền chắc không có liên hệ với ngôn ngữ như tấm thủy tinh này. Chưa chi mình cơ hồ hoàn toàn không biết gì về Cách Mạng và những năm trước Cách Mạng. Mọi tài liệu đã bị tiêu hủy hay giả mạo, mọi sách báo đã bị viết lại, mọi hình ảnh đã bị tô lại, mọi pho tượng, đường phố hay dinh thự đã bị đổi tên, mọi ngày tháng đã bị sửa đổi. Và quá trình này ngày ngày phút phút tiếp tục. Lịch sử đã ngừng lại. Không còn gì ngoài một hiện tại vô tận trong đó Đảng luôn luôn có lý. Dĩ nhiên anh biết rằng quá khứ bị giả mạo, nhưng anh không bao giờ có thể chứng minh được điều đó, dù chính anh làm công việc giả mạo. Sau khi việc hoàn tất, không còn chứng cớ nào tồn tại. Bằng cứ độc nhất nằm trong chính óc anh, và anh không biết chắc có người nào khác chia cùng kỷ niệm với anh không. Đúng chỉ một lần, trong cả đời anh, anh cầm được một bằng chứng cụ thể sau sự kiện, hàng năm sau đó."
"Nó có lợi ích gì ?"
"Không ích lợi gì cả vì anh vứt nó đi vài phút sau. Nhưng nếu việc đó xảy ra ngày nay, anh sẽ giữ nó lại."
"Thế ư, em thì không vậy," Julia nói. "Em rất sẵn sàng liều vì nhiều chuyện xứng đáng, chứ không vì vài mẩu báo cũ. Ngay nếu anh giữ được nó, anh làm gì được với nó ?"
"Có lẽ chẳng làm được gì mấy. Nhưng nó là một bằng chứng. Nó có thể gieo hoài nghi nếu anh dám cho người khác thấy. Anh không nghĩ rằng mình có thể thay đổi gì trong sinh thời mình. Nhưng có thể tưởng tượng rằng vài nút chống đối sẽ nẩy nở đây đó — vài nhóm người liên kết với nhau và lớn mạnh dần, có thể để lại một ít tài liệu để các thế hệ sau tiếp tục công việc bỏ dở."
"Em không quan tâm đến thế hệ sau, cưng ạ. Em chỉ để ý đến chúng mình thôi."
"Em chỉ là một kẻ nổi loạn từ eo trở xuống," anh bảo nàng.
Nàng cho câu ấy hết sức dí dỏm và khoái chí choàng tay quanh người anh.
Nàng không mảy may chú tâm đến các phân nhánh trong chủ thuyết của Đảng. Mỗi khi anh bắt đầu nói chuyện về nguyên lý của Anh Xã, về ý đôi, về tính đổi thay của quá khứ, về sự phủ định thực tế khách quan, và mỗi khi anh dùng danh từ Ngôn Mới, nàng đâm chán chường, bối rối và nói nàng không bao giờ lưu ý đến những vấn đề đó. Đã biết đó là chuyện tầm phào, sao cứ để mình bận lòng với nó hoài ? Nàng biết khi nào phải hoan hô, khi nào phải hò hét, và chỉ cần biết vậy. Nếu anh cứ tiếp tục nói chuyện về những vấn đề trên, nàng có cái thói ngủ gật bất cứ giờ nào trong bất cứ tư thế nào. Nhờ nói chuyện với nàng, anh hiểu rằng tỏ vẻ chính thống trong khi mình không hề rõ chính thống nghĩa là gì thật là dễ. Có thể nói, thế giới quan của Đảng được ép nhận với nhiều thành công nhất trong lớp dân không có tư cách hiểu nó. Họ có thể bị khiến chấp nhận những sự vi phạm thực tế rõ ràng nhất, vì họ không bao giờ thấu được nỗi quá đáng của sự đòi hỏi nơi họ, vì họ không đủ óc quan tâm đến việc công để lưu ý đến sự thể đang xảy ra. Nhờ thiếu hiểu biết họ giữ được óc lành mạnh. Họ chỉ nuốt chửng mọi điều, và điều họ nuốt không làm hại họ vì nó không để lại cặn bã, y như một hạt lúa mì xuyên qua thân chim mà không bị tiêu hóa.
Cuối cùng sự việc đã xảy ra. Tin mong đợi đã tới. Cơ hồ đối với Winston, cả cuộc đời anh anh đã đợi sự này xảy ra.
Anh đang đi dọc hành lang trong Bộ, và anh gần tới chỗ Julia dúi mẩu thư trong tay anh, thì bỗng anh ý thức có một người to lớn hơn anh nhiều đang đi sau lưng anh. Người đó, là ai chăng nữa, khẽ ho, hiển nhiên như để bắt chuyện. Winston vụt dừng chân quay lại. Đó là O Brien.
Tận cùng họ chạm mặt nhau, nhưng Winston tựa như chỉ có một động lực duy nhất là chạy chốn. Tim anh đập mạnh. Liệu như anh không nói được lên lời. Thế nhưng O Brien tiếp tục tiến bước đều như cũ, tay ông đặt thân thiện trên cánh tay Winston khiến cho hai người sánh vai nhau. Ông ta bắt đầu nói với phép lịch sự đặc biệt làm ông tách hẳn phần đông thành viên Đảng Trong.
"Tôi hy vọng có cơ hội nói chuyện với anh," ông ta bảo. "Tôi có đọc một bài Ngôn mới trong Thời Báo do anh viết hôm trước. Anh quan tâm đến Ngôn Mới với tinh thần một nhà nghiên cứu, tôi nghĩ vậy có đúng chăng ?"
Winston đã lấy lại được một phần bình tĩnh. "Khó mà sánh tôi với một nhà nghiên cứu," anh nói. "Tôi không có chuyên. Đó không phải là môn của tôi. Tôi không hề dính dáng gì với việc xây dựng cụ thể ngôn ngữ đó."
"Nhưng anh viết văn mới rất trôi chẩy," O Brien đáp. "Đó không chỉ là ý kiến của tôi. Tôi có nói chuyện mới đây với một người bạn anh, chắc hẳn là một chuyên viên. Hiện tôi không nhớ ra tên anh ta."
Lại nữa tim Winston xao xuyến đến đau đớn. Không thể nghĩ rằng câu đó ám chỉ một người khác lạ hơn Syme. Nhưng Syme không những đã chết, anh đã bị hủy diệt thành một vô nhân. Bất cứ lời nào nhắc tới anh cũng cực kỳ nguy hiểm. Nhận xét của O Brien rõ ràng phải có chủ ý, như một ám hiệu, một mật mã. Với sự chia xẻ một tội tư tưởng nhỏ, ông ta đã biến hai người thành đồng lõa. Họ tiếp tục rảo bước chậm chạp trên hành lang được một lúc thì O Brien dừng chân lại. Với vẻ cởi mở thân thuộc mà ông luôn luôn có cách đặt trong cử chỉ, ông chỉnh đốn cặp kính trên mũi. Rồi ông ta nói tiếp:
"Điều tôi thực sự định nói là trong bài của anh tôi để ý thấy anh dùng hai danh từ đã lỗi thời. Nhưng hai chữ đó mới chỉ thành hủ lậu gần đây thôi. Anh đã xem quyển Từ Điển Ngôn Mới bản thứ mười chưa ?"
"Chưa," Winston nói. " Tôi không biết nó đã được xuất bản. Chúng tôi vẫn dùng bản thứ chín trong Cục Văn Khố."
"Tôi chắc phải vài tháng nữa bản thứ mười mới được phép phát hành. Nhưng đã có vài tiền bản được phổ biến. Chính tôi có một bản. Anh muốn xem qua nó chăng ?"
"Dạ, muốn lắm," Winston vừa nói vừa hiểu ngay câu chuyện đưa tới đâu.
"Có vài tiến triển rất tài tình. Như sự giảm bớt số động từ — tôi thiết nghĩ đó là điểm khích trí anh. Xem nào, tôi có nên phái người mang từ điển đến anh không nhỉ ? Phải cái tôi sợ thế nào cũng quên khuấy đi mất việc đó. Liệu anh có thể đến nhà tôi lấy nó vào ngày giờ thích hợp với anh không ? Đợi chút. Để tôi cho anh địa chỉ tôi."
Họ đang đứng trước máy truyền hình. Với một vẻ coi như vô tư, O Brien sờ vào hai túi quần lôi ra một cuốn sổ tay bọc da và một cây bút mực bằng vàng. Ngay dưới máy truyền hình, trong một tư thế ai đang nhìn bên kia máy cũng có thể đọc được điều ông viết, ông ngoáy một địa chỉ và xé trang giấy đưa cho Winston.
"Tôi thường có nhà vào chiều tối," ông ta nói. "Nếu không, người làm của tôi sẽ đưa quyển từ điển cho anh."
Ông ta rảo bước, bỏ lại Winston đang cầm mẩu giấy, lần này không cần giấu giếm. Tuy nhiên, anh cẩn thận ghi nhớ điều ghi trên giấy và vài giờ sau vứt nó vào lỗ ký ức cùng với một sấp giấy khác.
Họ nói chuyện với nhau độ vài phút là nhiều nhất. Giai đoạn chỉ có thể có một ý nghĩa thôi. Nó là một cách sắp đặt cho Winston biết địa chỉ O Brien. Nó cần thiết, vì ngoài sự hỏi thẳng, không bao giờ khám phá được chỗ ở của ai. Không có loại danh bạ nào để tra cả. "Nếu bao giờ anh muốn gặp tôi, đây là nơi kiếm được ra tôi," đó là điều O Brien đã nói với anh. Có thể còn có một thông điệp giấu đâu đó trong từ điển. Nhưng dù sao đi nữa, có một điều chắc chắn. Cuộc đồng mưu mà anh mơ tưởng tới có thật, và anh đã đạt được ngoại biên của nó.
Anh biết trước sau gì anh cũng sẽ tuân theo đề nghị của O Brien. Có thể ngày mai, có thể sau một thời gian dài — anh không biết chắc. Điều xảy ra chỉ là hậu quả của một quá trình đã khởi sự từ hàng năm trước. Bước đầu là một ý nghĩ thầm kín, không chủ tâm, bước thứ hai là sự khai trương cuốn nhật ký. Anh đã chuyển ý tưởng sang lời văn, và lời văn sang hành động. Bước cuối cùng là một sự sẽ xảy ra trong Bộ Tình Yêu. Anh đã chấp nhận điều ấy. Kết cục được chứa trong bước đầu. Nhưng nó ghê rợn: hay đúng hơn, nó giống như tiền vị của cái chết, như một sự giảm sinh lực. Ngay khi anh đang nói chuyện với O Brien, khi ý nghĩa của câu nói thấm ngầm anh, một cơn rùng mình lạnh buốt xâm nhập anh. Anh có cảm giác bước trên đất ẩm của một nấm mồ, và sự vẫn biết rằng ngôi mộ nằm đó đợi anh không giúp anh vững dạ chút nào.