Thành phố đang ở một thời điểm khó xác định phẩm chất của nó, vào lúc câu chuyện này đang diễn ra. Rồi cái thời điểm này sẽ qua đi, không bao giờ trở lại; tất nhiên. Nhưng, hiện tại thì nó giống như một đại lượng vô định, trộn lẫn trong nó đủ các yếu tố, các cực của các mặt đối lập. Đó là thời kỳ đấu tranh dữ dội và âm thầm, thời kỳ bùng nổ những cuộc tranh luận quyết liệt ở mỗi con người, thời kỳ của những cuộc phân thân, của những bi kịch đau đớn và những khúc ca thắng lợi vẻ vang.
Dẫu cay đắng cũng phải nhận rằng, thành phố ở thời điểm này là một không gian bao dung, chứa đựng ở trong mình đủ các dòng đời, và về đại thể, song song tồn tại hai quan niệm nhân sinh: một là sự tôn thờ những giá trị tinh thần cao cả, một nữa là sự sùng bái đồng tiền, biểu hiện bằng cuộc chạy đua đầy cuồng vọng để đuổi bắt những món lợi vật chất hàng ngày.
Ở đây, lúc này, có những trí thức tài năng sống bằng đồng lương có hạn, vô cùng eo hẹp bên cạnh những kẻ vô công rồi nghề sống vương giả bằng những mánh khoé lừa đảo. Những công nhân mê say, tận tuỵ trong lao động sáng tạo, ăn bữa cơm trưa với bát cơm nguội và ba quả cà muối, sống gần kề với bọn con buôn đầu cơ trục lợi no nê, phè phỡn, hút thuốc lá ngoại đầu lọc, giá mỗi điếu bằng lương công nhật một người thợ bậc cao. Những gã tư sản mới ngoi lên nhờ đục nước béo cò, trá hình dưới cái áo thành phần dân nghèo thành thị, tiểu chủ, buôn thúng bán bưng, hãnh tiến, nhơn nhơn ra tuyên ngôn về sự độc tôn vạn năng của đồng tiền, sống cùng với những người lao động thu nhập bằng sức lực của chính mình, tiêu pha phải tính toán từng hào chỉ, nhưng ngày ngày vẫn dạy con: dẫu thế nào con cũng không được chen lấn khi xếp hàng mua gạo. Các quan niệm nhân sinh đối chọi nhau. Lao động và ăn bám ở bên nhau. Cạnh những nghề nghiệp chân chính đáng kiêu hãnh của con người là những “nghề” ký sinh độc hại và các mánh khoé tàn bạo, độc địa chỉ nhăm nhăm vơ đầy túi tham.
Thành phố như một cơ thể cùng lúc tồn tại những tế bào già nua ốm yếu và những tế bào trẻ mới nẩy sinh, cái cũ cái mới chen vai thích cánh nhau.
Đã có những lúc giá cả vọt tăng, hàng ngàn cái vòi bạch tuộc quấn lấy mọi người, bọn đầu cơ chui vào chân tơ kẽ tóc đời sống, nhịp sống phố phường bị liên tục quấy đảo, và nền luân lý đạo đức có bề dày cả ngàn năm lịch sử bỗng chốc mất chân đứng ngã, lộn tùng phèo. Có mặt ở khắp các nơi, kỳ thực chỉ là những con mối đục khoét thân đê, cũng mù loà và sống trong tăm tối như thế, nhưng bọn bất lương lại tưởng mình là kẻ ngự trị thế gian, chi phối cuộc sống này. chúng sống với những nguồn làm giầu ghê gớm và với những cảm hứng mê sảng trong hưởng lạc.
Trong danh sách những tên bất lương, bất trị ở thành phố này, Thưởng là một gã trẻ tuổi rất đáng nêu danh. Thành phố có hơn một vạn cái xe máy, chiếc Hon-đa đỏ của Thưởng hoạt động hăng hái, ráo riết nhất.
Thật ra văn chương cần gì đếm xỉa đến loại hắn. Miêu tả tâm lý bọn con buôn mà làm gì! Cái xấu xa đê tiện đời nào chả có. Và thật tình chúng đơn chiều, thô giản lắm. Nhưng vì Thưởng nằm trong một cơ cấu có quan hệ đến các nhân vật khác trong chuyện nên đành phải dành cho hắn ít dòng.
Tròn ba mươi, trai ba mươi tuổi đang xoan, Thưởng đang ở thời điểm về thể chất thì sung mãn, về tính toán nghĩ suy thì dạn dầy, khôn ngoan. Bà mụ hình như đã biết trước tính tình, đường đời hắn nên đã nặn cho hắn một khuôn mặt dữ dằn và ngang ngạnh. Mặt tròn, căng bứ. Chóp mũi nhọn, sống mũi gồ. Môi dày như hai miếng thịt chắp. Mày rậm và xếch. Mắt ráo hoảnh, mi lồi, đuôi mắt dài, gai nhọn. Khuôn mặt ấy phủ một làn da tai tái vì trác táng. Khuôn mặt ấy quyến rũ đàn bà con gái lớp tiểu thị dân vì cái vẻ giang hồ, bạo tợn, vô văn hoá của nó.
Thưởng mới gia nhập xã hội thành phố. Quê hắn ở bãi Soi thuộc xã Nguyên lộc, nơi có khúc đê hiểm yếu nọ. Con một địa chủ ác bá có nợ máu, sau khi cha hắn phải đền tội trong cái cách ruộng đất, hắn sống vất vưởng và xấc xược như cỏ dại, chẳng chịu sự chăm sóc của ai. Học hết cấp một khi cá tính đã hình thành, hắn bỏ học luôn và thì thụt ra vào thành phố. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, hắn mất tích luôn. Ba năm sau hắn xuất hiện ở bãi Soi với chiếc Hon-da đỏ, áo bó, quần loe, giầy xi-mông mũi cà chua, tóc xù, mặt câng câng đầy vẻ bất cần, khinh thị. Hắn chỉ tạt qua thăm bà cô ít ngày rồi lại phới đi.
Thưởng ra thành phố, nơi đối với hắn thật sự là một khu rừng còn hoang vu. Đứng chân ở thành phố này, hắn góp phần làm cho thành phố mất ý nghĩa cuộc sống chung, thành nơi tứ chiếng quần cư, nơi tụ hội của bao đầu mối kiếm chác và tận hưởng bạo tàn. Trẻ, liều lĩnh, hắn không chấp nhận sự giới hạn của nhân phẩm, lương tâm. Hắn lao vào những cú áp-phe lớn, tham gia đường dây buôn lậu những thứ hàng quốc cấm, đặt quan hệ cả với những ông trùm nước ngoài sành sỏi từ thuật làm tiền giả tới cách rửa tiền, và móc nối với những phần tử thoái hoá nắm giữ tài sản trong cơ quan Nhà nước.
Hắn nổi danh trong đồng bọn bằng một cú áp-phe canh ty với một gã nước ngoài lừa một mụ chuyên nghề buôn lậu đá quý. Tên vô lại dựng một “ vở kịch”. Màn một, hắn đem số đá quý đến bán cho mụ phe với giá 120.000 đồng, với điều kiện chỉ lấy 2.000 đồng trước, còn bao nhiêu sẽ nhận nốt khi mụ phe bán được hàng. Đó là một điều kiện dễ dãi, dễ gây sự hoài nghi cho mụ phe. Màn hai: một người nước ngoài đến nhà mụ nọ. Người này hỏi mua đá quý và số đá quý mụ phe ngã giá với Thưởng 120.000 đồng được ông ta đật giá 150.000 đồng. Giá cả thoả thuận xong xuôi, ông ta hẹn sáng mai sẽ đem tiền đến lấy hàng. Màn ba:Ngay tối đó Thưởng đến nhà mụ phe, nói vì có việc “ đột xuất” nên hắn yêu cầu mụ phe phải trả nốt ngay số tiền mụ còn thiếu, nếu không hắn đành phải trả lại mụ 2.000 đồng đã đặt cược và lấy số đá quý nọ đi. Hàng đã có khách ăn giá, chả lẽ để tuột mất ba chục nghìn đồng tiền lãi đã ở trước nhãn tiền. Mụ phe đành rút hầu bao và vay vỏ cho đủ số tiền khổng lồ còn thiếu, nạp cho Thưởng. Màn bốn: mụ phe ngồi chờ ông khách nước ngoài tới dâng cho mụ ba chục nghìn đồng lãi ngon ơ. Nhưng than ôi! Càng chờ càng bặt vô âm tín. Chột dạ, mụ đem số đá quý nọ đi thử thì hoá ra toàn... hàng giả.
Những món lợi thu được của Thưởng ngày càng lớn dần. Giờ thì Thưởng giàu có lắm rồi. Hắn chuyển tiền thành vàng, bạc, đá quý, đem về giấu ở quê nhà - bãi Soi. Và tiếp tục lao vào cuộc vơ vét với một tham vọng điên cuồng hơn. Gần đây nhất, hắn móc nối với cả loạt nhân viên coi Tổng kho bách hoá ở thành phố, moi được hàng tấn hàng. Cả xăng, dầu, sắt thép của Nhà nước cũng vậy, cứ theo con đường ấy mà chạy ra ngoài. Phần tử căn bã này làm hư hỏng người khác bằng đồng tiền. Và đồng tiền quả là có ma lực huyền bí, đã giúp hắn chinh phục được cả cô con gái cả đẹp rực rỡ của ông Nhuần xích lô. Việc này cũng không khó khăn lắm vì chính cô ta cũng đang khát khao sự sang giầu, nỗi khao khát càng mãnh liệt vì luôn có mặc cảm mình bấy lâu sống quá nghèo hèn. Tất nhiên, cô chàng cũng có một thời gian chờn vờn anh chàng. Nhưng, đó chỉ là sự màu mè, giữ giá thông thường của một cô gái. Và chỉ trong khoảng một tuần lễ, mọi hàng rào cách trở đã được dọn dẹp, cho hai nỗi khát muốn tầm thường gặp nhau, kết thân với nhau ngay. Trọng rời thành phố được ít hôm thì cái ngõ đã xuất hiện chiếc Hon-da đỏ và gia đình ông Nhuần xích lô đã rạng rỡ mặt mày vì cô Loan có bạn trai, một gã trai trẻ tuổi lịch sự, giầu có. Thói tự ti thâm canh cố đế từ những ngày còn nghèo túng chưa gột rửa được cả đến bây giờ, khi họ đã ăn nên làm gia, đã khiến họ càng trọng vọng gã. Bà Nhuần sau khi được gã trai nọ biếu một cái nhẫn ba đồng cân thì hãnh diện ra mặt. Ông Nhuần tuy vẫn có ý thức về thành phần cơ bản của mình, nhưng cũng rất kính nể Thưởng. Lũ trẻ con được Thưởng cho quà, cho tiền luôn thì tất nhiên là rất quý chuộng gã. Riêng thằng Lùng, nạn nhân oan uổng của các vụ mất ví của Loan, thì không ưa Thưởng ra mặt. Dạo này, nó lớn vụt lên, nó bắt đầu đi làm lao động hợp đồng ở công ty xây dựng nhà ở của thành phố. Thấy bóng Thưởng là nó chụp ngay cái mũ lá lên đầu, đi ra ngõ. Ngõ 401 nhờ có sự xuất hiện chiếc xe Hon-đa của Thưởng và chiếc xe máy của người ngoại quốc đến học tiếng Pháp ở nhà ông giáo Cần, vui và sang hẳn lên. Người nước ngoài đến vào buổi sáng. Còn Thưởng, chỉ khi trời nhá nhem tối mới mò đến.
Cái ngõ ồn ĩ vì nửa tiểu đội con cái ông xích lô. Chúng vênh vang với lũ trẻ hàng xóm, chúng níu lấy tay lái chiếc Hon-đa, leo lên yên sau, tranh nhau bóp còi, la thét rất vui vẻ:
- Anh Thưởng! Anh cho em ngồi mới.
- Cho em một đồng, anh Thưởng ơi.
- Anh Thưởng cho em một điếu đầu lọc nào! Công em đưa thư cho chị Loan, anh không trả em à?
Gã trai, sau khi thoả mãn các yêu cầu của lũ trẻ, nhỏ ga lại, chân lạt xạt đất, lách cái xe vè vè vào ngõ, đến tận trước cửa nhà ông xích lô, ấn bốn tiếng còi theo nhịp nhún quen thuộc của bài hát Cu Ba La Pa-lô-ma, rồi tắt máy. Nhận được tín hiệu quy ước, Loan rời cái bàn gương trang điểm, đeo cái túi giả da,bước ra với nụ cười hồng màu hoa sen. Nàng tiên của Thưởng lộng lẫy và hơi xổng xểnh, nở nang quá độ trong cái áo hoa to, cổ rộng, xẻ vạt.
Thưởng hất hàm khi Loan đi qua cái xích lô đậu ở giữa sân, trên đó, ông thân sinh ra cô đang ngồi hai tay đặt trên tay xe như ngự trên ngai, đầu ngửa ra sau, mồm há hốc, tiếng ngáy ran như sấm. Cả hai cùng bịt mồm cười.
Thưởng vội quay xe:
- Ông bô được cái đức ngủ quên trời, quên đất.
- Tốt tiền lắm đấy.
- Bà bô đâu?
- Còn mải chợ. Dạo này bà trúng lắm!
- Tối nay em không bận chứ.
- Điệu thế!
- Sợ còn bận làm ở hãng ba tê thịt mèo, thịt chuột!
Cô gái cười khi khí, ghé mông lên yên sau xe. Xe vù ra ngõ. Trời xâm xẩm. Gã trai được ngay một phần thưởng xứng đáng: một vòng tay ôm chịt eo ếch và tấm lưng đồ sộ ran ran hơi ấm của một khuôn ngực trinh nữ.
Ấy là những giờ phút thần tiên của hai anh chị. Đừng nghĩ họ trần tục. Họ bay bổng lãng mạn với cái xe máy phóng với tốc độ chóng mặt tám mươi cây số một giờ.
- Anh Thưởng, sao chạy nhanh thế! – Loan vừa sợ vừa thích, kêu – Mà sao anh lại đi lối tắt này.
- Yên trí! Ôm chặt anh vào – Thưởng gằn giọng – Anh tránh bọn kiến vàng! (*)
Loan không nghe rõ lời Thưởng. Chiếc xe ra khỏi thành phố; lát sau băng trong đêm trăng non có hơi sương huyền ảo, họ ngửi thấy mùi gió đồng và nhìn thấy dòng sông sáng lấp lánh bên đường.
- Xong rồi! – Gã trai quay lại sau, thở phào – Hôm nay anh đưa Loan về thăm quê anh nhé. Có em phù trợ, anh phá được thế bí.
- Thế bí gì?
- Lúc nãy bọn cá (*) lượn lờ ở ngõ nhà em nhiều quá! Gã trai buột miệng – Vui rồi! Sắp tới nhà anh rồi. Kia kìa, ở giữa bãi Soi. Vụ lũ vừa qua nhà anh cao, không bận gì. Em bôi nước hoa gì mà thơm thế?
- Ông Hảo ông ấy vừa cho em một lọ. Tây đấy!
- Chơi sang nhỉ?
- Anh có biết không? Bà vợ ông ấy gửi về cho ông ấy không biết cơ man nào là hàng. Máy khâu này, Cát-xét này, Bô-giô một linh ba này, Ka-đê bốn đinh, hai cửa sổ này. Len, dạ, tơ , lụa, lon... thì vô kể. Ông ấy đọc thư bà ấy gửi về cho em, mẹ em nghe. Ông ấy cho em một cái coóc-xê ni-lon hết ý. Ông ấy bảo: “ Chúa dạy tôi, có hai cái áo hãy lấy một cái cho người không có”.
- Xoàng!
- Còn đòi thế nào?
- Anh chỉ dùng một cái cặp... nhẹ nhàng, anh tặng em cả một toà lâu đài kia. Này, thằng cha ấy mắt ** lắm.
- Ghen à?
- Hẳn đi chứ! Còn nhớ buổi gặp đầu tiên lúc em đi chơi với người yêu của em không? Còn ngửi thấy mùi cay chua đến tận bây giờ. Anh mà không mạnh, em cho anh đứng hít bụi đường rồi!
Ra vẻ giận dỗi và làm nũng, cô gái day day cái má vào lưng gã trai. Cử chỉ đó làm cho gã trai bật tiếng cười khoái trá. Cô gái cũng hoà theo tiếng cười của gã. Đối với họ, tất cả đều minh bạch rõ ràng, tựa như đồng tiền tính đếm được.
Chiếc xe bò lên đê. Nó chạy chậm hơn vì phải tránh những đống đá, đống tre xếp trên mặt đê. Mùa nước đã qua, bên phải đê, lúa mùa sớm đang làm đòng. Phía dòng sông, vàng ngời trong ánh trăng một bãi ngô vừa trổ cờ. Vệt đèn xe loá sáng.
Bỗng cô gái riết chặt gã trai và kêu to một tiếng hốt hoảng. Chiếc xe vừa tăng tốc, vọt lên. Cạnh đường đê, loáng qua bóng một chiếc xe đạp chuệnh choạng vì loá đèn và hình như nó bị đuôi xe máy quệt phải, không hiểu sao, Loan có linh cảm, người đi trên chiếc xe đạp vừa để rập xuống mái đê là Trọng. Loan sút một hơi trong lồng ngực.
- Anh Thưởng, anh đâm vào xe đạp người ta.
- Mặc mẹ nó!
Mặc! Không chút bận tâm, chiếc Hon-đa hung tợn lao như xé đường. Lưng Thưởng hừng hực. Người Thưởng nóng ran.
Lát sau, cho xe đậu lại cạnh một cái điếm cạnh đê vắng vẻ, Thưởng quay lại, nhìn chăm chắm vào cô gái đang ngơ ngác giữa khung cảnh xa lạ. Đây là công trường gia cố khúc đê Nguyên Lộc. tối thứ bảy, công nhân, dân công lên huyện xem phim cả. Tịch mịch, từ mái đê vẳng lên tiếng con dế rúc ri rỉ và ở rất xa có tiếng một người nào đó làm nhàm hát.
- Bãi Soi bên kia là nhà anh. đó, Loan – Gã trai nắm tay cô gái, giọng rộn rực, nóng nảy – Lát nữa, bà cô anh sẽ đưa đò sang đón, anh sẽ đưa em về, Loan. Loan...
- Đừng thế, anh Thưởng!
- Tiếc anh à?
Cô gái hẩy tay gã trai và cả hai đi theo chiều nghiêng của mái đê, ngược với hơi gió thu càng đêm càng rười rượi.
- Anh Thưởng ạ, em đã yêu một người con trai, anh biết rồi đấy.
- Em đã nói thế thì anh cũng xin đánh bài ngửa với em. Anh cũng không thiếu đàn bà yêu. Đã không ít đàn bà con gái qua tay anh. Nhưng với em, anh không nề hà chuyện đó. Chỉ cần em chưa... cho hắn, tức là chưa... ngủ với hắn...
- Khiếp! Anh ta hiền từ chứ không gấu như anh đâu. Ơ kìa, bỏ em ra để em nói đã. Dù sao, ttrước khi lấy anh, em cũng cần phải gặp anh ta, nói vài lời cái đã.
- Tuỳ em! Nhưng em định nói thế nào?
- Em sẽ nói: “ Anh Trọng ạ. Anh rất tốt, rất đáng kính, nhưng em không thể lấy anh làm chồng được”.
- Được! Thế là em khôn đấy. Hiện đại đấy. Còn anh, anh sẽ làm cho đời em sung sướng. Lúc này phải sướng. Đứa nào ngu, đứa ấy khổ. Anh mà làm em khổ, hoặc em tìm được nơi sung sướng hơn, em cứ nhẹ nhàng rời bỏ anh, anh cho phép. Sòng phẳng chưa nào?
Chúng ôm ghì lấy nhau, cùng cười, hoàn toàn mãn nguyện về nhau, về mình. Tuy nhiên ngồi xuống mái cỏ sườn đê, cô gái còn thoáng nghĩ: “Có lẽ đây là khúc đê anh Trọng hay nói tới trong thư viết cho mình”, rồi cô quên ngay vì những cảm hứng cuồng si vừa bốc dậy, Thưởng đã dằn ngửa cô trên mái đê và giật tung hai vạt áo hoa của cô. Quả thật nơi ấy chỉ cách cái tổ mối Trọng đào hơn chục bước chân.
Bước vào mối tình với gã con trai tên Thưởng, Loan rực rỡ như một bông hồng buổi sớm. Ngõ 401 như được trang điểm. Và cái ngõ buồn tênh khởi sắc được phần nữa cũng là nhờ ông thợ vẽ Hảo.
Ông Hảo không bôi màu cho cái ngõ. Ông thợ vẽ tôn trọng khía cạnh tục luỵ của con người phổ biến, con người tầm thường, làm cái ngõ rạng rỡ lên bằng những vải vóc, len dạ, ni-lông ông phơi ở cái sân nhỏ bé, bẩn thỉu. Những tấm tơ lụa, những áo choàng lông thú, những áo mút, chăn len, từ nước ngoài gửi về, khoe màu sặc sỡ, biến đổi cả khung cảnh nhàm chán, tẻ nhạt thường ngày. Ông Hảo là một kẻ trúng số độc đắc, đúng như tiên tri của ông thầy tử vi nọ. Bà vợ ông, một người đàn bà gốc đạo, tính khí thất thường, lúc trẻ thả mình theo những mối tình trăng gió, năm 1954 bỏ ông, di cư vào Nam, bây giờ mở một cửa hàng đồ gốm cỡ trung bình ở một thị trấn nhỏ ngoại vi Pa-ri, vào tuổi năm mươi, hồi xuân, bà bỗng nhớ lại tuổi trẻ và mối tình si đầu đời, nhớ tới ông chồng nghệ sĩ nửa mùa và động lòng trắc ẩn. Qua thư từ, bà tìm được ông. Họ lại thương nhau, sau khi đã trải qua đoạn trường mấy chục năm và vì cùng nhất trí rằng con người ta vốn là động vật, có nhiều cái thấp hèn, dung tục lắm nên lầm lẫn là tất nhiên, là dễ hiểu, vì vậy bây giờ có thể hoàn toàn thông cảm, tha thứ cho nhau, không tính đến quá khứ nữa, chỉ chấp nhận hiện tại thôi. Bà gửi tình thương muộn mằm cho ông qua những bức thư dài. Bà thể hiện nỗi ân hận chậm trễ của mình bằng những đồ hàng. Ôi chao, đất nước có bao nhiêu biến động, những mối tình cũng éo le, ly kỳ và mãnh liệt làm sao!
Ông thợ vẽ cởi bỏ hẳn vẻ bình dị, chút cao quý hình thức cuối cùng, của nhà nghệ sĩ, trong cách ăn mặc. Giờ, ông ăn mặc cho đúng với tư cách con người như ông thường nói. Vị nguyên thủ của một quốc gia đông hàng tỉ tế bào là ông một khi đã bỏ công chăm sóc đến từng tế bào một, thì lâu la gì mà cơ thể ông chẳng được nhuận sắc. Ông đẫy ngay ra. Vai nổi u, bụng xề xệ, mặt hum húp. Ông hoạt bát hơn, nhưng cũng phóng túng, phong tình hơn. Tất nhiên, ông bỏ nghề đẽo guốc, việc vẽ tranh thánh và các nghề linh tinh kiếm sống khác.
Một buổi sáng, bà Nhuần nghỉ chợ, tay chống nạnh, ngón tay vàng choé cái nhẫn ba đồng cân Thưởng tặng, đứng ở sân, nhìn thấy ông Hảo bảnh bao trong bộ com lê, đội chiếc mũ phớt mới, như sắp đi đâu, liền vuốt mép, kéo dài giọng, mát mẻ:
- Bây giờ chỉ có bác Hảo là sướng nhất thành phố này thôi!
- Sướng gì cái thằng tôi, bà ơi! - Ông thợ vẽ bỏ cái mũ phớt, gãi gãi mái đầu hoa râm, lia mắt về phía góc sân, chớt nhả - Sướng nhất ấy à... phải là... cô Loan. Tuổi trẻ này, ham muốn này, sắc đẹp này.
- Mài cái đẹp mà ăn được đấy – Bà Nhuần thưỡi cái môi dưới – Không như ma vật thì có cái hốc xịt mà bỏ vào nồi, bác ơi! Gớm, nghe thư bác gái ở bên Ba-di viết về mà chóng cả mặt. Nước người ta sung sướng như thiên đường thế chứ. Mình có loại... vét đĩa. Bác gái mỗi tháng gửi cho bác một lạng vàng thì bác tiêu sao cho hết. A, bác Hảo này, vàng lên mười tám rồi đấy!
- Tôi chả thiết vàng. Tôi xin đổi vàng lấy... cô Loan đấy.
- Thì tôi đổi nó cho bác đấy!
- Hé hé... cô Loan đồng ý không?
Loan đang kì cạch đóng guốc ở góc sân, ngẩng lên cười nhoe nhoẻn:
- Đồng ý cả hai tay!
- Thật chứ?
- Nghiêm chỉnh!
- Hé hé... Hết xảy!
Bà Nhuần cười nắc nẻ:
- Bọn con gái bây giờ ối đứa chỉ thích lấy chồng già, bác Hảo ạ. Các mẹ trẻ khôn, muốn được nâng niu, chiều chuộng mà.
Ông thợ vẽ đong đưa con mắt lẳng lơ, nửa nạc nửa mỡ, dở đùa dở thật, ông cứ tung ra những câu đùa sàm sỡ và xoi xói con mắt hai mí dầy cộm, đầy nhục thể về phía cô gái, vào cái cổ áo trễ tràng lấp ló hai bầu vú mọng của cô.
Ông Nhuần đánh xong bộ ấm chén, từ bờ giếng, lũn chũn bước về. Trong bếp, bà cụ già vừa chẻ củi vừa làu bàu cái gì. Ông Nhuần cau mặt lườm bà vợ:
- Còn đứng đấy lải nhải cái gì! Không sửa soạn để mời các bác ấy lên à.
Nghe trong giọng nói, hình như ông có điều gì ấm ức với bà vợ.
*
Ở bộ xa lông gỗ lát ngồi ba người đàn ông. Ông Nhuần khoác cái áo vét ka ki rộng thùng thình. Ông thợ vẽ diện bộ com-lê mới màu da chuột. Giản dị, mực thước, ông giáo Cần mặc áo đại cán màu xanh rêu. Không khí có một vẻ trịnh trọng khác thường. Bàn thờ tổ tiên ngan ngát khói hương. Bà cụ thân sinh ông Nhuần lọ mọ bổ cau trên bộ phản kê ở giữa nhà. Dưới bếp, bà Nhuần đang sào mực.
- Mời bác.
Ông Hảo chìa bao ba số về phía ông giáo Cần. Ông Cần tay sờ cổ, tay xua xua, mặt hắt héo buồn buồn:
- Cám ơn bác. Cho tôi xin phép. Mấy hôm nay tôi bị viêm họng ho nhiều.
- Hôm qua có gì mà bác to tiếng với tay chuyên gia ấy thế?
- Tôi giảng cho nó nghe chuyện Sơn Tinh- Thuỷ Tinh, chuyện Phù Đổng Thiên Vương. Nó cứ bắt bẻ lý sự cùn, lại còn cả gan nói dân tộc mình không thể đẻ ra được những áng văn thơ lãng mạn tuyệt vời như thế được.
Bà Nhuần bưng đĩa thịt xào từ bếp lên đặt xuống bàn, chen ngang vào câu chuyện:
- Cái ông vẫn đi chiếc xe máy lùn tì đến học bác ấy à? Trông người Tây họ đẹp nhỉ? Mình đứng cạnh họ thật cứ như anh ốm đói!
Ông Nhuần kéo hai ống tay áo vét, nhấc chai rượu Lúa mới, phồng mồm:
- Ốm đói! ốm đói mà vật Tây ngã chổng kềnh ra đấy.
- Có mà vật chai rượu!
- Hà hà...
Ông Hảo búng tàn thuốc:
- Muốn nói gì thì nói, ừ thì họ là tư bản, là đế quốc thực dân mới, vân vân và vân vân, đời sống họ vẫn cứ là cao hơn mình. Mà... anh Cần ạ. Chủ nghĩa tư bản giờ nó khác trước lắm, không như hồi anh du học ở bên Pa-ri, càng không như thời ông Các Mác, ông Lê-nin đâu.
- Thì nó vẫn là chủ nghĩa tư bản! - Ông Cần đáp thản nhiên.
- Đã đành! - Ông thợ vẽ ngúc ngoắc cổ – Nhưng mà mình phải và thực sự cầu thị khi đánh giá nó chứ.
Bà Nhuần xoa xoa hai tay:
- Em thì chả biết chủ nghĩa chủ nghiếc gì cả. Em chỉ là phó thường dân. Chỉ muốn ngày ba bữa thẳng cẳng, muốn ăn gì có nấy, muốn mặc gì có nấy. Tối nằm nghe cải lương Lan và Điệp là hết ý.
Ông Nhuần nhăn mặt, lườm vợ:
- Nói thế mà cũng đòi nói. Ăn sung mặc sướng mà làm thằng nô lệ có được không? Ngày xưa ấy các bác ạ, nói trộm Chính phủ, chứ tiếng là xích lô mà tôi sung túc hơn bây giờ. Nhưng ấy là nói về cái sự vật chất thôi. Còn như cái mặt tinh thần, hừ, kéo cái xe, thằng Tây nó ngồi trên, nó đập chân xuống sàn, giục: “A-lê-vít!”, ức không chịu được! Nay, ăn no mặc ấm, nhà cửa đang hoàng, con cái không lo trở thành ma cô ** điếm, thế là nhờ có xã hội chủ nghĩa chứ! Nhân câu chuyện cũng muốn nói để hai bác thông cảm. Hai vợ chồng tôi hồi này cứ lục đục suốt. Có gì đâu. Tôi là tôi quyết xin vào làm hợp đồng cho Quốc doanh Phát hành sách thành phố. Họ mới thành lập đoàn vận tải mà. Bà ấy lại không nghe. Đồng tiền mà làm gì, hả hai bác? Có nhiều ăn nhiều. Có ít ăn ít. Cái quý là ở tiếng thơm phục vụ xã hội chứ, có phải không, hai bác?
Ông Hảo cười nửa miệng:
- Bác Nhuần giai xem chừng giản đơn hơn bác Nhuần gái nhiều.
Như được thể, tuy chẳng hiểu rõ ý tứ ông thợ vẽ, bà Nhuần nguýt chồng một cái rõ dài:
- Chỉ được cái nói ngang là không ai bằng. Đang chuyện nọ lại xọ chuyện kia. Nào ai người ta chê trách chế độ? Người ta nói là so mình với các nước Tây ấy chứ. Chậc! Chung quy cái anh ngu thì cứ là khổ!
Câu cuối cùng rõ ràng bà Nhuần dành để đay nghiến chồng.
- Hà hà...
Ông Nhuần cười dàn hoà. Chính ông cũng hay tắc tị khi tranh luận với bà. Dẫu sao ông cũng ngay thật, giản dị, không tinh quái, lắm khát khao và lý sự như bà. Vả lại, bây giờ đâu có phải là lúc tranh cãi. Ông ngả chai rót đầy bốn chén rượu, trân trọng nâng lên, đặt từng chén trước mặt hai ông khách. Rồi ông so đũa, đặt xuống bên cạnh chén rượu và xoa xoa hai tay:
- Để mời các bác xơi chén rượu ạ.
- Lấy cho mẹ ít rau thơm, Loan ơi – Bà Nhuần nhổm lên, véo von vào cái bếp, rồi quay lại ngỏn nghoẻn – Dạ, để mời hai bác...
Loan bưng đĩa rau thơm vào buồng, mặt ưng ửng đỏ vì hơi than lửa. Liếc cô gái bằng con mắt đa tình, ông thợ vẽ hít hà, thích thú:
- Có chuyện gì mà ông bà chiêu đãi chúng tôi sang thế này!
- Có gì đâu mà gọi là đãi, hả bác! – Bà Nhuần đứng dậy, như sực nhớ điều gì - Rượu, mực đều là của anh Thưởng cháu cả. Kìa, bố nó có ý kiến với các bác đi.
Tợp một hợp rượu, mặt ông Nhuần đã đỏ gắt. Ông mắc cái tật: hễ cứ rượu vào là mắt díp. Ông lại không có khẩu khiếu. Bây giờ ông cứ gập mặt xuống chén rượu, lý nhí:
- Dạ dạ, chẳng nói giấu gì hai bác. Hai bác ở đây cũng như người nhà... Con gái lớn... là... con người ta...
Cúi xuống ông Cần nhấc chén rượu. Chén rượu nặng quá và ngực ông bỗng sụt hẫng một nhịp. Thôi, thế là ông hiểu hết đầu đuôi câu chuyện rồi.
Bà Nhuần từ ngoài cửa đi vào, ngồi xuống ghế, mau mắn:
- Dạ, bố cháu đã có ý kiến với hai bác, em cũng xin có ý kiến thêm ạ. Cháu Loan nó cũng nhận xét anh Thưởng cháu là con người tử tế. Nói để hai bác mừng cho cháu. Anh ấy ăn nói đĩnh đạc, đàng hoàng lắm kia. Cháu Loan nó cũng đã về tận nhà anh ấy xem. Bà cô tám mươi mà phúc hậu lắm. Răng chưa rụng cái nào. Của chìm của nổi thì nói làm gì. Cốt nhất là cháu được gửi vào nơi có nhân đức, hai bác ạ.
“Trọng, con ơi!”. Hiểu Trọng, và cũng đã nhận ra mối tình của con trai và cô gái hàng xóm này là hết sức mong manh từ lâu rồi, vậy mà lúc này, ông Cần vẫn nấc thầm một tiếng than đau đớn. Ông vội nhấp một hớp rượu. Mắt ông nhoà nhoà. Ông thấy ông thợ vẽ cười cợt, mắt nhấp nháy, nghiêng ngả. Ông nhạn ra mặt ông Nhuần đờ đẫn, như kẻ ngoài cuộc. Ông biết, trong việc này, kẻ quyết định là bà Nhuần. Hai con mắt bà Nhuần đang cháy lên những tia kiêu căng, phớn phở. Chao ôi! Cái ý hướng thăng tiến trong đời sống vật chất ở lớp người này, ông giáo hoàn toàn có thể thông cảm, nhưng sao ông vẫn thấy buồn thế!
Trái hẳn với ông giáo, ông thợ vẽ linh hoạt hẳn lên khi bữa rượu bắt đầu. Ông nhấc chén ầm ỹ. Ông thọc đũa vào đĩa mực tới tấp. Môi ông nhờn bóng. Ông nhai nhọp nhẹp đầy vẻ khoái lạc, tận hưởng. Thói tham lam, tính phàm ăn của ông bộc lộ ngay cả khi ông nói, ông vừa nói vừa gắp.
- Ông bà tính toán thế cũng phải. Tôi mà có con gái, tôi phải gả cháu vào nơi cửa cao nhà rộng, giàu có, sung sướng. Đời người được mấy gang tay, tội gì.
- Dạ, anh cháu nghe đâu cũng là đi bộ đội về đấy ạ - Bà Nhuần thêm.
- Không! Hạnh phúc là cái gì cụ thể, trực tiếp, hiện tại, ngay giờ phút này, tức khắc, chứ đừng viển vông.
Ông thợ vẽ vung đũa. Nghe chừng thấy bà vợ ông Nhuần không hiểu cái lý sự cao xa của mình, ông liền hạ giọng:
- Bà Nhuần ơi, nói thế này để bà hiểu nhé: “Thế kỷ hai mươi thế kỷ tiền. Quân tử không tiền, quân tử điên!”. Có đúng không nào!
Đón một đĩa lòng lợn cô Loan bưng lên tiếp, đặt xuống mâm, bà Nhuần nhìn ông hoạ sĩ, cười ỏn ẻn:
- Nó cũng là cái duyên cái số, hai bác ạ. Đấy, cứ như em với ông Nhuần nhà này, gặp nhau ở thành phố, phải lòng nhau rồi em dắt ông ấy về quê cho các cụ xem mặt. Ôi giời, các cụ nhà em cứ đay đả: “ Con Lụa kia, cái thằng lù đù như chuột phải khói nó bỏ bùa mê thuốc lú cho mày hay sao thế, con?”. Khi khí... ấy thế. Gần thì chẳng bén duyên cho... Ông Nhuần! Ơ kìa, khỉ gió cái nhà ông này. Giót rượu mời các bác ấy đi chứ! Ngủ đấy à!
Lúc ấy, Trọng dắt cái xe đạp vênh vành đi vào ngõ. Trọng về vội vì có tin: Căn bệnh của Nam đang ở vào tình trạng hiểm nghèo. Từ trong nhà ông bà Nhuần, người nhìn thấy Trọng đầu tiên là ông Hảo. Ông thợ vẽ đập tay ông Cần, ghé tai ông giáo, nói bằng tiếng Pháp, với một vẻ vui đùa rất vô tình và không đúng chỗ:
- Thật là trái hẳn với huyền thoại! Thuỷ Tinh đã rước mất Mị Nương! Anh chàng Sơn Tinh tội nghiệp của chúng ta chậm chân rồi, anh Cần ạ.
Mặt ông giáo bỗng tối sầm.
Trọng có cảm giác đã nghe thấy giọng nói của người nọ một lần, ở đâu đó rồi. Trong những âm thanh xô bồ của cuộc sống, những thanh âm ấy chỉ vang lên bên tai anh có một lần thôi, trong một lúc rất ngắn ngủi thôi, vậy mà sao nó lại để lại cho anh một ấn tượng lâu bền đến thế. Đó là một giọng nói sôi nổi nhưng đằm thắm vô cùng và có một sự thống thiết kỳ lạ giữa nội dung lời nói với âm lượng, âm sắc cùng ngữ điệu. Nam có nhiều bạn bè, nhưng Trọng chưa được biết người bạn nào có giọng nói như thế này.
Do vậy, đáng lẽ bước vào phòng bệnh nhân thăm Nam thì Trọng dừng lại ở cửa, lắng nghe cuộc đối thoại của người bạn nọ với Nam và anh tự nhủ, có lẽ suốt đời anh sẽ không quên những câu nói của họ ở giây phút này.
- Cậu nói cho mình nghe đi – Giọng Nam thều thào, đầy cố gắng và thiết tha – Mình không có báo đọc, không có đài nghe. Mình gần như bị tách ra khỏi đời sống. Sao họ lại muốn mình chết trước khi chết thật nhỉ?
Một giây im lặng hết sức cảm động ngay sau khi Nam vừa dứt lời. Và sau đó, người nọ hình như hơi cúi xuống làm một động tác gì đó như là kéo chăn cho Nam chẳng hạn và giọng anh hỏi có phần xao xác:
- Ông muốn nghe cái gì nào, Nam ơi?
- Những chuyện vui... Không, không... Những chuyện có thật. à, có biết việc khai thác dầu hoả, việc xây dựng công trình thuỷ điện sông Đà không? Thành phố mình đã làm thêm được những điều kỳ diệu gì nữa rồi?
- Nam ơi, nếu một sớm mai cậu khoẻ lại, cậu nhảy lên xe đạp, cậu đạp vòng quanh thành phố, ra vùng ngoại ô, chắc chắn cậu sẽ vui lên, khoẻ thêm rất nhiều. Lúa mùa sớm đang gặt. Hàng chục nhà máy đang xây... à mà thôi, không nên nói cụ thể. Cụ thể không có ích gì cả. Lúc này phải toàn cục.
- Toàn cục? – Giọng Nam thoáng hơi cười.
- Toàn cục chứ – Người nọ dằn mạnh – Nghĩa là dân mình vẫn đang còn đói, đang còn khổ sở trăm bề, tiêu cực còn nhan nhản ngoài đời, nhưng vẫn đang say sưa làm những chuyện kinh thiên động địa. Cũng nên lưu ý, nhìn đời cho biện chứng. Xã hội hiện nay như một chậu nước bị khuấy lên. Theo cùng một mô-men lực, tất cả đều quay tròn. ở trung tâm vòng xoay, tức là ở thành phố, vòng quay so với vòng ngoài xoay tít hơn và lắng nhiều cặn hơn, nên dễ bị lừa rằng: ở đây lắm cặn bã ghê gớm quá. Đừng nên nhìn nhận sự việc một cách cảm tính như thế!
- Cậu vẫn lãng mạn!
- Không đúng. Mình có con mắt hiện thực nghiêm ngặt. Vẫn nhìn rất rõ từng cái vòi bạch tuộc trong đời sống. Có thể kể cho cậu nghe từng vụ việc công an bắt bọn phe phẩy, trộm cắp. Có thể lên danh sách bọn quan nha thoái hoá biến chất. Còn biết bao điều phi lý trong cuộc sống và lý thuyết của chúng ta. Nhưng, cậu hãy cứ khẳng định hộ tớ rằng, cậu đang nằm giữa cái biển sôi động của cuộc sống, của cách mạng đấy.
- Cậu vẫn làm thơ đấy à?
- Thôi rồi. Mình đã đem tặng thư viện toàn bộ số sách văn học mình đã ki cóp. Mình không có tài. Vả lại, phải cho bền chí câu cua, mặc ai câu cá, câu rùa mặc ai. - Từ nhà thơ đi, đến nhà kỹ thuật. Đời người có chỗ bắt đầu và có nơi đi tới. Đời tớ không được như thế.
- Không, tớ không đi từ đâu đến đâu cả. Cậu cũng vậy. Cậu luân chuyển trong một giới hạn, nhưng đó là một khoảng trời rất đẹp, Nam ạ. Cậu sống vững vàng, khoẻ khoắn. Cậu như cái cột trụ trời. Cậu là thần trụ trời.
- Mình không hay lắm đâu. Mình hơi bị chai đi trước những cái xấu.
- Không đúng đâu, Nam ạ. Cậu chưa phân tích được bản thân cậu. Ngọn cao phong không ngắm nhìn được mình. Tớ nhìn cậu rõ hơn. Vì tớ vừa giống cậu, vừa hơi khác cậu. Cậu là nhà cách mạng ở trong cuộc. Cậu nhận thức được cái tất yếu của thời kỳ này. Và cậu lẳng lặng làm việc, không rên la, để mau chóng chấm dứt nó.
- Còn cậu?
- Hãy khoan, để tớ nói hết. Cậu giác ngộ chân lý từ bản năng rồi nâng lên thành lý tính, do đó cậu vững chãi vô cùng. Còn tớ, tớ bắt đầu từ lý trí.
- Không hẳn thế đâu!
- Thế đấy. Tớ nói cậu nghe. ở cậu, động lực duy nhất không bao giờ suy suyển là lý tưởng, cậu bất cần hiện thực, hiện thực dầu có xấu xa thế nào cũng không mảy may ảnh hưởng đến niềm tin vào chân lý sắt đá của cậu. ở tớ, và những anh em khác, sức mạnh là sự kết hợp cả lý tưởng và hiện thực. Hai lực này càng cách xa nhau bao nhiêu thì hợp lực càng yếu bấy nhiêu. Có kẻ, hai lực đó ngược chiều nhau thì chống đối nhau. Còn ở tớ, tớ phải dùng lý trí để kéo hai lực đó lại, chồng khớp nhau, hay ít ra là gần nhau để tạo nên một hợp lực mạnh.
- Cậu giải thích sức mạnh con người bằng vật lý học lớp sáu.
- Thật thế đấy, Nam à. Vấn đề bây giờ với bọn tớ là cách nhìn hiện thực. Làm thơ, tớ không thành đạt gì cả. Nhưng, nhờ làm thơ mà tớ trở nên thống nhất hơn giữa hiện tại và huyền thoại.
- Tớ sẽ nhớ ý kiến này của cậu và chết xuống âm phủ tớ sẽ nghiền ngẫm thêm.
Người nọ bật một tiếng cười nhỏ. Và sau đó giọng Nam bỗng hạ xuống yếu ớt, run rẩy lạ lùng:
- Cậu... hứa với tớ đi. Di chúc của tớ đấy. Cậu phải về phụ trách công việc thay tớ. Phòng mình, còn vị thành niên lắm, nó cần một người như cậu.
Bàng hoàng, Trọng đẩy cửa bước vào. Anh đã hiểu người nọ là ai rồi. Anh đã không lầm. Người vừa say sưa nói chuyện với Nam chính là người đến tặng sách thư viện thành phố buổi nào anh đã gặp. Nhưng anh ta đã đi ra, né ở cửa, nhường lối cho Trọng vào. Một khuôn mặt dung dị, dễ mến. Đôi mắt kính cận trong sáng, vầng trán cao, hơi phẳng, và một thái độ hết sức khiêm nhường, hơi khép kín, khác hẳn lúc tự nói về mình.
“ Chào anh”. Người nọ đi ra cửa. Trọng bước vào căn buồng bệnh nhân. Sao vắng vẻ thế này? Nam đâu? Cảnh vừa diễn ra như là không có thật.
*
- Anh Nam ơi!
Trọng nghẹn lời, cúi xuống cái hình người duỗi dài phủ một tấm vỏ chăn xanh, không thể nghĩ rằng đó là Nam vừa nãy còn theo đuổi cuộc đối thoại rất hào hứng với anh bạn nọ. Không thể nghĩ rằng đó là thân thể một con người, nó nhỏ teo, mong manh quá và gương mặt vàng bủng với đôi mắt nhắm nghiền mất hết mối liên hệ với thời cuộc kia lại có thể là gương mặt Nam.
Nhưng, cái chăn bỗng động đậy và gương mặt ấy tự dưng bừng nở một sinh lực; đôi môi Nam hé mở, khô nẻ, nhợt nhạt và thoáng ánh cười: hai con mắt chớp chớp Nam đang gắng sức thu lấy cái thần thái vừa bị lạc đi trong phút hôn mê bất thần.
Nam đang ở giữa biên giới của thực tại và vĩnh viễn. Nam như một chấm lửa đã lụi, chợt đón được một hơi gió, hồng lên.
- Trọng đấy à?
Thở hắt ra, tưởng như đẩy khỏi phổi tất cả khối không khí ứ nén, chết lặng từ nãy đến giờ, Trọng cúi sát xuống mặt Nam:
- Anh Nam, em đây. Trọng đây. Em vừa ở Nguyên Lộc về. Đừng, anh đừng ngồi dậy.
Không! Cái thân hình gầy xác, hoàn toàn hao kiệt ấy vẫn cứ gượng dậy. Và trên gương mặt héo hắt, cái chết đã chập chờn phủ bóng, tựa như vừa xuất hiện một trạng thái thiên thần; hai con mắt Nam ngước lên, leo lét một thứ ánh sáng chói gắt. Trời! Có thể như thế không? Trong mỗi con người vẫn có những khoảng sâu, ở đó linh hồn thoát khỏi mọi sự kiềm toả, sống độc lập với thể chất? Kia, quanh gối Nam, dưới chân giường Nam, ngổn ngang, lẫn với quà cáp của bạn bè gửi tới, là những tập bản thảo, tư liệu giấy và bút, Nam vẫn làm việc. Trời! Chẳng lẽ là sự sống vẫn tồn tại và biết đâu đang hồi phục trong Nam.
- Tờ-rai! Hãy tin tưởng! – Nam nhệch cười, giọng khê đặc – Bác sĩ mổ cho mình rồi, có hy vọng. Nhưng, hiện giờ trong bụng mình có một quả lựu đạn đã mở chốt. Nếu biết thế này thì... phải sống có ích hơn, gấp rút làm việc hơn.
Ngọn nến hy vọng vừa thắp lại chấp chới trong gió. Trọng gai hết cả người. Nhưng không, kìa, mặt Nam lại rạng lên, ngời ngời:
- Trọng có khoẻ không? Công việc đến đâu rồi? Mình hy vọng là tốt. Rất tốt.
Dâng lên ngực Trọng một nỗi đau nghẹn không lời. Căn buồng thốt im phắc. Những cái giường mạ kền lạnh toát. Nơi nằm của các con bệnh
hiểm nghèo ở gác hai, cửa sổ ngó ra một vùng trời thu âu sầu, thanh tĩnh, rập rờn một cành me gầy đã thưa lá.
Ghé ngồi xuống cạnh Nam, Trọng kể vắn tắt những việc đã làm và thấy Nam, tâm trí vẫn sáng suốt, hoàn toàn tuân theo một hướng đi, gật gật đầu mỗi khi anh dứt mỗi ý, với một vẻ hài lòng hết sức điềm tĩnh và tự nhiên.
Bỗng nhiên lúc ấy có tiếng la thét ở phòng bên. Nam hơi chổm dậy, nhìn ra. Loáng thoáng bóng áo trắng chạy vội qua cửa. Và lát sau, trong không khí đẫm một vẻ hoang vắng rất lạ, một người bé nhỏ lùng thùng trong bộ quần áo bệnh nhân, tay sách một chùm bánh chưng bước vào phòng:
- Thế là một ông bạn nữa đi rồi!
Nam thở một hơi dài. Trọng đứng dậy. Người bé nhỏ đặt sâu bánh lên cái tủ nhỏ:
- Anh Nam ăn bánh nhé. Ông bạn lý luận gia về hợp lực của ông về rồi à. Anh có nhiều bạn quý thật đấy. Mỗi anh một vẻ mà xem ra ông nào cũng tâm huyết. Nghe họ nói chuyện thấy đời vẫn đẹp lắm. Anh ăn đi. ờ, cả anh nữa.
Người nọ nhìn Trọng. Trọng lắc đầu. Nam cười:
- Tôi không đói, chán thế cơ chứ!
- Tôi thì đói liên miên – Người bé nhỏ cười, phô hàm răng trắng bóng, rồi leo lên giường, đập đập hai chân, bóc bánh – Phải cố mà ăn, anh Nam ạ. Ăn để khoẻ, để về chứ! Tôi nhớ cái máy kéo, nhớ bạn bè quá. Có bạn tốt, yêu đời lắm. A, cái ông vừa rồi ở đâu thế? Tay này trí thức rộng và sâu đấy. Không như cái cậu gì tên là Hưng nhỉ?
Hết cái bánh, lau miệng, người nọ ngả lưng. Khi Nam kể về bạn mình, người vừa nói chuyện với anh, chàng kỹ sư vật lý, thì anh ta đã thiu thiu.
Cửa phòng lại mở, lẹp xẹp tiếng dép lê. Ngó vào cửa ba bốn mái đầu hoa râm. Thì ra các bệnh nhân ở phòng bên gọi Nam đi đánh tổ tôm.
- Các bác cho tôi xin phép. Có anh bạn vào thăm nhân thể bàn bạc chút công tác.
Lại bừng lên trong Trọng một niềm vui bất ngờ. Giọng Nam đột ngột có khí sắc. Nam vẫn khoẻ. Phải rồi, Nam vẫn làm việc đấy thôi. Quanh Nam đầy sách vở, tài liệu. Nam không phải giấu cô hộ lý nữa. Báo cáo về lũ sông Hồng của Noóc-măng-đanh, tổng công trình sư Bắc Kỳ. Báo cáo của Pây-ta-vanh, Boóc-nô, Ru-ăng..., những số liệu về khí tượng, thuỷ văn. Các văn bảo tổng kết. Bản thảo về hiện tượng nứt đê Nhị Lang... Nam vẫn là người trong cuộc. Không một sức mạnh nào có thể bứt Nam ra khỏi cuộc sống. Nam vẫn ở trong dòng đời băng tới.
Nam vẫn khoẻ, lạy Trời cho Nam khoẻ, Nam khoẻ thật. Kìa, Nam lại nói:
- Nói ngay nhé: sẽ có một kỹ sư vật lý hỗ trợ Trọng trong đề tài tìm, diệt mối. Còn một chuyện nữa. Hưng dến đây. Hưng bảo: chân lý là cái lý
có chân. Hưng mà cả: ỉm cái vụ vỡ cống Lợi Toàn đi thì Hưng sẽ tìm thầy tìm thuốc, đảm bảo khỏi bệnh cho mình.
- Khốn nạn!
Người bé nhỏ bật ngay dậy chửi, hoá ra anh ta không ngủ.
Nam nhệch cười đau đớn:
- Mình bảo Hưng: mình không muốn trước khi chết phải nghe những lời như thế. Hưng ngượng. Hưng kể vừa đọc xong cuốn “ Hít le và lò thiêu dân Do Thái”. Hưng than: Ôi, con người cuối cùng chỉ còn là một cụm khói xanh...
- Anh Nam!
Trọng thốt kêu. Giọng Nam bỗng chuệch choạng thế nào. Nhưng Nam đã choàng dậy, đưa đôi tay vàng nhợt sờ soạng.
- Anh Nam, anh tìm cái gì?
- Không không...
- Để em tìm cho.
- Cái bản thảo... về vụ vỡ cống Lợi Toàn... ờ ờ... Đâu rồi... Thiết kế sai. Ngày 28 phát hiện vòi phun. Mồng hai có lệnh điều thợ lặn đến... Hưng lừng chừng, kêu không có tiền tầu xe. Mồng tám, thợ lặn đến thì lỗ thủng to bằng con trâu rồi. Nhục nhã quá, không một cây tre, không một cân đá dự phòng. Hưng phụ trách ở đó... Tội gấp hai... Mực nước mới chỉ tám mét... Nhục... Ơ kìa! Bản thảo đâu rồi? Hay là... Thôi chết! Hưng! Chẳng lẽ Hưng lấy đi rồi à?
Nam thét một tiếng, bật ngửa ra phía sau. Trọng vội nhao tới đỡ vai Nam. Nam oằn người. Đặt Nam nằm xuống giường, Trọng kinh hoàng nhận thấy mặt Nam bỗng nhợt thếch, vàng xỉn và trên trán anh nháng một lớp mồ hôi lạnh toát. Cơn kịch phát của căn bệnh ập đến đồng thời với nỗi căm giận Hưng đã hút hết tâm sức anh.
Nam nằm, mắt Nam lờ đờ. Chỉ còn môi Nam mấp máy. Từ đó thoát ra những tiếng nói đứt nối, nghiêng ngả, xiêu vẹo.
- Anh Nam!
Trọng gào thất thanh. Mắt Nam buột mở ngơ ngác rồi lại khép kín. Người bé nhỏ vùng ngay dậy. Đám tổ tôm ở phòng bên chạy sang.
- Gọi bác sĩ trực. Nhanh lên!
- Khổ quá! Ông ấy còn say việc lắm.
- Thu dọn tài liệu cho anh ấy. Đặt anh ấy nằm thẳng lại.
Một bác sĩ dong dỏng cao bước vào. Ông vạch mắt Nam, lắc đầu. Vành mi trong không một chút màu hồng. Nam nằm ruỗi thẳng, xẹp như một lóng xương, mồm ho hó, thở trong từng cơn nấc, như hớp lấy không khí, như thèm không khí vô cùng.
*
Con người kia là Nam ư? Vô lý! Ôm chồng sách báo, hai mắt kính mỗi lúc một nhoè mờ và hình sắc Nam đang hấp hối trong con mắt ông giáo Cần mỗi lúc một biến dạng đi, chìm dần vào một màn sương mù dày đặc.
Con người đang hấp hối kia, đang sắp trở về với hư vô kia là người bạn vong niên của ông ư? Không có lý. Chẳng lẽ cái con người có kiến thức vững vàng, có tư duy độc lập, có bản lĩnh ngay thẳng, trung trực đang hết sức cần thiết cho đời lại đang đi về cõi chết! Trớ trêu quá! Nam đang kéo dài thêm ít phút nữa sự sống. Vòi ô-xy níu anh với đời. Anh há miệng, trong hôn mê, ngực co rút từng đợt, môi hớp tham lam từng ngụm khí trời.
Có lẽ nào đời bạc đãi đến kiệt cùng như thế với Nam? Có lẽ nào đời con người đáng yêu, đáng quý này toàn những chương bi đát! Con người này đáng phải được đời ưu đãi vào bậc nhất. Vì con người này suốt cuộc đời đã chống lại sự gian trá trong công việc, đã tận tuỵ hiến dâng toàn bộ sức lực, trí tuệ cho sự an toàn của những con đê. Anh là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về đê. Anh đã thiết kế, thi công hàng chục công trình thuỷ lợi, đê điều mà bây giờ sự vững chãi của chúng nâng chúng nên thành những đài kỷ niệm mãi mãi nhắc tên anh. Kỹ sư tốt nghiệp học viện thuỷ lợi khoá bốn sau khi rời tay súng bộ đội chống Pháp, anh có tiểu sử gần như trùng hợp với lịch sử ngành thuỷ lợi của tỉnh. Đó là một con người có hình dáng một nhân vật tiểu thuyết, bởi vì chung quanh anh đã dăng dăng một tấm màn lung linh các huyền thoại. Anh đã cứu sống những con đê bằng sự quên mình của anh. Anh đã cứu cả một xóm, một làng khỏi cơn tai hoạ của trận hồng thuỷ. Và có nơi người ta yêu cầu được lập miếu thờ anh, tôn anh lên bậc thánh ngay cả khi anh còn sống.
Nhưng, con người ấy lại chịu thiệt thòi hơn ai hết. Lương anh thấp, chức vụ anh không tương xứng với tài năng. Bọn tài hèn đức kém tạo ra xung quanh anh một bầu không khí ghen ghét, đê tiện. Anh trung thực và kiên trì chân lý nên trở thành kẻ bất phục tùng dưới con mắt những người lãnh đạo thiển cận. Anh không chấp nhận sự ngu dốt, thói dạy đời, tính cẩu thả, vô trách nhiệm. Anh không ưa sự tâng bốc, anh căm ghét tính xiểm nịnh, lối chỉ huy chỉ dựa vào quyền lực.
Anh làm mất lòng cấp trên trực tiếp của anh. Giá trị thực của anh bị xuyên tạc. Công việc của anh bị trắc trở. Đời riêng anh lận đận. Hơn bốn mươi tuổi đầu, anh vẫn chưa có được một tình yêu xứng đáng. Vậy mà anh không buồn nản. Chẳng phải vì anh tự an ủi: Lối đi khúc khuỷu là lối đi của thiên tài. Không! Anh vững chãi như cái trụ đá vì tất cả sự sống, tính tình của anh thuộc về một bản năng vững bền được trí tuệ đổ móng đá hộc. Anh ngay thẳng, hăng hái một cách hồn nhiên. Bản tính ấy của anh tạo nên chất đề kháng, không hề bị xao xuyến vì các thói đời xấu xa. Anh không rên la, không buồn nản, cứ vui vẻ trong đội ngũ cùng đồng chí hăm hở đi tới đích mình nhằm.
Con người ấy chẳng lẽ đang nằm kia ư? Không có lý! Con người ấy phải sống thật lâu và sau này khi cái chết tất yếu bắt phải từ giã cõi đời này, anh ắt phải trở về thế giới thiên đường, nơi dành cho các danh nhân, liệt sĩ, anh hùng, trong thần khúc của Đăng-tơ vĩ đại mới phải!
- Anh ấy đi rồi!
Cô hộ lý thoát một tiếng nói đau nhức, gục ngay xuống thành giường Nam, nức nở:
- Hôm qua anh ấy bảo tôi: “ Từ hôm nay tôi không giấu cô nữa, và cô cũng đừng cấm tôi làm việc nữa nhé. Thời gian gấp lắm rồi, cô ạ”. Tôi đã thấy lo lo...
Cái sàn lát đá hoa dưới chân Trọng bỗng như sụt xuống một khoảng sâu đen ngòm. Trọng vội níu lấy thành giường.
Người bệnh bé nhỏ oà khóc, mếu máo:
- Khổ quá, hôm nọ anh ấy bảo tôi: Đồng chí bác sĩ ơi, đồng chí thấy cần thì cứ mổ xẻ ngay tôi đi. Tôi hiến thân thể tôi cho y học, để các thế hệ loài người không bó tay trước căn bệnh quái ác này nữa đây!
Ông giáo Cần buột rơi chồng sách báo xuống đất. Người bác sĩ cúi xuống nhặt số sách báo ông giáo để rơi, đứng dậy, thở một hơi dài:
- Ngành y còn bất lực! Thế là quá khứ đã chiến thắng.
Quá khứ đã chiến thắng! Cái mệnh đề gì mà khủng khiếp thế! Sững sờ, ông Cần bước những bước đờ đẫn ra ngoài hành lang. Ông đứng lặng một lúc. Trong mớ hiểu biết lúc này mù mù hỗn độn, ông chập chờn nhận ra rằng ông bác sĩ đã nói tới một lý thuyết về căn bệnh ung thư đang được lưu hành. Trong những nhiễm sắc thể của con người, có những vùng bị tước mất quyền hạn và nghĩa vụ, nhưng chúng vẫn sống, vẫn tồn tại và bị khống chế bởi các nhóm hoá học. Nhưng có một lúc nào đó, vòng khống chế bị phá huỷ, các tế bào già nua nọ bỗng quên mất chức năng của mình, chúng tái sinh, lan rộng, o ép, gây nguy hiểm cho sự sống xung quanh. Như vậy là quá khứ đã rất xa rồi vẫn sống và can thiệp vào sự sống hiện thời một cách thô bạo và đầy quyền thế! Chao ôi! Quá khứ chiến thắng hiện tại, chiến thắng tương lai. Hiện tượng cá biệt này trong y học chẳng lẽ lại có ý nghĩa tiêu biểu, phổ quát cho toàn bộ cuộc sống ư? Đứng lặng, ông giáo Cần chìm trong nỗi buồn thảm thiết, vô vọng.
Cầu thang có tiếng chân nhiều người bước vội. Một người đeo kính trắng nhẩy hai bậc một, lao ngay vào phòng. Sau đó, ló dần lên, ông Tiễu, ông Chánh và ba cô gái ở tổ đánh máy chữ.
Vừa thấy Trọng ở trong phòng bước ra, ông Tiễu xô tới, kêu rất lạc lõng:
- Trọng! Thằng Hưng được đề bạt quyền trưởng phòng rồi. Nam thế nào rồi, Trọng!
Trọng không đáp, lặng lẽ đi tới cạnh ông Cần.
Trong buồng có tiếng kêu đau đớn của người đeo kính trắng và tiếng khóc nức lên của ba cô gái. Tiếng khóc của họ làm giá lạnh thêm làn không khí chiều thu ảm đạm.
Lát sau, từ giường Nam nằm, cất lên tiếng nói rất rành mạch, khô khan của ông Chánh:
- Thôi, mời các vị tạm ra ngoài, để cơ quan chúng tôi làm thủ tục khai tử và tang lễ, mai táng cho đồng chí Nam của chúng tôi nào!
Dường như là một phần tinh thần và thể xác Trọng đã ra đi cùng với cái chết của Nam. Vẫn biết tình yêu của anh với Loan vô cùng mong manh, nhưng tin Loan sắp đi lấy chồng vẫn gây bất ngờ và đau đớn cho anh. Anh vừa mất đi một cái gì hệ trọng quá. Suốt đêm, Trọng đi lang thang trong thành phố, ngất ngư trong một cơn bão ngầm.
Gần sáng, nghe đài báo trời sắp mưa bão, Trọng như sực tỉnh. Anh bám ô tô buýt lên Uỷ ban khoa học kỹ thuật tỉnh tìm người đeo kính trắng, bạn của Nam. Hai người đã gặp nhau lúc đi đưa đám Nam. Bàn bạc công việc, anh ấy hứa sẽ hết sức giúp đỡ Trọng tiếp tục công việc tìm, diệt tổ mối trong thân đê.
Buổi sáng, trời u ám. Thành phố xám nhờ dưới những tầng mây đen nặng. Trọng về tới cơ quan thì trời nổi gió và bắt đầu mưa.
Ông Chánh kính chễ mũi, liếc nhìn Trọng đang lúi húi thu dọn tài liệu trên bàn, đứng dậy, đi ra cửa kính, mặt hớn hở vì một niền vui mênh mông nào đó, chúm môi thổi sáo và gõ cạch cạch vào ô kính:
- Hà, hết mùa nắng lửa mưa dầu rồi mà vẫn lại có bão! Cơn bão số mấy thế không biết?
Hưng ngồi chễm trệ ở cái bàn của Nam, bàn trưởng phòng, ngẩng lên:
- Cơn bão số 13, cơn bão Om-ga.
- Om-ga! Tên như tên con gái ấy nhỉ!
- Thì đúng là như vậy – Hưng cười – Thế giới đặt tên cơn bão toàn bằng tên con gái: An-na, Béc-ky, Đô-ly, Nen-ly, Phi-phi, On-ga. Hừ, gái đẹp gắn liền với giông bão, do chính họ gây ra. Có phải thể không, cô Vân?
Vân xinh nhất trong ba cô đánh máy từ lâu là mục tiêu theo đuổi của Hưng. Nhưng gần đây, Hưng cảm thấy rất rõ cô bé ngày càng xa lánh anh. Hôm nay thì cô lạnh nhạt hẳn, cô không trả lời anh. Mặt buồn rười rượi, cô đang lắp giấy vào ru-lô. Tình và Ngà cũng đang sửa soạn máy. Cái chết của trưởng phòng Nam để lại một nỗi buồn vô hạn cho các cô.
- Bác Chánh, cháu vẫn tiếp tục đánh tài liệu chứ ạ? – Cô Vân quay lại. Ông Chánh bước vội tới, ấn mục kỉnh vào tinh mũi, nhìn xuống bàn máy:
- Mấy cái bản báo cáo... của anh Nam ấy à?
- Vâng.
- Có nhẽ... thôi, cô ạ. Giấy má đang khan, ruy-băng cũng hiếm. Vả lại, anh ấy còn đâu nữa mà nghiên với cứu. Để tôi xin ý kiến anh Hưng, nhưng cứ màn màn đã.
- Bác Chánh ạ - Ngẩng lên, Vân gài vạt tóc ra sau tai, uể oải – Cháu mệt quá. Cháu muốn xin nghỉ phép hôm nay.
- Hôm qua anh đưa anh Nam xuống tận nghĩa địa cơ à?
- Vâng, cả Tình, Ngà, cháu. Chúng cháu thương anh ấy quá.
Ông Chánh phà một hơi thở, nhìn ra ô cửa kính đã bám đầy hơi nước mưa:
- Mưa thế này mát mẻ cho anh Nam đây. Thôi, thế cũng là mồ yên mả đẹp. Nghĩ... cũng tội. Họ hàng ở xa. Vợ, chưa kịp lấy. Tôi, cậu Trọng phải thay mặt gia đình bỏ hòn đất đầu tiên xuống huyệt. Mà cái ông này cũng kỳ. Sổ tiết kiệm còn nhõn một đồng rưỡi. Không hiểu có còn ai vay nợ không?
Hưng đặt cái bút đánh cạch, nhìn sang, thản nhiên:
- Cô thương cũng chẳng chống lại được quy luật.
- Chỉ tiếc anh ấy đang dở mấy công trình - Ông Chánh than thật thà.
Hưng xì hơi qua môi, rành mạch:
- Đời vô nghĩa lý thật! Một cụm khói xanh trong lò hoả thiêu. Một nắm xương tàn hư vô. Nhưng mà đời là thế, không có sự chết thì không có tiến hoá.
- Khiếp quá! – Cô Tình và cô Ngà cùng bật kêu.
Ông Chánh cười hà hà đỡ lời cho quyền trưởng phòng:
- Các cô sợ à! Nhưng mà... nếu các cô đã học triết học duy vật biện chứng thì các cô sẽ thấy đó là cái lẽ đương nhiên thôi... hà hà.
- Vậy thì cháu không được khóc thương mà phải cười vui à? Cô Vân xịu mặt, tức tưởi. Cô Ngà trề môi:
- Có khi phải đốt pháo ăn mừng nữa chứ!
- Hà hà... có ai nói thế! - Ông Chánh lắc đầu - Đây là nói riêng về mặt triết lý. Chứ còn...
Mưa đổ ào một đợt. Gió đẩy cửa, bay tung tả những giấy tờ trên mặt bàn. Trọng vội tìm cái chặn giấy. Liếc sang bàn Hưng, anh không còn thấy quả bom bi của Nam. Hưng đã xoá hết dấu vết cả Nam. Bàn ghế đã kê lại. Bàn ông Tiễu, ngay hôm ông về hưu, đã được khiêng ra ngoài hành lang. “Tạnh mưa phải đi ngay”. Trọng nghĩ bức bối, cúi xuống ngăn bàn tìm mấy tài liệu cũ.
Lúc ấy, Trọng không biết: Ông Chánh thỉnh thoảng vẫn nhìn trộm anh. Anh cũng không biết: Thỉnh thoảng Hưng lại đưa mắt đánh ám hiệu cho ông Chánh. Không gian chật hẹp của căn phòng qua lại hai sóng thông tin, ông Chánh và Hưng đang trao đổi lần cuối cùng những ý đồ của họ về anh.
*
Cuối cùng, sau cái gật đầu dứt khoát của Hưng, ông Chánh theo thói quen vâng lời cấp trên, đi thẳng đến cái bàn Trọng ngồi.
- Đồng chí Trọng, tôi có việc cần gặp đồng chí.
Kéo ghế, ông Chánh tự động ngồi xuống trước Trọng. Hình như ông hơi chần chừ. Nhưng quay lại, nhận được ánh mắt khích lệ của Hưng, ông liền e hèm.
- Này Trọng, thu dọn làm gì vội thế?
Trọng vẫn đang cắm cúi lục lọi ngăn bàn:
- Vâng, tôi xong ngay đây.
- Này, ta ra ngoài hành lang cho tiện đi!
Ông Chánh xịch ghế đứng lên. Trọng đóng ngăn bàn, đứng dậy, đi theo ông.
Họ đứng áp vào bậu cửa sổ, nhìn ra ngoài khung cửa mưa đang rơi tầm tã. Nhận ra vẻ trịnh trọng cố ý và có phần thật thà của ông phó bí thư, nay là quyền bí thư chi bộ, Trọng hiểu ngay rằng anh sắp phải nghe một điều quan trọng. Quả nhiên, ông Chánh nhìn thẳng vào mặt anh, lên giọng:
- Đồng chí Trọng! Tôi... thay mặt chi uỷ, nhân danh quyền bí thư, nói để đồng chí biết: Việc xét đơn gia nhập Đảng của đồng chí phải hoãn lại vô thời hạn.
Một ngọn búa vừa bổ trúng đầu Trọng. Choáng váng, Trọng vội đưa tay bám vào gờ khuôn cửa sổ.
- Hoãn lại? Sao lại hoãn lại vô thời hạn?
- Đồng chí cứ bình tĩnh. Bình tĩnh! Kìa, sao mặt lại tái đi như thế - Ông Chánh lạnh lùng – Dẫu thế nào cậu cũng là một quần chúng, một cán bộ tốt của Đảng cơ mà. Xác định như thế nhé. Được chưa? Còn bây giờ nghe tôi nói. Trước hết, lá đơn cậu viết không nghiêm chỉnh.
- Không nghiêm chỉnh!
- Đây – Rút từ trong túi quần sau ra một tờ giấy gấp tám mở ra, lá đơn Trọng viết với tất cả tâm huyết của mình, ông Chánh đập ngón tay vào mặt trang giấy đầy chữ, giọng đột ngột gay gắt như đang trong cuộc tranh luận – Cậu viết thế này thì làm sao mà ổn được! “ Tôi xin vào Đảng vì tôi thấy mình gần Đảng từ tâm hồn đến ý thức hệ!”. Sao lại thế? Tâm hồn, tâm hiếc gì ở đây! Phải nói là: “ Được sự giáo dục xít xao, có hiệu quả của chi uỷ, chi bộ, tôi đã giác ngộ...”. Đây nữa “ Là con người, phải có lý tưởng để tôn thờ”. Thờ phụng gì ở đây? Duy tâm! Chỗ này nữa: “ Tôi xin dâng Đảng công trình của tôi cho đất nước, cho dân tộc”. Nghe nó thiếu khiêm tốn quá, cậu có thấy không? Nhưng, nặng nhất là câu đầu này: “ Giữa những ngày đói kém gian khổ, khó khăn và có những kẻ dao động này...”. Sao lại gian khổ, khó khăn, dao động? Ai đói kém? Ai khó khăn? Ai dao động? Trình độ cậu như thế là quá non yếu đấy, Trọng ạ. Chưa kể những mặt khác...
Trọng không thể kêu được một tiếng nào nữa. Vừa nghe ông Chánh phê phán những khuyết tật khác của lá đơn, anh vừa nhận lại lá đơn, mặt cúi gầm, gấp lại, tủi hổ như một kẻ mang trọng tội. Con người thô sơ giản lược nhiều khi lại vô tình ác hại hơn một kẻ phức tạp, lắm mưu mô là thế. Anh kêu sao được nữa! Bởi vì đây không phải là chuyện chữ nghĩa. Đằng sau sự vặn vẹo câu chữ, nghe ông Chánh nói thêm, anh hiểu thêm rằng, còn bao nhiêu vấn đề hệ trọng khác; kể cả chuyện lý lịch ba anh, mối quan hệ của anh với Nam, tính kiêu ngạo, vô kỷ luật của anh – kể cả việc anh tự động trở về thăm Nam vừa rồi, đã là những nguyên nhân chủ yếu đẩy anh ra khỏi niềm ao ước, tin yêu của anh.
Rũ xuống như một cái cây héo, Trọng lặng lẽ đi vào phòng. Nhưng, ông Chánh lại gọi giật anh, và lần này anh phát hoảng:
- Sao, tôi ở lại, không xuống Nguyên Lộc nữa?
- Đây là lệnh của đồng chí Quyền Trưởng phòng, tôi chỉ có nhiệm vụ truyền đạt thôi.
Ông Chánh đáp, cũng hết sức giản đơn và thật lòng.
Trọng xộc ngay vào buồng, đi thẳng tới bàn Hưng.
Con người đứng sau tất cả các sự kiện vừa xẩy ra, nhận ra hành động của anh kỹ sư trẻ nọ hơi đường đột, ngẩng lên, có ý đề phòng, nhưng vẫn điềm nhiên. Nét trơ trẽn thoáng hiện ở khoé mép nhếch, cái cười nửa miệng đầy vẻ tự thị, ngạo mạn của anh.
Hưng, quyền trưởng phòng! Hưng, không biến dạng! Hưng chỉ đổi thay trong giới hạn: Năng lực có hạn, giỏi biến báo ứng phó, thích nghi. Trước cái xấu xa của dục vọng, thế gian có nhiều thái độ khác nhau. Người coi khinh nó, lấy mũ ni che tai, chỉ biết hậm hực, than vãn, lấy duy ngã độc thanh cao làm lẽ sống, đó là hình ảnh ông giáo Cần. Lại có kẻ lấy chửi bới, đập phá để chống trả, như ông già Tiễu ác khẩu đã về hưu. Những nhân cách khác hiểu rõ ngọn nguồn của cái xấu, giữ mình và dùng ngay mình làm lực lượng đối kháng với nó, xây dựng cái đẹp ở ngay bản thân mình. Hưng khác với ba lớp người trên. Hưng biết tất cả các biểu hiện của mọi xấu xa, đê tiện, nhưng chấp nhận nó như một tất yếu và sẵn sàng trở thành thủ lĩnh của nó. Hưng khác vợ chồng ông xích lô: Họ không có ý thức về cái xấu. Hưng không giống ông thợ vẽ Hảo không gốc rễ, dung tục, buông tuồng. Hưng đứng trong khuôn khổ, tắc lưỡi thầm: “ Đời là thế cả”, Hưng tha hoá một cách có ý thức.
Ấy là một khía cạnh của sự tầm thường có ý thức và biết tận dụng quyền lực. Sau khi đã nắm trong tay chiếc vương trượng quyền uy, việc đầu tiên của nó là tuyển mộ vây cánh. Ông Chánh được chấp nhận liền vào đội ngũ nọ. Con người thô giản này dễ bị sai khiến vì cũng có tham vọng, những tham vọng nho nhỏ thôi, vài đồng lương, tí danh vọng, chẳng hạn, trước khi về hưu trí. Nam chết, ấy là thời cơ của Hưng và phần nào cũng là của ông cán bộ gốc gác nông dân này.
Nam chết, Hưng mở cờ trong bụng. Vụ vỡ cống, vỡ đê Lợi Toàn thế là ỉm được và bằng mọi cách để ỉm được. Chức trưởng phòng lại ở trong tầm tay. Trở ngại mọi mặt chỉ còn là Trọng.
- Có lẽ ông Chánh chưa truyền đạt hết ý của tôi – Hưng nhìn Trọng, bỗng hạ giọng – Tôi muốn xem xét xếp đặt lại toàn bộ công việc. Bây giờ lại đang là mùa khô, Trọng ạ.
Cái giọng mềm mại ngọt nhạt ấy làm tan biến ngay cơn bực bội của Trọng và vụ va chạm lần trước laị hiện ra như một lời cảnh tỉnh anh.
- Tôi xin báo cáo với anh.
- Báo cáo báo cầy gì. Ông Nam mất là một thiệt thòi lớn cho chúng ta. Mình chối từ thì còn gì là anh Đảng viên. Đành nhận. Chứ làm anh kỹ sư nhăng nhố khoái hơn chứ.
“ Quả là anh ta rất nhăng nhố!”. Trọng nghĩ và bỗng thấy bứt rứt, khó chịu vì phải nhập một vai kịch trái hẳn nết của mình.
- Công việc của tôi – Trọng thấy không thể nhẫn nhục hơn được nữa - đang ở vào lúc phải gấp rút hoàn thành. Tôi đã nhờ được một nhóm thợ chế tạo cho cái máy phun vữa. Các anh bên Uỷ ban khoa học- kỹ thuật tỉnh hứa sẽ giúp đỡ...
- Ồ, ông vẫn say sưa cái công việc dò tìm ổ mối cổ sơ thế cơ à? Hưng nhướn hai cái vòi lông mày. Mắt Hưng trố lồi ra. Một sự kinh ngạc hơi thái quá. Chính cái sự thái quá ấy làm Trọng giật mình. Anh vừa nhận ra sự giả dối, vờ vĩnh của Hưng.
- Lấy tình bè bạn mình thành thật khuyên ông nên ngừng cái công việc ấy đi, Trọng ạ.
- Ngừng thế nào được!
- Cổ lỗ quá rồi.
- Không cổ!
- Tài năng và trí thông minh của cậu hơi bị lãng phí đấy, Trọng ạ.
- Anh nhầm! Ưu điểm lớn nhất của cách làm này mà các phương pháp khác không thể có được là nó xác định được tổ mối về mặt định tính.
- Ồi, nói những điều ấy với nhau ở đây có ích gì!
- Tôi nói thế để yêu cầu được tiếp tục công việc. Nhất định tôi phải tiếp tục công việc tôi đang làm!
Hưng đứng vụt ngay dậy, mặt lạnh băng:
- Nhân danh lãnh đạo phòng. Tôi yêu cầu anh ở lại cơ quan.
- Hơi sớm đấy, ông Quyền trưởng phòng ạ.
- Yêu cầu chấp hành!
- Tôi khiếu nại – Trọng đập tay xuống bàn – Tôi xin gặp đồng chí thủ trưởng cơ quan.
- Đây là quyết định không thay đổi của phòng và cũng là của cơ quan!
Hưng quay đi, mặt hầm hầm, bước ra cửa.
*
Thủ trưởng cơ quan kiêm bí thư Đảng uỷ đi họp ở Trung ương một tuần. Trọng đành ở lại cơ quan, ăn, ngủ, làm việc ngay tại văn phòng.
Đó là những ngày buồn thảm, nặng nề của đời Trọng. Những buổi tối rỗi rãi, anh cũng không dám tạt về ngõ 401 thăm ba anh. Đêm thứ sáu anh mê một cơn mê hãi hùng: anh chết vì đuối sức trong lúc hàn đê vỡ, ngồi trên cái xe chở linh cữu của anh có Loan và ba cô gái ở tổ máy chữ. Tỉnh dậy, anh kinh hoàng, mồ hôi ướt đầm áo quần. Trời, sao anh sợ chết đến thế! Mà cái chết thì có tránh được đâu. Mỗi sinh vật đều vậy, không thể có hai lần sinh, hai lần chết. Con a-míp sống hai mươi giờ. Con giun đất, mười năm. Đỉa, hăm nhăm năm. Cá chép, rùa, hai trăm, ba trăm năm. Cây chò, một nghìn năm. Ngọc am một vạn năm. Sớm muộn, tất cả đều phải... chết. Và đành rằng giá trị cuộc sống của con người không tính bằng năm tháng, nhưng một cuộc sống có giá trị lại cần, rất cần năm, tháng để triển khai, bộc lộ. Nam đã chết. Còn anh, anh đang chết mòn.
Trọng ngồi lặng trong đêm. Đó là những giây phút đối lập với những khoảng khắc bừng sáng bao cảm xúc tươi đẹp buổi sáng mưa tạnh hôm nào và một trưa mùa thu nơi đồng nội có làn nắng long lanh ngoài mặt đê; dâng lên trong anh bao mùi vị chua chát, cay đắng. Chiều nay, ông Chánh làm lại sổ hộ khẩu cho cơ quan. Anh nhớ lúc nhận lại bản kê khai của anh, ông nhìn chò chõ vào mục ghi ngày, tháng năm sinh của anh rồi kêu: “ ối, cậu còn trẻ quá. Chỉ hơn nửa tuổi tôi có một tí”, và sau đó, ông ngồi an ủi anh.Ông bảo: đời người bắt đầu từ tuổi bốn mươi. Chắc ông muốn diễn đạt lời Khổng Tử. Ông muốn anh đừng buồn nản, sau những chuyện vừa rồi. Anh nhìn ông, giọng đốp chát không kiêng nể: “ Có những người năm mươi, sáu mươi tuổi mà đã sống cho ra con người đâu. Sống là phải có cá tính, có ý kiến riêng. Chứ toàn nói, nghĩ theo người khác, thì sao gọi là sống”. Ông cười hề hề, không hiểu hết ý anh, lại vỗ về anh: “ Cậu còn trẻ lắm. Tương lai còn dài”. Ngay lúc ấy hiện lên từ ký ức sâu thăm thẳm của anh con số 28. Hai mươi tám tuổi, hai mươi mốt năm đi học. Còn lại bẩy năm thì năm năm ở một tỉnh nhỏ, do cá tính mà va vấp nhiều hơn là thành đạt. Sáu năm, chưa làm được một việc gì cho ra hồn. Tình yêu tan vỡ. Công việc dang dở. Sáu năm có vẻ như hư vô. Sáu năm chỉ có ý nghĩa thành nhân, xác định được chức phận và lô gíc sống của mình.
Trong cái tâm trạng khủng hoảng ấy, đã xẩy ra sự kiện sáng hôm sau – sau này anh gọi là sự kiện ngày thứ 7 suốt đời không thể quên.
Sáng ấy, Trọng dậy, đi tắm rồi ra quán ăn phở. Chưa bao giờ anh ăn liền hai bát phở ba đồng mà ngon lành, đầy vẻ tận hưởng như thế.
Trở về, anh buộc ba lô, tài liệu. “Mình sẽ đi Nguyên Lộc trước khi họ đến. Một giờ một phút cũng không chờ được nữa!”. Một cú điện thoại từ Uỷ ban khoa học- kỹ thuật gọi đến giữa lúc anh định khoác ba lô lên vai. Anh bạn kính trắng hỏi thêm anh vài chi tiết về cái máy phun vữa và báo cho anh biết tuần tới cũng sẽ xuống Nguyên Lộc phối hợp cùng anh tìm tổ mối bằng phương pháp hiện đại: hấp thụ tia ga-ma.
Trọng mừng quá. Nhưng, anh vừa buông máy thì ông Chánh lộp cộp đôi giày cao cổ bước vào.
- Cậu Trọng! Đi đâu đấy. Hôm nay họp phòng học quy chế công tác đấy nhé.
Trọng quay lại, lẩm bẩm:
- Tôi đi đâu, mặc tôi!
- Cậu này ăn nói lạ nhỉ!
- Đề nghị ông không được gọi tôi là cậu. Và ông hãy để tôi yên!
Ông Chánh trợn mắt.
- Ơ, cậu này hôm nay làm sao thế? Này, Trọng, ông nên nhớ, dẫu sao...
Ông Chánh muốn nhắc nhở Trọng: Anh vẫn là một quần chúng, một cán bộ tốt của nhà nước đấy, tuy là đơn gia nhập Đảng của anh không được chấp nhận, vậy chớ nên bừa bãi. Nhưng sự thô thiển ấy lúc này lại như một sự coi thường, kích thích lòng tự ái của Trọng.
Trọng vùng vằng:
- Tôi chẳng cần đến cái dẫu sao của ông.
Hưng đã đến, tay sách cặp da, đứng ở cửa. Đằng sau là ba cô ở tổ máy chữ, Hưng theo dõi câu chuyện từ lúc nãy. Bước chậm rãi vào buồng, Hưng nhếch mép:
- Hừ, tồi tàn đến thế là cùng!
- Thế nào?
Trọng đặt phịch ba lô xuống mặt ghế, quay phắt lại.
Hưng ném cái cặp lên bàn, chép miệng, kẻ cả:
- Ít ra cũng cần nhớ: mình là một con người, ừ, một con người được học hành chẳng hạn.
- Con người! Con người! – Trọng đay lại, mai mỉa – Con người! Hừ, con người là kẻ dẫm đạp lên người khác để sống. Con người là kẻ coi cái chết của bạn mình là cơ hội để tiến thân. Con người là thế hả?
- Im!
- Anh không có quyền quát tôi!
- Câm ngay. Mày thoá mạ tao như thế, hả!
Mắt Hưng đỏ nọc. Cả tuần nay hai người xa lánh nhau, anh vẫn gờm Trọng, nhưng không ngờ Trọng lại cay chua, ghê gớm đến thế. Rờ cái cặp, tay Hưng run bần bật. Nhưng, Trọng đã từ từ bước lại:
- Tôi muốn nói chuyện tử tế với anh.
- Tao không thèm nói chuyện với mày! - Đột ngột Hưng gào.
Trọng trề môi, khinh mạn:
- Được... được. Thế thì... trả lại tài liệu đây.
- Tài liệu nào?
- Đừng vờ nữa. Tài liệu của anh Nam. Bản án về vụ vỡ cống, vỡ đê Lợi Toàn bị đánh cắp khi anh Nam mê man trên giường bệnh.
Mặt Hưng chợt nhợt tía. Môi Hưng lật bật:
- Đừng có giở trò vu khống hèn hạ ra ở đây.
- Sợ à? Cả cuộc mà cả về sự sống chết của anh Nam cũng còn đây. Còn bảo lưu hết.
Hưng thét kinh hoàng:
- Câm ngay! Mày định giở trò đểu hả? Đồ khốn nạn!
- Ai đểu, ai khốn nạn? Ai, bạn vừa nằm xuống đã giở trò hèn hạ?
- Câm đi!
- Trả tài liệu đi! Chính vì anh mà anh Nam chết đấy. Nghe rõ chưa? Anh là kẻ đã đẩy anh Nam nhanh đến cái chết!
- Đồ khốn nạn! Đồ ròi bọ! Mày định lật tao hả? Tao sẽ đập nát cái đầu chó của mày.
- Đồ đê tiện!
Hai nắm đấm cùng nện xuống mặt bàn. Ông Chánh chạy lại. Không kịp rồi. Họ đã vung nắm đấm nhằm vào mặt nhau. Ba cô gái dừng bản nhạc đang trình tấu, quay cả lại, bật kêu kinh hoàng.
Ông Chánh kéo được Hưng ra thì mũi Hưng nhoe nhoét máu. Hưng nhổ bọt xuống sàn, chửi:
- Mẹ tiên sư nó, nó đấm tôi trước...
Trọng gục đầu trên mặt bàn. Hai thái dương đau nhói. Nỗi ân hận dâng lên thắt nghẹt ngực anh. Anh hiểu ngay: mình đã sai. Anh đã thiếu tự chủ. Cái chết của Nam, cơn hoang mang, buồn nản về sự bội tình của Loan, những ý nghĩ đen tối về đời mình đã dẫn đến cơn điên khùng quái gở này! Và một điều nữa, giờ anh mới nhận ra: Sao anh lại có thể có thái độ cử chỉ ngôn ngữ như một kẻ vô văn hoá thô mãng đến như thế; hoá ra trong anh, bên cạnh yếu tố thánh thần cao khiết, còn nhiều điều thấp kém, xấu xa quá.
Ngoài cửa hình như có người nào đó vừa tới.
Ông Chánh cao giọng, giảng giải:
- Về vấn đề này, tôi xin có ý kiến: Cậu Trọng sai một trăm phần trăm! Tự dưng đi gây sự. Thật là không biết điều một tẹo nào cả. Tôi là tôi thật lòng! Mà anh Hưng, đứng danh nghĩa quyền trưởng phòng, cũng đã hết sức nhân nhượng với cậu ấy. Ngay như cái tội cậu ấy để tổ mối sụt, tụt cả cái ô tô khách xuống, suýt vỡ đê, chúng tôi cũng đã châm trước bỏ qua cho cậu ấy kia mà...
Cuối cùng thì mùa hạ cũng đã lặng lẽ đi qua. Sương thu sớm chiều thoa một lớp kem mát dịu lên phố xá và mặt người. Đã qua rồi những ngày mưa rả rích tối trời, và con người dường như đã thoát khỏi nỗi lo âu phấp phỏng thường xuyên về những cơn tai hoạ ngập lụt có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Ngõ 401 khô ráo. Một hôm, vợ chồng ông bà Nhuần và lũ con đông đúc đã bày tỏ năng lực xoay xoả, tổ chức lao động và thu vén của mình. Họ đã đi xin và chuyên chở từ đâu về gần hai chục tấm bê tông lát mặt hầm từ hồi chống chiến tranh phá hoại của máy bay Mỹ và trong chốc lát đã biến cái ngõ lầy lội thành một đường băng sân bay phẳng lỳ. Một công đôi việc, ông Nhuần vừa thực hiện nhiệm vụ tổ trưởng dân phố, làm cho quang nhà sạch ngõ, vừa dọn lối cho đám cưới con gái đầu lòng của ông.
Mùa thu, cốm xanh theo đòn gánh cong hai đầu vào thành phố, mùa trai gái kết đôi. Mùa thu ấy, cái ngõ nhỏ tưng bừng vì cái lễ ăn hỏi của nhà Thưởng. Mở đầu bằng một đoàn hơn chục cô trinh nữ áo dài tứ thân, quần lĩnh tía, thắt lưng bao hồng đào, xanh thiên lý, tóc bỏ đuôi gà, như tố nữ, như văn công, đầu đội tráp quả sơn đỏ đầy ắp đồ dẫn cưới, Thôi thì đủ hết của ngon vật lạ, kỳ thú, đặc sắc. Cùng với sơn hào hải vị, hoa quả trầu cau cổ lệ, đám này còn mang theo cả những sản phẩm hiện đại của công nghiệp Âu, Mỹ, như khăn áo ni-lông, thuốc lá Sa-mít và nước hoa Pháp, tơ lụa Nhật.
Cuối thu, pháo đám cưới nổ ran các buổi chiều sương ủ. Giao duyên, con mối chọn kỳ sấm chớp, con người đợi khi se lạnh. Đám cưới người cũng ồn ào phong cách vũ hội, nhưng rước nhau bằng ôtô chạy xăng. Cao điểm, có ngày thành phố ba trăm đám. Ba trăm đám ít ra là ba trăm xe ôtô.
Thành ra, một hôm, ông Nhuần mặt đỏ bừng bừng, từ phố về, rẽ vào nhà ông thợ vẽ, thở hồng hộc, than rằng:
- Bác Hảo! Chết! Chết! Thiên hạ đua nhau cưới xin. Nhờ vả tay trong mãi mới thuê được một chiếc Hải Âu. Nhưng mà phòng cưới thì chịu. Kín hết cả rồi. Phiền bác hoạ sĩ giúp hộ một tay vậy.
Ông thợ vẽ dạo này rỗi, chỉ chơi nhởn, cười cợt nhả:
- Bác tội gì mà vất vả ngược xuôi thế! Lấy nhau thì con gái bác và thằng rể phải tự lo liệu chứ. Chúng sướng chứ mình sướng à?
Ông xích lô gãi gãi gáy, thật thà:
- Thôi thì... đời người chỉ có một lần, sợ các cháu có điều gì sơ xuất. Cháu Loan thì vốn đoảng, dăm ngày lại mất ví, mất tiền một lần. Còn anh cháu, tiếng thế cũng có lo được gì đâu. ấy, mọi việc không có mẹ cháu thì tôi cũng đến chịu.
Ông thợ vẽ gật đầu nhận lời. Và ông bắt đầu trổ tài.
Dưới sự chỉ đạo thiết kế mỹ thuật của ông, công việc bắt đầu. Lũ trẻ con được chị Loan thuê tiền quét xong cái sân thì bàn ghế được khiêng ra. Tất cả đều là mượn mõ của hàng xóm. Cao, thấp, khấp khểnh, nhưng ghép lại, kê, độn, vá víu, xếp thành ba hàng dọc rồi phủ ni-lông hoa lên, trông cũng tươm. Che rợp tất cả là một tấm dù trắng. Phông vải căng bốn phía. Phía nào cũng dán hai chữ T. L kiểu cổ, như đôi rắn quấn nhau. Cạnh đôi chim câu chắp cánh là vô số các hình trang trí do ông thợ vẽ trổ bằng giấy trăng kim, xanh, đỏ: chim, cò, nốt nhạc, thiếu nữ khiêu vũ, cầu thủ dẫn bóng, thuyền buồm lướt sóng, trăng tròn, sao nhiều cánh...
Trưa hôm sau thì cái sân bẩn thỉu biến thành một toà cung điện. Đến hai giờ chiều nó hoá thành một cái phòng hoà nhạc. Hai cái loa thùng kê ở hai góc, nối với cái A-kai V18, liên tục phát ra luồng sóng nhạc xình chát to hết cỡ, thu hút hết tất cả trẻ con ở trong vùng quanh bán kính nửa cây số.
Bà Nhuần đứng duyệt sự bài trí, tấm tắc khen tài nghệ ông thợ vẽ. Nhưng bà đề nghị phải thêm cả nhạc sống nữa và bà lại vật nài ông Hảo vốn quen thuộc với nghệ sĩ lo việc mời đón họ hộ. Thế là ông thợ vẽ lại phải tất tả ra đi.
Bữa cơm chiều, có một tốp sáu, bẩy anh lỉnh kỉnh những đàn, trống, kèn sáo, đến ngồi khít một mâm. Các nghệ sĩ ăn, uống như rồng cuốn. Toàn loại choai choai để ria mép, tóc kín gáy, áo ca rô, quần loe, một câu nói văng một tiếng đệm tục tĩu. Ông Hảo ghé tai bà Nhuần giới thiệu: “Toàn những tay cứng cựa cả đấy”.
Trời tối, cái ngõ mới thật náo nhiệt. Chiếc Hải Âu dán chữ Hỷ đỏ, to như chấn song cửa sổ trên kính trước đỗ xịch, đổ ra một đám hơn ba chục người bên nhà trai. Cái ngõ hoá chật vì người, vì chen lấn, xô đẩy. Tiếng pháo nổ át tiếng người reo vui trầm trồ, réo gọi nhau ầm ĩ, cùng tiếng đàn nhạc sống tấu lên mừng đón. Trong cái ồn ào huyên náo quá mức, dẫn đầu đoàn đón dâu gồm sáu bà, bà nào cũng to béo mỡ màng như xưa kia vốn ngồi ở phản thịt bán ở chợ, là một bà cụ tóc bạc như cước, chống gậy trúc, lẫm chẫm bước. Theo sau các bà là chú rể và bạn chú. Tiếp nữa là lộn xộn đàn ông, đàn bà. Vào tới sân nhà cô dâu, cảnh càng hỗn độn. Bạn bà Nhuần từ trong nhà tuôn ra. Toàn các bà bạn quý trong cánh buôn từ mấy chục năm nay. Rồi chẳng còn phân biệt được ai thuộc nhà trai, ai nhà gái. Cũng chẳng hiểu đâu là chú rể. Vì mấy chục gã, gã nào cũng khoe bộ cánh lạ mắt, đắt tiền, mặt đều nhâng nháo, cũng tóc xù, trán thấp tè, vừa tinh ranh vừa đần độn như nhau. Phía các cô cũng vậy. Cô nào cũng dong dỏng, áo dài tà thẳng, mặt phấn, mắt quầng, môi son, nước hoa sực nức. May mà tục lệ văn minh khôn ngoan đã biết đánh dấu chú rể bằng một bông hoa hồng bạch cài ở ve aó vét và cô dâu được ấn định bằng bộ khăn áo trắng muốt, mỏng tang, với cái kiểu mũ “hoàng hậu” thời cổ trên phủ voan mỏng. Cô dâu Loan nổi hẳn lên trong đám các cô gái. Môi đỏ thẫm hình trái tim, hai má dày, mắt cô lóng lánh, vừa e thẹn vừa sung sướng. Tấm khăn voan tết hoa trên đỉnh đầu, ở đó gài một viên kim cương thật. Cô hãnh diện vì viên kim cương đó và sự huyền diệu cũng từ đó toả ra. Khi Thưởng tiến đến trao cho cô bó hoa lay-ơn trắng, đỡ tay cô, cặp vào tay mình, quay lại, hai làn chớp máy ảnh loé lên, bọn choai choai hét: “ Hôn nhau đi”, cô tưởng như đang xem một đám cưới trong phim châu Âu.
Tuy vậy, không khí đã giảm thiểu vẻ lịch sự, văn hoá. ấy là sự hoạt động sôi nổi quá mức của ba chục mâm rượu. Nhạc sống, nhạc loa thả sức rống. Hơn trăm con người bốc men thả sức ha hả, toang toang như chốn không người. Tiếp đó, tới lúc thấy một chớp đèn chụp, một người nào đó bỗng kêu to: “ Chụp ảnh cả hai họ đi chứ!”, mọi người mới ngừng lời như sực nhớ nghển lên, nhao nhác. Họ tìm ông Nhuần. Ông Nhuần đâu? Vừa nãy ông còn đi ra đi vào, trịnh trọng và cảm động lắm kia mà. Vừa nãy ông còn tiếp rượu mấy cụ dân phố kia mà. Ông Nhuần đâu?
“ Ới ba hồn chín vía ông Nhuần ở đâu thì về nhá á á”. Bất chấp tất cả tính chất nghi lễ trọng thể của cuộc vui, bà Nhuần nhẩy ngay lên bờ hè gào, cất tiếng the thé gọi chồng. Bà gào gọi tới lần thứ ba thì may quá, ông Hảo phát hiện ra ông đang đẩy cái xích lô từ ngõ vào. Hoá ra đang cuộc vui thì ông có khách gọi. Khách là một người đàn bà sắp trở dạ đẻ. Chẳng lẽ chối từ? Xưa nay ông vốn hay giúp người trong những cảnh ngộ như vầy kia mà. Lập tức, ông bị đẩy đến trước đám người hai họ đang đứng chờ sẵn ở trước cửa nhà. Ông Hảo đạo diễn xếp ông đứng cạnh cô Loan, đối xứng với bên kia, bà cụ tám mươi tuổi lưng còng đứng cạnh chú rể Thưởng, “Chụp nhé! Cười tươi lên nào! Lấy cả người nhé. Một, hai... ba!”. Anh phó nháy thét, bấm máy tách tách liền hai phát. Nhưng bỗng anh thả máy, tung hai tay lên trời, cười khặc khặc. Hỏng rồi! Phí cả hai pô ảnh đã mất công dàn dựng. Ông Nhuần! Cái nhà ông khỉ gió này đang chụp thì đưa tay lên dụi mắt. Tai hại hơn nữa, ông lại đang đánh cái quần lao động còn xắn lên tới tận đầu gối, trong khi nửa người trên khoác cái áo vét ka ki vàng. “Mệt quá! bã cả người!- Ông Nhuần cười bẽn lẽn, rồi nhìn quanh và há hốc mồm: Ơ, thiếu thằng Lùng, nó đi đâu ấy nhẩy!”. Từ lúc ấy, tay ôm hoa mà cô Loan xịu mặt. Đám cưới lộ ra những nét quê mùa, kệch cỡm làm ê cả mặt cô!
*
Ba ngày liền, cái ngõ chộn rộn huyên náo. Và người quanh ngõ đó không sao ngủ nghê, nghỉ ngơi được suốt ba ngày đêm. Vì ăn uống liên miên, vì nhạc sống, nhạc loa ầm ĩ. Vì sự hỗn tạp của bầu không khí vui cuồng, say loạn. Chưa ở đâu người ta phô phang lố lăng sự xa phí, thói học đòi trưởng già, cũng như hiếm thấy ở đâu lồ lộ tính chất con buôn, nỗi khát muốn ngoi lên những đỉnh cao của vật chất thuần tuý, như ở đám cưới này.
Giữ phép xã giao lịch sự, ông giáo Cần có đem quà đến mừng ngày vui của cặp vợ chồng trẻ; không thoái thác được, ông cũng đành ngồi lại dự bữa cơm gia đình thân mật với đôi vợ chồng ông Nhuần vào buổi chiều hôm lễ cưới. Sau đó, suốt ba ngày, ông ở trong nhà, đóng cửa, như trốn ẩn, xa lánh khỏi sự phồn tạp, rầm rĩ của cuộc vui.
Xẩm tối ngày thứ tư, ông giáo mới ra khỏi nhà. Ông thèm một khoảng trời trong mát. Bấy giờ “Ban tổ chức” đang thu dọn bàn ghế, phông màn. Bà Nhuần đang ngồi ăn với mấy bà bạn hàng, toàn là bà dòng dòng mà phây phây béo tốt, các bà này vừa từ các chuyến buôn xa, lên Bắc vào Nam về chậm. Quanh mấy cái bàn ngồn ngộn đồ mừng bọc giấy đỏ là mấy đứa trẻ. Và ông Hảo, con người thủ lợi trong cái đám vui này, chỉ đống đồ mừng, khất khưởng cái đầu, lè nhè giọng rượu bảo ông Nhuần: “Tôi với ông bà cũng cưới đi để kiếm ít đồ mừng của thiên hạ! Há há! Tội đếch gì!” khiến bà Nhuần bật cười khanh khách rồi xổ ra xoe xoé một tràng đay đả, tục tĩu. Vui thì phải tục! ấy thế!
Ông giáo Cần len lén đi men theo rìa sân và bước ra đường phố, không gây nên sự chú ý cho một ai cả.
Hơi thu tê mát. Những vòm cây lớn đã bớt sắc xanh đậm của mùa hạ, loáng thoáng khói sương chiều. Mùa hạ thành phố đẹp chói chang; còn bây giờ, phố phường đẹp trầm lắng, hoà hợp với tâm cảm ông giáo lúc này bỗng man mác những hoài niệm xa xôi.
Bước thong thả trên vỉa hè, ông giáo nhận ra vẻ quen thuộc của từng gốc cây, từng viên đá lát. Nhưng đi được một lát, ông mới thấy lòng mình không được yên ả như ông tưởng. Lâu rồi không đi dạo phố, vả có đi thì mắt cũng không nhìn, tai cũng không nghe; giờ ông bỗng thấy phố phường xa lạ quá với mình; tưởng như nó đang ở thời kỳ thịnh vượng của công cuộc thương mại và hưởng lạc.
Sao mà lắm cửa hàng buôn bán thế! Tạp hoá. Vải vóc. Giải khát. Ăn uống. Sửa chữa. Nhiều nhất là các quán trà, tiệm cà phê, hàng ăn, cái nào cũng nho nhỏ, nho nhỏ thôi. Sao mà lắm những cái nho nhỏ đến thế!
Không hiểu biết kỹ khoa kinh tế – chính trị học, không hiểu rõ tất cả sự độc đáo của thời kỳ quá độ, ông cảm thấy mình lạc lõng. Lạc lõng như cái đám cưới trong ngõ nhà mình. Xưa ông cứ tưởng những cái rởm đời, lối sống bon chen của một thời đã qua, nay một khi xuất hiện lại thì ít ra nó cũng phải khép nép trước những nền nếp văn hoá chính thống chứ. Hoá ra không. Không! Tất cả, kể cả sự bội bạc, thói thờ phụng đồng tiền, sự bợm bãi, càn rỡ của con người, nào đâu có mất đi, chúng vẫn tồn tại, nhơn nhơn diễu võ giương vây, như thể chúng đích thực là chủ nhân của cuộc sống này vậy.
Thấy mình cô đơn, ông giáo Cần muốn được giãi bầy, được an ủi. Ông đi tìm bạn.
*
Đứng rụt rè ở bên cái cửa có tấm biển gỗ xanh kẻ dòng chữ sơn vàng: “ở đây mua bán sách, báo cũ”, ông giáo Cần chưa kịp hỏi thì đã thấy khuôn mặt lưỡi cày của ông Tiễu ló ra. Định nhổ nước bọt, thấy ông giáo, ông Tiễu liền ngậm miệng, rồi thình lình reo to:
- Ô! Bông-giua mông vây ca-ma-rát! Chào ông bạn già! Vào chơi, anh Cần.
Nhưng chỉ reo đúng từng ấy tiếng mừng rỡ, ông Tiễu đã đằng sau... quay, bước sầm sập vào nhà trong, mặt hầm hầm và tuôn ra một tràng sừng sộ.
- Đ. mẹ! Thách ông à? Có thách thật không? Ông cần cái thứ vật chất ấy của mày à! Ông dí đít vào cái tư tưởng thối tha của mẹ con nhà mày, hiểu chưa!
Đứng trơ trơ giữa căn buồng ngoài lỏng chỏng mấy cái ghế bành kiểu cổ đang khảm trai dở, sặc mùi sơn ta, ông Cần không hiểu vì lý do gì mà ông lính ONS bạn ông lại nổi cơn thịnh nộ như thế. Trong nhà có tiếng đàn bà tru tréo, rồi “choang”, tiếng đập một cái vật rỗng bằng kim khí. Sau đó, ông bạn của ông bước ra, tay xách cái điếu, sau lưng là một cái mặt đàn bà lở sơn, to phệnh, mưng đỏ, méo mó. Cái mặt lở sơn ngoác một tiếng kêu chua loét:
- Ông cứ đập đi, có giỏi thì ông cứ phá hết cả đi!
- Tao phá là để mẹ con mày mở mắt ra, hiểu chưa! Đừng có tối mắt vì tiền, hiểu chưa?
Ông Tiễu dằn từng tiếng. Rồi ông đứng giữa nhà, nâng cái điếu, xoè diêm. Khói thuốc thở ra đặc quánh. Ông cúi xuống khậm khặc ho, tay xua xua.
- Ngồi chơi uống nước, anh Cần. - Ông Tiễu chỉ bộ bàn trà, ngồi xuống cùng ông giáo, cái đầu thưa tóc vẫn lắc lắc quầy quậy – Hỏng! Hỏng bét hết rồi! Tôi cũng định đến anh chơi đây. Tôi buồn, tôi bực không để đâu cho hết, anh Cần ạ.
Ông giáo cúi mặt, không dám nhìn mặt bạn. Bạn ông đâu có phải con người hay buồn. Trái lại! Con người này khí chất hoạt náo, hay quá khích, thích bông phèng và bạo miệng. Giọng của ông không phải giọng buồn, nhưng mà chuyện ông kể tiếp thì nghe thấy buồn thật.
- Anh Cần ơi! - Ông Tiễu kể- Anh có biết tôi vừa đập cái gì đấy không? Cái nồi áp suất! Hừ, mẹ nó chứ, trị giá một nghìn đồng tôi cũng đập. Phải đập! Đó là thuốc Pê-ni-xi-lin tống vào mồm mẹ con nhà nó đấy, anh ạ. Nhưng mà những con vi trùng này nó nhờn thuốc rồi. Hỏng hết rồi, anh ơi!
Hai con mắt trợn ngược, tròn xoe như mắt cá, ông Tiễu tiếp:
- Anh có biết không? Tôi về hưu tháng bảy vừa rồi. Cực chẳng đã, chúng nó đành phải cho tôi lên lương chuyên viên hai. Thôi cũng được! Về, tôi mở cái cửa hàng thu mua giấy cũ, ý định là muốn ngăn chặn cái bọn ăn cắp giấy má, tài liệu cơ quan mang đi bán. Nếu vớ được, mình giữ lại. Thôi thì về hưu cũng có việc mà làm cho nó đỡ buồn. Nhưng bây giờ về rồi tôi mới biết. Thì ra kinh khủng quá anh ạ.
Ông Tiễu rùng mình:
- Kinh khủng quá! Thì ra nay có thời giờ quan sát mới thấy mình đang chìm ngập giữa cái bể tiểu tư sản, xung quanh toàn là tư tưởng thị dân, vụ lợi, sẵn sàng quỳ gối làm nô lệ trước đồng tiền. Kinh khủng quá! Chính chúng nó ăn cắp con mèo tam thể của tôi làm pa-tê! Đau quá! Chúng nó lại còn lôi kéo con dâu tôi, phó tiến sĩ chất dẻo, bán kỹ thuật cho nó. Chúng tha hoá gia đình tôi. Ruỗng nát hết cả rồi, anh Cần ơi.
Trong nhà lại có tiếng đàn bà gào. Dậm chân xuống đất, quát một câu thật tục tĩu, rồi ngồi xuống, ông Tiễu lắc đầu chán nản:
- Đấy, anh xem. Nọc độc tư bản nó ngấm vào nhà tôi rồi. Con mụ nhà tôi nó làm cái nghề này đây- Ông Tiễu đá chân vào cái ghế bành nằm nghiêng dưới đất lỗ chỗ vết đục, chưa khảm trai- Năm nghìn đồng một bộ. Được tiền lắm chứ. Khách đến đặt đông không kịp làm. Được tiền, được khách, nhưng đánh mất lý tưởng, anh ơi!
Ông Cần chưa kịp hiểu thì ông bạn đã vỗ mạnh lên mặt bàn, như sừng sộ:
- Mất lý tưởng quá đi chứ, anh. Tôi nói để anh thấy cái đau của lòng tôi. Khách của tôi là ai? Là cái thằng mới giàu phất lên, là bọn phe phẩy ăn chơi phè phỡn, chính hiệu tư sản là chúng. Bọn nó đến mua. Một câu nói, nó chửi đất nước, dân tộc mình một câu. Bọn này chỉ đáng cho vào nhà tù, hoặc cho đi hót ***. Nhưng, cự lại nó thì mất khách. Im, mặc nó nói thì được tiền. Thế là im! Ngày qua, cứ thế mà nhiễm độc dần vào lục phủ ngũ tạng. Giờ, cả cái con dâu oe con, cái con lở sơn kia kìa, nó cũng chửi mình giỏi lắm rồi, anh ạ. Tôi không chịu được. Cơm rau muống còn hơn cơm thịt cá mà chịu thế. Tôi đuổi thẳng cánh khách của chúng ra khỏi nhà. A-lê cút! Thế là chúng đòi lấy cái nồi áp suất của tôi cho bọn hàng phở thuê ninh xương để lấy mỗi ngày nửa cân thịt bò. Khốn nạn đến thế là cùng! Lối sống tôn sùng đồng tiền là thế đấy, tâm lý tiểu thị dân đểu giả, vị kỷ, không cần biết đến đạo lý là thế đấy, anh Cần ơi...
Câu chuyện mới bi hài làm sao! Hoá ra cái con người tưởng là hời hợt, nông nổi này cũng có những đau buồn, ấm ức, cay cú. Hoá ra con người bấy lâu xem ra có vẻ vô tâm, ít tư duy xét đoán này cũng không chịu nổi một khi là nạn nhân của lối sống vụ lợi, vị đồng tiền. Hoá ra ông vẫn giữ cho mình những khoảng riêng thiêng liêng để suốt đời tôn thờ.
Thực lòng, ông Cần thấy mình được an ủi khi nghe ông Tiễu bộc lộ nỗi lòng. Gạt bỏ những phần quá khích, cường điệu, chưa thoả đáng, khiến câu chuyện mang mùi vị hài hước đi, ông bạn ông thật là con người đáng trân trọng!
Nhưng, đến chơi nhà bạn, gặp lúc gia đình người ta có chuyện lục đục, nán lại quá lâu, là bất nhã. Nghĩ vậy nên ông Cần liền kéo chân, đứng dậy.
Nhưng vừa lúc ấy, ngoài cửa bỗng lấp ló bóng khách đến mua giấy cũ. Ông Tiễu rời bạn để đóng vai ông chủ cửa hàng. Rồi lát sau, ông quay vào thì không khí trong nhà đã khác hẳn. Chuyện cũ đã qua. Ông Tiễu ấn vai ông giáo ngồi xuống, và cả hai dường như bây giờ mới gặp nhau, chưa hề đôi hồi với nhau được chút nào.
- Anh có khoẻ không, anh Cần?
- Cũng nhì nhằng.
- Thằng Trọng hồi này ra sao rồi?
- Từ hồi tháng chín tôi chưa gặp cháu. Có lẽ cháu nó vẫn ở dưới Nguyên Lộc.
Vỗ bộp miệng ống điếu, ông Tiễu trợn trừng:
- Ấy chết, anh không biết chuyện gì à?
- Chuyện gì?
- Thằng Trọng đánh nhau với thằng Hưng. Nó bị đình chỉ công tác từ hồi tháng mười.
- Trời!
Vung cái điếu, ông Tiễu hùng hổ:
- Tôi tán thành! Thằng Hưng Gia-ve ấy, phải đánh! Cái thằng đểu hết chỗ nói. Lật mặt như lật bàn tay. Ngu như bò. Làm cái gì hỏng cái đó. Chỉ giỏi mánh khoé thủ đoạn. Còn thằng Trọng... bây giờ phải cứu nó.- Bỏ tọt cái điếu vào lòng chiếc giỏ mây, ông Tiễu đứng dậy- Ta phải cứu thằng Trọng, anh Cần. Anh đi với tôi. Hừ, lúc này nhận chân ra cái gì cũng thậm khó!
Đứng lên như một cử động vô thức, ông giáo chưa biết phải làm gì thì ông Tiễu đã kéo tay ông, lôi đi.
- Đi! Tôi và anh đến nhà tay trưởng ban. Tay này có tý quan liêu, nhưng cũng biết nghe lẽ phải, nhất là sau cái chết của cậu Nam. Đi! Đối với cái xấu xa khốn nạn phải đấu, phải đập như tôi đập cái nồi áp suất ấy!
Sương thu toả mờ mịt đường phố. ánh điện chìm nghỉm, xa thẳm. Chân bước mà không có đích, ông giáo đã mất thế quân bình từ sau cái chết của Nam và đám cưới của con gái ông Nhuần, giờ rơi vào trạng thái mê hoảng, hoang mang cực điểm. Nên lúc này đang đi, ông chợt co tay, giữ ông Tiễu lại. Chỗ ấy là vỉa hè của một cửa hàng giải khát tư nhân. Nhạc từ hai cái loa thùng the thé bật ra cả ngoài đường. óc ông Cần nhức buốt lên. Những cái lố lăng đang ngự trị thế gian. Thuỷ Tinh chiếm được Mỵ Nương. Căn bệnh ung thư giết người, quá khứ đắc thắng hiện tại. Lối sống vô đạo lý thấm nhiễm tận gia đình ông bạn. Trọng, con giai ông, nạn nhân khốn khổ của những mưu đồ độc ác... Dồn về ông tất cả những cảm quan ghê rợn mà ông đã tích tụ gần như ngẫu nhiên trong những ngày qua. Ông vốn yếu bóng vía, hãi hùng kinh sợ ngay những hình sắc quái dị sai lệch do chính ông thu nhận, tạo nên. Ông như con đê mong manh trước con nước dữ.
- Thôi, anh Tiễu. Cám ơn anh- Ông Cần ôm gáy, chỗ ấy sao nhức quá, giọng ông như một vệt trượt trong vòng u tối, chuệnh choạng - Tôi không quen... Tôi không làm thế được... Thôi, anh để tôi về.