Về đến nhà, Arthur ngồi vào bàn làm việc. Anh bật máy vi tính lên và nối mạng Internet. Các “xa lộ thông tin’ cho phép anh tiếp cận ngay tức khắc với hằng trăm cơ sở dữ liệu về đề tài mà anh quan tâm. Anh đưa lệnh tìm kiếm trên máy tính của mình bằng cách đơn giản gõ từ “hôn mê”, và “Web” đưa ra cho anh nhiều địa chỉ các nơi trên mạng có chứa những tài liệu, những lời chứng, những bản tường trình và những cuộc trao đổi về đề tài này, Lauren đến ngồi ở góc bàn.
Trước hết họ nối với máy chủ của bệnh viện Memorial, vào mục Bệnh lý thần kinh và chấn thương sọ não. Một công trình mới đây của giáo sư Silverstone về chấn thương sọ não cho phép họ tiếp cận với các cách phân loại các kiểu hôn mê khác nhau theo chuẩn Glassgow: có ba chữ số biểu thị khả năng phản ứng của cơ thể đối với các tác nhân kích thích về mặt thị giác, thính giác và cảm giác. Lauren phù hợp với loại 1.1.2, kết quả ghép ba chữ số này với nhau xác định kiểu hôn mê này thuộc dạng bốn, gọi một cách khác là hôn mê kéo dài. Họ được máy tính hướng về một thư viện thông tin khác có sự trình bày chi tiết những phân tích thống kê về sự tiến triển của các bệnh nhân trong từng loại hôn mê. Chưa từng có một người nào trở về từ một cuộc phiêu du “hạng 4”...
Một loạt biểu đồ, hình vẽ, báo cáo tổng hợp và các nguồn tư liệu được nạp vào trong máy tính của Arthur rồi được in ra. Tổng cộng có gần bảy trăm trang tư liệu được sắp xếp, phân loại và ghi vào danh mục tuỳ theo trọng tâm vấn đề.
Arthur đặt một chiếc pizza và hai chai bia, rồi tuyên bố rằng bây giờ chỉ có việc đọc mà thôi. Một lần nữa Lauren hỏi anh tại sao anh lại làm tất cả những việc này. Anh trả lời:” Do bổn phận đối với một người mà chỉ trong thời gian rất ngắn đã dạy cho anh biết bao điều, trong đó đặc biệt nhất là lòng khát khao hạnh phúc. Em biết đấy, mọi giấc mơ đều có giá của nó!” Và anh lại tiếp tục vừa đọc vừa ghi chú những điều mình không hiểu, tức là gần như tất cả. Theo đà tiến triển công việc của họ, lauren giải thích những thuật ngữ và những lập luận y học.
Arthur đặt một tờ giấy to lên bản vẽ của anh và bắt đầu thảo ra đó bản tổng hợp những ghi chép mà anh đã thu thập được. Phân loại các thông tin thành từng nhóm, anh khoanh chúng lại rồi nối chúng với nhau theo các mối liên quan. Cứ như vậy, một biểu đồ khổng lồ dần dần hình thành, dẫn đến tờ giấy thứ hai, ở đó các lập luận hòa vào nhau thành kết luận.
Hai ngày hai đêm để đi đến kết luận rằng đối với một số nhà nghiên cứu thì trong vài năm nữa vẫn là và tiếp tục còn là một vùng tối, nơi cơ thể sống tách biệt khỏi trí lực, cái làm cho nó có sinh khí và một linh hồn. Kiệt sức, mắt đỏ ngầu, anh ngủ thiếp đi ngay trên sàn nhà; Lauren ngồi bên bàn vẽ, cô nhìn biểu đồ, dùng đầu ngón tay di di theo những mũi tên và bất ngờ nhận thấy rằng tờ giấy khẽ lay động dưới ngón tay cô.
Cô đến ngồi cạnh anh, khẽ cọ tay vào tấm thảm trải trên sàn nhà rồi lấy lòng bàn tay vuốt dọc theo cánh tay anh, lông tay liền dựng lên. Cô khẽ mỉm cười, vuốt nhẹ tóc Arthur rồi nằm xuống bên anh, nghĩ ngợi.
Bảy tiếng sau anh tỉnh dậy. Lauren vẫn ngồi bên bàn vẽ.
Anh dụi mắt và mỉm cười với cô, cô đáp lại ngay lập tức.
- Lẽ ra anh vào trong giường thì sẽ dễ chịu hơn, nhưng anh ngủ say đến nỗi em không dám đánh thức anh dậy.
- Anh ngủ có lâu không ?
- Nhiều tiếng đồng hồ, nhưng chưa đủ để bù lại.
Anh định uống một tách cà phê rồi tiếp tục công việc, nhưng cô ngăn anh lại. Sự tận tình của anh làm cô rất cảm động, nhưng đó là việc phí công vô ích. Anh không phải là bác sĩ, cô chỉ là sinh viên nội trú và chỉ có hai người họ sẽ không thể nào giải quyết nổi những vấn đề mà hiện tượng hôn mê đặt ra.
- Thế em bảo phải làm gì ?
- Anh cứ uống cà phê như anh vừa nói đi, rồi anh đi làm và chúng mình đi dạo chơi. Anh không thể sống khép kín, ở ẩn trong nhà với cái cớ là vì nhà anh có chứa một bóng ma được.
Thì anh đang định uống cà phê đấy chứ, còn những chuyện kia rồi sẽ xét sau. Và anh muốn cô thôi đừng nói đến chuyện “ma” nữa, cô có đủ mọi vẻ trừ vẻ một bóng ma. Cô bèn hỏi anh nói “mọi vẻ” là muốn nói cái gì, nhưng anh từ chối trả lời. “Anh mà nói ra những điều nghe như để lấy lòng thì em sẽ giận mất”
Lauren nhướn lông mày dò hỏi, muốn biết những điều nghe để lấy lòng là cái gì. Anh yêu cầu cô quên điều anh vừa nói đi, nhưng anh cũng ngờ trước là chẳng ăn thua gì. Cô đứng chống nạnh trước mặt anh và hỏi cho bằng được thì thôi.
- Những điều nghe như để lấy lòng là cái gì thế ?
- Quên cái anh vừa nói đi Lauren, em không phải là ma, vậy thôi.
- Thế thì em là gì ?
- Một cô gái, một cô gái rất đẹp, thôi bây giờ anh đi tắm đây
Anh ra khỏi phòng mà không quay đầu lại. Lauren lấy tay vuốt lên thảm trải sàn lần nữa, vẻ sung sướng. Nửa tiếng sau, Arthur mặc quần Jean và một cái áo chui cổ rộng bằng casmia ra khỏi buồng tắm. Anh tỏ ý muốn đi chén một món thịt thật ngon. Cô thấy rằng mới có 10 giờ sáng thôi, nhưng anh đáp lại ngay rằng ở New York đã là giờ ăn trưa, còn ở Sydney đã là giờ ăn tối rồi.
- Vâng, nhưng chúng ta không ở New York hay Sydney, chúng ta đang ở San Francisco
- Điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến việc anh thích ăn thịt cả.
Cô muốn anh trở lại với cuộc sống bình thường của anh và cô nói với anh như vậy. Anh may mắn có được một cuộc sống bình thường thì anh phải tận hưởng nó. Anh không có quyền bỏ bê tất cả như thế này. Anh không đồng ý việc cô quan trọng hoá vấn đề. Anh chỉ mất có mấy ngày thôi chứ có gì đâu, nhưng đối với cô thì anh đang sa vào một trò nguy hiểm và không lối thoát. Anh nổi đoá lên :
- Nghe những lời như vậy từ miệng một bác sĩ thật hay ho quá nhỉ, anh cứ tưởng rằng không có định mệnh, rằng còn sống thì còn hy vọng, rằng tất cả đều có thể chứ. Tại sao anh lại là người tin điều đó hơn em ?
Chính bởi vì cô là bác sĩ đó thôi , cô trả lời, bởi vì cô buộc phải tỉnh táo, cô tin rằng họ làm mất thời gian của họ, cô làm mất thời gian của anh.
- Anh không nên gắn bó với em, em chẳng thể đem lại cái gì cho anh cả, chẳng có gì để chia sẻ, chẳng có gì để cho, đến pha cho anh một tách cà phê em cũng không làm được, Arthur !
- Thế thì việc quái gì, nếu như đến pha tách cà phê cho anh em cũng không làm được thì có tương lai gì phải lo. Anh không gắn bó với em, Lauren, chẳng với em mà cũng chẳng với ai. Anh cũng chẳng xin được gặp em trong tủ của anh, thế nhưng em lại ở đây, đó là cuộc đời, vậy thôi. Không ai nhìn thấy em và nói chuyện được với em.
Cô có lý, anh nói tiếp, để tâm đến vấn đề của cô là mạo hiểm đối với cả hai người; dối với cô, việc đó có thể gây ra những hy vọng hão huyền; đối với anh, “việc đó có thể làm mất thời gian và xáo trộn cuộc sống của anh, nhưng chính cuộc đời là như vậy đó” Anh chẳng có gì để lựa chọn cả. Cô ở đây, bên cạnh anh, trong nhà anh, “mà đó cũng là nhà của em nữa”, cô lâm vào một hoàn cảnh khó khăn và anh giúp đỡ cô, “ đó là việc người ta vẫn làm trong thế giới văn minh, dù cho việc đó có những điều bất trắc”. Đối với anh, cho một người ăn mày một đô la khi đi từ siêu thị ra là một việc dễ dàng chẳng phải mất gì cả. “Khi ta cho cái phần nhỏ nhoi mà ta có, đó mới thực sự là cho”. Cô không biết nhiều về anh, nhưng anh kiên quyết đi đến cùng dù phải trả giá như thế nào đi nữa.
Anh yêu cầu cô để cho anh được quyền giúp đỡ cô, anh nhấn mạnh rằng điều duy nhất mà cô còn có thể làm được ở cuộc đời thật này, đó là biết chấp nhận sự giúp đỡ. Nếu cô cho rằng anh chưa suy nghĩ thật kỹ khi dấn thân vào câu chuỵên này thì cô hoàn toàn có lý. Anh chẳng hề suy nghĩ gì cả. “Bởi vì trong khi ta tính toán, ta phân tích mặt lợi và mặt hại, thì cuộc đời trôi qua, và chả có gì xảy ra được cả”
- Anh chưa biết là bằng cách nào, nhưng chúng mình sẽ kéo em ra khỏi tình trạng này. Nếu em cần phải chết thì việc đó đã xảy ra rồi, anh ở đây chỉ là để giúp em một tay thôi.
Anh kết luận anh bằng cách yêu cầu cô chấp nhận kế hoạch của anh, nếu không phải là vì cô thì cũng vì những người mà cô sẽ chữa bệnh trong vài năm tới.
- Lẽ ra anh có thể làm luật sư được đấy.
- Lẽ ra anh phải làm bác sĩ cơ
- Tại sao anh không làm bác sĩ ?
- Tại mẹ anh mất quá sớm.
- Khi đó anh mấy tuổi ?
- Quá sớm, anh thật sự không muốn nói đến chuyện này một tí nào cả
- Tại sao anh lại không muốn nói ?
Anh bèn lưu ý cô rằng cô là sinh viên nội trú chứ không phải nhà phân tích tâm lý. Anh không muốn nói về chuyện ấy vì đó là một chuyện quá đau lòng đối với anh và anh cảm thấy rất buồn mỗi khi nhắc đến chuyện này. “Quá khứ là quá khứ, chỉ có vậy thôi”. Bây giờ anh lãnh đạo một công ty kiến trúc. Anh rất hạnh phúc trong công việc.
- Anh yêu thích công việc của anh và những người cùng làm việc với anh.
- Đó là khu vườn bí mật của anh đấy à ?
- Không, một khu vườn thì có gì là bí mật, hoàn toàn trái lại, đó là một tặng vật mới đúng. Đừng cố hỏi nữa, đó là một cái thuộc về riêng anh.
Anh mất mẹ khi còn rất ít tuổi, mất cha còn sớm hơn nữa. Bố mẹ đã cho anh cái quý nhất của họ, thời gian mà họ có thể có. Đời anh là như vậy, nó có những thuận lợi và bất lợi của nó.
- Anh vẫn thấy đói lắm, tuy rằng chúng mình hiện không ở Sydney, vì vậy anh đi làm mấy quả trứng với thịt muối để ăn đây.
- Sau khi bố mẹ anh mất thì ai nuôi anh?
- Em có bướng bỉnh không đấy ?
- Không, không một tí nào cả.
- Nhưng chuyện này có thú vị gì đâu. Mặc kệ nó, chúng ta còn nhiều việc quan trọng hơn để làm.
- Có chứ, đối với em việc đó rất đáng quan tâm.
- Cái gì làm em quan tâm ?
- Cái xảy ra trong đời anh khiến anh có khả năng làm như vậy.
- Khả năng làm gì ?
- Tung hê tất cả để quan tâm đến cái bóng của một phụ nữ mà anh không quen biết, và thậm chí lại không phải vì chuyện trai gái nữa chứ, điều đó kích thích óc tò mò của em.
- Em đừng có phân tích tâm lý của anh, anh không muốn mà cũng không cần điều đó. Chẳng hề có một vùng tối nào cả, em hiểu không ? Có một quá khứ với tất cả những gì cụ thể và xác định nhất, bởi vì đó là quá khứ.
- Như vậy, em không có quyền được biết về anh ?
- Có chứ, em có quyền, tất nhiên là em có quyền, nhưng em đang muốn biết về quá khứ của anh đấy chứ, đâu phải là về anh.
- Chuyện đó khó nghe đến thế cơ à ?
- Không, chuyện đó có tính chất riêng tư, nó chẳng vui vẻ gì, dài dòng, đó không phải là đề tài để nói chuyện
- Mình có phải đi chuyến tàu nào đâ mà vội. Mình vừa làm một mạch hai ngày hai đêm liên tục về hôn mê, mình có thể tạm nghỉ một chút được.
- Lẽ ra em phải làm luật sư !
- Vâng, nhưng em lại là bác sĩ ! Trả lời em đi.
Anh lấy công việc làm cớ thoái thác. Anh không có thời gian để trả lời cô. Không nói một lời, anh ăn nốt món trứng, đặt đĩa vào bồn rửa bát rồi lại ngồi vào bàn làm việc. Anh quay về phía Lauren đang ngồi trên đi văng.
- Trong đời anh có nhiều phụ nữ không ?- cô hỏi mà không ngẩng đầu lên
- Khi người ta yêu, người ta không tính !
- Và anh thì không cần bác sĩ tâm lý chứ gì ! Vậy những người đáng tính đến thì anh có nhiều không ?
- Thế em thì sao ?
- Em là người đặt câu hỏi cơ mà.
Anh trả lời rằng anh từng có ba mối tình, một của thời niên thiếu, một của thời trai trẻ và một khi đã ”bớt trẻ” và đang trở thành đàn ông nhưng vẫn chưa phải là đàn ông hẳn, chứ nếu không thì họ vẫn còn đang ở bên nhau. Cô cho rằng câu trả lời như vậy là đúng luật chơi, nhưng muốn biết ngay lập tức khắc tại sao chuyện đó không thành. Anh nghĩ rằng tại vì anh quá cứng nhắc. “Quá sở hữu ?”, cô hỏi, nhưng anh nhấn mạnh từ cứng nhắc.
- Mẹ anh đã nhồi vào đầu anh những chuyện tình yêu lý tưởng, thực là một khuyết tật nặng khi ta có những lý tưởng trong đầu.
- Tại sao ?
- Điều đó đặt ra chuẩn mực rất cao
- Đối với người kia ?
- Không, đối với chính mình.
Cô muốn anh nói rõ hơn nhưng anh muốn lẩn tránh vì sợ “ nhai lại những điều cũ rích và thành ra lố bịch”. Cô đề nghị anh cứ thử xem. Anh biết mình chẳng có cơ hội nào để kéo cô ra khỏi đề tài này, vì vậy anh đành chọn làm theo ý cô.
- Nhận diện hạnh phúc khi nó ở dưới chân ta, đủ dũng cảm và quyết tâm hạ mình xuống đón nhận hạnh phúc vào tay mình...và gìn giữ nó. Đó là trí tuệ của trái tim. Trí tuệ mà không có phần trái tim trong đó thì chỉ là logic và không có mấy giá trị.
- Vậy tức là cô ấy đã bỏ anh !
Arthur không trả lời.
- Và anh vẫn chưa phục hồi hẳn.
- Có chứ, anh đã hồi phục, nhưng anh cũng có ốm đâu.
- Anh đã không biết yêu cô ấy à ?
- Chẳng có ai là sở hữu được hạnh phúc hoàn toàn, thỉnh thoảng ta may mắn có được một hợp đồng, và trở thành người thuê thôi. Phải trả tiền thuê hết sức đều đặn, người ta thường để bị mất hợp đồng rất nhanh.
- Những điều anh nói nghe đáng yên lòng quá nhỉ ?
- Ai cũng sợ đời thường, như thể đó là một định mệnh dẫn đến buồn chán, thói quen, anh thì không tin vào định mệnh này...
- Thế anh tin cái gỉ ?
- Anh tin đời thường là nguồn gốc của sự đồng cảm, chính ở đó mà trái với thói thường ta có thể sáng tạo ra cái xa hoa và tầm thường, cái quá khổ và cái chừng mực.
Anh nói về những trái cây không được hái, bị để quên rồi rữa ra dưới đất. “ Có những mật ngọt của hạnh phúc không bao giờ được nếm, do lơ là, do thói quen, do thành kiến và tự phụ. Anh tin vào những tình cảm say đắm đi theo hướng trở nên sâu sắc hơn.
Đối với Arthur, không có gì trọn vẹn hơn là một cặp tình nhân, với thời gian biết chấp nhận để cho sự trìu mến lấn chỗ của tình yêu say đắm, nhưng làm sao mà đạt được như vậy khi người ta có khuynh hướng thích cái tuyệt đối ? Đối với anh không có gì là sai lầm khi chấp nhận lưu giữ trong mình một phần của tuổi thơ, một phần mơ mộng.
- Chúng ta kết cục thì trở thành những người khác nhau, nhưng lúc đầu ai cũng từng là trẻ con cả. Thế còn em, em đã yêu rồi chứ ?
- Anh có biết những người chưa từng yêu bao giờ không ? Anh muốn biết em đã yêu chưa à ? Không , có và không.
- Đời em có nhiều điều trái ý lắm sao?
- Tỉ lệ với tuổi em thôi, ừ cũng không ít đâu.
- Xem ra em cũng không phải là người hay chuyện nhỉ, người đó là ai vậy ?
- Anh ta chưa chết : 38 tuổi làm điện ảnh, đẹp trai, ít có thời gian rảnh, hơi ích kỷ, tuýp đàn ông lý tưởng.
- Thế rồi sao ?
- Thế rồi cách đến hàng nghìn năm ánh sáng cái mà anh mô tả về tình yêu.
- Mỗi người mỗi cảnh, em biết đấy! Điều quan trọng là cắm rễ của mình vào mảnh đất nào phù hợp
- Bao giờ anh cũng ví von ẩn dụ như thế à ?
- Thường xuyên, đối với anh cách đó làm cho mọi việc dễ nói hơn. Thế còn câu chuyện của em thì sao ?
Cô đã chia sẻ bốn năm trong đời với nhà điện ảnh của mình, bốn năm với một câu chuyện đứt đoạn và chắp nối, trong đó các nhân vật xâu xé nhau rồi hàn gắn lại không biết bao nhiêu lần, cứ như là đời có kịch tính thì sẽ phong phú hơn. Cô đánh giá mối quan hệ này là ích kỷ và không có gì hay ho cả, được duy trì bởi sự đam mê xác thịt. “Em có phải là người chú trọng thể xác không ?” anh hỏi. Cô cho đây là một câu hỏi trắng trợn.
- Em không nhất thiết phải trả lời.
- Nhưng em cũng có định trả lời đâu ! Tóm lại, anh ta cắt đứt hai tháng trước khi xảy ra tai nạn. Càng tốt cho anh ta, ít nhất thì bây giờ anh ta cũng không phải chịu trách nhiệm gì cả.
- Em có tiếc không ?
- Không, lúc câu chuyện tan vỡ thì em có tiếc, nhưng bây giờ em tự nhủ rằng một trong những phẩm chất cơ bản để sống thành đôi là tính độ lượng
Cô đã phát chán vì những câu chuyện tình luôn luôn kết thúc vì những nguyên nhân như nhau. Nếu như có những người với tuổi tác mất dần đi lý tưởng, thì Lauren hoàn toàn ngược lại. Càng lớn tuổi hơn thì cô càng có xu hướng lý tưởng chủ nghĩa hơn. “Em tự nhủ rằng để có tham vọng chia sẻ một khoảng đời sống thành đôi thì cần phải ngừng tin và ngừng làm cho người khác tin rằng ta đang bắt đầu một câu chuyện nghiêm túc, nếu như ta chưa thực sự sẵn sàng để cho. Hạnh phúc chẳng dễ mà đạt được. Hoặc anh là người cho, hoặc anh là người nhận. Em cho trước khi nhận nhưng em đã dứt khoát với những kẻ ích kỷ, những người phức tạp và những người quá hà tiện nên không dám đụng đến những ước muốn và những hy vọng của mình.” Kết cục cô đã chấp thuận rằng giờ là lúc phải thừa nhận những chân lý riêng của mình và xác định cái mà mình mong đợi ở cuộc sống. Arhtur cho rằng cô dùng những lời quá mạnh. “ Em đã bị cuốn hút quá lâu bởi cái trái ngược với mơ ước của em, cái đối cực với những điều có thể làm cho em hạnh phúc, có vậy thôi”, cô trả lời.
Cô muốn đi dạo ngoài trời và cả hai cùng đi. Arthur lái xe đưa họ ra Ocean Drive.
- Anh thường thích dạo chơi trên bờ biển-anh nói để phá vỡ sự yên lặng kéo dài.
Lauren không trả lời ngay lập tức, cô nhìn đăm đăm về phía chân trời. Cô níu lấy tay Arthur.
- Chuyện gì đã xảy ra trong đời anh vậy ?
- Tại sao lại có câu hỏi này ?
- Tại vì anh không giống những người khác.
- Anh có hai cái mũi làm em khó chịu hay sao ?
- Chẳng có gì làm em khó chịu cả nhưng anh khác người.
- Khác người ? Anh không tự cảm thấy mình khác người, thế khác chỗ nào, khác ai?
- Anh rất thanh thản !
- Đó là khuyết điểm à ?
- Không, hoàn toàn không, nhưng điều đó làm cho người ta ngại. Có vẻ như chẳng cái gì có thể gây thành vấn đề cho anh được cả.
- Đó là bởi vì anh thích tìm kiếm các giải pháp cho nên anh không sợ các vấn đề.
- Không, còn có chuyện gì khác nữa.
- Lại thấy TTT của tôi đây rồi.
- TTT của anh là cái gì vậy ?
- Thầy thuốc Tâm lý Tại chỗ của anh.
- Anh có quyền không trả lời nhưng em có quyền cảm thấy các chuyện, và em không biến chuyện đó thành một cuộc thẩm vấn.
- Chuyện với trò gì mà cứ như một đôi đã cũ lắm rồi thế này. Anh chẳng có gì phải che dấu cả, Lauren, không có vùng tối nào, không có khu vườn bí mật, không có những chấn thương tinh thần. Anh chỉ có thế này thôi, với đầy khuyết điểm.
Anh không đặc biệt tự yêu mình, nhưng cũng chẳng tự ghét mình, anh thích cách sống của mình, tự do và không phụ thuộc vào những lề thói quy định. Có thể đó chính là điều mà cô cảm thấy. “ Anh không thuộc về một hệ thống nào cả, anh luôn luôn cố gắng chống lại điều đó. Anh gặp gỡ những người mà anh yêu mến, anh đi những nơi anh muốn đi, anh đọc một cuốn sách vì thấy nó hấp dẫn đối với anh chứ không phải vì “nhất thiết phải đọc”, và cả đời anh là như thế.” Anh làm cái anh muốn mà không đặt ra hàng ngàn câu hỏi “tại sao” và “như thế nào”, “ và anh không phức tạp hoá đời mình bởi những cái còn lại”.
- Em không muốn phức tạp hoá đời anh.
Cuộc nói chuyện được tiếp tục sau đó chút ít. Họ bước vào gian phòng khách ấm áp của một khách sạn. Arthur uống cappucino và nhấm nháp bánh xốp.
- Anh ưa nơi này vô cùng, anh nói- ở đây có không khí gia đình, anh thích ngắm các gia đình lắm.
Trên chiếc đi văng có một chú bé chừng tám tuổi đang ngồi trong vòng tay mẹ. Người mẹ cầm một quyển sách to mở rộng và kể cho con nghe những hình ảnh mà hai mẹ con đang cùng xem. Ngón trỏ trên bàn tay trái của người mẹ cọ vào má chú bé một cách khẽ khàng và âu yếm. Khi chú bé cười, hai lúm đồng tiền hiện ra như hai mặt trời nhỏ. Arthur nhìn họ chăm chú hồi lâu
- Anh nhìn gì thế ? Lauren hỏi.
- Một khoảnh khắc hạnh phúc thật sự.
- Ở đâu vậy ?
- Chú bé kia kìa. Em nhìn vẻ mặt nó mà xem, nó ở trung tâm thế giới, một thế giới của riêng chú.
- Điều đó gợi cho anh những kỉ niệm phải không ?
Arhtur mỉm cười thay cho câu trả lời. Cô muốn biết trước kia hai mẹ con anh có tâm đầu ý hợp với nhau không.
- Mẹ anh mất hôm qua, hôm qua của nhiều năm trước. Em biết không cái làm cho anh ngạc nhiên nhất sau hôm mẹ anh mất là các ngôi nhà vẫn ở yên một chỗ, bên những đường phố đầy ôtô, những chiếc ôtô vẫn tiếp tục lăn bánh và những người đi bộ vẫn tiếp tục bước đi, có vẻ như họ hoàn toàn không biết rằng thế giới của anh vừa biến mất. Anh thì anh biết, do có một sự trống rỗng ập xuống đời anh như ập xuống một cuộn phim chụp hỗn độn. Bởi vì thành phố đột nhiên ngưng hẳn tiếng ồn, cứ như thế trong một phút tất cả các ngôi sao cùng vỡ tan ra và tắt ngấm đi. Ngày mẹ anh mất, anh thề vời em là điều này có thật, lũ ong trong vườn không bay ra khỏi tổ, không có con nào hút mật ở vườn hồng, y như là chúng cũng biết ấy. Anh thèm được như chú bé kia, chỉ dăm phút thôi, nép mình trong vòng tay của mẹ nghe giọng nói của mẹ vỗ về ! Sống lại cái cảm giác run rẩy nhè nhẹ chạy dọc sống lưng khi mẹ ru anh ngủ hồi anh còn nhỏ, bàn tay mẹ vuốt vuốt dưới cằm anh. Chẳng điều gì có thể xảy ra với anh được nữa, cả những trò quấy nhiễu của thằng Steven Hacchenbach cao to ở trường, những tiếng quát tháo của thầy giáo Morton mắng mỏ anh không thuộc bài, lẫn cái mùi hăng hắc khó chịu ở nhà ăn. Anh sẽ nói cho em biết vì sao anh “thanh thản” như em bảo. Đấy là vì người ta không thể sống vì tất cả mọi thứ, do vậy điều quan trọng là sống vì “cái cốt yếu” và mỗi người chúng ta đều có “cái cốt yếu” của mình.
- Em ước rằng trời nghe thấy điều anh nói đây đối với chuyện của em : cái cốt yếu của em hãy còn ở phía trước.
- Chính vì vậy mà chúng ta không từ bỏ “cái cốt yếu” này. Ta về tiếp tục làm việc thôi.
Arthur trả tiền và họ đi ra bãi đậu xe. Trước khi anh ngồi vào ôtô, Lauren hôn lên má anh “cảm ơn anh vì tất cả”, cô nói. Arthur mỉm cười, đỏ mặt lên và mở cửa xe không thốt một lời.
Last edited by khungcodangcap; 08-12-2008 at 05:56 PM.
Arthur trải qua gần 3 tuần lễ ở thư viện thành phố, một toà nhà nghiêm nghị theo phong cách cổ điển mới, được xây dựng vào hồi đầu thế kỷ, ở đó trong hàng chục gian phòng với mái vòm uy nghi, ngự trị một bầu không khí khác hẳn so với những chỗ giống như thế. Người ta thường gặp ở nơi này, trong những phòng chứa tư liệu của thành phố, những giới thượng lưu của San Fransisco bên cạnh những chàng “hippi” cũ giờ đã hoàn tục, họ trao đổi với nhau những câu chuyện tiếu lâm, những ý kiến thống nhất và những điểm bất đồng về các vấn đề của thành phố. Ghi tên vào phòng số 27, nơi tập trung những tác phẩm y khoa, ngồi ở dãy dố 48, bên cạnh những tài liệu về thần kinh học, Arthur ngốn ngấu trong vài ngày hàng nghìn trang sách về hôn mê, về sự mất ý thức và chấn thương sọ não. Nếu như việc đọc đã làm cho anh hiểu rõ hơn về tình trạng của Lauren thì vẫn không có gì làm cho anh tiếp cận được với cách giải quyết vấn đề đang đặt ra cho anh. Khép mỗi tài liệu lại, anh hy vọng sẽ tìm thấy một ý tưởng trong tài liệu sau. Sáng nào anh cũng có mặt vào lúc mở cửa thư viện, ngồi vào bàn với những chồng sách và miệt mài với những “bài tập” của mình. Đôi khi anh ngừng công việc nửa chừng, rời bàn đọc đến một máy vi tính để gửi các bức thư đầy những câu hỏi cho các giáo sư y học nổi tiếng. Có một vài người trả lời anh, đôi khi họ tỏ ra rất tò mò về mục đích nghiên cứu của anh. Sau đó anh lại về chỗ ngồi của mình và tiếp tục đọc.
Anh tạm nghỉ một chút để ăn trưa ở nhà ăn, đem theo các tạp chí về chính những đề tài này, và anh kết thúc ngày làm việc của mình vào quãng hai mươi hai giờ, lúc thư viện đóng cửa.
Tối khuya, anh về gặp lại Lauren và vừa ăn tối vừa kể cho cô nghe về những nghiên cứu trong ngày của anh. Những cuộc tranh luận thực sự bùng ra khi cô rút cục quên bẵng rằng anh không phải sinh viên y khoa. Anh làm cho cô ngạc nhiên bởi tốc độ nhanh chóng của anh trong việc nắm vững những thuật ngữ y học. Những lập luận và những ý kiến trái ngược nối tiếp nhau, đối lập nhau thường xuyên đến tận lúc đêm khuya và đến khi người đã mệt lử. Sáng sớm, vừa ăn sáng anh vừa nói với cô về phương hướng nghiên cứu mà anh dự định thực hiện trong ngày. Anh không cho cô đi theo anh, sợ cô làm anh mất tập trung. Nếu như Arthur không bao giờ tỏ ra nản chí trước mặt cô, nếu như những lời nói của anh luôn luôn tràn đầy lạc quan, thì sự yên lặng bao giờ cũng làm cho họ cảm thấy rằng họ sẽ không thành công.
Một ngày thứ sáu kết thúc tuần lễ nghiên cứu thứ ba của anh, anh rời thư viện sớm hơn thường lệ. Ngồi vào ôtô, anh bật đài to hết cỡ để nghe một bản nhạc của Barry White. Một nụ cười hiện ra trên môi anh, anh rẽ ngoặt đột ngột sang California Street và dừng lại mua vài thứ. Hôm nay anh không khám phá ra được điều gì đặc biệt cả, nhưng tự dưng cảm thấy muốn có một bữa ăn liên hoan buổi tối. Anh quyết định khi về nhà sẽ bày bàn ăn, thắp nến và làm cho cả căn nhà tràn đầy tiếng nhạc, anh sẽ mời Lauren khiêu vũ, và sẽ cấm tiệt mọi cuộc nói chuyện về y học. Khi ánh hoàng hôn lộng lẫy bắt đầu rọi lên trên vịnh, anh đỗ xe trước cửa ngôi nhà nhỏ theo phong cách thời Victoria ở Green Street. Anh nhún nhảy đi lên cầu thang, làm vài động tác tung hứng để cho chìa khoá vào ổ khoá và bước vào phòng, hai tay đầy các gói đồ. Anh dùng chân đẩy cửa và đặt tất cả các túi lên trên bàn bếp.
Lauren ngồi trên bệ cửa sổ. Lặng lẽ ngắm cảnh, cô thậm chí không buồn quay đầu lại. Arthur gọi cô bằng một giọng trêu chọc. Rõ ràng cô đang ở trong một tâm trạng buồn bực, cô vụt biến mất ngay lập tức. Arthur nghe thấy tiếng cô lầm bầm trong phòng trong :” Có việc đóng cái cánh cửa mà mình cũng không thể làm được nữa cơ chứ!”
- Em có chuyện gì à ?- anh kêu lên
- Để cho em yên !
Arthur cởi áo măng tô và vội vã đi về phía cô. Khi anh mở cửa phòng, anh nhìn thấy cô đứng dán người vào tủ kính, tay ôm đầu.........
- Em khóc sao ?
- Em không có nước mắt, sao anh lại bảo là em khóc được ?
- Em khóc ! Có chuyện gì vậy ?
- Không, chả có chuyện gì hết.
Anh nhìn vào mắt cô dò hỏi nhưng cô xin anh để mặc cô. Nhẹ nhàng tiến lại gần, anh vòng tay ôm cô, xoay cô lại để nhìn thấy gương mặt cô.
Cô cúi đầu xuống, anh dùng ngón tay nâng cằm cô lên.
- Có chuyện gì vậy ?
- Họ sắp chấm dứt rồi !
- Ai sắp chấm dứt và chấm dứt cái gì ?
- Sáng nay em đến bệnh viện, mẹ em có ở đó. Người ta đã thuyết phục mẹ em đồng ý tiến hành euthanasie (biện pháp gây chết người không đau, áp dụng trong một số trường hợp bệnh kéo dài vô phương cứu chữa)
- Chuyện này là cái gì vậy ? Ai đã thuyết phục ai làm chuyện đó ?
Mẹ Lauren đến bệnh viện Memorial như mọi buổi sáng thường lệ. Có ba bác sĩ đợi bà bên giường bệnh. Khi bà bước vào trong phòng, một trong ba bác sĩ, một phụ nữ đứng tuổi, đi về phía bà, xin được nói chuyện riêng với bà. Bác sĩ tâm lý được uỷ nhiệm bèn cầm tay bà Kline và mời bà ngồi xuống.
Thế là bắt đầu một bản thuyết trình dài trong đó mọi lý lẽ được trưng hết cả ra nhằm thuyết phục mẹ Lauren chấp nhận cái không thể chấp nhận được. Lauren chỉ còn là một cơ thể không có linh hồn mà gia đình cô nuôi dưỡng với một giá quá mức đối với xã hội. Duy trì một người thân trong cuộc sống nhân tạo quả là dễ hơn chấp nhận cái chết, nhưng mà với giá thế nào ? Cần phải chấp nhận cái không thể chấp nhận và quyết định, không nên có bất cứ mặc cảm tội lỗi gì. Mọi cách đều đã thử cả rồi. Không có cái gì là hèn nhát ở đây. Cần phải dũng cảm thừa nhận điều đó. Bác sĩ Clomb nhấn mạnh sự phụ thuộc mà bà Kline phải chịu đối với cơ thể của con gái bà.
Hoàn toàn mất tự chủ, bà Kline lắc đầu tỏ ý kiên quyết từ chối. Bà không thể và không muốn làm điều đó. Từng phút, từng phút một, những lý lẽ của nhà tâm lý học sau nhiều lần vòng vo xa gần đã làm giảm dần đi cảm xúc để nhường chỗ cho một quyết định hợp lý và nhân đạo, bằng cách chứng minh với một thuật hùng biện tinh tế rằng từ chối việc làm này là bất công, tàn nhẫn đối với bà, và đối với những người thân của bà thì là ích kỷ, không lành mạnh. Kết cục sự hồ nghi bắt đầu xuất hiện. Một cách hết sức tế nhị, với những lý lẽ còn sắc sảo hơn nữa, những từ ngữ tinh tế hơn và gây mặc cảm tội lỗi hơn được tung ra rất nhẹ nhàng. Chỗ mà con gái bà hiện đang giữ trong khoa hồi sức có thể ngăn cản một bệnh nhân khác được cứu sống, một gia đình khác được có những hy vọng có cơ sở. Mặc cảm tội lỗi này được thay bằng mặc cảm tội lỗi khác... và thế là mối hồ nghi thắng thế. Lauren tham dự vào vở kịch này, khiếp sợ, nhìn thấy lòng quyết tâm của mẹ mình tiêu tan dần. Sau bốn tiếng đồng hồ trò chuyện, sự kháng cự của bà Kline tan vỡ hẳn, bà thừa nhận trong nước mắt những lý lẽ có căn cứ của các bác sĩ. Bà chấp nhận việc dự kiến tiến hành euthanasie đối với con gái bà. Điều kiện duy nhất mà bà đặt ra, yêu cầu duy nhất của bà là đợi thêm bốn ngày nữa, “để tin chắc”. Hôm đó là thứ năm, vậy không được làm gì trước thứ hai cả. Bà cần phải chuẩn bị cho mình và cho những người thân. Thương cảm, các bác sĩ gật đầu, tỏ ra hoàn toàn thấu hiểu, che giấu sự thoả mãn hết sức của họ vì đã tìm được ở một người mẹ giải pháp cho một vấn đề mà cả ngành khoa học của họ không thể giải quyết nổi : làm gì đối với một người không chết không sống ?
Hyppocrate đã không dự kiến được rằng y học sẽ có ngày gây ra một thảm kịch kiểu này. Các bác sĩ rời căn phòng, để lại bà một mình với con gái. Bà cầm tay cô, úp đầu vào bụng cô và vừa khóc vừa xin cô tha thứ. “ Mẹ không thể làm gì được nữa, con yêu của mẹ, con gái bé bỏng của mẹ. Mẹ muốn ở chỗ của con.” Từ một góc phòng, Lauren lặng nhìn mẹ, lòng trĩu nặng một cảm giác lẫn lộn vừa sợ vừa buồn, vừa ghê rợn. Rồi cô đi đến ôm vai mẹ nhưng bà không cảm thấy gì cả. Trong thang máy, bác sĩ Clomb nói chuyện với các đồng nghiệp của mình, lấy làm mừng rỡ.
- Nhỡ đâu bà ấy thay đổi ý kiến thì sao ?- Fernstein hỏi.
- Không, tôi không nghĩ như thế, vả lại nếu cần thì ta lại nói chuyện với bà ấy.
Lauren rời mẹ và cơ thể của chính mình, để 2 người lại với nhau. Bảo rằng cô lang thang như một hồn ma cũng không phải là oan. Cô trở về bậu cửa sổ, quyết định chìm đắm vào tất cả những ánh sáng, tất cả những khung cảnh, tất cả những hương vị và tất cả những âm thanh của thành phố. Arthur kéo cô vào vòng tay anh, ôm quanh người cô một cách hết sức dịu dàng
- Dù em khóc, em vẫn cứ xinh. Lau nước mắt đi, anh sẽ ngăn chặn họ.
- Bằng cách nào ? – cô hỏi
- Để anh suy nghĩ một vài tiếng đã.
Cô rời khỏi anh và trở lại bên cửa sổ
- Có ích gì !- cô vừa nói vừa đăm đăm nhìn vào ngọn đèn đường – Có lẽ như vậy lại tốt hơn, có lẽ chính họ có lý.
- “Như vậy lại tốt hơn” có nghĩa là gì ? Câu hỏi của anh, được đặt ra với một giuọng hung hăng, không hề có âm. Thường ngày rất mạnh mẽ, cô trở nên nhẫn nhục. Nếu nhìn thẳng vào sự thực, thì cô chỉ có nửa cuộc sống, cô huỷ hoại cuộc sống của mẹ cô, và cứ như cô nói thì “ chả có ai chờ đợi cô khi ra khỏi đường hầm”. “ Nếu như em tỉnh dậy...mà không có điều gì ít chắc chắn hơn thế cả.”
- Ấy là tại vì em tin, dù chỉ trong một khoảnh khắc, rằng mẹ em sẽ nhẹ nhõm hơn nếu như em chết đi vĩnh viễn.
- Anh thật là dễ thương- cô ngắt lời anh
- Anh đã nói gì thế nhỉ ?
- Không có gì đâu, cái câu “chết đi vĩnh viễn” của anh khiến em cảm thấy dễ thương thôi, nhất là trong tình huống hiện nay.
- Em có tin là mẹ em sẽ lấp được khoảng trống mà em để lại không ? Em nghĩ rằng điều tốt nhất cho mẹ em là em bỏ cuộc à ? Thế còn anh thì sao ?
Cô nhìn anh chăm chú, vẻ dò hỏi
- Anh cái gì ?
- Anh sẽ đợi em khi em tỉnh dậy, với mắt người khác thì em là vô hình, nhưng với mắt anh thì không phải vậy.
- Đó có phải là một lời tỏ tình không ?
Cô bắt đầu trở nên ranh mãnh.
- Em đừng có tự mãn – anh trả lời một cách khô khan.
- Tại sao anh làm tất cả những việc này ?- cô nói gần như tức giận.
- Tại sao em lại khiêu khích và gây gổ thế ?
- Tại sao anh lại cứ ở đây, xung quanh em, loanh quanh luẩn quẩn, bỏ công sức vì em ? Có cái gì không ổn trong đầu anh /
Cô hét lên.
- Động cơ của anh là gì ?
- Em đang trở thành độc ác rồi đấy !
- Vậy thì trả lời đi, trả lời một cách thành thực !
- Ngồi xuống cạnh anh đi và bình tĩnh lại nào. Anh sẽ kể cho em nghe một câu chuyện có thật, rồi em sẽ hiểu. Một hôm có bữa ăn tối ở nhà anh, gần Carmel. Lúc đó anh nhiều nhất là bảy tuổi thôi...
Arthur thuật lại cho cô câu chuyện do một người bạn cũ của bố mẹ anh kể trong một ăn tối mà anh được mời đến. Bác sĩ Miller là một nhà phẫu thuật nhãn khoa nổi tiếng. Tối hôm ấy ông có vẻ kỳ lạ, dường như bối rối hay rụt rè, điều này hoàn toàn không giống với ông. Đến nỗi mẹ Arthur phải lo lắng và hỏi xem ông có chuyện gì vậy. Ông đã kể lại câu chuyện sau. Mười lăm ngày trước, ông đã mổ cho một cô bé bị mù bẩm sinh. Em không biết trông em như thế nào, không hiểu bầu trời là gì, không biết các màu sắc và không biết cả gương mặt của mẹ em. Thế giới bên ngoài đối với em lạ lẫm, chưa từng có hình ảnh nào lọt được vào trong óc em. Em đã dò đoán những hình dạng và những đường viền suốt đời em, nhưng không thể liên hệ được một hình ảnh nào với cái mà tay em kể lại.
Thế rồi Coco, đó là biệt hiệu mà tất cả mọi người dùng để gọi bác sĩ, đã thực hiện một ca mổ “ không thể được, làm một thử nghiệm tối đa để đạt cái tối đa. Buổi sáng trước bữa ăn tối ở nhà cha mẹ Arthur, một mình trong phòng với cô bé, ông đã tháo băng cho em.
- Cháu sẽ bắt đầu nhìn thấy một cái gì đó trước khi bác tháo băng xong cho cháu. Chuẩn bị tinh thần đi !
- Cháu sẽ nhìn thấy cái gì cơ ?- cô bé hỏi.
- Bác đã giải thích cho cháu rồi đấy, cháu sẽ nhìn thấy ánh sáng.
- Nhưng mà ánh sáng là gì ?
- Là cuộc sống, đợi một tí đã...
Và như ông đã hứa, một vài giây sau ánh sáng ban ngày tràn vào mắt cô bé. Nó ào đến dồn dập xuyên qua hai đồng tử nhanh hơn một dòng sông được giải phóng khỏi một đập chắn vừa bị vỡ, vượt qua hai thuỷ tinh thể với tốc độ nhanh nhất và đến đặt vào đáy mắt hàng tỉ thông tin mà nó chuyển tải. Được kích thích lần đầu tiên kể từ khi cô bé chào đời, hàng triệu tế bào võng mạc ở mắt em trở nên náo động, gây ra phản ứng hoá học của một phức hợp tuyệt vời, nhằm mã hoá những hình ảnh được in vào võng mạc. Mật mã được truyền ngay lập tức đến hai dây thần kinh thị giác vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài, chúng vội vã chuyển cái lưu lượng đầy ắp dữ liệu này đến não. Chỉ trong chừng vài phần nghìn giây, bộ não đã giải mã xong mọi dữ liệu nhận được, tái tạo chúng thành những hình ảnh linh hoạt, dành cho nhận thức nhiệm vụ liên kết và diên giải những hình ảnh này. Bộ phận vi xử lý hình ảnh cổ nhất, phức tạp nhất và tinh xảo nhất thế giới vừa mới được đột ngột nối vào một bộ phận quang học và bắt đầu vận hành.
Cô bé, vừa sốt ruột vừa sợ hãi, túm lấy tay Coco và bảo ông : “Khoan đã, cháu sợ.” Ông dừng lại một chút, lấy tay ôm cô bé và nói lại cho em nghe lần nữa về những điều sẽ xảy ra khi ông tháo hết băng. Đối với em, đó là hàng trăm thông tin mới để tiếp thu, để hiểu, để so sánh với tất cả những cái mà trí tưởng tượng của em đã tạo ra. Coco lại tiếp tục tháo băng.
Khi mở mắt, cái đầu tiên mà em nhìn chính là đôi tay mình; em quay đi quay lại đôi tay như quay những con rối. Rồi em nghiêng đầu, mỉm cười, cười thành tiếng và khóc nữa, mắt vẫn không thể rời khỏi mười ngón tay mình, cứ như là để lẩn tránh tất cả mọi thứ xung quanh em, những thứ đã trở thành hiện thực, bởi vì hẳn là em đang sợ hãi. Sau đó em hướng cái nhìn vào con búp bê của mình, cái hình thù bằng vải đã ở bên em trong những đêm và những ngày dày đặc bóng tối của em.
Ở đầu bên kia của gian phòng rộng thênh thang này, mẹ em bước vào mà không nói một lời. Cô bé ngẩng đầu lên và nhìn mẹ chăm chú trong vài giây. Em chưa từng nhìn thấy mẹ bao giờ cả. Vậy mà, khi người phụ nữ ấy chỉ còn cách em có vài mét thì nét mặt em bé thay đổi. Chỉ trong tích tắc, gương mặt ấy trở nên như một bé thơ, em dang rông hay cánh tay và không chút do dự gọi người “ không quen biết” này là mẹ.
Khi Coco kể xong câu chuyện này, anh hiểu rằng từ nay trong cuộc đời ông, ông đã có một nguồn sức mạnh lớn lao, ông có thể tự nhủ rằng mình đã làm được một cái gì quan trọng. Em cứ việc nói cho đơn giản là điều mà anh làm cho em, đó là để tưởng nhớ đến Coco Miller. Còn bây giờ nếu em đã bình tĩnh lại, em phải để cho anh suy nghĩ.
Lauren không nói gì, cô lẩm bẩm điều gì đó mà không ai có thể nghe được. Arthur ngồi vào đi văng và bắt đầu gặm mẩu bút chì mà anh vớ được trên cái bàn thấp. Anh ngồi như vậy hàng phút dài, sau đó anh đứng phắt dậy, đi đến ngồi vào bàn làm việc và bắt đầu viết ngoay ngoáy trên một tờ giấy. anh làm việc mất gần một tiếng đồng hồ, trong thời gian đó Lauren nhìn anh như một con mèo đang quan sát con ruồi hay con bướm một cách kỹ càng. Cô nghiêng đầu, bĩu môi vẻ tò mò trước mỗi cử chỉ của anh, mỗi khi anh bắt tay vào viết hay ngừng lại gặm bút chì. Khi làm xong, anh nói với cô, vẻ rất nghiêm túc.
- Ở bệnh viện người ta tiến hành điều trị những gì đối với cơ thể em ?
- Anh muốn nói ngoài những chăm sóc vệ sinh ấy à ?
- Đặc biệt là những chăm sóc về mặt y tế.
Cô miêu tả cho anh là cô phải nối ống truyền, vì không thể nuôi dưỡng cô bằng cách nào khác được. Mỗi tuần 3 lần người ta tiêm kháng sinh để phòng ngừa. Cô miêu tả việc xoa bóp mà người ta thực hiện ở hông, khuỷu tay, ở đầu gối và vai cô để ngăn chặn những mảng chết hoại. Những việc còn lại là kiểm tra các hằng số và lấy nhiệt độ của cô. Cô không phải dùng máy thở nhân tạo.
- Em tự thở được, chính đó là cả vấn đề của họ, nếu không thì họ chỉ có việc tháo máy thôi. Tóm lại, đó gần như là tất cả.
- Thế thì tại sao họ lại nói là việc đó đắt đến thế ?
- Tại vì giường bệnh.
Cô giải thích tại sao chỗ nằm trong bệnh viện lại đắt tiền khủng khiếp. Người ta không thật sự phân biệt những loại hình điều trị dành cho bệnh nhân. Người ta dừng lại ở chỗ chia giá thành hoạt động của các khoa theo số giường bệnh mà các khoa này có và theo số ngày trong năm mà các giường đó có người nằm; bằng cách ấy họ tính được giá thành một ngày nằm bệnh viện ở mỗi khoa, khoa thần kinh, khoa hồi sức, khoa chỉnh hình...
- Có thể chúng ta sẽ giải quyểt được cả vấn đề của ta lẫn vấn đề của họ cùng một lúc – Arthur khẳng định.
- Anh có ý gỉ ?
- Em đã từng chăm sóc những bệnh nhân trong tình trạng giống em chưa ?
Cô đã làm việc này đối với những bệnh nhân được nhận vào khoa cấp cứu, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn thôi, chưa bao giờ trong trường hợp nằm viện dài hạn cả. “ Nhưng nếu em phải làm thì sao ?” Cô cho rằng điều ấy không đặt ra vấn đề gì đối với cô, đó gần như là một công việc thuộc trách nhiệm của y tá, chỉ trừ trường hợp có biến chứng bất ngờ. “ Vậy tức là em biết cách làm ?”
Cô không hiểu anh muốn dẫn đến chuyện gì.
- Truyền thuốc có phải là một công việc phức tạp lắm không ?- anh hỏi gặng.
- Về mặt gì ?
- Về mặt kiếm các vật dụng, ta có thể mua ở hiệu thuốc được không ?
- Ở hiệu thuốc của bệnh viện thì được.
- Ở hiệu thuốc công cộng thì không được à ?
Cô suy nghĩ vài giây rồi bảo là được, người ta có thể mua glucoza, thuốc chống đông tụ, huyết thanh và pha lẫn vào nhau để truyền cho người bệnh. Như vậy là việc đó có thể làm được. Hơn nữa, các bệnh nhân điều trị tại nhà cũng thuê y tá truyền thuốc cho, những y tá này thường đặt mua các thứ ở một hiệu thuốc trung tâm.
- Anh phải gọi điện cho Paul ngay bây giờ - anh nói
- Để làm gì ?
- Để lấy xe cứu thương.
- Xe cứu thương nào ? Anh có ý gì thế ? Em có thể biết thêm được không ?
- Bọn mình sẽ bắt cóc em. Không có người thì cũng không có euthanasie !
- Anh điên hẳn rồi.
- Không đến nỗi thế đâu.
- Làm sao mà bắt cóc được em ? Bọn mình sẽ giấu cơ thể em ở đâu ? Rồi ai sẽ chăm sóc ?
- Từ từ từng câu hỏi một chứ !
Chính cô sẽ chăm sóc thân thể cô, cô đã có kinh nghiệm rồi. Chỉ còn phải tìm cách để kiếm những thứ để truyền vào người, nhưng nghe ra thì việc đó không phải là không thể làm được. Có lẽ thỉnh thoảng phải thay đổi hiệu thuốc để khỏi bị chú ý quá thôi.
- Lấy đơn thuốc ở đâu ra ?- cô hỏi
- Chuyện này thuộc về phần đầu câu hỏi của em : làm thế nào ?
- Vậy anh định sao ?
Bố dượng Paul là thợ đóng thùng xe, chuyên sửa chữa các loại xe cứu viện : cứu hỏa, cảnh sát, cứu thương. Họ sẽ mượn một cái xe “cứu thương”, xoáy vài cái áo blu, và họ sẽ đến đón cô để chuyển bệnh viện. Lauren bật cười, vẻ kích động “ Nhưng chuyện này đâu có diễn ra như vậy !”
Cô lưu ý anh rằng người ta khong vào một bệnh viện như đi siêu thị. Để tiến hành chuyển viện, “chuyển giai đoạn hai” theo biệt ngữ của giới y tế, thì cần phải làm một lô thủ tục hành chính. Cần phải có giấy đồng ý nhập viện của nơi cần đến, giấy cho phép xuất viện có chữ ký của bác sĩ điều trị, phiếu di chuyển của công ty xe cứu thương, kèm theo một thư đi đường miêu tả rõ cách thức vận chuyển.
- Chính ở chỗ này mà em phải vào cuộc, Lauren, em sẽ giúp anh kiếm những giấy tờ đó.
- Nhưng em không thể làm được, em không thể cầm, cũng không thể dịch chuyển được bất cứ cái gì.
- Nhưng em biết những thứ đó ở đâu chứ ?
- Biết, nhưng vậy thì sao ?
- Vậy thì anh sẽ là người cuỗm những thứ đó. Em biết những mẫu giấy tờ in sẵn này chứ ?
- Tất nhiên là biết, ngày nào mà em chả phải ký loại giấy này, nhất là trong khoa cấp cứu của em.
Cô miêu tả cho anh các giấy tờ này. Đó là những mẫu in kiểu bản kê khai, trên nền giấy trắng, hồng, xanh, ở đầu giấy có in tên và biểu tượng của bệnh viện hay công ty xe cứu thương.
- Vậy ta sẽ sao lại những giấy tờ đó. Em đi theo anh.
Arthur lấy áo khoác, chìa khoá, anh như người ở trong trạng thái lạc ý thức, với một sự kiên quyết đến mức khiến cho Lauren chẳng còn được mấy hứng thú phản bác lại cái kế hoạch không hiện thực này. Họ ngồi vào ôtô, anh bấm điều khiển từ xa để mở cửa gara, và lái xe ra phố. Đang đêm. Thành phố yên tĩnh, nhưng anh thì trái lại, anh phóng xe vun vút cho đến tận bệnh viện Memorial. Anh lái thẳng vào bãi đậu xe của xe cấp cứu. Lauren đang hỏi anh làm gì vậy, anh trả lời với một nụ cười khẽ trên môi : “ Đi theo anh và đừng có cười !”
Khi anh bước qua cánh cửa đầu tiên của khao cấp cứu, anh bèn cúi gập người lại và cứ đi lom khom như thế đến tận bàn thường trực. Cô nhân viên trực hỏi anh bị làm sao. Anh mô tả những cơn co thắt dữ dội phát ra sau bữa ăn tối của anh chừng hai tiếng, nhấn mạnh 2 lần rằng anh đã từng mổ ruột thừa, và từ sau lần đó anh đã từng có những cơn đau không chịu được kiểu này. Cô hộ lý bảo anh nằm xuống băng ca trong lúc chờ đợi một cô hộ lý đến khám cho. Ngồi trên tay vịn của một chiếc ghế có bánh xe lăn, đến lượt Lauren cũng phải bật cười. Arthur đóng kịch rất giỏi, đến bản thân cô cũng còn lo lắng khi thấy anh như sắp xỉu đi ở phòng đợi.
- Anh không biết là anh đang làm cái gì đâu – cô thầm thì với anh đúng vào lúc một bác sĩ tới khám cho anh
Bác sĩ Spacek xuất hiện và mời anh đi theo vào một trong những gian phòng nằm dọc hành lang, phòng nọ chỉ được ngăn cách với phòng kia bằng một tấm riđô. Bác sĩ bảo anh nằm xuống giường khám bệnh và vừa hỏi về những cơn đau của anh, vừa đọc một tờ giấy trên đó ghi tất cả những thông tin mà người ta hỏi anh lúc ở chỗ thường trực. Ngoại trừ mỗi cái tuổi mà anh trở thành đàn ông là không phải khai, còn thì gần như tất cả mọi điều về anh đều được ghi lại ở đó, không kém gì một cuộc hỏi cung của cảnh sát. Anh tuyên bố rằng có những cơn đau co thắt khủng khiếp. “ Anh bị những cơn co thắt khủng khiếp ấy ở những chỗ nào ?”, bác sĩ hỏi. “Khắp bụng”, vì vậy mà anh đau phát điên lên được. “ Đừng có nói quá, - Lauren thì thầm – anh sẽ được hưởng một mũi tiêm an thần, sẽ phải ngủ đêm ở đây, và sáng mai được rửa ruột rồi soi ruột.”
- Đừng tiêm !- anh buột miệng thốt lên.
- Nhưng tôi có nói là tiêm đâu – Spacek vừa nói vừa ngẩng đầu lên khỏi hồ sơ.
- Không, nhưng tôi thấy nên nói ngay thì hơn vì tôi ghét tiêm lắm.
Bác sĩ hỏi anh có phải là tạng người dễ bị kích thích không và Arthur gật đầu xác nhận. Bác sĩ sẽ sờ nắn anh và anh sẽ phải chỉ cho bác sĩ chỗ nào đau dữ nhất. Arthur lại gật đầu. Bác sĩ để hai bàn tay, tay nọ chồng tay kia, đặt lên trên bụng Arthur, và bắt đầu khám bệnh.
- Anh có đau ở đây không ?
- Có –anh do dự nói
- Còn đây ?
- Không, anh không muốn đau ở chỗ này đâu- Lauren vừa rỉ tai anh vừa mỉm cười.
Arthur chối phắt ngay lập tức là không hề bị đau tí nào ở chỗ mà bác sĩ đang nắn.
Cô đã hướng dẫn anh trả lời như vậy trong suốt cuộc khám bệnh. Bác sĩ kết luận là anh bị đau ruột do nguyên nhân thần kinh, cần phải dùng một loại thuốc chống co thắt mà hiệu thuốc của bệnh viện sẽ cấp cho anh khi anh trao cho họ cái đơn thuốc mà bác sĩ vừa thảo xong. Tiếp đó, sau 2 cái bắt tay và 3 lần “ Cảm ơn bác sĩ”, anh nhẹ nhõm đi dọc theo hành lang dẫn tới hiệu thuốc. Anh đã có trong tay ba loại giấy khác nhau, tất cả đều có in tên và biểu tượng của bệnh viện Memorial. Một cái màu xanh, một cái màu hồng, cái thứ ba màu xanh lá cây. Một cái là đơn thuốc, cái thứ hai là hoá đơn thanh toán, còn cái thứ ba là giấy xuất viện, với tiêu đề in bằng chữ to : “Phiếu di chuyển / phiếu xuất viện”, và dòng chữ in nghiêng : “ Gạch những mục không cần thiết”. Anh cười hớn hở, rất hài lòng về mình. Lauren bước bên anh. Anh lấy tay khoác vai cô. “ Dù sao thì tụi mình cũng làm thành một ekip ăn ý đấy chứ nhỉ !”
Về đến nhà, anh cho ba tờ giấy vào máy chụp quét ở máy vi tính của anh và chụp lại. Kể từ lúc đó, anh đã có một nguồn dồi dào các mẫu giấy in đủ các màu sắc và các loại, các kiểu giấy tờ chính thức của Memorial.
- Anh tài thật đấy –Lauren nói với anh khi cô nhìn thấy những tờ giấy có in tiêu đề đầu tiên chui ra từ chiếc máy in màu.
- Một tiếng nữa anh sẽ gọi điện cho Paul – anh trả lời cô.
- Trước hết, ta cần nói chuyện một chút về cái kế hoạch của anh đã, Arthur ạ .
Cô có lý, anh bảo, cần phải hỏi cô về tất cả mọi điều liên quan đến cách thức tiến hành của một quá trình di chuyển bệnh nhân. Nhưng đó không phải là điều bệnh nhân muốn thảo luận.
- Thế thì về việc gì ?
- Arthur, kế hoạch của anh làm em cảm động, nhưng xin lỗi anh, nó thật không hiện thực, điên rồ và vô cùng nguy hiểm đối với anh. Anh sẽ phải đi tù nếu như anh bị tóm, mà vì cái gì kia chứ, giời ạ !
- Vậy đối với em không phải là còn nguy hiểm hơn nhiều nếu như ta không thử làm gì hay sao ? Chúng ta chỉ có bốn ngày thôi Lauren !
- Anh không thể làm chuyện đó, Arthur, em không có quyền để anh làm như thế. Xin lỗi anh.
- Anh biết một cô bạn mà cứ nói một câu là lại kèm một câu xin lỗi, quá đáng đến mức các bạn trai của cô ấy không dám mời cô ấy uống một cốc nước nữa, sợ rằng cô ấy sẽ xin lỗi vì đã khát.
- Arthur, đừng làm ra vẻ ngu ngốc, anh biết em muốn nói cái gì, đó là một kế hoạch điên rồ !
- Chính tình huống này mới là điên, Lauren ! Anh không có cách nào khác.
- Còn em, em sẽ không để cho anh nhận lấy những mạo hiểm như vậy vì em.
- Lauren, em phải giúp anh, đừng làm anh mất thời gian, chính cuộc sống của em là cái đang bị đe doạ đấy.
- Có thể có một giải pháp khác.
Arthur chỉ thấy có một cách có thể thay thế được cho kế hoạch của anh, đó là nói chuyện với mẹ của Lauren và thuyết phục bà chấp nhận không làm euthanasie nữa, nhưng cách này thật khó mà thực hiện. Anh chưa bao giờ gặp bà, và chắc gì đã có thể hẹn gặp được. Bà sẽ không nhận lời tiếp một người lạ đâu. Anh có thể tự xưng là bạn thân của con gái bà, nhưng Lauren nghĩ là bà sẽ nghi ngờ, bà biết tất cả những người thân của cô. Anh có thể làm ra vẻ tình cờ gặp bà, ở một nơi mà bà thường đến. Cần phải tìm xem chỗ nào là thuận lợi.
Lauren suy nghĩ một lát.
- Sáng nào mẹ em cũng dẫn chó đi dạo ở khu Marina – cô nói.
- Vậy à, nhưng thế thì anh cũng cần một con chó để dẫn đi dạo.
- Tại sao ?
- Tại vì nếu anh đi với một sợi dây không buộc vào cổ con chó nào cả, anh có thể mất tín nhiệm ngay lập tức.
- Anh chỉ cần đi dạo bộ ở Marina mà thôi.
Cô cho là ý này khá hấp dẫn. Anh chỉ việc đi bộ dọc khu Marina, vào giờ dạo chơi cảu Kali, mềm lòng trước con chó, vuốt ve nó và cứ thế mà bắt chuyện với mẹ Lauren. Arthur đồng ý thử một phen xem sao, anh sẽ ra chỗ đó vào ngày mai. sáng sớm, Arthur dậy, mặc một chiếc quần vải thô và áo chui cổ. Trước khi ra đi, anh yêu cầu Lauren ôm anh thật chặt.
- Anh làm sao vậy ? cô nói, vẻ ngượng ngùng.
- Chả sao cả, anh không có thời gian giải thích cho em, làm như vậy là để cho con chó đấy.
Cô thực hiện, áp đầu lên vai anh và thở dài. “ Tốt lắm rồi,- anh vừa nói bằng một giọng bí ẩn vừa rời khỏi cô – anh biến đây kẻo lỡ không gặp được mẹ em mất.” Anh không đứng lại để chào tạm biệt cô, mà lao vọt ra khỏi nhà. Cửa khép lại và Lauren vừa nhún vai vừa thở dài : “ Anh ấy ôm mình là vì con chó”
Khi anh bắt đầu cuộc đi dạo, cầu Golden Gate hãy còn ngủ trong một đám mây xốp như bông. Chỉ có đỉnh hai cột trụ của chiếc cầu đỏ này là nhô ra khỏi lớp sương mù bao bọc của nó. Mặt biển bị giam hãm trong vịnh đang tĩnh lặng, những con hải âu dậy sớm lượn những vòng tròn rộng tìm bắt cá, những thảm cỏ rộng bao quanh bến tảu hãy còn đẫm sương đêm, và những chiếc tàu thuỷ được neo vào bến đang đung đưa rất nhẹ nhàng. Cảnh vật thật thanh bình, vài người tập chạy thích dậy sớm lám đánh động bầu không khí ẩm ướt và tươi mát. Vài tiếng nữa một mặt trời to lừng lững sẽ xuất hiện phía trên đồi Saussalito và đồi Tiburon và sẽ giải phóng cây cầu đỏ ra khỏi đám sương mù của nó.
Anh nhìn thấy bà từ đằng xa, trông hoàn toàn phù hợp với sự miêu tả của con gái bà. Kali chạy lon ton cách bà vài bước. Bà Kline đang đắm chìm trong dòng suy tưởng và có vẻ như mang trong lòng toàn bộ gánh nặng của điều bà lo nghĩ. Con chó đi ngang qua Authur và đột nhiên đứng lại một cách lạ lùng, nó hít hít không khí xung quanh anh, mũi phập phồng và đầu lắc lư. Nó lại gần Arthur, hít mạnh gấu quần anh và tức khắc vừa nằm xuống vừa kêu ư ử; đuôi nó vẫy loạn xì ngầu, con vật run lên vì mừng rỡ và kích động. Arthur quỳ xuống và bắt đầu vuốt ve nó một cách dịu dàng. Con vật vội vã liếm tay anh, những tiếng kêu ư ử của nó vang lên to hơn và dồn dập hơn. Mẹ Lauren bước lại gần, rất sửng sốt.
- Anh quen nó à ?- bà nói.
- Sao lại thế ạ ?- anh vừa trả lời vừa nhỏm dậy.
- Thường ngày nó nhát lắm. Không ai đến gần nó được, thế mà bây giờ nó cứ như quấn lấy anh.
- Tôi không biết, có lẽ vậy, trông nó giống ghê lắm một người bạn gái rất thân của tôi.
- Vậy à ?- Bà Kline nói, tim đập thình thịch.
Con chó ngồi dưới chân Arthur và lại vừa sủa ăng ẳng vừa chìa chân ra cho anh.
“ Kali !- Mẹ Lauren gọi - Để cho ông này được yên.”
Arthur giơ tay ra và tự giới thiệu, bà Kline do dự rồi cũng chìa tay ra. Bà cho rằng thái độ của con chó thật là không hiểu được và xin lỗi vì nó dám tỏ ra thân thiện như vậy.
- Không sao đâu, tôi rất yêu súc vật và con chó này thì rất dễ thương.
- Nhưng thường ngày nó chỉ thích thui thủi một mình, vậy mà nó lại có vẻ thực sự quen biết anh.
- Tôi luôn luôn thu hút lũ chó, tôi cho rằng chúng cảm thấy được là ai yêu chúng. Con chó này có cái đầu xinh thật.
- Đó là một con chó lai, một nửa là giống chó săn êpahơn, một nửa là giống chó labrađô
- Sao nó lại giống con chó của Lauren đến thế cơ chứ.
Bà Kline gần như bị chóng mặt, nét mặt của bà nhăn lại.
- Bà có khoẻ không, thưa bà ? – Arthur vừa hỏi vừa cầm lấy tay bà.
- Anh biết con gái tôi à ?
- Vâng, biết rất rõ, chúng tôi khá thân nhau.
Bà chưa bao giờ nghe nói đến anh và bà muốn biết anh quen con gái bà như thế nào. Anh xưng là kiến trúc sư và đã gặp Lauren ở bệnh viện. Cô khâu cho anh một vết thương do dao rọc giấy gây ra. Họ hợp tính nhau, và gặp nhau thường xuyên, “thỉnh thoảng tôi lại đến ăn trưa cùng cô ấy ở khoa cấp cứu, đôi khi chúng tôi cũng ăn tối với nhau, những lúc mà cô ấy làm việc xong sớm buổi tối”.
- Lauren không bao giờ có thời gian ăn trưa, và tối nào cũng về muộn.
Arthur cúi đầu, yên lặng.
- Nhưng mà dù sao thì con Kali cũng có vẻ quen anh lắm.
- Tôi rất buồn về những chuyện đã xảy ra với cô ấy, thưa bà, từ khi xảy ra tai nạn tôi vẫn thường đến thăm cô ấy ở bệnh viện.
- Tôi chưa gặp anh ở đó bao giờ cả.
Arthur mời bà dạo bước một đoạn cùng anh. Họ bước dọc theo bờ biển. Arthur liều mạng hỏi thăm tin tức của Lauren, viện cớ là từ lâu nay anh chưa có dịp đến thăm cô. Bà Kline nói rằng tình hình không biến chuyển, chẳng còn có hy vọng mấy. Bà không nói gì về quyết định của bà, nhưng bà miêu tả tình trạng của con gái bà bằng những từ hoàn toàn tuyệt vọng. Arthur im lặng một chút, rồi bắt đầu một bài biện hộ cho niềm hy vọng. “ Các bác sĩ không biết gì hết về hôn mê”... “ Những người bệnh trong cơn hôn mê vẫn nghe được tiếng chúng ta đấy”... “ Có những người đã tỉnh lại sau bảy năm”... “ Không có gì là thiêng liêng hơn cuộc sống, và nếu như cuộc sống đã được duy trì trái với cả lẽ thường, thì đó là một tín hiệu mà ta cần đọc được.” Đến Thượng Đế cũng được lôi ra như là “ đấng duy nhất có quyền định đoạt cái sống và cái chết.” Bà Kline dừng bước đột ngột và nhìn chằm chặp vào mắt Arthur.
- Anh không phải là gặp tôi một cách tình cờ đâu, anh là ai và anh muốn gì ?
- Tôi chỉ đi dạo ở đây thôi, thưa bà, và nếu như bà cho rằng cuộc gặp gỡ này không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên, thì chỉ có bà mới cần tự đặt cho mình câu hỏi tại sao. Tôi không dụ dỗ con chó của Lauren để nó chạy đến với tôi mà tôi chẳng cần phải gọi nó.
- Anh muốn gì ở tôi ? Và anh biết gì mà dám tuôn ra trước mặt tôi những lời quyết định về cái sống và cái chết ? Anh không biết gì hết, không biết thế nào là cái sự phải có mặt ở đó tất cả mọi ngày, để nhìn con mình nằm bất tỉnh, chẳng có một sợi mi nào lay động, để nhìn ngực nó phập phồng, nhưng gương mặt nó thì khép kín với thế giới bên ngoài.
Trong cơn tức giận, bà miêu tả cho anh về những ngày và những đêm bà ngồi nói với con gái trong niềm hy vọng điên rồ là cô có thể nghe thấy được, bà không còn có cuộc sống nữa kể từ khi con gái bà gặp tai nạn, bà sống trong nỗi sợ một cú điện thoại gọi đến của bệnh viện gọi đến báo rằng thế là đã hết rồi. Bà đã cho cô cuộc sống. Khi cô còn nhỏ, mỗi sáng bà đánh thức cô dậy, mặc quần áo cho cô và dẫn cô đến trường, mỗi tối bà đưa cô vào giường và kể chuyện cho cô nghe. Bà lo lắng nghe mỗi niềm vui của cô, mỗi nỗi buồn của cô. “Khi nó vào tuổi thiếu niên, tôi đã chấp nhận những cơn bực tức không chính đáng của nó, tôi đã chia sẻ những nỗi day dứt của nó lúc chớm yêu, tôi đã thức đem để giúp nó học bài, giúp nó ôn tập trong tất cả các kỳ thi. Tôi đã biết lùi lại phía sau khi cần thiết, và nếu như anh biết được ngay khi còn sống tôi đã nhớ nó đến thế nào. Ngày nào trong đời, tôi cũng tỉnh dậy với ý nghĩ về nó, đi ngủ mà nghĩ tới nó...”
Bà Kline ngừng bặt trong những tiếng nức nở cố nén. Arthur đặt tay lên vai bà và xin lỗi.
- Tôi không thể chịu được nữa- bà nói bằng một giọng trầm trầm- Anh tha lỗi cho tôi và đi ngay đi, lẽ ra tôi không nên nói chuyện với anh.
Arthur lại xin lỗi lần nữa, xoa đầu con chó và chậm rãi rời xa. Anh vào xe ôtô của mình, lúc xe xa dần, anh thấy qua gương chiếu hậu của ôtô bà mẹ Lauren đang nhìn theo anh. Khi anh vào nhà, Lauren đang tập đứng thăng bằng trên một chiếc bàn thấp.
- Em làm gì vậy ?
- Em luyện tập.
- Anh thấy rồi.
- Mọi chuyện diễn ra như thế nào ?
Anh kể cho cô nghe một cách chi tiết về cuộc gặp gỡ, thất vọng vì đã không làm thay đổi được lập trường của mẹ cô.
- Anh không gặp may rồi, em chẳng thay đổi ý kiến bao giờ đâu, bà ấy cứng đầu cứng cổ lắm.
- Đừng khắt khe thế, mẹ em rất đau khổ.
- Anh có thể làm một chàng rể lý tưởng được đấy.
- Nhận xét này có ẩn ý sâu sắc gì thế ?
- Chẳng có gì cả, anh là loại người được các bà mẹ vợ quý lắm đấy.
- Anh thấy cái suy nghĩ này của em rất tầm thường, và anh không cho đó là chủ đề đáng để ta nói chuyện.
- Tất nhiên là không rồi ! Anh sẽ goá trước khi lấy vợ.
- Em có ý gì với cái giọng chua ngoa thế ?
- Chẳng có gì hết, em không hề có ý nói gì với anh cả, thôi em đi ngắm biển đây, một khi mà em hãy còn có thể làm được điều này.
Cô đột ngột biến mất, để lại Arthur trong nhà một mình và bối rối. “ Cô ấy làm sao thế nhỉ ?” – anh khẽ tự hỏi. Rồi anh ngồi vào bàn vẽ, bật máy vi tính lên và bắt đầu thảo ra những việc cần làm. Anh đã quyết định việc này từ lúc ngồi vào ôtô, khi xe rời khu Marina. Không còn cách nào khác và phải làm nhanh. Từ thứ hai trở đi là các bác sĩ có thể “ru ngủ” Lauren rồi. Anh lập một bảng cần thiết các thứ cần thiết để thực hiện kế hoạch của anh. Anh in tờ giấy ra, và nhấc máy điện thoại để gọi cho Paul.
- Tao cần gặp mày hết sức khẩn cấp.
- À, mày đã từ Knewawa trở về đấy à !
- Chuyện này gấp lắm, Paul, tao cần mày.
- Mày muốn tụi mình gặp nhau ở đâu ?
- Mày muốn chỗ nào cũng được !
- Đến nhà tao đi.
Nửa tiếng sau Paul đón bạn. Họ ngồi vào đi văng ở phòng khách
- Mày có chuyện gỉ ?
- Tao cần mày giúp một việc mà không hỏi câu nào cả. Tao muốn mày giúp tao đánh cắp một cơ thể người trong bệnh viện.
- Có phải đây là một chuỗi rủi ro không ? Sau hồn ma ta sẽ chăm sóc một cái xác à? Tao có thể cho mày cái xác của tao nếu mày còn tiếp tục, mày có thể tùy ý sử dụng !
- Đó không phải là một xác chết.
- Thế thì đó là gì, một người bệnh đầy sức sống chăng ?
- Tao nói nghiêm chỉnh đấy, Paul, và tao rất vội.
- Tao không được hỏi mày à ?
- Mày sẽ khó lòng hiểu được những câu trả lời của tao !
- Tại vì tao ngu quá hay sao ?
- Tại vì không ai có thể tin được điều mà tao đang trải qua.
- Thì cứ thử xem.
- Mày phải giúp tao đánh cắp cơ thể của một phụ nữ đang bị hôn mê, cô ấy sẽ phải chịu euthanasie vào thứ hai tới. Và tao thì không muốn thế.
- Mày phải lòng một cô đang bị hôn mê à ? Ra đó là câu chuyện hồn ma của mày phải không ?
Arthur trả lời bằng những tiếng ầm ừ mơ hồ. Paul hít một hơi thở dài và ngả người dựa lưng vào đi văng.
- Chuyện này rồi sẽ tốn đến hai ngàn đôla tiền chữa chạy ở bác sĩ tâm thần đây. Mày đã suy nghĩ kỹ chưa, mày nhất quyết thế à ?
- Có mày hay không thì tao vẫn cứ làm.
- Mày thật là có một niềm say mê với những câu chuyện đơn giản !
- Mày không bị bắt buộc phải làm, mày biết đấy !
- Tao không bị bắt buộc, tao biết. Mày xộc đến đây, tao không có tin tức gì của mày từ mười lăm ngày nay rồi, trông mày chẳng còn giống ai nữa cả; mày yêu cầu tao phải mạo hiểm với mười năm nằm nhà đá để giúp mày đánh cắp cơ thể trong bệnh viện, còn tao, tao sẽ cầu nguyện thành Phật tổ Như Lai, đó là vận may duy nhất của tao. Mày cần cái gì nào ?
Arthur giải thích kế hoạch của anh, những thứ mà Paul cần phải kiếm cho anh, cái chính là một xe cứu thương, mượn tạm ở xưởng sửa chữa của bố dượng Paul.
- A, thêm vào đó tao lại còn phải chọc vào ông chồng của mẹ tao nữa chứ ! Tao thật hài lòng vì được quen biết với mày, ông bạn ạ, đó là một việc mà suýt nữa đời tao bị thiếu.
- Tao biết là tao yêu cầu mày quá nhiều.
- Không, mày không biết đâu ! Mày cần tất cả những thứ đó lúc nào ?
Anh cần xe cứu thương vào lúc tối mai. Anh sẽ tiến hành vào quãng hai mươi ba giờ, Paul sẽ ghé qua nhà anh để đón anh trước đó nửa tiếng. Sáng sớm mai Arthur sẽ gọi điện lại cho bạn để điểm lại các chi tiết linh tinh khác. Anh vừa ôm xiết bạn rất mạnh vừa nồng nhiệt cảm ơn. Paul tiễn anh ra tận cửa xe ôtô, vẻ băn khoăn lo lắng.
- Cám ơn mày lần nữa- Arthur thò đầu qua cửa xe ôtô nói.
- Bạn bè là để giúp nhau mà lại, có thể cuối tháng này tao sẽ cần mày giúp để đi cắt móng chân cho một con gấu trên núi, có gì tao sẽ báo cho mày biết. Thôi, mày chuồn đi, tao thấy mày có vẻ còn nhiều việc phải làm.
Xe ôtô mất hút sau ngã tư, và Paul giơ hai tay lên trời, hướng về Thượng đế mà kêu rống lên : “Tại sao lại là tôi?” Anh yên lặng ngắm những vì sao một lát, và do không có câu trả lời nào vọng đến với anh, anh bèn nhún vai và lẩm bẩm : “Ừ, mình biết, tại sao không !”
Phần còn lại của ngày Arthur chạy từ hiệu thuốc này đến phòng khám bệnh khác, và chất đầy thùng xe ôtô của anh.Về đến nhà, anh thấy Lauren đang thiu thiu ngủ trên giường. Anh ngồi xuống bên cô một cách rất thận trọng và đưa tay lên phía trên tóc cô mà không chạm vào. Rồi anh thầm thì : “ Bây giờ em đã ngủ được rồi. Quả thực em đẹp lắm.”
Rồi anh đứng dậy, vẫn nhẹ nhàng như thế, và quay trở lại phòng khách, ngồi vào bàn vẽ. Anh vừa rời khỏi phòng thì Lauren mở một mắt ra và mỉm cười tinh nghịch. Arthur lấy những mẫu giấy tờ hành chính mà anh in hôm trước ra bắt đầu điền vào. Anh để trống vài dòng rồi xếp tất cả vào bìa đựng hồ sơ. Anh mặc lại áo khoác, lấy xe ôtô và lái về hướng bệnh viện. Anh đỗ xe ở bãi đậu xe ở khoa cấp cứu, để ngỏ cửa xe rồi lẻn vào qua cửa. Một camera được đặt để quay phim hành lang nhưng anh không nhận thấy. Anh đi theo hành lang đến tận một gian phòng lớn được dùng làm nhà ăn. Một cô y tá trực gọi anh.
- Anh làm gì ở đây ?
Anh đến để gây bất ngờ cho một cô bạn lâu năm, cô ấy làm việc ở đây, có thể cô biết cô ấy, cô ấy tên là Lauren Kline. Cô y tá im lặng một lúc, bối rối.
- Từ bao lâu rồi, anh không gặp cô ấy ?
- Ít nhất là sáu tháng !
Anh ứng biến trong một vai nhiếp ảnh vừa mới ở Châu Phi về và muốn đến chào cô em họ theo quan hệ thông gia. “ Chúng tôi thân nhau lắm. Cô ấy không làm việc ở đây nữa à?” Cô y tá lờ câu hỏi đi và mời anh ra thường trực, ở đó người ta sẽ thông tin cho anh; anh sẽ không tìm thấy bạn anh ở đây đâu, cô rất lấy làm tiếc. Arthur làm ra vẻ lo lắng và hỏi rằng có chuyện gì không. Vẻ lúng túng, cô y tá một mực yêu cầu anh ra nơi đón tiếp của bệnh viện.
- Tôi sẽ phải đi ra khỏi toà nhà này à ?
- Về nguyên tắc thì đúng vậy, nhưng như thế anh sẽ phải đi một vòng khá xa...
Cô chỉ dẫn cho anh để anh đi ra thường trực qua lối trong nhà. Anh chào cô và cảm ơn cô, mặt vẫn giữ nguyên vẻ lo lắng mà anh tạo ra rất khéo. Khuất mắt cô y tá, anh lẻn từ hành lang này sang hành lang khác cho đến lúc thấy cái mà anh đang tìm. trong một gian phòng có cánh cửa hé mở, anh nhìn thấy hai chiếc áo blu trắng móc trên mắc áo. Anh bước vào, lấy hai cái áo ấy, cuộn tròn lại rồi giấu bên trong áo măng tô của anh. Trong túi một chiếc áo, anh cảm thấy có một cái ống nghe. Anh nhanh chóng quay ra hành lang, theo những chỉ dẫn của cô y tá, và đi ra khỏi bệnh viện bằng cửa chính. Anh đi vòng quanh toà nhà, ra chỗ xe ôtô của anh ở bãi đậu xe của khoa cấp cứu rồi chạy về nhà. Lauren ngồi trước máy vi tính, chỉ đợi anh bước vào phòng là thốt lên : “Anh thật điên rồ quá mức !” Anh không trả lời, đi lại bàn làm việc và ném lên đó hai chiếc áo blu.
- Anh điên thật rồi, xe cứu thương trong gara à ?
- Paul sẽ mang cái xe đó đến đón anh, mười rưỡi tối mai.
- Anh lấy máy cái áo này ở đâu ?
- Ở bệnh viện của em !
- Nhưng mà sao anh lại làm được tất cả những trò này ? Ai đó có thể bắt giữ anh khi anh định làm gì thì sao ? Đưa em xem nhãn đính trên áo blu đi.
Arthur mở hai chiếc áo ra, mặc vào người cái to hơn, và xoay người, nhại lại dáng điệu của những người mẫu thời trang đang trình diễn mốt trên sân khấu.
- Nào, em thấy anh ra sao?
- Anh đã cuỗm áo blu của Bronswick !
- Đó là ai vậy?
- Một bác sĩ tim mạch xuất sắc, không khí bệnh viện sẽ căng thẳng lắm đây, em đã thấy trước một loạt thông báo được niêm yết. Giám đốc phụ trách an ninh sẽ được một phen méo mặt. Đây là bác sĩ cau có nhất và kiêu căng nhất bệnh viện Memorial.
- Khả năng có ao đó nhận diện được anh thì sao ?
Cô bảo anh yên tâm, ít có khả năng ấy lắm, phải có chuyện gì đặc biệt không may thì mới thế, vì có 2 lần thay ca, ca làm cuối tuần và ca trực đêm. Anh chẳng sợ gặp phải một người trong ê kíp của bác sĩ này đâu. Tối chủ nhật đó sẽ là một bệnh viện khác, với những người khác, và không khí hoàn toàn khác.
- Này, nhìn xem, anh có cả ống nghe nhé.
- Đeo vào cổ anh đi !
Anh thực hiện.
- Trông anh hấp dẫn khinh khủng trong trang phục bác sĩ, anh có biết không ?- cô nói bằng một giọng rất dịu dàng và đầy nữ tính.
Arthur đỏ mặt lên.. Cô cầm lấy tay anh và ve vuốt những ngón tay. Cô ngước mắt nhìn anh và nói bằng một giọng vẫn dịu dàng như vậy :
- Cảm ơn về tất cả những điều anh làm cho em, chưa bao giờ có ai quan tâm chăm sóc em như vậy cả.
- Thì chính vì vậy nên Zorro đã đến !
Cô đứng dậy, khuôn mặt sát lại gần mặt Arthur. Họ nhìn vào mắt nhau. Anh vòng tay ôm cô, luồn bàn tay ra sau gáy cô, kéo cô lại để đầu cô tựa vào vai anh.
- Bọn mình có nhiều việc phải làm- anh bảo cô.- Anh phải làm việc đây.
Anh rời ra để ngồi vào bàn làm việc. Cô hướng về anh một cái nhìn chăm chú rồi yên lặng rút vào phòng trong, để ngỏ cửa. Anh làm việc rất khuya, chỉ ngừng lại để vừa nhấm nháp vài đồ ăn vặt vừa gõ mấy dòng vào máy vi tính, ngồi trước màn hình, tập trung hết sức vào những ghi chép của mình. Anh nghe thấy tiếng tivi được bật lên. “Em làm thế nào mà được vậy ?” anh cất cao giọng hỏi. Cô không trả lời. Đứng dậy, anh đi xuyên qua phòng khách và nghiêng người qua cánh cửa hé mở. Lauren đang nằm sấp trên giường. Cô rời mắt khỏi tivi và mỉm cười với anh, vẻ trêu chọc. Anh mỉm cười đáp lại, rồi trở về với bàn phím của mình. Đến lúc anh chắc rằng cô đang say sưa với bộ phim của mình, anh bèn đứng dậy và đi ra tủ đựng tài liệu. Anh lấy ra một cái hộp và đặt lên bàn rồi nhìn hồi lâu trước khi mở ra xem. Đó là một chiếc hộp hình vuông, to như một hộp đựng giày và được bọc một lớp vải đã ngả màu vì năm tháng. Anh hít một hơi và mở nắp hộp ra ; trong hộp có một bó thư được buộc lại bằng một sợi dây gai. Anh lấy ra một cái phong bì to hơn hẳn những cái khác và mở ra. Một bức thư niêm phong và một chùm chìa khoá cũ, to và nặng, rơi ra khỏi phong bì. Anh chộp lấy chùm chìa khoá, lấy tay tung hứng nó và mỉm cười lặng lẽ. Anh không đọc bức thư mà nhét nó vào trong túi áo vét của anh, cùng với chùm chìa khoá. Anh đứng dậy, đặt lại chiếc hộp vào chỗ cũ, và trở lại bàn làm việc, nơi bản kế hoạch hành động của anh đang được in ra. Sau cùng, anh tắt máy vi tính và đi vào phòng ngủ. Cô đang ngồi ở chân giường, xem phim triuyền hình nhiều tập. Tóc cô buông xoã, trông cô có vẻ rất bình thản, thư giãn.
- Tất cả đều sẵn sàng ở mức có thể rồi – anh nói.
- Một lần nữa, tại sao anh làm tất cả những việc này ?
- Em hỏi cái đó thì được ích gì, tại sao em cần biết hết mọi điều ?
- Chẳng tại sao cả.
Anh đi vào buồng tắm. Vừa lắng nghe tiếng động trong buồng tắm, cô vừa vuốt nhẹ lên thảm trải sàn. Khi tay cô vuốt qua, những sợi tơ bật lên, dựng tua tủa do tĩnh điện. Anh đi ra, người quấn trong một chiếc áo choàng vải bông.
- Anh phải đi ngủ bây giờ đây, ngày mai anh phải thật khoẻ mạnh.
Cô đến gần anh và đặt một cái hôn lên trán anh. “Chúc anh ngủ ngon, và hẹn đến mai” rồi cô đi ra khỏi phòng.
Ngày hôm sau trôi qua theo nhịp tích tắc thong thả từng phút một, trong không khí chậm rãi uể oải của những ngày chủ nhật. Mặt trời chơi trốn tìm với những trận mưa bóng mây. Họ ít nói chuyện với nhau. Thỉnh thoảng cô lại nhìn anh đăm đăm và hỏi rằng anh có chắc là vẫn muốn tiếp tục không, câu hỏi mà anh không buồn trả lời nữa. Đến trưa thì họ ra bờ biển dạo chơi.
- Lại đây em, chúng mình đi bên mép nước, anh muốn nói với em vài điều.
Anh đặt tay lên vai cô trước khi nói.
Họ đến sát mép nước, nơi những con sóng bị vỡ tung ra trên cát.
- Em hãy nhìn kỹ tất cả những thứ xung quanh ta : nước giận dữ nổi sóng, đất trơ trơ bất cần, những ngọn núi vượt hẳn lên trên, rồi cây cối, rồi ánh sáng mà mỗi phút trong ngày lại đùa nghịch thay đổi cường độ và màu sắc, những con chim bay lượn trên đầu ta, những con cá vừa cố tìm cách để khỏi phải làm mồi cho lũ hải âu vừa đi săn lùng những con cá khác. Có sư hoà điệu của các âm thanh, tiếng sóng, tiếng gió, tiếng cát; và rồi ở giữa các dàn nhạc phi thường này của cuộc đời, và vạn vật có em, có tất cả những người quanh ta. Có bao nhiêu người nhìn thấy những cái mà anh miêu tả cho em ? Có bao nhiêu người mỗi buổi sáng ra lại biết nhận thấy cái đặc quyền được tỉnh dậy và được thấy, được ngửi, được động chạm, được nghe, được cảm ? Có bao nhiêu người trong chúng ta có khả năng quên đi trong giây lát những nỗi lo toan của mình để mê đắm trước cái cảnh tượng kì diệu này. Phải nói rằng sự vô ý thức lớn nhất của con người, đó là sự vô ý thức đối với chính cuộc đời mình. Em thì em nhận thức được tất cả những điều này, vì em đang gặp nguy hiểm, và cái đó làm cho em trở thành một người đặc biệt, bởi cái mà em không cần để sống : đó là những người khác, bởi vì em không còn sự lựa chọn nào nữa cả. Vậy thì để trả lời cho câu hỏi mà em không ngừng đặt ra cho anh từ bao nhiêu ngày nay, nếu anh không chịu mạo hiểm, thì toàn bộ vẻ đẹp này, toàn bộ năng lượng này, toàn bộ vật chất sống này sẽ trở thành cái không thể đạt được đối với em. Chính vì vậy mà anh làm việc này, đưa em trở về cuộc sống sẽ làm cho đời anh có một ý nghĩa. Cuộc đời có thể làm được cho anh mấy dịp được làm những điều cốt yếu như vậy ?
Lauren không nói một lời, rồi sau cùng cô hạ mắt nhìn xuống cát. Họ bước cạnh nhau ra ôtô.
Last edited by khungcodangcap; 08-12-2008 at 05:57 PM.
Vào lúc 10h, Paul đậu xe cứu thương ở chỗ đỗ xe của Arthur và bấm chuông cửa. “ Tao sẵn sàng rồi”, anh nói. Arthur đưa cho bạn một cái túi.
- Mặc cái áo blu này, và đeo kính đi, là kính không số thôi.
- Mày không có râu giả à ?
- Tao sẽ giải thích cho mày trên đường đi, nào, đi thôi, mình phải có mặt ở lúc đổi ca, vào 11h đúng. Lauren, em đi với bọn anh, bọn anh sẽ cần đến em.
- Mày nói với bóng ma của mày đấy à ?
- Tao nói với một người đang ở cạnh chúng ta nhưng mày không nhìn thấy.
- Tất cả chuyện này là một trò đùa. Arthur, hay là mày điên thật rồi ?
- Không đùa mà cũng không điên, chuyện này mày không thể hiểu được, vì vậy giải thích chỉ vô ích thôi.
- Tốt nhất là tao nên biến thành một thanh sôcôla, ngay bây giờ, thời gian sẽ trôi nhanh hơn và nằm trong lớp giấy bạc. Tao sẽ bớt lo lắng hơn.
- Đó cũng là một cách thôi, nhanh lên.
Hoá trang thành bác sĩ và nhân viên tải thương, cả hai người đi về phía gara.
- Trông cái xe cứu thương của mày tởm quá
- Xin lỗi, tao lấy cái mà tao tìm được, rồi sắp tới tao sẽ bị chửi một chặp cho mà xem! Còn mày thì chỉ có việc nói với tao bằng thứ tiếng Đức đó thôi. Đúng là tao đang nằm mơ!
- Tao đùa đấy, cái xe trông được lắm.
Paul cầm tay lái, Arthur ngồi bên cạnh và Lauren ở giữa hai người
- Mày có muốn bật đèn xoay và bật còi cấp cứu không, bác sĩ ?
- Mày có muốn thử nghiêm túc một tí không?
- Ồ không, ông bạn ạ, nhất định là không, nếu tao thử nghiêm túc để nhận ra rằng tao đang lái một chiếc xe cứu thương mượn tạm để đi xoáy một cái xác trong bệnh viện cùng với người hợp doanh của tao, tao có thể bừng tỉnh và kế hoạch của mày sẽ đi đời nhà ma. Vì vậy tao sẽ cố hết sức để càng ít nghiêm túc càng tốt, như thế tao sẽ tiếp tục tin rằng tao đang trong một giấc mơ sắp chuyển thành cơn ác mộng. Mày lưu ý cho rằng mặt tốt của vấn đề là ở chỗ tao vẫn thường thấy các buổi tối chủ nhật nhạt nhẽo quá, nhưng đây thì dù sao cũng được giật gân lên một đôi chút.
Lauren cười
- Em thấy buồn cười à ?- Arthur nói
- Mày không thể thôi cái trò nói một mình đi được à ?
- Tao không nói một mình
- Đồng ý, có một hồn ma ở phía sau ! Nhưng đừng nói chuyện riêng với hắn nữa, điều đó làm cho tao khó chịu !
- Với cô ấy chứ !
- Cô ấy cái gì ?
- Đó là một cô gái, và cô ấy nghe thấy tất cả những điều mày nói !
- Tao cũng muốn được như mày !
- Lái xe đi !
- Hai anh lúc nào cũng như thế này à ?
- Thường xuyên.
- Thường xuyên cái gì ?- Paul hỏi.
- Tao không nói với mày
Paul phanh két lại đột ngột
- Mày làm sao thế ?
- Thôi ngay đi! Tao thề với mày là cái trò đó làm cho tao điên tiết !
- Trò gì cơ ?
- Trò gì à ?- Paul nhắc lại và nhăn mặt – Cái trò nói một mình thậm vô lý của mày ấy.
- Tao không nói một mình, Paul, tao nói với Lauren. Tao xin mày tin tao.
- Arthur, mày chập mạch hẳn rồi. Phải dừng câu chuyện này lại ngay tức khắc, mày cần được giúp đỡ.
Arthur cao giọng.
- Chuyện gì cũng phải nói với mày hai lần. Mẹ kiếp, tao chỉ xin mày tin tao thôi chứ có gì đâu.
- Thế thì mày giải thích tất cả cho tao đi, nếu mày muốn tao tin mày !- Paul kêu to- Tại vì bây giờ trông mày giống như một thằng điên, mày làm những trò điên rồ, mày nói một mình, ày tin những chuyện ma quỷ nhảm nhí, và mày kéo tao vào một việc ngu xuẩn!
- Lái xe đi, tao van mày, tao sẽ thử giải thích cho mày đây , và cái chính là mày hãy thử cố hiểu xem.
Trong khi chiếc xe cứu thương đi xuyên qua thành phố, Arthur giải thích cho người bạn luôn luôn là đồng sự của mình về cái điều không thể giải thích nổi ấy. Anh kể cho bạn nghe toàn bộ câu chuyện từ lúc bắt đầu, từ cái tủ quần áo trong buồng tắm cho đến tối hôm nay.
Quên mất sụ hiện diện của Lauren trong giây lát, anh nói với bạn về cô, về những cách nhìn của cô, về đời cô, về những nỗi nghi ngại của cô, về sức mạnh của cô, về vị ngọt ngào của những khoảnh khắc cùng cô chia sẻ, về những lời công kích lẫn nhau của họ. Paul ngắt lời anh.
- Nếu quả thực cô ta đang ở đây thì mày toi rồi con ạ.
- Tại sao ?
- Tại vì mày vừa tuôn ra một lời tỏ tình thực sự.
Paul quay ra nhìn bạn một cách chăm chú. Rồi anh tiếp tục với một nụ cười thỏa mãn:
- Ít ra thì mày cũng tin câu chuyện của mày.
- Tất nhiên là tao tin chứ, sao mày lại nói thế ?
- Tại vì mày vừa mới đỏ mặt lên. Tao chưa bao giờ thấy mày đỏ mặt cả.
Rồi anh nói tiếp, vẻ huênh hoang: “Thưa cô gái mà chúng tôi sắp đánh cắp cơ thể, nếu quả thực là cô ở đây, tôi muốn nói với cô rằng thằng bạn tôi nó bám dai lắm đấy, trước kia tôi chưa bao giờ thấy nó như vậy cả !”
- Im mồm và lái xe đi.
- Tao sẽ tin vào câu chuyện của mày vì mày là bạn tao và mày không cho tao được lựa chọn. Nếu tình bạn không phải là cùng nhau chia sẻ mọi chuyện điên rồ thì thử hỏi nó là cái gì ? Thôi, bệnh viện của mày đây rồi.
- Abott và Costello !- Lauren nói, phá vỡ sự im lặng của mình, vẻ mặt tươi rói.
- Tao lái xe đi đâu bây giờ ?
- Đi về phía xe cấp cứu và đỗ xe. Bật đèn xoay lên.
Cả ba xuống xe và đi về phía thường trực, nơi có một cô y tá đang chào họ.
- Các anh mang gì đến cho chúng tôi đấy ?- cô nói
- Không có gì cả, chúng tôi đến mang một người đi- Arthur trả lời bằng một giọgn đầy quyền hành.
- Người nào vậy ?
Anh tự giới thiệu là bác sĩ Bronswick, anh đến để nhận về điều trị một bệnh nhân tên là Lauren Kline, cần phải chuyển viện tối nay. Ngay lập tức cô ý tá đòi xem những giấy tờ chuyển viện. Arthur chìa ra cho cô một tập giấy tờ. Cô làm vẻ mặt khó đăm đăm, sao họ lại đến vào lúc đổi ca như thế này cơ chứ! Phải mất nửa tiếng mới xong được chuyện này, mà năm phút nữa là cô hết phiên trực. Arthur xin lỗi, trước đó ở chỗ anh có nhiều bệnh nhân quá. “Chỗ tôi cũng vậy, tôi rất tiếc”, cô y tá nói tiếp. Cô chỉ cho họ phòng 505 ở tầng năm. Cô sẽ kí những giấy tờ của họ, cô sẽ về trước, để họ lại đây với xe cứu thương của họ, nhưng cô sẽ báo cho người trực ca sau biết. đây thực không phải là lúc làm việc chuyển viện ! Arthur không thể nén được câu trả lời rằng không khi nào có thể coi là đúng lúc cả, “bao giờ cũng sớm quá hoặc muộn quá.” Cô y tá đành lòng chỉ đường cho họ.
- Tôi sẽ đi lấy băng ca – Paul nói để chấm dứt cuộc đôi co. – Tôi sẽ lên kia theo ông, thưa bác sĩ !
Cô y tá đề nghị được giúp họ với vẻ chẳng lấy gì làm mặn mà. Arthur khước từ sự trợ lực của cô và yêuc ầu cô lấy hồ sơ của Lauren ra và để vào xe cứu thương cùng với những giấy tờ khác.
- Hồ sơ sẽ để lại đây, nó sẽ được chuyển qua đường bưu điện, anh cần phải biết điều đó chứ- cô nói
Đột nhiên cô có vẻ do dự.
- Tôi biết, thưa cô,- Arthur nhanh nhẹn trả lời – tôi chỉ nói về những kết quả xét nghiệm cuối cùng của bệnh nhân thôi, những hằng số, lượng hồng cầu, bạch cầu, kiểm tra khí trong máu, NFS(công thức máu), thể tích huyết cầu.
- Anh xoay xở tài quá,- Lauren nói thầm- anh học tất cả những thứ ấy ở đâu ?
- Anh xem ti vi- Arthur thì thào
Anh có thể xem những số liệu này ở trong phòng bệnh nhân, cô y tá ngỏ ý đưa anh lên đó. Arthur cám ơn cô và xin cô cứ kết thúc ca trực như giờ đã định, không có cô anh cũng xoay xở được. Hôm nay là chủ nhật, cô đáng được nghỉ ngơi. Paul vừa trở alị với chiếc băng ca bèn túm lấy tay ông bạn chí cốt của mình và nhanh nhẹn kéo bạn vào hành lang. Thang máy đưa cả ba người lên tầng năm. Khi cánh cửa thang máy vừa mở ra, Arthur quay sang nói với Lauren:
- Cho đến giờ thì mọi sự đều tốt đẹp.
- Đúng vậy !- Paul và Lauren đồng thanh trả lời
- Mày nói với tao hả ?- Paul hỏi
- Nói với cả hai người.
Từ một căn phòng có một sinh viên ngoại trú trẻ măng lao vọt ra. Chạy đến chỗ họ, anh ta dừng phắt lại, nhìn chiếc áo blu của Arthur và túm lấy vai anh “ Anh là bác sĩ à ?” Arthur sửng sốt.
- Không phải, à mà đúng, đúng vậy, tại sao anh lại hỏi thế ?
- Xin anh theo tôi, tôi có một vấn đề ở phòng 508, ơn Chúa vì anh đến đúng lúc thế này !
Chàng sinh viên y khoa chạy về phía căn phòng mà anh ta chạy ra lúc nãy.
- Ta phải làm gì bây giờ ?- Arthur hoảng hốt hỏi.
- Mày hỏi tao đấy à ?- Paul đáp lại, cũng có vẻ hết hồn như vậy.
- Không, tao hỏi Lauren !
- Ta đi thôi, không còn cách nào khác – Arthur cao giọng nhắc lại.
- Thế là thế nào, ta đi thôi à? Mày không phải là bác sĩ, có lẽ mày nên chấm dứt trò mê sảng của mày trước khi làm chết người.
- Cô ấy sẽ giúp chúng ta.
- A, giá mà cô ấy giúp được!- Paul vừa nói vừa giơ hai tay lên trời.- Tại sao lại là tôi? Tại sao lại là tôi?
Cả ba người đi vào phòng 508. Chàng sinh viên ngoại trú đang ở bên đầu giường bệnh nhân, một y tá đang chờ anh ta, anh ta hốt hoảng nói với Arthur:
- Ông ta tự nhiên bị loạn nhịp tim, đây là một bệnh nhân đái đường nặng, tôi không làm sao cho ông ta ổn định lại được, tôi mới đang học năm thứ ba thôi.
- Thế thì chẳng lợi lộc gì cho ông ta cả- Paul nói
Lauren rỉ tai Arthur:
- Xé băng giấy cahỵ từ máy điện tim ra, và đọc cái giấy ấy sao cho em cũng có thể đọc được.
- Bật đèn trong phòng lên cho tôi- Arthur nói bằng một giọng uy quyền.
Anh đi sang phía bên kia giường và giật một phát để xé băng điện tâm đồ. Anh mở rộng băng giấy ra và quay lại nói thầm: “Thế này thì em có nhìn thấy không?”
- Đó là loạn nhịp tâm thất, cậu này thật vô tích sự !
Paul lấy tay vuốt lên trán, dụi dụi mắt.
- Tôi cũng thấy rõ đó là loạn nhịp tâm thất, thưa bác sĩ, vậy ta phải làm gì ?
- Không, anh không thấy gì hết, anh thật vô tích sự! Ta phải làm gì à ?- Arthur nói.
- Hỏi xem anh ta đã tiêm thuốc gì,- Lauren nói
- Anh đã tiêm thuốc gì ?
- Chưa có gì cả !
Cô y tá nói bằng một giọng coi thường, cho thấy rằng anh chàng sinh viên này đã làm cô ngao ngán đến mức độ nào.
- Chúng tôi đang ở trong tình trạng hoảng hốt, thưa bác sĩ !
- Anh thật vô tích sự!- Arthur nhắc lại.- Nào vậy ta phải làm gì ?
- Bố khỉ, ta không cần lên lớp cho anh ta, vì ông kia đang tím hết cả người rồi, ông bạn ơi, à quên, thưa bác sĩ!Saint-Quentin, ta sẽ đi thẳng đến Saint-Quentin (nhà tù lớn ở California)!- Paul giậm chân.
- Bình tĩnh nào ông ơi !- Arthur nói với Paul, rồi anh quay về phía cô y tá- Cô thứ lỗi cho anh ta, anh ta là người mới, nhưng đó là nhân viên tải thương duy nhất còn rảnh việc.
- Tiêm 2 miligram nephrine, rồi đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm, cái này sẽ phức tạp đấy, anh yêu!- Lauren nói
- Tiêm 2 miligram nephrine- Arthur thốt lên.
- Đã đến lúc rồi ! Tôi đã chuẩn bị sẵn thuốc thưa bác sĩ,- cô y tá nói,- tôi chỉ đợi có một người nhận trách nhiệm vào mình được thôi.
- Sau đó thì đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm- anh tuyên bố bằng một giọng nửa như hỏi, nửa như khẳng định.- Anh có biết đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm không?- anh hỏi chàng sinh viên.
- Bảo cô y tá làm việc đó, cô ta sẽ sướng điên lên được, vì các bác sĩ chả bao giờ để cho y tá làm việc này cả- Lauren nói trước khi anh sinh viên trả lời.
- Tôi chưa bao giờ làm cả- anh sinh viên nói.
- Cô y tá, cô sẽ đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm !
- Không đâu, bác sĩ cứ làm thôi, tôi thích làm lắm nhưng ta không có thời gian, tôi sẽ chuẩn bị cho bác sĩ, dù sao cũng cám ơn bác sĩ về sự tin cậy, tôi rất cảm kích điều đó.
Cô y tá đi ra một góc phòng để chuẩn bị kim tiêm và ống.
- Làm gì bây giờ ?- Arthur hoảng hốt hạ giọng hỏi.
- Bọn mình đi khỏi đây,- Paul trả lời- mày sẽ không đặt đường truyền ở đâu hết, mạch trung tâm cũng không mà mạch ngoài cũng không, ta cắm cổ chạy cuốn xéo khỏi đây thôi ông bạn ơi!
Lauren tiếp tục:
- Anh ra đứng trước bệnh nhân, anh nhắm vào chỗ dưới xương ức hai đốt ngón tay, anh biết xương ức là cái gì chứ ! Em sẽ hướng dẫn anh nếu anh không tìm đúng chỗ, anh đặt mũi kim nghiêng 15 độ, và anh ấn kim từ từ nhưng dứt khoát. Nếu anh thành công, một chất lỏng màu trắng đục sẽ chảy ra, nếu anh làm hỏng thì sẽ chảy máu. Và anh cầu nguyện đi để có được vận may của một người tập sự vì nếu không thì khốn thật đấy, đối với cả bọn mình lẫn cái ông đang nằm kia.
- Anh không làm được đâu! - anh thì thào.
- Anh không còn cách nào khác và ông ta cũng không, ông ta sẽ chết mất nếu anh không làm,
- Có phải em vừa gọi anh là anh yêu không hay là anh đang mơ đấy ?
Lauren mỉm cười: “ Anh làm đi và hít một hơi thật sâu trước khi ấn mũi kim nhé.” Cô y tá quay lại và đưa đường truyền cho Arthur. “ Cầm vào cái đầu bằng nhựa ấy, chúc anh may mắn!” Arthur cầm kim như Lauren chỉ dẫn. Cô y tá nhìn anh chăm chú. “Tốt lắm,- Lauren thì thầm – nghiêng ít hơn một chút, bây giờ thì ấn một nhát đi”. Mũi kim ngập vào ngực người bệnh. “Dừng lại đi, mở cái vòi nhỏ ở bên cạnh ống.” Một chất lỏng đùng đục bắt đầu chảy vào trong ống. “Hoan hô, anh làm với đôi tay bậc thầy đấy, - cô nói – anh đã cứu sống người này”.
Paul suýt hai lần lăn ra bất tỉnh, hạ giọng lặp đi lặp lại mãi một câu: “ Không thể tin được”. Được giải phóng khỏi chất lỏng đang đè lên nó, quả tim của bệnh nhân bị bệnh tiểu đường trở lại nhịp điệu bình thường. Cô y tá cám ơn Arthur. “Bây giờ tôi sẽ chịu trách nhiệm phần còn lại”, cô nói. Arthur và Paul chào cô rồi đi ra hành lang. Khi rời khỏi căn phòng, Paul không nhịn được thò lại đầu qua cánh cửa và nói vào mặt chàng sinh viên “Anh thật vô tích sự!”
Vừa đi Paul vừa nói với Arthur:
- Này, mày vừa làm cho tao sợ hết hồn!
- Cô ấy giúp tao đấy, cô ấy nhắc tao tất cả - anh thì thầm.
Paul lắc đầu: “ Tao sẽ tỉnh dậy và khi tao gọi điện cho mày để kể về cơn ác mộng mà tao đang thấy đây, mày sẽ cười, thậm chí không mày không thể tưởng tượng được là mày sẽ cười đến thế nào đâu và mày sẽ chế nhạo tao!”
- Lại đây, Paul, mình không có thời gian để mất đâu- Arthur nói.
Cả ba người bước vào phòng 505. Arthur bấm công tắc, và đèn nê-ông bắt đầu nhấp nháy. Họ đến bên giường bệnh.
- Giúp tao với – anh bảo Paul.
- Cô ta đấy à ?
- Không, đó là lão ở phòng bên cạnh đấy; tất nhiên là cô ấy chứ còn gì ! Kéo băng ca đến cạnh thành giường đi.
- Suốt đời mày chuyên làm việc này hay sao ?
- Được rồi, luồn tay vào dưới đầu gối cô ấy đi, và chú ý ống truyền nhé. Khi nào tao đếm đến 3 thì nâng cô ấy lên nhé. Một, hai ,ba !
Cơ thể Lauren được đặt lên băng ca có bánh xe lăn. Arthur đắp chăn lên người cô, tháo lọ đựng dung dịch truyền ra và lắp lại vào cái giá ở phía trên đầu cô.
- Kết thúc giai đoạn 1, bây giờ ta đi xuống nhanh nhưng không vội vã.
- Vâng, thưa bác sĩ – Paul đáp bằng một giọng bực bội.
- Cả 2 anh đều xoay xở rất tài, Lauren thì thầm
Họ quay ra thang máy. Từ cuối hành lang cô y tá gọi họ, Arthur chậm rãi quay lại:
- Có gì thế cô ?
- Bây giờ mọi việc đều ổn rồi, các anh cần giúp một tay không ?
- Không, ở đây mọi việc cũng ổn cả.
- Xin cám ơn một lần nữa.
- Có gì đâu.
Cửa thang máy mở ra và họ chui vào trong. Arthur và Paul cũng thở hắt ra.
- Ba cô siêu người mẫu, mười lăm ngày ở Hawaii, một chiếc Testa Rossa và một cái thuyền buồm!
- Mày nói cái gì đấy ?
- Tiền công của tao, tao đang tính với mày tiền công của tao tối nay.
Đại sảnh vắng tanh khi họ đi ra khỏi thang máy. Họ bước nhanh qua đó. Cơ thể Lauren được đặt ở phía sau của xe cứu thương. Rồi mỗi người ngồi vào chỗ của mình.
Trên ghế Arthur có những giấy tờ chuyển viện và một mảnh giấy kèm theo: “Đề nghị gọi điện cho tôi ngày mai, thiếu hai thông tin trong hồ sơ chuyển viện, Karen( 415) 72500 00 – máy 2145. T.B : Chúc tiếp tục may mắn.”
Xe cứu thương rời bệnh viện Memorial.
- Rút cục thì xoáy một người bệnh xem chừng khá dễ - Paul nói.
- Ấy là vì không có mấy người quan tâm đến điều đó.
- Tao rất hiểu họ. Bọn mình đi đâu?
- Đầu tiên về nhà tao rồi sẽ đi đến một nơi cũng đang bị hôn mê và cả ba chúng ta sẽ đánh thức nó dậy.
Xe cứu thương đi lên Market Street và rẽ vào Van Nees. Trong xe yên lặng.
Theo kê 1hoạch mà Arthur vạch ra, họ còn phải về nhà anh để chuyển cơ thể Lauren sang xe ôtô của anh. Trong khi Paul mang trả chiếc xe cứu thương mượn tạm về xưởng của ông bố dượng thì Arthur sẽ mang xuống tất cả những đồ đạc đã được chuẩn bị cho chuyến đi và cho thời gian lưu lại ở Carmel. Những đồ mua ở hiệu thuốc đã được đóng gói cẩn thận và để trong chiếc tủ lạnh to mác General Electric.
Đến trước gara, Paul bấm điều khiển từ xa để mở cửa, nhưng cánh cửa không hề nhúc nhích.
- Bao giờ sự việc cũng xảy ra như thế trong những truyện trinh thám rẻ tiền thì thằng ngồi bên lấy vẻ hùng hổ hơn và ít kiểu cách hơn rồi hỏi: “ Cái chết tiệt gì thế này?”. Đây, trong trường hợp ấy, thì là cái cửa gara nhà mày nó không chịu mở, và cái xe cứu thương lấy từ xưởng của ông bố dượng tao, với một cơ thể người ở bên trong, đỗ ngay trước khu nhà mày vào cái giờ mà tất cả hàng xóm của mày sẽ dẫn chó đi tè.
- Chết cha rồi !
- Thì tao cũng nói gần như vậy, Arthur.
- Đưa tao điều khiển từ xa !
Paul vừa chấp hành vừa nhún vai. Arthur cáu kỉnh ấn nút, chẳng ăn thua gì cả.
- Đã thế hắn lại coi mình là một thằng ngớ ngẩn nữa chứ.
- Hết phin rồi – Arthur nói.
- Chính là do pin, dĩ nhiên rồi, - Paul kết luận một cách châm chọc.- Tất cả các thiên tài đều bị tóm một cách như thế.
- Tao chạy đi kiếm pin đây, mày lượn một vòng quanh khu nhà đi.
- Mày có thể cầu nguyện để có một cục pin trong ngăn kéo của mày, thiên tài !
- Đừng trả lời và lên nhà đi- Lauren bảo.
Arthur xuống khỏi xe cứu thương và ba chân bốn cẳng chạy lên cầu thang, anh lao vào nhà, và bắt đầu bới tất cả các ngăn kéo. Chẳng thấy cục pin nào cả. Anh dốc ngăn kéo tủ tài liệu, ngăn kéo tủ đầu giường, các ngăn kéo trong bếp, trong lúc Paul đang lượn đến vòng thứ năm quanh khu nhà.
- Nếu mình không bị một đội tuần tra phát hiện, mình sẽ là một thằng cha bị cắm nhiều sừng nhất thành phố- Paul vừa lẩm bẩm vừa bắt đầu vòng thứ sáu đúng vào lúc anh gặp một chiếc xe cảnh sát. “ Không phải rồi, mình không bị cắm sừng, nhưng giá mà như thế lại còn hơn!”
Chiếc xe cảnh sát dừng lại ngang tầm anh, viên cảnh sát ra hiệu cho anh hạ cửa kính xuống, anh thi hành.
- Anh bị lạc à ?
- Không, tôi đợi một đồng nghiệp lên nhà lấy đồ rồi chúng tôi sẽ đưa Daisy đến xưởng.
- Daisy là ai? - Viên cảnh sát hỏi.
- Là xe cứu thương, đây là ngày cuối cùng của nó, nó đã hết thời rồi, mười năm rồi chúng tôi đi cùng nhau, cái xe này và tôi, chia tay không phải dễ, anh có hiểu không ? hàng đống kỉ niệm, cả một mảng đời.
Viên cảnh sát gật đầu. Anh ta hiểu, anh ta yêu cầu Paul đừng đi lòng vòng lâu quá. Làm vậy sẽ gây ra những cú điện thoai gọi đến trung tâm đấy. Dân ở khu này có tính tò mò và hay lo lắng. “ Tôi biết, tôi sống ở đây, thưa ông cảnh sát, tôi đón đồng nghiệp của tôi rồi chúng tôi đi. Chúc một đêm tốt lành!” Viên cảnh sát cũng chúc anh một đêm tốt lành và xe tuần tra đi xa dần. Trong xe, người lái xe cá cược với bạn đồng đội là Paul không đợi ai hết cả.
- Có lẽ anh ta không dứt khoát được để đưa cái xe cà khổ của mình đi. Mười năm lái xe đó rồi dù sao cũng buồn chứ.
- Ừ ! Nhưng mặt khác thì chính những người như anh ta lại đi biểu tình vì toà thị chính không cho họ tiền để thay những dụng cụ mới.
- Nhưng dù sao thì mười năm cũng tạo ra những mối ràng buộc.
- Những mối ràng buộc, đúng thế...
Trong nhà cũng rối tung rối mù gần như Arthur. Bất chợt anh đứng sững giữa phòng khách để tìm một ý tưởng có thể cứu được họ.
- Cái remote ti vi- Lauren thì thầm.
Sững sờ, anh quay về phía cô và lao về phía chiếc hộp đen. Anh giật phắt cái nắp đậy phía sau và tháo ra một cục pin vuông và lắp ngay vào cái điểu khiển của gara. Anh chạy ra cửa sổ và ấn nút.
Paul đang điên tiết bắt đầu vòng thứ 9 thì thấy cánh cửa mở ra. Anh vừa lao vọt vào vừa cẩu nguyện để cánh cửa đóng lại nhanh hơn là khi nó mở. “Đúng là tại pin thật rồi, sao mà nó ngu thế!”
Trong lúc đó, Arthur xuống cầu thang đi ra gara.
- Xong rồi chứ ?
- Đối với tao hay đối với mày bây giờ ? Tao sẽ moi ruột mày !
- Mày giúp tao thì tốt hơn, vẫn còn việc phải làm.
- Thì tao chỉ làm có mỗi cái việc giúp mày thôi chứ còn gì nữa đâu
Họ di chuyển cơ thể Lauren một cách hết sức cẩn thận. Họ đặt cô ngồi ở phía sau, lọ đựng dịch truyền được nhét vào giữa hai tay vịn ghế, và họ quấn người cô trong một cái chăn. Đầu cô dựa vào cánh cửa, từ bên ngoài nhìn vào tất cả đều có thề tưởng rằng cô đang ngủ.
- Tao có cảm giác đang trong một bộ phim của Tarantino( nhà điện ảnh Mỹ nổi tiếng với những cảnh bạo lực cảm giác mạnh trong phim của ông)- Paul càu nhàu- Mày biết đấy, một thằng vô lại đang tống khứ...
- Im đi ! Mày lại sắp nói một điều ngớ ngẩn.
- Tại sao, tụi mình không phải đang làm một trò ngớ ngẩn tối nay sao ? Thế mày sẽ đem trả xe cứu thương à ?
- Không phải vậy, đó là cô ấy đang ở ngay cạnh mày và mày sẽ nói những điều xúc phạm, có thế thôi.
Lauren đặt tay lên vai anh.
- Các anh đừng cãi nhau, cả hai anh đều có một ngày căng thẳng rồi – cô nói bằng một giọng xoa dịu.
- Đúng vậy, chúng ta tiếp tục thôi.
- Tao đúng khi không nói gì hết à ? – Paul làu bàu.
Arthur bảo:
- Đi đến xưởng của bố dượng mày đi, mười phút nữa tao sẽ qua đón mày, tao lên nhà lấy dụng cụ.
Paul trèo lên xe cứu thương, cửa gara lần này mở ra ngay không nhõng nhẽo gì nữa, và anh đi ra không nói một lời. Đến chỗ rẽ sang Union Street anh không nhìn thấy chiếc xe tuần tra lúc nãy vừa chất vấn anh.
- Để một chiếc xe đi qua đã rồi đi theo chiếc xe cứu thương này!- viên cảnh sát nói.
Xe cứu thương rẽ vào Van Nees, theo sau có chiếc xe số 627 của cảnh sát thành phố. Mười phút sau, khi xe cứu thương đi vào sân của xưởng sữa chữa, viên cảnh sát cho xe giảm tốc độ, và trở lại vòng tuần tra thường lệ của mình. Paul không bao giờ biết rằng mình đã bị theo dõi.
Mười lăm phút sau Arthur đến. Paul đi ra phố và trèo lên phía trước của chiếc xe Saab.
- Mày đi tham quan san Fransisco hay sao ?
- Tao đi từ từ là vì có cô ấy.
- Mày dự định đến đó vào lúc bình minh à ?
- Chính thế, và bây giờ thì mày thư giãn đi, Paul. Bọn mình đã gần như là thành công rồi. Mày vừa giúp tao một việc vô giá, tao biết thế; cái mà tao không biết , đó là phải nói điều ấy với mày như thế nào, và mày đã phải nhận những mạo hiểm, điều đó tao cũng biết.
- Thôi lái xe đi, tao ngấy những lời cám ơn lắm.
Xe ôtô ra khỏi thành phố theo con đường 280 phía nam. Rất nhanh, họ rẽ về phía Pacifica, trước khi đi vào đường số 1, con đường dọc theo bờ vách đá, dẫn đến vịnh Monterey, về phía Carmel, con đường mà lẽ ra Lauren phải đi một buổi sáng đầu hè năm ngoái, bên tay lái chiếc xe Triumph cũ kĩ của cô.
Phong cảnh thật đặc biệt. Những vách đá dường như sừng sững trong đêm, trông giống một mảnh đăng ten đen. Một vầng trăng khuyết làm nổi bật lên đường viền của con đường. Họ lái xe đi như vậy trong những tiếng hoà âm của bản concerto cho violin của Samuel Barber.
Arthur trao tay lái cho Paul, anh nhìn qua cửa sổ. Ở đoạn cuối của chuyến đi này có một sự thức dậy khác đợi anh. Sự thức dậy của nhiều kỉ niệm đã ngủ thiếp đi trong một thời gian thật dài...
Last edited by khungcodangcap; 08-12-2008 at 05:59 PM.
Arthur học kiến trúc ở trường đại học tổng hợp San Fransisco. Năm hai mươi lăm tuổi, anh bán căn hộ nhỏ mà mẹ anh để lại cho anh rồi lên đường sang Châu Âu, đến Paris, để học tiếp hai năm ở trường Camando. Anh ở trong một căn phòng nhỏ phố Marazine và đã trải qua hai năm đầy say mê. Sau đó anh đi học tiếp một năm ở Florence trước khi trở về California quê hương.
Bằng cấp đầy mình, anh vào hãng Miller, kiến trúc sư tạo mẫu nổi tiếng của thành phố, thực tập hai năm ở đó, làm việc bán thời gian ở Bảo tàng nghệ thuật hiện đại Moma. Chính ở đây anh đã gặp Paul, người hợp doanh tương lai của anh, người mà hai năm sau đã cùng anh lập một xưởng kiến trúc. Theo đà phát triển kinh tế của vùng, công ty cũng dần dần gây được thanh danh, thuê gần hai mươi người làm việc. Paul phụ trách các “phi vụ”, Arthur vẽ đồ gỗ, nhà cửa, đồ vật. Mỗi người một lĩnh vực và chưa bao giờ có một chút gợn giữa hai người bạn mà không ai và không điều gì có thể đẩy rời xa nhau nhiều hơn vài tiếng đồng hồ.
Nhiều điểm chung làm họ gắn bó với nhau. Quan niệm chung về tình bạn, về cách sống và một tuổi thơ đầy những cảm xúc có thể so sánh với nhau. Những thiếu thốn giống hệt nhau. Cũng như Paul, Arthur được mẹ nuôi dạy. Nếu như cha Paul đã bỏ rơi gia đình khi anh 5 tuổi và không bao giờ xuất hiện lại, thì Arthur được ba tuổi khi cha anh lên đường sang Châu Âu. “Máy bay của bố bay lên trời cao đến nỗi nó đã ở lại trên đó, gắn vào những vì sao” Cả hai đều lớn lên ở nông thôn. Cả hai đều đã nếm mùi trường nội trú. Họ đã tự mình nên người. Lilian đã chờ đợi lâu, sau đó đã để tang, ít ra bề ngoài là như vậy. Mười năm đầu tiên của đời mình, Arthur sống ở ngoại thành, bên bờ biển gần làng Carmel xinh đẹp, nơi mà Lili, Arthur gọi mẹ như thế, có một ngôi nhà to. Làm toàn bằng gỗ trắng, ngôi nhà chìa ra biển, trên phần đất cao của khu vườn kéo dài ra đến tận bãi tắm. Antoine, một người bạn cũ của Lili, sống ở căn nhà phụ trong địa phận này. Người nghệ sĩ không thành đạt đó đã được Lili đón tiếp, những người hàng xóm thì nói là “nhặt” về. Ông thực hiện cùngvới bà công việc căhm sóc bảo dưỡng khu vườn, hàng rào, và những mặt ngoài bằng gỗ của ngôi nhà mà hầu như năm nào cũng được sơn lại, và cả những cuộc nói chuyện dài tối tối. Là bạn, là người hùa theo, đối với Arthur ông là sự hiện diện nam tính mà vài năm trước đã biến mất khọi cuộc đời cậu bé. Arthur đi học những năm đầu tiên ở Monterey. Buổi sáng Antoine đưa anh đến trường, buổi chiều khoảng 4 giờ mẹ anh đến đón về. Đó là những năm quý giá trong cuộc đời anh. Mẹ anh cũng là bạn thân nhất của anh. Lili đã dạy anh tất cả những điều mà một trái tim có thể yêu. Đôi khi bà đánh thức anh dậy vào lúc sáng sớm chỉ để dạy anh ngắm nhìn mặt trời mọc, lắng nghe những âm thanh lúc một ngày mới bắt đầu. Bà chỉ cho anh biết các loại tinh dầu hoa. Từ hình vẽ một chiếc lá, bà dạy anh biết cách nhận ra cả cái cây mang chiếc lá này. Trong khu vườn rộng bao quanh ngôi nhà ở Carmel và kéo dài ra đến tận biển, bà bắt anh đi khám phá từng chi tiết của một thiên nhiên mà có những chỗ thì bà đã “khai hoá”, có những chỗ bà lại cố ý để hoang. Vào hai mùa được đánh dấu bằng màu xanh lá cây và màu hổ phách, bà bảo anh đọc thuộc tên những con chim bay đến nghỉ trên đỉnh những cây cù tùng trong cuộc hành trình dài của chúng.
Trong vườn rau mà Antoine chăm chút một cách thành kính, bà bảo Arthur hái những cây rau mọc lên như do có phép màu “chỉ hái những cây đã kịp lớn thôi”. Bên bờ biển, bà bảo anh đếm những con sóng thỉnh thoảng lại đến vuốt ve những mỏm đá, như để cố xin tha thứ cho sự dữ dội của chúng vào những mùa khác, “để nắm bắt được hơi thở của biển, áp lực của nó, tâm trạng của nó”. “Biển đưa mắt ta, đất đưa chân ta”, bà nói. Dựa vào mức độ của sự phối hợp giữa mây và gió, bà chỉ cho anh cách đoán thời tiết sắp đến, và hiếm khi bà nhầm. Arthur biết rõ từng khoảnh đất vườn nhà, anh có thể nhắm mắt lại mà đi trong đó, thậm chí đi giật lùi cũng được. Không có một góc nào đối với anh là xa lạ. Mỗi một cái hốc đều có một tên, và con vật nào muốn chọn đây làm nơi yên nghỉ mãi mãi thì cũng đều có mộ phần. Nhưng hơn tất cả, bà đã dạy anh biết yêu và biết tỉa hoa hồng. Vườn hoa hồng là một nơi giống như dấu ấn của phép màu. Hàng trăm mùi hương quyện lẫn vào nhau ở đó. Lili dẫn anh đến đây để kể cho anh nghe những câu chuyện trong đó lũ trẻ con thì mơ thành người lớn còn người lớn thì ước được trở lại tuổi thơ. Trong tất cả các loại hoa, đây là loài hoa mà anh yêu nhất.
Một buổi sáng đầu hè, mẹ bước vào phòng Arthur lúc trời mới rạng, ngồi xuống giường cạnh đầu cậu bé và vuốt ve những búp tóc xoăn của cậu.
- Dậy đi, Arthur của mẹ, dậy đi con, mẹ dẫn con đi.
Cậu bé túm lấy những ngón tay của mẹ, xiết chặt trong bàn tay nhỏ của cậu và quay người lại, áp má vào lòng bàn tay mẹ. Gương mặt cậu sáng lên một nụ cười biểu lộ rõ tình cảm trìu mến.
Bàn tay Lili có một mùi hương không bao giờ phai nhạt trong ký ức khứu giác của Arthur. Đó là sự kết hợp của nhiều loại tinh dầu hoa mà bà tự pha trộn khi ngồi bên bàn trang điểm của mình, và sáng nào bà cũng xoa lên cổ.
Đây là một trong những kỷ niệm gắn với ký ức về hương thơm.
- Nào đi thôi, con yêu của mẹ, chúng ta sẽ phải cahỵ đau với mặt trời. Xuống bếp tìm mẹ trong vòng năm phút nữa nhé.
Đứa trẻ mặc vào người một chiếc quần vải bông cũ, khoác một chiếc áo chui cổ rộng lên vai, vừa vươn vai vừa ngáp. Cậu mặc quần áo trong yên lặng, mẹ cậu đã dạy cậu biết kính trọng sự tĩnh mịch lúc bình minh, cậu đi đôi ủng cao su vì biết rõ hai mẹ con sẽ đi đâu sau khi ăn sáng. Khi đã sẵn sàng, cậu vào gian bếp rộng.
- Đừng làm ồn, Antoine hãy còn ngủ.
Mẹ đã dạy cậu biết thích cà phê, vị của nó và đặc biệt là mùi thơm của nó.
- Con dễ chịu chứ, Arthur của mẹ ?
- Vâng.
- Vậy thì con hãy mở to mắt và nhìn xung quanh con. Không nên để những kỷ niệm đẹp tàn phai đi. Con hãy thấu suốt những sắc màu và chất liệu. Đó sẽ là ngọn nguồn của thị hiếu của con và của những nỗi nhớ nhung khi nào con đã nên người.
- Nhưng con vẫn là người đấy chứ !
- Mẹ muốn nói là khi con thành người lớn.
- Trẻ con chúng con thì khác lắm hay sao ?
- Ừ ! Người lớn cũng có những nỗi lo âu mà trẻ con không biết đến, con muốn gọi đó là nỗi sợ cũng được.
- Mẹ sợ cái gì ?
Mẹ giải thích cho cậu là người lớn sợ đủ thứ, sợ già, sợ chết, sợ cai 1mà họ khôgn trải qua, sợ bệnh tật, đôi khi sợ cả cái nhìn của trẻ con, sợ bị phán xét.
- Con có biết tại sao mẹ con mình lại tâm đầu ý hợp đến thế không ? tại vì mẹ không nói dối con, tại vì mẹ nói với con như với một người lớn, tại vì mẹ không sợ. mẹ tin tưởng con. Những người lớn sợ là vì họ không biết tính đến những tình huống. Đó chính là điều mà mẹ đang dạy con. Chúng ta đang tận hưởng một khoảnh khắc dễ chịu được tạo nên bằng một loạt các chi tiết đa dạng : hai mẹ con ta, cái bàn này, cuộc trò chuyện của chúng ta, đôi tay mẹ mà con đang nhìn từ nãy đến giờ, mùi thơm trong căn phòng này, cái khung cảnh thân thuộc đối với con này, sự tĩnh lặng của ngày đang thức dậy.
Mẹ đứng lên, cầm bát đem đặt vào chiếc bồn rửa tráng men. Sau đó bà lấy một miếng bọt biển lau bàn, vun những vụn bánh mì vào lòng bàn tay mà bà đang giơ ra hứng. Gần cửa ra vào có một chiếc giỏ bằng rơm bện, bên trong đầy dây câu. Trong một mảnh vải cuộn tròn đặt phía trên có bánh mì, phó mát và xúc xích. Lili đeo giỏ vào cánh tay và đưa tay dắt Arthur.
- Đi thôi, con yêu của mẹ, khéo chúng mình muộn mất.
Cả hai đi xuống theo con đường dẫn đến bến cảng nhỏ.
- Con nhìn những chiếc thuyền nhỏ đủ các màu sắc kia xem, trông như một bó hoa trên biển ấy.
Như thường lệ, Arthur bước xuống nước, tháo cái thuyền con ra khỏi móc và kéo thuyền vào bờ. Lili đặt cái giỏ vào đó và bước lên thuyền.
- Nào chèo đi, con yêu của mẹ.
Chiếc thuyền nhỏ dần dần rời xa bờ theo nhịp chèo của cậu bé. Khi bờ biển vẫn còn hiện rõ, cậu cất những mái chèo vào trong thuyền. Lili lấy những dây câu ra khỏi giỏ và đã móc mồi vào lưỡi câu. Như thường lệ, mẹ chỉ chuẩn bị cho cậu những dây câu đầu tiên, những dây câu tiếp theo cậu phải tự móc lấy con giun bé đỏ hỏn cứ vặn vẹo trong những ngón tay cậu làm cho cậu rất kinh tởm. Cuộn dây câu được đặt kẹp giữa hai chân cậu ngay trên sàn thuyền, cậu cuốn sợi dây ni lông vào ngón tay trỏ và ném dây xuống nước, hòn chì nặng nhấn chìm sợi dây và kéo mạnh con mồi xuống đáy. nếu chọn được chỗ tốt, chẳng mấy chốc cậu sẽ kéo lên được một con cá.
Hai mẹ con ngồi đối diện, yên lặng đã vài phút, mẹ nhìn cậu một cách căng thẳng và hỏi cậu bằng một giọng khác thường : “Arthur, con biết là mẹ không biết bơi, nếu mẹ ngã xuống nước thì con sẽ làm gì ?” “Con sẽ nhảy xuống tìm mẹ”, đứa trẻ trả lời. Lili lập tức tỏ ra bực bội : “Sao con nói ngu ngốc thế !” Arthur sững người vì câu trả lời gay gắt.
- Phải cố chèo thuyền về đến đất liền, đó là điều mà con phải làm !
Lili kêu lên.
- Cuộc sống của con mới là cái quan trọng, đừng bao giờ quên điều đó, đừng bao giờ phạm sai lầm liều với món quà tặng duy nhất này cả, con hãy thề đi!
- Con thề với mẹ - cậu bé trả lời sợ sệt.
- Con thấy đấy,- bà nói, vẻ dịu lại – con sẽ phải để cho mẹ chìm thôi.
Khi ấy, cậu bé Arthur bật khóc. Lili lấy ngón tay trỏ gạt những giọt nước mắt của con trai.
- Đôi khi chúng ta bất lực trước những mong muốn, những ước vọng hay những khao khát bất chợt của mình, và điều đó gây ra sự day dứt nhiều lúc không chịu nổi. Tình cảm này sẽ đi theo suốt đời con, đôi khi con quên nó đi, đôi khi nó lại hiện ra như một sự ám ảnh. Một phần nghệ thuật sống phụ thuộc vào khả năng của chúng ta khắc phục sự bất lực của bản thân. Đó là một việc khó, bởi vì sự bất lực sinh ra nỗi sợ. Nó làm tiêu tan phản ứng của chúng ta, trí tuệ của chúng ta, lương tri của chúng ta, nó mở đường cho sự nhu nhược. Rồi con sẽ biết đến những nỗi sợ. Hãy đấu tranh chống lại chúng, nhưng đừng thay thế chúng bằng sự do dự quá lâu. Hãy suy nghĩ, quyết định và hành động ! Đừng có hoài nghi, khi người ta không có khả năng đảm nhận sự lựa chọn của chính mình, người ta thường sinh ra ít nhiều chán đời. Mỗi câu hỏi có thể trở thành một trò chơi, mỗi quyết định đưa ra có thể dạy con tự biết mình, tự hiểu mình.
Hãy khấy động thế giới, thế giới của con ! Hãy nhìn cái khung cảnh đang bày ra trước mắt con đây, con xem bờ biển được chạm trổ tinh vi biết bao, tưởng như đó là một mảnh đăng ten, con thấy mặt trời đang rọi xuống đó hàng nghìn tia sáng khác nhau. Mỗi cây rung rinh một kiểu khi được gió vuốt ve. Nhưng điều đẹp nhất mà trái đất cho chúng ta, điều làm chúng ta trở thành con người, đó là hạnh phúc được chia sẻ. Người không biết chia sẻ là người tàn phế trong những cảm xúc của mình. Con thấy đấy, Arthur, cái buổi sáng mà chúng ta ở bên nhau thế này rồi sẽ khắc sâu vào ký ức của con. Sau này, khi mẹ không còn nữa, con sẽ nhớ lại, và kỷ niệm này sẽ có đôi chút dư vị ngọt ngào, bởi vì mẹ con mình đã cùng nhau chia sẻ khoảnh khắc ấy. Nếu mẹ ngã xuống nước, con sẽ không nhảy xuống để cứu mẹ, làm như vậy là dại dột. Điều mà con sẽ làm, đó là đưa tay ra để giúp mẹ trèo lại lên thuyền, và nếu như con thất bại và mẹ bị chết đuối, con vẫn có lương tâm thanh thản. Con đã quyết định đúng là không liều mạng chết vô ích, nhưng con đã tìm đủ cách để cứu mẹ.
Trong khi cậu bé chèo thuyền vào bờ, người mẹ lấy tay ôm đầu cậu và dịu dàng hôn lên trán cậu.
- Mẹ làm con buồn phải không ?
- Vâng, mẹ sẽ không bao giờ chết đuối nếu có con ở đó. Và dù sao con vẫn sẽ lặn xuống nước, con đủ khoẻ để đưa mẹ lên.
Lili tắt nghỉ cũng thanh nhã như khi bà sống. Buổi sáng hôm bà mất, cậu bé lại bên giường mẹ :
- Tại sao?
Người đàn ông đứng bên giường không nói gì, ông ngước mắt lên nhìn đứa trẻ.
- Mẹ con cháu thân nhau đến thế, tại sao mẹ lại không từ biệt cháu ? Cháu thì cháu sẽ chẳng bao giờ làm như vậy đâu. Bác là người lớn, bác có biết tại sao không ? Bác nói cho cháu đi, cháu cần phải biết, tất cả mọi người đều luôn luôn nói dối trẻ con, người lớn cứ tưởng rằng trẻ con ngờ nghệch lắm! Còn bác, nếu bác là người dũng cảm, hãy nói cho cháu sự thật, tại sao mẹ lại ra đi như vậy trong khi cháu ngủ ?
Đôi khi cái nhìn của trẻ thơ kéo ta đi sâu vào những kỉ niệm của ta đến nỗi không thể không trả lời cho một câu hỏi đặt ra.
Antoine đặt tay lên vai cậu bé.
- Mẹ cháu không thể làm khác được, người ta không mời cái chết, nó tự đến. mẹ cháu thức dậy lúc nửa đêm, cơn đau rất dữ dội, mẹ cháu đã đợi mặt trời mọc, nhưng mặc dù rất muốn tỉnh táo, mẹ cháu vẫn từ từ thiếp đi.
- Vậy thì đó là lỗi của cháu, tại cháu ngủ.
- Không, tất nhiên là không phải vậy, cháu không nên nhìn sự việc như thế, cháu muốn biết lý do thực sự của việc mẹ cháu ra đi mà không từ biệt à ?
- Vâng
- Mẹ cháu là một phụ nữ quý phái, tất cả những người phụ nữ quý phái đều biết ra đi có phẩm cách, để lại những người mình yêu cho chính họ.
Nhìn thấu vào cặp mắt xúc động của người đàn ông, cậu bé ngờ vực một mối đồng cảm mà cho đến lúc bấy giờ cậu mới chỉ phỏng đoán. Cậu theo dõi dòng nước mắt chảy dài trên má ông, luồn vào bộ râu lởm chởm. Người đàn ông lấy mu bàn tay quệt ngang mi mắt.
- Cháu thấy bác khóc đấy- ông nói- cháu cũng nên làm như vậy, nước mắt làm cho nỗi buồn vợi bớt.
- Cháu sẽ khóc sau, nỗi buồn này còn gắn cháu với mẹ cháu, cháu còn muốn giữ nó lại. Mẹ là cả cuộc đời cháu.
- Không, cháu ơi, đời cháu là ở phía trước, không phải trong những kỉ niệm của cháu, đó chính là những điều mẹ cháu đã dạy cháu, hãy tôn trọng điều đó, Arthur, đừng bao giờ quên điều mà mới hôm qua mẹ còn nói với cháu : “Tất cả những ước mơ đều có giá của nó”. Với cái chết của mẹ cháu, cháu trả giá cho những ước mơ mà mẹ cháu đã cho cháu.
- Những ước mơ đó giá đắt quá, bác Antoine ơi, bác hãy để cháu một mình.
- Nhưng cháu đang một mình với mẹ cháu đó thôi. Cháu hãy nhắm mắt lại và quên đi sự có mặt của bác, sức mạnh của cảm xúc là ở đó. Cháu đang một mình với chính cháu, và từ nay sẽ bắt đầu một con đường dài.
- Mẹ cháu đẹp, có đúng không ? Trước cháu tưởng cái chết sẽ làm cháu sợ, nhưng bây giờ cháu thấy mẹ đẹp lắm.
Cậu cầm tay mẹ, những đường gân xanh nổi trên làn da thật mềm mại và trắng trẻo của bà dường như mô tả đường đời bà, dài, náo động, lắm sắc màu. Cậu kéo bàn tay mẹ lại gần khuôn mặt cậu và chậm rãi giụi má mình vào đó trước khi đặt một cái hôn vào lòng bàn tay mẹ.
Có cái hôn đàn ông nào có thể đọ được với ngần ấy tình yêu ?
- Con yêu mẹ,- cậu nói - con đã yêu mẹ với tình yêu của một đứa trẻ, giờ đây mẹ sẽ ở trong trái tim người lớn của con, cho đến tận ngày cuối cùng
- Arthur! – Antoine nói.
- Dạ.
- Có bức thư này mẹ cháu đã gửi lại cho cháu, bây giờ bác để cháu ở đây.
Còn lại một mình, Arthur ngửi phong bì và hít mùi hương thấm đượm trong đó, rồi cậu bóc thư.
Arthur của mẹ,
Khi con đọc bức thư này, mẹ biết rằng phần nào đó trong thâm tâm con, con sẽ rất giận mẹ vì đã chơi khăm con một vố. Arthur của mẹ, đây là bức thư cuối cùng của mẹ và cũng là di chúc tình yêu của mẹ.
Linh hồn mẹ bay đi, nó được nâng đỡ bằng tất cả những hạnh phúc mà con đã cho mẹ. Cuộc đời thật tuyệt diệu, Arthur, chỉ khi nó lặng lẽ bỏ đi người ta mới nhận ra điều đó, nhưng ngày nào cuộc đời cũng đều được hưởng thụ tuỳ theo lòng vui sống của ta.
Có những thời điểm, nó làm ta nghi ngờ tất cả, đừng bao giờ chịu khất phục, con yêu của mẹ. Từ ngày con ra đời, mẹ đã thấy trong mắt con một nguồn ánh sáng làm con thành một chú bé khác xa những đứa trẻ khác. Mẹ đã thấy con ngã và mím môi đứng dậy khi mà những đứa bé khác đều có thể khóc. Lòng dũng cảm này là sức mạnh của con nhưng cũng là chỗ yếu của con. Hãy coi chừng điều đó, những cảm xúc cần phải được chia sẻ, sức mạnh và lòng dũng cảm giống như hai cây gậy có thể quay ra chống lại người nào sử dụng chúng tồi. Người lớn cũng cần được khóc, Arthur ạ, người lớn cũng có những nỗi buồn.
Kể từ nay, mẹ không còn ở đây nữa, để trả lời những câu hỏi trẻ thơ của con, đó là vì đã đến lúc để con trở thành người lớn.
Trong cuộc du hành đang chờ đợi con này, đừng bao giờ để mất tâm hồn trẻ thơ của con, đừng bao giờ quên những ước mơ của con, đó sẽ là động cơ của đời con, đó là những hương vị sẽ làm nên ban mai của con. Rồi con sẽ biết đến một thứ tình yêu khác so với tình yêu mà con dành cho mẹ, khi ngày ấy đến, hãy chia sẻ nó với người con gái sẽ yêu con ; những ước mơ chung của cả hai người sẽ làm nên những kỷ niệm đẹp nhất. Sự cô đơn là một khu vườn ở đó tâm hồn khô héo đi, những bông hoa mọc lên nơi ấy sẽ không có hương thơm.
Tình yêu có một hương vị tuyệt vời, con hãy nhớ là cần phải biết cho để được nhận ; con hãy nhớ rằng cần phải là chính mình để có thể yêu. Con của mẹ, hãy nghe theo bản năng con, hãy trung thành với lương tâm và tình cảm của con, hãy sống cuộc đời mình, con chỉ có một cuộc đời mà thôi. Kể từ nay con sẽ phải chịu trách nhiệm về chính con và về những người mà con sẽ yêu. hãy sống có phẩm cách, hãy yêu, đừng để mất đi cái nhìn đã từng làm mẹ con mình gần gũi nhau đến thế khi chúng ta cùng nhau tận hưởng buổi bình minh. Con hãy nhớ đến những buổi mẹ con mình cùng nhau tỉa hoa hồng , ngắm trăng, tìm hiểu hương thơm các loại hoa, lắng nghe những tiếng động quanh nhà để hiểu nó. Đó là những điều thật giản đơn, đôi khi không hợp mốt, nhưng đừng để cho những kẻ cau có chán chường làm hỏng mất đi những khoảnh khắc màu nhiệm này đối với những người biết thưởng thức. Những khoảnh khắc ấy có một cái tên, Arthur ạ, đó là “đam mê cái đẹp”, và hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào con thôi mà đời con có được đam mê cái đẹp hay không. Đó là điều thú vị nhất của cuộc hành trình dài đang đợi con.
Chú bé của mẹ, mẹ tạm biệt con nhé, con hãy bám chắc vào mảnh đất đẹp đến nhường này. Mẹ yêu con, con đã là lẽ sống của mẹ, mẹ cũng biết con yêu mẹ đến thế nào, mẹ ra đi trong lòng thanh thản, mẹ tự hào về con.
Mẹ của con.
Cậu bé gập bức thư lại và đặt vào trong túi. Cậu hôn lên vầng trán giá lạnh của mẹ mình. Cậu đi dọc theo giá sách, lấy ngón tay vuốt lên những bìa sách. “ Một nguời mẹ chết là một tủ sách bị cháy”, mẹ cậu đã từng nói. Cậu đi ra khỏi căn phòng, bước đi dứt khoát, như mẹ đã dạy cậu : “ Khi đã ra đi không bao giờ nên quay trở lại”
Arthur ra vườn, sương sớm rớt xuống mát dịu, cậu bé đi đến bên những cây hoa hồng và quỳ xuống.
- Mẹ đã đi hẳn rồi, mẹ sẽ chẳng còn đến tỉa cành cho các bạn nữa, giá mà các bạn biết,- cậu nói – giá mà các bạn hiểu được, tôi có cảm giác là hai cánh tay tôi trở nên nặng quá chừng.
Làn gió làm cho những bông hoa rung rinh cánh như trả lời; khi ấy và chỉ đến khi ấy, cậu bé mới để cho nước mắt mình tuôn trào ra trong vườn hoa hồng. Từ phía nhà, đứng dưới cổng, Antoine nhìn cảnh đó.
- Ôi, Lili, em ra đi quá sớm đối với nó,- ông thì thầm- vô cùng quá sớm. Từ nay Arthur thành đơn độc, có ai ngoài em biết cách đi vào thế giới của nó đâu ? Nếu em có một chút quyền lực nào từ nơi mà hiện em đang ở, hãy mở cho nó cánh cửa vào thế giới của chúng ta.
Ở cuối vườn, một con quạ ra sức kêu quang quác.
- Ồ không, lili, không nên thế,- Antoine nói – anh không phải là bố của Arthur.
Đó là ngày dài nhất mà Arthur từng biết; đến khuya, ngồi dưới cổng nhà, cậu vẫn còn tôn trọng sự yên lặng của khoảnh khắc nặng nề này.
Antoine ngồi bên cậu bé, nhưng không người nào nói cả. Mỗi người đều lắng nghe những âm thanh của đêm, chìm đắm vào ký ức của những bức tường này. Dần dần trong đầu cậu bé, những nốt nhạc của một giai điệu cho đến giờ không được biết đến bắt đầu nhảy múa, nốt móc làm tan đi các từ, nốt trắng – các trạng từ, nốt đen – các động từ, và dấu lặng - tất cả các câu đã trở nên vô nghĩa.
- Bác Antoine !
- Ừ, Arthur.
- Mẹ cháu đã cho cháu điệu nhạc của mẹ.
Rồi cậu bé ngủ thiếp đi trong vòng tay của Antoine.
Antoine cứ ngồi như vậy, bất động, ôm Arthur trong tay, trong nhiều phút dài, vì sợ làm cậu thức giấc. Khi ông tin chắc là cậu bé đã ngủ say, ông bế cậu lên và trở vào nhà. Lili mới ra đi mới có mấy tiếng đồng hồ, mà không khí đã đổi khác. Một âm vang khó tả, một vài mùi hương, một vài màu sắc dường như đang nhoà dần để rồi biến hẳn.
“Phải khắc sâu vào trí nhớ, lưu giữ những khoảnh khắc này”, Antoine lẩm bẩm khi đi lên cầu thang. Vào đến phòng của Arthur, ông đặt cậu bé xuống giường cậu và lấy một cái chăn đắp lên cậu, cứ để cậu mặc nguyên quần áo. Antoine xoa đầu cậu bé, và rón rén đi ra...
Trước khi ra đi, Lili đã dự phòng tất cả. Vài tuần sau khi bà mất, Antoine đóng cửa ngôi nhà to và chỉ để mở hai phòng tầng dưới nơi ông dọn đến sống quãng đời còn lại của mình. Ông chở Arthur ra ga, đến cánh cửa của con tàu sẽ đưa cậu đến trường nội trú của cậu. Arthur lớn lên một mình ở đó. Trường nội trú là một nơi dễ chịu, những giáo viên đáng kính, đôi khi đáng yêu. Lili chắc chắn đã chọn nơi tốt nhất cho cậu. Bề ngoài không một cái gì trong khung cảnh này là buồn tẻ cả. Nhưng Arthur bước vào đó mang theo những kỷ niệm mà mẹ cậu để lại và nó choán đầy đầu óc cậu cho đến từng ngóc ngách nhỏ nhất. Cậu đã học được cách bình thản trước mọi điều. Từ những giáo lý của Lili, cậu tạo ra những thái độ, những cử chỉ, những lý lẽ theo một logic luôn luôn chặt chẽ. Arthur là một đứa trẻ thanh thản, cậu thiếu niên tiếp theo vừa giữ nguyên tính cách ấy vừa phát triển một óc quan sát đặc biêt. Chàng thanh niên mà cậu trở thành dường như không bao giờ biểu lộ tâm trạng của mình. Cậu là một học trò bình thường, chẳng phải xuất chúng cũng không kém cỏi, điểm số của cậu bao giờ cũng ở quãng trên trung bình một chút trừ môn lịch sử là cậu học xuất sắc, và cậu lặng lẽ vượt qua từng năm học một cho đến tận kỳ thi tú tài mà cậu đạt được mảnh bằng nhưng không được xếp hạng cao. Khi những năm học này kết thúc, cậu được bà hiệu trưởng của trường mời lên gặp, một buổi tối tháng sáu. Bà giải thích cho cậu rằng mẹ cậu, khi biết là mình mắc phải căn bệnh mà sẽ chỉ có được một ít thời gian tạm nghỉ trước khi ra đi vĩnh viễn, đã đến gặp bà hiệu trưởng hai năm trước lúc qua đời. Mẹ cậu đã dành hàng giờ để giải quyết những chi tiết liên quan đến việc học tập của cậu. Tiền học cho Arthur được trả trước cho đến tận khi cậu đã quá tuổi thành niên. Trước khi ra đi , mẹ cậu đã gửi gắm cho bà Senard, bà hiệu trưởng, nhiều thứ. Những chiếc chìa khoá, của ngôi nhà ở Carmel, nơi cậu đã lớn lên, và của một căn hộ nhỏ trong thành phố. Căn hộ đã được cho thuê cho đến tận tháng vừa rồi, nhưng đã được trả vào ngày cậu đến tuổi thành niên, đúng như chỉ dẫn. Tiền cho thuê nhà được gửi vào một tài khoản mang tên cậu, cùng với số tiền tiết kiệm mà mẹ cậu đã để lại cho cậu. Một khoản kha khá cho phép cậu học tiếp đại học và thậm chí hơn thế nữa.
Arthur cầm lấy chùm chìa khoá mà bà Senard đặt trên bàn. Cái móc chìa khoá là một quả cầu bằng bạc có một đường khe ở giữa, và được gắn một cái móc bấm tí xíu. Arthur bẩy cái van nhỏ, và quả cầu tách ra, để lộ hai bức ảnh nhỏ ở hai bên. Một bức ảnh là cậu khi bảy tuổi, bức kia là ảnh của Lili. Arthur khép cái móc chìa khoá lại một cách thận trọng.
- Em định học ngành gì ở đại học ? – bà giáo hỏi.
- Kiến trúc, em muốn trở thành kiến trúc sư.
- Em không đi Carmel, về lại ngôi nhà ấy à ?
- Không ạ, em chưa đi, cũng còn phải lâu nữa.
- Tại sao ?
- Mẹ em biết tại sao, đó là một bí mật.
Bà hiệu trưởng đứng dậy và mời cậu đứng lên theo. Khi họ đến gần cánh cửa phòng làm việc của bà, bà vòng tay ôm Arthur và xiết chặt. Bà nhét một chiếc phong bì vào bàn tay Arthur rồi gập những ngón tay cậu lại.
- Của mẹ em đấy,- bà nói nhỏ vào tai cậu – đó là cho em, mẹ em yêu cầu cô trao thư này cho em vào đúng thời điểm này.
Bà giáo vừa mở hai cánh cửa phòng thì Arthur bước ra luôn, mất hút trong hành lang, không quay đầu lại, một tay nắm chặt những chiếc chìa khoá dài và nặng, tay kia cầm bức thư. Cậu rẽ sang chiếc cầu thang to, bà giáo bèn khép lại hai cánh cửa phòng làm việc của bà.
Last edited by khungcodangcap; 08-12-2008 at 06:26 PM.
Xe ôtô chạy nốt những phút cuối cùng của cái đêm dài ấy, đèn pha rọi sáng những vệt màu da cam và trắng xen kẽ nhau giữa từng chỗ ngoặt lượn theo vết lõm cảu vách đá và từng đoạn đường thẳng chạy dọc một đầm lầy hay một bãi biển vắng tanh. Lauren thiu thiu ngủ, Paul lặng lẽ lái xe, tập trung vào đường và chìm trong những suy nghĩ của mình. Arthur lợi dụng khoảnh khắc yên tĩnh này để kín đáo lấy từ túi ra bức thư mà anh đã nhét vào đó khi lấy chùm chìa khoá dài và to trong tủ tài liệu ở nhà anh.
Khi anh bóc thư, một mùi hương đầy kỉ niệm toả ra, đó là hỗn hợp của hai thứ tinh dầu mà mẹ anh pha trộn trong chiếc bình con bằng pha lê màu vàng có nút bằng bạc mờ. Hương thơm thoát từ phong bì đem theo ra cả những kỉ niệm về mẹ anh. Arthur rút thư từ phong bì và mở nó ra một cách cẩn thận.
Arthur của mẹ,
Nếu con đọc những dòng này có nghĩa là cuối cùng con đã quyết định lên đường về Carmel. Mẹ rất tò mò muốn biết bây giờ con bao nhiêu tuổi. Con có trong tay những chiếc chìa khoá của ngôi nhà mà ở đó mẹ con mình đã sống cùng nhau những năm thật đẹp. Mẹ biết rằng con không trở về đây ngay lập tức, rằng con sẽ đợi đến lúc cảm thấy mình sẵn sàng đánh thức ngôi nhà này dậy.
Arthur của mẹ, con sắp bước qua cánh cửa mà tiếng động của nó đối với mẹ thân thuộc biết bao. Con sẽ đi khắp từng gian phòng chứa đầy những niềm tiếc nhớ. Con sẽ lần lượt mở từng cánh cửa chớp để cho ùa vào những tia nắng mặt trời mà mẹ sẽ thiếu biết chừng nào. Con hãy trở ra vườn hoa hồng, hãy nhẹ nhàng đến bên những đoá hoa. Trong suốt thời gian này, hẳn là chúng đã biến thành hoa dại.
Con cũng sẽ đi xuống phòng làm việc của mẹ, con sẽ ngồi vào đó. Trong tủ con sẽ tìm thấy một chiếc vali nhỏ màu đen, hãy mở nó ra nếu con muốn, nếu con đủ sức. Nó chứa những cuốn vở đầy những trang mà mẹ đã viết cho con mỗi ngày cảu tuổi thơ con. Cuộc đời con ở phía trước con; con là người chủ duy nhất của nó. Hãy xứng đáng với “ tất cả những gì mà ta đã yêu”.
Mẹ yêu con từ trên cao này, mẹ chăm chú dõi theo con.
Mẹ Lili của con.
Khi họ đến vịnh Monterey, bình minh bắt đầu nhú lên. Bầu trời choàng một mảnh lụa màu hồng nhạt, kết những dải ruy băng dài lượn sóng, thỉnh thoảng như lại chạm vào mặt biển ở phía chân trời.Arthur chỉ đường. Nhiều năm đã trôi qua, anh chưa bao giờ đi con đường này mà ngồi ở hàng ghế trước của ôtô cả, thế nhưng mỗi cây số đều có vẻ thân thuộc với anh, mỗi hàng rào , mỗi cái cổng đi qua đều hướng anh về với ký ức tuổi thơ. Anh lấy tay ra hiệu khi phải rời đường cái. Sau chỗ ngoặt sắp tới có thể thấy thấp thoáng khu nhà. Paul đi theo những chỉ dẫn của anh; một đoạn đường đất bị xói mòn bởi những cơn mưa mùa đông và được làm khô lại bởi cái nóng mùa hè. Đến một chỗ ngoặt uốn cong, cánh cửa sắt màu xanh lá cây hiện ra trước mặt họ.
- Chúng ta đã đến nơi – Arthur nói.
- Mày có chìa khoá chứ ?
- Tao đi mở cửa đây, mày lái xe đến sát tận nhà và đợi tao, tao xuống đi bộ.
- Cô ta đi với mày hay ở lại trong ôtô ?
Arthur thò đầu vào xe và ung dung trả lời :
- Thì mày cứ hỏi thẳng cô ấy !
- Không, tao không thích thế.
- Em để anh đi một mình, em nghĩ lúc này như vậy là hơn – Lauren nói với Arthur.
Arthur mỉm cười và nói với Paul:
- Cô ấy ngồi lại với mày, cái thằng số đỏ !
Ôtô đi xa dần, kéo theo một đám bụi mù ở phía sau. Đứng lại một mình, anh lặng ngắm khung cảnh xung quanh anh. Những dải đất đỏ rộng trên trồng một vài cây thông lọng hay cây thông bạc, những cây cù tùng, những cây lựu và những cây minh quyết, tất cả dường như chạy dài ra tận biển. Nền đất phủ đầy những chiếc gai đã bị mặt trời làm cháy xém. Anh đi theo chiếc cầu thang nhỏ bằng đá bên lể đường. Đi được nửa chừng,anh thấy thấp thoáng phía bên tay phải mình cái còn lại của vườn hồng ngày xưa.Khu vườn bị bỏ hoang ,vô số mùi hương quyện lẫn vào nhau gợi lên theo mỗi bước chân một vũ điệu farandole không thể kiểm soát nổi của những kỉ niệm khứu giác .
Khi anh đi qua,lũ ve sầu im bặt đi giây lát rồi lại tiêp tục hát say mê hơn.Những cây to cong xuống trước làn gió nhẹ buổi ban mai.Biển đập một vài con sóng lên các mỏm đá .Trước mặt anh,anh thấy ngôi nhà đang thiêm thiếp ngủ,hệt như anh đã để lại nó trong những giấc mơ của mình.Anh thấy nó có vẻ nhỏ hơn,mặt ngoài bị hư hỏng đôi chút nhưng mái ngói thì vẫn còn nguyên vẹn.Những cánh chớp đóng kín.Paul đỗ xe trước cổng và đang đợi anh bên ngoài ô tô.
- Mày mất khá thời gian để đến đấy!
- Hơn hai mươi năm!
- Ta làm gì đây?
Họ mang cơ thể Lauren vào quòng làm việc ở tầng dưới cùng .Anh đặt chiêù khoá vào ổ
khoá và vặn không hề do dự.Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỉ niệm mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào,không để người ta hiều tại sao.Tiếng động trong ổ khoá và vặn không hề do dự, đúng như việc cần làm. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỉ niệm mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào,không để người ta hiểu tại sao.Tiếng động trong ổ khoá vang lên đối với anh cũng dường như quá nhanh.Anh bước vào hành lang,mở cửa phòng làm việc ở bên trái lố vào,đi ngang qua căn phòng vàmở cửa chớp.Anh cố tình không chú ý tí nào đến mọi thứ xung quanh mình,việc khám phá lại nơi này sẽ để lúc sau,và anh đã quyết định hưởng trọn vẹn những giây phút ấy.Rất nhanh chóng những hòm đồ đạc được tháo dỡ,cơ thể Lauren được đặt nằm trên đi văng,ống truyền được lắp lại..Arthur khép lại cửa chớp bằng then móc . Rồi anh cầm lấy cái hộp các tông nhỏ màu nâu,và rủ Paul theo anh vào bếp : “Tao sẽ pha cà phê cho bọn mình mày mở hộp ra đi,tao sẽ đun nước nóng”
Anh mở ngăn tủ phía dưới bồn rửa bát,và lôi ra một vật bằng kim loại,hình thù kỳ quặc , gồm hai phần dối xứng và dối lập . Anh bắt đầu tháo nó ra bằng cách quay từng phần một ngược chiều nhau .
- Cái gì thế ?-Paul hỏi .
- Bình pha cà phê kiểu Italia đấy !
- Bình pha cà phê kiểu Italia?
Arthur giải thích cho bạn cách vận hành của bình cà phê,lợi ích đầu tiên là không cần dùng giấy lọc và như vậy hương thơm sẽ giữ lại tốt hơn . Phải cho hai đến ba thìa cà phê đầy vào trong cái phiễu nhỏ nằm giữa phần dưới được đổ đầy nước và phần trên. Phải vặn chặt hai khoang lại và đặt tất cả lên bếp đun. Nước sôi sẽ trào lên, thấm qua cà phê đựng trong cái phễu nhỏ và chuyển sang phần trên, được lọc chỉ bằng một cái lưới mỏng bằng kim loại. Bí quyết duy nhất để thành công chỉ là phải kéo bình pha cà phê ra khỏi ngọn lửa đúng lúc, vì đó không phải là nước nữa, mà là cà phê rồi, và “cà phê sôi, cà phê ôi!”. Khi anh giải thích xong, Paul huýt sáo lên một tiếng:
- Này,cần phải là kỹ sư biết hai thứ tiếng mới pha cà phê được trong cái nhà này à ?
- Còn cần hơn thế nhiều, ông bạn ơi, phải có tài, đó là cả một nghi lễ đấy!
Paul vừa bĩu môi tỏ ý nghi ngờ để trả lời câu nói của bạn, vừa chìa cho bạn gói cà phê. Athur cúi người xuống để mở bình ga đặt dưới bồn rửa bát. Rồi anh vặn chiếc vòi ở bên trái cái bếp, và cuối cùng là núm bật bếp.
- Mày nghĩ vẫn còn có ga à ?
- Antoine không bao giờ để lại ngôi nhà với bình ga rổng trong bếp, và tao cuộc với mày là còn ít nhất hai bình ga đầy nữa ở trong gara.
Một cách máy móc, Paul đứng lên, đi ra phía công tắc ở cạnh cửa và ấn một cái. Một làn ánh sáng màu vàng toả khắp căn phòng.
- Mày làm thế nào mà lại có điện trong căn nhà này được ?
- Hôm kia tao đã điện thoại đến công ty điện để họ cho lại điện, cả nước cũng thế, nếu như mày lo lắng, nhưng tắt đèn đi, phải lau bụi ở bóng đèn cái đã, nếu không khi bị nóng lên, nó sẽ nổ tung đấy.
- Mày học những cái đó ở đâu, pha cà phê kiểu Italia với lại lau bụi để bóng đèn khỏi nổ ?
- Ở đây, ông bạn ạ, trong gian phòng này, và tao còn học vô số điều khác nữa.
- Thế cà phê được chưa?
Arthur đặt hai cái chén lên chiếc bàn gỗ. Anh rót vào chén nước cà phê nóng bỏng.
- Đợi đã rồi hãy uống-anh nói
- Tại sao?
- Vì nếu không mày sẽ bị bỏng, với lại trước tiên mày nên hít hương cà phê cái đã. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày.
- Mày làm tao phát ngấy với cái món cà phê của mày, ông bạn ạ, chả có cái gì thấm vào mũi tao sất ! Đúng là tao đang nằm mơ. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày, nhưng mày kiếm đâu ra được cái của ấy chứ ?
Paul nâng chén cà phê lên miệng, anh phun vội ra ngay lập tức chút nước nóng bỏng mà anh vừa uống. Lauren đến đứng sau lưng Arthur và vòng tay ôm anh. Cô tựa đầu lên vai anh và nói thầm vào tai anh:
- Em thích nơi này, em cảm thấy dễ chịu ở đây, khung cảnh thật là êm dịu.
- Lúc nãy em ở đâu?
- Em làm một vòng quanh khu nhà trong khi các anh triết lý về cà phê
- Vậy em thấy sao?
- Mày lại đang nói với cô ta đấy à?-Paul ngắt lời bằng một giọng bực tức.
Không hề chú ý đến câu hỏi của Paul, Arthur quay sang Lauren:
- Em thích à ?
- Lẽ ra phải tỏ vẻ khó tính,-cô trả lời,- nhưng anh phải kể cho em nghe nhiều điều bí mật đấy, ở đây đầy những điều bí mật, em có thể cảm thấy điều đó trong mỗi bức tường, mỗi đồ vật.
- Nếu tao quấy rầy mày thì mày cứ việc coi như tao không có ở đây!- ông bạn chí thân của Arthur lại nói.
Lauren không muốn tỏ ra bội bạc nhưng cô rỉ tai anh rằng cô rất muốn được một mình với anh. Cô nóng ruột muốn được anh dẫn đi xem các nơi.Cô nói thêm rằng cô rất muốn họ được nói chuyện với nhau. Anh muốn biết là về điều gì, cô trả lời : “ Về nơi này, về trước đây”
Paul chờ đợi để Arthur cuối cùng cũng hạ cố nói với anh nhưng Arthur có vẻ lại tiếp tục trò chuyện với người bạn vô hình của mình. Paul đành quyết định ngắt lời họ.
- Nào, mày có cần đến tao nữa hay không, không thì tao quay về San Fransisco, có nhiều việc ở công ty với lại những cuộc chuyện trò cùa mày với Phantomas làm cho tao khó chịu.
- Đừng có hẹp hòi thế, được không?
- Xin lỗi! Chắc là tao nghe nhầm. Mày vừa mới bảo một thằng đã giúp mày đánh cắp một cơ thể người trong bệnh viện vào một tối chủ nhật, bằng một xe cứu thương lấy trộm, một thằng vừa uống cà phê kiều Italia ở một nơi cách nhà hắn bốn tiếng đồng hồ, đêm không được ngủ và mày bào hắn là đứng có hẹp hòi! Mày thật quá đáng !
- Tao có định nói thế đâu.
Paul không biết Arthur định nói gì nhưng anh muốn trở về trước khi họ cãi lộn “ bởi vì điều đó có thể xảy ra, mày thấy đấy, và như vậy thì thật đáng tiếc, vì đã phải bỏ biết bao công sức cho đến tận lúc này”.Arthur lo lắng hỏi xem bạn anh có đủ sức để đi đường không. Paul trấn an bạn, với chén cà phê kiểu Italia(anh nhấn mạnh từ này một cách mỉa mai) mà anh vừa uống, anhc ó thể đi được ít nhất hai mươi tiếng đồng hồ trước khi cái mệt dám làm anh ríu mắt. Arthur không đáp lại lời châm chọc. Về phần Paul, anh cũng lo lắng vì để bạn lại không có ôtô trong ngôi nhà bỏ hoang này.
- Có cái xe Ford trong gara.
- Cái xe Ford của mày chạy lần cuối cùng khi nào?
- Lâu rồi!
- Liệu nó có nổ máy được không, cái xe Ford ấy.
- Nhất định rồi, tao sẽ thay acquy, nó sẽ nổ thôi.
- Nhất định rồi! Với lại, xét cho cùng thì nếu mày có bị mắc kẹt ở đây, mày cứ tự xoay xở lấy. Tao giúp mày đêm nay thế là đủ lắm rồi.
Arthur tiễn Paul ra tận ôtô.
- Đừng lo cho tao, mày đã giúp tao nhiều rồi.
- Nhưng tất nhiên là tao phải lo cho mày chứ. Bình thường ra thì tao sẽ bỏ mặc mày một mình trong ngôi nhà này và tao sẽ khiếp sợ với ý nghĩ về các hồn ma, nhưng mà mày, đã thế mày lại còn mang thêm hồn ma của mày đến nữa !
- Biến đi !
Paul cho xe nổ máy, anh hạ cửa kính xuống trước khi đi.
- Mày có chắc là sẽ ổn cả không?
- Chắc chắn.
- Vậy thì tao đi đây.
- Paul !
- Gì ?
- Cảm ơn về tất cả những cái mày làm.
- Có gì đâu.
- Có chứ, nhiều lắm chứ, mày đã phải chịu bao nhiêu mạo hiểm vì tao, trong khi chưa hiểu rõ hẳn mọi việc, chỉ vì sự trung thành và tình bạn mà thôi, như vậy là rất nhiều, và tao biết điều đó.
- Tao biết là mày biết. Thôi, tao đi đây, nếu không bọn mình lại khóc tong tong mất. Nhớ giữ gìn sức khoẻ và báo tin đến cơ quan cho tao nhé.
Những lời hứa hẹn tuôn ra, và chiếc Saab nhanh chóng mất hút sau quả đồi. Lauren bước ra bậc thềm.
- Nào,- cô nói- ta đi một vòng quanh khu nhà chứ?
- Bên trong hay bên ngoài trước
- Trước hết chúng ta đang ở đâu ?
- Em đang ở trong ngôi nhà của Lili.
- Lili là ai ?
- Lili là mẹ anh, chính ở đây anh đã lớn lên một nửa thời thơ ấu của mình.
- Mẹ anh mất lâu rồi à ?
- Lâu lắm rồi.
- Và chưa bao giờ anh trở lại đây cả ?
- Chưa bao giờ.
- Tại sao ?
- Vào nhà đi ! Ta sẽ nói chuyện đó sau, khi nào xem nhà xong đã.
- Tại sao ?- cô hỏi vặn.
- Anh quên mất rằng em cứng đầu cứng cổ như một con la. Tại thế đấy !
- Có phải em đã khiến anh trở lại nơi này không ?
- Em không phải là hồn ma duy nhất của đời anh- anh nói bằng một giọng dịu dàng.
- Anh phải trả giá đắt khi trở lại đây.
- Nói như vậy là không chính xác, có thể coi là điều đó quan trọng đối với anh.
- Và anh đã làm như vậy vì em ?
- Anh làm điều đó vì đã đến lúc cần phải thử.
- Thử làm gì ?
- Mở chiếc vali nhỏ màu đen.
- Anh vui lòng giải thích cho em về cái vali nhỏ màu đen chứ ?
- Đó là những kỉ niệm.
- Anh có nhiều kỉ niệm ở đây ?
- Gần như là tất cả. Đây là nhà anh mà.
- Thế sau khi ở đây thì sao ?
- Sau đó anh đã cố làm sao cho mọi thứ trôi qua thật nhanh, sau đó anh đã tự lớn lên rất nhiều
- Mẹ anh chết đột ngột à ?
- Không, mẹ anh chết vì bệnh ung thư, mẹ anh biết điều đó, chỉ có đối với anh là chuyện đó xảy ra quá nhanh thôi. Đi theo anh, anh sẽ dẫn em ra thăm khu vườn. Hai người đi ra bậc thềm, và arthur dẫn Lauren đến tận chỗ bờ biển tiếp giáp với khu vườn. họ ngồi xuống mép đá.
- Nếu em biết được anh đã ngồi ở đây bao nhiêu giờ với mẹ anh, anh đếm những ngọn sóng và đánh cuộc với mẹ. Hai mẹ con thường đến xem mặt trời lặn. Nhiều người ở đây ra bãi biển buổi tối, chừng nửa giờ, để xem cảnh này. Mỗi ngày cảnh tượng lại có một vẻ khác. Do nhiệt độ của biển, của không khí, do đủ mọi thứ mà màu sắc của bầu trời không bao giờ giống nhau. Cũng như ở thành phố, mọi người về nhà xem chương trình htời sự trên ti vi vào những giờ cố định, ở đây thì dân chúng đi ra xem mặt trời lặn, đó đã thành một tục lệ rồi.
- Anh sống ở đây lâu không ?
- Hồi ấy anh là một chú nhóc con, anh được mười tuổi thì mẹ anh mất.
- Tối nay anh chỉ cho em xem mặt trời lặn nhé !
- Đó là một nghĩa vụ ở đây- anh mỉm cười nói.
Sau lưng họ, ngôi nhà bắt đầu rực lên trong ánh sáng ban mai. Lớp sơn ở mặt ngoài phía trông ra biển đã bị hư hại, nhưng nhìn chung ngôi nhà đã kháng cự tốt với tháng năm. Từ ngoài nhìn vào, không ai có thể tin được rằng nó đã ngủ một giấc dài như vậy.
- Nó đã chống chọi tài đấy chứ ? – Lauren nói.
- Antoine đã chăm chút ngôi nhà như một kẻ ương gàn. Làm vườn, sửa chữa đồ đạc, câu cá, trông trẻ, gác nhà, đó là một nhà văn không thành đạt mà mẹ anh đã đón về. Trước khi bố anh bị tai nạn máy bay, đó là một người bạn của bố mẹ anh. Anh cho rằng bác ấy luôn luôn yêu mẹ anh, ngay cả khi bố anh còn đó. Anh ngờ rằng cuối cùng họ đã trở thành tình nhân, nhưng đó là mãi về sau. Bác ấy ở trong tâm tư mẹ anh khi bà còn sống, mẹ anh ở trong tâm tư bác ấy của những năm để tang. Cả hai người đều ít nói, ít ra là những khi anh thức, nhưng họ vô cùng đồng điệu. Họ hiểu nhau từ cái nhìn. Trong sự yên lặng chung của họ, họ chữa lành tất cả những bão táp của đời mình. Giữa hai người ấy có sự bình thản đến kinh ngạc. Cứ như là cả hai đều đã thề không bao giờ biết đến tình cảm tức giận hay nổi loạn nữa.
- Cuối cùng ông ấy thế nào ?
- Khép mình lại trong phòng làm việc, nơi đặt cơ thể Lauren bây giờ, ông đã sống thêm được mười năm sau Lili. Antoine đã dùng phần cuối của đời ông vào việc bảo dưỡng ngôi nhà. Lili đã để lại tiền cho ông, đó là phong cách của bà, dự kiến trước mọi điều, ngay cả điều không thể dự kiến được. Về mặt đó, Antoine giống bà. Ông mất ở bệnh viện vào đầu một mùa đông. Một buổi sáng nắng và se lạnh, ông tỉnh dậy trong người mệt mỏi. Khi đang tra dầu vào bản lề ở cổng, một cơn đau âm ỉ len lỏi vào ngực ông. Ông đi lại giữa hàng cây để lấy thêm không khí mà đột nhiên ông cảm thấy thiếu vô cùng. Cây thông già mà dưới bóng nó ông thường ngủ trưa vào mùa xuân và mùa hè đã đón nhận ông dưới những cành của nó, khi ông ngã và không thể gượng lại được. Bị cơn đau quật ngã, ông đã bò đến tận nhà và gọi hàng xóm đến giúp. Được chở đến phòng cấp cứu Monterey, ông đã tắt thở tại đó vào ngày thứ hai sau. Có thể nghĩ rằng ông đã chẩun bị trước cho sự ra đi của mình. Khi ông mất, công chứng viên của gia đình đã liên lạc với Arthur để hỏi xem anh cần phải làm gì với ngôi nhà.
- Ông ta bảo anh ông ta sững cả người khi vào nhà. Antoine đã thu dọn tất cả, cứ như là bác ấy định đi chơi xa đúng vào ngày bác ấy bị mệt.
- Có thể ông ấy định như thế thật ?
- Antoine mà lại đi chơi xa à ? Không, chỉ có cái việc đi Carmel mua đồ thôi mà cũng phải thương lượng với bác ấy trước nhiều ngày. Không, anh nghĩ là bác ấy đã có cái bản năng của một con voi già, cảm thấy giờ của mình đã đến hay có thể thấy đã quá đủ nên buông xuôi.
Để giải thích ý kiến của mình, anh kể lại câu trả lời của mẹ anh cho một câu hỏi về cái chết mà anh đã đặt ra cho bà. Anh muốn biết những người lớn có sợ chết hay không, và bà đã có một câu trả lời mà anh nhớ thuuộc lòng, bà đã nói: “ Khi con đã trải qua một ngày tốt đẹp, con dậy sớm theo mẹ đi câu, con chạy nhảy, con làm việc trong vườn hoa hồng với bác Antoine, buổi tối con mệt lử, và thế là cuối cùng, tuy rằng con thường ghét đi nằm, con vẫn sung sướng được chui vào trong chăn để tìm đến giấc ngủ. Những buổi tối như vậy con không sợ phải ngủ thiếp đi.
Cuộc đời cũng gần giống như một trong những ngày như vậy. Khi nó đã bắt đầu sớm thì người ta cảm thấy phần nào thanh thản khi tự nhủ rằng một ngày kia ta sẽ yên nghỉ. Có lẽ vì với thời gian, cơ thể của chúng ta khiến chúng ta làm mọi việc kém phần dễ dàng đi. Tất cả đều trở nên khó khăn và mỏi mệt hơn, vì vậy ý nghĩ ngủ thiếp đi mãi mãi không làm người ta sợ như trước nữa.”
- Lúc ấy mẹ anh đã bị ốm, anh nghĩ rằng mẹ biết rõ những điều mẹ nói.
- Anh đã trả lời mẹ thế nào ?
- Anh níu lấy tay mẹ và hỏi mẹ có mệt mỏi không. Mẹ anh mỉm cười. Tóm lại, anh kể chuyện này cốt để nói rằng anh không tin là Antoine đã mệt mỏi vì cuộc sống với cái nghĩa chán đời, anh nghĩ rằng bác ấy đã đạt đến một hình thức sáng suốt.
- Như là những con voi – Lauren hạ giọng nói tiếp.
Họ đi về phía ngôi nhà. Arthur rẽ sang hướng khác, tự cảm thấy đã sẵn sàng để bước vào vườn hoa hồng !
- Đây chúng ta đang đi vào trái tim của lãnh thổ, vườn hoa hồng !
- Tại sao lại là trái tim của lãnh thổ ?
- Đó là nơi thiêng ! Lili mê những bông hồng của bà lắm. Đó là chủ đề duy nhất mà anh thấy mẹ cãi cọ với Antoine. Mẹ anh biết từng bông hoa một, em không thể nghĩ đến chuyện cắt một bông hoa mà bà ấy không nhận thấy đâu. Trong vườn có nhiều loại hoa đến mức không thể tưởng tượng nổi. Bà đã đặt mua những cành giâm theo catalog và lấy làm hãnh diện vì đã trồng các loài hoa có ở khắp thế giới, nhất là khi trong bản hướng dẫn nêu rõ những điều kiện khí hậu cần thiết để hoa nở rất khác với ở đây. Điều đó đã trở thành một sự đặt cược: làm cho ý kiến của các nhà làm vườn trở thành sai sự thật và nuôi lớn thành công các cành giâm.
- Có nhiều loại hoa đến thế kia à ?
-Anh đã đếm được đến một trăm ba mươi lăm loại. Một lần có cơn mưa như trút nước, mẹ anh và Antoine dậy vào giữa đêm, họ chạy ra gara và lấy một mảnh bạt có thể dễ dàng căng ra được mười mét chiều rộng và ba mươi mét chiều dài. Hết sức cấp tốc, Antoine đã căng mảnh bạt thành ba cạnh trên những cái cọc to, còn cạnh thứ tư thì hai người cầm tay giữ, một người đứng trên chiếc ghế đẩu, người kia đứng trên chiếc ghế kiểu trọng tài tennis. Họ đã trải qua một phần đêm như vậy để lắc tấm bạt ngay khi nó trở nên quá nặng, chứa quá nhiều nước mưa. Cơn bão kéo dài hơn ba tiếng. “ Nếu như có bị cháy trong nhà, anh chắc rằng mẹ và bác ấy cũng không kích động đến thế. Giá mà em nhìn thấy họ sáng hôm sau, có thể nói là thân tàn ma dại được”. Nhưng vườn hoa hồng đã được cứu thoát.
- Anh nhìn này,- Lauren nói khi đi vào khu vườn- vẫn còn đầy hoa!
- Ừ, đó là những bông hồng dại, những bông hoa này thì chả sợ cả nắng lẫn mưa, và em phải chú ý đeo găng nếu em muốn cắt chúng, chúng nhiều gai lắm.
Họ đã dành cả ngày khám phá khu vườn rộng bao quanh ngôi nhà. Arthur giới thiệu những cây, những vết khắc mà anh đã để lại ở một số vỏ cây. Đến cạnh một cây thông lọng, anh chỉ cho cô nơi anh đã từng bị gãy xương đòn.
- Anh làm sao mà lại thế ?
- Anh chín, nên anh rơi từ trên cây xuống !
Ngày trôi qua mà họ không nhận thấy. Vào giờ đã nói trước, họ lại đi ra bờ biển, ngồi trê những tảng đá và chiêm ngưỡng cái cảnh mà nhiều người từ khắp mọi nơi đến xem. Lauren dang rộng hai cánh tay và thốt lên: “Michel- Ange chiều hôm nay thật tuyệt!” Arthur nhìn cô và mỉm cười. Đêm xuống rất nhanh. Họ vào trong nhà. Arthur làm những công việc chăm sóc thân thể của Lauren. Sau đó họ nhóm lửa trong lò sưởi ở căn phòng khách nhỏ, nơi cả hai ngồi sau bữa ăn tối nhẹ.
- Thế cái vali đen là gì vậy ?
- Không có gì qua mắt em được !
- Đâu có, em lắng nghe, thế thôi.
- Đó là một chiếc vali của mẹ anh, mẹ anh xếp vào đó tất cả thư từ, tất cả những vật kỉ niệm của bà. Quả thực, anh nghĩ rằng chiếc vali này chứa đựng cái cốt lõi của đời mẹ anh.
- “Anh nghĩ” là như thế nào?
- Chiếc vali này là một bí ẩn lớn. Tất cả ngôi nhà đều thuộc về anh, trừ cái tủ có chứa chiếc vali. Cấm ngặt không được đụng đến. “ Và anh dám chắc với em rằng anh chả dại gì mà liều cả”
- Chiếc vali đó ở đâu ?
- Trong phòng làm việc bên cạnh.
- Và anh chưa bao giờ trở lại đây để mở nó ra à ? Em không thể tin được !
- Nó có lẽ chứa toàn bộ cuộc đời mẹ anh, anh không bao giờ muốn thúc đẩy vội thời điểm đó, anh tự nhủ rằng anh cần phải trưởng thành và thực sự sẵn sàng nhận lấy mạo hiểm mở chiếc vali ấy ra để có thể hiểu.
Trước những nếp nhăn hoài nghi trên trán Lauren, anh thú nhận “ừ, thật sự là anh luôn luôn sợ.”
- Tại sao ?
- Anh không biết, sợ rằng điều đó sẽ thay đổi hình ảnh mà anh giữ về mẹ, sợ nỗi buồn sẽ tràn ngập trong lòng mình.
- Anh đi lấy vali đi !
Arthur không nhúc nhích. Cô một mực bảo anh đi lấy vali, anh không việc gì phải sợ. Nếu như Lili đã đặt cả đời bà vào trong một vali, đó là để con trai bà biết bà là người như thế nào. Bà không thích anh sống với kỷ niệm về một hình ảnh : “ Cái mạo hiểm của việc yêu, đó là yêu cả những nhược điểm lẫn ưu điểm, hai mặt đó không tách rời nhau được. Anh sợ cái gì kia chứ, sợ phải phán xét mẹ anh à ? Anh không có tâm hồn của một quan toà. Anh không thể không biết những điều về mẹ anh, anh làm sai quy ước của mẹ anh....Mẹ anh để lại chiếc va li này để anh biết mọi điều về bà, để kéo dài cái thời gian đã không cho phép bà làm, để anh thực sự biết rõ bà, không chỉ như một đứa trẻ, mà với con mắt và trái tim đàn ông của anh !”
Arthur suy nghĩ một lát về những điều cô vừa nói với anh. Vừa nhìn cô anh vừa đứng dậy, đi ra phòng làm việc và mở chiếc tủ thân thuộc ấy. Anh ngắm chiếc vali nhỏ màu đen đặt trên ngăn tủ trước mặt anh, cầm chiếc quai đã cũ mòn và mang tất cả cái quá khứ này vào hiện tại. Trở vào phòng khách nhỏ, anh ngồi khoanh chân cạnh Lauren, họ nhìn nhau như hai đứa trẻ vừa mới tìm được cái hòm của lão Râu đỏ. Sau khi hít một hơi, anh kéo hai cái chốt, và nắp vali bật mở. Vali đầy những phong bì đủ các cỡ, trong có chứa những bức thư, những tấm ảnh, vài đổ vật nhỏ, một chiếc máy bay nhỏ bằng bột nặn mà Arthur đã làm nhân ngày Hội các bà Mẹ, một cái gạt tàn bằng bột nặn, đó là dịp Noel, một chuỗi vòng cổ bằng vỏ sò, không rõ nguồn gốc, chiếc thìa bạc và những đôi giày vải của trẻ sơ sinh. Thật là một cái hang của Alibaba. Phía trên vali có một bức thư gập lại được găm bằng một cái kẹp giấy. Lili viết bằng chữ hoa ARTHUR. Anh cầm bức thư và mở ra.
Arthur của mẹ,
Thế là con đang ở trong nhà của con. Thời gian làm lành mọi vết thương, dù rằng nó không tránh khỏi cho ta một vài vết sẹo. Trong chiếc vali này con sẽ thấy tất cả những kỷ vật của mẹ, những thứ mà mẹ có từ con, những thứ có trước con, những thứ mà mẹ đã không thể kể cho con nghe vì con hãy còn là một đứa trẻ. Con sẽ phát hiện ra mẹ con dưới một cái nhìn khác, con sẽ biết được rất nhiều điều, mẹ đã là mẹ của con, và mẹ đã là một phụ nữ, với những nỗi lo sợ của mình, những mối ngờ vực của mình, những thất bại của mình, những điều hối tiếc của mình và những thắng lợi của mình. Để có được những lời khuyên mà mẹ đã cho con rất nhiều, mẹ cũng đã phải lầm lẫn, và điều đó thường xảy ra với mẹ. Cha mẹ giống như những quả núi mà cả đời ta cứ thử trèo lên, không biết rằng có ngày chính ta lại giữ vai trò giống thế.
Con biết không, chẳng có gì phức tạp hơn là nuôi dạy một đứa trẻ. Suốt đời, người ta đem cho con cái tất cả những gì mà người ta nghĩ rằng tốt nhất, tuy biết rằng ta vẫn thường nhầm lẫn. Nhưng đối với phần đông cha mẹ, tất cả những cái này đều xuất phát từ tình yêu cả, mặc dù người ta đôi khi không tránh khỏi ích kỷ phần nào. Sống cũng không phải là một thiên chức. Cái ngày mẹ đóng chiếc vali này lại, mẹ đã sợ làm con thất vọng. Mẹ đã không để cho con có thời gian của những phán xét tuổi thiếu niên. Mẹ không biết con sẽ bao nhiêu tuổi khi đọc bức thư này. mẹ hình dung con là một chàng trai trẻ đẹp quãng ba mươi tuổi, có thể hơn một chút. Mẹ ao ước được sống tất cả những năm này bên con biết chừng nào. Giá như con biết, cái ý nghĩ không được nhìn thấy con nữa mỗi sáng khi con mở mắt, không được nghe thấy giọng nói của con nữa khi con gọi mẹ, đã làm lòng mẹ trống trải đến mức nào, ý nghĩ này làm cho mẹ đau đớn hơn cả cái căn bệnh đang mang mẹ đi xa con đến thế.
Mẹ luôn luôn yêu Antoine bằng một tình yêu thực sự, nhưng mẹ đã không nếm trải tình yêu ấy. Bởi vì mẹ đã sợ, sợ bố con, sợ làm bố con đau lòng, sợ phá hủy cái mà mẹ đã gây dựng, sợ tự thú nhận với chính mình là mình đã nhầm lẫn. Mẹ sợ trật tự đã được thiết lập, sợ phải bắt đầu lại, sợ rằng điều đó không thành, sợ rằng tất cả chỉ là một giấc mơ. Không được sống với mối tình ấy là một cơn ác mộng. Ngày và đêm mẹ nghĩ đến bác ấy, và mẹ tư ngăn cấm mình. Khi bố con chết, nỗi sợ vẫn tiếp tục, sợ phản bội, sợ cho con. Tất cả cái đó là một điều dối trá ghê gớm. Antoine đã yêu mẹ như mọi người đàn bà từng mơ ước được yêu như vậy ít nhất một lần trong đời. Và mẹ đã không biết đền đáp lại tình yêu ấy, vì một sự hèn nhát kinh khủng. mẹ đã tự tha thứ những yếu đuối của mình, mẹ đã thoả mãn trong tấn kịch lâm ly rẻ tiền nà, và mẹ đã không biết rằng đời mình trôi đi rất nhanh và mẹ đã để lỡ nó. Bố con là một người tốt, nhưng Antoine là người đàn ông duy nhất dưới mắt mẹ, không có ai nhìn mẹ như bác ấy, không có ai nói với mẹ như bác ấy; ở bên bác ấy, không điều gì có thể xảy ra với mẹ cả, mẹ cảm thấy được bảo vệ khỏi tất cả mọi thứ. Bác ấy hiểu từng mong ước của mẹ, từng ý muốn của mẹ và không ngừng tìm cách làm thỏa mãn những điều đó. Cả đời bác ấy dựa trên sự hài hoà, sự dịu dàng, nghệ thuật cho, trong khi mẹ, mẹ lại đi tìm kiếm những sự đấu tranh như là lẽ sống, và không hay biết đến nghệ thuật đón nhận. Mẹ đã sợ sệt, mẹ bắt mình phải tin rằng hạnh phúc này là điều không có được, rằng cuộc đời không thể ngọt ngào đến vậy. Mẹ và bác ấy đã yêu nhau một đêm, lúc ấy con năm tuổi. Mẹ đã có mang, và mẹ đã không giữ lại, mẹ không bao giờ nói với bác ấy, thế nhưng mẹ tin chắc rằng bác ấy biết. Bác ấy đoán được tất cả mọi điều về mẹ.
Có lẽ như vậy lại tốt hơn cho bây giờ, do điều đang xảy ra với mẹ, nhưng mẹ cũng nghĩ rằng căn bệnh này chưa chắc đã phát triển nếu tâm hồn mẹ thanh thản với chính mình. Chúng ta đã sống tất cả những năm qua dưới bóng những điều dối trá của mẹ, mẹ đã đạo đức giả với cuộc đời và cuộc đời đã không tha thứ cho mẹ. Con đã biết nhiều hơn về mẹ của con, mẹ đã do dự khi nói cho con tất cả những điều này, mẹ vẫn sợ sự phán xét của con, nhưng chẳng phải là mẹ đã từng dạy con rằng sự dối trá tệ nhất là sự dối trá với chính mình hay sao? Có nhiều thứ mà mẹ ước muốn được chia sẻ với con, nhưng chúng ta không có thời gian. Antoine đã không nuôi dạy con là do mẹ, do tất cả sự dốt nát của mẹ. Khi mẹ biết rằng mình mắc bệnh thì đã quá muộn để làm lại từ đầu. Con sẽ tìm thấy đủ mọi thứ trong cái chợ mà mẹ để lại cho con đây, những bức ảnh của con, của mẹ, của Antoine, những bức thư của bác ấy, con đừng đọc, những bức thư ấy thuộc về mẹ, chúng nằm đây vì mẹ không bao giờ dứt khoát chia tay với chúng được. Con sẽ tự hỏi tại sao không có ảnh của bố con, mẹ đã xé hết trong một đêm tức giận và thất vọng điên cuồng, mẹ tức giận chính mình...
Mẹ đã làm điều mà mẹ có thể làm, con yêu của mẹ, điều mà người phụ nữ ấy có thể làm, với những ưu điểm và nhược điểm của mình, nhưng con hãy biết rằng con đã là cả cuộc đời mẹ, là toàn bộ lẽ sống của mẹ, là điều đẹp nhất và mạnh mẽ nhất từng đến với mẹ.Mẹ cầu mong một ngày con sẽ biết đến cái cảm giác duy nhất là cảm giác khi có một đứa con, con sẽ hiểu ra nhiều điều.
Niềm tự hào lớn nhất của mẹ là được làm mẹ của con, mãi mãi.
Mẹ yêu con,
Lili.
Anh gập bức thư lại và đặt nó lên chiếc vali. Lauren thấy anh khóc, cô đến bên anh và lấy ngón tay trỏ gạt nước mắt cho anh. Sửng sốt, anh ngước mắt lên, và tất cả nỗi khổ tâm của anh tan đi trong cái nhìn âu yếm của cô. Rồi ngón tay cô trượt dần xuống cằm anh. Đến lượt anh đặt tay lên má cô, rồi vòng tay sau cổ cô, kéo gương mặt cô lại gần anh. Khi môi họ khẽ chạm vào nhau, cô lùi lại.
- Tại sao anh làm điều đó cho em Arthur ?
- Vì anh yêu em và điều đó không có quan hệ gì đến em cả.
Anh cầm tay cô và dắt cô ra ngoài nhà.
- Ta đi đâu ?- cô hỏi
- Ra biển
- Không, ở đây cơ,- cô nói- ngay bây giờ
Cô đứng trước anh và cởi cúc áo sơ mi của anh.
- Nhưng em làm thế nào, em không thể..
- Đừng hỏi, em không biết.
Cô để áo anh tuột khỏi vai anh, lấy tay vuốt ve lưng anh. Anh cảm thấy bối rối : làm sao thoát y cho hồn ma được ? Cô mỉm cười, nhắm mắt và lập tức khoả thân
- Chỉ cần em nghĩ đến một kiểu váy là em có nó trên người ngay lập tức, giá như anh biết em đã tận hưởng điều đó đến thế nào...
Ờ ngay cửa vào nhà, cô quấn lấy người anh, và ôm hôn anh.
Linh hồn Lauren được xuyên thấu bởi cơ thể đàn ông của anh, và đến lượt nó đi vào cơ thể Arthur, trong một cái ôm xiết chặt, như trong sự thần diệu của nguyệt thực....Chiếc vali để mở.
Last edited by khungcodangcap; 08-12-2008 at 06:28 PM.