Lễ Quốc Kháng được tổ chức tại công viên Roosevelt của thành phố. Tường đến sớm hơn giờ khai mạc gần một tiếng đồng hồ, nhưng thật ngạc nhiên, người đến tham dự đã đông nghẹt. Dọc theo các con đường cắt ngang đường Santa Clara như Nineteenth, Twentieth... không còn chỗ đậu xe. Quang cảnh nhộn nhịp nhưng trang trọng. Từng tốp người đứng chụm chung quanh một kỳ đài được dựng ở giữa công viên. Hàng quốc kỳ và các biểu ngữ chống cộng giăng hai bên, làm mọi người có mặt đều mang tâm trạng đang dự một buổi lễ quốc khánh trong nước. Cuộc biểu dương tinh thần chống cộng của cộng đồng người Việt tỵ nạn ở San Jose đã đạt một thành quả cao. Ðủ mọi thành phần, tuổi tác. Mỗi người trên tay là một lá quốc kỳ bằng giấy được phát trên đường vào công viên. Tường cũng nhận được một lá cờ từ tay một cô gái trạc hai mươi, tóc xõa và có nét mặt dễ nhìn.
– Cám ơn cô.
Cô gái gật đầu và quay về công việc đang làm. Tường bước theo giòng người, để tâm tìm Hoàng trong đám đông. Họ đã hẹn nhau đến đây sáng nay, nhưng với tình trạng này thật khó lòng mà tìm được. Người và người lẫn vào nhau với đủ thứ y phục làm rối mắt. Tường vòng qua phía sau kỳ đài. Lẫn lộn trong đủ loại áo quần của mọi người là những bộ quân phục hoa rừng quen thuộc hiện lên. Hẳn đây là một số anh em trong hội Cựu Quân Nhân. Có đủ các binh chủng với trang phục riêng biệt. Màu nón đỏ của Dù, màu nón xanh của Biệt Cách 81, Thủy Quân Lục Chiến và màu nâu của Biệt Ðộng Quân. Tường bồi hồi nhìn màu nâu xưa cũ với huy hiệu binh chủng trên quần áo của những người đàn ông. Có một điều gì đó dấy lên trong lòng làm thành từng đợt cảm xúc khác nhau. Hãnh diện pha trộn xót xa. Lạc quan lẫn với tủi thẹn. Mặt Tường nóng bừng như vừa uống xong một ly rượu mạnh. Anh cúi xuống, nhìn vào hai bàn chân của mình nằm trên đôi dép nhật. Cô đơn giữa những mũi giày trận u lên, tròn trịa ở mũi. Mười mấy năm mà ngỡ như hôm qua. Cũng một đôi dép nhật được xỏ vội vàng vào chân, lúc quân phục vừa được cởi bỏ vào ngày cuối tháng tư. Súng đập gãy và nón vất xuống ruộng. Hối hả thay lốt rồi hoang mang tìm đường về nhà... Mười bốn năm mà hình ảnh còn sáng nét trong trí như hôm qua. Và hôm nay, Tường cô đơn giữa những người cùng binh chủng như chưa bao giờ là lính. Anh đã đánh mất anh từ lúc nào?
Tường nhìn đăm đăm vào chiếc phù hiệu có hình con cọp nhe răng trên nền vàng. Dấu hiệu này đã bao lần Tường đeo trên áo sao hôm nay xa lạ. Ðó không phải hình ảnh cái đầu cọp in trên phù hiệu mà anh đã mân mê, chọn lựa để may trên bộ đồ bông, ngày đầu tiên về trình diện Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân hay sao? Hay không phải là hình ảnh đầu cọp mà Tường đã vì nó, nổi tự ái binh chủng lên bắn què giò một thằng thiếu úy Sư đoàn 22 bộ binh vì thằng này dám gọi đó là hình ảnh của con mèo nước tương, tại quán cà phê Thùy ở Tam Quan, Bình Ðịnh hay sao? Hoặc không phải hình ảnh đầu cọp, mà anh đã hãnh diện, ngắm nghía khi dạo phố trong lần về phép đầu tiên tại Sài gòn hay sao?... Tường ngơ ngác nhìn chiếc phù hiệu Biệt Ðộng Quân trên áo người lính khi kỷ niệm kéo về trong trí. Lá cờ trên tay Tường đang nhẹ tênh bỗng chĩu nặng. Những hình ảnh cũ của ngày còn mặc áo lính tưởng mất, lại trở về với sự xúc động, lẫn vào thực tại làm Tường hụt hẫng. Anh nuốt nhanh một ngụm nước bọt, cố trấn tĩnh và định bỏ đi thì một bàn tay đập vào vai, từ phía sau. Tường quay lại, đó là một người lính cũ cùng đại đội ngày xưa. Trên người anh ta là bộ quân phục với chiếc nón nâu được cài ở cầu vai.
– Ông thày đi lễ?
Câu hỏi của người lính cũ, với hai tiếng “ông thầy” ngày xưa, được dùng thật tự nhiên như những lần gặp trước làm Tường xấu hổ. Không phải là lối xưng hô đầy mai mỉa. Tường biết rõ điều này. Với anh ta, bản chất giản dị và chân thành của người dân quê miền Nam vẫn còn, dù đã sang đến đây. “Ông thầy” là “ông thầy” không có gì là khinh bạc hay giễu cợt. Tự nhiên và bình thản như ngày còn chung đơn vị. Có thêm vào cũng chỉ là chút vui vẻ của tình thân tưởng mất nhưng tìm lại được. Dù bây giờ, đứng trên một cái nhìn nào đó, rõ ràng anh ta bảnh hơn Tường. Ban đầu gặp lại Tường hơi ngượng nghịu trước lối xưng hô này, nhưng trước sự thành thật và cởi mở của người lính, Tường quen dần và cuối cùng thì thấy bình thường như các tiếng xưng hô khác của mọi người. Và cũng với anh ta, lối xưng hô này tự nhiên như việc mặc lại bộ quân phục của binh chủng trong ngày lễ. Chẳng có gì phải e dè hay suy nghĩ. Tự nhiên như mọi hành động cần thiết để làm nên cuộc sống... Vậy cái còn lại của sự xấu hổ sau câu hỏi là sự ngạc nhiên của người lính. Rõ ràng anh ta nghĩ việc Tường có mặt tại đây quả là bất ngờ. Ông thầy đi lễ? Mẹ kiếp! Rất tự nhiên và cũng rất là không tự nhiên một chút nào hết. Làm như anh thuộc một sắc dân xa lạ nào đó.
Bất giác Tường nhìn lại mình. Chiếc áo xanh bỏ ra ngoài, chiếc quần nâu nhăn nhúm và đôi dép nhật thảm hại. Cả một sự bê bối và luộm thuộm hiển hiện giữa chốn này.
– Ờ... ờ...
– Chắc ông thầy tới để viết bài?
Người lính lại hỏi và vui vẻ kéo tay Tường.
– Ông thầy tới đây với anh em, ông thầy lặn lâu quá rồi. Tới đây, tui giới thiệu với chi hội mình.
– Thôi... để bữa khác đi.
Tường rút tay lại, người lính ngạc nhiên.
– Sao vậy ông thầy? Anh em không à! Toàn là dân Biệt Ðộng Quân tụi mình.
Tường lắc đầu, cố gắng lái sang câu chuyện khác. Người lính sau thoáng ngạc nhiên cũng xoay theo chiều Tường nói. Bản chất chân thật và giản dị đến độ vô tâm của anh ta làm Tường càng xấu hổ. Anh đã tự bỏ quên mình, lảng tránh mình từ lúc nào? Không còn nhớ nổi hay chính Tường không muốn nhớ?
Tháng tư, tháng tư... Tường lẩm nhẩm trong đầu những hình ảnh của các tháng tư cũ trong đời một cách mệt mỏi, khi người lính vẫn thao thao nói về công việc đang phát đạt với số khách sửa xe ngày một tăng. Tường gật đầu, Tường lắc đầu, Tường nói “ừ”, Tường nói “không”, theo diễn tiến của câu chuyện cho đến lúc có tiếng gọi tên người lính từ đám đông vang lên mới dứt tâm trạng dật dờ. Sau câu chào, anh ta bỏ lại Tường một mình.
Tường đứng lơ ngơ giữa đám đông như đã lơ ngơ trong cuộc sống từ bấy lâu nay. Bắt nguồn từ ngày tháng tù đày với đắng cay, tủi nhục cùng cực hay bắt nguồn từ sự sống sót của lần vượt thoát đầy kinh hoàng. Ở đó, ở những nơi đó đã không còn các lằn ranh bình thường của cuộc đời. Nhân phẩm và liêm sỉ chỉ gói ghém trong ý nghĩ. Bản năng phản kháng hay buông xuôi nhận lãnh cái chết chỉ bằng sự bất lực trong tia nhìn. Nhân tính và thú tính không thể định mức trong khoảng khắc đó. Chỉ còn lại ý niệm thèm sống, khao khát được trở lại cuộc sống bình thường. Rất giản dị nhưng tưởng như không bao giờ thực hiện được. Ðể lúc đến chốn an lành mới giật mình, hiểu mình vừa sống lại, vừa tìm lại được những gì ngỡ rằng đã mất. Ðời sống quấn quít trước mặt, sau lưng, lúc thức và ngay cả khi ngủ. Nâng niu từng khoảng khắc được làm người, trân trọng đón nhận từng thái độ, hành động của người chung quanh. Nhìn đời bao dung hơn và đem cả yêu thương gói vào cách thế sống. Những hào nhoáng cũ của một thời, những hạnh phúc, khổ đau riêng lẻ, những dằn vặt, tủi nhục tưởng sẽ thành oán thù chất ngất bỗng dưng tầm thường, nhỏ nhoi dần và mất hẳn. Quên lãng để mỗi nhịp thở, tia nhìn gắn liền vào thế giới chung quanh. Dè xẻn từng khoảng khắc thời gian như một gã nhà giàu bủn xỉn, đếm từng xu nhỏ, trả giá cuộc đời. Nhưng cũng rất hào phóng như một anh nhà nghèo tung hê tất cả những gì mình có vào cuộc đời. Tường lơ ngơ và Tường chăm chú với đời đến độ bỏ quên mình. Và bước ra khỏi sinh hoạt thường nhật, để nhìn ngắm mọi thứ với tâm trạng yêu thương và sợ hãi. Yêu thương bởi đã gặp lại những gì tưởng mất và sợ hãi bởi e rằng những điều đó lại mất đi... Và thế, chỉ mình Tường trong tháng ngày vừa qua như mình Tường hôm nay.
Người đến dự lễ đã đông. Chung quanh kỳ đài ngập người. Từng nhóm, từng tốp với đủ loại quần áo. Hoàng hẳn cũng đang đứng tại một nhóm nào đó. Với những người lính hoặc với những người cùng một hội đoàn. Chẳng ai lẻ loi và chỉ có một mình, với lá cờ mỗi lúc một nặng trĩu trên tay, như Tường. Tự nhiên anh cảm thấy ngượng cho mình và cho người chung quanh. Anh là ai, sao tại tự tách ra và bị tách ra khỏi các nhóm người. Sao anh không có một nhóm nào để đến, hay không có một nhóm nào gọi anh nhập bọn lúc này? Người lính cũ hẳn bây giờ cũng đã quên mất Tường như Tường đã quên mình là lính bao nhiêu năm... Vậy đứng đây làm gì? Anh cuốn lá cờ trên tay lại và rảo bước về con đường đất.
Ngang qua nhóm người đứng dưới gốc cây sát kỳ đài, Tường gặp Quán.
– Anh... đi lễ...
Suýt nữa Tường chửi thề! Sau người lính cũ là Quán với câu hỏi đó. Rõ ràng anh thành một sắc dân xa lạ.
– Em hôm nay trông lạ ghê!
– Lạ gì anh?
– Thiếu phấn son, và hiền lành như một cô gái vừa lớn
– Thì... thì nhập gia tùy tục mà anh.
Quán cười rạng rỡ. Quả tình cô bạn cũ hôm nay khác hẳn mọi bữa. Không một vệt son, không một kẻ chì, chỉ đôi hoa tai nhỏ xíu bằng vàng tây. Quán giản dị và hiền lành như chưa bao giờ biết đến những thứ mỹ phẩm. Tường ngắm nghía một lúc. Cô bạn cũ có vẻ hơi ngượng.
– Nhìn gì thế anh?
– Trông hay lắm. Chả còn dấu vết gì của một cô Quán từng trải, coi đời như pha, uống rượu như nước lạnh.
– Ghê... anh cứ làm như em là...
Quán tru môi nhõng nhẽo. Cạnh môi đưa ra, một vài nếp nhăn hằn trên mép. Cô bạn cũ của Tường tự nhiên thành lạ hoắc. Có nét gì đó trên Quán đã làm Tường thành thiếu tự nhiên và ngán ngẩm. Anh vẫn thích Quán của ngày thường với các loại mỹ phẩm trên người, với phong thái từng trải, với nét phóng túng hơn là Quán hôm nay với một khoảng cách. Khoảng cách không tự nhiên, khác đời sống vốn tự nhiên của hai người.
– Em đến đây với ai?
– Với anh Hoàng.
– Hoàng?
– Vâng! Anh ấy vừa chạy sang với mấy người bạn.
Hai bàn tay Quán vân vê lá cờ nhỏ. Vạt áo dài màu xanh ép trước bụng, chiếc quần đen bóng nhẫy dưới nắng, đôi giày mũi nhọn bằng da giả màu vàng... mọi thứ bọc quanh Quán khi thân thể lắc qua, lắc lại theo lời nói. Cứ như là một cô gái thẹn thùng khi nhắc đến tình yêu đầu tiên. Tường liên tưởng đến tối chủ nhật trước, lúc vừa ở Sacramento về, tình cờ thấy Quán và Vĩnh từ quán ăn Sizzler ra. Ngả ngớn, phóng túng trong hành động dựa sát vào vai Vĩnh lúc vòng tay của Vĩnh ôm ngang eo. Hai cô Quán của hai thời điểm thật khác biệt. Bất giác Tường cảm thấy khó chịu trước cử chỉ làm duyên của Quán. Anh quấn lá cờ giấy vào ngón tay trỏ.
– Anh kiếm Hoàng nãy giờ.
– Anh có hẹn vơí anh ấy?
– Ờ, nó rủ đến đây... chơi. Tìm mãi chả gặp, hóa ra nó đứng đây với em.
Quán ré lên cười, đưa tay đập vào vai Tường. Thái độ của Quán vẫn có vẻ thiếu tự nhiên.
– Ðứng với em thì sao cơ! Anh thật là...
Tường cười gượng, gỡ tay Quán ra khỏi vai, lảng qua chuyện khác.
– Ðông ghê Quán nhỉ?
– Vâng, Quốc Kháng mà anh.
Một lần nữa Tường phải nhìn lại. Quán nói hai chữ Quốc Kháng gọn lỏn, trơn tru như việc tham dự những buổi lễ là điều bình thường. Hệt như lúc trước Quán nói đến dạ vũ hay các loại mỹ phẩm. Thằng Hoàng này khá thật! Cảm hóa được một cô bạn ăn chơi cỡ Quán đâu có dễ. Hay tại tình yêu? Vừa thoáng qua ý tưởng này, hình ảnh Quán và Vĩnh trước cửa quán ăn Sizzler lại hiện về. Mẹ kiếp! Không thể hiểu nổi con nhỏ này. Hay Quán với Vĩnh chỉ đi ăn và bàn một công chuyện làm ăn nào đó. Nhưng làm ăn thế chó nào được khi hai đứa tình tứ như vậy? Tường nhíu mày nhìn Quán thêm lần nữa. Lần này anh tìm được một lá cờ vàng ba sọc đỏ nhỏ xíu, được khâu vội vào tay áo. Trời đất! Gì nữa đây? Tường chỉ vào lá cờ trên tay áo Quán.
– Cái gì đây...
– À.. à... anh Hoàng cho em hôm kia. Em vừa khâu tối qua, vội quá nên không được thẳng... Xéo xẹo hả anh?
Quán kéo tay áo cho lá cờ được thẳng thắn khi nói. Cả câu nói lẫn hành động vẫn trơn tru và tự nhiên. Lá cờ đã thành món đồ trang sức trong ngày lễ cho Quán. Tường mím môi cố nén nụ cười giễu cợt khi sự bực mình vừa dấy lên. Riết hồi chả ra thể thống gì cả. Tất cả đều là một trò chơi mới của Quán. Ham thích với sự mới lạ vừa khám phá. Anh chợt giận Hoàng. Tại sao nó lại kéo Quán vào sinh hoạt này. Rõ ràng chẳng thích hợp, nếu không gọi là lố bịch hay kệch kỡm nữa. Ðây đâu phải là trò chơi dành cho những con người như Quán. Với Quán, chỉ là những cuộc vui, những lần rong chơi buông thả dưới ánh đèn màu của vũ trường, của dạ hội. Thằng bạn của Tường kỳ cục thật! Ðể làm gì vậy? Muốn biểu diễn với Quán về tinh thần đấu tranh, hay muốn biểu diễn với mọi người về tài cảm hóa một cô bạn nổi tiếng vô tâm và chịu chơi?
Quán vẫn tự nhiên qua từng câu nói. Trong sự khó chịu, Tường nghe loáng thoáng tiếng của Quán lẫn vào lời hát từ các chiếc loa. Lúc rõ ràng, lúc mất tăm thành không đầu, không đuôi. Có những tiếng quen thuộc mà Tường đã đọc, đã nghe từ các bài diễn văn được Quán nói xuông xẻ, mạch lạc như được học thuộc lòng. Tường ngạc nhiên nhìn chăm chăm vào miệng Quán. Cặp môi mấp máy, rộng hẹp theo âm điệu những tiếng phát ra. Liên tục và đều đều như được phát ra từ một cái máy. Tường nhìn vào mắt Quán. Cả tròng đen, tròng trắng lẫn con ngươi đều giữ một mức linh động vừa phải của cái nhìn bình thường. Ðôi mắt của Quán không biết nói như miệng Quán.
Tường chán ngán, ngắt lời Quán.
– Anh về...
– Anh không đợi anh Hoàng.
– Bảo nó anh hơi mệt, phải về tòa soạn trước, có vài cú phone cần phải nói...
– Phone của Nhu?
Tường nhún vai.
– Có thể...
– Ai đưa anh về?
– Anh đi bus hoặc đi bộ cũng được. Càng khỏe chân.
Mẩu đối thoại giữa hai người làm Quán quên hẳn những điều đang nói. Rõ ràng những loại chuyện như vầy có vẻ thích hợp với Quán hơn. Tường thấy tội nghiệp cả Quán lẫn Hoàng trong buổi sáng hôm nay. Sự khó chịu trong anh dịu đi đột ngột.
– Anh về trước. Tối có gì gọi anh, có lẽ anh ở tòa soạn nguyên ngày. Muốn đi Lido không?
Quán có vẻ vui hẳn.
– Ðêm nay hả anh?
– Ờ! Anh có vài vé mời của ông nhạc sĩ thổi kèn vừa cho. Rủ Hoàng và vài người bạn nữa xuống đón anh.
– Em sẽ gọi anh.
– Ờ.
Ðịnh bước đi thì có tiếng gọi sau lưng, Tường quay lại. Ðó là Hoàng. Hôm nay thằng bạn này thật bảnh. Diện một bộ complet và chiếc cà vạt mới toanh. Dưới ánh nắng, đôi giày nó bóng loáng.
– Ê! Ði đâu vậy?
– Ðịnh về. Chờ mày mãi...
– Tao bận một tí... Sao lại về? Ở lại dự lễ chứ, xong đi ăn với tụi tao.
Nụ cười tươi tắn trên môi Hoàng làm khuôn mặt bớt đi vẻ đăm đăm. Cả đến thằng này hôm nay cũng có nét thay đổi. Ngày lễ có khác. Tường xót xa trong ý nghĩ đầy mỉa mai. Ngay lúc đó anh nhìn thấy một lá cờ bằng kim khí, được gắn thay kim cài, trên cà vạt Hoàng. Ai cũng có vẻ lạ hết! Tường nhìn xuống đất. Mười ngón chân ngo ngoe trên đôi dép nhật trông thảm hại.
– Mày thấy sao?
– Sao là sao?
– Thành công đến độ không ngờ... Ðông quá!
Hoàng nói với tất cả sự hãnh diện, như việc thành công của buổi lễ do một tay nó làm nên. Tường lại nhớ đến hình ảnh nó vung tay, múa chân tại buổi họp Cựu Quân Nhân hôm nào. Anh buông xuôi một câu.
– Ờ... Tao cũng nghĩ thế...
Hoàng xoa xoa hai bàn tay vào nhau, mặt hả hê thấy rõ. Tường thở dài nhìn quanh. Ðồng bào đến mỗi lúc một đông. Lòng người sau mười mấy năm vẫn còn nóng rực, hướng về đất nước. Nhiệt tình này ẩn hiện trên từng khuôn mặt người đến tham dự. Rõ ràng buổi lễ thành công nhờ ở tấm lòng của đồng bào, chứ không như ý tưởng của Hoàng đã biểu lộ qua thái độ tự mãn. Tường đưa tay sửa lại cái kim cài có hình lá cờ trên cà vạt Hoàng cho ngay ngắn. Tội nghiệp cho thằng bạn đã lầm lẫn trong cái nhìn và bằng giọng nói dịu dàng hệt như vừa nói với Quán lúc nãy, Tường bảo Hoàng.
– Tao có chút việc phải về trước, không thể dự lễ được. Bọn mày ở lại, có gì liên lạc ở tòa soạn.
– Sao vậy?
– Thì đã nói có chút việc mà.
Tường xoay lưng bỏ đi lúc tiếng nói từ loa phát thanh báo còn năm phút nữa là buổi lễ bắt đầu.
Lần theo con đường đất dẫn ra đường Santa Clara, Tường gặp từng tốp người kéo vào công viên Roosevelt. Bước chân của người nào cũng có vẻ hấp tấp. Hẳn cho kịp giờ lễ. Anh đi chậm lại, nhìn từng người một. Ngang qua một cô gái xõa tóc, dáng nhỏ nhắn và trạc tuổi Nhu, Tường chận cô ta lại.
– Cho cô lá cờ.
Cô gái ngước lên. Ðôi mắt đen, dịu dàng như mắt Nhu, có pha chút ngạc nhiên nhưng vẫn đón lấy lá cờ từ tay Tường. Cô gái mặt hơi đỏ, vết đỏ cũng lan từ mép tai xuống gò má hệt như Nhu đã đỏ mặt, nói lí nhí.
– Cám ơn ông... anh...
Tường mỉm cười tránh sang một bước, nhường lối cho cô gái. Bước ngang Tường bằng bước chân hơi rối, cô gái một tay cầm lá cờ, một tay đè lên vạt áo dài đang bị hắt lên trong gió. Chiếc áo dài cũng màu xanh da trời như áo dài Quán đang mặc nhưng người cô gái không có mùi nước hoa “Sweet Heart” như Quán đã dùng.
May mà có em đời còn dễ thương. Tường lẩm nhẩm câu hát và thầm cảm ơn cô gái. Bàn tay phải theo thói quen, đưa lên lồng ngực trái. Trong túi áo, cô bé bằng đồng thau vẫn ngoan ngoãn nằm yên. Ðời vẫn đẹp với những người như cô gái xa lạ, như Nhu, như cô bé bằng đồng thau... Giờ này hẳn Nhu đang trong buổi lễ do nhóm sinh viên tại Sacramento tổ chức. Tường thấy tiếc tại sao không đến với Nhu hôm nay. Ít nhất, nàng cũng có niềm vui và anh không gặp những điều kỳ cục, bất thường của hai người bạn. Tường hình dung đến buổi lễ của đám sinh viên đang diễn ra tại một thành phố cách San Jose 151 miles. Hẳn cũng có những lá cờ được giăng, cũng có những khuôn mặt trang nghiêm, cũng có những ánh mắt long lanh lửa nhiệt tình và các bài ca được cất lên từ lồng ngực những người vừa lớn, máu còn hồng, môi còn tươi, chứa chan hy vọng... Như tuổi trẻ khắp nơi, họ sẽ ào ào đứng dậy và tham dự vào con đường được chọn. Hà! Ðã xa lắm, Tường của những năm mười tám, hai mươi, đốt tin yêu bằng nhiệt tình từ máu, từ tim... Tại sao anh không tìm đến không khí đó trong buổi sáng hôm nay để thấy thoải mái hơn? Tất nhiên sẽ không có những cái kim cài hình lá cờ trên cà vạt của các cậu thanh niên, chắc chắn sẽ không có lá cờ được đính vội vào áo dài của các cô thiếu nữ. Nhất là không có bộ vest và mùi nước hoa “Sweet Heart”.. Lại lẩn vẩn nữa rồi. Tường buột miệng chửi thề một tiếng, tách ra khỏi dòng người, băng ngang đường để vào tiệm phở Hiền Vương nằm xéo với công viên đang có buổi lễ.
Ðẩy cánh cửa quán ăn, vừa bước vào Tường đã khựng lại. Quán đông nghẹt. Khách ngồi kín các bàn. Anh định đi ra thì nghe tiếng gọi tên. Nhìn về phía đó, Tường nhận được Vĩnh và hai người không quen. Một người đàn ông và một người đàn bà. Anh ngần ngừ một thoáng rồi tiến về bàn Vĩnh đang ngồi. Vĩnh giới thiệu anh với hai người cùng bàn. Ðó là một bà thi sĩ và một ông nhà văn của địa phương. Cả hai người, thỉnh thoảng Tường được đọc tên trên các tờ báo biếu trong vùng. Lại sắp sửa phiền đến nơi, anh kéo ghế ngồi xuống. Vĩnh nhìn Tường.
– Mày đi một mình?
– Còn ai nữa để đi?
Bà thi sĩ đột nhiên bật cười, hàm răng trắng bóng giữa đôi môi đầy son đỏ quánh, trông thật gợi dục. Trạc bốn mươi nhưng thân thể vẫn còn hấp dẫn, khiêu gợi. Ngực vun cao, cổ no tròn, cánh tay mũm mĩm với những sợi lông đen xoắn tít. Nói chung là bà nầy... xài được! Vậy mà bày đặt viết lách chi cho uổng của trời. Tường mỉm cười với ý nghĩ trong đầu và hoàn toàn không hiểu nụ cười của bà ta.
– Tôi có được đọc của anh.
– Vâng, cảm ơn chị. Tôi cũng có đọc của chị.
– Ðọc gì ạ?
Bà thi sĩ õng ẹo hỏi lại, điệu bộ hệt như Quán đã làm lúc nãy. Tường ráng nhắc đến tên vài bài thơ của bà ta kèm theo lời nhận xét chung chung. Bà thi sĩ hình như có cảm tình với Tường nhiều hơn. Ông nhà văn ngồi cạnh chen vào.
– Anh viết nhiều ghê...
– Vâng, cảm ơn anh. tôi cũng có đọc của anh.
Ông nhà văn cảm động ra mặt, mắt hấp háy sau cặp kính cận. Tường tiếp tục bằng tên một bài viết của ông ta, đăng trên một tuần báo trong vùng, đã tình cờ đọc được. Câu chuyện đột nhiên trở thành thoải mái và vui vẻ. Chẳng có gì là phiền toái như Tường nghĩ. Ðời dễ dãi thật! Chỉ cần vài lời khen đãi bôi là đủ xoa tay mãn nguyện, hài lòng với những gì mình có. Hệt như Tường đã thành thằng bạn tốt sau hai đồng 25 cents, một đồng bạc giấy và điếu thuốc, với Jack. Dễ dãi như vậy, tại sao mình lại không đem đến cho họ những phút thăng hoa? Sao lại quay quắt trong ý nghĩ để đời thêm rối rắm? Tường cảm thấy vui vui và lại nhớ câu hát, đã thoáng qua trong đầu, lúc cô gái mặc áo dài xanh vừa đi. May mà có em đời còn dễ thương. Quả là đời còn dễ thương với những con người.
Người hầu bàn đến với ba tô phở. Tường gọi thức ăn khi ông nhà văn rất ga lăng, lau đũa và muỗng cho bà thi sĩ. Vĩnh bảo Tường.
– Bọn tao ăn trước nghe.
Tường gật đầu. Bà thi sĩ lịch sự với giọng Bắc kỳ.
– Xin phép anh.
Tường lại gật đầu. Ông nhà văn người Nam kỳ, tính giản dị, không mời mà chỉ nhe răng cười rồi cúi xuống tô phở. Những ngón tay béo, tròn khoắng đôi đũa thật đều đặn. Rau, giá sống, thịt bò, bánh phở trộn lẫn với nước dùng loang màu tương đỏ. Cái hấp dẫn của tô phở được biểu diễn bằng hai cánh mũi phập phồng trên mặt ông nhà văn. Có lẽ những bài viết cũng không quan trọng bằng tô phở lúc này.
Phía bên cạnh, bà thi sĩ cũng vừa húp xong muỗng nước dùng đầu tiên. Chép miệng mấy cái để phân biệt vị mặn nhạt, bà thi sĩ cầm lọ nước mắm, dốc mấy cái vào tô. Áng chừng vừa đủ, bà để lọ mắm xuống bàn, cầm lấy đôi đũa đặt trước mặt. Bàn tay có đeo nhẫn kim cương khoắng đũa lên,đưa những sợi phở vào miệng một cách ngon lành. Tường nghe thấy tiếng “tóp tép” từ mồm bà thi sĩ lúc cục adam trôi lên, trôi xuống làm ót cổ phập phồng như người có mang. Tự nhiên Tường nuốt nước bọt và hiểu ngụm nước bọt không bắt nguồn từ tô phở. Trong anh có sự thèm muốn dấy lên. Tường đưa mắt xuống thấp hơn một tí, khoảng ngực hở của bà thi sĩ trắng ngộn. Trông được quá đi chứ? Có gì đâu phải ấm ức đến nỗi phải... làm thơ? Ít nhất hôm nay, tại đây, cũng có ba người đàn ông thích thú khi nhìn bà ta mà. Anh cảm thấy nong nóng trong người như vừa cắn xong miếng ớt hiểm.
Người hầu bàn quay lại, trên tay là tô phở. Sau tiếng “cảm ơn” của Tường, anh ta bỏ đi. Ông nhà văn rút đôi đũa, đưa Tường. Lại một tiếng “cảm ơn” nữa được nói. Ngày hôm nay, Tường phải nói cảm ơn hơi nhiều. Hy vọng những người nhận các tiếng “cảm ơn” đó sẽ vui vẻ.
Bây giờ cả bốn người đều cúi xuống với những động tác khoắng đũa, nhai, húp. Câu chuyện văn nghệ được tạm ngưng. Thi ca và văn chương đôi lúc không hiện thực bằng bánh phở và thịt bò. Nhất lại là thứ thi ca và văn chương làm cho bữa ăn mất ngon, nên tạm quên là đúng.
Nuốt xong miếng thịt cuối cùng, Tường đẩy tô phở về phía giữa bàn. Trước mặt anh, bà thi sĩ đã ăn xong. Vẻ no đủ, thỏa mãn hiện rõ trên khuôn mặt. Vài giọt mồ hôi đọng trên hai cánh mũi khi bầu má như phúng phính hơn. Một sợi tóc ướt mồ hôi bám vòng theo thuông cổ, lọt vào khe của cái ngấn thứ hai. Những hạt mồ hôi và sợi tóc ướt trông thật hấp dẫn và gợi dục. Tường lại nuốt nước miếng thêm lần nữa.
Vĩnh và ông nhà văn cũng đã bỏ đũa xuống. Rất tự nhiên, ông nhà văn xỉa răng một cách thoải mái. Hàm răng đưa ra khi cây tăm được ấn vào, hắt lên, hắt xuống tạo nên những tiếng “lách tách, lách tách” nghe ê mình. Có những hạt nước miếng và bã thức ăn bị bắn ra tứ phía. Vĩnh ngả ngửa ra phía sau như né những thứ đó. Bàn tay nắn lại gút cà vạt.
– Mày đi lễ?
– Ðịnh thế, bởi có hẹn với Hoàng. Nhưng sau lại không thích, tao bỏ sang đây.
– Có gặp nó chứ?
– Gặp. Cả Quán nữa.
– Quán? Quán cũng đi lễ.
– Ờ! Ði chung với Hoàng...
Mặt Vĩnh có thoáng ngạc nhiên rồi trấn tĩnh lại. Tường liên tưởng đến hè đường của quán ăn Sizzler, và một lần nó nhắc đến Quán tại cà phê Cheo Leo. Vậy là giữa hai đứa đã có điều gì. Nhưng điều gì là điều gì đây? Vĩnh đã có Loan và Quán đang đến với Hoàng. Tất cả đều là bạn bè và nằm trong vòng thân tình. Ðâu có thể lộn xộn được? Tường ném thêm một hòn đá thăm dò.
– Quán hôm nay lạ lắm. Không phấn, không son, hiền lành trong chiếc áo dài xanh. Lại còn lá cờ may ở áo nữa... Cứ như là một con người không biết gì ngoài lòng yêu nước. Thằng Hoàng khá thật, “cảm hóa” con bé cái một.
Môi Vĩnh bậm lại, cặp kính trắng trên mũi như trễ xuống. Tường tiếp.
– Bọn nó rủ đi ăn nhưng tao từ chối... Tối nay mày rảnh không, đi chơi với bọn tao.
Vĩnh móc khăn tay ra lau trán. Bà thi sĩ chen vào.
– Ðêm nay hả anh?
– Vâng! Chị đi chứ? Mời chị... Cũng toàn là bạn bè thân tình cả.
Bà thi sĩ móc bóp đưa Tường một tấm businesscard.
– Nhờ anh gọi theo số phone này. Tôi sẽ đến.
– Cám ơn chị, tôi sẽ gọi khoảng 8 giờ.
Tường đứng dậy, quay sang Vĩnh.
– Nếu đi, tối liên lạc lại.
Ðưa tay chào, Tường đẩy ghế bước ra. Quán ăn vẫn đông nghẹt. Một tốp người đang chờ bàn trống để vào ăn. Có vài người quen mặt trong số đó, Tường ngó lơ và đẩy cửa đi ra. Hôm nay như vậy là quá đủ, Hoàng, Quán, người lính, cô bé chưa quen, Vĩnh, bà thi sĩ và ông nhà văn... Tường cần về tòa soạn để ngủ. Giấc ngủ sẽ là nơi ẩn náu cuối cùng của cuộc sống, như lời một ông bạn già đã nói.
Trong tâm trạng trống rỗng Tường đi hết con đường Nineteenth. Nắng, bóng cây, những ngôi nhà, xe cộ ngược xuôi không để lại một hình ảnh nào trong trí. Tường mệt mỏi và cô đơn. Sự trống vắng đeo lấy anh cho đến ngã ba William. Bây giờ Tường thèm có một người bên cạnh. Làm bất cứ việc gì. Uống rượu, hút cần sa, làm tình hay chẳng làm gì cũng được. Chỉ cần có người bên cạnh cho hết hôm nay. Anh không muốn làm bạn với những cái máy lúc không khí rộn ràng đang bao quanh mọi người. Tường ngần ngừ đứng tại ngã ba một lúc rồi tiếp tục đi. Không thể quay lại buổi lễ với sự trễ tràng này. Anh thở dài nhìn về cuối đường.
Vẫn khúc đường lượn quanh cái park. Vẫn chiếc cầu nhỏ. Vẫn những tàng cây xanh ôm choàng lấy nhau. Vẫn những hạt nắng len qua lá, rớt xuống đường như mọi hôm. Nhưng sao lại cô quạnh và im lìm. Không gian của ngày cuối tháng tư bao quanh. Mười bốn năm, mười bốn lần tháng tư với những đổi thay ý nghĩ theo tuổi. Tự Tường đã lẩn tránh, lãng quên mọi sinh hoạt hay tự mọi người đã tách riêng Tường? Ý tưởng này lại trở về, như những hòn sỏi có góc cạnh, lấn cấn trong bàn tay gây cảm giác nửa khó chịu, nửa thích thú. Anh chờn vờn trong những bước chân băng qua cây cầu nhỏ và cái park.
Nắng đổ gay gắt xuống quãng đường Tenth và Eleventh. Giống như tiệm phở Hiền Vương, quán ăn Ðà Lạt cũng đông nghẹt. Khách chờ bàn ăn đứng truớc quán, gần cánh cửa ra vào. Có những cái robe, có những bộ vest, có những cái váy, có những cái áo pull may bằng vải đủ các nước đắp lên những con người đang chờ đợi. Tường xem đồng hồ, 12 giờ hơn. Hẳn buổi lễ Quốc Kháng đang tiếp tục và Nhu cũng đang trong buổi lễ của trường nàng. Ngày hôm nay, giờ này, có bao nhiêu người như Nhu, như Hoàng, như người lính cũ và như cô bé anh đã cho lá cờ? Tường lẩm nhẩm những con số áng chừng khi hàng người chờ vào ăn mỗi lúc một đông. Giữa những người này và tháng tư hình như chả ăn nhậu gì với nhau cả. Mình đứng giữa hay đứng ngoài hai hạng người này? Khó hiểu thật. Tường cười một mình, búng chiếc tàn thuốc xuống rãnh đường, cắm cúi bước đi.
Qua những ngã tư, anh đến trước căn nhà đổ nát nằm gần đường Fifth, nơi vẫn cùng bọn đen uống rượu trong khoảng sân xi măng. Vắng tênh không có một đứa nào cả. Hơi thất vọng, Tường tiếp tục về tòa soạn. Từ đây đến tòa soạn, gặp bất cứ thằng nào mình cũng sẽ rủ về. Tám tiếng đồng hồ chờ Quán và Hoàng quá dài, cần phải có một người nào đó bên cạnh.
Vừa băng qua ngã tư Third và William, Tường đã thấy thằng Mễ ngồi tại cầu thang tòa soạn. Nó đứng dậy.
– Tao tìm mày.
– Có gì không? Tao cũng đang cần mày.
– Hôm nay tao có tiền, sẽ ngủ lại với mày.
– Ði mua bia đi.
Thằng Mễ nhe răng cười, chỉ vào cầu thang. Tại bậc trên cùng, một thùng bia đã đặt sẵn. Tường cười theo và khoác vai nó. Mùi mồ hôi của thằng Mễ vẫn khét như mọi hôm.
Nhật ký tháng năm.
Thứ ba của tuần lễ thứ ba.
Biến động tại Thiên An Môn, Bắc Kinh gây xôn xao trong cộng đồng. Tôi đã gặp những khuôn mặt béo hồng nhắc đến như nhắc một biến cố nào đó trên thế giới không ảnh hưởng đến mình. Như một thứ mốt thời thượng. Tôi cũng gặp những ánh mắt long lanh khi kể lại từng chi tiết của vụ biến động, với hy vọng về một sự đổi thay nào đó, và mang cả đất nước hay chính mình vào cuộc... Nói chung, đây là một tin nóng.
Tuần này tôi sẽ bàn với ông chủ biên của tờ báo để làm một số đặc biệt về vụ Thiên An Môn.
Hoàng và Quán đã thân nhau hơn. Hoàng bây giờ có vẻ tươi trẻ và ngược lại Quán chững chạc, am hiểu những điều không thể ngờ được một con người như Quán có thể hiểu. Chiều nay, hai đứa đến tòa soạn lúc tôi đang lay out một trang quảng cáo.
– Rảnh rang nhỉ.
Quán cười, hàm răng trắng đều đặn.
– Bọn em đâu bận rộn như nhà báo.
Hoàng ngồi lên mép bàn làm việc của tôi, chiếc quần Jean bó sát mông mới toanh. Thằng này bắt đầu thay đổi cách phục sức. Ðỡ quê mùa, đỡ... dữ dằn hơn.
– Mấy giờ mày rảnh?
– Chắc phải 7 giờ hơn mới xong. Hôm nay phải đem báo đi in. Bọn sinh viên Trung Cộng bảnh thật.
Hoàng cầm tấm ảnh của bản tin lên ngắm nghía. Trong ảnh, những người trẻ tuổi đang đứng trước cổng Thiên An Môn với hàng biểu ngữ đòi dân chủ. Cuộc biểu tình đã cuốn hút được cả triệu người.
– Không biết bao giờ nước mình mới làm được như vậy.
– Chưa đến lúc đó thôi. Con giun xéo lắm cũng quằn.
– Ở Trung Cộng, họ làm được nhờ sự giao lưu văn hóa với Tây Phương. Sinh viên du học chủ động phần lớn. Còn mình? Du học qua Nga, Ðông Ðức là hết cỡ. Ở đâu cũng thấy sao, thấy búa liềm.
Quán xen vào. Những nhận xét của Quán làm tôi ngạc nhiên. Sự thay đổi quá nhanh, cô bạn cũ quan tâm và nhận định vấn đề thời cuộc một cách ngon lành, như đã hằng tham dự vào những sinh hoạt chính trị. Tôi đăm đăm nhìn Quán. Phấn son đã bớt, phục sức giản dị hơn... Hay là bọn nó yêu nhau thật? Tự nhiên hình ảnh Quán và Vĩnh trước quán Sizzler lại hiện về. Có một điều gì đó, xảy ra giữa bọn nó mà tôi chưa hiểu được.
Hoàng đặt tấm ảnh xuống bàn.
– Mày định viết gì về vấn đề này không?
– Viết gì là viết cái gì? Tao...
– Tao cái chó gì? Mấy thằng cầm viết như bọn mày, ít nhất phải có những suy nghĩ về việc này. Ðâu lơ ngơ với ba thứ văn nghệ viễn mơ hoài được. Phải tham dự với cuộc đời chứ.
Tôi mở to mắt nhìn Hoàng. Vẫn cái tật hùng hổ, vén tay áo nhảy vào đời tư người khác.
– Mày có lý của mày. Nhưng đừng bắt chữ nghĩa phải mặc một cái sơ mi gỗ. Tao không muốn nói văn nghệ viễn mơ hay văn nghệ dấn thân ở đây. Nhưng mỗi thằng có một quan niệm viết lách riêng. Không thằng nào giống thằng nào được.
– Mẹ...
– Mẹ cái gì? Mày đâu cầm viết mà hiểu được tâm trạng những thằng cầm viết. Hơn ai hết, bọn tao quí trọng hai chữ tự do. Khi cầm viết, là chỉ có mình đối diện với chính mình trong vấn đề muốn diễn tả. Không có một phong trào nào, hiện tượng nào trói buộc nổi. Vượt lên trên, đứng ra ngoài những điều đó để đạt đến điều muốn viết.
– Nhưng phải khẳng định mình đứng về phía nào chứ?
– Tất nhiên! Ðấu tranh? Solzhenitsyne đó, cũng chống cộng, cũng tố giác nhưng theo cách của ông ta. Ðâu ai có thể bảo phải viết cái này, hay viết cái khác theo kiểu trại sáng tác của Cộng Sản được. Nếu được chọn, tao sẽ chọn Herman Hess chứ không phải Solzhenitsyne... Vượt lên cuộc sống hiện tại để thấy cái đẹp của cuộc sống, bằng lòng yêu thương không phải là một hình thức chống lại chủ nghĩa cộng sản hay sao?
Hoàng im lặng. Tôi nhún vai.
– Nhưng chưa biết chừng, tao sẽ dành một chương của cuốn truyện dài để nhắc đến vấn đề này theo cách của tao. Dù sao cũng là một biến cố cần ghi nhận.
Hoàng gật đầu cùng lượt với Quán. Tôi định nói với nó về số báo đặc biệt dành cho vụ Thiên An Môn nhưng lại thôi.
*
Thứ bảy của tuần lễ thứ ba.
Bọn sinh viên Bắc Kinh quả là bảnh. Cuộc xuống đường đáng đồng tiền bát gạo. Cả triệu người hưởng ứng, tham gia và chính quyền cũng rúng động. Dân chủ nở ngay giữa lòng Cộng Sản. Thật ly kỳ hết chỗ nói. Tôi đã thích thú trong sự xúc động lúc theo dõi những diễn biến trên màn ảnh truyền hình và báo chí.
Ông chủ biên đã đồng ý làm một số đặc biệt về Thiên An Môn. Ông ta có vẻ mặn vấn đề này.
Hoàng đến tòa soạn sáng hôm qua, đưa tôi một bài viết về vụ Thiên An Môn. Cũng tạm được nếu không có những vấn đề đặt ra mà không có hướng giải quyết.
– Mày viết?
– Phải, nguyên buổi tối thứ năm.
– Ðược đấy.
– Ðược cái gì?
– Chấm, phẩy đàng hoàng không đến nỗi như các “chí sĩ” khác.
– Mẹ mày!
Tôi bật cười, rồi nghiêm mặt.
– Sao mày không thử đưa ra vài hướng để giải quyết những vấn đề được nêu ra.
Hoàng ngập ngừng, rồi thú thật.
– Tao... tao... không dám, bởi chưa thấy vững.
– Ðặt vấn đề thì ai đặt chả được, cái quan trọng là lối giải quyết vấn đề. Nhất là trong một bài quan điểm như vầy. Nhưng thôi, tao sẽ đi vào thứ tư này, trong số đặc biệt về Thiên An Môn.
– Cảm ơn mày!
– Ơn nghĩa mẹ gì! Ðược thì đăng chớ bộ.
Tôi chửi đổng một tiếng và đâm ra khó chịu vì thái độ của thằng bạn này. Cần quái gì phải cảm ơn một thằng chủ báo hay tổng thư ký khi bài mình được nhận đăng? Tại sao không tin vào những điều mình viết là sẽ được đăng, sẽ phải đăng? Tôi cảm thấy hối hận vì đã không từ chối bài viết của nó. Ít nhất, tôi còn được nghe một vài lời vặn vẹo, châm chọc quen thuộc như khi nó bảo tôi là thằng bỏ đi.
Hoàng cũng cảm thấy ngượng trước cái nhìn soi mói của tôi. Nó đánh trống lảng.
– Mày nghĩ vụ này sẽ diễn tiến thế nào?
– Mày nghĩ sao?
Tôi hỏi ngược lại nó, cố tạo cho thằng bạn một không khí thoải mái và tự nhiên. Quả nhiên nó bắt được cảm hứng ngay lập tức.
– Tao thấy lạc quan vô cùng. Cả thế giới cộng sản rung động trong vòng mấy tuần qua. Nga, Ba Lan, Trung Cộng...
Hoàng thao thao nói về tình hình thế giới, hệt như những bài báo mà ông chủ biên đã đăng và tôi đã đọc. Không muốn làm thằng bạn cũ mất hứng, tôi ngồi yên nghe nó “thuyết trình”. Hoàng nói trơn tru, mạch lạc như tình hình thế giới đều nằm trong tay và trước mặt là bản đồ thế giới được mở. Sau cùng nó kết luận.
– Rồi sẽ đến lượt Việt Nam.
– Mày tin thế?
– Tin chứ, rõ ràng quá mà.
– Tao nghĩ không dễ dàng như vậy, bọn Tàu không dễ thua đâu. Gần trăm năm chứ ít sao. Cai trị một tỷ thằng khoái hơn là nghe một triệu thằng.
– Mày...
– Tao cảm thấy thế. Nhưng làm sao biết được. Ðể rồi xem sao. Mới có vài ngày chứ mấy? Nhưng dù sao cũng thấy vui hơn.
Tôi lấp lửng và trở lại công việc lúc Hoàng bỏ về. Cái truyện dài đang đăng từng kỳ trên báo đã tản ra nhiều mối. Nhân vật đã bắt đầu mất hướng đi. Như vậy là xong phần một. Tôi sẽ bắt đầu đi vào phần hai, có thể bằng ảnh hưởng của vụ Thiên An Môn.
Sáng mai, tôi đi Sacramento. Nhu có vẻ không được khỏe trong thời gian này. Nàng nhức đầu liên tục.
Hơn tuần lễ nay không thấy thằng Mễ đến. Nó bị bắt chăng? Dạo này cảnh sát ruồng bố khu William hơi nhiều.
Bức tượng cô bé bằng đồng thau lại bị tróc thêm một mảnh sơn, ngay chùm tóc nhô ra của mái tóc demi garcon.
*
Chủ nhật của tuần lễ thứ ba.
Nhu xanh lét vì nhức đầu và mất ngủ. Chúng tôi ngồi tại công viên nằm trước thủ phủ của tiểu bang California. Bên cạnh là những bức tượng đen, trắng. Câu chuyện ngắt quãng nhiều lần vì thái độ lơ đãng của Nhu. Nàng có vẻ mệt mỏi. Hai tiếng đồng hồ ngồi cạnh nhau mà Nhu ngáp đến chục lần. Tôi không khó chịu, chỉ thấy thương Nhu nhiều hơn. Ðã mong manh lại mong manh hơn. Ðã yếu đuối lại yếu đuối hơn nữa. Thương em mong manh như một cành lan. Cành lan của tôi bây giờ là cánh lan mất rồi!
Tôi không gặp thằng Mỹ đen tên Jack tại bến xe. Cả lượt đi lẫn lượt về.
*
Thứ tư của tuần lễ thứ tư.
Số đặc biệt về Thiên An Môn được đón nhận không ngờ. Ông chủ biên có vẻ mãn nguyện. Mái tóc trắng của người đàn ông trên sáu mươi như sáng hơn. Bước vào nghề báo với tất cả tấm lòng nên những thành công được ghi nhận từ độc giả là điều ông quí nhất. Chỉ thế, và chỉ có thế là ước vọng của người chủ biên này. Giản dị nhưng chân thật trong hoạt động văn hóa. Tôi đã cảm thấy an tâm khi làm việc bên cạnh ông ta, dù đời sống vật chất thật hạn hẹp.
Buổi sáng hôm nay, tòa soạn bận rộn với những cú phone được gọi từ độc giả. Ðiềm tĩnh nhưng đầy cởi mở, ông chủ biên trả lời và giải thích từng trường hợp. Tôi và chị thư ký cũng trong tâm trạng đó, nhìn ông mà mỉm cười. Ðời trăm vạn lối thăng hoa cho trăm vạn nghề nghiệp, thì buổi sáng hôm này là phút thăng hoa cho chúng tôi, tại tòa soạn một tờ báo Việt ngữ trên đất Mỹ.
Xong một cú phone của độc giả, ông chủ biên quay sang tôi.
– Thích thật chú nhỉ?
– Vâng, sáng nay thấy mọi người bàn tán tại quán cà phê, em khoái vô cùng.
– Cũng bõ công “cam khổ” của anh em mình.
– Ít nhất mình cũng không cảm thấy xấu hổ vì nghề nghiệp.
Chị thư ký bật cười trước niềm vui của hai chúng tôi. Ông chủ biên như trẻ lại trong phong thái, tuổi 60 mất hẳn qua cử chỉ châm một điếu thuốc.
– Trưa nay tòa soạn mình đi ăn mừng!
Ông chủ biên nói. Tôi gật đầu.
– Phở đi anh.
– OK!
Chị thư ký vẫn cái cười dễ dãi.
– Toà soạn mình nghèo thật, ăn mừng bằng một chầu phở.
– Nhưng đúng là mừng!
Chúng tôi phá ra cười sau câu kết luận của ông chủ biên. Niềm vui đến thật nhẹ nhưng đầy đủ. Rất ngây thơ nhưng cũng rất thực tế. Ít nhất hôm nay, chúng tôi cũng có hạnh phúc là đem lại cho người đọc những gì cần đọc. Chẳng cần phải đứng trước đám đông đợi những tràng pháo tay hay tẩn mẩn ngồi đếm từng xấp dollar xanh ngoét. Phút thăng hoa của người làm báo chỉ cần thế, là thế.
Tôi tin tôi hơn trong buổi sáng hôm nay, với những người đang đi cùng mình.
*
Thứ năm của tuần lễ thứ tư.
Nhận phone của Nhu. Nàng vẫn bệnh nhưng thêm chứng tê tay và co giật phía thân bên trái. Tôi cảm thấy ngộp thở khi nhớ lại trường hợp ung thư trong một truyện ngắn của Mai Kim Ngọc.
Suốt buổi tối, tôi ngắm nghía cô bé bằng đồng thau. Màu sơn nhũ đã bị tróc nhiều mảng và nền nỉ xanh bắt đầu xổ lông. Những ngón tay tôi chạm vào mặt kim khí, tạo cảm giác nham nhám khi trong lòng có sự xúc động dấy lên. Nếu đúng cô bé đồng thau đã được làm phép như lời Nhu nói, thì xin Chúa cho nàng được bình yên.
Tôi bắt đầu tin vào Chúa rồi hay sao?
*
Chủ nhật của tuần lễ cuối tháng.
Tình hình vẫn bất lợi về phía chính quyền Trung Cộng. Sinh viên đã được toàn thế giới có cảm tình và ủng hộ. Ngay cả 150 ngàn binh sĩ được đưa về để thi hành thiết quân luật vẫn án binh tại Bắc Kinh, không hoặc chưa lộ điều gì có thể gọi là đàn áp cả. Sinh viên dự định sẽ dựng một tượng Nữ Thần Dân Chủ cao hơn tượng Mao Trạch Ðông tại Thiên An Môn. Ðây là một điều đáng gợi đến.
Dư luận của độc giả sau số báo về Thiên An Môn vẫn còn ồn ào và kéo dài đến hôm nay. Có rất nhiều đề nghị, bài vở được gọi qua phone và gửi về toà soạn. Ông chủ biên gợi ý muốn làm một số thứ hai về vấn đề này. Nhưng làm thế nào? Ðó mới là vấn đề được đặt ra. Không thể võ đoán được chính quyền Trung Cộng sẽ có thái độ nào. Ðã mấy chục năm, mầm mống của chế độ đã ăn sâu, không dễ gì nhượng bộ một cách dễ dàng được. Nhưng nếu không nhượng bộ thì thế nào? Một cuộc đàn áp sẽ được làm trước mũi dư luận thế giới chăng? Không thể hiểu được. Tôi hoàn toàn mù tịt về vấn đề chính trị, và thú thật với ông chủ biên.
– Em chỉ cảm thấy sự việc không thuận lợi như mọi người đều nghĩ đâu.
– Chú căn cứ vào điểm nào?
– Căn cứ? Em mù tịt nhưng chỉ cảm thấy như vậy.
Ông chủ biên cười dễ dãi.
– OK! Mình cứ từ từ xem sao. Nhưng dù sao cũng nên đi một số bài của độc giả, thân hữu gởi về trong vấn đề này. Chú nên đọc kỹ.
Tôi im lặng định từ chối việc đọc kỹ mà ông chủ biên vừa nói. Thật tình là tôi không khoái đọc những bài báo kiểu “đón gió” với một số từ ngữ va chạm nhau kêu loảng xoảng bằng những bài thơ, bài phê bình văn học hay truyện ngắn. Nhưng công việc... Tôi ráng gật đầu khi nghĩ đến lá thư viết dở dang cho Nhu còn nằm trên bàn. Không “ráng” sao được khi nhiệt tình của ông chủ biên như vậy? Hôm nay chủ nhật, là ngày nghỉ mà ông vẫn đến bàn về vấn đề này. Tôi nhìn mái tóc bạc trắng của ông, cười gượng.
– Vâng... Em sẽ chọn cho số báo thứ tư tới.
Vậy là mất toi một buổi tối để đọc kỹ.
*
Thứ hai của tuần lễ cuối tháng.
Suốt buổi sáng tôi ngủ vùi, đến hơn 12 giờ trưa mới dậy. Thân thể mệt nhừ, rời rã như sắp chết. Tôi không muốn làm gì cả, dù công việc còn đầy ra. Chưa bao giờ tôi thấy việc làm báo của mình lại ngán như vậy.
Ðêm qua đọc lại những chương đã viết của cái truyện dài, tôi vẫn thấy tôi còn lẩn quất dưới bóng nhân vật chính.
Nhu khóc trong điện thoại sau câu nói “Em tự nhiên sợ sệt và cảm thấy cô đơn. Ngay cả lúc cầu nguyện. Chúa cũng bỏ em sao anh?” Tôi bóp chặt cô bé bằng đồng thau trên tay khi có ý nghĩ nàng không còn trong cuộc sống.
Chúa của một người yêu Chúa như Nhu mà cũng còn khoảng cách với nàng hay sao? Như vậy cô bé bằng đồng thau có còn ý nghĩa gì khi tôi bỏ trong túi áo trái, gần trái tim? Tôi bắt đầu nghĩ đến Chúa nhiều hơn. Những vấn đề về Chúa được đặt ra trong trí tôi có phải khuynh hướng đưa tôi gần đến người? Ngay cả sự hồ nghi về người.
*
Thứ ba của tuần lễ cuối tháng.
Sinh viên đã mở tấm vải phủ bức tượng “Nữ Thần Dân Chủ.” Bức tượng được tạc phỏng theo tượng Nữ Thần Tự Do tại Hoa Kỳ. Qua màn ảnh truyền hình, tôi thấy bức tượng trông giống bức tượng cô bé bằng đồng thau của Nhu. Tự do và tình yêu hòa lẫn nhau trong ý nghĩ tôi chăng?
Hoàng khoái chí khi thấy bức tượng cao hơn tượng Mao Trạch Ðông. Ngồi cạnh tôi, nó thao thao “thuyết minh” theo từng diễn biến trong màn ảnh truyền hình. Tôi nghe loáng thoáng từng câu nói của nó. Trong trí tôi, bức tượng Nữ Thần Dân Chủ bây giờ lại có nét hao hao giống Nhu.
Nếu không còn Nhu trong đời tôi sẽ làm gì để giữ được hình ảnh của nàng? Trong tôi chợt có ý định mới cho cuốn truyện dài đang viết. Tại sao không tạo một nhân vật nữ, có hình tượng của Nhu để làm người yêu cho nhân vật chính. Nên lắm chứ! Nếu đem được Nhu và những điều nàng có vào nhân vật nữ đó... Ít nhất, Nhu vẫn còn, mãi còn trong tác phẩm. Tôi mỉm cười một mình ghi nhận ý nghĩ đó vào trí khi buổi trực tiếp truyền hình từ Thiên An Môn chấm dứt.
Hoàng tắt máy truyền hình lúc màn ảnh hiện ra một cô gái mặc bikini quảng cáo cho thứ nịt vú mới.
– Ðã quá hả!
Tôi giật mình.
– Ðã chứ sao không, mấy con nhỏ quảng cáo trên ti vi Mỹ toàn là tài tử bạc triệu không đó. Ðã thì đã vậy thôi, chứ tàn đời bọn mình cũng không rớ tới được.
Hoàng đăm đăm nhìn tôi, chửi thề một tiếng trước câu nói.
– Vậy là mày chẳng để ý gì cả.
– Ðể ý cái gì? Tao nói không phải sao?
– Sư mày... những điều tao nói là khúc phim về vụ Thiên An Môn vừa qua. Ðâu dính gì đến cái nịt vú và con nhỏ tài tử.
Tôi ngượng nghịu.
– Tao... nghe và xem loáng thoáng.
Lại một tiếng chửi thề được làm thêm, nó đẩy ghế đứng dậy.
– Mày lúc nào cũng lơ ngơ, lếch nghếch như thằng mất hồn. Tao không hiểu mày sẽ ra sao nếu suốt đời cứ thế này. Chẳng chú tâm vào việc gì cả, dù con mắt lúc nào cũng mở to để ghi nhận. Mâu thuẫn rõ ràng đang xảy ra trong mày. Hãy định hướng lại con ạ. Rồi Nhu cũng đến khổ vì mày. Ðúng ra, với một người như Nhu bên cạnh, mày sẽ khá hơn.
Vẫn câu nói nhảy xổm vào đời tư kẻ khác của Hoàng như mọi hôm, nhưng không làm tôi khó chịu như mọi hôm. Tôi chợt nghĩ đến nhân vật chính cùa mình. Tôi bịnh hay cuộc đời đang bịnh?
*
Thứ tư cuối tháng năm.
Phản ứng của chính quyền Bắc Kinh hình như đã bắt đầu. Một cuộc biểu tình của công nhân và nông dân tại ngoại ô Bắc Kinh được tổ chức để ủng hộ chánh quyền. Những cú phone gọi về tòa soạn ít hơn và thái độ của mọi người cũng có vẻ dè dặt hơn lúc nói chuyện.
Hoàng không thấy ghé.
Buổi tối Vĩnh đến, nói bâng quơ đủ thứ chuyện. Tôi nhắc đến Quán và Hoàng, nó đánh trống lảng và khó chịu ra mặt.
Ý tưởng mang Nhu vào cuốn truyện đang viết vẫn lẩn quất trong đầu. Nhân vật chính của tôi bắt đầu biết quan tâm đến các vấn đề thời cuộc, dù vẫn còn hờ hững. Ðọc và soi gương lúc tắm xong, tôi thấy tôi giống hắn thật nhiều.
Tại sao tôi phải đẩy nhân vật của mình cố gắng vượt lên trên cuộc sống, khi bản thân hắn vẫn chưa chịu tách lìa cuộc sống.
Nhật ký tháng sáu.
Thứ năm của đầu tháng.
Chính quyền Bắc Kinh đã khuyến cáo báo chí ngoại quốc là dưới lệnh thiết quân lực, giới truyền thông phải xin phép để loan tất cả tin tức trong vùng. Ðiều quan trọng: không được loan tin biểu tình.
Bố mẹ Nhu bắt đầu khó chịu về những cú phone của bọn tôi. Và đêm nay, Ðoan phải gọi thay Nhu để báo cho tôi biết về bịnh của nàng. Nhu đã khỏe hơn ít nhiều.
Tôi quyết định đem Nhu vào truyện. Nhân vật nữ có tính dịu dàng, hiền lành và thương người. Gương mặt thanh tú với một đồng tiền trên má phải. Trang sức giản dị, không phấn son chỉ một chiếc nhẫn có hình chữ “love” trên ngón tay áp út.
Tôi sẽ gọi phone cho Nhu biết việc này.
*
Thứ sáu của tuần lễ đầu tiên.
Ông chủ biên vỗ vai tôi lúc chuẩn bị về.
– Vậy là xong một tuần.
– Vâng.
– Chú sẽ làm gì cuối tuần? Lên thăm cô Nhu?
Tôi ậm ừ trong cuống họng. Trước mặt tôi là bản tin về Thiên An Môn. Hơn 1000 quân lính đã xuất hiện tại nhà ga Bắc Kinh để biểu dương lực lượng. “Tình hình lặng yên như dấu hiệu một cơn bão sẽ đến.” Ðó là nhận định của tờ Mercury News trong số báo mới nhất.
Ông chủ biên sửa lại nút cà vạt, chỉ vào tấm ảnh những người lính Trung Cộng được chụp tại nhà ga. Sau lưng họ là đoàn tàu xe lửa dài ngoẵng. Nền bức ảnh đen kịt bởi dãy nhà và các tàng cây, khoảng trời nhỏ nhoi xen vào giữa mờ nhạt.
– Thấy thế nào?
– Tối tăm quá anh ạ! Như một cảnh chết.
– Chú lại “cảm” thấy thế?
– Vâng.
– Cái cảm của người cầm viết thật lạ lùng.
Ông chủ biên cười sau câu nói và xuống thang. Tòa soạn còn mình tôi với ba chiếc máy computer. Khoảng thời gian cô đơn lại bắt đầu. Hệt như những cuối tuần không lên Sacramento hay Nhu không đến. Tôi cảm thấy cổ họng khô ran và thèm gặp một trong đám bụi đời.
Ðêm nay, nếu không có gì “trục trặc” thì thằng Mễ sẽ đến như thường lệ và phone của Nhu sẽ có lúc 10 giờ. Lát nữa tôi sẽ mua một chai “Rémy Martin” loại 750. Túi tôi còn đủ tiền cho chai rượu và những mẩu bánh mì cuối tuần.
*
Thứ bảy của tuần đầu.
Tôi tỉnh dậy trong cơn say váng vất. Hơi thở nồng mùi rượu, miệng đắng và cổ họng khô ran. Ánh nắng hắt qua cửa sổ thành vệt dài ngang tầm mắt, chói chan đến khó chịu. Ðêm qua tôi uống quá nhiều. Thằng Mễ không đến, chỉ có hai thằng Mỹ đen và ba con điếm: hai trắng và một đen. Chai rượu Rémy cạn, rồi một hay hai chai gì đó được đem về. Uống, chửi thề, nói vung vít và cơn say đến rất nhanh. Hình như có tiếng chuông điện thoại reng lúc khuya nhưng không đứa nào nhấc phone nổi. Mọi cảm giác dật dờ, không định được. Tôi không nhớ đã làm gì với thân thể đàn bà to gấp rưỡi nằm bên cạnh.
Suốt buổi sáng tôi nằm im trong tòa soạn. Toàn thân rũ như bông, những cử động thật khó khăn. Tôi đã châm từng điếu thuốc, hút, nhả khói khi đầu mỗi lúc một nặng. Chẳng nhớ gì hết, chỉ biết bọn bụi đời đã bỏ đi và sự vắng lặng bao quanh. Rồi lại thiếp đi khi ánh nắng không còn in trên tường.
Bây giờ trước mặt tôi là bức tượng cô bé bằng đồng thau và tập nhật ký viết dở dang. Tôi lật lại những trang đã viết và ngỡ ngàng. Những điều xảy ra trong tháng năm lẫn lộn vào nhau. Biến cố Thiên An Môn và diễn biến tình cảm riêng tư chạy song song qua những hàng chữ, như một trò chơi vô tình của trí óc. Và đó là những trang ký ức.
Sự trống rỗng của một ngày thứ bảy thật lạ lùng. Mắt tôi vẫn mở lớn, chăm chút vào từng vật, từng sự kiện xảy ra nhưng sao chẳng nhận được gì. Tôi sẽ viết gì đây?
*
6 giờ chiều.
Vẫn là sự trống rỗng. Tôi không viết được thêm một chữ nào cho cái truyện dài. Nhưng giòng chữ trên nhật ký thật gượng ép. Chỉ là những sự kiện mờ nhạt thoáng qua chữ, hoàn toàn không có tôi tham dự. Tôi đứng ngoài những trang nhật ký của tôi.
*
9 giờ 45 đêm.
Sự trống rỗng bây giờ không còn nằm bên trong nữa, đã ôm choàng lấy không khí chung quanh. Không một tiếng chuông điện thoại reng từ lúc tỉnh giấc đến giờ. Không một tiếng gõ cửa nào để khuấy động không gian nhỏ hẹp của tòa soạn. Tôi đã đi lui, đi tới trong khoảng không gian này. Ðã có những lúc tôi rờ rẫm từng chiếc máy computer như rờ đầu người. Cố tìm cảm giác ấm yên hơn từ bàn tay. Nhưng lớp nhựa trắng nham nhám vẫn lạnh toát. Ðã có lúc tôi lặng yên nhìn chiếc máy điện thoại trên bàn. Mười hai cái nút, mười con số, hai cái dấu: (*) và (#) đều câm lặng. Không một tiếng reng là không một ai gọi. Tất cả đều quên tôi rồi hay sao? Tôi biết chỉ cần đưa tay bấm bảy con số nào đó của Hoàng, của Quán, của Vĩnh... Hoặc mười con số quen thuộc của Nhu, tôi sẽ nhận được một giọng nói để thấy mình còn sống. Nhưng tôi vẫn không làm. Tôi chờ đợi mọi người đến với tôi trong phút này chứ tôi không chờ một lần nói chuyện. Ðến, để thoát khỏi tâm trạng cô đơn chứ không tìm, để hết vắng lặng. Ðã có lúc tôi cuộn mình vào chăn, trùm kín đầu tránh sự vắng lặng chung quanh, như con đà điểu bịnh hoạn chui đầu xuống cát trốn kẻ thù. Tôi đã làm đủ thứ hành động, cử chỉ để tránh tôi.
Chiếc phone vẫn câm. Những nút bấm nổi lên vuông vắn, đều đặn và trắng toát như hàm răng của một cái mồm đang cười giễu cợt.
Tôi có nên viết lại một thứ bảy này vào truyện dài hay không?
*
Chủ nhật của tuần thứ hai.
Tôi tỉnh dậy lúc ánh nắng chưa hắt qua khung cửa để kéo thành một vệt dài trên bức tường trước mặt. Người tỉnh táo hơn sáng hôm qua. Những sớ thịt bớt râm ran. Ðêm qua, tôi uống ít hơn đêm thứ sáu. Cũng say nhưng không đến nỗi nào. Thứ rượu Mễ, uống mỗi ngụm phải liếm một ít muối được đổ ở mu bàn tay, đắng nghét và cay xè không khoái như uống Rémy nên tôi chỉ uống vừa phải. Nghĩa là vẫn còn đủ tỉnh táo để móc túi trả tiền, không đợi một cái đá đít ra khỏi cửa cái bar Mễ bẩn thỉu như mọi lần
Tôi cảm thấy đói. Ðã hai ngày không có gì nhét vào mồm. Chỉ toàn rượu và rượu. Tôi thọc tay vào túi quần, móc ra tờ giấy bạc một đồng nhăn nhúm. Ðủ để mua một ổ bánh mì tại quán Ðakao Food To Go.
Vẫn không một tiếng chuông điện thoại. Ai cũng quên tôi rồi sao? Chiều nay, tôi sẽ làm gì? Và rượu đâu để uống cho hết buổi tối chỉ có một mình?
Những trang nhật ký đọc lại thấy kỳ cục. Thói quen viết tiểu thuyết đã ăn sâu trong máu tôi mất rồi. Nhưng chả sao, nếu cần, tôi sẽ lấy đó làm sườn cho một chương của cuốn truyện đang viết.
*
11 giờ 50 đêm.
Vẫn chẳng ai gọi. Những hàng chữ vẫn trống trơn trên trang kế của cuốn truyện đang viết.
Tôi quên Nhu đã hai ngày nay. Và nàng cũng đã quên tôi chăng?
*
Cuốn nhật ký bỏ trống một trang. Sáu trang liên tiếp là những dấu hỏi và những vòng tròn rối rắm được vẽ chồng lên nhau. Cả hai mặt giấy bị hằn lên và lốm đốm các chấm mực xen kẽ giữa vài vết rách.
Trang thứ tám là hình vẽ một mũi tên đâm vào một vòng tròn. Tại tâm vòng tròn có một chữ Nhu. Tất cả những trang này, được viết vào buổi tối chủ nhật đầu tiên của tháng sáu.
*
Sáng thứ năm, Tường dậy sớm hơn thường lệ. Lại sắp sửa hết một tuần sống. Công việc vẫn đều đặn với từng bài báo, từng bản tin được dịch nhưng cái truyện dài đăng từng kỳ trên báo đã hết những trang viết sẵn. Chiều hôm qua trước khi về, chị thư ký đánh máy của tòa soạn đã nhắc. Sáng nay anh phải viết bù vào tuần lễ bỏ không. Ít nhất là chục trang viết tay cho số báo thứ bảy.
Những điều gạn lọc, từ các sự kiện sống của một tuần lễ, dành cho cái truyện dài chẳng được bao nhiêu. Nhân vật chính đang bị rối rắm bởi những ý nghĩ trong đầu nên khó lòng gom về một mối để giải quyết. Tản mạn, vung vãi như những mảnh thủy tinh văng tứ tán từ một chiếc ly bị đập. Tường cố gắng giàn xếp để nhân vật nữ xuất hiện như một cứu cánh. Nhưng vô ích. Sự mâu thuẫn đã được gắn liền từ chương đầu tiên để tạo thành bản chất nhân vật. Nghĩa là hắn phải sống với cuộc đời của chính hắn, không một hiện tượng nào, một phong trào nào có thể chi phối hay lôi cuốn được. Ðể trọn vẹn kiếp người của một mẫu dân tỵ nạn, giữa một cộng đồng đang sống thật trên đất Mỹ. Nếu có thể – chỉ là có thể – một lần nữa, thảy hắn vào đáy cuộc đời nhầy nhụa với đầy đủ tính bi thảm. Cho hắn chạm lại nỗi cô đơn và sự khổ đau tận cùng thêm lần nữa, giữa cuộc sống vừa tìm lại được mà hắn hằng chắt chiu, nuôi dưỡng. Từ đó hắn sẽ bắt mình ngoi lên. Ngoi lên cao hơn lằn ranh giữa oán thù và khoan dung, để chọn lựa. Chính hắn phải tự chọn lựa.
Tường thở dài, bước vào phòng tắm. Nhân vật do anh đẻ ra không thuộc về anh nữa. Hắn đã vượt khỏi lằn kẻ của những trang giấy để tự tạo cho mình một số mạng riêng biệt. Tường không có quyền chọn lựa cho hắn thêm, hay rõ hơn, anh không có quyền sắp đặt như một nhân vật tiểu thuyết nữa. Hắn hiện diện giữa cuộc đời của cuốn truyện mà anh đã lồng xã hội San Jose vào đó.
Tường mở khóa nước. Dòng nước lạnh bắn vào người gây nên cái rùng mình nhẹ. Những tia gai gai lan trên thân thể làm các lỗ chân lông săn lại, đẩy những sợi lông dựng đứng lên. Rồi dịu dần khi dòng nước từ từ ấm. Bắp thịt giãn căng và ý nghĩ lợn cợn mất hẳn. Anh rúc đầu vào giữa luồng nước, hai tay vò mạnh lên đầu. Những ngón tay cuốn tóc thành từng lọn. Tường giật nhẹ, khoái cảm chợt có làm đầu óc nhẹ hơn. Anh huýt gió một bản nhạc vui. Âm thanh phát ra không đều đặn. Lúc dài, lúc ngắn, lúc tắt nghẽn theo nhịp nhấp nhô của đôi môi tru lên chạm vào luồng nước. Nhưng giòng nhạc không ngưng trong hơi thở. Tường nghe rõ điệu trầm bổng trong thân thể, trong từng nhịp đập của máu. Niềm vui chợt có oà vỡ trong anh.
Khóa vòi nước sau khi dứt bản nhạc, Tường quấn chiếc khăn trên người và đứng trước gương. Thằng người hiện lên trong gương đang chăm chăm nhìn anh hệt như anh đang nhìn nó. Ðôi lông mày rậm, mắt có những tia đỏ vì sũng nước, hai lỗ mũi phập phồng hơi thở, một cọng lông mũi đang run run nằm nhú ra ngoài lỗ mũi bên trái, khóe môi trễ xuống nếp nhăn và vài cái thẹo nằm vô trật tự trên mặt. Tường mỉm cười, thằng người trong gương mỉm cười theo. Hàm răng đưa ra, sạch sẽ đến độ làm nổi lên những vệt đen của thứ khói thuốc bám vào khóe răng lâu ngày. Tường nheo mắt, nó nheo mắt theo. Nó giống anh hay anh giống nó? Bất giác, Tường nhớ lại bài thơ đã học những năm trung học.
“Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai.”
Tuy một mà hai. Tuy một mà hai... Nó đâu phải là Tường! Nó chỉ là chiếc bóng, giống anh và do anh đẻ ra. Hệt như nhân vật của Tường. Cũng do anh mà có nhưng không thuộc về anh. Cái bóng sẽ theo số mệnh của từng chiếc gương và nhân vật của Tường sẽ theo số mệnh của từng cuốn truyện. Anh đâu nắm giữ hay áp đặt được điều gì để bọn chúng phải là của mình. Rất hợp lý và đúng nguyên tắc sống. Tại sao lại lấn cấn, lại lợn cợn và đã trăn trở vì nhân vật chính không thuộc về mình nữa? Mình đã thực tình tôn trọng tự do khi cầm viết, như một lần đã nói với Hoàng về quan niệm viết lách hay chưa? Tường lui lại một bước, thằng người trong gương cũng lui lại một bước. Khoảng cách giữa bọn Tường đã có. Thình lình Tường nhổ mạnh một bãi nước bọt về phía trước, thằng người trong gương làm theo. Hai bãi nước bọt gặp nhau tại mặt gương. Anh vui vẻ mặc quần áo và bước ra khỏi phòng tắm.
Ông chủ biên và chị thư ký đã đến. Cả hai người lạ hoắc trong lối phục sức. Trẻ hơn và tươi mát hơn. Với chiếc áo pull bỏ ra ngoài quần, ông chủ biên trông vui và khỏe hẳn. Cũng thế, chị thư ký đã đánh rơi số tuổi của mình trong chiếc váy vàng may theo mốt mới. Một chút kem bôi trên mặt làm nụ cười tươi và rạng rỡ. Tường nhìn hai người chăm chăm.
– Cả hai người, hôm nay trông lạ ghê.
– Lạ gì chú?
– Trông trẻ và đẹp hơn
Chị thư ký có vẻ thẹn, hai gò má hơi đỏ khi bàn tay vén lại mái tóc.
– Chú... chú cảm ơn chú.
– Cảm ơn gì chị. Tôi nói thật đấy, chị trông trẻ hẳn, bây giờ chị thành người nhỏ tuổi nhất toà soạn.
Buổi sáng của tòa soạn vui hơn. Ông chủ biên đưa Tường chồng báo Mercury News. Ngay trang nhất, một tấm ảnh màu cỡ lớn đập vào mắt anh gây nên sự xúc động. Trong ảnh, một đôi trai gái đang dắt chiếc xe đạp, nép vào nhau đứng dưới chân cầu. Bên trên là một đoàn chiến xa của quân đội Bắc Kinh đang di chuyển. Sự trái ngược hiện rõ trong tấm ảnh. Tình yêu và chiến tranh. Hạnh phúc và âu lo. Mơ ước và đàn áp. Mái tóc người con gái ép vào vai người con trai và những vòng xích sắt của chiến xa nghiến trên mặt đường. Cái nhìn của người thanh niên và họng súng chỉa lên cao. Giữa thế kỷ hai mươi mà vẫn còn pha trộn các điều đối nghịch trong cùng một thời gian, một không gian chung. Tường không đọc hàng chú thích ghi bên dưới. Bức ảnh tự nó đã nói lên tất cả những điều cần nói về cuộc đàn áp từ phía chính quyền dành cho sinh viên, bắt đầu từ hôm thứ bảy ngày ba tháng sáu.
Súng đã nổ, những vòng xích chiến xa đã lăn và người đã chết tại Thiên An Môn. Tin tức bắt đầu sôi động và nóng từ những ngày đầu tuần. Phản ứng dã man của chính quyền Bắc Kinh chẳng có gì mới lạ trong kinh nghiệm sống của loài người. Tường chợt nhớ đến cuộc khơi dậy của dân Ba Lan ngày trước. Cũng những đám đông đòi quyền sống, quyền làm người. Cũng gặp phải những vòng xích chiến xa của bạo lực. Hệt như Bắc Kinh bây giờ. Những vòng xích chiến xa cán nát bét từng vùng thịt xương con người có lẽ là biểu tượng rõ nét nhất cho cái gọi là bạo lực cách mạng. Anh chợt thấy ê răng khi hình dung đến tiếng rít của những vòng xích chiến xa cán trên mặt đường. Ðẩy tờ báo sang phía ông chủ biên, Tường buột miệng.
– Dã man!
– Ðó là điều tất yếu của chế độ.
– Phản ứng của thế giới không có ảnh hưởng gì sao anh?
Ông chủ biên nhún vai.
– Nếu ảnh hưởng thì không là ho. Cậu đã biết dân ở Thượng Hải, Nam Kinh, Tây Tạng và các thành phố lớn khác đã biểu tình phản đối... Có lẽ bây giờ người Trung Hoa ở khắp nơi trên thế giới cũng bắt đầu tỏ thái độ. Nhưng...
Ông chủ biên bỏ lửng câu nói, với tay đưa Tường một tờ giấy.
– Cái này hẳn cậu thích hơn là những vòng xích chiến xa.
Tường mở tờ giấy. Ðó là lá thư cậy đăng, của những sinh viên của các trường đại học miền Bắc Cali, thông báo về tuần lễ tuyệt thực để phản đối chính sách cuỡng bách hồi hương thuyền nhân, được tổ chức tại trước cửa tòa lãnh sự Anh Quốc tại San Francisco.
Quán và Hoàng đến đón Tường tại tòa soạn.
– Ði chưa?
– Chờ tao vào lấy cái áo lạnh.
Tường trả lời Hoàng và bước vào phòng trong của tòa soạn, với tay lấy cái áo lạnh khoác lên vai. Quán nheo mũi khi Tường bước ra.
– Có mùi chưa anh?
– Sao em biết?
– Hôm ở Lido, em ngồi cạnh anh mà.
Tường cười, khoác vai Hoàng ra ngoài.
– Vĩnh đâu?
– Bây giờ mình xuống nó.
– Còn Loan?
– Chắc Loan không đi đâu, bận bịu con cái... Mà một mình thằng Vĩnh đi cũng đủ lạ rồi. Có bao giờ nó dính đến những sinh hoạt như vầy đâu.
Hoàng đạp chân ga, cười cười, rồi tiếp.
– Ngay cả mày nữa. Ai ngờ mày cũng đi.
– Cả bốn đứa mình, trừ mày ra thì chả đứa nào xứng đáng được đi hôm nay.
– Mày nói gì thế? Cái gì mà xứng đáng ở đây? Không sợ Quán buồn hay sao?
Sau câu nịnh đầm lòi ra mặt của nó, Tường quay ra phía sau hỏi Quán.
– Em buồn không?
– Buồn cái gì? Ai mà trách anh.
– Tốt.
Buông một tiếng gọn lỏn, Tường sửa lại thế ngồi. Xe đã đến nhà Vĩnh. Thằng bạn Tường đang đứng chờ trước cổng, bên cạnh nó là Loan. Tường đưa tay chào.
– Khỏe không Loan?
– Anh vào chơi.
– Thôi để lúc về hay dịp khác Loan ạ.
Loan gật đầu với nụ cười hiền lành. Ðôi má bầu bĩnh, nước da trắng hồng làm người đàn bà có nét rạng rỡ, no tròn. Loan không đẹp như Quán nhưng hơn hẳn về sự dịu dàng. Tường lại nhớ đến cảnh tượng trước quán ăn Sizzler và ngạc nhiên về những điều mình đã nhận được từ bạn bè. Nếu bảo sống để có hạnh phúc với một người đàn bà thì hẳn ai cũng chọn Loan chứ không chọn Quán. Vậy mà Vĩnh có hành động kỳ cục như vậy. Khó hiểu thật, đời sống toàn những điều kỳ cục và mâu thuẫn. Nếu là Vĩnh thì Tường sẽ sống thế nào? Chăm chỉ, ngày hai buổi “cơm nhà, quà vợ” cho hết kiếp? Hay sẽ lông bông hơn? Làm sao mà biết được khi đến giờ này anh chưa bao giờ dám nghĩ đến điều đó. Nhưng dù sao Loan cũng thật tội nghiệp. Ðột nhiên Tường cảm thấy bực bội vì Vĩnh và Quán. Hai đứa này quả là lộn xộn.
Vĩnh vẫn đứng lóng ngóng ngoài đường, chưa chịu vào xe. Hẳn băng sau có Quán đang ngồi một mình nên nó ngại. Tường nói lớn.
– Có đi hay không? Ði thì lên xe, bằng không bọn tao đi.
Vĩnh ngượng ngập chui vào xe. Qua kính chiếu hậu, Tường thấy nó mất tự nhiên khi ngồi xuống. Sự bực bội trong Tường càng lớn hơn khi Loan đưa tay vẫy vẫy lúc xe chạy một cách hồn nhiên và vui vẻ. Anh xoay sang Hoàng.
– Lên Freeway 101 đi.
– Tao biết đường mà.
Hoàng cho xe chạy vào xa lộ. Không khí trong xe đột nhiên thành khó thở từ lúc Vĩnh chui vào. Tường chăm chăm quan sát ba người bạn. Trừ Hoàng đang chăm chú lái xe, còn lại Vĩnh và Quán đều mang vẻ ngượng nghịu. Trong mặt kính chiếu hậu, Tường gặp cử chỉ của hai đứa. Thỉnh thoảng mắt bọn nó chạm nhau, thoáng một cái rồi nhìn ngay sang hướng khác. Thế ngồi của Vĩnh như co lại, sát với cửa xe. Quán, hai bàn tay đặt thẳng băng lên đùi, cứng ngắt. Bọn nó đang đeo thứ mặt nạ bằng đá.
Xe bắt đầu chạy vào giòng chung của xa lộ. Hoàng mở lời.
– Ðúng ra, bọn mình nên đi từ hôm đầu tiên. Bữa nay gần xong rồi.
– Tại sao mày không đi từ hôm đầu?
Tường vặn vẹo sau thái độ kẻ cả của Hoàng.
– Tao bận họp để tổ chức ngày lễ 19 tháng sáu của hội Cựu Quân Nhân.
Hoàng thản nhiên trả lời và không nhận ra thái độ của Tường. Quán chen vào.
– Ði hôm này cũng đâu sao? Thứ tư mới chấm dứt mà.
– Nhưng có vẻ vuốt đuôi.
– Vuốt đuôi cái con mẹ gì? Bọn sinh viên tổ chức cả tuần lận. Không lý tất cả mọi người có lòng đều dồn vào ngày đầu tiên, còn những ngày sau vắng tênh, chẳng ai đến. Có người này người kia chứ. Nói như mày đâu có được.
– Ðến là quí rồi!
Vĩnh buông một câu lãng nhách! Thằng bạn này hầu như chẳng bao giờ tham dự một sinh hoạt của cộng đồng. Hôm nay nó đi hẳn tại có Quán? Tường ngán ngẩm dựa lưng vào ghế, nhắm mắt lại làm ra vẻ buồn ngủ khi Hoàng bắt đầu nói về cuộc tuyệt thực đã đến ngày thứ năm của tuần lễ. Tiếng nói của Hoàng loáng thoáng trong gió và hành động làm như buồn ngủ của Tường lại thành thật khi lời nói của thằng bạn biến thành một một điệu ru. Anh duỗi chân trước khi rơi vào giấc ngủ.
*
Tường tỉnh dậy lúc xe vào thành phố San Francisco. Ðang từ buổi chiều yên lặng của những con đường nhỏ, vắng dẫn từ nhà Vĩnh đến Freeway của San Jose, Tường như hụt hơi khi thấy cảnh sinh hoạt của San Francisco. Người đi lại đông nghẹt các con đường, bất cần luật lệ giao thông. Muốn băng ngang đường là băng, chẳng kể những chớp đèn xanh đỏ. Những người lái xe thật khó khăn khi di chuyển. Tường nghe liên tiếp những tiếng còi xe vang lên như sự bực bội của họ gói trong đó. Hoàng khó khăn vượt qua từng đoạn đường dốc. Mắt nhìn chăm chăm, tay phải sang số liên tục, khuôn mặt hiện vẻ khó chịu và căng thẳng. Nó vẫn chưa quen với không khí sinh hoạt của một thành phố lớn và hỗn độn. Tường mỉm cười với ý nghĩ này và nhìn ra ngoài cửa kính của xe.
Những cao ốc vút lên, cao ngất hai bên đường đâm thẳng vào bầu trời như những cây cột xi măng. Câm nín và lạnh lùng. Không một biểu hiện nào cho biết được có cuộc sống của con người ở trong những cao ốc đó. Chỉ là những khối xi măng được gắn từng ô kính. Khô khốc và chết lặng ôm lấy các con đường nhỏ, bẩn thỉu. Tường ráng tìm nét tươi mát như các con đường ở Sacramento, nơi Nhu ở. Nhưng vô ích, các tàng cây xanh hay những thảm cỏ giữa đường chen vào thành phố thật gượng gạo. Thiếu hẳn nét tự nhiên. Ở đây văn minh đã đè bẹp thiên nhiên. Và con người hưởng thụ đã choán ngợp khắp nơi. Vậy mà là nơi phát xuất một cuộc đấu tranh cho tình người từ những thanh niên. Sự mâu thuẫn này đột khởi từ đâu? Hay dù ở đâu, bất cứ lúc nào vẫn còn những con người đúng nghĩa đang sống? Lòng dịu đi, Tường châm một điếu thuốc.
Xe vào đường Folsan. Một tấm bảng cắt hình mũi tên với hàng chữ “Golden Gate” chỉ về phía phải. Ðó là đường đến cầu Cựu Kim Sơn. Cây cầu Tường đã mơ ước được gặp, được sờ vào thành cầu trong hơn hai mươi năm. Bắt nguồn từ một bài học anh văn của cuốn “English For Today” năm đệ lục. Xong bài học chú bé Tường đã ngơ ngẩn nhìn hình chiếc cầu được vẽ nguệch ngoạc in kèm theo bài học. Những chi tiết trong bài học viết về cái cầu đã làm nó mê mẩn. Ngày đó, đứa bé mười ba tuổi đã ước ao được một lần đến nhìn ngắm, sờ mó cái cầu. Ðã có những đêm Tường nằm mơ thấy được đến San Francisco. Nhưng đó chỉ là giấc mơ, tỉnh dậy, đứa con trai đệ lục vẫn còn lẫn lộn giữa thực và mộng. Tường yêu chiếc cầu đến độ tất cả những hình ảnh, bài vở nói về chiếc cầu đều được Tường cất giữ. Hơn thế nữa, năm đệ tứ trong bài thi vẽ đệ nhị lục cá nguyệt, với đề tài tự do Tường đã vẽ chiếc cầu và được Thầy Gĩ – ông thầy dạy vẽ của trung học Võ Tánh Nha Trang – chấm nhất. Cây cầu sống trong Tường như thế. Gần như có sự thiêng liêng nào đó gắn liền anh với cây cầu.
Cứ thế, hình ảnh cây cầu thành hình ảnh đẹp nhất của Tường những ngày niên thiếu. Và quyết tâm sẽ bằng mọi cách để đến gặp cây cầu một lần. Như một kẻ tình si quyết tâm tìm về người yêu cũ.
Rồi lớn lên, Tường thấy mơ ước đó khó thực hiện được trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước. Nhưng tình yêu đối với cây cầu vẫn không nhạt đi tí nào cả, nếu không gọi là còn lớn hơn.
Cho đến lúc mất nước, vào trại tù cải tạo thì cây cầu chỉ còn nằm trong đáy sâu của ý nghĩ. Những khổ nhục, đắng cay, đớn hèn đã làm con người lớn dậy trước bàn cân nhân phẩm và mơ ước không còn viễn vông nữa. Thực tại đập vào đời sống trước mắt một cách tàn nhẫn, phải giải quyết và nghĩ đến những gì cần làm. Thỉnh thoảng nhớ lại sự say mê tuổi nhỏ với hình ảnh cây cầu Tường vội vàng gạt phăng đi và cố tình lãng quên. Tường đã sống như thế trong năm năm nhưng hơn ai hết anh hiểu cây cầu vẫn sống trong anh.
Sang đến Mỹ, ban đầu ở tận một tiểu bang xa lắc tận miền Bắc Mỹ, Tường bắt đầu cuộc sống xứ người và hình ảnh cây cầu lại trở về. Mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Anh đã tự hứa: bằng mọi giá phải đến gặp cây cầu một lần. Nhưng đến năm thứ sáu ở Mỹ, Tường mới thực hiện được.
Mãi tận hôm nay Tường vẫn còn nhớ tâm trạng náo nức đầy xúc động của lần đầu tiên đi đến cây cầu. Suốt đoạn đường, anh đã nói rất nhiều với người bạn cùng đi. Hình như lúc đó nói là một hình thức đè nén và che đậy xúc cảm của mình. Người bạn thông cảm với Tường, im lặng nghe, không một ý kiến gì cả. Càng đến gần cây cầu Tường càng thấy nôn nao và mất bình tĩnh. Anh đã đặt ra cả đống câu hỏi về mình. Lát nữa Tường sẽ thế nào? Rớm rớm nước mắt, hay khóc oà lên hay im lặng, đưa tay sờ soạng thành cầu. Hơn hai mươi năm chứ ít sao? Như một kẻ cuồng tín sắp về thánh địa, anh thấy anh y hệt các nhân vật đó trong phim ảnh.
Rồi cũng đến nơi. Tường đã bàng hoàng khi nhìn thấy mình lúc đó. Tất cả những cảm xúc của anh chợt lạnh như chưa bao giờ có. Cây cầu quá tầm thường, không xứng đáng với những điều anh đã nuôi dưỡng trong suốt hai mươi năm vừa qua. Khi người bạn đề nghị ngưng lại ở cái park cạnh cầu anh đã lạnh lùng từ chối. Như vậy là quá đủ, nếu không muốn nói là dư cho một lần chạm mặt điều mơ ước. Tường rơi vào tâm trạng thất vọng hoàn toàn. Thất vọng về cây cầu và thất vọng cho chính mình. Anh đã già hơn trong ý nghĩ để tất cả thành vô nghĩa.
Tường nhìn thấy chính mình đã thay đổi. Sự náo nức, hồi hộp chìm lỉm trong lạnh lùng. Anh ngó cây cầu một cách lạnh nhạt như đã ngắm trăm ngàn cây cầu bình thường khác. Màu vàng cam trơ trẽn trong nắng, những sợi giây cáp thô kệch, các nhịp cầu phẳng lì, đều đặn đến ngán ngẩm. Chẳng có gì đáng dể Tường ao ước trong thời gian dài ngoẵng. Những nhận xét về cây cầu trộn chung với từng ý nghĩ trong đầu làm Tường mỗi lúc một tỉnh táo hơn. Và cuối cùng là sự xót xa vì hiểu rõ chính mình khi người bạn quay xe lại trên nhịp cầu đầu tiên.
Hơn hai mươi năm cây cầu mỗi ngày một lớn hơn trong ý nghĩ của Tường, nhưng cây cầu vẫn là cây cầu. Một thực thể không thay đổi từ đầu giấc mơ đến cuối giấc mơ. Chỉ có anh và cuộc sống thay đổi từng giờ, từng phút mà chính anh không ngờ được. Mơ ước về lần gặp cây cầu đã thành một cái sườn, rõ hơn nữa là một cái màn che lấp sự thay đổi trong Tường. Anh nhìn anh trong mơ ước một cách ngây thơ bằng cái nhìn của một chú bé học sinh đệ lục. Nếu hôm đó không gặp cây cầu, với tất cả những nét tầm thường được khám phá, hẳn Tường vẫn còn bị che lấp bởi chính mơ ước của mình. Sự vong thân đau đớn đó đã kéo dài hơn hai chục năm... Tường nhắm mắt lại khi xe chạy qua nhịp cuối cùng của cây cầu.
– Nghĩ gì vậy?
Hoàng ngưng xe trên đường Market, hỏi Tường.
– Chẳng có gì cả, vẩn vơ về cây cầu Golden Gate.
– Golden Gate?
– Phải. Một cái cầu bình thường nếu không gọi là tầm thường như hàng vạn cây cầu khác.
– Biết tầm thường thì nghĩ làm gì?
Vĩnh chen vào khi Tường đóng mạnh cửa xe. Nói thế nào để tụi nó hiểu được cái vẩn vơ này bắt nguồn từ giấc mơ kéo dài hơn hai mươi năm. Hẳn lại phải kể câu chuyện từ năm đệ lục để cuối cùng ba đứa bạn này sẽ phát biểu ba câu khác nhau, theo cách thế suy nghĩ riêng lẻ của từng đứa. Và cả ba câu đó chắc chắn sẽ làm anh bực mình thêm. Bất giác Tường thèm có Nhu bên cạnh lúc này. Nàng sẽ hiểu và chia xẻ với anh những ý tưởng cần thiết. Tường tin thế.
Họ đi dọc theo đường Market. Chiều đã xuống, những hạt nắng vàng vọt chỉ còn bám trên các cao ốc của thành phố. Gió lạnh và mạnh hơn, không khí như một chiều của Ðà Lạt. Ðèn hai bên phố đã bật. Những chớp đèn xanh đỏ lấp lánh trên từng bảng hiệu trông đến rối mắt. Cảnh sống của đêm của một thành phố Mỹ đã bắt đầu. Hé mở sự trụy lạc và nét quyến rũ qua âm thanh và phong cách sống. Ðêm San Francisco khởi từ giờ phút này như vòng tay của loài bạch tuộc uốn éo ôm chặt lấy loài người. Và con người, trong không khí này đột nhiên đổi khác. Thả lỏng hơn, phóng túng hơn để hòa nhập.
Quán khoác chiếc sắc tay lên vai.
– Nhộn nhịp quá anh hả.
– Nhộn nhịp thật!
Cả Vĩnh và Hoàng đồng trả lời một lúc. Tường quay lại nhìn vào mặt hai thằng bạn. Hoàng ngạc nhiên và Vĩnh ngượng ngập. Vĩnh lắp bắp, thái độ thiếu tự nhiên.
– Tổ chức... ở... đâu... hả...
– Trên đường Sansome, trước cửa tòa lãnh sự Anh. Ngay ngã ba đó... Thấy không, có cắm cờ kìa.
Hoàng vừa nói vừa đưa tay chỉ về phía trước. Quán la lên.
– Ờ... cờ nước mình kìa.
Tường nhìn theo, giữa thảm cỏ của thềm xi măng để ngăn giữa đường, một lá cờ Việt Nam được cắm đang bay trong gió. Trong cảnh chiều của thành phố San Francisco lá cờ hiện lên như một thực trạng cô đơn và lạc loài. Màu vàng úa trong không gian thẫm và ba sọc đỏ trông từ xa như lẫn vào nhau thành một vệt nâu nhạt cong queo. Tường chợt thấy khó chịu vì cảnh vừa nhìn thấy. Hai bàn tay đột nhiên thừa thãi và trống trải, anh lóng ngóng đi theo Vĩnh, Hoàng và Quán. Cả ba đứa đều xăm xăm đi trước với từng câu nói ngắt quãng thoáng vào tai anh. Giữa hè đường, Tường cũng lạc loài như lá cờ đang cắm.
Càng đến gần ngã ba thì quang cảnh nơi tổ chức biểu tình và tuyệt thực để đối kháng của sinh viên càng hiện rõ. Những biểu ngữ được căng lên từ khoảng trống của một nền xi măng, nằm đối diện với tòa lãnh sự Anh Quốc đang đóng cửa im lìm. Từng nhóm người tụ tập, đứng ngồi lố nhố thành một đám đông, trộn lẫn nhau như một toàn thể đang thực hiện ý niệm đối kháng với những người đang quyết định số phận thuyền nhân. Rải rác nhưng đồng nhất. Câm lặng nhưng mãnh liệt. Những con người Việt Nam đang hướng về phía trước mặt, nơi tòa lãnh sự Anh Quốc đóng cửa như thế giới đang im tiếng trước khát vọng tìm tự do của những người ra đi muộn màng. Sự trái ngược của hai bên được ngăn bằng con đường Sonsome với giòng xe cộ đang di chuyển như giòng sống của loài người đang tiếp diễn từng phút, từng giờ trên trái đất. Ba hình ảnh của một nơi chốn đập vào mắt Tường những cảm xúc thật bất ngờ.
Như một mầm mống gieo ý sống cho khát vọng tự do, những người biểu tình đang đối diện với khoảng núi câm nín là tòa cao ốc đóng cửa im lìm, từ chối những con người đã sẵn sàng làm lại đời mình từ đầu. Và giòng sống hờ hững trôi quanh giữa hai điều đối nghịch đó. Văn minh và tình người đã bị cắt đôi bởi giòng sống. Tường nao nao theo ba người bạn đến sát đám biểu tình.
Bây giờ những khuôn mặt đã hiện rõ nét. Ða số còn rất trẻ, trên dưới hai mươi, còn lại là những người lớn tuổi hơn. Sự khác biệt về tuổi tác chỉ là bề ngoài. Tường tìm thấy nơi những người đang tham dự một nét chung được biểu hiện qua thái độ, ánh mắt, lời nói hoặc nụ cười... Có một điều gì đó như là sự phẫn nộ ẩn hiện nơi họ. Sự phẫn nộ cần thiết cho lòng nhân của loài người. Và gần hơn nữa là tình máu mủ, ruột thịt của những con người cùng màu da và tiếng nói.
Ba người bạn đã lẫn vào đám người biểu tình. Tường đứng dưới một tấm biểu ngữ được viết bằng tiếng Anh, có nội dung đòi hỏi quyền được bảo vệ cho những thuyền nhân. Ba người thanh niên tiến về phía Tường đó là một người con trai và hai cô gái. Tường nhận ra một trong hai cô gái là Ðoan.
– Anh cũng đến?
Lại bắt đầu bằng chữ cũng kỳ cục. Tường gượng cười sau lời giới thiệu của Ðoan với hai người bạn. Ðoan vẫn hồn nhiên và xinh xắn dù trong bộ quần áo giản dị. Một chiếc áo khoác màu trắng phủ lên màu xanh của cái quần Jean.
– Nhu có lên không em?
– Bố mẹ không cho đi. Chị Nhu ở nhà là phải. Ðang bịnh mà.
– Em đến đây từ bao giờ?
– Mới sáng nay, lát nữa anh Hải đón em về.
Cô bạn gái của Ðoan đứng phía sau chợt mỉm cười. Tường liên tưởng đến câu nói của Nhu: “Dạo này Ðoan và Hải có vẻ thân nhau hơn.” Người thanh niên đi cùng Ðoan trạc ngoài hai mươi, dáng khỏe mạnh và cương quyết với nét mặt cứng cỏi. Một vòng ruban vải được quấn trên trán anh ta với hàng chữ “hunger– strike” viết bằng mực đỏ làm khuôn mặt trở nên hung dữ hơn.
– Anh làm báo ạ?
Câu nói lễ phép của người thanh niên khác hẳn với dáng vẻ khiến Tường ngạc nhiên. Anh nói tên tòa soạn tờ báo đang làm, người thanh niên có vẻ vui.
– Em có đọc báo của anh.
Tường nói tiếng cám ơn, người thanh niên đột nhiên tỏ ra thân mật hơn.
– Mấy bữa nay cũng có nhiều báo đến lắm.
– Vậy hả.
Người thanh niên kể một loạt tên của các tờ báo trong vùng và tên những người cầm viết thuộc các vùng San Jose, Oakland, Sacramento, San Francisco... Tường ậm ừ vài tiếng rồi xoay sang phía Ðoan.
– Hải dạo này thế nào?
Mặt Ðoan hơi đỏ. Cô gái lí nhí trả lời những tiếng gì đó không rõ trong miệng. Nét thẹn thùng làm Ðoan đẹp hơn. Tường nhìn sang cô bạn của Ðoan, người con gái tóc dài, xinh xắn với cánh môi nhỏ và sóng mũi thanh tú. Lại một cô sinh viên có nhan sắc tại đây. Bất giác anh nhớ đến lần nói chuyện với một người bạn già, cả hai đều công nhận một điều: chỉ có những cô gái... thiếu nhan sắc mới thích văn nghệ và hoạt động, còn lại các cô đẹp thì giờ đi chơi, đi shopping chưa đủ lấy gì mà dính vào những việc này. Sai bét! Ít nhất là hôm nay, với Ðoan và cô bạn. Tường bật cười một mình, Ðoan ngạc nhiên.
– Gì thế anh?
Tường kể lại ý nghĩ vừa rồi. Ðoan bỉu môi.
– Ðâu đúng vậy, mấy anh chỉ vơ đũa cả nắm.
– Ừ thì bọn anh sai.
– Sai là các chắc. Do lòng của từng người chứ đâu phải như anh nói, anh đừng... xuyên tạc hành động của người khác.
Cô bạn Ðoan chen vào, đôi mắt như có nét cười cợt.
– Anh thấy không, nhỏ Ðoan đẹp như vầy...
Người thanh niên buột miệng.
– Cả em nữa.
Hai cô gái phá ra cười. Tường và người thanh niên cười theo. Những nụ cười hồn nhiên của ba người thanh niên đang tham dự vào lần đấu tranh này làm Tường phải suy nghĩ. Họ trong sạch và thẳng thắn trong cuộc sống và hành động. Hiểu rõ ràng việc đang làm và can đảm theo đuổi, tham dự.
– Anh sang đây một tí.
Ðoan kéo Tường đi về phía đám đông. Dưới những hàng biểu ngữ là từng nhóm người đứng ngồi lẫn lộn. Họ đủ loại tuổi. Có những khuôn mặt rạng rỡ của tuổi hai mươi xen lẫn những khuôn mặt đăm chiêu của người lớn tuổi. Có những ánh mắt hồn nhiên, tươi sáng chen giữa những ánh mắt đăm đăm âu lo... Nhưng tất cả đều ẩn hiện một tia lửa phẫn kích của tình thương yêu. Ðoan chỉ một nhóm người ngồi dưới đất, phía sau dãy bàn đầy ắp thư, truyền đơn, chương trình trên mặt.
– Ðây là những anh chị em tuyệt thực hôm nay. Bọn em thay phiên nhau để tỏ thái độ.
Một vài ánh mắt ném về phía Tường. Ðoan giới thiệu Tường với những người quen. Anh ngồi xuống cạnh họ. Một phụ nữ ngoài ba mươi gật đầu sau câu chào rồi bắt chuyện thật tự nhiên. Thái độ như đã công nhận Tường là một người cùng đến vì mục đích chung. Nửa cảm động, nửa xấu hổ anh theo dõi những điều do chị ta kể. Cuộc tuyệt thực, đối kháng đã gây được tiếng vang đáng kể, một thành quả để bắt đầu cho hội nghị tỵ nạn tại Geneva sắp đến. Những câu nói của chị phụ nữ loáng thoáng qua tai. Tường chăm chăm nhìn vào nét mặt của những người đang tham dự buổi tuyệt thực. Tất cả đều bình thản và lạc quan. Một lần nữa anh hiểu họ hiểu rõ chính việc họ đang làm. Một việc làm tưởng như lạc lõng giữa cuộc sống Mỹ.
Chiều đã hết, nắng đã không còn vương trên các cao ốc. Bây giờ là màu đêm đang phủ khắp và không gian rực ánh đèn đủ màu của một thành phố ăn chơi đã vào đêm. Ðám sinh viên biểu tình chợt thành một nhỏ nhoi và lọt thõm vào không khí chung. Sự câm lặng đối kháng của họ chỉ còn trong tấm lòng và trui cứng thành một khối giữa sự hờ hững của đời sống bao quanh. Như viên ngọc lẻ loi giữa đám đất cát hỗn độn. Như những đốm lửa nhỏ bé đầy tình người giữa đêm văn minh quá mức. Như tiếng kêu thét của trái tim người giữa ngăn kéo đông lạnh toàn thể của xứ Mỹ. Giữa những người sinh viên này và cuộc sống chung quanh đột nhiên có khoảng cách. Họ lầm lũi theo đuổi con đường do chính họ chọn lựa, không một điều gì cưỡng bách hay dẫn dụ từ bên ngoài. Chỉ xuất phát từ tấm lòng của những con người nghĩ về con người. Tuổi trẻ thật đẹp ở khắp mọi nơi và bất cứ thời gian nào.
Bây giờ đã có những ánh lửa được đốt lên. Mắt mọi người đều có ánh long lanh ẩn hiện. Tường đứng dậy khi chị phụ nữ vừa nói chuyện xong. Ðoan nói khi ánh lửa làm hai má cô bé hồng hơn.
– Anh thấy sao?
– Anh nhớ đến những lần đi trại CPS ngày xưa.
– CPS là gì hả anh?
– Là chương trình phát triển sinh hoạt học đường, một tổ chức cho sinh viên, học sinh ngày xưa. Cũng có những buổi trại, những đêm không ngủ nhưng không được bọn em hiện nay.
– Em không hiểu.
– Ða số bọn anh tham gia trại vì ham vui. Cũng lửa đốt lên, cũng ca hát, cũng hội thảo này nọ... nhưng đến vì nhiều lý do khác nhau lắm.
Ðoan ngạc nhiên ra mặt. Cô bạn gái của Ðoan lắc đầu.
– Hồi đó bọn em còn bé quá, chẳng biết gì cả.
– Bấy giờ bọn anh cũng bằng em bây giờ hay có thể bé hơn nữa không chừng. Ða số đến vì ham vui, ưa hoạt động và tìm cuộc sống thiên nhiên sau thời gian ở thành phố. Còn một số đến vì lý do... tình yêu!
Hai cô gái ré lên cười. Tường gật đầu.
– Tất nhiên không phải ai cũng vậy, nhưng có người này người kia. Những buổi trại, những đêm không ngủ còn là nơi hẹn hò của những người yêu nhau. Như một thứ picnic tình cảm đó mà.
Cô bạn Ðoan nói trong tiếng cười.
– Anh giễu quá.
– Sự thật là vậy.
– Bọn em không phải vậy đâu... kể cả nhỏ Ðoan do anh Hải đưa đến và đón về.
Ðoan đập lên vai bạn.
– Nói gì vậy?
– Nói vậy chứ sao? Ðừng bẻ cong ý nghĩ của người ta. Có tật giật mình chứ chẳng ai chen vào đời sống tình cảm người khác đâu mà lo.
Người thanh niên lắc đầu trước sự hồn nhiên của hai cô gái, anh ta xoay sang phía Tường.
– Anh nghĩ sao?
– Sao là sao?
Người thanh niên nhún vai. Tường thấy ngượng vì câu hỏi kỳ cục của mình. Giữa anh và những người trẻ tuổi này có khoảng cách xa lắm. Tường chợt thèm sống lại tuổi hai mươi để được làm những điều đã không làm trong thời gian đó.
*
Vĩnh, Hoàng, Quán quay lại với hai người đàn ông lạ mặt. Một già, một trạc tuổi Tường. Sau lời giới thiệu, anh nhận ra đó là hai trong những cây bút của vùng này. Bài họ viết thỉnh thoảng Tường được đọc trên các báo với cái tên có kèm theo chức vụ của một hội đoàn trong vùng. Thật tình là Tường không thích lắm bởi những các “mác” kèm theo trong những bài viết. Anh gật đầu chào, hai người đàn ông và Hoàng tiếp tục câu chuyện đang bỏ giở. Lại những câu nói với những từ ngữ bốc lửa mà Hoàng thường dùng. Tường ngán ngẩm lui lại một bước, cái vòng tròn giữa những con người đang nói chuyện hụt mất một khoảng. Hoàng và hai người đàn ông hăng hái nói. Người thanh niên, Vĩnh, Ðoan và cô gái im lặng nghe. Quán thỉnh thoảng góp thêm một câu. Tất cả làm thành một vòng tròn với lối đối thoại gạt Tường ra ngoài.
Người đàn ông trẻ là nhà văn kiêm phó chủ tịch một hội đoàn đang hăng hái nói về những biến chuyển của tình hình thế giới. Y nói lưu loát như đang “đăng đàn thuyết pháp”. Những câu nói với đủ thứ từ ngữ to lớn được tuôn ra dễ dãi từ cái miệng liến láu. Hùng hồn, hấp dẫn và đầy cảm hứng như đang đứng trước đám đông hàng ngàn người. Y dẫn dắt câu chuyện thật khéo léo, từ buổi tuyệt thực đối kháng của những người trẻ được lái sang quan điểm chính trị. Tường ngạc nhiên nhìn cái miệng với cặp môi mỏng. Phải chi hắn viết được như những điều đang nói thì đỡ biết mấy.
Ông nhà văn già cũng kiêm chủ tịch một hội đoàn thỉnh thoảng góp thêm một câu. Ðại loại cũng cùng một ý với gã nhà văn đang nói. Những người trẻ tuổi bị cuốn vào câu chuyện mà không ngờ được. Bây giờ thì hành động đối kháng đầy lòng nhân đã biến thành hành động có xu hướng chính trị đàng hoàng. Ông nhà văn trẻ đã khoác vòng hoa đấu tranh lên cổ những người thanh niên. Tường chợt thấy ngứa trong mồm và thèm được chửi thề. Những trò chơi chó đẻ dành cho tuổi trẻ đang bị lập lại tại đây. Bầy diều – hâu – bịnh – hoạn – công – danh đang thỏa mãn mặc cảm bằng cách bám vào quá khứ để đè tuổi trẻ xuống gắn huy chương với ảo tưởng lãnh tụ.
Tường kéo tay Ðoan.
– Ðoan sang đây với anh một tí.
Ðoan giật mình như vừa rời khỏi cơn mộng nào đó, cô bé đỏ mặt theo Tường về phía đám đông đang ngồi dưới các tấm bích chương. Cái vòng tròn bị hụt mất hai góc. Như một miệng cống bị khuyết hai lỗ và nước cống đang tuôn ra ngoài. Tường nói ý nghĩ này với Ðoan. Cô bé cười cười.
– Anh lại phẫn nữa.
Tường gật đầu.
– Có lẽ phẫn thật, nhưng chả sao. Anh vẫn bị dị ứng với những loại người này từ hồi còn nhỏ. Mẹ kiếp!
– Anh lại chửi thề... Em mách chị Nhu cho coi.
– Ừ thì không chửi nữa, nhưng quả tình là anh bực bội. Tuổi trẻ của bọn anh bị lạc hướng bởi những tên phù thủy bẩn thỉu. Cả một thế hệ vỡ nát, không lý tưởng, lặn ngụp trong cái hoang mang để tìm hướng đi cho chính mình. Rơi vào đủ thứ hố khốn nạn, hiện sinh có, chém giết có, phản chiến có... chẳng đâu vào đâu cả. Vỡ nát hết khi bọn lãnh tụ đăng đàn thuyết pháp với cặp kính đen... Ðã gần hai mươi năm không ngờ trò này vẫn còn ở đây.
– Em thấy đâu có gì?
Tường thở dài đứng lại trước một tấm bảng dán đầy hình ảnh của đồng bào tỵ nạn ở trại cấm Hồng Kông. Ðoan đứng cạnh, đôi mắt mở to. Ngạc nhiên và ngây thơ. Hệt như mắt bọn Tường những năm nhìn vào các lãnh tụ sinh viên nói chuyện. Tuổi trẻ chỉ có nhiệt tình và lòng yêu thương chân thật để hành động. Và khi hành động, họ vẫn bằng cái nhìn thẳng về phía trước mà không chờ đợi những vòng hoa của kẻ khác choàng vào. Chỉ vỏn vẹn niềm tin trong sáng. Tường nhìn quanh, những người sinh viên vẫn trong thái độ đã có. Bất giác anh nhớ đến nét mặt của những người trẻ ở Thiên An Môn được xem qua báo chí, truyền hình. Có nét chung giữa những con người này. Thứ nét chung mà Tường đã đánh mất.
– Em không hiểu đâu Ðoan ạ!
– Thì anh nói đi.
– Này nhé, anh hỏi Ðoan, tại sao Ðoan lại đến đây, tham dự với mọi người.
– Em thương đồng bào của mình đang bị đe dọa trả về Việt Nam. Mục tiêu là lần hội nghị về thuyền nhân ở Geneva sắp tới.
– Còn gì không?
Ðoan lắc đầu.
– Còn gì đâu anh... mà đâu phải mình em nghĩ vậy. Bạn bè em đứa nào cũng thế. Ðâu có gì sai phải không anh?
Tường mỉm cười.
– Thì đâu có gì sai? Ðoan và các bạn khởi đầu việc làm đầy lòng nhân, tuy hành động có mang theo ít nhiều xu hướng chính trị nhưng tất cả đâu nghĩ đến điều này phải không?
– Vâng.
– Nhưng theo lời ông nhà văn hồi nãy thì sao?
Ðoan ngẫm nghĩ một lúc rồi gật gù.
– Em hiểu rồi.
– Giỏi lắm. Ðó là điều anh muốn nói với Ðoan. Tuổi trẻ thật đẹp và thẳng thắn trong hành động, nhưng bọn phù thủy thì luôn luôn muốn bẻ cong mọi việc để được xưng danh lãnh tụ khi trao vòng hoa.
– Hồi xưa anh cũng bị...
Tường không trả lời, đưa tay chỉ vào một tấm ảnh. Cặp mắt của hai đứa bé trong ảnh mở to đầy nét hoang mang và buồn bã. Phía trước mặt là những đường kẽm gai bị chụp mờ nhạt.
– Thế hệ thứ ba tại hải ngoại là đây.
– Em hiểu.
Gió trở lạnh hơn trong đêm của San Francisco đang rực rỡ. Ánh đèn từ các cao ốc tỏa ra làm sáng rực con đường. Những ánh lửa của đám người biểu tình thật nhỏ nhoi và cô đơn. Tường kéo cao cổ áo. Ðoan hỏi.
– Anh lạnh?
– Em không lạnh?
– Không, anh có vẻ yếu... giống hệt chị Nhu vậy. Bịnh hoài...
– Mấy tuần rồi anh không gặp Nhu. Bố mẹ khỏe chứ em?
– Vẫn khỏe và vẫn la chị Nhu khi gọi điện thoại cho anh.
– Em biết hết?
– Chị Nhu kể cho em nghe hết... và có lần phải nhờ em gọi cho anh, anh không nhớ sao?
– !!!
– Anh khờ lắm! Anh chẳng hiểu chị Nhu tí nào cả. Nhiều lúc anh thật khôn, nhiều lúc anh thật khờ... Buồn cười lắm...
Ðoan lắc đầu. Từ phía đám đông có tiếng gọi, Ðoan vẫn trong cái cười giễu cợt bỏ đi sau câu nói.
– Anh còn khờ hơn em và chị Nhu nữa.