Cha tuyên úy đến vào lúc trời chập choạng tối. Họ đã mang xúp lên rồi sau đó dọn dẹp chén bát, và tôi đang nằm lặng ngắm từng dãy giường và đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Những ngọn cây sẽ lay động theo làn gió chiều. Gió thổi qua cửa sổ và trời về chiều mát mẻ. Ruồi đang bám đầy ở trần nhà, trên bóng đèn rủ xuống, ở đầu dây đèn, người ta chỉ bật đèn lên khi cần mang thương binh tới hay làm việc gì khác. Điều ấy làm cho tôi thích thú mỗi khi đêm đến theo sau hoàng hôn. Cảm giác này giống như thức cảm giác được người ta mang mình vào giường sau buổi ăn tối. Y tá tiến lại những dãy giường rồi ngừng lại. Có ai đi theo sau anh ta. Đó là cha tuyên úy. Ông dừng lại, người nhỏ bé, khuôn mặt sạm nâu, cử chỉ bối rối.
- Anh có mạnh không? - Ông hỏi tôi và để mấy gói đồ xuống cạnh giường.
- Thưa cha, tôi vẫn khỏe.
Ông ngồi xuống chiếc ghế mà khi nãy Rinaldi ngồi rồi đưa mắt bối rối nhìn qua cửa sổ. Tôi nhận thấy khuôn mặt ông có vẻ mệt mỏi chán chường.
- Tôi chỉ ở lại đây được một tí thôi - Ông bảo - Muộn rồi.
- Chưa muộn đâu ạ. Họ vẫn còn trêu cha trong bữa ăn nữa không?
Ông mỉm cười.
- Tôi vẫn là đề tài cho họ đùa cợt. - Giọng nói nghe mệt mỏi làm sao - Nhờ trời họ vẫn khỏe mạnh cả. Thấy anh bình yên tôi mừng lắm. Mong rằng anh không đau đớn nhiều.
Trông ông có vẻ mệt mỏi lạ và từ trước tôi không hề trông thấy thế bao giờ. Tôi nói :
- Không, không, bây giờ tôi không thấy đau ạ.
- Trong bữa ăn, chúng tôi nhớ anh nhiều.
- Tôi mong chóng mạnh lại để còn có thể dự bữa ăn chung. Tôi luôn luôn thích được nghe cha nói chuyện.
- Tôi có mang cho anh vài món lặt vặt - Ông vừa nói vừa xách những gói đồ lên - Đây là cái màn, còn đây là chai rượu Vermouth. Anh thích chứ? Còn đây là báo chí Anh.
- Xin cha mở hộ.
Ông có vẻ rất hài lòng. Ông mở mấy gói đồ ra. Tôi cầm chiếc mùng trên tay. Ông giơ chai Vermouth lên cho tôi xem rồi đặt xuống cạnh giường. Tôi cầm lên một tập báo Anh. Tôi có thể đọc tên tờ báo khi quay ra ánh sáng nhờ nhờ ở cửa sổ. Đó là tờ Tin tức thế giới.
- Những tờ kia có hình ảnh - Ông nói.
- Còn gì sung sướng cho bằng được đọc những tờ báo này. Ở đâu mà cha có được?
- Tôi cử người về lấy ở Mestre. Tôi sẽ xin thêm nữa.
- Cha đến thăm, thật quý hóa quá. Xin mời cha một ly Vermouth nhé.
- Không, cám ơn anh. Anh nên giữ lấy để mà uống, của anh đấy.
- Không, cha uống với tôi một ly.
- Thôi được rồi. Tôi sẽ mang thêm vào cho anh.
Y tá mang ly tới và mở chai Vermouth. Anh ta làm gẫy nút chai nửa chừng cho nên phải đẩy phần nút chai còn lại vào trong chai. Tôi thấy vị linh mục không được hài lòng nhưng ông nói :
- Thôi cũng được. Chẳng sao cả.
- Xin uống mừng sức khỏe của cha.
- Cầu cho anh chóng bình phục.
Cha tuyên úy nâng ly và chúng tôi nhìn nhau. Chúng tôi đã từng đàm đạo với nhau rất tương đắc nhưng đêm nay nghe chừng khó khăn làm sao.
- Có việc gì thế cha? Trông cha mệt mỏi quá.
- Tôi mệt mỏi, nhưng thực ra tôi không có quyền làm như thế.
- Có lẽ tại trời nóng.
- Không, bây giờ mới mùa xuân. Tôi thấy buồn chán quá.
- Cha buồn vô cớ?
- Không mà, tôi ghét chiến tranh.
- Tôi cũng chẳng ưa gì - Tôi nói.
Ông lắc đầu nhìn ra cửa sổ.
- Anh đừng để ý đến chuyện đó. Anh không thấy rõ nó. Chết, xin lỗi, tôi biết là anh bị thương.
- Chẳng qua đó chỉ là một tai nạn.
- Dù cho có bị thương anh cũng không thấy rõ chiến tranh. Tôi đoán chắc thôi. Chính tôi cũng không thấy cái tai hại của nó. Nhưng tôi thấy được... đôi điều.
- Lúc trước khi tôi bị thương, chúng tôi có đề cập đến vấn đề đó. Passini có nói đến điều ấy.
Cha tuyên úy đặt ly xuống. Ông nghĩ ngợi sang chuyện khác.
- Tôi hiểu bọn họ vì tôi cũng giống như họ - Ông nói.
- Dù sao cha cũng khác họ chứ.
- Nhưng thật ra tôi cũng giống như họ mà thôi.
- Bọn sĩ quan không hiểu gì cả.
- Có một vài người thấy được. Có vài người tế nhị và cảm thấy khốn khổ hơn cả chúng ta nữa.
- Đa số không giống thế.
- Đó không phải là do giáo dục hoặc tiền bạc nhưng vì một cái gì đó khác hơn. Dù rằng họ có giáo dục và tiền bạc đi nữa thì những người như Passini đâu có ao ước trở thành một sĩ quan. Tôi cũng thế.
- Nhưng cha cũng được coi là một sĩ quan. Tôi cũng là một sĩ quan.
- Thật ra tôi không phải thế. Anh cũng không phải là một người Ý chính cống nữa. Anh là một người ngoại quốc. Nhưng tâm hồn anh gần sĩ quan hơn gần con người.
- Khác nhau ở chỗ nào?
- Tôi cũng khó diễn tả được. Có nhiều người là du kích. Trong nước này có rất nhiều người như thế. Nhiều người khác lại giống họ.
- Những người du kích sẽ bước những người khia chiến đấu.
- Đúng thế.
- Và tôi sẽ giúp họ.
- Anh là người ngoại quốc. Anh là người yêu nước.
- Còn những người chống chiến tranh? Liệu họ có thể làm cho chiến tranh ngưng lại được không?
- Tôi cũng không hiểu được.
Ông lại nhìn ra cửa sổ. Tôi ngắm khuôn mặt ông.
- Có khi nào họ đầy đủ khả năng để chận đứng chiến tranh không?
- Họ không được tổ chức ngăn chặn mọi việc, nhưng khi họ được tổ chức rồi thì những người lãnh đạo lại phản bội họ.
- Vậy thì không có hy vọng à?
- Không bao giờ lại vô hy vọng. Nhưng có nhiều khi tôi không đủ sức để hy vọng. Tôi luôn cố gắng hy vọng nhưng lại chịu thua.
- Có thể chiến tranh sẽ chấm dứt?
- Tôi hy vọng như thế.
- Vậy cha sẽ làm gì khi ấy?
- Nếu tiện thì tôi sẽ trở lại Abruzzi.
Gương mặt sạm nâu của ông bỗng trở nên rạng rỡ.
- Cha yêu vùng Abruzzi đến thế cơ à?
- Vâng,rất yêu.
- Vậy khi ấy cha nên về đó.
- Tôi sẽ hạnh phúc lắm. Tôi sẽ sống mãi ở đó để yêu kính Chúa và phụng sự Ngài.
- Và người ta sẽ kính trọng cha - Tôi nói.
- Vâng, tôi sẽ được kính nể. Tại sao không chứ?
- Không có lý do gì mà không kính nể cha cả. Cha sẽ được mọi người kính nể.
- Điều đó không thành vấn đề. Nhưng ở quê hương tôi người ta nhìn nhận rằng con người phải yêu mến Chúa. Đó không phải là một chuyện đùa.
- Tôi hiểu.
Ông nhìn tôi mỉm cười.
- Anh hiểu mà lại không yêu Chúa.
- Không.
- Anh không yêu Ngài tí nào sao? - Ông hỏi.
- Đôi khi về đêm tôi còn sợ Ngài nữa là khác.
- Anh nên yêu mến Ngài.
- Tôi không yêu nhiều lắm.
- Thực đấy - Ông nói - Anh nên yêu Chúa. Những gì anh đã kể cho tôi nghe trong những đêm qua rồi, không phải là tình yêu. Đó chỉ là đam mê và dục vọng. Khi yêu, người ta ao ước được làm một cái gì cho người mình yêu. Người ta muốn hy sinh, muốn phục vụ.
- Tôi không có tình yêu.
- Rồi anh sẽ yêu. Tôi biết rồi anh sẽ yêu và khi đó anh sẽ hạnh phúc.
- Tôi hạnh phúc, lúc nào tôi cũng hạnh phúc.
- Đó là chuyện khác. Anh không hề biết tí gì về tình yêu chỉ trừ khi nào anh có yêu.
- Được rồi - Tôi bảo - Hễ khi nào yêu, tôi sẽ báo cho cha hay.
- Tôi đã ngồi lại quá lâu và nói chuyện nhiều rồi - Ông tỏ vẻ ái ngại.
- Khoan đã. Cha đừng đi vội. Cha nghĩ thế nào về tình yêu phụ nữ? Nếu thực tôi có yêu một người đàn bà nào đó thì chuyện có xảy ra như cha nói không?
- Tôi không hề biết được chuyện đó vì tôi chưa từng yêu một người đàn bà nào cả.
- Thế còn mẹ của cha?
- Dĩ nhiên là tôi phải yêu mẹ tôi rồi.
- Có phải lúc nào cha cũng yêu Chúa không?
- Ngay từ lúc tôi còn bé đến giờ.
- Thế à? - Không biết phải nói những gì tiếp nữa,tôi bảo - Cha thật là một thanh niên tốt.
- Tôi còn là một thanh niên, thế mà anh lại gọi tôi bằng cha.
- Đó là vì lễ phép thôi.
Cha mỉm cười.
- Tôi phải đi đây, nói thật đấy. Có đúng là anh không cần gì nữa không? - Ông hỏi, mắt ánh lên chút hy vọng.
- Không, chỉ để nói chuyện thôi.
- Tôi sẽ chuyển lời chào của anh trong bữa ăn chung.
- Cám ơn cha về những tặng phẩm đẹp.
- Có gì đâu.
- Cha nhớ đến thăm tôi nhé?
- Vâng, thôi chào anh - Ông vỗ nhẹ lên tay tôi.
- Chào cha - Tôi nói bằng giọng địa phương.
- Chào anh - Ông đáp lại.
Trong phòng tối om và người y tá ngồi ở chân giường đứng lên, đi ra ngoài với cha tuyên úy. Tôi rất thích ông và mong ông được trở về Abruzzi một ngày nào đó. Ở những buổi ăn chung, người ta trêu cợt ông thế mà ông vẫn tử tế với họ. Tôi nghĩ về cuộc sống ở quê hương ông, ông đã từng kể cho tôi nghe, ở Capracotta cá lội nhởn nhơ như ở hạ lưu, suối lượn qua thành phố. Ở đó người ta cấm chơi sáo ban đêm. Người ta cấm thổi sáo. Tôi hỏi tại sao. Vì ban đêm, tiếng sáo rất nguy hiểm cho các cô thiếu nữ. Nơi đó các bác nông dân đều gọi bạn là Ngài và khi bạn gặp họ, họ kính cẩn giở mũ ra chào. Cha của vị linh mục mỗi ngày đều đi lễ và thường dừng chân tại nhà các bác nông dân dùng cơm. Đó luôn luôn là điều vinh dự đôi với họ. Ở đó đôi với người ngoại quốc, khi muốn đi săn họ phải trình chứng chỉ tỏ rằng họ chưa hề bị bắt lần nào. Ở Gran Sasso D’Italia có cả gấu nữa, nhưng rất xa. Thành phố Aquila rất đẹp. Về mùa hạ, ban đêm trời mát và mùa xuân Abruzzi đẹp nhất ở Ý. Nhưng dễ chịu nhất là mùa thu, mùa săn bắn trong rừng dẻ. Chim chóc đều ăn được vì chúng ăn toàn nho. Không bao giờ bạn phải mang bữa trưa vì các bác nông dân luôn luôn lấy làm hãnh diện nếu bạn ở lại ăn ngay ở nhà họ. Nghĩ ngợi một lát, tôi ngủ thiếp đi.
Gian phòng bệnh viện dài, cửa sổ nằm về phía tay phải. Cửa ra vào ở tận đầu phòng sát với phòng băng bó. Dãy giường tôi nằm trông ra cửa sổ, và dãy giường khác đôi diện với tường. Nếu nằm nghiêng về phía trái tôi có thể thấy cửa phòng băng bó. Lại còn một cửa khác ở cuối phòng mà thỉnh thoảng khách đến thăm ra vào. Nếu có người să”p chết, người ta kéo tấm màn phủ quanh giường để khỏi trông thấy người chết. Chỉ có ghệt của bác sĩ và y tá ló ra dưới chân màn. Đôi khi người ta còn nghe cả tiếng thì thầm to nhỏ. Rồi cha tuyên úy vén màn bước ra và các y tá trở vào khiêng xác người chết ra, trên mình phủ chăn kín mít, qua giữa hai dãy giường, rồi có người đến xếp tấm màn và mang đi chỗ khác.
Sáng hôm đó thiếu tá phụ trách phòng hỏi tôi xem ngày mai có thể đi xa được không. Tôi trả lời được. Ông ta nói tiếp là sẽ chuyển tôi đi vào lúc sáng sớm. Ông bảo tốt hơn tôi nên đi bây giờ trước khi trời nóng bức.
Khi họ nhấc tôi lên khỏi giường để đưa vào phòng băng bó, tôi có thể nhìn qua cửa sổ thấy những nấm mồ mới hiện lên ngoài vườn. Một người lính ngồi ở cửa vườn. Anh đang làm những cây thánh giá và khắc lên đó tên, cấp bậc, đơn vị của người được chôn trong vườn. Cũng có khi anh giúp việc vặt trong phòng và khi rỗi rãi anh làm cho tôi cái bật lửa bằng vỏ đạn của bọn Áo. Các bác sĩ rất dễ thương và có đầy đủ khả năng. Tôi được gởi đi Milan chậm, ở đấy có việc xem xét bằng quang tuyến X tốt hơn và giải phẫu xong tôi sẽ được điều trị bằng máy. Tôi cũng rất muốn đi Milan. Họ muốn đem tất cả chúng tôi càng xa càng tốt vì tất cả các giường đều rất cần cho cuộc tấn công sắp đến.
Buổi chiều trước khi tôi rời khỏi bệnh viện mặt trận, Rinaldi cùng thiếu tá ở câu lạc bộ đến thăm tôi. Họ bảo tôi sắp được đưa vào một bệnh viện Mỹ ở Milan vừa được thành lập. Có vài đơn vị cứu thương Mỹ vừa được gởi tới đó và bệnh viện sẽ phụ trách họ cùng tất cả những người Mỹ ở Ý. Ở đội Hồng thập tự có nhiều người Mỹ. Mỹ đã tuyên chiến với Đức chứ không phải Áo. Dân Ý tin chắc rằng Mỹ sẽ tuyên chiến với Áo nên họ rất quan tâm đến tất cả những người Mỹ đến đây ngay cả trong đội quân Hồng thập tự.
Rồi Rianldi bảo :
- Đừng nói to thế, em bé, ai cũng biết cậu đã từng ở mặt trận. Ồ, em bé đáng yêu ơi, chừng em đi rồi tôi sẽ làm gì?
- Chúng ta phải lên đường - Thiếu tá bảo
Rinaldi tiếp :
- Thật buồn quá. Nghe này, tớ có tin vui cho cậu, cô tình nhân người Anh của cậu mà, cậu biết không? Cô gái người Anh mà đêm nào cậu cũng đến thăm ở bệnh viện đấy. Nàng cũng đi Milan. Có đến đấy với một người nữa và ở tại bệnh viện Mỹ. Họ chưa nhận được các nữ y tá từ Mỹ qua. Hôm nay tôi có nói chuyện với đơn vị trưởng của họ. Ở tại mặt trận có nhiều đàn bà quá. Họ gởi nhiều người trở lại hậu phương. Em thấy chuyện đó thế nào, em bé? Được không? Được chứ? Em sẽ đến sống ở một thành phố lớn, và ở đó làm nũng với cô tình nhân người Anh của em. Tại sao tôi không bị thương kia chứ?
- Biết đâu rồi anh cũng bị thương - Tôi bảo.
- Ta đi thôi - Thiếu tá bảo - Chúng tôi uống rượu làm ồn và quấy rầy Federico. Khoan đừng vội đi. Chúng tôi phải đi. Tạm biệt. Chúc may mắn đủ mọi điều nhé.
- Trở lại mau em bé nhé - Rianaldi hôn tôi - Cậu sặc mùi thuốc sát trùng. Chào em bé nhé.
- Chào anh, chúc anh đủ mọi điều.
Viên thiếu tá vỗ nhẹ vào vai tôi, rồi họ rón rén bước ra. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn say rồi lịm dần trong giấc ngủ.
Sáng hôm sau, chúng tôi rời bệnh viện đi Milan và bốn mươi tám tiếng đồng hồ sau thì tới nơi. Thật là một cuộc hành trình mệt nhọc. Chúng tôi phải tránh đường khác một lúc gân ở Mestre và trẻ con tới nhìn vào trong xe. Tôi nhờ một cậu bé đi mua hộ một chai cô nhắc nhưng cậu trở lại bảo chỉ có rượu nho thôi. Tôi đành bảo cậu cứ mua và khi cậu mang rượu ra, tôi và người bên cạnh uống say mềm rồi lăn ra ngủ cho đến khi qua Vicenza. Tôi thức dậy và nôn mửa đầy trên xe. Như thế cũng chẳng sao, vì người bên cạnh tôi đã nôn mửa nhiều lần trên xe rồi. Sau đó, tôi thấy không chịu đựng nổi cơn khát nên gọi một người lính đang đi qua lại cạnh xe lửa bảo hắn mang đến cho tôi một ly nước lạnh. Tôi đánh thức Georgetti, chàng say bên cạnh tôi, cho hắn uống một tí nước lạnh. Hắn bảo để nước lên vai cho hắn rồi tiếp tục ngủ. Người lính từ chối không nhận tiền tôi biếu và mang lại cho tôi một quả cam mềm nhũn. Tôi mút lấy nước nhả xác bã ra và nhìn người lính qua lại bên toa xe chở hàng hoá. Một lúc sau, xe lửa giật mạnh và khởi hành.
Chúng tôi đến Milan lúc sáng sớm, và người ta cho chúng tôi xuống ở ga hàng hoá. Một chiếc xe cứu thương đưa chúng tôi đến bệnh viện Mỹ. Đi xe nằm trên băng ca tôi không thể biết được là chúng tôi đi qua những nơi nào trong thành phố. Khi họ hạ cáng xuống, tôi thấy trước mặt mình là một cái chợ, một quán rượu mở cửa, có một cô gái đang quét dọn. Họ đang tưới nước lên mặt đường và hương dìu dịu của buổi sáng toả trong không khí. Họ đặt chiếc băng ca xuống và đi vào trong. Người thường trực đi ra với họ. Ông có bộ râu màu xám, đội mũ gác cổng và mặc sơ mi ngắn tay. Không thể mang băng ca lên thang máy được nên họ bàn với nhau xem có nên khiêng tôi ra khỏi băng ca. Cho lên thang máy hay chuyển cáng theo cầu thang. Tôi nằm lắng nghe họ bàn bạc với nhau. Sau cùng họ quyết định theo thang máy. Họ đỡ tôi ra.
- Nhẹ nhẹ tay - Tôi nói - Chú ý nhé.
Thang máy chứa nhiều người nên chật chội và đôi chân phải co lại làm tôi đau điếng.
- Hãy kéo thẳng chân tôi ra - Tôi bảo.
- Không thể được, thưa trung úy. Ở đây không phải là một gian phòng.
Người nói câu đó đang ôm quanh người tôi, còn tay tôi thì ôm cổ anh. Hơi thở anh phả vào mặt tôi, nồng nặc mùi tỏi và rượu.
- Chú ý kìa - Người kia nói.
- Cậu coi tớ là một thằng tồi hay sao?
- Tớ chỉ bảo cậu chú ý.
- Đã bảo chịu khó tí mà - Người giữ chân tôi nói lại.
Tôi thấy ông thường trực đóng cửa thang máy rồi cửa sắt. Ông bấm nút lầu tư. Trông ông ta có vẻ bận rộn. Chiếc thang máy đi lên từ từ.
- Nặng lắm hả? - Tôi hỏi người đàn ông nồng nặc mùi tỏi và rượu.
- Không sao - Anh đáp. Mặt anh đẫm mồ hôi và anh càu nhàu.
Chiếc thang máy lên thẳng rồi dừng lại. Người giữ chân tôi mở cửa thang máy bước ra. Chúng tôi đang ở trên bao lơn bệnh viện có nhiều cửa nắm khóa bằng đồng. Người giữ chân tôi ấn nút chuông. Chúng tôi nghe thấy tiếng chuông reo.Nhưng không có ai cả. Lúc đó ông thường trực mới xuất hiện ở đầu cầu thang.
- Họ đâu cả rồi? - Những người khiêng băng ca hỏi.
- Tôi không biết - Ông thường trực trả lời - Họ ngủ cả ở dưới kia.
- Ông bảo hộ ai đi.
Ông thường trực lại ấn chuông reo và gõ cửa đi vào. Khi ông trở ra thì có một bà đứng tuổi mang kính theo sau. Tóc bà cặp rối sắp sửa xổ tung ra. Bà mặc sắc phục y tá.
- Tôi không hiểu - Bà ta nói - Tôi không hiểu được tiếng Ý.
- Tôi nói được tiếng Anh - Tôi đáp - Họ muốn biết là đặt tôi ở đâu.
- Không có phòng nào sẵn cả. Người ta không chờ đón bệnh nhân nào cả - Bà ta vấn tóc lại và quan sát tôi với đôi mắt cận.
- Bất cứ phòng nào cũng được. Hãy tìm cho tôi một phòng trỗng].
- Phòng nào cũng trống cả - Ông thường trực nói - Ông là thương binh đầu tiên - Ông cầm chiếc mũ ở tay và nhìn bà y tá đứng tuổi.
- Nhân danh Chúa, xin hãy đem tôi vào một phòng nào đó.
Chân tôi co lại, đau đớn tăng lên. Ông thường trực mở cửa đi vào với bà có mái tóc ngả màu muối tiêu, rồi vội vã trở ra nói “Hãy theo tôi”. Họ khiêng tôi qua dãy hành lang dài đi vào một căn phòng có treo màn cẩn thận. Trong phòng có một chiếc giường, một cái tủ to có gương.Họ đặt tôi xuống giường.
- Tôi không thể trải nệm lên được - Bà ta nói - Vải nệm để trong tủ khóa rồi.
Tôi không thèm nói chuyện với bà ta nữa.
- Tiền trong túi tôi đây này - Tôi bảo ông thường trực - Ở túi áo khuy ấy - Ông thường trực lấy tiền ra. Hai người khiêng băng ca đến cạnh giường, mũ cầm tay. Tôi bảo ông thường trực - Đưa cho mỗi người năm đồng “lia”. Còn phần ông năm đồng. Giấy tờ của tôi ở túi bên kia, ông có thể lấy đưa cho bà y tá.
Mấy người khiêng băng ca giơ tay chào tôi và cám ơn.
- Chào các anh - Tôi đáp - Cám ơn nhiều lắm.
Họ chào tôi một lần nữa rồi đi ra.
- Giấy tờ này - Tôi bảo bà y tá - Có tất cả những chỉ dẫn về vết thương của tôi và phương hướng đã điều trị.
Bà cầm lấy giấy và đọc qua đôi kính. Có tất cả ba tờ giấy gấp lại.
- Tôi không biết phải làm gì đây - Bà ta nói - Tôi không thể đọc được tiếng Ý. Tôi không thể làm gì nếu không có lệnh của bác sĩ.
Bà ta liền khóc và cho tất cả giấy tờ vào túi áo choàng của bà.
- Phải ông là người Mỹ không? - Bà ta hỏi tôi với giọng nghẹn ngào.
- Phải. Bà làm ơn để giấy tờ trên bàn cạnh giường giùm tôi.
Gian phòng mát và tối mờ. Khi tôi đặt lưng xuống giường, tôi nhìn thấy chiếc gương to đặt cuối phòng nhưng không thấy được trong gương phản chiếu những gì. Ông thường trực đứng cạnh giường, mặt ông trông dễ thương và tử tế.
- Ông có thể đi được rồi - Tôi bảo ông rồi quay sang bà y tá - Bà cũng có thể đi được rồi. À tên bà là gì ạ.
- Walker.
- Thưa bà Walker, bà có thể đi được rồi8,có lẽ tôi sắp ngủ đây.
Còn lại một mình tôi trong phòng vắng. căn phòng mát mẻ và không có mùi nhà thương. Nệm cứng và dễ chịu, tôi nằm không động đậy, thở khó nhọc, và cảm thấy sung sướng vì đã bớt đau. Một lúc sau, tôi muốn lấy một ly nước. Tôi tìm cái dây chuông ở cạnh giường, tôi giật chuông nhưng chẳng ai vào cả. Tôi đành ngủ.
Khi thức giấc, tôi đưa mắt nhìn quanh. Ánh mặt trời xuyên qua tấm cửa chớp. Tôi thấy cái tủ lớn, những bức tường trơ trọi và hai cái ghế. Trong lớp băng bẩn, đôi chân tôi duỗi thẳng ra trên giường. Tôi khát nước và cố với bấm chuông. Có tiếng mở cửa, nhìn ra đó là một cô y tá. Trông nàng còn trẻ và đẹp.
- Chào cô - Tôi nói.
- Chào ông - Nàng vừa nói vừa tiến đến gần giường. - Chúng tôi không thể gọi bác sĩ được. Ông ấy đi vùng hồ Como. Chẳng ai biết có bệnh nhân tới cả. Ông bị sao thế?
- Tôi bị thương ở ống chân, bàn chân và đầu tôi bị sây sát.
- Tên ông là gì?
- Henry, Frederic Henry.
- Tôi sẽ lau rửa vết thương cho ông. Nhưng chúng tôi không thể động tới băng bó trước khi bác sĩ đến.
- Cô Barkley có ở đây không cô?
- Không, ở đây không có ai tên đó cả.
- Còn cái bà khóc khi tôi đến là ai?
Cô y tá bật cười.
- Đó là bà Walker. Bà trực đêm ấy, và lúc ông đến bà hãy còn ngái ngủ. Bà ấy không đợi ai cả.
Vừa nói chuyện nàng vừa thay quần áo cho tôi, nàng làm rất nhẹ nhàng, êm ái, khiến tôi cảm thấy dễ chịu. Chung quanh đầu tôi đều có băng, nhưng nàng rửa ở chung quanh rìa thôi.
- Ông bị thương ở đâu?
- Ở Tsonze, phía bắc Plava.
- Nơi đó ở đâu?
- Ở bờ sông Gorizia.
Tôi thấy nàng không biết tí gì về những nơi ấy cả.
- Ông có đau nhiều lắm không?
- Không, bây giờ thì đỡ đau nhiều.
Nàng cặp nhiệt độ vào miệng tôi.
- Người Ý cặp nhiệt độ dưới nách - Tôi nói.
- Đừng nói - Nàng bảo.
Nàng lấy cặp nhiệt độ ra đọc số rồi lắc.
- Bao nhiêu độ, cô?
- Tôi thiết tưởng ông không nên biết điều đó.
- Cứ nói cho tôi biết.
- Gần như là bình thường.
- Tôi không hề bị sốt. Chân tôi đầy những mảnh đạn.
- Ông muốn nói gì thế?
- Chân tôi đầy những mảnh đạn, đinh ốc cũ, lò xo và nhiều thứ nữa.
Nàng khẽ lắc đầu và mỉm cười.
- Nếu chân ông có vật lạ thì đã sưng và bị sốt.
- Được rồi - Tôi bảo - Hãy chờ xem ra sao.
Nàng đi ra khỏi phòng và trở vào với bà y tá già. Cả hai người soạn giường mà không phải nhắc tôi lên. Đó là một điều hoàn toàn mới mẻ và tôi rất thán phục.
- Ai đứng đầu bệnh viện này, cô?
- Cô Van Campen.
- Ở đây có bao nhiêu y tá cả thảy?
- Chỉ có hai chúng tôi.
- Liệu có thêm nữa không?
- Có, chúng tôi đang đợi.
- Khi nào họ đến đây?
- Tôi không biết. Ông hỏi nhiều quá mà đáng lẽ một người ốm như ông không nên.
- Tôi không đau ốm gì cả. Tôi chỉ bị thương thôi - Tôi bảo
Họ đã làm giường xong, và tôi nằm trên một tấm nệm sạch, êm và trên người tôi đắp một chiếc chăn khác nữa. Bà Walker đi ra ngoài rồi trở lại mang cho tôi cái áo ngủ. Bà mặc cho tôi, và tôi cảm thấy sạch sẽ tử tế.
- Bà tốt với tôi quá - Tôi bảo. Cô y tá Gage cười khúc khích - Cô cho tôi xin một ít nước được không? - Tôi hỏi.
- Được chứ và sau đó ông sẽ ăn điểm tâm.
- Tôi không muốn ăn điểm tâm. Cô vui lòng mở những cánh cửa ngoài ra giùm tôi được không?
Khi nãy gian phòng mờ tối nhưng lúc mở cửa ra thì tràn ngập ánh sáng. Tôi nhìn ra cửa sổ, thấy một chiếc bao lơn và a hơn là ống khói cùng những mái ngói. Phía trên mái ngói là những cụm mây trắng và bầu trời xanh thẫm.
- Cô không biết bao giờ những cô y tá khác đến đây à?
- Sao ông hỏi mãi thế? Chúng tôi săn sóc ông không tốt hay sao?
- Không, cô tốt lắm chứ.
- Ông có cần bô không?
- Có, tôi thử lựa xem.
Họ đỡ tôi dậy nhưng không được. Sau đó tôi nằm xuống và nhìn ra bao lơn.
- Bao giờ thì bác sĩ tới?
- Khi ông trở về. Chúng tôi đã gọi điện thoại đến hồ Como cho ông ấy.
- Còn bác sĩ nào khác nữa không?
- Ông ta là bác sĩ của bệnh viện này.
Cô Gage mang bình nước và ly vào. Tôi uống một hơi ba ly liền, xong họ rời khỏi phòng. Tôi nhìn ra cửa sổ một lúc rồi ngủ thiếp đi. Tôi ăn trưa và chiều hôm đó cô Van Campen, giám đốc bệnh viện đến thăm tôi. Cô người nhỏ, hay nghi ngờ, vượt quá cả cương vị của cô. Cô hỏi tôi rất nhiều và hình như thấy mất thể diện khi phục vụ trong quân đội Ý.
- Tôi có được uống rượu trong bữa ăn không? - Tôi hỏi.
- Chỉ khi nào bác sĩ cho phép mới được.
- Thế không thể có trước khi bác sĩ đến à?
- Tuyệt đối không.
- Cô có ý định mời bác sĩ tới không?
- Chúng tôi đã gọi điện thoại cho bác sĩ ở hồ Como rồi.
Cô ta đi ra và cô Gage trở vào.
- Sao ông ăn nói cộc tằn với cô Van Campen thế? - Cô vừa hỏi tôi vừa săn sóc tôi rất tài tình.
- Tôi không muốn thế, chính cô ấy đã gắt gỏng.
- Cô ấy bảo ông kiêu căng và ăn nói cộc tằn.
- Đâu. Nhưng một bệnh viện mà không có bác sĩ thì cô nghĩ sao?
- Bác sĩ sắp đến. Họ đã gọi điện thoại cho ông ta rồi.
- Ông ta làm gì ở đấy? Bơi lội à?
- Không, ông điều hành một bệnh viện nữa.
- Thế tại sao họ không mời bác sĩ khác?
- Thôi, nào hãy chịu khó. Bác sĩ sẽ đến đây bây giờ.
Tôi nhờ gọi ông thường trực, khi ông ta đến tôi nhờ ông mua hộ chai Cinzano và mấy tờ báo xuất bản buổi chiều. Ông đi mua rồi đem về cho tôi các thứ gói trong tờ báo. Ông mở gói giấy ra và theo lời tôi mở nút rồi để chai rượu nho, rượu Vermouth dưới gầm giường. Họ đi ra hết, tôi nằm lại một mình trên giường. Tôi đọc báo một lát với những tin tức mặt trận và danh sách những sĩ quan tử thương và huân chương họ được thưởng. Rồi tôi với chai rượu Cinzano ở gầm giường, cầm chai thẳng đứng để trên bụng, còn cái ly mát lạnh tôi để sát bụng. Tôi uống từng ngụm nhỏ, làm rớt cả rượu lên trên bụng và trong khi uống tôi vẫn cầm cái chai như cũ. Tôi ngắm bóng đêm trùn lên những mái ngói thành phố. Mấy con chim én bay lượn vòng quanh, tôi nhìn những con diều hâu bay lượn trên mái, vừa nhấp nháp rượu Cinzano. Cô Gage mang lên cho tôi một ly rượu bia có trứng gà. Khi cô bước vào tôi vội giấu chai Vermouth sang phía bên kia giường.
- Cô Van Campen đã cho một chút rượu Sherry vào trong đó - Nàng bảo - Ông không nên cộc cằn với cô ấy. Cô ấy không còn trẻ trung gì mà trách nhiệm bệnh viện này lại quá nặng đôi với cô. Bà Walker lại quá già, không giúp được việc gì cho cô ấy cả.
- Cô ấy là một người phụ nữ đặc biệt - Tôi bảo - Cô chuyển lời cám ơn của tôi đến cô ấy.
- Tôi sẽ mang bữa chiều lên ngay cho ông đó.
- Tốt lắm, nhưng tôi chưa thấy đói.
Cô bưng khay vào và để lên giường. Tôi cám ơn cô rồi ăn một ít. Bây giờ trời đã tối hẳn và tôi có thể thấy những tia đèn pha quét trên nền trời. Tôi ngắm một lát rồi đi ngủ. Tôi ngủ say, chỉ trừ có một lần tôi giật mình sợ hãi thức giấc, mồ hôi ướt như tắm, xong tôi cố ngủ lại và quên đi giấc mơ hãi hùng. Tôi thức dậy một lúc lâu trước khi trời sáng. Tôi nghe thấy tiếng gà gáy, từ đó tôi thức luôn cho đến sáng. Tôi mệt và đến lúc sáng hẳn thì tôi ngủ lại.
Khi tôi thức giấc, gian phòng đã tràn ngập ánh nắng. Tôi cứ ngỡ mình đã trở lại mặt trận và nằm trong giường duỗi thẳng tay chân ra. Chân tôi đau nhói. Tôi nhìn xuống đôi chân cuốn trong lần băng dơ bẩn rồi bất chợt nhận ra nơi mình đang ở. Tôi bấm nút chuông. Tiếng chuông vang lên trong hành lang. Tôi nghe thấy tiếng giày cao su. Đó là cô Gage. Trong ánh nắng chói lòa, cô trông già hơn và không còn đẹp như hôm qua.
- Chào ông, đêm hôm qua ông ngủ có ngon giấc không?
- Dạ cám ơn cô, tôi ngủ ngon giấc lắm - Tôi đáp - Tôi có thể cạo râu được không?
- Lúc nãy tôi có vào thăm ông và thấy ông ngủ với vật này bên cạnh ông đây - Nàng mở tủ cầm chai Vermouth đưa lên, rượu trong chai đã gần cạn - Tôi cũng cất luôn chai kia mà tôi đã lấy ra ở dưới gầm giường này đây - Nàng bảo - Sao ông không bảo tôi lấy cho ông một cái ly có phải hơn không?
- Tôi nghĩ có lẽ cô sẽ không cho tôi uống như thế đâu.
- Tôi sẽ để cho ông uống chút đỉnh.
- Thật cô tốt bụng quá.
- Uống lén một mình như thế không tốt. Ông không nên làm thế.
- Vâng, tôi xin nghe lời cô.
- Bạn ông, cô Barkley đã đến - Cô nói.
- Thực à?
- Vâng, nhưng tôi không thích cô ấy.
- Rồi cô sẽ thích nàng. Nàng dễ thương lắm.
Cô Gage lắc đầu.
- Tôi chắc rằng nàng phải đẹp lắm. Xin ông nhích qua đây một tí. Thế, được rồi. Tôi sẽ rửa ráy cho ông trước khi dùng điểm tâm.
Cô lấy khăn, xà phòng và nước ấm rửa cho tôi.
- Nhấc vai lên - Cô bảo - Tốt lắm.
- Tôi có thể cạo râu trước bữa điểm tâm được không?
- Để tôi cho bác thường trực đi gọi ông thợ cạo - Cô đi ra rồi trở vào nói - Bác ấy đã chạy ra ngoài gọi ông thợ cạo rồi. - Cô nhúng chiếc khăn đang cầm nơi tay vào chậu nước.
Bác thợ cạo bước vào trong phòng với ông thường trực. Ông ta khoảng tứ tuần, râu quai nón vểnh lên. Cô Gage đã xong bèn bước ra ngoài. Bác thợ cạo xoa xà phòng lên mặt tôi rồi bắt đầu cạo. Ông rất nghiêm trang và không hé một tiếng nào.
- Có gì lạ không? Bác có được tin tức gì không? - Tôi hỏi.
- Tin tức gì?
- Tin tức gì cũng được. Bất cứ tin gì xảy ra trong thành phố.
- Chúng ta sống trong thời chiến - Bác ta bảo - quân địch nghe ngóng ta khắp mọi nơi.
Tôi nhìn lên bác ta.
- Xin ông giữ yên cho - Bác vừa nói tiếp vừa cạo râu - Tôi không thể nói gì cả.
- Bác có chuyện gì thế? - Tôi hỏi.
- Tôi là dân Ý. Tôi không thể nào có quan hệ với quân địch được.
Tôi không gạn thêm nữa. Ông ta dở người và tối thiểu tôi đang ở dưới lưỡi dao của ông ta, thế là hơn. Có lúc tôi cố nhìn thẳng ông ta.
- Coi chừng đấy - Ông ta bảo - Lưỡi dao này sắc lắm đấy.
Khi cạo xong tôi trả tiền và tặng thêm một nửa đồng “lia”. Ông ta đưa trả lại cho tôi.
- Tôi không thể làm thế. Tôi không ở mặt trận nhưng tôi là dân Ý.
- Cút đi.
- Xin phép ông - Nói xong ông ta cuốn vội dao cạo vào trong tờ báo. Ông ta bước nhanh ra khỏi phòng để lại năm xu trên bàn.
Tôi bấm chuông gọi. Cô Gage bước vào. Tôi bảo cô :
- Xin cô vui lòng gọi hộ giùm ông thường trực.
- Có ngay.
Ông thường trực bước vào cố nén cười.
- Có phải bác thợ cạo điên không?
- Thưa trung úy không ạ. Ông ta lầm đấy, ông ta không hiểu rõ và ngỡ rằng trung úy là một sĩ quan Áo.
- Ồ hèn nào - Tôi nói.
- Ha! Ha! Ha! - Ông thường trực cười to lên - Bác ta trông buồn cười quá. Bác ta bảo nếu lúc nãy trung úy có một hành động nào bác ta sẽ... (Ông để ngón tay trỏ ngang bụng) Ha! Ha! Ha! (Ông cố nín cười) Khi tôi bảo cho hắn rõ trung úy không phải là người Áo. Ha! Ha! Ha!
- Ha! Ha! Ha! - Tôi chua chát bảo - Nếu hắn cắt cổ tôi thì buôn cười quá nhỉ? Ha! Ha! Ha!
- Không, thưa trung úy. Không, không. Hắn ta rất sợ người Áo. Ha! Ha! Ha!
- Ha! Ha! Ha! - Tôi bảo - Thôi đi ra đi.
Ông ta đi ra rồi mà tiếng cười còn vang dội hành lang. Tôi nghe tiếng chân tiến lại gần. Tôi nhìn ra cửa. Đó là Catherine Barkley.
Nàng vào phòng, đến bên giường tôi.
- Chào anh yêu - Trông nàng tươi trẻ và đẹp vô cùng. Tôi có cảm tưởng là chưa hê thấy người nào đẹp như thế này cả.
- Chào em.
Thấy mặt nàng bỗng nhiên tôi cảm thấy yêu nàng vô hạn. Tôi hoàn toàn bối rối. Nàng nhìn ra phía cửa không thấy ai bèn ngồi xuống cạnh giường và nghiêng mình hôn tôi. Tôi kéo sát người nàng xuống, hôn nàng và nghe rõ cả nhịp tim nàng đập.
- Em yêu quý - Tôi nói - Em đến đây thật tuyệt quá.
- Điều đó không khó. Nhưng ở lại lâu thì không được.
- Em phải ở lại đây. Ô, em thật là tuyệt.
Tôi say sưa ngây ngất vì nàng. Tôi không tin là nàng thật, tôi siết chặt nàng trong vòng tay.
- Không nên anh - Nàng nói - Anh chưa mạnh hẳn.
- Không, anh mạnh mà. Được mà.
- Đừng, anh chưa mạnh hẳn đâu.
- Không, anh mạnh rồi, anh mạnh rồi mà. Cứ ở lại đây với anh.
- Anh yêu em lắm ư?
- Ừ, anh yêu em thật đấy. Anh yêu điên cuồng. Anh xin em hãy ở lại đây với anh.
- Hãy lắng nghe đôi tim ta đập.
- Anh không biết tim tiếc gì hết. Anh cần em. Anh điên lên vì em đây này.
- Anh yêu em thực ư?
- Đừng hỏi mãi như thế. Này, anh xin, anh xin em, Catherine.
- Được rồi, nhưng một phút thôi nhé.
- Cũng được - Tôi nói - Đóng cửa lại.
- Đừng anh, anh không nên thế.
- Có... lại đây... Đừng nói nữa. Ôi, anh xin, lại đây!
Catherine ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường. Cửa phòng mở toang. Sự bồng bột dịu xuống, tôi cảm thấy dễ chịu hơn bao giờ hết.
- Bây giờ thì anh đã tin rằng em yêu anh rồi đấy chứ? - Nàng hỏi tôi.
- Em rất duyên dáng - Tôi nói - Em phải ở lại đây. Họ không thể đuổi em đi đâu. Anh điên lên vì yêu em.
- Chúng ta phải thận trọng. Như thế là điên rồ. Chúng ta không thể làm như thế.
- Được, ban đêm?
- Chúng ta phải thận trọng. Riêng anh, anh phải dè dặt, thận trọng trước mặt mọi người.
- Anh xin hứa với em.
- Nhớ nghe anh. Anh đáng yêu lắm. Anh yêu em lắm phải không hả anh?
- Đừng nhắc lại điều đó mãi nữa. Em không biết như thế sẽ làm anh bực mình sao?
- Em sẽ chú ý. Em không muốn làm anh bực. Em phải đi đây, anh yêu, thật đấy.
- Trở lại ngay em nhé.
- Khi nào tiện em sẽ trở lại.
- Chào em.
- Chào anh yêu quý!
Nàng đã đi xa rồi. Chúa biết là trước đây tôi không muốn yêu nàng. Trước đây tôi không muốn yêu ai cả. Nhưng Chúa biết tôi đã yêu và tôi đã nằm ở gian phòng bệnh viện Milan, mọi có vẻ diễn lại trong trí tôi, tôi cảm thấy khoan khoái và nhẹ nhàng. Một lúc sau cô Gage đi vào.
- Bác sĩ sắp đến - Cô bảo - Bác sĩ vừa gọi điện thoại từ Como về.
- Khi nào thì ông ấy đến đây?
- Chiều nay.
Từ đó đến chiều khi bác sĩ đến không có gì xảy ra. Bác sĩ người ốm yếu, thanh mảnh, trầm tĩnh vẻ bàng hoàng vì chiến tranh. Ông gắp những mảnh đạn trong đùi tôi ra một cách khéo léo và thoáng ẩn một sự gớm ghiếc. Ông dùng một loại thuốc tê tại nơi đau gọi là “tuyết”, làm cho thớ thịt cứng lại, không đau, cho đến khi dao hay kẹp lách đến vùng thịt dưới lớp bị tê. Bệnh nhân nhận thấy rõ vùng bị tê ở đâu. Một lát sau sự tinh tế tế nhị của bác sĩ cũng cạn kiệt, và ông xét thấy phải chiếu điện.
- Những kết quả thăm dò như thế không được đầy đủ - Ông nói.
Họ chiếu điện cho tôi ở tại Ospedale Maggiore. Bác sĩ chiếu điện là người hăng hái, đắc lực và vui tính. Người ta đặt bệnh nhân nằm thẳng lưng để có thể thấy những mảnh đạn lớn qua máy chiếu điện. Họ hứa sẽ gởi cho chúng tôi phim chiếu điện. Bác sĩ yêu cầu tôi viết vào sổ tay của ông tên tôi, đơn vị và vài cảm tưởng của tôi. Ông bảo những đơn vị ngoại quốc rất xấu xa, tàn bạo và khó chịu. Bọn Áo là bọn chó má. Ông hỏi tôi đã giết được bao nhiêu tên. Thức ra tôi có giết tên nào đâu, nhưng để cho ông vừa lòng tôi đành bảo là tôi đã giết rất nhiều. Cô Gage ở trong phòng với tôi. Bác sĩ choàng tay qua người nàng và bảo nàng đẹp hơn cả nữ hoàng Cleopâtre. Không biết nàng có điều gì không. Cléopâtre là nữ hoàng thưở trước của Ai Cập. Vâng đúng, cô Gage giống Cléopâtre. Chúng tôi trở về bệnh viện nhỏ trong chiếc xe Hồng thập tự và một lúc sau tôi được mang lên thang máy và đặt trở lại giường. Phim chiếu điện đến vào buổi chiều. Bác sĩ đã bảo may ra thì chiều hôm đó ông ta có thể gởi đến và ông ta đã giữ lời hứa. Catherine Barkley đưa cho tôi xem. Người ta bọc phim trong những bao đỏ. Nàng lấy ra và cầm đưa lên đèn và cả hai đứa chúng tôi đều xem.
- Cái này cho chân phải - Nàng nói rồi cho vào bao - Còn cái này bên chân trái.
- Để đó đi em - Tôi bảo - Lại đây với anh.
- Không được đâu anh - Nàng nói - Em chỉ đến một lát để đưa cho anh xem thôi.
Nàng đi ra bỏ tôi nằm đó. Buổi chiều trời nóng bức quá. Tôi mệt vì nằm mãi trên giường. Tôi gởi ông thường trực mua báo, tất cả các số báo nếu được.
Trước khi ông ta trở lại, có ba vị bác sĩ vào phòng tôi. Tôi để ý nên biết được vị bác sĩ nào tay nghề kém thì có khuynh hướng hội chẩn và nhờ sự giúp đỡ trong việc chẩn bệnh. Bác sĩ nào mà không thể mổ được ruột thừa thì sẽ giao lại cho bác sĩ nào không đủ tài sức cắt amidan. Ba vị bác sĩ này thuộc loại đó.
- Đây chàng trai trẻ đây - Vị bác sĩ trưởng có đôi bàn tay khéo léo bảo.
- Anh thấy trong người như thế nào? - Ông bác sĩ cao gầy có râu hỏi tôi.
Vị thứ ba có mang phim chiếu điện đựng trong bao đỏ lặng lẽ không nói gì.
- Có lẽ tốt hơn nên tháo băng - Ông bác sĩ có râu nói.
- Hẳn rồi, xin cô làm ơn tháo thay băng - Ông bác sĩ trưởng bảo với cô Gage.
Cô Gage tháo băng ra. Tôi nhìn xuống đôi chân của mình. Lúc ở bệnh viện mặt trận, đôi chân tôi trông giống như khúc dồi cũ. Bây giờ nó đóng vẩy cứng và đầu gối sưng to lên, tái nhợt, còn bắp chân lún xuống nhưng không có mủ.
- Sạch lắm - Vị bác sĩ bảo - Sạch lắm, tốt lắm.
- Ồ - Vị bác sĩ để râu nói còn ông bác sĩ thứ ba thì đưa mắt nhìn ông bác sĩ trưởng.
- Cử động đầu gối xem nào? - Ông bác sĩ có râu bảo.
- Tôi không thể cử động được.
- Cố thử những khớp xuống xem - Ông bác sĩ có râu bảo. Trên tay áo ông, ngoài ba sao còn có một gạch nữa, như thế có nghĩa là ông ở vào cấp bậc đại úy.
- Hẳn là thế - Bác sĩ trưởng nói rồi hai người từ từ gập nhẹ chân phải tôi lại.
- Ông làm đau chân tôi quá - Tôi bảo.
- Được, được thêm chút nữa.
- Thôi đủ rồi, đừng kéo xa thêm nữa - Tôi nói.
- Cử động được một phần - Vị đại úy quân y nói. Ông ta đứng thẳng người lên - Bác sĩ làm ơn cho tôi xem những phim chụp. Ông bác sĩ kia đưa cho ông ta một trong những phim chụp - Không, chân trái cơ.
- Chân trái đây, thưa bác sĩ.
- Đúng, tôi đang nhìn một góc khác. - Ông trả lại bản chụp và quan sát bản kia một lúc.
- Đấy bác sĩ thấy không? - Ông ta chỉ một vật lạ có hình cầu hiện rõ trong ánh sáng. Họ cùng xem xét bức chụp đó một lúc khá lâu.
- Tôi chỉ có thể nêu lên điều này - Vị đại úy quân y có râu lên tiếng - Đây chỉ là vấn đề thời gian, có thể trong ba tháng hoặc sáu tháng.
- Dĩ nhiên là phải để cho nước ở khớp xương có thì giờ tạo nên chất mới.
- Chính thế, đây chỉ là vấn đề thời gian. Dầu tận tâm đến đâu tôi cũng không thể giải phẫu một cái đầu gối như thế trước khi chỗ mảnh đạn không bị nhiễm trùng.
- Tôi đồng ý với bác sĩ.
- Sáu tháng để làm gì? - Tôi hỏi.
- Cần sáu tháng để cho chỗ mảnh đạn không bị nhiễm trùng và để cho cuộc giải phẫu hoàn toàn an toàn.
- Tôi không tin thế - Tôi nói.
- Thế anh có muốn giữ đầu gối anh lại không?
- Không - Tôi đáp.
- Sao?
- Tôi muốn cắt bỏ nó đi - Tôi trả lời - Rồi thay thế vào đó một cái móc.
- Anh muốn nói gì? Một cái móc hử?
- Hắn đùa đấy - Ông bác sĩ trưởng bảo. Ông vỗ nhẹ vào vai tôi - Hắn ta muốn giữ đầu gối lại chứ. Đó là một chàng trai dũng cảm, anh ta đã được đề nghị gắn huy chương bạc.
- Xin thành thật khen ngợi anh - Vị đại úy quân y nói. Ông ta bắt tay tôi - Tôi có thể nói nếu để mổ có kết quả tốt thì nên đợi sáu tháng trước khi mổ đầu gối. Bây giờ thì tuỳ anh, muốn có ý kiến khác cũng được.
- Cám ơn bác sĩ nhiều lắm. Tôi luôn luôn tán thành ý kiến của bác sĩ.
Vị đại úy quân y nhìn đồng hồ tay rồi bảo :
- Chúng tôi phải đi thôi. Chúc anh may mắn.
- Tạm biệt và rất cám ơn - Tôi bắt tay vị bác sĩ thứ ba rồi cả ba ra khỏi phòng
- Cô Gage - Tôi gọi cô y tá. Cô Gage đi vào phòng.
- Xin cô làm ơn cho mời bác sĩ trưởng trở lại đây một lát - Tôi nói.
Bác sĩ vào phòng, mũ cầm tay đứng cạnh giường tôi và hỏi :
- Anh muốn nói với tôi à?
- Vâng, thưa bác sĩ, tôi không thể đợi trong sáu tháng để chờ giải phẫu. Trời ơi, thưa bác sĩ, bác sĩ đã có bao giờ nằm trên giường suốt sáu tháng chưa?
- Không phải lúc nào anh cũng nằm trên giường. Thoạt tiên người ta cho anh ra tắm nắng, rồi sau đó anh có thể đi đứng với đôi nạng.
- Như thế trong suốt sáu tháng rồi mới giải phẫu phải không?
- Đó là cách chắc chắn nhất. Phải để cho các vật lạ không bị nhiễm trùng và dịch ở đầu gối được tái tạo. Có như thế thì khi mổ mới an toàn được.
- Chính bác sĩ cũng tin chắc rằng tôi phải chờ một thời gian như thế à?
- Đó là cách chắc chắn nhất.
- Ở đây ai lo việc đó?
- Một chuyên viên giải phẫu tài ba nhất Milan.
- Ông ấy là đại úy quân y bậc nhì phải không?
- Phải, nhưng ông ấy là một nhà giải phẫu đại tài.
- Tôi không muốn để cho một bác sĩ quân y hạng nhì mổ xẻ tôi. Nếu ông ta tài giỏi, ông ta đã lên hạng nhất rồi. Thưa bác sĩ, tôi biết thế nào là một bác sĩ quân y hạng nhì mà!
- Ông ấy là một nhà giải phẫu đại tài. Tôi thích ý kiến của ông ấy hơn ý kiến của những nhà giải phẫu khác mà tôi biết.
- Tôi có thể gặp một bác sĩ giải phẫu nào khác được không?
- Dĩ nhiên là được, nếu anh muốn. Còn tôi thì tôi luôn luôn theo ý kiến của bác sĩ Varella.
- Ông có thể mời một bác sĩ giải phẫu khác đến xem chân cho tôi không?
- Để tôi gọi Valentini.
- Ai thế?
- Ông là bác sĩ giải phẫu của Ospedale Maggiore.
- Thế thì tốt lắm. Tôi sẽ không quên ơn ông đâu. Xin bác sĩ hiểu giùm cho, tôi không thể nằm trên giường này suốt sáu tháng.
- Nhưng anh đâu phải nằm trên giường mãi. Thoạt tiên người ta cho anh tắm nắng rồi sau đó anh tập vài cử động cho đến khi nào không nhiễm trùng thì người ta giải phẫu cho anh.
- Nhưng tôi không thể chờ đợi sáu tháng.
Vị bác sĩ duỗi thẳng những ngón tay thon trên chiếc mũ rồi mỉm cười.
- Anh nóng lòng trở lại chiến trường đến thế cơ à?
- Tại sao không cơ chứ?
- Thế thì tốt lắm, anh thật là người có tâm hồn cao đẹp - Ông cúi xuống hôn nhẹ vào trán tôi - Tôi sẽ cho người mời Valentini. Đừng nóng nảy và tự giày vò mình nữa. Hãy bình tĩnh.
- Xin mời ông uống một tí rượu với tôi nhé.
- Không, cám ơn. Tôi không uống rượu bao giờ.
- Chỉ uống một ly thôi mà.
Tôi bấm chuông gọi ông thường trực mang đến hai ly.
- Không, không. Tôi đi đây, họ đang chờ tôi.
- Chào bác sĩ.
- Chào anh.
Hai tiếng đồng hồ sau, bác sĩ Valentini bước vào phòng. Trông ông có vẻ vội vã, ria vểnh lên. Ông mang cấp hiệu thiếu tá, gương mặt sạm nâu và ông luôn luôn tươi cười.
- Anh làm sao mà bị thương khổ sở như thế này? - Ông hỏi tôi - Đưa tôi xem phim chụp nào. Ừ ừ, phải rồi. Đúng thế. Trông anh khỏe mạnh như một con trăn. Cô gái đẹp này là ai thê? Người yêu của anh phải không? Cuộc chiến tranh này đáng ghét quá phải không? Anh có cảm giác gì không? Anh thật là con người can đảm. Tôi sẽ làm cho anh khỏe lại. Như thế này đau à? Anh bảo làm như thế này đau à? Coi bộ mấy ông bác sĩ kia thích làm anh đau lắm hử? Từ đó đến nay họ đã điều trị cho anh những gì nào. Cô gái đó nói được tiếng Ý không? Nàng phải học nói mới được. Thật là một cô gái đẹp. Tôi có thể dạy nàng học. Tôi cũng muốn thành một bệnh nhân nằm đây. Không, nhưng tôi sẽ đỡ không công cho. Liệu nàng có hiểu thế không? Nàng sẽ sanh cho anh một thằng bé con xinh xinh hoặc một con bé tóc hung hung như nàng. Được rồi, tốt lắm, được lắm. Thật là một cô gái đáng yêu! Anh hỏi xem liệu nàng có muốn dùng cơm tối với tôi không. Không, không, tôi không cướp nàng của anh đâu. Cám ơn, cám ơn cô nhiều lắm. Chỉ có thế thôi, tôi chỉ muốn biết có thế thôi - Ông ta vỗ vai tôi - Đừng có băng bó nữa.
- Ông dùng với tôi một ly rượu nhé?
- Một ly à? Được rồi. Mười ly cũng còn được. Thế rượu đâu?
- Trong tủ. Cô Barkley sẽ đi lấy rượu.
- Chúc anh mạnh khỏe. Chúc cô mạnh khoẻ. Người đâu mà đẹp thế. Tôi sẽ mang cho anh một chai cô nhắc ngon hơn thứ này. - Ông lấy tay chùi ria mép.
- Ông nghĩ xem đến bao giờ thì giải phẫu chân tôi được?
- Sáng mai. Không thể sớm hơn được. Anh phải không ăn gì cả. Đừng ăn gì hết. Người ta phải tắm sạch sẽ cho anh. Tôi sẽ căn dặn vài điều cần thiết với bà y tá già ở dưới lầu. Thôi chào anh. Sáng mai tôi sẽ gặp lại anh. Tôi sẽ mang cho anh thứ rượu cô nhắc ngon hơn loại này. Ở đây thật đầy đủ tiện nghi. Chào anh. Sáng mai sẽ gặp lại.
Ra đến cửa ông còn vẫy tay chào, bộ ria vểnh hẳn lên. Nét tươi cười hiện lên trên khuôn mặt sạm nâu của ông. Trên tay áo của ông có gắn một ngôi sao nằm trong hình vuông vì ông là thiếu tá.