Poirot ngắm nhìn mặt tiền đồ sộ của trường “Elms” một lúc rồi mới bấm chuông. Một cô thư ký nhanh nhẹn dẫn khách vào phòng làm việc của bà hiệu trưởng.
Cô Emlyn đang ngồi sau bàn, vội vã đứng dậy tiếp khách.
- Rất vui được gặp ông, ông Poirot. Tôi đã nghe nói nhiều về ông.
- Rất hân hạnh.
- Tôi nghe nói về ông là do một bà bạn thân với tôi mà chắc ông còn nhớ, cô Bulstode, nguyên hiệu trưởng trường Meadowbank.
- Cô Bulstrode thì làm sao tôi quên được.
- Phải nhận là nhờ cô ấy mà trường Meadowbank mới có uy tín như ngày nay - Cô Emlyn thở dài, nói tiếp - Các phương pháp giáo dục có xu hướng thay đổi, nhưng trường của cô vẫn giữ được ba nguyên tắc dẫn tới thành công: chất lượng, tiến bộ và truyền thống. Xin lỗi, mà ông đến đây chắc để hỏi về em Joyce Reynolds? Xưa nay hình như ông ít quan tâm những vụ án như thế này. Hay ông là người quen của gia đình nạn nhân?
- Không. Tôi đến là do yêu cầu của một người bạn, bà Oliver, bà ấy cũng có mặt trong buổi tối bi thảm đó.
- Truyện của bà Oliver rất hay, và tôi đã được gặp tác giả một đôi lần. Về vụ Joyce bị giết, rõ ràng đây là một tội ác tâm thần bệnh lý. Có phải vậy không, thưa ông?
- Không. Theo tôi, giống như nhiều vụ khác, vụ án này có lý do rõ rệt.
- Thật sao? Điều gì khiến ông nghĩ như vậy?
- Một câu nói của em Joyce. Buổi chiều trước khi chết, em nói trước nhiều người là em đã từng trông thấy một vụ giết người.
- Họ có tin em không?
- Nói chung, không tin.
- Điều đó phải thôi. Nói thật lòng, Joyce là một học sinh rất kém, nhất là nói dối như cuội, tuy nhiên cũng không thuộc loại xảo quyệt, chỉ nói cho ra vẻ ta đây mà thôi. Và tất nhiên từ lâu không ai tin những lời nó ba hoa.
- Và cô cho rằng lần này cũng chỉ là ba hoa, vô căn cứ?
- Đúng thế, nhất là bà Oliver có mặt nên em tưởng tượng ra chuyện án mạng nhằm để bà chú ý.
- Trong trường hợp ấy, có lẽ ta phải bỏ giả thiết cho rằng vụ giết Joyce là có chủ định trước.
Suy nghĩ một lát, Poirot nói thêm :
- Liệu bà có chút nghi ngờ gì giúp ta hiểu biết hơn về tính cách của hung thủ?
- Tiếc rằng không, mặc dù tôi cho là mình hiểu rõ tất cả các em học sinh có mặt tối hôm đó ở nhà bà Drake.
- Tôi xin đề cập một chuyện khác liên quan đến một nữ giáo viên của bà bị bóp cổ chết cách đây hai năm rưỡi. Tên cô ấy là Janet White, nếu tôi nhớ không lầm.
- Cô ấy hai mươi bốn tuổi, tính tình dễ xúc động. Hình như thảm kịch xảy ra một tối cô ta đi dạo một mình, nhưng tôi cho là cô ta đã hẹn hò bí mật với một ai đó, vì cô ta rất hấp dẫn với một số bạn trai. Cảnh sát đã thẩm vấn nhiều người tình nghi, nhưng không tìm ra thủ phạm.
- Thưa cô Emlyn, tôi có nhận xét là cả hai chúng ta đều chung một nguyên tắc: không tán thành tội phạm.
Cô hiệu trưởng nhìn khách hồi lâu rồi mới nói :
- Chẳng lẽ ông sợ rằng tôi nghĩ khác?
Cô ngừng lời, đắm chìm vào suy tưởng, và Poirot tôn trọng sự yên lặng ấy. Đột nhiên cô Emlyn bấm vào nút chuông :
- Tôi nghĩ ông nên gặp cô Whittaker nữa thì tốt.
Cô Emlyn để Poirot ngồi lại một mình; lát sau một phụ nữ trạc bốn mươi tuổi, tóc màu hung cắt ngắn, bước vào.
- Ông là Poirot? Cô Emlyn nói là tôi có thể giúp ông.
- Nếu cô Emlyn nghĩ thế, thì chắc là đúng. Tôi rất tin sự xét đoán của cô ấy.
- Ông quen cô hiệu trưởng của tôi lâu chưa?
- Mới vừa chiều nay.
- Vậy mà ông đã có ngay nhận xét?
- Tôi hy vọng cô sẽ khẳng định điều nhận xét ấy.
- Nếu tôi không lầm, ông đến vùng này nhằm điều tra về cái chết của em Joyce.
- Cô nói đúng. Ở cái làng nhỏ này chẳng giấu ai được điều gì... Vậy để khỏi mất thì giờ của cô, tôi xin đi thẳng vào vấn đề. Tối hôm đó, cô có mặt ở nhà bà Drake?
- Phải, nay nghĩ lại vẫn thấy kinh hoàng, không sao tin được. Tôi có mặt từ chiều. Nhiều em học sinh của tôi tham dự, tôi đến để giúp bà Drake một tay.
- Buổi liên hoan diễn ra bình thường?
- Vâng, trước khi xảy ra chuyện khủng khiếp đó, nào có ai ngờ. Mọi việc suôn sẻ, ai cũng nghĩ là thành công. Bà Drake là người có tài tổ chức, việc gì cũng chuẩn bị chu đáo, luôn bình tĩnh, chủ động. Do thường chủ trì nhiều hoạt động xã hội ở địa phương, bà có nhiều kinh nghiệm...
- Vậy mà lần này...
- Nhưng đâu có phải lỗi bà ấy, phải không ông? Ai mà biết được chuyện gì xảy ra ngoài tầm với của mình. Khi phát hiện em Joyce bị nạn, trông bà thật tội nghiệp. Mìng không gây ra, nhưng việc xảy ra trong nhà mình, ở buổi lễ do mình tổ chức, dù sao cũng mang tiếng...
- Phải, lúc đó ai mà chẳng bối rối, nhất là người chủ trì. Nhưng hôm trước, cô nhận thấy ở bà có biểu hiện gì không?
- Biểu hiện gì cơ?
- Tôi cũng không biết. Cần hỏi thì tôi cứ hỏi, xin cô thứ lỗi nếu cho là tôi vặn vẹo. Tôi cứ phải đi đến kỳ cùng, lật đi lật lại từng sự việc, từng thái độ...
Cô Whittaker gật gù tỏ vẻ thông cảm, suy nghĩ hồi lâu rồi mới nói tiếp :
- Ông đã hỏi thế, buộc tôi phải cố nhớ lại. Xem nào...
- Cô thử nhớ xem, đừng bỏ qua chi tiết nào, dù nhỏ.
- Ông hỏi thì tôi nói, chứ tôi nghĩ việc này chẳng có ý nghĩa. Có, có một lúc tôi hơi thấy làm lạ...
Poirot háo hức, chăm chú như mèo sắp vồ mồi :
- Vâng, là cái gì, cô cứ nói...
- Việc bình thường thôi, nhưng như tôi đã nói, xưa nay bà Drake rất bình tĩnh, tự chủ, làm gì cũng đàng hoàng, từ tốn, thế mà hôm ấy chả biết lúng túng thế nào, đánh rơi vỡ tan bình hoa quý đang cầm. Bình sẵn nước, nước đổ, ướt hết cả vạt áo trước.
- Ả... - Poirot không kìm được tiếng kêu vừa như ngạc nhiên, vừa như vui sướng.
- Lúc đó gần mãn cuộc. Tôi ở phòng ăn đi ra - mọi người còn đang chơi trò Snapdragon - thì gặp bà Drake từ lưng chừng cầu thang đi xuống. Và thế là sự việc xảy ra. Thấy bà thoáng nhìn vào phía trong, mặt nhớn nhác, cứ như là chợt thấy cái gì bất thường, nên giật mình đánh rơi lọ hoa.
- Bản thân cô, cô có nhìn theo hướng nhìn của bà ấy không?
- Không. Mọi việc xảy ra quá nhanh.
- Và cô chắc chắn là bà Drake đã nhìn thấy điều gì đó khiến bà phải giật mình?
- Phải. Một cánh cửa chợt mở, hoặc một người nào đó xuất hiện bất ngờ. Chuyện nhỏ thôi, nhưng đủ làm bà phân tâm trong chốc lát và đánh rơi lọ hoa đang cầm.
- Cô cũng không có cảm giác là có ai xuất hiện ở sau lưng?
- Không, nhưng có thể khi bắt gặp bà Drake và tôi, kẻ lạ mặt vội vàng rút ngay vào phòng sách? Dù sao thì bà Drake cũng kêu lên một tiếng bực mình khi để rơi lọ, và cả hai chúng tôi đều xúm vào để nhặt các mảnh vỡ. Bà kêu: “Cô xem đây. Thật tai hại!” rồi chúng tôi vun các mảnh vụn vào một góc, để sau này dọn một thể, vì bọn trẻ đã bắt đầu từ phòng ăn đi ra sau khi kết thúc trò Snapdragon.
- Bà Drake không nói gì, không nói tại sao xúc động đến mức để rơi chiếc lọ trong tay?
- Không, bà không nói gì hết.
- Nhưng rõ ràng cô trông thấy bà ấy giật mình?
- Chả nhẽ ông cho rằng tôi làm to chuyện vì một cái lọ vỡ chăng?
- Không phải thế - Vẻ suy nghĩ, Poirot nói rõ hơn - Tôi mới có dịp gặp bà Drake một lần, khi tôi cùng với bà bạn Oliver đến xem cái gọi là “hiện trường vụ án”. Thoáng qua lần gặp ấy, tôi không có cảm tưởng bà ấy là người dễ xúc động.
- Ông nói đúng, và vì vậy tôi cũng ngạc nhiên thấy bà ấy lớ ngớ như vậy.
- Cô không hỏi bà về chuyện đó?
- Chẳng có lý do gì mà hỏi. Bà chủ nhà lỡ tay đánh vỡ chiếc lọ pha lê đẹp nhất, mình là khách, không lý lại đi hỏi: “Bà làm sao vậy?”, như thế khác nào trách người ta là vụng về.
Poirot gật đầu, và cô Whittaker nói tiếp :
- Sau chuyện đó, buổi liên hoan kết thúc. Bọn trẻ cùng các bà mẹ ra về, nhưng gọi mãi không thấy Joyce đâu. Bây giờ thì ta biết cháu đã chết phía sau cánh cửa phòng sách, và ta phải cố tìm xem kẻ nào một lát trước đó đã chờ lúc phòng ngoài đông người để lẻn ra không ai biết.
- Tôi đoán là, chỉ sau khi phát hiện ra xác của Joyce thì cô mới nghĩ đến câu chuyện xảy ra ở cầu thang?
- Đúng vậy.
Cô Whittaker đứng lên, kết luận :
- Tôi không còn gì hơn để nói với ông. Những gì tôi vừa kể chẳng biết có giúp gì cho cuộc điều tra.
- Cô vừa kể một sự việc khá bất ngờ... mà cái gì chệch khỏi cái bình thường có thể có ý nghĩa quan trọng. Nếu không làm phiền, tôi muốn hỏi cô một câu... hoặc hai câu nữa.
Cô Whittaker lại ngồi xuống.
- Tôi xin nghe.
- Cô có thể nói lại thứ tự các trò chơi tối hôm đó?
- Đầu tiên là thi chổi trang trí đẹp, rồi đuổi bóng và nhảy cừu, hai trò này cốt để bọn trẻ chạy nhảy cho đã. Sau thì bọn con gái vào trong một phòng nhỏ chơi trò soi gương thần.
- Trò này chuẩn bị như thế nào?
- Rất đơn giản. Vòm cửa trên để mở, lần lượt bọn con trai nhòm qua đấy để bộ mặt mình phản vào tấm gương mà mỗi đứa con gái thay nhau cầm.
- Nhìn vào gương, họ có nhận ra bạn trai là ai không?
- Hầu hết là nhận ra, mặc dù các bộ mặt được hóa trang sơ sài như râu giả, mũi giả v.v... Tiếp đó, chuyển sang thi chạy vượt các vật cản. Rồi đến vài điệu nhảy trước giờ ăn bánh.
Để kết thúc, tất cả mọi người họp mặt để ngắm nhìn mâm nho rực lửa.
- Cô có nhớ nhìn thấy Joyce cuối cùng vào lúc nào?
- Tôi không nhớ rõ, Joyce không phải học sinh lớp tôi, nên không để ý lắm, tuy nhiên tôi nhớ có thấy em cắt bánh - à tôi còn quên trò chơi này - em cắt vụng đến nỗi bị loại ngay. Lúc đó còn khá sớm.
- Cô có thấy em đi theo ai vào trong phòng sách?
Cô Whittaker tỏ vẻ không bằng lòng, nói :
- Tất nhiên là không, nếu không tôi đã kể với ông từ đầu.
- Ta sang vấn đề khác vậy. Cô gắn bó với trường này được bao lâu?
- Đến mùa thu sau thì được sáu năm.
- Và cô dạy môn gì?
- Toán và tiếng La tinh.
- Cô còn nhớ cô Janet White cũng ở trường ta cách đây gần ba năm?
Cô Whittaker có một cử chỉ phản ứng :
- Ồ, thưa ông, chuyện đó có dính gì đến việc bây giờ!
- Ai dám khẳng định điều ấy?
- Xin lỗi, tôi không hiểu.
Poirot thầm nghĩ trong bụng: Giáo giới không thạo tin bằng các bà ngồi lê mách lẻo trong làng.
- Joyce cam đoan trước mặt mọi người rằng em đã chứng kiến một hành vi tội phạm cách đây vài năm. Cô có nghĩ là em đó muốn nói về việc cô White?
- Janet bị bóp cổ chết trong khi từ trường về nhà.
- Lúc đó cô ta đi một mình?
- Có thể là không.
- Cô Ambrose không đi cùng ư?
- Tại sao lại là cô Ambrose?
- Tôi rất muốn hỏi chuyện cô ấy. Hai cô ấy là người thế nào?
Cô Whittaker xẵng giọng :
- Hai cô bé phóng túng. Làm sao Joyce biết được? Vụ án mạng xảy ra trên con đường hẻo lánh gần rừng Quarry Wood, mà hồi ấy Joyce chỉ độ lên mười.
- Trong hai cô đó, cô nào có người yêu?
- Chuyện cũ qua rồi.
- Tội lỗi cũ, hậu quả lớn. Cô Nora Ambrose hiện ở đâu?
- Cô ta rời đây đi nhận việc mới ở miền bắc. Janet và Nora rất thân nhau, chuyện xảy ra tất nhiên gây sốc lớn cho Nora.
- Hình như Cảnh sát đành chịu, không giải quyết gì?
Cô Whittaker lắc đầu rồi đứng lên, nhìn đồng hồ :
- Xin lỗi, đến giờ tôi phải về lớp.
Hercule Poirot ngước nhìn mặt của nhà “Quarry House”, công trình tiêu biểu cho lối kiến trúc nặng nề của thời đại Victoria. Ông dễ dàng đoán ra những gì có bên trong bốn bức tường dày: những chiếc tủ to màu gụ, gắn với những bàn dài và nặng, một phòng chơi bi-a, một ngăn bếp lộng lẫy, sàn lát bóng lộn và những lò sưởi sâu hoắm nhưng bây giờ chắc đã được lắp đặt hệ thống sưởi bằng điện hoặc bằng khí đốt.
Trên tầng gác, các cửa sổ đều kéo rèm che kín.
Sau tiếng chuông của khách, một bà già gầy guộc chạy ra, thông báo rằng ông bà đại tá Wood và được biết mọi người đều có thể được tự do vào dạo chơi, không mất tiền. Cửa vào có biển đề, từ đây đi bộ năm phút là tới.
Nhà thám tử dễ dàng tìm thấy đường đã chỉ dẫn, và bước chân vào một lối đi thoai thoải xuống dốc, hai bên um tùm cây lá.
Chẳng bao lâu ông dừng lại, tâm trí sáo trộn bởi nhiều ý nghĩ mơ hồ. Đầu óc ông không chỉ tập trung vào cảnh quan xung quanh, mà vào nhiều nhận xét, nhiều chi tiết, buộc phải suy nghĩ cật lực, như ông thường nói. Một bản di chúc giả mạo... và một cô gái, chính các cô gái được lợi vì bản di chúc giả mạo. Một nghệ sĩ từ xa đến để biến đổi cái mỏ hang thàng một khu vườn đẹp như mơ... Poirot ngắm nhìn toàn cảnh bằng con mắt thám phục, gật gù vẻ hài lòng. Phong cảnh trước mắt ông không còn dấu tích gì của một bãi hoang xấu xí. Cái nhìn thấy lúc này chợt làm ông nhớ tới một quang cảnh khác. Ông biết là bà Llewllyn - Smythe đã đi Airơlen và bản thân ông đã từng ở đó vài năm trước, nhân khi điều tra một vụ án. Nhiệm vụ hoàn thành, ông đã tự cho phép thư giãn, thăm thú nơi đó vài ngày.
Poirot không còn nhớ rõ khu vườn ông đã tới thăm là ở chỗ nào, chỉ mang máng nhớ nó ở gần vịnh Bantry. Khu vườn ấy khắc sâu vào ký ức ông vì nó không giống chút nào với kiểu bố trí theo lối cổ điển mà ông vẫn thích xưa nay, những khu vườn ở Pháp như ở Versailles... Hôm ấy ông cùng một nhóm khách du lịch lên thuyền đi tới một đảo nhỏ, rất bình thường, khiến ông lúc đầu đã chán và hối tiếc vì đã trót tham gia chuyến đi. Đôi giầy da ông đi bị sũng nước, gió lạnh lại lùa vào chiếc áo tơi mưa rất khó chịu. Ở hòn đảo khô khốc sỏi đá này thì có gì mà xem. Thuyền cập bến, mọi người ùa lên vui vẻ, còn Poirot thì chán ngán theo sau, càng đi càng thất vọng.
Thế rồi, đột nhiên cây cối thưa dần nhường chỗ cho một khoảng đất trống từ đó nhìn xuống thấy một quang cảnh như mơ. Cứ như là các vị thần cổ xưa mà các thi sĩ Airơlen vẫn xưng tụng, bỗng từ trong núi hiện ra, dùng phép tiên tạo ra khu vườn mê hồn này. Cây cối, hoa lá, vòi nước róc rách, khách tham quan không thể không say đắm. Poirot đoán bà Llewllyn - Smythe hẳng cũng bị hút hồn vì khu vườn này, nên cũng muốn có một cảnh tương tự ở nơi mình ở, và đã chọn cái công trường đã bỏ hoang để tạo dựng.
Và bà đã đi tìm người nghệ sĩ có khả năng thực hiện giấc mơ đó của mình. Michael Garfield chính là người nhận làm công trình đó, tất nhiên với món tiền bồi dưỡng không nhỏ. Poirot đảo mắt nhìn khắp chung quanh: quả là nhà chuyên gia phong cảnh đã không phụ lòng người đặt hàng.
Nhà thám tử đến ngồi ở một chiếc ghế đá, lòng suy nghĩ, tự hỏi không biết những chủ nhân hiện tại của Quarry House là người thế nào. Ông biết đó là vợ chồng một đại tá hưu trí, nhưng Spencer chưa kể gì về họ. Ông có cảm tưởng họ không gắn bó với dinh cơ này lắm, như bà Llewllyn - Smythe từng gắn bó.
Poirot đứng dậy, thong thả bước theo lối đi. Mặt đất được nện bằng, nên dù liên tục phải lên dốc rồi xuống dốc, người nhiều tuổi vẫn đi lại dễ dàng, không sợ mệt. Từng quãng một lại có những ghế kiểu dân dã để bất cứ lúc nào cũng có thể ngồi nghỉ ngắm nhìn phong cảnh. Ông nghĩ bụng: nếu Michael Garfield vẫn còn ở ngôi nhà gỗ nhỏ dành riêng cho anh ta ở đấy, mình rất mong sẽ được gặp...
Đang nghĩ vậy thì ông nhận ra từ xa xa, thấp thoáng dưới những vòng lá um tùm, có bóng người. Trong khi Poirot đi tới thì người đó cũng từ rặng cây đi ra. Một chàng trai đẹp lạ lùng, tuy nhiên nhìn gần thì anh ta không hẳn trẻ: quãng từ ba mươi đến bốn mươi.
Poirot lên tiếng trước :
- Xin lỗi nếu tôi đã xâm phạm đến lãnh địa tư nhân. Tôi không phải người vùng này, mới chỉ tới ngày hôm qua.
- Ông khỏi phải xin lỗi - Giọng nói trong trẻo, nhưng thái độ lịch sự che giấu một sự hờ hững - Dù đây là đất tư, thiên hạ vẫn tự do vào chơi. Ông và bà đại tá không lấy làm phiền, miễn là khách đừng phá phách. Vả lại, chẳng ai nỡ làm vậy.
- Phải, tôi cũng không công nhận thấy dấu hiệu gì như thế. Không có giấy vương vãi, cũng chẳng cần thùng rác. Cũng hơi lạ, phải không? Nơi đây vắng vẻ, cứ tưởng phải gặp nhiều cặp tình nhân.
- Tình nhân, họ không dạo chơi ở đây. Nghe nói vườn này có ma.
- Tôi không tin! Ồ! Xin lỗi, tôi là Hercule Poirot.
- Tôi, Michael Garfield.
- Đúng như tôi đoán! Anh là tác giả tạo nên sự kỳ diệu này?
- Vâng.
- Tôi không giấu nổi sự ngạc nhiên khi thấy hòn ngọc mê hồn này được đặt giữa một cảnh quan, xin nói thật, quá nhạt nhẽo. Xin chúc mừng. Thành công này hẳn phải làm anh hài lòng?
- Có bao giờ con người có thể hoàn toàn hài lòng?
- Anh đã tạo dựng khu vườn này cho bà Llewellyn - Smythe thì phải? Và người ta nói là sau khi bà ấy chết, thì ông đại tá Weston và vợ đến ở. Họ là những người chủ mới?
- Đúng vậy. Họ đã mua cả cơ ngơi với giá rất rẻ. Nhà thì to đấy, hơi xấu nhưng khó bảo trì. Thời này ít ai muốn ôm lấy những nhà như trại lính ấy. Bà Llewellyn - Smythe đã để lại cho tôi theo di chúc.
- Và anh đã bán nó đi?
- Phải.
- Nhưng không bán vườn?
- Bán cả vườn là đằng khác.
- Sao vậy? Xin lỗi về sự tò mò.
- Ông hỏi những câu hơi khác với người khác hay hỏi.
- Tôi hỏi không phải là để biết sự việc, mà để hiểu các lý do. Ví dụ, tại sao A hành động thế này mà không thế khác? Tại sao B có thái độ ngược lại? Và vì lý do gì C lại xử sự hoàn toàn không giống A và B?
- Thế thì ông phải hỏi một nhà sinh học. Hình như đó là vấn đề tiến hóa hoặc nhiễm sắc thể gì đó.
- Anh vừa nói anh không hoàn toàn hài lòng vì không bao giờ có thể đạt điều đó. Thế còn bà khách của ông, là người đặt hàng, bà ấy có hài lòng không?
- Có, tới một chừng mực nhất định.
- Dù sao, anh đã sáng tạo ở đây một cái gì rất đẹp, kết hợp khoa học với trí tưởng tượng phong phú. Một lần nữa, xin chúc mừng. Hãy nhận lấy sự khâm phục của một cụ già sắp đến tuổi chấm dứt lao động của mình.
- Nhưng hiện nay, lúc này, vẫn đang lao động?
- Vậy ra anh biết tôi là ai?
Rõ ràng Poirot tỏ ra phởn phơ. Ông ưa được mọi người nhận ra mình.
- Ông đang dò theo con đường đẫm máu... Ở một cái làng nhỏ như nơi đây, tin tức lan nhanh. Người đã đưa ông đến đây cũng là một nhân vật nổi tiếng, quen thuộc.
- Anh muốn nói bà Oliver?
- Ariadne Oliver. Tác giả của những sách bán rất chạy. Phóng viên báo chí luôn bám lấy bà ta, phỏng vấn đủ thứ: về tình hình sinh viên nổi loạn, về chủ nghĩa xã hội, về thời trang của các cô gái hiện đại, về quan hệ giữa những cặp trai gái sống chung không hôn thú, tóm lại đủ các thứ chẳng liên quan gì đến tác giả.
- Đúnh như ông nói. Và theo tôi, trò ấy thật đáng buồn. Tuy nhiên tôi nhận thấy họ cũng chẳng biết thêm gì về bà ta, ngoài cái thú ăn táo. Mà chi tiết ấy, công chúng đã biết từ hai chục năm nay và bà ấy cũng thản nhiên công bố như thế. Song tôi e rằng từ nay bà ấy sẽ không thích ăn táo nữa.
- Cũng vì chuyện táo mà ông tới đây, có phải không?
- Phải. Những quả táo trong lễ hội quả bí. Hôm ấy, anh có mặt không?
- Không.
- Thế là may.
- May? - Michael Garfield lặp lại, vẻ ngạc nhiên.
- Có mặt trong một buổi tối xảy ra án mạng chẳng có gì thú vị. Người ta sẽ lục vấn anh đủ điều, anh làm gì, anh ở đâu, và trăm câu hỏi tọc mạch khác. Anh có biết em gái đó không?
- Biết. Ở xứ này ai chả biết gia đình Reynolds. Mà tôi thì quan hệ tốt với tất cả dân làng.
- Em Joyce đó thế nào?
- Chả có gì đáng để ý. Giọng nói the thé, khó chịu. Quả thật, về em, tôi chỉ nhớ có thế. Tôi không ưa trẻ con, chúng hay quấy rầy, Joyce cũng vậy. Hễ nói là toàn nói về mình.
- Theo tôi, những người bình thường, chẳng có gì đáng để ý, hiếm khi có nguy cơ bị giết. Hung thủ giết người vì tình, vì thù hằn hoặc vì sợ hãi. Tùy theo từng trường hợp, song tất cả phải có một khởi điểm... - Liếc nhìn đồng hồ, ông nói: - Xin lỗi, tôi phải đi đây, vì có hẹn. Một lần nữa xin chúc mừng.
Michael Garfield không phải là người duy nhất Poirot gặp trong vườn. Khi đi tới đầu đường có lối rẽ ra làm ba ngã, ông trông thấy một cô bé ngồi trên một thân cây đổ. Ông tới gần, cô bé đứng lên :
- Chắc hẳn bác là Hercule Poirot?
Giọng nói lanh lảnh rất hợp với vóc người nhỏ bé, mảnh mai. Có cái gì trong cô hòa nhập với khu vườn mê ly, gợi lên ý tưởng như nữ thần rừng xuất hiện.
- Chính tôi đây.
- Cháu đi đón bác đây. Bác về dùng trà ở nhà cháu chứ ạ?
- Cùng với bà Butler và bà Oliver? Đúng vậy.
- Má và dì Ariadne [1] - Cô nói thêm, giọng trách móc - Bác đến trễ đấy.
- Bác rất tiếc. Bác mải nói chuyện với một người.
- Cháu nhìn thấy rồi. Chú Michael, phải không ạ?
- Cháu biết chú ấy?
- Biết chứ. Nhà cháu ở đây lâu, biết tất cả mọi người.
Poirot tò mò, hỏi :
- Cháu bao nhiêu tuổi.
- Mười hai tuổi, và sang năm, cháu sẽ vào học ký túc.
- Cháu có thích không?
- Bao giờ đến nơi mới biết. Nhưng bây giờ bác phải về nhà đã.
- Phải, phải. Xin lỗi vì lại đến trễ. Cháu tên gì?
- Miranda.
- Theo bác, tên ấy rất hợp với cháu.
- Giống nhân vật của Shakespeare?
- Đúng. Ở trường cháu đã học Shakespeare?
- Cô Emlyn thỉnh thoảng có đọc vài đoạn kịch của ông.
Lúc đi vào trục đường trung tâm, cô bé nói :
- Chúng ta không còn đi bao xa nữa, đã tới cuối vườn rồi.
Ngoái nhìn lại phía sau, em hất hàm hướng về giữa vườn :
- Chỗ kia là cái đài phun nước.
- Đài phun nước nào?
- Ồ! Cũ lắm rồi! Chắc nó đã có từ lâu, giờ vỡ hết. Không ai nghĩ đến việc xây lại.
- Thật đáng tiếc.
- Bác có thích cái đài phun nước?
- Cái đó còn tùy.
Câu này, Poirot nói bằng tiếng Pháp. Cô bé đáp luôn :
- Cháu biết chút ít tiếng Pháp, nên hiểu.
- Có vẻ cháu học khá.
- Mọi người đều bảo cô Emlyn là giáo viên giỏi. Cô là hiệu trưởng, đôi khi tỏ ra quá nghiêm khắc, nhưng dạy thì rất tốt.
- Cháu có hay vào đây chơi.
- Rất thích. Bác biết không, khi ở đây thì mọi người không biết cháu đi đâu mà tìm. Cháu trèo lên cây, ngồi trên cành từ đó ngắm nhìn nhiều thứ. Cháu thích quan sát mọi vật xung quanh.
- Những gì, chẳng hạn?
- Chim chóc, và những con sóc.
- Còn con người?
- Thỉnh thoảng. Vì ít người qua lại.
- Bác không hiểu tại sao.
- Có lẽ người ta sợ.
- Lý do gì mà sợ?
- Vì đã lâu rồi, có người bị giết ở cái góc kia. Là cháu nói, lúc đó chưa xây dựng khu vườn này. Người ta tìm thấy xác bị vùi dưới một đống đá sỏi.
Miranda đều giọng, nói tiếp :
- Gần đây bạn Joyce lại bị dìm xuống nước chết ngạt. Má không muốn nói cho cháu biết, thật vô lý, có phải không bác? Cháu dù sao cũng mười hai tuổi rồi.
- Joyce có là bạn của cháu không?
- Có. Bạn ấy đôi khi kể những chuyện rất lạvề những ông vua Ấn Độ, về những đàn voi. Bạn ấy đã có dịp du lịch Ấn Độ. Cháu cũng muốn đi. Cháu và Joyce có chuyện gì đều kể cho nhau. Nhưng bản thân cháu thì có ít chuyện, không nhiều bằng má. Bác có biết rằng má đã đi Hy Lạp. Chính trong chuyến đi ấy má đã làm quen với dì Ariadne Oliver.
- Bà Perring, người nấu bếp của nhà cháu. Bà ấy kể chuyện đó với bà Mindens, người giúp việc, cháu nghe được. Ai đó đã dìm đầu bạn ấy vào xô nước, có phải không?
- Các bà ấy có nghi ngờ cho ai không?
- Cháu không biết. Chắc họ chẳng nghĩ được ra ai đâu.
- Còn cháu, Miranda, cháu biết không?
- Tối đó cháu không có mặt. Cháu bị viêm họng và hơi sốt. Má không cho đi. Ta sắp đi vào vùng cây rậm, bác cẩn thận, không vướng áo.
Poirot nghe theo, nhưng lối đi hẹp chỉ vừa với em bé hơn là người lớn. Cô dẫn đường tí hon tỏ ra rất ân cần, chỉ cho Poirot tránh những chỗ có gai, gạt vài cành lòa xòa để ông đi dễ dàng. Họ đi tới cuối vườn, men theo một lối hẹp quanh một vườn rau sơ sài, cuối cùng ra một bãi trống trồng hồng, dẫn tới một nhà gỗ.
Miranda đi trước, bước lên bậc thềm, dừng lại trước cửa, dõng dạc báo tin với vẻ kiêu hãnh của người chuyên sưu tầm mới tìm được vật quý :
- Con đã tìm thấy bác ấy rồi!
Mẹ cô bé kêu :
- Miranda! Con lại bác đi lối tắt ư? Đáng lẽ phải đi vòng theo đường chính!
Oliver tiến tới, nói :
- Tôi không nhớ đã giới thiệu ông với bà Butler, bạn tôi, chưa nhỉ?
- Đã. Ở trạm bưu điện.
Họ đã gặp nhau thoáng qua lúc tất cả đều đang đứng chờ trước một quầy hàng. Bây giờ Poirot mới quan sát bà bạn của Oliver kỹ hơn. Judith Butler năm nay khoảng ba mươi năm tuổi, và nếu đứa con gái giống như một nữ thần rừng nhỏ, thì bà mẹ yểu điệu như một thủy thần.
- Thưa ông Poirot, tôi rất vui vì có dịp được cảm ơn ông cho phải phép. Ông thật tốt đã nhận lời mời của Ariadne mà đến Woodleigh Common.
- Một khi cô Oliver đã yêu cầu, thì tôi chỉ còn biết nghe theo.
- Nói khéo chưa! - Người vừa được nhắc đến kêu lên.
- Bà ấy tin chắc ông có thể giải quyết cái vụ đáng buồn này. Miranda con, xuống bếp trông hộ mẹ nồi canh.
Trước khi nghe lời mẹ, Miranda mỉm nụ cười ranh mãnh như muốn nói: “Mẹ lại muốn con ra ngoài để mẹ nói chuyện riêng, phải không?”
Đợi con đi khỏi, bà Butler nói tiếp :
- Tôi cố hết sức để cháu khỏi biết chi tiết về... về cái vụ khủng khiếp ấy, nhưng sợ chẳng giấu được mãi.
- Vâng, thưa bà, ở cái làng nhỏ thì tin tức lan nhanh, nhất là tin về một thảm kịch như nó vừa xảy ra. Và dù sao thì không thể tiến lên trên đường đời mà không mở to mắt nhìn sự vật quanh mình. Trẻ con lại thường nhạy cảm, sớm làm việc ấy.
Oliver nói chen :
- Tôi không nhớ Burns hay Walter Scott đã viết: “Trong ta luôn có một đứa trẻ đang ghi chép”.
Bà Butler tiếp :
- Hình như Joyce Reynolds đã nhận ra điều gì liên quan đến một vụ án mạng. Nhưng thật khó tin lời nó nói.
- Khó tin cái gì?
- Khó tin là nếu nó chứng kiến thật, sao để lâu thế mới nói. Điều này không khớp chút nào với tính cách của nó.
- Điều mà mọi người có vẻ hoàn toàn thống nhất, ấy là Joyce là một con bé nói dối đã thành cố tật.
Judith Butler thử đưa một ý kiến :
- Tôi hình dung có thể một đứa trẻ bịa ra một chuyện, nhưng rồi sau đó lại thành sự thật?
- Thưa bà, ta không nên lạc hướng, hãy xuất phát từ vụ ám hại em Joyce.
- Tôi chắc là ông phải tiến được khá rồi - Oliver nói - Có thể là ông đã ấp ủ lời giải của toàn bộ vụ án rồi.
- Oái, xin chớ đòi hỏi tôi quá sức. Cô vội vã quá.
- Sao lại không? Thời nay nếu không mau chân thì chẳng đạt được cái gì.
Lúc này Miranda đã trở vào, tay cầm đĩa bánh.
- Má ơi, con để lên bàn nhé? Mọi người nói chuyện xong chưa? Hay con lại phải vào bếp?
Giọng em cười cợt. Bà Butler cầm ấm trà bằng bạc, cho trà và nước sôi, rồi rót trà ra, trong khi Miranda chăm chú bày bánh. Bà Butler nói :
- Tôi và Ariadne quen nhau ở Hy Lạp.
Ariadne Oliver nói tiếp lời :
- Khi ở đảo về, thủy thủ giục tôi “nhảy đi”, đúng lúc thuyền dềnh lên vì một đợt sóng, thế là tôi ngã xuống nước. Judith giúp kéo tôi lên và thế là chúng tôi thân nhau. Phải thế không, Judith?
- Đúng. Với lại tôi rất thích cái tên Ariadne của chị. Chẳng hiểu tại sao, tôi thấy tên đó rất thích hợp với người.
- Hình như đó là một cái tên Hy Lạp. Đó là tên thánh của tôi, chứ không phải tôi nghĩ ra để ký bút danh. Nhưng chỉ thế thôi, nó không dính dáng gì đến nội dung trong truyền thuyết. Chẳng hạn, tôi không hề bị người yêu bỏ rơi trên đảo!
Poirot kín đáo đưa bàn tay lên râu mép để giấu nụ cười ông không thể kềm chế khi hình dung Oliver là cô trinh nữ bị ruồng bỏ.
- Cuộc đời mỗi người đều cứ phải phù hợp với số mệnh của tên mình - Bà Butler nói.
- Phải, và tôi không thể tưởng tượng chị lại chặt đầu người yêu, như trong truyện Judith và Holopherne.
Mirada nhỏ nhẹ, từ tốn góp chuyện :
- Nếu cháu phải giết ai, cháu sẽ làm một cách rất êm dịu. Khó đấy, nhưng cháu không muốn làm đau người khác. Cháu sẽ dùng thuốc mê, và người đó sẽ thiếp đi trong những giấc mơ đẹp, không bao giờ tỉnh nữa - Cẩn thận xếp tách lên khay, em đề nghị - Má ơi, con đem những cái này đi rửa, và má nên dẫn ông Poirot đi xem vườn. Hãy còn vài bông hồng “Hoàng hậu” đấy má ạ.
Em đi khỏi, Oliver nhận xét :
- Miranda là một đứa bé đặc biệt.
- Bà có một đứa con gái rất xinh - Poirot phụ họa.
- Vâng, ngày nó một xinh ra. Mình chẳng biết trẻ con khi nó lớn lên sẽ ra sao, vì nhiều thứ sẽ còn thay đổi khi trưởng thành. Nhưng hiện này, trông nó cứ như nữ thần rừng nhỏ.
- Cho nên cháu mê cái khu vườn bên cạnh cũng không lạ.
- Đôi lúc, tôi cứ muốn cháu đừng ham mê như thế. Cứ nghĩ nó vào cái khu hẻo lánh ấy, dù không xa làng bao nhiêu, sẽ gặp những chuyện gì, tôi lại sốt cả ruột. Vì thế nhất định ông phải khám phá xem tại sao Joyce lại chết thảm thê đến thế. Chừng nào chưa tóm được thủ phạm, chúng tôi còn chưa yên tâm, nhất là với lũ trẻ. Chị Ariadne, nhờ chị dẫn ông Poirot đi xem vườn. Tôi sẽ ra ngay.
Trong khi chủ nhà vào bếp dọn dẹp, Oliver kéo Poirot ra ngoài. Mảnh vườn nhỏ vào mùa thu này giống như mọi cái vườn khác. Còn lại vài đóa cúc tây và một số bông hồng đỏ thắm. Oliver tiến về một ghế đá, ngồi phịch xuống và mời Poirot cùng làm như mình.
- Bà Judith nhận xét Miranda giống như một nữ thần rừng. Còn Judith, ông nghĩ thế nào? - Oliver hỏi.
- Tôi thấy bà ấy phải có tên là Ondine [2].
- Ý kiến của ông về chị ấy kia?
- Tôi chưa có thời gian để hiểu rõ tính cách của bà ấy. Chỉ thấy một điều là bà có vẻ boăn khoăn chuyện gì.
- Ông lạ lắm sao?
- Điều tôi muốn, là cô, cô nói xem cô biết gì, nghĩ gì về bà ấy.
- Vâng, tôi đã có dịp hiểu rõ đôi chút trong chuyến cùng du lịch.
- Trước đó, cô không quen bà ấy?
- Không. Chị ấy góa chồng. Chồng là phi công, chết vì tai nạn cách đây nhiều năm. Có cảm giác là ông chồng không để lại gì nhiều, cái chết đột ngột khiến đời sống của chị đảo lộn, gặp khó khăn và chị ta không thích nhắc đến.
- Miranda là con gái duy nhất?
- Phải. Judith làm thư ký nửa ngày ở vùng bên. Không có công việc cố định.
- Cô đã gặp chủ sở hữu ngôi nhà Quarry House?
- Vợ chồng ông đại tá Weston ư?
- Không, chủ trước kia cơ, bà Llewellyn - Smythe.
- Hình như tôi có nghe ai nói tên đó, nhưng bà ta đã chết cách đây hai, ba năm. Người sống chưa đủ với ông sao?
- Không. Tôi phải tìm hiểu cả những người đã chết hoặc mất tích.
- Ai mất tích?
- Một cô gái đi ở.
- Trời đất! Cái bọn gái đi ở luôn có cái tật mất tích! Các bạn tôi kể nhiều chuyện về bọn này, ông không thể tin.
- Không, cái cô mà tôi nói không thể bị giết. Ngược lại.
- Ông định nói gì cơ? Chẳng có ý nghĩa gì.
- Có thể. Dù sao...
Poirot giở sổ, viết nguệch ngoạc vài chữ lên trang giấy đã kín.
- Ông viết gì vậy?
- Ghi vài việc đã xảy ra trong quá khứ.
- Ông có vẻ rất quan tâm đến quá khứ?
- Quá khứ là cha đẻ hiện tại - Ông chìa cuốn sổ, nói - Cô có muốn biết tôi ghi gì không?
- Tất nhiên!
Poirot mở một trang bên trên đã ghi :
Chết, ví dụ: bà Llewellyn - Smythe (rất giàu), Janet Whiet (giáo viên), nhân viên công chứng (bị đâm). Đã từng bị truy tố vì giả mạo giấy tờ.
Phía dưới, ghi :
“ Cô gái đi ở biến mất”.
- Tại sao cô ấy biến?
- Vì cô ta sắp gặp rắc rối với luật pháp.
Dưới nữa, Poirot chỉ vào từ “Giả mạo”, tiếp theo là hai dấu chấm hỏi.
- Giả mạo? Tại sao?
- Thì tôi cũng đang tự hỏi. Tại sao?
- Giả mạo cái gì?
- Một di chúc, đúng hơn là một bản bổ sung di chúc, có lợi cho cô gái đi ở.
- Mưu toan chiếm đoạt? - Oliver hỏi.
- Giả mạo giấy tờ, nghiêm trọng hơn nhiều so với ý đồ chiếm đoạt.
- Tôi vẫn chưa hiểu điều này liên quan gì đến việc Joyce bị giết?
- Tôi cũng chưa hiểu. Nhưng cần chú ý.
- Còn chữ tiếp theo là gì vậy? Khó đọc quá.
- Voi.
- Voi?
- Cái này có thể có tầm quan trọng của nó.
Poirot đứng lên :
- Bây giờ tôi phải đi. Xin lỗi hộ bà chủ nhà vì tôi không trực tiếp chào từ biệt. Tôi rất vui được biết bà và cô con gái xinh đẹp của bà. Nói với bà ấy hãy trông cháu cẩn thận.
- Chào ông. Ông thích ra vẻ bí mật, và có lẽ không ai có thể buộc ông làm khác. Ông không nói chương trình sắp tới ư?
- Sáng mai tôi hẹn gặp các ngài Fullerton, Harrison và Leadbetter, công chứng viên ở Medchester để hỏi nhiều chuyện, trong đó có chuyện giả mạo.
- Rồi sau nữa?
- Sẽ cố gặp một số người.
- Những người có mặt ở tối liên hoan?
- Không, những người tham gia chuẩn bị tối liên hoan.
Văn phòng Fullerton, Harrison và Leadbetter là kiểu mẫu của những công ty lâu đời và có uy tín đặc biệt. Thời gian đã để lại dấu ấn của nó. Các ông Harryson và Leadbetter không còn nữa, tên của họ được thay thế bằng ông Atkinson và ông Cole, người trẻ tuổi nhất. Ông Fullerton, cổ đông chính, vẫn cùng làm việc.
Fullerton là một ông già cao, khô khẳng, mặt lầm lì, giọng nói đều đều như quen với những lời diễn giảng luật pháp từ hàng nửa thế kỷ, ánh mắt đặc biệt sắc sỏi, soi mói. Vừa tầm nhìn của ông là mảnh giấy mà cô thư ký vừa trình lên, ghi tên và chức vụ người khách xin gặp.
Fullerton ngước nhìn Hercule Poirot ngồi trước mặt. Người này đã có tuổi, có vẻ người nước ngoài, ăn mặc chỉnh tề, do thanh tra cục điều tra hình sự Henry Raglan và một thiếu tá (về hưu) của Scoland Yard giới thiệu.
- Thiếu tá Spencer, hả?
Fullerton biết thiếu tá, người đã làm tốt công việc của mình, luôn được cấp trên khen. Ký ức mơ hồ trở lại trong trí óc ông, liên quan đến một vụ án ầm ĩ hồi đó, mặc dù lúc đầu tưởng là đơn giản dễ quyết định. Ông nhớ thằng cháu gọi ông bằng chú, Robert, lúc đó giữ vai trợ lý luật sư bào chữa, còn bị cáo là một kẻ khốn khổ rõ ràng mắc bệnh tâm thần. Một tên ngu ngốc từ chối tự bào chữa, và hình như không muốn gì hơn là sẵn sàng chịu bị treo cổ.
Spencer được giao trách nhiệm lo vụ này. Bình tĩnh và cương quyết, ông đã dự suốt phiên tòa để nhắc đi nhắc lại là tòa đang kết tội một người vô tội. Ông đã nói đúng, và người mà ông nhờ giúp đỡ để chứng minh sự vô tội của bị cáo, là một người quốc tịch Bỉ. Một thám tử hưu trí của Cảnh sát Bỉ. Ông này lúc đó cũng không còn trẻ, nay hẳn đã vào loại già - Fullerton nghĩ, và quyết định phải tiếp ông khách này một cách trịnh trọng. Chắc ông ta đang cần ở ông một số thông tin, những thông tin mà ông không thể từ chối cung cấp, nhất là về vụ này - một vụ giết hại trẻ em - ông cũng chưa tìm ra điều gì sáng sủa.
Fullerton có ý kiến riêng của mình về lai lịch tên giết người, song ông chưa dám nói với ai, vì không có bằng chứng.
Những ý nghĩ đó thoảng nhanh trong óc, và ông Fullerton ho mấy tiếng trước khi cất giọng khàn khàn :
- Thưa ông Poirot, tôi giúp được gì đây? Hẳn là ông đến về vụ em bé Reynolds, và tôi chưa rõ có thể nói được điều gì có ích. Tôi không biết chút gì về chuyện xảy ra.
- Nhưng nếu tôi không lầm, ông là cố vấn pháp luật của gia đình nhà Drake?
- Quả thật. Tội nghiệp ông Hugo Drake, ông ấy là người dễ thương. Tôi biết gia đình Drake đã nhiều năm, chính xác là từ cái ngày họ đến tậu nhà “Cây táo” và định cư ở đây. Ông Drake mắc bệnh bại liệt khi hai vợ chồng đi du lịch nước ngoài. Trí óc vẫn minh mẫn, song chân bị liệt và rất đau đớn.
- Theo chỗ tôi biết, ông cũng là người quản lý mọi việc của bà Llewellyn - Smythe?
- Bà cô của ông Drake? Một phụ nữ đáng nể. Bà ta đến ở Woodleigh Common vì lý do sức khỏe, và càng để gần đứa cháu. Bà đã tậu Quarry House, một dinh thự kềnh càng, tốn tiền lắm, trong khi có thể mua chỗ khác hay hơn. Sở dĩ bà chọn nơi đó vì có cái công trường bỏ hoang bên cạnh. Nhiều tiền, nên bà mời hẳn một chuyên gia phong cảnh, tay này làm biến đổi thành một nơi tuyệt đẹp, được giới thiệu cả trên tạp chí “Nhà và vườn”. Bà Llewellyn - Smythe chết cách đây hai năm.
- Chết đột tử?
Fullerton nghi ngại nhìn Poirot :
- Tôi không nghĩ xa đến vậy. Bà ta bị bệnh tim, thầy thuốc khuyên phải giữ gìn, nhưng bà ta đâu có nghe. Nhưng... xin lỗi, chúng ta đi lạc đề...
- Không lạc đâu. Tôi muốn được hỏi ông một số câu khác. Ví dụ, xin ông cho biết một số điều về Lesley Ferreier, nhân viên cũ của ông.
Fullerton nhăn mặt, ngạc nhiên :
- Lesley Ferreier? Trời, tôi đã gần quên mất anh ta. Nhớ ra rồi. Anh ta bị đâm chết.
- Đúng vậy.
- Sợ rằng tôi không có gì nhiều để nói về anh ta. Tối đó, khi ra khỏi quán Thiên Nga Xanh thì anh ta bị giết. Cảnh sát có nghi ngờ người này người nọ, nhưng không bắt giữ ai, vì thiếu bằng chứng.
- Theo ông, đó có phải là một vụ án tình?
- Hẳn rồi. Ferrier từ lâu đã đi lại với mụ chủ quán, sau lại bỏ rơi mụ, đi với cô gái khác. Hình như tay này có số đào hoa, được nhiều gái chạy theo nên cũng đã vài lần bị các ông chồng ghen tuông cảnh cáo.
- Ông có hài lòng về công việc của anh ta?
- Vừa có, vừa không. Anh ta làm việc tốt, nhưng đời sống riêng lôi thôi quá.
- Ông có nghĩ, giống như Cảnh sát, rằng Ferrier bị một phụ nữ đánh ghen đâm chết?
- Khó nói...
Fullerton nhún vai, Poirot vẫn gặng :
- Hay ông có nghi ngờ gì theo một hướng khác?
- Muốn trả lời, cần phải có bằng chứng xác thực. Tòa án đã bác bỏ những giả thuyết do Cảnh sát viện ra, chúng không đủ thuyết phục để kết tội.
- Có thể Cảnh sát đã nhằm khi chỉ tập trung vào giả thuyết là vụ án tình?
- Có thể. Còn nhiều khả năng khác. Ferrier tính tình không ổn định, và mặc dù được bà mẹ góa nuôi dạy nghiêm khắc, hắn vẫn ngả theo con đường của ông bố quá cố. Hắn giao du với bọn bất hảo, tham gia nhiều vụ làm ăn ám muội. Tuy nhiên, tôi vẫn cho hắn một cơ may làm lại cuộc đời, sau khi hắn dính vào một chuyện giả mạo giấy tờ. Hồi đó, hắn còn rất trẻ, bà mẹ đến gặp tôi, van xin cho hắn được trở lại làm việc, nên tôi rất thương. Hy vọng rằng kinh nghiệm xót xa cùng với những lời khuyên của tôi sẽ làm hắn thay đổi. Tiếc thay! Thời nay ở đâu cũng thấy tham nhũng, hư hỏng.
- Vậy ông cho có thể là một vụ trả thù, thanh toán lẫn nhau?
- Có thể. Chơi dao sẽ có ngày chết vì dao. Nếu đồng bọn của Ferrier nghi cho hắn là định phản bội...
- Có ai chứng kiến vụ giết?
- Không. Điều đó dễ thôi. Thủ phạm đã tính toán kỹ, có khi còn tự tạo cho mình một chứng cứ ngoại phạm không thể chối cãi.
- Tuy nhiên, rất có thể có người đã trông thấy. Một nhân chứng vô tình đi qua, một đứa trẻ...
- Vào giờ khuya khoắt ấy, lại gần quán rượu? Khó tin, ông Poirot ạ.
- Một đứa trẻ - Poirot tiếp tục nhấn mạnh - vẫn ghi nhớ cảnh ấy hàng năm trời. Một bé gái sau khi đến chơi nhà bạn, trên đường trở về nhà, đã chứng kiến vụ án. Em bé được hàng rào che khuất, nên không ai biết.
- Ông quả có trí tưởng tượng! Cứ như trong tiểu thuyết.
- Không hẳn thế. Trẻ con chứng kiến nhiều điều mà người lớn không ngờ.
- Nhưng, nếu thế thì khi về nhà, nó phải kể cho bố mẹ!
- Không nhất thiết! Tôi đã kinh nghiệm, trẻ con có nhiều bí mật không nói với bố mẹ.
- Xin phép được hỏi, có cái gì làm ông quan tâm đến vụ Ferrier?
- Tôi không biết anh ta, nhưng anh ta mới chết thời gian gần đây, điều đó đáng để tôi chú ý.
Fullerton xẵng giọng :
- Ông Poirot, thật lòng mà nói, tôi không rõ vì sao ông đến tìm tôi, và ông quan tâm cái gì. Chả lẽ ông lại thấy cái chết của Joyce và cái chết của Lesley Ferreier có liên quan với nhau?
- Nghề của tôi là phải nghi ngờ mọi thứ, thu thập mọi chi tiết có thể.
- Xin lỗi, nhưng khi nói án mạng, thì phải có chứng cớ.
- Chắc ông đã nghe nói là Joyce tuyên bố mình đã chứng kiến một vụ án mạng?
- Ở một nơi như đây, điều gì mà chẳng biết, cái gì mà chẳng nghe. Tuy nhiên lời đồn đại thường sai lầm, do đó không có giá trị.
- Ông nói có phần đúng. Song Joyce đã mười ba tuổi, hồi lên chín chẳng hạn, có thể chứng kiến một vụ đụng xe hơi, một cuộc cãi vã, đánh nhau, thậm chí giận dỗi của một cặp tình nhân - sự kiện đó in hằn vào ký ức, và em ngần ngại không kể với bố mẹ, sợ những điều mình mục kích chưa chắc chắn lắm. Thậm chí em đã quên phứt nó trong nhiều năm, cho đến một hôm, do một lời nào của ai, một trường hợp tình cờ nào đó, khiến em nhớ lại.
- Dù sao, đây cũng chỉ là một giả tưởng đơn thuần!
- Ở trong vùng này, lại có một cô gái bị mất tích. Tên là Olga hoặc Sonia, người nước ngoài.
- Olga Seminof.
- Cô ấy làm người hầu hoặc đi ở cho bà Llewellyn - Smythe. Phải thế không?
- Không. Bà Llewellyn - Smythe lần lượt mượn nhiều cô gái đến ở. Olga, người cuối cùng, được bà thích nhất. Nếu tôi nhớ đúng, đó là một cô gái không được trời ưu đãi về hình thức, cô ta chậm chạp, vụng về, không được cảm tình lắm của dân làng.
- Nhưng bà Llewellyn - Smythe lại ưa cô ta?
- Bà rất quý, thế mới dại, về sau càng rõ.
- Thật thế ư?
- Chắc ông đã biết chuyện gì xảy ra khi bà Llewellyn - Smythe mất. Tin đồn lan nhanh như chớp.
- Được biết là bà già để lại một số tiền lớn cho cô gái.
- Một quyết định không khỏi làm tôi ngạc nhiên. Trong nhiều năm liền, bà Llewellyn - Smythe không hề sửa đổi các điều khoản trong di chúc, trừ khi phải chuyển một số tiền từ tổ chức từ thiện này sang tổ chức từ thiện khác, hoặc xóa tên một giai nhân mới chết, mà trước đó bà đã dành cho một số lợi tức hưởng trọn đời. Phần lớn tài sản sẽ thuộc về người cháu, Hugo Drake và vợ, bà này cũng là chị em họ xa với bà. Một trong hai người thừa kế nào chết trước, thì tài sản mặc nhiên về người kia. Mãi đến ba tuần trước khi chết, bà Llewellyn - Smythe bỗng đảo lộn hoàn toàn mọi điều khoản của các di chúc trước, bằng cách thảo một văn bản bổ sung, không thông qua hãng chúng tôi. Theo bản bổ sung, bà cúng một số tiền cho một hoặc hai tổ chức từ thiện - không nhiều như trước - không dành gì cho các giai nhân và cho vợ chồng Drake, tất cả bị gạt ra ngoài nhường chỗ cho Olga Seminof là người thừa kế trọn vẹn. “Để trả công cho sự tận tụy phục vụ, chăm sóc tôi”, văn bản viết thế. Phải nhận đó là một quyết định lạ lùng, không phù hợp chút nào với những ý định từ trước của người quá cố.
- Rồi ra sao nữa?
- Các chuyên gia kết luận bản bổ sung không phải là chữ viết của thân chủ chúng tôi, và chúng tôi được biết bà Llewellyn - Smythe thường nhờ cô hầu viết thư, bắt chước chữ mình như thật, kể cả chữ ký. Do đó cô gái nảy ra ý đánh lừa mọi người để chiếm đoạt tài sản của chủ. Nhưng đánh lừa sao được các chuyên gia giám định chữ viết.
- Và các thủ tục tiến hành để chứng minh tính bất hợp pháp của bản di chúc bổ sung bắt đầu...
- Dĩ nhiên rồi. Tuy nhiên, trong thời gian đó, cô nàng đã hoảng và... biến mất, trước khi phiên tòa mở.
Herule Poirot đi khỏi. Feremy Fullerton trở lại ngồi sau bàn, tay gõ gõ lên tấm giấy thấm đặt trước bàn.
Ông mở tập hồ sơ, đọc lướt một trang, song không tài nào tập trung vào văn bản. Một loạt sự việc xưa cũ trở về trong trí óc. Hai năm... gần hai năm rồi... vậy mà sáng nay, cái tay thám tử nhỏ bé có bộ râu mép ngắn và đi đôi giày da bóng đã làm ông nhớ lại tất cả.
Một cuộc đàm thoại cách đây đã hai năm.
Cô gái ngồi trước mặt ông, một cô gái tầm thường, da rám nâu, miệng rộng, gò má cao, đôi mắt cứng cỏi nhìn ông không chút sợ hãi. Một bộ mặt nhiều cảm xúc, hằn bao nỗi đau thương. Olga Seminoff, giờ này cô ở đâu? Bằng cách này hay cách khác, lẽ ra cô phải thành công, nhưng thành công cái gì nhỉ? Ai mà giúp cô được?
- Cô đã từ một nước Trung Âu đến đây, hẳn là cô đã trở về đó rồi?
Feremy Fullerton tự coi mình là người tuân thủ và bảo vệ pháp luật. Ông tin tưởng pháp luật và coi thường những quan tòa nào coi nhẹ nó. Tuy nhiên, ông vẫn có thể thông cảm với một số người, như Olga Seminoff. Ông đã có sự thông cảm như thế khi Olga nói với ông :
- Tôi đến để nhờ ông giúp đỡ. Năm ngoái, ông đã rất tốt, đã giúp tôi nhiều trong việc hoàn tất các giấy tờ để tôi được ở lại nước Anh thêm một năm nữa. Lần này tôi đã nhận được thư nói: “Cô không cần phải trả lời các câu hỏi mà người ta đặt ra ở các nơi. Nếu muốn, hãy nhờ một công chứng đại diện cho mình.” Vì thế tôi đến gặp ông...
Fullerton nhớ lại cái giọng khô khốc của mình khi trả lời cô gái, mặc dù ông muốn che giấu sự khổ tâm vì không giúp được cô :
- Hoàn cảnh năm ngoái khác với năm nay. Lúc này, tôi là đại diện của bên nguyên đơn, tức là ông bà Drake, do đó tôi không thể đứng về phía cô. Như cô đã biết, tôi đã làm công chứng viên của bà Llewellyn - Smythe.
- Nhưng bà ấy chết rồi, cần gì công chứng nữa!
- Bà ấy rất quý cô.
- Phải rồi, bà ấy quý tôi, cho lên mới để lại tài sản cho tôi.
- Toàn bộ gia sản?
- Chứ sao ông? Bà ấy có ưa gì gia đình.
- Cô nhầm. Bà ấy rất yêu ông cháu của cô em họ.
- Yêu ông cháu thì còn có lý, nhưng không yêu vợ Ông ta, mà bà ấy cho là hay gây phiền toái. Vợ Ông Drake luôn luôn xông vào công việc của bà Llewellyn - Smythe, can thiệp vào đời tư của bà. Ví dụ, không cho bà ấy ăn những thứ bà thích.
- Đó chỉ là thiện ý mà thôi. Bà ấy chỉ muốn buộc bà cô theo đúng lời khuyên của thầy thuốc.
- Con người ta thường không thích nghe lời thầy thuốc, và không chịu nổi người thân bó buộc. Họ muốn sống theo ý mình. Bà Llewellyn - Smythe giầu, rất giầu, bà có thể làm gì bà muốn, có quyền sử dụng tài sản của mình theo ý thích. Vợ chồng Drake đã khá sung túc: họ có nhà đẹp, quần áo đắt tiền, hai xe hơi. Họ sống thoải mái, tại sao còn muốn hơn.
- Họ là họ hàng duy nhất của bà Llewellyn - Smythe.
- Bà ấy muốn tài sản thuộc về tôi! Bà ấy thương tôi, biết là tôi sẽ khổ nhiều. Bố tôi bị bắt rồi đưa đi đâu biệt tăm. Rồi đến lượt mẹ tôi. Cả gia đình tôi đã mất. Ông không hiểu nỗi thống khổ của chúng tôi. Ông đứng về phía Cảnh sát. Ông không đứng bên phía tôi.
- Không, tôi không thể đứng về phía cô. Tôi lấy làm tiếc về những gì đã xảy ra cho cô, nhưng lỗi là tại cô.
- Không đúng! Tôi không làm điều gì không phải! Tôi rất chăm sóc bà ấy. Tôi lén mang tới cho bà đủ thứ bà ấy thích mà bị cấm không được ăn. Nào sôcôla, nào bơ...
- Vấn đề không phải là sôcôla hay là bơ.
- Tôi quan tâm đến bà, chăm chút từng li từng tí. Vì thế mà bà trả ơn tôi. Vậy mà giờ đây, bà ấy chết và ký giấy để lại tất cả cho tôi, thì bọn nhà Drake lại bảo tôi không được gì! Họ nói đủ thứ chuyện, nào tôi gây sức ép cho bà, nào chính tôi đã viết cái di chúc, trong khi chính là bà ta. Bà ta viết! Viết xong, bà bảo tôi ra ngoài và gọi bà phục vụ và bác làm vườn vào. Bà bảo họ ký vào các tờ giấy để làm chứng cho tôi. Vậy tại sao bây giờ tôi không được hưởng? Tại sao tôi không được quyền có cơ may hạnh phúc trên đời?
- Tôi đang giải thích cho cô rằng...
- Tất cả chỉ là dối trá! Các người bảo là chính tôi viết, không ai cãi được.
- Đủ rồi, thưa cô! Giờ đây, hãy nghe tôi. Đừng la lối nữavà nghe tôi. Có đúng là những lá thư đọc cho cô viết, bà Llewellyn đã yêu cầu cô bắt chước chữ viết của bà? Vì bà ta có ý nghĩ cổ hủ rằng thư gửi bạn bè, thân hữu mà đánh bằng máy chữ là không lịch sự?
- Phải. Bà bảo: “Olga, cháu trả lời những thư này đúng như ta đã đọc để con ghị Nhưng phải chép lại, bắc chước chữ của ta cáng giống càng tốt.” Bà ấy yêu cầu tôi tập viết giống chữ bà. “Nếu có hơi khác một chút, cũng không sao”, bà ấy nói. “Rồi cháu ký thay cho ta. Ta không muốn mọi người biết là ta không thể tự tay viết thự Bàn tay ta đau khớp rất khó chịu, nhưng ta nhất định không viết thư bằng máy chữ.”
- Lẽ ra cô nên giữ nguyên nét chữ của mình, rồi cuối thư ghi thêm đại loại “do thư ký chép lại”...
- Bà ấy không muốn thế. Bà ấy nhất định muốn gây cảm tưởng là do chính tay bà viết.
Và điều đó, như Fullerton lúc ấy đã nghĩ, đúng là một nét tính cách phù hợp với bà già. Bà ấy không cam chịu là không thể sống như đã từng sống. Điều Olga nói rất hợp lý, lời lẽ hết sức thật thà nên lúc đầu bản bổ sung được coi là thật và có giá trị. Chính tại văn phòng này - Fullerton nhớ rõ - sự nghi ngờ mới nảy sinh sau ý kiến của anh cộng sự trẻ :
- Tôi khó tin là chính bà Louise Llewellyn - Smythe đã thảo văn bản này. Đành rằng bà ấy đau khớp, song hãy so sánh nét chữ này với những giấy tờ khác của bà. Có một cái gì không ổn trong bản bổ sung này.
Fullerton đã tán thành ý kiến ấy, và cà hai quyết định yêu cầu sự giám định của chuyên gia. Họ trả lời dứt khoát: chữ viết ở bản bổ sung khác chữ viết ở các giấy tờ khác, tức không phải chữ viết của người quá cố. Nếu Olga không tỏ ra cố chấp, chỉ bằng lòng nhận một số tiền vừa phải, có thể gia đình Drake cũng chấp nhận, dù có tiếc rẻ. Fullerton thương hại, rất thương hại Olgạ Cô ta đã đau khổ từ tấm bé, mồ côi cha mẹ, không anh em chị em, nạn nhân của bất công và sợ hãi. Do đó sinh ra tâm lý đòi hỏi nhiều để đền bù.
- Tất cả mọi người chống lại tôi - Olga nói thêm - Các người không công bằng với tôi, vì tôi là người xa lạ. Tôi không ở xứ này, vì tôi không biết nói năng thế nào, biết cầu cứu ai.
- Theo tôi, tốt nhất là cô nên vấn lương tâm...
- Chính bà ấy chứ không phải tôi viết bản di chúc. Bà ấy viết rồi bảo tôi ra để hai người khác ký.
- Cô thừa biết là có nhiều lời chứng nói trái lại những gì cô khẳng định. Người ta nói là nhiều khi bà Llewellyn - Smythe ký đại mà chẳng biết mình ký cái gì. Nói thật nhẹ, điều thuận lợi cho cô là cô là người nước ngoài, hiểu tiếng Anh còn bập bõm. Chiếu cố điều ấy, nhiều khả năng là cô sẽ chỉ bị phạt nhẹ.
- Thế thì thà tôi bỏ đi trốn còn hơn.
- Tôi rất ái ngại cho cô, nếu cô muốn, tôi sẽ giới thiệu cho cô một luật sư giỏi để cãi giúp cô trong phiên tòa. Đừng nghĩ đến chuyện bỏ trốn, hành động như trẻ con!
- Tôi đã dành dụm được ít tiền - Và cô còn nói - Ông đã tỏ ra thông cảm với tôi, tôi tin ông, nhưng ông từ chối giúp tôi vì còn có luật pháp. Luật pháp! Tôi sẽ đi đến nơi mà không ai tìm ra tôi!
Và lúc này, Fullerton nghĩ: không ai tìm ra cô thật. Giờ này cô ở đâu?
Herculer Poirot được tiếp và mời vào biệt thự “Cây táo”, ngồi ở phòng khách nhỏ sau khi được báo là bà Drake sẽ ra.
Poirot lại gần cửa sổ phòng khách, ngắm nhìn các vạt cỏ trong vườn được chăm chút cẩn thận. Cúc chưa ra hoa, một hai đóa hồng nở chậm khoe sắc dưới trời thu.
Cửa mở sau lưng ông, và tiếng nói của chủ nhà làm ông quay lại.
- Xin lỗi đã buộc ông phải chờ. Chúng tôi đang làm việc chuẩn bị lễ Nô-en cho toàn xứ đạo; nhiều việc phải quyết định từ sớm, quá sớm là đằng khác, để rồi các bà lại thay đổi ý kiến xoành xoạch.
Giọng nói đượm vẻ bực tức làm ta có thể đoán là trong cuộc họp chuẩn bị vừa rồi, nhiều ý kiến của bà không nhận được sự ủng hộ. Theo nhận xét của bà McKay và một số bà khác thì Rowena Drake có cá tính mạnh mẽ, nhiều người dựa vào bà khi cần quyết đoán việc gì, song không vì thế mà người ta ưa bà. Cho lên rất dễ hiểu là bà Llewelly - Smythe - cũng là một phụ nữ có tính độc lập và không chịu kém ai - không ưa bà Drake.
- Các bà ấy vừa ra về - Bà Drake nói, khi nghe tiếng người lao xao, rồi tiếng cửa ngoài khép lại - Nào, giờ ông cho biết ông cần gì ở tôi? Chả lẽ bắt tôi kể lại cái tối khủng khiếp hôm ấy? Tôi cầu trời là đừng bao giờ tổ chức buổi liên quan đó! Bà Oliver vẫn còn ở chơi nhà bà Judith Butler chứ ạ?
- Còn. Mai hoặc ngày kia, bà ấy sẽ trở về London. Bà có quen bà ấy trước đây?
- Không, nhưng tôi thích đọc sách của bà. Bà ấy có ý kiến gì về... về cái kẻ phạm tội ác cực kỳ ghê tởm ấy?
- Chưa kiến gì. Còn bà, bà có nghi ngờ ai?
- Không nếu có tôi đã nói.
- Nhưng ít nhất bà cũng phát hiện ra điều gì, dù là nhỏ.
- Sao ông lại nghĩ vậy?
- Tôi hy vọng nếu suy nghĩ kỹ, bà sẽ nhớ ra một cử chỉ, một thái độ nào mà lúc đó bà không cho là có ý nghĩa, nhưng sau đó ngẫm lại mới thấy quan trọng.
- Ông đã ngầm có ý gì trong đầu, phải không?
- Vâng! Xin nói thật, tôi hỏi bà những câu nói đó là do một lời nhận xét của cô Whittaker.
- Cô giáo toán? Cô ấy có dự tối đó. Cô ấy đã thấy gì lạ?
- Vấn đề không phải ở chỗ cô ấy thấy gì, mà là bà thấy gì?
- Thật ư?
- Có liên quan đến một lọ hoa.
- Lọ hoa?... A! Giờ tôi nhớ ra rồi! Lọ hoa đặt ở góc thềm cầu thang thông sang phòng tắm... Một cái bình rất đẹp tôi được tặng làm quà cưới. Lúc đi qua đó - tôi không nhớ chính xác lúc nào - tôi thấy hoa trong bình có vẻ đã tàn, lại thấy bình không có nước, làm tôi bực quá. Tôi liền đem nó vào phòng tắm ngay cạnh, đổ đầy nước. Phòng tắm không có ai, tôi có nhìn thấy gì đâu nhỉ?
- Không phải tôi muốn nói lúc đó. Một lát sau kia, có phải có chuyện gì xảy ra với cái lọ?
- Tôi tuột tay đánh rơi, nó vỡ tan tành dưới chân cầu thang. Cô Elizabeth Whittaker đang ở ngoài sảnh chạy vào, giúp tôi vun tạm những mãnh vỡ vào một góc. Có phải đó là việc ông định nói?
- Hình như cô Whittaker hơi lấy làm lạ sao bà đánh rơi.
- Tôi vô ý để tuột tay, chắc vì mệt mỏi. Quả là tôi có hơi mệt sau nhiều giờ lo chuẩn bị, chỉ huy các cháu.
- Vậy bà chắc chắn là không phải do cái gì đã khiến bà sửng sốt? Một cái gì bất thường mà bà bắt gặp?
- Cái gì, ở đâu cơ chứ? Ngoài cửa? Dưới nhà? Nào làm gì có ai! Mọi người đều đang ở phòng ăn, nơi chơi trò Snapdragon.
- Bà không thấy người nào mở cửa phòng sách từ bên trong?
Bà Drake ngẫm nghĩ một lúc lâu mới thong thả khẳng định :
- Tôi chẳng thấy bất cứ một ai.
Cái cách bà nói càng khiến nhà thám tử nghi ngờ sự thành thật của lời đáp. Rất có thể bà đã trông thấy một khuôn mặt nào đó, dù chỉ thoáng qua. Tại sao bà nhất định nói trái lại? Có thể giả định là nhìn thấy một ai đó, bà không muốn để người đó dính líu vào tấn thảm kích mới xảy ra một lát trước đó? Một người mà bà có sự gắn bó đặt biệt, hoặc đơn giản hơn, bà muốn bảo vệ?
Poirot hắng giọng, kết luận :
- Thôi được...
- Hay là cô Whittaker đã thấy người lạ nào vào phòng sách?
Poirot lập tức lắng tai :
- Bà cho là có chuyện ấy?
- Sao không? Vào lúc tôi đánh rơi lọ hoa, cô ấy nghĩ là tôi cũng nhìn thấy người đó. Có thể cô ấy e ngại không muốn gây rắc rối cho người ấy, vì cô ấy chỉ nhìn thoáng qua: Nhìn sau lưng, thì bọn trẻ đứa nào cũng giống đứa nào.
- Bà cho rằng vụ giết người là do một trong những đứa trẻ gây ra?
Bà Drake suy nghĩ, rồi nói :
- Tôi chưa suy xét kỹ, nhưng rất có thể. Một bé gái bị dìm vào nước cho chết không có lý do rõ ràng, chỉ có thể biểu hiện sự thiếu chính chắn của một kẻ chưa có ý thức và trách nhiệm về hành vi của mình. Ông có nghĩ vậy không?
- Theo như người ta nói, hình như Cảnh sát cũng nghĩ vậy, ít nhất là lúc đầu.
- Tôi hoàn toàn tin vào sự xét đoán của họ. Các ông Cảnh sát ở đây rất có năng lực, chắc lần này cũng sẽ đạt kết quả. Tuy nhiên, họ phải mất nhiều thì giờ đi tim bằng chứng rồi mới kết luận được.
- Bằng chứng tìm ra không phải là dễ.
- Ông nói đúng. Giống như tai nạn mà chồng tôi phải chịu. Ông ấy đã phải chống nạn mà đi, thế mà lúc qua đường bị một xe hơi đụng vào. Chịu không tìm ra thủ phạm.
- Sự việc ấy xảy ra khi bà cô mất?
- Không, bà cô chúng tôi vài tháng sau mới mất. Họa vô đơn chí, ông thấy không?
- Cảnh sát không truy ra chiếc xe gây tai nạn?
- Chỉ biết đó là xe Grasshopper Mark 7, đánh cắp ở Medchester của ông Waterhouse, một nhà buôn đứng tuổi xưa nay lái rất thận trọng. Kẻ lấy cắp xe là hai thanh niên không rõ tung tích.
- Dù vô tình , cũng là phạm tội. Trường hợp Joyce thì khác. Một bàn tay đã cố tình dìm đầu cô bé vào nước cho đến chết.
- Tôi biết, tôi biết. Thật dã man, tôi không muốn nghĩ đến, cũng không muốn ai nhắc lại nữa.
Bà đứng dậy, đi hối hả trong phòng
Poirot tiếp luôn :
- Ta phải tìm ra động cơ vụ sát nhân.
- Theo tôi, một tội gớm ghiếc kiểu ấy chẳng có động cơ gì hết.
- Chỉ do một tên tâm thần bệnh hoạn say máu, thích giết chóc?
- Cũng có nhiều trường hợp như thế đấy thôi?
- Bà không muốn xem xét một cách giải thích đơn giản hơn?
- Nghĩa là?
- Sát nhân không phải tên tâm thần, mà là một người cần giết cô gái để tự bảo vệ mình.
- Bảo vệ khỏi cái gì?
- Tôi muốn nói đến những lời tuyên bố của Joyce lúc chiều, trước lúc chết.
- Joyce là một cô bé ít thông minh, không trung thực lắm.
- Mọi người tôi hỏi chuyện đều nói thế.
Poirot đứng lên :
- Tôi phải xin lỗi bà, vì đã gợi lại những kỷ niệm đau buồn. Trở lại với cô Whittaker...
- Sao ông không hỏi cô ấy để biết nhiều hơn? Cô ấy là giáo viên, phải biết rõ hơn ai hết về tâm tính của học trò mình - Ngừng một lát bà nói thêm - cả cô Emlyn nữa.
- Cô hiệu trưởng?
- Cô ấy biết nhiều chuyện lắm. Một nhà tâm lý sắc sảo. Theo tôi, người cung cấp nhiều tư liệu nhất, chính là cô Emlyn.
- Thật là tốt...
- Tuy nhiên, tôi không chắc cô ấy sẽ nói hết với ông.
- Tôi bắt đầu thấy mình còn nhiều việc để làm đây. À, có phải bà cô của bà, bà Llewellyn - Smythe, có một cô người ở là người nước ngoài thì phải?
- Đúng là ông đã lượm mọi tin tức có trong làng! Đúng thế. Con bé đã bỏ đi ít lâu sau của cô tôi, ra đi có thể nói là đột ngột.
- Theo người ta nói, cô ấy có lý do để bỏ đi như thế.
- Phải, nó đã giả mạo bản bổ sung di chúc của cô tôi, có thể có sự giúp đỡ của một đồng lõa.
- Ai vậy?
- Một cậu nhân viên của văn phòng công chứng Medchester người mà ta thấy hay cặp kè với con bé. Cậu này cũng đã từng nhúng tay vào một vụ giả mạo giấy tờ. Vụ bản bổ sung di chúc không đưa ra tòa xử, vì con bé người nước ngoài đó đột nhiên biến mất, từ đó không ai có tin tức gì.
- Tôi vô cùng cảm ơn về tất cả những tin tức bà vừa cho biết, thưa bà.
2
Ở biệt thự “Cây táo” ra, Poirot đi dạo một chút trên con đường song song với phố chính của làng, đường mang tên “Đường nghĩa trang Helsly”. Đi độ mười phút thì tới nghĩa trang nói trên, và Poirot nhận ra nghĩa trang này cũng mới sử dụng khoảng mười năm trở lại. Ngôi nhà thờ, khá uy nghi, có từ thế kỷ 18, như đứng canh cho một khu rào trong đó có một số bia mộ cổ. Một lối đi rộng và sạch sẽ nối nghĩa địa cũ với nghĩa trang mới. Poirot bước theo lối đi ấy và ngắm nhìn các ngôi mộ hiện đại, xây bằng đá hoa hoặc granit. Ông dừng lại trước một ngôi mộ tương đối mới, mang hàng chữ đơn giản: “Tưởng nhớ Hugo Edmund Drake, chồng của Rowena Aabelle Drake, từ giã cõi đời ngày 20 - 3- 19...”
Một bình đá trắng gắn dưới đất, trong cắm những bông hoa đang tàn. Lão gác nghĩa trang già thấy Poirot, liền bỏ chổi và cuốc chạy lại, vẻ hân hoan ra mặt vì có người để tiếp chuyện.
- Ông không phải người vùng ta, nếu tôi đoán không lầm?
- Đúng.
Lão nhìn ngôi mộ nơi Poirot đang đứng :
- Một người tốt, ông Dake. Tàn tật vì mắc bệnh bại liệt trẻ em như người ta gọi, thế mà người lớn cũng bị.
- Ông ấy chết vì tai nạn thì phải?
- Ông ấy sang đường lúc nhá nhem tối. Xe lao tới, trên xe nghe nói có hai thằng mất dạy, râu xồm xoàm. Chúng không buồn đỗ lại, bỏ xe ở một bãi đậu cách đây hai mươi dặm. Bà vợ vô cùng đau khổ, hầu như tuần nào cũng mang hoa viếng mộ. Theo tôi, bà Drake chắc cũng không ở đây lâu nữa.
- Sao, ở đây bà có ngôi nhà đẹp thế mà?
- Theo bác, tại sao bà ấy bỏ Woodleigh Common?
Một nụ cười ranh mãnh thoáng qua trên mặt lão gác :
- Có thể bà ta chẳng có việc gì ở đây nữa. Nơi đây bà đã hoàn thành khá nhiều việc, hơi quá nhiều là đằng khác.
- Vì vậy bà cần một địa bàn hoạt động mới?
- Ông đã nói rồi đấy! Bà ấy muốn đi nơi khác để lại dắt mũi nhiều người khác nữa. Ở đây, chúng tôi đã rằm rắp theo bà ấy rồi, mọi việc ổn định rồi.
- Nhưng bà ấy sẽ đi đâu?
- Làm sao tôi biết. Có thể là Riviera, hoặc bờ biển Tây Ban Nha, hoặc Hy Lạp. Tôi đã nghe bà ta nói nhiều lần đến các đảo ở Hy Lạp. Hình như bà Butler cũng đã từng đi du lịch ở đó.
- Các đảo Hy Lạp - Poirot lẩm bẩm - Bác thấy bà ấy có dễ thương không?
- Ai? Bà Drake? Ồ, tôi không dám khẳng định. Con người tốt, hay giúp đỡ mọi người...nhưng ông biết đấy, thiên hạ lại hay không thích những kẻ làm ơn cho mình. Bà ấy luôn luôn khuyên bảo tôi phải làm gì khi ghép những cây mận của tôi. Làm như tôi không hiểu gì về chuyện ấy!
Poirot mỉm cười.
- Xin lỗi, tôi phải đi thôi. Bác làm ơn chỉ cho tôi đến nhà Nicholas Ransom và Desmond Holland.
- Qua nhà thờ, là nhà thứ bên trái. Họ trọ ở nhà bà Brand và hằng ngày đến trường kỹ thuật ở Medchester. Giờ này chắc họ có nhà.