Ngày 14-09-1932, Thiên Phúc Hào bị thiết giáp hạm Quang Trung chặn lại ở một vùng nước sâu, cách đảo HảiNam120km về phía Đông.
Thuyền trưởng Thiên Phúc Hào là thiếu tá Giang Cẩm Đông, là thành phần cấp tiến trong quân đội dân quốc. Tốt nghiệp trường sỹ quan Hoàng phố tháng 12 năm 1923, ra nhập hạm đội Nam Hải năm 1925, là thành phần trung thành với học thuyết An Nam đô hộ và đường 11 đoạn. Hắn cho rằng mảnh đất phía Nam màu mỡ phải thuộc về dân tộc Hán vĩ đại, hơn nữa, hắn còn điên hơn khi nghĩ rằng dân tộc Hán mới là bá chủ của thế giới bla bla bla...
Có một số người, mới chỉ đạt được 1 chút thành quả nhỏ xíu như con tép đã nghĩ mình là con rồng. Người trung quốc cứ nghĩ cắt bỏ đi cái đuôi sam hữu hình đã là cách mạng rồi, nhưng cái đuôi sam vô hình thì vẫn còn dính ở ót bọn họ, đã cắt bỏ được đâu. Chủ nghĩa A.Q. đầu độc tinh thần, thuốc phiện rượu cồn hủy hoại thể xác. Tuy nhiên, bọn họ muốn sao thì kệ họ, nhưng đã đụng đến Việt nam, vậy thì chờ đợi cơn thịnh nộ của Quốc Minh và Hộ Quốc Quân đi.
Chiến hạm Thiên Phúc Hào được đóng ngày 13-02-1907, hạ thủy năm 1909, đã tham gia cách mạng Tân Hợi, chiến tranh Bắc Phạt... Hiện là chiến hạm thuộc hải đoàn 106 hải quân Trung Hoa Dân Quốc. Trọng tải 1 vạn 2 ngàn tấn, Dài 114m, sườn ngang 22,5m, Mớn nước 8m, có hai động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc cùng 14 nồi hơi, 2 trục máy, công suất 10.070 kW, tốc độ 18,25 hải lý 1 giờ (tương đương 34km/h). Thủy thủ đoàn gồm có 726 người, trong đó có 98 sỹ quan. Thiên Phúc Hào được vũ trang với 4 pháo Amstrong 305mm, 10 pháo QF 152mm, 16 pháo QF 80mm, 4 pháo 20mm, 5 quả ngư lôi 18 inch (457mm). Bọc thép chính dày 457mm, sàn tàu 63mm, tháp pháo và ụ pháo được bọc thép dày 152mm, tháp chỉ huy 356mm.
Chiến hạm Quang Trung được đóng ngày 13-01-1932, hạ thủy ngày 20-01-1932. Là chiến hạm được đóng dựa theo lớp thiết giáp hạm Bismark của Đức, có trọng tải 41.700 tấn, dài 241,5m, sườn ngang 36m, Mớn nước 9,3m, Động cơ đẩy với 12 lò hơi Wagner áp suất cao, 3 tuốc bin hộp số Bohm& Voss, 3 trục chân vịt đường kính 4,7m, công suất đạt đến 111,98 MW, tốc độ 30 hải lý 1 giờ, tương đương 55,7km/h, Thủy thủ đoàn gồm 120 sỹ quan và 1.989 thủy thủ. Vũ trang của chiến hạm gồm có 8 pháo 380mm, 12 pháo 150mm, 16 pháo 105mm, 12 súng máy 20mm, 8 súng máy phòng không 20mm, bọc thép chính dày 320mm, sàn tàu 120mm, vách ngăn 220mm, tháp pháo 360mm, bệ tháp pháo bọc thép dày 342mm, tháp chỉ huy 360mm. Mang theo 1 máy phóng 2 đầu và 4 chiếc thủy phi cơ Arado Ar 196 A-3.
Thủy phi cơ Arado Ar 196 có sải cánh dài 12,4m, cao 4,45m, tốc độ tối đa 311km/h, phạm vi hoạt động là 1.080km, trần bay xấp xỉ 7km, mang theo 2 súng máy 7,2mm, 2 pháo 20mm, 2 quả bom 50 cân.
Thuyền trưởng của chiến hạm này là Nguyễn Văn Phúc Thuần, nghe tên thì tựa như có họ với nhà Nguyễn, nhưng thực ra hắn cũng là người vô tính được sinh sản tại trại lính Hải Phòng. Cả chiến hạm tiêu tốn hết của Quốc Minh 730.000 vàng.
-----------------
Vừa chạm mặt, chiến hạm Quang Trung đã đánh tín hiệu cờ “Không chấp nhận đầu hàng” sau đó hai chiến hạm bắt đầu chạy song song, vũ khí chuẩn bị sẵn sàng.
Lúc 14h ngày 14-09-1932, Thiên Phúc Hào nổ súng trước, mở màn trận hải chiến. Đạn bắn sượt qua thành tàu, dội lên những cột nước khổng lồ. Cá biển bị trúng đạn văng lên tàu giẫy đành đạch. Một viên đạn 80mm bắn trúng sườn trái của tàu Quang trung, 2 thuyền viên hy sinh, 3 người trọng thương, 11 người bị thương nhẹ.
Tàu Quang Trung bắt đầu bắn trả. Pháo 350mm và 150mm đều bắn trượt, pháo 105mm có 2 phát đánh trúng đuôi tàu. Chân vịt của Thiên Phúc Hào bị thương nặng, tốc độ chậm dần. Lúc này tàu Quang trung dựa vào ưu thế về tốc độ, vòng quanh Thiên Phúc Hào liên tục nổ súng.
Lúc 15h32’, một phát đạn 350mm đánh trúng thành phải Thiên Phúc Hào, nước bắt đầu tràn vào
Lúc 16h, Thiên Phúc Hào chộp được cơ hội, phóng liền 1 lúc 4 quả ngư lôi. Thuyền trưởng Thuần hạ lệnh tàu bẻ lái chếch hướng TâyNam13 độ, tránh được 2 quả. Còn lại 2 quả 1 trúng mạn trái của tàu, để lại 1 lỗ hổng lớn, nước tràn vào khoang tàu. Cũng may thiết giáp hạm Quang Trung có khoang chắn, nên tàu chỉ bị nghiêng 1 góc 21 độ. Quả còn lại trúng ngay chân vịt của tàu, khiến 2 chân vịt báo hỏng. Lúc này, Giang Cẩm Đông hạ lệnh cho Thiên Phúc Hào chạy về phía đảo HảiNam, tàu Quang Trung đuổi đằng sau
Lúc 20h, trời tối đen như mực. Tàu Quang Trung vẫn bám chặt phía sau Thiên Phúc Hào, liên tục bắn pháo sáng định vị. Lúc này Quang Trung cách Thiên phúc Hào 2,3 hải lý.
Lúc 7h sáng ngày 15-09-1932, Thiên Phúc Hào cách Hải Nam chỉ còn 14 hải lý, còn khoảng cách từ tàu Quang Trung đến Thiên Phúc Hào lúc này đã bị kéo ra thành 3 hải lý, chỉ cần Thiên Phúc Hào cập cảng Hải Nam là có thể an toàn, pháo ven bờ sẽ bảo vệ nó khỏi chiến hạm của Hộ Quốc Quân. Lúc này thuyền trưởng Thuần mới phái ra át chủ bài của mình, 4 chiếc thủy phi cơ thi nhau cất cánh. Các phi công sử dụng súng máy và pháo liên tục nã vào Thiên Phúc Hào, khiến cho các thủy thủ không ngẩng được đầu lên. 4 chiếc thủy phi cơ như những con chim săn mồi bao vây con cá mập lớn, khiến nó liên tục bị thương nặng.
Lúc 7h30’ ngày 15-09, một viên đạn pháo từ chiếc thủy phi cơ số hiệu 159 đã bắn xuyên qua lớp thép dày 356mm đã thủng lỗ chỗ của tháp chỉ huy và nổ tung, thuyền trưởng Giang Cẩm Đông cùng 12 sỹ quan chết ngay lập tức. Chiến hạm không có chỉ huy bắt đầu chạy lờ đờ.
Lúc 8h, sau 1 tiếng bắn phá, 4 chiếc thủy phi cơ lấy độ cao và thả tất cả 8 quả bom 50kg lên mình Thiên Phúc Hào. Một chiếc rơi trúng ống khói, rớt ngay cạnh Lò hơi. Áp suất khi lò hơi nổ tung khiến 2 bên chiếc Thiết giáp hạm phùng lên, sau đó 1 tiếng nổ lớn vang lên, đã rách nát vô cùng Thiên Phúc Hào cuối cùng cũng gẫy làm đôi, từ từ chìm xuống. 4 chiếc thủy phi cơ cùng chiến Hạm Quang Trung cũng không dừng tay lại mà cứ nhằm vào di hài của Thiên phúc Hào nã đạn, bắn suốt 1 tiếng đồng hồ. Đến 9h, Tàu Quang Trung bắt đầu rời khỏi chiến trường, hướng về cảng Hải Phòng mà trở về.
----------
Khi nhận được tin báo, Quốc Minh chỉ nói 1 câu: “Đánh tốt lắm”. Sau đó, hắn thay bộ thường phục rồi cùng Lãnh Tụ lên chiếc xe Jeep hướng về phía Nghệ An. Lãnh Tụ rời quê từ năm 1906, đến nay mới có dịp về thăm nhà. Trên xe, Quốc Minh xúc động ngắm người đàn ông ở thế giới kia đã mang trên vai mình sức nặng của cả một dân tộc, từ khi lớn lên cho đến khi nhắm mắt vẫn không ngừng nghĩ đến nước, đến dân. Vẫn vầng trán cao, vẫn bộ râu bạc, đôi mắt sâu thăm thẳm tựa như trời Hà Nội buổi đêm, vẫn nụ cười hiền hậu mà thân thiết. Người nói:
- Chú biết không. Tôi đi xa ngần ấy năm, giờ mới lại trở về quê nhà. Nhờ chú, nhờ Chú Học mà dân mình đỡ khổ. Nhưng để dân mình hết khổ thì còn phải cố nhiều lắm.
- Vâng. Cháu biết. Chẳng biết giờ ở quê Bác còn ai không?
- Còn chứ. Tôi có ông anh ruột và bà chị gái. Lâu ngày không gặp chả biết hai anh chị có còn khỏe mạnh không. – mắt Người đã hơi đỏ - xa nhau thế mà đã mấy chục năm rồi đấy chú ạ
Ngừng lại để hút điếu thuốc, Người lại nói:
- Chú biết không, giờ tôi với chú Học lo nhất là tìm cho chú một bà Tổng thống lĩnh phu nhân, chứ độc thân mãi thì không được đâu.
Quốc Minh cười cười, không nói. Bên ngoài, những cánh đồng lúa xanh mơn mởn chạy dài đằng sau, những người nông dân hiền hậu đang cắm mặt cũng ngẩng đầu lên ngó đoàn xe. Đôi khi có mấy cô con gái còn ném những câu hò trêu chọc, rồi vịn nhau cười tủm tỉm. Có mấy khi Quốc Minh cũng vui vẻ hát đối lại mấy câu. Lãnh Tụ nhìn Quốc Minh cười nói
- Đấy, tuổi trẻ thích thế đấy. Tôi thì già rồi!
- Già gì mà già. Cháu thấy Bác còn trẻ lắm. Vẫn còn lội suối leo đèo thừa sức. Hì2
- Chú cứ nói thế. Mà này. Chú biết truyện các vua Hùng không
- Có ạ!
- Đấy. Dựng nước đã khó, giữ nước còn khó hơn. Các vua Hùng đã có công dựng nước, Tôi và các chú cùng các cán bộ phải cùng nhau giữ lấy nước. Gian khổ đấy. Nhưng chúng ta sẽ làm được.
Câu này Quốc Minh nghe quen quen, cuối cùng nhớ ra đó là câu nói Lãnh Tụ đã cùng các chiến sỹ đại đoàn 308 ở đền Hùng năm 1954.
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của tienlaso1
Sáng nay trời xanh chan hòa, nắng vàng trải rộng trên các nẻo đường quê. Khi chiếc xe Jeep quân sự chở Lãnh Tụ cùng Quốc minh bắt đầu tiến vào địa phận tỉnh Nghệ An, Quốc Minh quay sang hỏi Người:
- Giờ Bác về trước nhà khách chính phủ nghỉ ngơi chứ?
Người mỉm cười nói:
- Đi lâu rồi tôi mới về thăm quê, tôi phải về nhà trước chứ. Nhà khách là để cho khách, tôi có phải khách đâu.
Nói rồi Lãnh Tụ bảo người lái xe rẽ vào lối vào nhà người. Đến con đường nhỏ ngang qua hồ sen, Quốc Minh mới hỏi:
- Nhà Bác ở đâu?
Người lại cười, đùa:
- Đấy là nhà cụ Phó Bảng, chứ có phải nhà tôi đâu. Tôi đang chờ các chú phân nhà để ở đây.
Thế rồi khi đến trước nhà, người lại rưng rưng nước mắt:
- Tôi xa quê đã 30 năm rồi, thường tình người ta xa nhà thì mừng mừng tủi tủi, tôi không thấy tủi, chỉ thấy mừng. Bởi vì khi tôi ra đi nước ta còn nô lệ, bị phong kiến đế quốc đè đầu cưỡi cổ, mà bây giờ tôi về thì đất nước đã được giải phóng, nhân dân đã được tự do.
Từ trong nhà có tiểng phụ nữ hỏi vọng ra:
- Ai ở ngoài ngõ thế?
Lãnh Tụ đột nhiên sững người lại. 30 năm rồi, 30 năm rồi người mới được nghe lại tiếng nói này.
Từ trong nhà, một người phụ nữ gày gò bước ra, bà mặc một chiếc áo nâu sòng, đầu vấn khăn mỏ quạ. Vừa nhìn thấy Lãnh Tụ, bà sững sờ làm rơi cả thúng thóc đang cầm trên tay. Thế rồi bà chạy lại, ôm chầm lấy Người, nói trong nước mắt:
- Cậu... cậu ... cậu đã về. Cậu có khỏe không?
Lãnh Tụ cũng khóc, mắt Người chớp chớp, rồi Người lấy khăn chấm nước mắt của mình và nói:
- Chị khỏe không? Em biết anh chị ở quê mà bận quá chưa dứt việc được, giờ em mới về được
Sau đó Lãnh Tụ cùng bà Bạch Liên đi vào nhà. Đến bên bàn thờ, Người thắp mấy nén hương đốt cho cha mẹ. Quốc Minh để ý thấy bàn thờ này không có chân mà nó được đỡ trên 2 tấm gỗ đóng vào cột nhà. Bàn thờ là một tấm niếp bằng nứa trên chải chiếu môc, và đồ thờ đều làm bằng gỗ trông thật giản dị. Sau khi thắp hương, Người kéo Quốc Minh lại ngồi trên tấm phản tiếp khách, uống nước chè xanh, nói chuyện gia đình. Người nói với Minh
- Ngày đó, tôi còn bé, cụ thân sinh tôi, tức là cụ phó bảng ấy, đã cùng với các cụ Phan Bội Châu, Phan huy Chú cùng các chí sỹ Cách mạng khác đã nói chuyện chống Pháp trên tấm phản này, và tôi may mắn được đứng hầu bên cạnh đấy.
Lúc này bà Bạch Liên ngồi xuống đối diện 2 người, Bà nhìn Lãnh Tụ thật sâu rồi hỏi: “Cậu đi lâu thế có nhớ quê hương không? Có nhớ chị ngồi đưa võng cho cậu ngủ, chị hát bài ru non nước không? Thủa đó, gia đình ta khá vất vả”. Nói đến đây, bà lại khóc, khiến nét mặt Lãnh Tụ cũng bùi ngùi. Người lấy 1 chiếc khăn chấm đôi mắt, rút 1 điếu thuốc hút, rồi vừa nhìn ra vườn, vừa ngậm ngùi nói:
- Chị ơi, quê hương nghĩa nặng ơn sâu, mấy mươi năm ấy biết bao nhiêu tình, những chiến sỹ cách mạng chân chính đều là những người con chí hiếu. Chị ơi, ở nước ngoài, có đôi khi đêm khuya thanh vắng, bỗng chốc nghe một lời ru con của người mình, thì lòng dạ mình lại càng thêm nhớ đất nước, quê hương, bà con.
Sau đó, Lãnh Tụ quay qua hỏi bà Bạch Liên về tình hình quê nhà, làng Kim Liên, Hoàng Trù... các cụ trong làng... Bà Bạch Liên thân mật hỏi Lãnh Tụ:
- Chị hỏi thật cậu, việc gia đình riêng của cậu thế nào rồi?
Nghe bà Bạch Liên hỏi, nét mặt Người hơi nghiêm lại, im lặng giây lát rồi Người trả lời người chị ruột của mình rằng, việc đó không thể được, từ trước đến nay chưa bao giờ nghĩ đến việc đó và cũng không thể nghĩ đến việc đó được.
Hai chị em nói chuyện một lúc, bà Bạch liên mời mọi người ở nhà dùng cơm, nhưng Lãnh Tụ lại từ chối vì còn phải đi sang nhà ông anh cả nữa.
Lúc 11h30, Quốc Minh và Lãnh Tụ đến nhà ông cả Khiêm. Ông Khiêm vừa thấy người vội chạy ra ôm chầm lấy Lãnh Tụ, nghẹn ngào:
- Chú, Chú đã về. Chú có khỏe không? Anh em mình xa nhau lâu quá.
Chòm râu của Lãnh Tụ chạm vào má ông Cả Khiêm, nét mặt người cảm động nhưng vui tươi. Người nói:
- Em mới về. anh có khỏe không. Em vừa ở chỗ chị Hai sang. Em về 1 thời gian rồi mà giờ mới về thăm anh chị được. em thật có lỗi quá.
Nói rồi Người rút thuốc lá mời ông cả Khiêm hút, nhưng ông không nhận mà nói:
- Tôi hút thuốc lá Cẩm lệ quen rồi, thuốc đó nhẹ, chú để mà hút.
Lãnh Tụ cười và đọc một câu thơ:
“Chốc đà mấy chục năm trời
Còn non, còn nước, còn người hôm nay”
Ông Cả Khiêm đang ngồi quấn thuốc lá Cẩm Lệ cũng đọc luôn:
“Thỏa lòng mong ước bấy lâu
Nước non rợp bóng cờ bay đón Người”
Lúc dùng cơm trưa, món ăn cũng chỉ có mấy con cá rán, một ít rau trong vườn, QUốc Minh chỉ ăn một ít, định lát nữa cùng hệ thống đổi ít đồ ăn. Hắn không quen ăn kiểu này. Nhưng Lãnh Tụ cùng ông Khiêm lại ăn rất ngon miệng. Ông Cả Khiêm hỏi: “Chú đi lâu thế có nhớ “Khơm công” không” Người cười nói: “Nhớ chứ sao không anh. Lúc đó không chỉ anh em mình mà cả Nghệ An, cả Việt nam đều “Khơm Công” (Khơm công là nói lái của “Không cơm”)”
Sau bữa ăn, Quốc Minh để Lãnh Tụ cùng ông cả Khiêm đi thăm bạn bè, hàng xóm, còn hắn trốn dưới gốc cây dừa sau nhà Người, gặm cái Bánh mì ba tê thịt nướng, uống cà phê. Đang ăn uống ngon lành thì hắn chợt thấy một đôi mắt tròn xoe từ sau hầng râm bụt đang lén lút quan sát hắn. Mỉm cười hiền lành, Quốc Minh vẫy vẫy tay. Một cô bé khoảng 9-10 tuổi, tóc tết hai bên, rón rén lại gần hắn. Quốc Minh chìa cái bánh mì cho cô bé. Con bé rụt rè một chút rồi nhận lấy, ăn ngon lành. Nhìn vẻ mặt của nó thật hạnh phúc. Lúc này Quốc Minh mới thấm thía lời nói của Lãnh Tụ: “Giờ dân mình đỡ khổ rồi, nhưng còn lâu mới hết khổ”. Đối với những người dân nghèo này, một bữa cơm no, một bữa cơm có cá, có thịt vẫn còn là ước mơ xa vời, đâu có như cái thời đại kia của hắn, ăn gì cũng chê ỏng chê eo, thức ăn còn thừa chút ít là đổ đi, trẻ con bị ép ăn thịt thì lén lén cho vào túi ni-lông rồi đến chỗ khuất thì vứt đi... Quốc Minh cười cười dựa vào gốc cây dừa, chợp mắt một lúc. Trong giấc mơ của mình, hắn thấy trẻ em được đến lớp, người dân không còn bị đói, nơi nào cũng có điện sáng trưng, những căn nhà ngói đỏ tươi sẽ thay thế cho những mái tranh, mái rạ nay dột mai tốc...
- Hắt xì!!! - Quốc Minh hắt hơi tỉnh giấc. Con bé đang cười cười dùng cọng cỏ lông gà chọc chọc vào mũi hắn. Thấy hắn tỉnh, con bé sợ hãi núp sau cây ổi gần đó, nói lí nhí:
- Ông bảo cháu gọi ngài dậy, gần tối rồi. – Lúc này Quốc Minh mới sờ đồng hồ. Hắn ngủ suốt 4 tiếng, giờ đã gần 4h chiều rồi.
Vào nhà, Lãnh Tụ cùng ông cả Khiêm cười cười, nói Quốc Minh may mà không bị muỗi khiêng mất, coi bộ muỗi cũng không dám đụng đến ngài tổng Thống lĩnh quân đội a. Quốc Minh xấu hổ gãi gãi đầu. Hắn cùng Lãnh Tụ chào ông cả Khiêm, chào bà Bạch Liên, chào bà con. Trước khi đi, Quốc Minh đổi mấy chục gói bánh mì, thịt khô, lương khô chia cho mấy đứa trẻ con. Con bé lúc sáng đứng nép sau bụi râm bụt, nhìn đoàn xe đi khuất về phía xa, đôi mắt nó đỏ lừ, không biết là do bụi hay cái gì...
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của tienlaso1
Chỉ vài ngày sau sự kiện Thiên Phúc Hào, chính quyền Dân Quốc gửi công hàm ngoại giao yêu cầu Việt Nam trả lời về việc tấn công tàu của Trung Quốc trên lãnh hải của họ. Bộ ngoại giao nước Cộng Hòa Đông Dương trả lời Trung Quốc rằng đây là trừng phạt vì việc tấn công thường dân. Tiếp đó là một lần tranh cãi ngoại giao kéo dài suốt 5 tháng
Báo Tân Dân Quốc của Trung Hoa viết:
“Hành động của quân đội An Nam là trắng trợn khiêu khích. Theo thông cáo số 114 của chính phủ Dân Quốc thì vùng biển nằm trong khu vực đường 11 đoạn là của Trung Hoa, Tàu đánh cá của Việt Nam đã vi phạm, lại dùng vũ lực chống lại hải quân Dân Quốc, do đó bị đánh chìm. Người An Nam đã không biết phải trái, lại dùng thủ đoạn ti bỉ tấn công và đánh chìm chiến hạm Thiên Phúc Hào của chúng ta. Hỡi quốc dân, dùng máu và sắt cho bọn man di biết “Minh phạm hán cường giả, tuy viễn tất tru””
Báo Trưa Thượng Hải viết
“Từ bao lâu nay, xứ An Nam vẫn là triều thuộc của thiên triều, nay quy về cũng là nên làm, vậy mà triều đình An Nam không biết tiến thối, lại dám ngang nhiên chống lại thiên triều, cũng là ngược với vận thế vậy. Nay nếu không biết hối cải, đem thủ phạm giao ra rồi nhận lỗi với Dân Quốc, vậy một cơn binh lửa qua đi, hẳn sẽ không còn gì. Chỉ hỏi chính phủ Nam Man 1 câu: Đồng trụ của Mã Viện đâu rồi?”
Đây là khiêu khích, trắng trợn khiêu khích. Nhân dân Việt nam nổi giận rồi. Quốc Minh nổi giận rồi. Hộ quốc Quân cũng nổi giận rồi. Cả đám quan chỉ huy thay nhau đến gặp Quốc Minh xin đánh. Lúc này, Đông Dương Cách Mạng Báo cũng bắt đầu phản kích. Bài viết: “Biển Đông hay Nam Hải, bằng chứng lịch sử” của tác giả N- Á- Q có đoạn:
“Từ thời Tống, Trung Quốc đã có bản đồ phân rõ ranh giới quốc gia, cho đến tận nhà Thanh. Tuy có thay đổi khác nhau, nhưng tất cả đều ghi rõ điểm cựcNamcủa Trung Hoa chỉ đến đảo hải nam, hay còn gọi là Quỳnh Châu. Còn các bản đồ như Hồng Đức bản đồ, phủ biên tạp lục của nước ta đều đã có Hoàng Sa và Trường Sa, như một thể thống nhất của đất nước vậy. Năm 1816, Vua Gia Long Nguyễn Ánh cũng sai người cắm cờ Hoàng long Kỳ trên khu vực Quần đảo Hoàng Sa, khẳng định chủ quyền của Việt nam trên quần đảo này. Do đó, đường 11 đoạn của Trung Quốc là hoàn toàn vô lí. Trung Quốc đã cố ý bỏ qua các thông lệ quốc tế, muốn dùng thủ đoạn mạnh mẽ để ép buộc nhân dân Việt nam từ bỏ chủ quyền biển, điều đó là hoàn toàn không có khả năng. Dân tộc Việt nam sẽ đem tất cả sức người, sức của để bảo vệ chủ quyền của dân tộc”
Báo Quân đội cũng có bài viết “Bảo hộ quốc gia là nghĩa vụ của quân nhân” có đoạn:
“Chúng ta muốn hòa bình, nhưng hòa bình không phải bằng mồm mép hay ngoại giao mềm mỏng mang lại. Nước yếu thì không có tiếng nói. Hành động của Thiên Phúc Hào đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh cho quân đội nói riêng và chính phủ nói chung. Thay mặt quân đội, tôi hướng đồng bào gửi đến lời chia buồn sâu sắc nhất, đồng thời cũng xin lỗi vì quân đội đã không hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ nhân dân của mình. Những kẻ nợ máu nhân dân trực tiếp là thủy thủ Thiên Phúc Hào đã đền tội, nhưng những kẻ bí mật ra lệnh cho bọn chúng thì vẫn nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật. Nhưng tôi cùng các binh sỹ vệ quốc quân xin hướng bà con và hương hồn các ngư dân xin thề, sẽ bắt những kẻ đó phải đền tội. Đối với quân thù phương bắc, chỉ có 1 câu thôi: Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!” – Tổng thống lĩnh quân đội, Tư lệnh Hộ Quốc Quân, Trung Tướng Trần Quốc Minh.
Sau mấy tháng báo chiến và ngoại giao chiến sục sôi, nhưng lại không hề có kết quả, Chu thái Cấu tập trung 5 vạn quân chính quy, 8 vạn dân phu, 5000 kỵ binh tại Giang Môn, nói quá lên rằng có 20 vạn quân đội, chuẩn bị Nam tiến, “dạy cho An Nam một bài học”. Tưởng Giới Thạch đánh điện cho Bạch Sùng Hi, Lý Tông Nhân nói với Chu Thái Cấu đừng nên manh động, nhưng Cấu không nghe.
Sáng ngày 17-02-1933, một ngày mùa xuân nắng đẹp,không hề báo trước hay thanh minh gì, quân Trung Quốc bắt đầu nổ súng tấn công ViệtNam. Quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng, nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, nhánh thứ 2 có quân đoàn 41A từ Tĩnh Tây đánh vào Cao Bằng và Đông Khê. Đám Việt gian gốc Hoa cũng nổi dậy làm loạn, toàn bộ biên giới phía Bắc chìm trong lửa khói.
Ngày 18-02-1933, lúc 8h30 sáng, 4 tốp máy bay MEG-21 gồm 36 chiếc xuất phát từ sân bay quân sự Gia Lâm, thẳng hướng phía Bắc trợ chiến cho các tiểu đoàn dân quân địa phương và biên phòng. Sử dụng súng máy 7,2mm, bom 50kg, 36 chiếc MEG đã gây tổn thất đáng kể cho quân xâm lược.
Ngày 21-02-1933, Hộ Quốc Quân có mặt ở Lạng Sơn. Lúc này, quốc Minh mang đến đây 2 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn bộ binh, 3 đại đội Tăng thiết giáp, 1 tiểu đoàn cối, 1 trung đội pháo binh. Tổng cộng 1 vạn quân. Tuy yếu hơn về quân số nhưng quân Việt nam không hề nao núng. Phía sau, Lãnh Tụ và Nguyễn Thái Học cũng bắt đầu tụ tập quân phòng bị Đông Dương và quân tình Nguyện, nhưng yêu cầu khá hà khắc. Nhà con 1, không tuyển. Chưa có vợ con, không tuyển. Dưới 20 tuổi, không tuyển. Công nhân giỏi nghề, nhân viên nhà nước, cũng không tuyển. Tuy thế Quốc hội cũng tập trung được gần 6 vạn quân phòng bị Đông Dương (trên biên chế 9 vạn quân Khố xanh của Pháp ở Việt nam) và gần 10 vạn quân tình nguyện.
Sáng ngày 22-02-1933, tiểu đoàn dù số 13 của Hộ quốc quân chạm trán 300 kỵ binh thuộc trung đoàn kỵ binh Độc lập số 31, quân đoàn 41A Quảng Châu tại một bản nhỏ cách Lạng sơn 38km. Từ phía xa, qua ống nhòm, chỉ huy trưởng tiểu đoàn nhìn thấy 10 tên lính Dân Quốc cưỡi ngựa, đuổi theo phía sau một nhóm nhỏ dân chúng. Đám quân Tưởng thúc ngựa lao vào giữa đám người, vung đao chém loạn xạ, sau đó dừng lại, đợi cho dân chúng chạy được 1 lúc, lại thúc ngựa lao lên.
Trung úy Phạm Ngọc Tuấn, chỉ huy trưởng tiểu đoàn dù số 13 lập tức hạ lệnh tiểu đội pháo cối chuẩn bị, nhằm vào phía sau đám kỵ binh mà nổ súng. Những quả đạn cối xé gió rơi trúng mục tiêu khiến 2 con ngựa lẫn người cưỡi bay lên trời. Các chiến sỹ hộ quốc quân cũng bắt đầu bắn tỉa mục tiêu, chỉ vài phút, toàn bộ 10 tên giặc đã phải đền tội. Sai 2 chiến sỹ đưa đồng bào rút về lạng sơn, tiểu đoàn dù số 3 tiếp tục lên đường.
Bên trong bản, đám lính Khựa vẫn tiếp tục bắt gà bắt vịt, vơ vét của cải, đuổi bắt phụ nữ mà không biết tử thần đã bủa lưới bên ngoài. 1 loạt tiếng nổ vang lên, những đám khói mù màu vàng bốc lên khắp nơi. Các chiến sỹ hộ quốc quân đồng loạt lấy ra mặt nạ phòng hộ đeo vào, sau đó lao vào trong bản. Quân Khựa bị hốt hoảng, ngựa bị khói xông mặc kệ người điều khiển, lao như điên khắp nơi. Tiếng la hét, tiếng chém giết vang lên khắp nơi. Sau 30’ chiến đấu, đám khói cũng dần tan ra, quân Khựa đã hoàn toàn bị tiêu diệt, 100 kỵ binh chỉ còn 30 tên sống sót, còn lại nếu không phải bị ngựa điên dẫm nát thì là bị hất vào đống lửa hoặc bị Hộ Quốc Quân tiêu diệt.
Ngọc tuấn đến trước mặt một căn nhà đang cháy dở, cửa nhà bị chặn bằng gỗ. Hắn hạ lệnh cho binh sỹ tháo bỏ tấm gỗ, mở cửa ra xem bên trong có gì. Đám lính Khựa lúc này mặt xám ngắt, cả người run rẩy. Tấm gỗ vừa được tháo ra, cánh cửa cháy dở đã đổ sập ra dưới sức nặng của bên trong. Tất cả lính Hộ Quốc Quân nhìn thấy cảnh ở bên trong đều tức giận muốn nổ tung, tay nắm chặt lại, mắt bốc lửa... Phải biết Hộ Quốc Quân là lính vô tính, kỷ luật đã ăn sâu vào máu thịt, trái tim đã biến thành sắt đá, vậy thì điều gì có thể khiến những người lính vô cảm này tức giận đến vậy. Bên trong là mấy trăm xác người chết cháy, có người già, phụ nữ, trẻ em. Tất cả đều dồn lại bên cánh cửa duy nhất, hy vọng hít được một ít không khí, tránh xa ngọn lửa tàn bạo... Không nói không rằng, Ngọc Tuấn xách cổ một tên lính Khựa, ném vào căn nhà đang cháy dở gần đó. Tên này giãy giụa, kêu gào thảm thiết khi ngọn lửa ôm lấy hắn, dần dần biến hắn thành tro bụi. Đám lính của tiểu đoàn cũng học theo, xách cổ những tên còn lại chuẩn bị ném vào lửa. Đúng lúc đó lính liên lạc chạy tới, hớt ha hớt hải nói:
- Tư lệnh yêu cầu giữ lại tù binh!
Ngọc tuấn mặt lạnh tanh, nhún nhún vai, quay sang lính tiểu đoàn hỏi:
- Tù binh! Tù binh nào? Chúng ta có tù binh sao các anh em?
Cả tiểu đoàn ầm ĩ đáp lời
- Không có!
- Làm gì có!
- Bọn Khựa chống cự ngoan cố, không chịu đầu hàng lấy đâu ra tù binh!
Sau đó, đem đám lính Khựa còn lại ném vào lửa. Sau đó, Ngọc tuấn bắt đầu ra lệnh cho lính của mình đào bới công sự, bố trí ổ súng máy, súng cối, chuẩn bị giao chiến.
Lúc 9h, 200 kỵ binh Khựa còn lại cùng kéo đến. Kết quả không cần phải nói, toàn bộ tiểu đoàn dù trang bị đều là súng tiểu liên MP40, lại còn có 5 khẩu súng máy MG42, 1 tiểu đội pháo cối, lại có công sự đầy đủ. 200 kỵ binh chỉ chạy thoát không đến 50 tên, số còn lại mãi mãi nằm lại nơi này, trở thành phân bón cho đất rừng Đông Bắc.
Chiều ngày 22-02-1933, Đại đội thiết giáp số 2 cùng tiểu đoàn bộ binh số 6 hợp binh với tiểu đoàn dù 13, chuẩn bị tiêu diệt 4 vạn quân Khựa ở Đông Khê, lực lượng còn lại thì theo Quốc Minh tiến đến chặn lại 8 vạn quân Khựa ở Đồng Đăng. Quốc Minh đưa ra phương án tác chiến là dùng thiết giáp chọc sâu vào trận địa địch, bộ binh yểm trợ cho thiết giáp, máy bay và pháo binh oanh tạc trận địa pháo của địch
Dọc đường hành quân, những cảnh đau thương tang tóc diễn ra ngay trước mắt các chiến sỹ Hộ Quốc Quân. Đâu đâu cũng là những nóc nhà bị đốt cháy, người dân dắt díu nhau chạy loạn, xác chết thảm thương của nhân dân...
Lúc 5h sáng ngày 24-02-1933, nhánh quân số 1 tiến đánh Đông Khê, sau 1 đêm hành quân đã vào vị trí, chuẩn bị chiến đấu. Lúc 5h30, từ Hà Nội, 4 phi đội máy bay cất cánh, hướng về phía Đông Khê. Ngay khi quân Khựa đang nấu đồ ăn sáng, các phi công Việt nam nhằm thẳng chỗ có lửa mà oanh tạc và khai hỏa súng máy. Quân địch bị đánh bất ngờ, dần dần trở nên hỗn loạn. Thừa lúc này, 10 chiếc xe tăng và mấy chục chiếc thiết giáp bắt đầu tiến lên, bộ binh xen kẽ ở giữa. Pháo binh cũng đã được máy bay chỉ điểm, nhắm chuẩn vào khu vực bố trí pháo của Khựa mà nã đạn. Đạn pháo như mưa, đôi khi có phát “may mắn” trúng khu vực để đạn khiến nó nổ tung như pháo hoa, kéo theo là linh kiện của khẩu pháo gần đó văng khắp nơi. Xe tăng cũng không thèm ngừng lại bắn pháo, thi nhau hướng quân Khựa nã súng máy và nghiền ép như xe lu.Chỉ sau 20’ kể từ khi Hộ Quốc Quân bắt đầu khai hỏa, quân Khựa đã thi nhau buông súng đầu hàng hoặc bỏ chạy mất dép. Trận chiến Đông Khê, Hộ Quốc Quân tổn thất 2 xe tăng, 6 xe bọc thép, 30 lính, trong đó có 9 chết, 21 bị thương. Quân Khựa bị tiêu diệt 2 vạn 3 nghìn quân, bắt sống 1 vạn, còn gần 7 nghìn chạy thoát.
Chỉnh đốn lại đội hình, phái bộ đội đưa tù binh Khựa về tuyến sau, nhánh quân số 1 lại tiếp tục Tây tiến, chuẩn bị cắt đứt đường lui của Khựa.
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của tienlaso1
Thị trấn Hà An Bình, thuộc huyện Hà Lạng, tỉnh Cao Bằng, hiện là nơi đóng quân của quân đoàn 42A, quân đội Quảng Đông thuộc trung Hoa dân Quốc. Chu Thái Cấu đang ngồi trong một nhà sàn, nhìn tấm bản đồ quân sự chằng chịt những đường xanh đò, đôi mày cau lại. Hắn thật không ngờ cái đất nước nhỏ bé này lại có tiềm lực quân sự mạnh như vậy. Một quân đoàn 4 vạn người, chỉ trong một ngày lập tức biến thành không khí. Hiện giờ, lão Cấu vô cùng hối hận, chỉ muốn nhanh chóng rút quân khỏi Việt nam, về phủ tổng đốc của lão mà đánh 1 giấc thôi. Tuy nhiên, giờ phút này nếu rút lui, chắc chắn họ Bạch (Bạch Sùng Hy) và họ Lý (Lý Tông Nhân) tuyệt đối không tha cho lão. Mất đi gần 4 vạn quân, quân phiệt Quế hệ nhất định sẽ bị thiệt hại nặng nề, Quốc trưởng tuyệt đối sẽ nhân cơ hội này mà chèn ép Quế Hệ. Đang lúc Chu Thái Cấu đang đau đầu về vấn đề đi hay ở thì có lính liên lạc vào báo cáo với lão rằng kỵ binh phát hiện quân An Nam, đang chuẩn bị chiến đấu.
Bên ngoài thị trấn Hà An Bình, quân Khựa đào đắp những chiến hào dài, bố trí súng máy, pháo cối cẩn thận. 8 vạn quân, trong đó có 3 vạn quân chính quy co quắp lại trong suốt tuyến phòng thủ dài 6km, chia làm 3 tuyến. Trung tâm thị xã là đội quân cận vệ của Chu Thái Cấu, trang bị vũ khí tối tân nhất, đó là súng tiểu liên MAS23 của Pháp. Phía ngoài trận địa là 4500 kỵ binh đang dàn trận. Những con ngựa Đại liên cao lớn, mũi thở phì phò hơi nóng, móng guốc đạp đạp trên đường. Đám kỵ binh đang kiểm tra lại vũ khí: những khẩu Mossin Nagant 1891, súng lục hoặc bội kiếm.
Từ phía xa xa, một đám bụi đen bắt đầu dâng lên, từ trong đám bụi xuất hiện 20 chiếc xe tăng và gần trăm chiếc xe bọc thép, xe tăng dẫn đầu, bọc thép chở quân ở phía sau. Đến cách quân địch 2km, đoàn thiết giáp dừng lại, bắt đầu đổ quân. 20 chiếc xe tăng dàn hàng ngang, bắt đầu cho quân Khựa nếm mùi đạn pháo. Đạn pháo cắt ngang bầu trời, sau đó rơi vào trận địa của Khựa và nổ tung. May mắn cho đám bộ binh khựa có chiến hào bảo vệ, tổn thất không lớn, nhưng đám kỵ binh thì không may mắn như thế. Đạn pháo rơi vào giữa đội hình, thổi bay cả người lẫn ngựa. Không thể chờ đợi được them, đám kỵ binh Khựa chia làm 2 đường, vòng theo 2 cánh, chuẩn bị tập kích vào đội hình bộ binh đang xây dựng trận địa.
2 đại đội thiết giáp cũng tách ra, chia nhau chặn lại quân địch. Tiếng súng máy vang lên khắp nơi.
Không như xe tăng, có lớp bọc thép dày đặc bảo hộ, các xạ thủ bắn đại liên trên xe thiết giáp phải lộ nửa thân mình ra ngoài, dễ dàng trở thành mục tiêu cho các xạ thủ của Khựa. Chỉ trong phút chốc, có gần 10 lính Hộ Quốc Quân bị trúng đạn. Nhưng đổi lại, súng máy tựa như lưỡi hái vô tình thu hoạch tính mạng của quân Khựa, cả người lẫn ngựa thi nhau ngã xuống, mà đã ngã xuống thì khả năng sống xấp xỉ bằng 0, vì sẽ bị những thớt ngựa đằng sau đạp nát. Xe thiết giáp nối nhau tạo thành một bức tường thép, áp dần về phía kỵ binh của Khựa. 50m, 20m, 5m, va chạm rồi. Kỵ binh Khựa va chạm mạnh mẽ với bức tường thép, bị đẩy bật ra, bị nghiền nát, bị đẩy ngã. Nhưng cú va chạm này cũng gây thiệt hại không nhỏ cho Hộ Quốc Quân. Nhân lúc lại gần, quân Khựa thi nhau ném những quả lựu đạn chuôi gỗ về phía những chiếc xe bọc thép của Hộ Quốc quân. Lựu đạn rơi vào và phát nổ trong xe khiến cả lái xe lẫn xạ thủ súng máy đều anh dũng hy sinh. Ước tính chỉ trong 3’ va chạm, quân Khựa thiệt hại gần 600 kỵ binh, còn Hộ Quốc Quân cũng có gần 40 chiếc xe bọc thép chở quân bị phá hỏng. Lúc này quân Khựa bắt đầu từ 2 cánh tiến về phía trận địa của Hộ Quốc Quân. Nhưng thật không may, các bệ súng máy đã được dựng lên, MG40, MG42, súng tiểu liên MP40 bắt đầu thi nhau nã đạn vào kỵ binh Khựa. Quân Khựa liên tục ngã xuống, không có một con ngựa nào có thể lao qua lưới lửa của Hộ Quốc Quân. Xe tăng của Hộ Quốc quân cũng đã quay đầu lại, tấm lưới lớn đã bao phủ.
Sau gần 1 tiếng thảm thiết chiến đấu, kỵ binh Khựa rút lui trở về chỉ có chưa đầy 400 người. Hộ quốc Quân tiêu diệt toàn bộ hơn 4000 kỵ binh, thu được xấp xỉ 2000 chiến mã. 2 đại đội Thiết giáp có 37 xe bọc thép bị phá hủy, 89 người hy sinh, 12 xe hỏng nhẹ, 43 người bị thương nhẹ, coi như là bị trọng thương rồi. Bộ binh hy sinh 39 người, bị thương 41 người, 2 ổ súng máy MG42 bị hóc đạn, coi như hỏng.
Hộ Quốc Quân cũng không vội tổ chức tấn công mà bắt đầu thi nhau đào công sự. Pháo binh của Khựa bắt đầu bắn, nhưng độ chính xác không cao, lại lẻ tẻ riêng rẽ nên không gây thiệt hại nhiều lắm cho Hộ Quốc Quân. Chu Thái Cấu thấy quân Việt định xé lẻ ra thì quyết định chờ quân Việt chia nhỏ rồi tập trung tiêu diệt từng nhóm. Vì quyết định sai lầm này mà toàn bộ quân đoàn 42A Lưỡng Quảng bị tiêu diệt ở thị trấn Hà An Bình này. Lúc 11h, cánh quân số 1 từ Đông Khê kéo lên, bít chặt đường rút lui của quân Khựa. 3 h chiều, quân phòng bị Đông Dương và Quân tình nguyện cứu quốc đã có mặt ở Hà Sơn Bình. Từ 4h chiều đến 6h tối, quân Khựa tổ chức 3 lần phá vây, nhưng bị đạn pháo và súng máy đánh bật về thị trấn.
8h tối, Quốc Minh đang rất vui vẻ cùng 2 người trẻ tuổi uống rượu trong lều chỉ huy. Làm sao có thể không vui vẻ được, khi một người là đại tướng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” một người là lưỡng quốc Tướng quân
Nguyễn sơn, sinh năm 1908, quê tại Gia Lâm, Hà Nội, năm 1925, chàng trai trẻ Nguyễn Sơn cùng Nguyễn Công Thu đến Quảng Châu. Tại đây cậu gặp Lãnh Tụ và được cử đi học ở trường sỹ quan lục quân Hoàng Phố và gia nhập Quốc Dân Đảng. Năm 1927, Sơn rời Quốc Dân Đảng và ra nhập đảng Cộng Sản Việt nam. Năm 1931, Lãnh tụ về nước và tham gia tân chính phủ, Người có gửi thư cho Nguyễn Sơn. Và đầu năm 1932, Nguyễn Sơn về Việt Nam, trở thành người đứng đầu quân phòng bị Đông Dương, quân hàm Trung Tá. Khi Chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra, quốc hội khẩn cấp triệu tập quân đội, và Trung tá Nguyễn Sơn được giao nhiệm vụ cầm đầu quân phòng bị Đông Dương tiếp viện cho Tổng thống lĩnh.
Võ Nguyên Giáp, sinh năm 1911, tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lê Thủy, tỉnh Quảng Bình. Tháng 10 năm 1930, Võ tham gia sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, theo lịch sử, cậu sẽ bị bắt và giam ở nhà lao Thừa phủ (Huế). Nhưng ở đây, vì sự can thiệp của Quốc Minh, Võ trở thành tổng chỉ huy quân Xô Viết. Sau khi Pháp rút khỏi miền Bắc, các Xô Viết cũng trở thành 1 phần của Liên bang Đông dương độc lập, chàng trai trẻ Võ Nguyên Giáp liền bỏ súng xuống, vác sách vở lên Hòa Bình, ghi tên vào học ở Học viện sỹ quan lục quân Hòa Bình. Đến khi chiến tranh nổ ra, Võ liền ghi danh tham gia quân tình nguyện, trở thành tư lệnh quân Tình nguyện Đông Dương.
Quốc Minh cùng 2 viên tướng trẻ uống rượu đến say mềm, sau đó là trắng đêm trao đổi kiến thức quân sự, chiến lược chiến thuật. Võ Nguyên Giáp chủ trương “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” nghĩa là chia binh thành các đại đội độc lập luồn sâu vào đánh phá sau lưng địch, đồng thời xây dựng các tiểu đoàn mạnh tác chiến tập trung quy mô lớn. Ngoài ra Võ còn thần tượng lối chiến tranh công sự - chiến hào mà trong 1 thế giới khác đã làm nên chiến thắng điện biên phủ oai chấn bốn phương.
Khác với Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Sơn đi theo đường lối chính quy hơn, đó là chiến tranh kết hợp pháo binh, bộ binh cùng kỵ binh. Pháo binh yểm trợ, dọn đường cho bộ binh và kỵ binh xung phong là phương pháp mà ông thích dùng.
Quốc Minh, với tư cách là người đến từ tương lai, lại hâm mộ phương thức tấn công của quân đội Hoa Kỳ, với không quân oanh tạc rải thảm, pháo binh xới đất và bộ binh thu hoạch. Ngoài ra, hắn còn đưa ra phương pháp tập trung xe tăng sử dụng như một mũi dùi đâm xuyên qua trận địa địch, chứ không phải dùng để yểm trợ bộ binh. Đó là ảnh hưởng từ chiến tranh chớp nhoáng của Đức.
Ba người trai trẻ ngồi uống rượu, trao đổi kinh nghiệm say mê, bên ngoài, dưới sự chỉ đạo của Hộ Quốc Quân, binh lính đội phòng bị Đông Dương và quân tình nguyện bắt đầu đào chiến hào, bố trí các ụ hỏa lực, lỗ châu mai.
Sáng hôm sau, quân Khựa kinh hoàng nhận ra bên ngoài chi chít quân đội Việt nam, với các cứ điểm phòng thủ chắc chắn. Chu Thái Cấu lập tức tập trung gần 5000 lính tinh nhuệ nhất, dồn toàn lực tấn công phía Bắc, chuẩn bị mở đường máu rút về phương Bắc. Nhưng đêm qua, một nhóm công đã đào sẵn mấy cái hầm lớn ở các hướng, dưới cắm đầy chông tre vót nhọn. Quân Khựa chưa kịp vọt tới trận địa của quân Việt đã bị sập bẫy, bị chông chọc cho thủng hết cả chân
Sau khi thiệt hại 3000 tinh nhuệ, Chu Thái Cấu đau xót rút quân về thủ chặt thị trấn. Nhưng mà, Quốc Minh lại để yên cho hắn câu giờ hay sao. Đáp án là không. Một ngày 24 giờ liên tục, 4 đội máy bay thay nhau oanh tạc, cứ đội này vừa về là đội khác lại đến, trong thị trấn chẳng còn mái nhà nào nguyên vẹn cả. Pháo binh của Khựa cũng là mục tiêu bị máy bay đặc biệt chú ý. Chỉ sau 3 ngày oanh tạc liên tiếp, pháo binh, lương thực... của khựa đều biến thành khói bụi. Quân khựa bắt đầu đói meo. Ngày thứ 4, cờ trắng kéo lên trên nóc nhà thị trấn. Chu Thái Cấu cùng 6 vạn lính Khựa bị bắt sống.
Quân Khựa bị bắt làm tù binh bị ném đến các mỏ khai thác quáng sản, các công việc nặng nhọc, khổ sai. Riêng Chu Thái Cấu được thả tự do, nhưng Quốc Minh dám chắc hắn cũng chẳng sống được bao lâu. Quả vậy. Ngày 21-04-1933, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh bắt giam Chu Thái Cấu. Ngày 22-04-1933, Chu Thái Cấu bị đưa ra xét xử tại tòa án binh trung ương. Ngày 28-04-1933, Chu Thái Cấu bị tuyên án tử hình.
Sau sự kiện biên giới Việt – trung, các cường quốc trên thế giới bắt đầu chú ý đến quốc gia nhỏ bé nằm ở Đông nam Á này. Nhân viên ngoại giao bắt đầu được gửi đến Việt nam để quan sát, lôi kéo và nghe ngóng thông tin.
Đến đầu tiên là đại sứ Nhật Tatsu Miyamoto. 3 người lãnh đạo cao nhất của chính phủ ViệtNamđón tiếp đại sứ tại phủ chủ tịch, chính là phủ toàn quyền Đông Dương trước đây.
Đầu tiên là duyệt đội danh dự, ông Tatsu rất kinh ngạc trước đội danh dự Hộ Quốc Quân với trang phục thuần 1 màu đen, vũ khí là súng trường Karl 88 gắn lưỡi lê bóng loáng. Sau đó là đội hải quân cũng là thuần màu đen, chỉ khác ở cúc áo và mũ. Nếu mũ của bộ binh là mũ sắt thì mũ của không quân là mũ ca lô mềm, cúc áo của bộ binh chỉ có 1 hàng khuy còn cúc áo của hải quân là hai hàng. Cuối cùng là không quân với mũ lưỡi trai đội hơi lệch.
Ông Tatsu còn thiếu chút nữa lác hết cả mắt khi thấy 36 chiếc máy bay Meg-21 lượn vòng trên bầu trời, thể hiện những kỹ thuật cao đến khó tin, sau đó tạo thành 4 đội bay về phía sân bay Gia Lâm.
Cuối cùng, sau một hồi trò chuyện, ông Tatsu ngỏ ý mua 1 ít máy bay, xe tăng, và muốn thuê sỹ quan không quân của Việt Nam đến Nhật làm giáo viên giảng dạy. Quốc Minh đưa ra quan điểm của mình là muốn mua máy bay và xe tăng, OK! Nhưng sỹ quan thì không có cửa đâu. Muốn học, cho người qua đây du học. Quốc Minh còn tỏ ý người Nhật đã trục xuất phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, vậy thì ViệtNamlàm sao có thể an tâm để người Việt lại sang Nhật được. Ông Tatsu đành ngậm ngùi không nói gì.
2 ngày tiếp theo là những vấn đề ngoại giao, đối nội, đối ngoại, Quốc Minh toàn quyền giao cho Lãnh Tụ và đồng chí Nguyễn Thái Học giải quyết, còn hắn thì lên máy bay bay vào Đà Lạt nghỉ mát. Lúc này, hắn rất nhàn hạ, bởi vì hiện tại, ViệtNamđã đi vào nền nếp, mọi người sinh hoạt, lao động, nghỉ ngơi có giờ giấc. Trẻ em bắt đầu được đi học, công nhân, bởi vì có máy móc và người nhân bản mà giảm bớt giờ làm. Ở nông thôn, cách mạng ruộng đất tiến hành một cách cẩn thận, tỉ mỉ, với những cán bộ là người nhân bản, tránh được xử oan, xử sai. Quân đội hoàn toàn trung thành với Quốc Minh, hơn nữa, lúc này Quốc Minh giao cho Nguyễn Sơn và Võ Nguyên Giáp tổ kiến 2 đội quân mới, là Vệ Quốc Quân và An Quốc Quân, biên chế mỗi quân 2 vạn người, cung cấp vũ khí theo quy chuẩn Hộ Quốc Quân, mỗi quân 20 xe tăng, 1 tiểu đoàn pháo. Hai người trẻ tuổi này nôn nóng muốn được thử sức mình, đang căng mình huấn luyện quân đội, mà không biết tổng chỉ huy của họ đang nằm giơ chân ngủ khì giữa biệt thự của hắn ở Đà Lạt, nước dãi chảy ròng ròng...
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của tienlaso1
Quốc Minh ngồi trong nhà, nhìn ra phía ngoài lan can. Đà Lạt đang mưa, những cơn mưa rả rích mang theo cái se lạnh của khí hậu ôn đới làm hắn khẽ rùng mình. Ở một nơi khác, ở đó có gia đình hắn, có người hắn yêu thương. Nhưng nếu hắn có cơ hội trở về, liệu hắn có trở về không. Có lẽ có, cũng có lẽ không. Ít nhất, cho đến khi quân đội Việt Nam có thể tự bảo vệ mình, Việt Nam có thể chế tạo đủ máy bay, xe tăng dùng, hắn mới có thể trở về. Hắn tuy không phải thánh nhân, nhưng cứ nghĩ đến dân Việt bị chết đói năm 1945, bị tàn sát ở Mỹ Lai, ở biên giới phía Bắc và Tây Nam, nghĩ đến những chàng trai xếp bút nghiên theo nghiệp binh đao, hy sinh trong 2 cuộc kháng chiến, “đôi môi khô đạn xé, vẫn chưa hề biết hôn”... là hắn lại không thể ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình được.
- Thiếu tướng, mời ngài uống cà phê! – Ngọc Vân bưng một ly cà phê sữa mang đến. Cà phê mua của người dân Đà Lạt, vẫn còn thơm mùi sương sớm. Quốc Minh nhấp 1 ngụm, sảng khoái cả tinh thần.
Ngọc Vân nhẹ nhàng đứng đằng sau, dùng đôi tay nhỏ nhắn bóp bóp vai cho hắn. Quốc Minh ngả đầu trên ghế, hưởng thụ phút giây bình tĩnh hiếm có này.
Đầu năm 1934, lúc này, nắm trong tay toàn bộ tài nguyên của Đông Dương, Quốc Minh đã có thể xây dựng được 3 đội quân có thể nói là hùng mạnh số 1 số 2 ở Châu Á lúc bấy giờ. Hộ Quốc Quân biên chế 4 vạn người, vũ khí hiện tại đã thay đổi thành súng tiểu liên Sturmgewehr 44, súng máy MG40. 1 tập đoàn xe tăng 100 chiếc, trong đó có 5 chiếc xe tăng Vua Hổ, 20 chiếc xe tăng Panzer IV Tiger, 40 chiếc xe tăng Panzer IV Panther, còn lại là Panzer III. Thiết giáp cũng có khoảng 300 chiếc, bao gồm xe thiết giáp chở quân, xe vận tải, thiết giáp phòng không, pháo tự hành các loại... 1 trung đoàn pháo binh có 20 khẩu pháo hạng nặng 150mm, 40 khẩu 105mm, gần 100 khẩu các loại. Đặc biệt có 1 quái vật khổng lồ, đó là đoàn tàu pháo mang tên Lý Thường Kiệt với vũ trang tương ứng với 1 thiết giáp hạm trên biển: 1 chủ pháo 350mm, 1 pháo phụ 150mm, 2 pháo 88mm, 4 ụ phòng không Wirbelwind. Về không quân, hiện tại Hộ Quốc Quân có 200 máy bay các loại, chủ yếu là máy bay tiêm kích MEG-21, máy bay ném bom mục tiêu SrA-320, máy bay ném bom chiến thuật Bi 2, Bi 5... Về hải quân, ngoài 2 thiết giáp hạm Quang Trung và Ngọc Hân, Quốc Minh còn bổ sung thêm 4 tàu tuần dương lần lượt là Tuần dương hạm Yết kiêu, Tuần dương hạm Mạc Đĩnh Chi, tuần dương hạm Tô Hiến Thành, Tuần dương hạm Nguyễn Thượng Hiền; 10 tàu khu trục lần lượt mang tên Lạc Long, Âu Cơ, Sùng Lãm, Mai An Tiêm, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mỵ Nương, Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Ngọc Hoa.
Đội quân thứ 2 là An Quốc Quân của trung tá Nguyễn Sơn, biên chế 1 quân 2 sư, 4 vạn người. Vũ khí là súng trường Gewher 98, súng tiểu liên MP40, 20 chiếc tăng Panzer II, 10 chiếc Panzer III, 4 chiếc Panzer IV Panther, 100 xe bọc thép và pháo tự hành các loại.
Đội quân thứ 3 là Vệ Quốc Quân của Võ Nguyên Giáp, biên chế 1 quân và 20 đại đội độc lập, 4 vạn người, vũ khí là súng bắn tỉa Karl 88 có ống ngắm, súng trường Gewher 98, tiểu liên MP40, 300 xe gắn máy 3 bánh, 30 tăng Panzer II, 50 xe bọc thép và pháo tự hành các loại. Mỗi đại đội Độc lập có 10 xe gắn máy 3 bánh, 1 tiểu đội cối, 2 súng máy MG42. Võ Nguyên Giáp chủ trương độc lập, cơ động, tập kích, quấy phá. Huấn luyện viên của các đại đội độc lập đều là các sỹ quan đặc công SS xuất sắc nhất người nhân bản.
Quân phòng bị Đông Dương lúc này biên chế cũng chỉ còn 3 vạn lính, trang bị là thấp nhất, toàn bộ là súng trường cũ của Pháp, xe cộ là thiết giáp và xe ba bánh. Nhưng Quốc hội lại nắm trong tay 1 lực lượng cực kỳ khủng bố, đó chính là 2 tổ chức tình báo Nhện Đen và Rắn độc. Rắn Độc là các chuyên viên giỏi về theo dõi, chống gián điệp, bảo vệ yếu nhân, bảo vệ tài liệu mật... chủ yếu tập trung về đối nội. Các nhân viên Rắn độc nấp trong chỗ tối, tựa như những con rắn đang súc mình lại, co mình lại, chỉ chờ phóng ra đớp lấy con mồi. Nhện Đen phụ trách tình báo đối ngoại, giỏi về ám sát, mua chuộc... Mạng lưới của Nhện đen với hàng ngàn đầu mối khắp thế giới, đủ mọi màu da, sắc tộc, tôn giáo... và sẽ kịp thời nhất công bố các tin tức quan trọng đến đầu não của Nhện. Vấn đề là, tuy Nhện đen và Rắn độc đều thề trung thành cùng Quốc hội, nhưng tất cả đầu não của 2 tổ chức này đều là... người nhân bản... Nhện đen và Rắn độc cũng được cung cấp các loại vũ khí tối tân như súng bút, máy nghe trộm, máy phá giải mật mã, độc dược... Quân phòng bị Đông Dương cũng được trang bị gần 20 chiếc tàu khu trục để bảo vệ bờ biển và hải đảo. Những chiếc tàu này đều là sản phẩm tự đóng bởi các quân nhân kỹ thuật hàng hải Vinh, cũng không quá đẹp, nhưng chất lượng có thể đảm bảo
2 năm trời tiến hành cải cách và giáo dục, giờ đây Đông Dương đã thay đổi bộ mặt. Đại bộ phận dân chúng Đông Dương đều đã biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Trường tiểu học – trung học mọc lên như nấm ở các nơi. Tại các thành phố lớn đều xuất hiện các trường Đại học chuyên nghiệp, các trường trung cấp dạy nghề. Nếu muốn nghiên cứu thì học đại học, còn nếu đi làm để kiếm ăn thì hầu hết đều chọn trung cấp. Các công nhân tốt nghiệp được các nhà xưởng tranh nhau không còn.
Về công nghiệp, hiện tại cơ cấu công nghiệp của Đông Dương đã tương đối hoàn thiện. Hệ thống công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ phân bố đồng đều khắp cả nước. Tại hầu hết các thành phố lớn, nơi nào cũng thấy những ống khói, những phân xưởng, nhà xưởng bố trí khắp nơi. Công nhân được trả lương đầy đủ, được bảo đảm quyền lợi, làm việc có thời gian giãn...
Về nông nghiệp, từ khi cải cách ruộng đất tiến hành đến nay, hầu hết đất đai của địa chủ phản động đều đã trở về trong tay của nhà nước, sau đó được đem phân chia cho nông dân hoặc tá điền. Các địa chủ yêu nước thì tập hợp nhau lại, cùng nông dân trong vùng cùng canh tác, tạo thành các đồn điền, trang trại tư nhân tồn tại song song với các hợp tác xã nông nghiệp, không chỉ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh mà còn thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng. Có thêm các kỹ sư nông nghiệp, các nông dân là người nhân bản giúp đỡ, 2 vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long kéo dài khắp lãnh thổ Đông Dương trở thành 4 vựa lúa lớn không chỉ nuôi sống nhân dân 3 nước, mà mỗi năm còn có một số lượng lớn lương thực trở thành dự trữ, biến thành vàng trong tài khoản của Quốc Minh.
Về Giao thông, mạng lưới quốc lộ, đường sắt trở nên chằng chịt, ngoài ra bắt đầu xuất hiện giao thông đường không với máy bay hành khách loại nhỏ và các khinh khí cầu, và giao thông đường thủy với sự xuất hiện của công ty vận tải đường sông “Tân Bạch Thái công ty” của Bạch Thái Long, con trai của Bạch Thái Bưởi.
Về ngoại giao, hiện nay rất nhiều quốc gia đã bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Bang, bao gồm cả cựu Mẫu quốc Pháp. Đại sứ quán các nước được đặt ở Hà Nội, các nhân viên ngoại giao thường xuyên qua lại phủ chủ tịch và nhà khách chính phủ, thi nhau lôi kéo, mua chuộc.
Quốc Minh đang đọc báo cáo của Nhện Đen và Rắn Độc về các hoạt động của các nhà ngoại giao, đại khái thì có 3 phe đang lôi kéo Việt Nam: Chính phủ Nhật Bản muốn Liên Bang tham gia vào phe trục, sau đó cùng nhau tấn công Trung Hoa, chính phủ Mỹ thì muốn Liên Bang trở thành 1 đối trọng với Nhật ở Á Châu, chính phủ Liên Xô thì bí mật lôi kéo Lãnh Tụ, muốn làm chính biến biến Việt Nam thành 1 nước trong phe Xô Viết... Còn lại thì người Đức ngạc nhiên về độ “giống” của Vũ khí, quân phục Việt và Đức, và muốn cùng trao đổi khoa học kỹ thuật. Nước Pháp, Anh và vài nước khác thì muốn mua sắm vũ khí, khí tài... Riêng nước Pháp, hiện tại còn một loạt nhà xưởng, đồn điền tư nhân được bảo hộ theo hiệp ước Pháp – Việt 1932, đang ùn ùn mang lại tài nguyên, tiền tài cho nước Pháp, thậm chí còn nhiều hơn cả lúc Pháp đô hộ Đông Dương... Thêm vào đó là cuộc vận động “Thuộc địa tự trị” của ông Henry, đến đầu năm 34, đã có 4 thuộc địa của Pháp ở châu Á và châu Mỹ được trao trả quyền tự trị...
Hiện tại, quốc hội cũng như nhân dân Việt nam tạm thời bằng lòng với chế độ Quân – Quyền phân lập này. Đến tháng 12 năm 1933, Quốc hội ra chính sách về thẻ công dân, có dán ảnh và đăng ký thông tin mỗi cá nhân, Quốc Minh cũng không tiếp tục tạo ra người vô tính, mà hiện tại ở Đông Dương, dân số người vô tính đã lên đến 1,3 triệu người, một con số tương đối lớn. Người vô tính chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng, kỹ thuật quốc phòng... Hoặc là làm việc trong các hợp tác xã, đồn điền, trang trại...
Sắp đến Tết rồi, trời đất bắt đầu trở nên se lạnh. Cuối tháng chạp năm 1934, một đợt rét đậm ùa vào miền Bắc, trẻ em xúng xính trong các bộ quần áo mới, mặc kệ là nhà giàu hay nhà nghèo, có cha mẹ hay mồ côi. Năm nay, không còn nhà nào phải co ro trong góc nhà chịu đói trong dịp tết, nghe pháo chào xuân lại chạnh lòng nữa. Mấy nhà gộp nhau lại làm một nồi bánh trưng, đặc biệt là trong các đồn điền, trang trại, tất cả các hộ tập trung trong nhà địa chủ, giết lợn, mổ gà, luộc bánh trưng, không khí vô cùng đầm ấm.
Cụ Thái Gia Cẩn, năm nay 76 tuổi, là một địa chủ yêu nước ở Gia Lâm, hà Nội. Lúc cải cách, nhiều người trong làng ghen ghét với sự giàu có của cụ, phê bình cụ một cách dã man, đổ cho cụ bóc lột, hiếp dâm... Nhưng may mà các cán bộ xem xét tận nơi, tường tận, đã khiến cho những kẻ ngậm máu phun người đó bị giáo dục, phải trước mặt dân làng xin lỗi cụ. Sau đó, cụ cùng mấy gia đình trung nông và khoảng chục hộ nông dân, dưới sự hướng dẫn của chuyên gia chính phủ, đã đứng ra tổ chức một cái đồn điền, sau đó bắt đầu cùng nhau canh tác. Nhìn thấy mấy đứa con cứ học xong lại ra ruộng, cùng bạn bè đồng lứa cấy cầy, canh tác, cụ Cẩn thấy vui vui lạ. May nhờ có mấy cái trường học, các con cụ được học cái chữ, học cái lễ, kẻ có tiền không cậy giàu mà lên mặt, kẻ khó không vì nghèo đói mà tự ti... Tết năm nay, cả đồn điền tụ tập trong nhà cụ Cẩn, chuẩn bị cùng nhau ăn tết. Cụ Cẩn cũng dặn người nhà làm nhiều nhiều bánh một chút, để dành cho những kẻ lỡ dặm đường xa, không kịp về nhà ăn tết ghé qua.
Còn cách giao thừa 4 tiếng đồng hồ, có tiếng gõ cửa vang lên ngoài đầu hồi. Cụ Cẩn lộc cộc chống gậy ra mở cửa, thầm nghĩ “chắc lại người lỡ bận đường xa đây mà”
Mở ra cửa ngõ, trước mặt cụ là một chàng trai tuổi chừng 20- 25 và một cô gái khoảng 20, cả hai đều mặc quân phục chỉnh tề, chàng trai còn có vẻ mệt mỏi.
Cô gái bước lên trước, giơ tay chào cụ Cẩn, sau đó nhẹ nhàng nói:
- Thưa cụ, chúng cháu là sỹ quan hộ quốc quân, đi công tác về qua đây thì xe hỏng, vào đồn điền nhà ta xin nghỉ nhờ một đêm được không ạ?
Cụ Cẩn run rẩy:
- Mời... mời các ... quan lớn vào... – Hộ Quốc quân, có người dân nào mà không biết đến danh tiếng của họ chứ, giang sơn này lớn như vậy là do Hộ Quốc quân 1 tay đánh xuống đấy...
- Cụ không cần sợ, bọn cháu cũng không phải quan lớn gì đâu. – chàng trai tiến lên đỡ lấy cụ già.
Hai người cùng cụ vào nhà, trong nhà, mọi người đang quây quần bên mâm cơm tất niên, bật đài chờ nghe lời chúc tết của Lãnh Tụ. Quốc Minh – đúng vậy, chính là tên lười này – cùng Ngọc Vân vào nhà, cởi bỏ chiếc áo khoác dài màu xám của mình, chỉ mặc bộ quân phục màu đen, mỉm cười chào mọi người. Quốc Minh ngồi xuống chiếu trên cùng cụ Cẩn, Ngọc Vân đứng đằng sau, dù mọi người mời thế nào cũng bất động. Cuối cùng quốc minh phải ra lệnh nàng mới chịu rời vị trí xuống ngồi cùng mâm phụ nữ trong nhà. Lúc 12h, tiếng Lãnh Tụ ấm áp vang lên qua radio, người thăm hỏi bà con, chúc tết đồng bào, sau đó là đọc thơ chúc tết. Cả đám đàn ông trong nhà đều giơ lên cốc rượu nếp, hô to: “Chúc sức khỏe Lãnh Tụ vĩ đại, chúc sức khỏe Tổng thống Lĩnh, chúc sức khỏe chủ tịch Nguyễn Thái Học... Cạn chén”
Mâm phụ nữ, các cô các bà hâm mộ dáng người của Ngọc vân, nói nói, trêu trêu, làm cho nàng đỏ hết cả mặt.
Sáng hôm sau, một đoàn lính Hộ Quốc quân có xe bọc thép và xe ba bánh tiến vào đồn điền, khiến mọi người hoảng loạn, cuối cùng mới biết họ đến đón tổng thống lĩnh. Ai cũng trơ hết cả mặt ra, không ngờ tối hôm qua, người uống rượu cùng mình chính là Tổng thống lĩnh, tất nhiên, mấy tên chuyên gia người vô tính biết từ lâu, nhưng chỉ như khúc gỗ bọn họ cũng không nói cái gì không được nói, thế nên Quốc Minh đi từ lâu mà cả đồn điền vẫn cứ đứng như trời trồng trước cửa, mãi đến khi có đứa bé 1 tuổi khóc ré lên vì đói mới giật mình tỉnh lại
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của tienlaso1